Chùa Hải Vân toạ lạc trên triền núi Nhỏ, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đi theo con đường Hạ Long ngoằn nghèo uốn lượn, một bên là núi một bên là biển, khi đến gần khu vực Bãi Dâu, ngước nhìn lên sườn núi bạn sẽ tìm thấy đường lên chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Hải Vân được Ni trưởng Thích Nữ Như Thanh khai dựng vào năm 1966. Chùa tiếp tục cho trùng tu, mở rộng vào các năm 1969, 1972, 1974. Chùa có phòng phát hành kinh sách và phòng đọc sách hoạt động rất tốt.
Ngôi Quan Âm bảo điện được xây dựng năm 1990 và hoàn thành năm 1992 do sự phát tâm cúng dường của hai Phật tử Mạch Văn Kỳ và Nguyễn Thị Ánh (Canada). Đại lễ khánh thành được tổ chức vào ngày 22 – 3 – 1992, với sự chứng minh của nhiều Sư thầy cùng sự tham dự của hàng ngàn chư tôn giáo phẩm, Tăng Ni và Phật tử. Đây được coi là ngôi bảo điện Quan Âm lớn nhất của Phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay.
Cổng Chùa Hải Vân được xây dựng dưới chân núi lúc nào cũng rộng mở chào đón khách thập phương đến thăm Hải Vân tự. Chùa Hải Vân thiết kế rất công phu với những hoạ tiết, chạm khắc trang trí tinh xảo. Ngay từ bậc cổng đầu tiên đã thấy các hàng chữ, các bài thơ được đắp nổi rất công phu, cầu kì tỷ mỉ trên các vách tường. Lần lượt leo qua các bậc thang vừa đi vừa nhẩm đọc các bài thơ: Bát nhã Tam Đức (nói về thiền), Tịnh độ tam hạnh (nói về tông tịnh độ, một pháp môn của Phật giáo). Các bài thơ do chính nữ sư trưởng ở đây sáng tác và cho chạm khắc trên tường như Minh nguyệt cô huyền; Cao trung độc chiếu Ngũ thập tam tham (53 lần cầu đạo) của thiện tài đồng tử.
Bên phải lối lên còn có bức tranh tường lớn, miêu tả Đức quan âm bồ tát thu phục núi Phổ Đà. Bên trái là bài thơ: Sóng nước đàm bàn và Trời biển nghị luận. Có thể nói tất cả các bài thơ đều là lời khuyên mọi người làm điều lành, tránh điều dữ, khuyên con người làm việc thiện… Phía trước chùa có tượng Quan Âm lộ thiên cao 6 mét đứng trên đài sen cao 1,2 mét tay phải bắt quyết, tay trái cầm bình nước cam lồ, hướng ra biển Đông như luôn mong mỏi bình an cho dân biển. Chung quanh chùa, khung cảnh thật thanh tao, giản dị, gần gũi với tự nhiên giữa đất trời, núi rừng và biển cả.
Chùa Hải Vân là điểm du lịch lý thú của du khách thập phương cũng như phật tử trong và ngoài nước.
Nhà ở hợp phong thủy là điều gia chủ nào cũng mong muốn. Nhưng một số trường hợp, do tình thế hoặc điều kiện mà nhà phạm phải hung sát. Bài viết gợi ý cách hóa giải thế nhà hung sát thường gặp để bạn đọc tham khảo.
Nhà gần nghĩa trang thuộc thế Độc cô sát, nặng âm khí
3. Câu liêm sát
Nhà có đất rộng chiều ngang phía trước, xe ra vào bằng hai cổng, một cổng vào một cổng ra. Đường vào ra có hình cánh cung, bề lồi hướng vào cửa nhà là thế Câu Liêm Sát. Hóa giải thế này theo những cách sau: - Cải tạo làm cho cánh cung này thành hình chữ nhật - Xây vòi phun nước hình tròn ở chính giữ sân - Đặt nhiều chậu cây cảnh thấp khoảng 1m để che chắn, phía trên cửa chính treo gương lồi.
4. Đao trảm sát
Nhà bên trái con đường chữ L hay bên phải con đường chữ L ngược giống như lưỡi dao chém vào căn nhà. Bên hông nhà về phía có con đường làm hàng rào cao 1m8, sơn màu theo ngũ hành tương sinh với mệnh gia chủ để hóa giải. Gần hàng rào trồng một hàng 8 cây tùng hay cây bách để trấn an. Hoặc đặt một cột sắt lớn (đường kính 30cm, cao 80cm), trên có ngọn đèn, chụp tròn bao phủ. Cột này nằm trong phần đất của gia chủ, càng gần con đường càng tốt. Tránh đặt gương chiếu dọc hông nhà, vì gương sẽ tạo ra ảo ảnh, tức là thêm hình lưỡi dao phía đối diện nên họa hại nhiều hơn.
5. Đoạn hổ sát
Đối diện với căn nhà, phía bên phải bên kia đường có một mái nhà lớn hình chữ L ngược đầu như lưỡi máy chém sẵn sàng rơi xuống bất kì lúc nào. Hóa giải bằng cách sơn tường và mái nhà đang cư ngụ màu xung khắc theo ngũ hành với màu của mái nhà kia.
6. Độc âm sát
Nhà gần bên nhà quan, nhà xác, bện viện hay khu vực nghĩa trang thì tích tụ âm khí và tử khí nặng nề, tạo thế Độc âm sát. - Làm hàng rào màu đỏ để triệt tiêu âm khí. - Đặt gương phản chiếu (40cm x 4m) cách mặt đất 40cm đối diện với các nơi trên để phản hồi tử khí. - Treo 4 chiếc chuông gió dưới mái 4 góc nhà để phá sự tích tụ của âm khí. - Gắn đèn neon bốn phía (sáng từ 8 đến 10 giờ tối) và gắn đèn tự động sáng khi có người bước vào để ngăn chặn và phá sự xâm nhập của âm khí.
► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị
Râu, Tóc ở trên người cũng đại diện cho phúc lộc của con người. Hãy xem cách luận tướng mặt qua râu và tóc cụ thể như thế nào.
Luận về râu ria: Đen sáng là tốt lành
Râu ở dưới miệng đại diện cho quan vị của con người. Người có lộc mà không có quan tước tức là có râu ở trên mà không có râu ở dưới; có quan mà không có lộc, tức là có râu ở dưới mà không có râu ở trên. Đó là vì, có lộc mà không có quan chủ người giàu có, lại có thể có được phúc, thọ; có quan không có lộc chủ người nghèo hèn, bần tiện, là điềm báo tài sản thất tán, rời xa quê hương, cha mẹ.
Dù Ngũ quan đều là tướng tốt nhưng mệnh chủ định người này cả đời nghèo khổ, chỉ có thể được trường thọ. Nếu một người râu trên và dưới đều tề chỉnh hoàn bị, đó là tướng tốt, phúc lộc song toàn. Nếu người mà có tóc cuộn tròn như nắm đấm, chủ người nghèo khổ.
Râu sáng bóng chủ người có phúc, râu khô héo chủ vận số không tốt. Râu thẳng, chủ người tính tình cương trực, không thể tích tụ được tài sản. Râu mềm mịn, chủ người có tính tình nhu nhược. Nếu râu có màu đỏ, chủ người vận mệnh cô đơn. Nếu tóc cuộn tròn và râu có sắc đỏ chủ người cả đời vất vả. Nếu râu đen sáng mà lại rạng rỡ, chủ người phú quý.
Luận về tóc
Sáng bóng nhuận sắc là tướng phúc.
Chất tóc khác nhau, số phận khác nhau Tóc của người giống như cây cỏ trên núi cao. Cho nên, tóc của người tốt nhất phải tươi sáng nhỏ dày, sáng bóng. Tóc đen sáng, tú khí được nhập vào trong, như thế mới là tướng quý.
Nếu tóc người lộ sắc vàng, người đó chủ bị khắc hại. Nếu tóc lộ sắc đỏ, chủ người gặp nhiều tai họa. Nếu tóc thô cứng, tính cách đa phần cương nghị, cô độc. Nếu tóc bết mà tỏa ra mùi hôi, người đó đa phần gặp nhiều khó khăn mà lại là kẻ bần tiện. Nếu tóc xoăn tít là người gian trá lại rất nghèo khổ.
Nếu tóc ở mép tóc tương đối nhiều chủ là người nghèo khổ. Nếu mép tóc tương đối cao, tính cách lương thiện. Nếu tóc sau gáy mà cao, tính tình người đó đa phần độc ác, nham hiểm. Nếu bên cạnh tai mà không có tóc mai, tâm địa nham hiểm, độc ác tựa như trong bụng chứa dao có độc. Nếu tóc người dài quá mày mà khiến trán rối loạn, người đó gặp nhiều tai họa. Nếu tóc mai thô mà mỏng bạc, người đó không có nhiều tài sản, cơm áo. Nếu tóc mai khô héo, người đó cả đời buồn khổ không ngừng.
Tóc đen, sợi tóc nhỏ chủ phú quý
Nếu một người tóc đen, sợi nhỏ, dày, chủ khí huyết đầy đủ, sung mãn. Nếu là tóc thô mà mỏng thưa, khí huyết tương đối mỏng bạc. Nếu tóc mịn mà bóng sáng, khí huyết thịnh vượng. Nêu tóc khô héo chủ người có khí huyết suy nhược. Nếu sợi tóc nhỏ mà sáng bóng, chủ người thích hợp làm quan. Nếu tóc đen nhỏ, đó là người được hưởng vinh hoa phú quý.
Nếu tóc mai rối loạn, người đó gian trá, xảo quyệt. Nếu trên trán có tóc rối loạn, người đó khắc hại mẹ. Nếu tóc mai không chỉnh tề, người như thế sẽ khắc hại vợ. Nếu chưa đến 40 tuổi mà tóc đã chuyển màu trắng, như thế là do khí huyết suy nhược tạo thành, tính cách người đó rất vui vẻ nhưng tuổi thọ không lâu dài. Nếu tóc mai cứng tựa như kim nhọn, người đó bất luận làm con hay làm bề tôi đều thiếu trung nghĩa, thiếu hiếu kính.
Điều nên nhớ trước khi yêu Song Ngư đó là họ là người mong manh, yếu đuối, sống tình cảm và vô cùng mơ mộng vì thế, đừng là họ tổn thương bằng những lời nói nặng nề, khó nghe. Song Ngư là người có trí tưởng tượng phong phú và cũng là người giàu cảm xúc nhưng lại không biết bày tỏ những mong muốn của mình ra ngoài. Những người này có xu hướng sống trong thế giới mơ mộng của mình hơn là thực tế. Chính vì thế, họ thường trông rất trẻ con và vui tươi.
1. Họ cần tình cảm và rất nhiều… tình cảm
Song Ngư không biết nói chính xác những mong muốn của mình nhưng họ lại khao khát được yêu thương và chăm sóc. Trong mối quan hệ yêu đương, họ luôn mong được người ấy chú ý. Vì thế, nếu bạn đang yêu một người đàn ông hay phụ nữ cung Song Ngư đừng ngại bày tỏ tình cảm với đối phương để họ cảm nhận được sự yêu chiều của bạn. Nếu bạn có thể đáp ứng mong đợi của họ, tình yêu của hai người vô cùng bền vững. Tham khảo thêm bài viết sau: Cung Song Ngư hợp với cung nào?
2. Họ đam mê sự sáng tạo
Những người thuộc cung Song Ngư thường cảm thấy buồn chán cuộc sống hiện tại và họ thà tự tạo thế giới riêng bên trong tâm trí của mình còn hơn là chấp nhận thực tế. Họ không thích công việc nhàm chán, họ chỉ thích những hoạt động sáng tạo như vẽ, viết, không gian yên tĩnh...
Họ không phù hợp với những công việc công sở đơn thuần mà chỉ hợp với công việc được thể hiện sự sáng tạo. Vì thế, điều nên nhớ trước khi yêu Song Ngư đó là chấp nhận sự thật rằng họ luôn cần không gian sáng tạo và những điều mới lạ trong cuộc sống.
3. Họ rất chung thủy
Ngoài kia dù có rất nhiều cám dỗ nhưng Song Ngư sẽ không dễ dàng vì một ai khác mà từ bỏ mối quan hệ hiện tại của mình. Họ yêu hết lòng và rất chân thành. Họ thích có mối quan hệ nghiêm túc, vì vậy nếu bạn đã có được trái tim của Song Ngư, thì đừng khiến họ thất vọng mà hãy trao cho họ trái tim chân thành.
4. Họ thích sự lãng mạn và niềm đam mê trong mối quan hệ
Song Ngư sẽ không nói cho bạn biết rằng họ khao khát đam mê như thế nào trong mối quan hệ này và bạn phải tự cảm nhận. Tuy nhiên, cũng không quá tốn nhiều công sức để làm Song Ngư cảm thấy hạnh phúc. Bữa tối dưới ánh nến đơn giản ở nhà, hoặc một bó hoa hồng chờ sẵn trên bàn làm việc cũng đủ Song Ngư lâng lâng vì hạnh phúc. Chỉ cần dành thời gian để cho Song Ngư thấy bạn yêu họ tới nhường nào bạn sẽ được đáp lại tình cảm tương ứng.
Bạn có thể xem thêm tất cả những điều về Song Ngư: TẠI ĐÂY
5. Song Ngư thích những buổi trò chuyện sâu sắc
Những cuộc nói chuyện với chủ đề đồ ăn hay thể thao không đủ hấp dẫn Song Ngư. Điều nên nhớ trước khi yêu Song Ngư đó là, họ thích những cuộc trò chuyện kích thích trí tưởng tượng và sự tò mò của mình như người ngoài hành tinh, không gian vũ trụ, sinh vật biển kỳ lạ, làm thế nào vũ trụ ra đời, tại sao chúng ta tồn tại trên thế giới này,… Vì thế, bạn nên trang bị kiến thức về vấn đề này để có thể chuyện trò cùng họ, hấp dẫn họ mỗi ngày.
Xem thêm: Tiết lộ cách “hạ gục” từng cung hoàng đạo bằng buổi hẹn hò lý tưởng
6. Song Ngư là những người hào phóng
Một trong nhwunxg điều nên nhớ trước khi yêu Song Ngư đó là họ sẵn sàng làm những để bạn cảm thấy hạnh phúc. Khi yêu, họ có xu hướng hy sinh và sẵn sàng thỏa hiệp để người ấy của họ hài lòng, vì vậy hãy bày tỏ rằng bạn đánh giá cao tình yêu, sự hi sinh của họ là đủ làm Song Ngư cảm thấy hạnh phúc.
7. Họ hay "phiêu lãng" thoát khỏi thế giới thực
Bạn sẽ không bất ngờ gì nữa khi thường xuyên thấy họ nhìn chằm chằm vào khoảng không. Họ không muốn thường xuyên mơ mộng giữa ban ngày như thế nhưng đó là bản chất tự nhiên của Song Ngư. Khi yêu một người cung Song Ngư tức là bạn chấp nhận cả việc họ đấu tranh, suy nghĩ trong tâm trí rất nhiều. Nhiệm vụ của bạn là kéo họ về thực tế.
8. Họ thích những bữa tối yên tĩnh những nơi ồn ào
Song Ngư thà chuẩn bị cho bạn một bữa ăn tối ngon ở nhà hay cả hai nằm dài xem phim hơn là chen chúc với đám đông ồn ào ở những địa điểm ăn chơi. Song Ngư thích tương tác giữa hai người hơn là đi ra ngoài cùng với nhóm bạn, do đó, được ngồi bên bạn một buổi tối yên tĩnh trên chiếc ghế dài đã đủ làm họ hài lòng.
9. Họ tận hưởng thời gian ở một mình
Mặc dù họ thích được chú ý và quan tâm nhưng ngoài ra Song Ngư cũng cần thời gian một mình để nạp năng lượng. Thế giới hiện đại với sự vận động quá nhanh sẽ ảnh hưởng lớn đến một Song Ngư dịu dàng, từ tốn, vì vậy họ cần thời gian ở một mình để giữ cân bằng cuộc sống và giải thoát bản thân khỏi những năng lượng xấu từ tác động xung quanh.
Điều nên nhớ trước khi yêu Song Ngư đó là dù họ muốn ở một mình nhưng bạn lâu lâu nhắc họ rằng bạn rất quan tâm tới họ và mong chờ những phút giây hạnh phúc bên nhau khi họ rời khỏi nơi chốn yên tĩnh của mình.
10. Song Ngư có trái tim vô cùng mong manh
Song Ngư có trái tim mong manh và rất dễ bị tổn thương. Nếu họ thích bạn, họ sẽ ngại ngùng và tinh tế cho bạn biết và sẽ tìm cơ hội để được ở bên bạn chứ không bày tỏ thẳng thắn. Họ cần cảm giác an toàn để không ai có thể làm tổn thương trái tim mình, do đó thường xuyên cho họ biết và cảm nhận tình cảm thật của bạn. Kate Nguyễn 8 lý do Song Ngư khó hiểu nhất trong các cung hoàng đạoCung Song Ngư hợp màu gì để cuộc sống luôn sung túc, vương giả
Ý nghĩa hình xăm hổ: Hình xăm hổ là biểu thị sức mạnh, sự liều lĩnh, xả thân. Nó là biểu tượng của đẳng cấp chiến binh. Tuy hổ là chúa tể rừng xanh, nhưng cũng chỉ là thú hoang trong rừng sâu. Hung tợn mà không nham hiểm, khỏe mạnh nhưng không có cơ
Hình xăm hổ là biểu thị sức mạnh, sự liều lĩnh, xả thân. Nó là biểu tượng của đẳng cấp chiến binh. Tuy hổ là chúa tể rừng xanh, nhưng cũng chỉ là thú hoang trong rừng sâu. Hung tợn mà không nham hiểm, khỏe mạnh nhưng không có cơ mưu, những người xăm hổ thường là những kẻ hữu dũng vô mưu xếp hàng Trương Phi.
Nhà có nhiều tài lộc nếu đặt bể cá đúng hướng phong thủy
Bản thân bể cá đã là sự kết hợp hài hòa của ngũ hành. Do đó, nếu biết đặt và chăm sóc đúng cách, nó sẽ bổ sung năng lượng tích cực, tăng vượng khí và tài lộc
Bản thân bể cá đã là sự kết hợp hài hòa của ngũ hành. Do đó, nếu biết đặt và chăm sóc đúng cách, nó sẽ bổ sung năng lượng tích cực, tăng vượng khí và tài lộc cho gia chủ.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất
Theo quan điểm phong thủy, bể cá là một phần nội ngoại thất có đủ 5 yếu tố trong ngũ hành. Với nước là hành Thủy; cây thủy sinh, gỗ lũa là hành Mộc; kết cấu của bể (bao gồm khung, giá đỡ, máng đèn) thuộc hành Kim; đất sỏi rải dưới nền là hành Thổ; màu sắc đỏ, cam, vàng của cá hoặc một số cây thủy sinh, vật trang trí thuộc hành Hỏa.
Ảnh minh họa
Những hướng thích hợp để đặt bể cá - Hướng Đông Nam: Hướng này thuộc hành Mộc, mang ý nghĩa cung Tài lộc. Trong khi đó, Thủy sinh Mộc, sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc, danh vọng cho gia chủ. - Hướng Đông: Đây cũng là hướng thuộc hành Mộc, mang ý nghĩa cung Gia đạo. Khi Thủy sinh Mộc, cung này sẽ mang lại nhiều thuận lợi về sức khỏe và gia đình. - Hướng Bắc: Hướng này thuộc hành Thủy, mang ý nghĩa cung Sự nghiệp. Khi song Thủy đồng hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển hưng vượng. Chọn hình dáng bể cá theo phong thủy - Hình tròn: Hình dạng này thuộc hành Kim (đại diện cho tiền tài), khiến Thủy sinh sôi. Ngoài ra, hình tròn là biểu thị của sự viên mãn. Do đó, dùng hình dáng bể cá hình tròn đặt ở trung tâm căn phòng sẽ mang lại nhiều may mắn và tài lộc cho chủ nhà. - Hình chữ nhật: Hình này thuộc hành Mộc, Thủy sinh Mộc nên dùng bể cá hình chữ nhật đặt ở cạnh tường của căn phòng sẽ mang lại nguồn tài lộc hưng vượng cho gia chủ. - Hình lục giác: Số 6 được xem là con số của hành Thủy, do đó có thể sử dụng dạng bình này đặt ở trung tâm căn phòng hoặc cửa phòng để mang lại nhiều điều tốt lành cho ngôi nhà. Lưu ý: Không nên sử dụng bể cá hình vuông và hình đa giác (tam giác, bát giác...) bởi nó là biểu trưng của hành Thổ và Hỏa, tương khắc với các hành Thủy nên không mang lại nhiều tài lộc. ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ. Do đó, khi đặt bàn thờ, bạn phải tránh các điều kiêng kỵ sau:
Bàn thờ là nơi linh thiêng nhất trong mỗi gia đình thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên, vì thế, luôn là một không gian quan trọng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của con người. Bài viết dưới đây hướng dẫn các bạn cách kiêng kỵ những cấm kỵ trong phong thủy khi bố trí bàn thờ một cách rất đơn giản
– Không đặt bàn thờ sát nhà tắm. Bởi theo quan niệm, tắm rửa là việc trút bỏ ô uế, vì vậy, nếu đặt bàn thờ cạnh nơi này sẽ làm mất đi không khí tôn nghiêm.
– Không đặt bàn thờ ở lối đi lại. Nếu đặt ở lối đi lại ồn ào sẽ làm mất đi sự thanh tịnh của nơi thờ cúng. Như vậy, gia đình sẽ ít có may mắn và tài lộc.
– Không đặt bàn thờ nhìn ra hướng Ngũ Quỷ ( hướng Ngũ quỷ so với tuổi của chủ nhà)
– Không đặt bàn thờ trên nóc tủ.
– Không lấy gỗ đã qua sử dụng để làm bàn thờ.
– Bàn thờ Thần và Phật có thể để chung, song không nên để bát hương sát nhau.
– Bàn thờ tổ tiên không nên đặt ở trung tâm nhà, vì sợ hung. Tuy nhiên, bàn thờ Phật có thể đặt ở trung tâm nhà.
– Bàn thờ tổ tiên và bàn thờ Phật không nên đặt đối nhau trong 1 gian phòng.
– Không nên treo ảnh người quá cố cao hơn bàn thờ.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Hiện nay, phong thủy trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Ngày càng có nhiều người hiểu rằng khi gia đình và công việc không thuận lợi, bất hòa thì có thể tạo ra những điều không may mắn đến các mối quan hệ cũng như sự nghiệp.
Chúng ta thừa hiểu rằng năng lượng là một yếu tố thực. Chúng chuyển động bên trong cơ thể của chúng ta, trong các ngôi nhà và cả vũ trụ. Vì thế, không có gì là ngạc nhiên khi năng lượng cũng có mặt lợi và mặt hại.
Cần phải khẳng định rằng năng lượng không phải là một thứ gì đó để “chơi” mà không cần quan tâm đến kết quả.
Thực tế thì có rất nhiều yếu tố phong thủy bị hiểu sai và vận dụng sai gây ra những tác hại không mong muốn. Kiểm tra lại ngôi nhà của bạn để xem nó có phạm phải một trong những sai lầm sau đây không. Một điều tuyệt vời về phong thủy bạn nên biết, đó là bạn dễ dàng sửa chữa những sai lầm phong thủy một khi hiểu rõ về nó.
Sai lầm 1: Treo một chiếc gương đối diện với cửa ra vào để mang lại năng lượng tốt
Treo gương đối diện cửa ra vào thực chất là chặn đứng dòng chảy năng lượng.
Điều này có thể gây ra sự suy giảm về tài chính và các cơ hội kinh doanh liên quan. Cho dù là văn phòng hay nhà ở, một chiếc gương treo ở phía đối diện với cửa ra vào sẽ đẩy năng lượng ra ngoài. Về cơ bản là chặn đứng nguồn năng lượng đi vào nhà khi gặp chiếc gương. Bởi vì cửa ra vào là miệng của các chi, nhà ở hoặc văn phòng sẽ trở nên “nghèo đói” hoặc cạn kiệt năng lượng. Do đó, không nên treo một chiếc gương đối diện cửa ra vào.
Sai lầm 2: Sơn cửa ra vào màu đỏ
Một ngôi nhà ở hướng Tây hoặc Tây Bắc không bao giờ được sơn cửa màu đỏ.
Đỏ là một màu sắc mạnh mẽ, và nó có thể gây ra ảnh hưởng không tốt, thậm chí là thiệt hại nặng nề đối với một số không gian. Một ngôi nhà ở hướng Tây hoặc Tây Bắc không bao giờ được sơn cửa màu đỏ. Điều này đặc biệt đúng với cánh cửa ở hướng Tây Bắc.
Hướng Tây Bắc có mối liên hệ trực tiếp với bầu trời, tượng trưng cho người cha hoặc người đàn ông trụ cột của gia đình. Vì vậy, góc này không nên có các ngọn lửa hoặc màu đỏ. Nếu làm như vậy tức là tạo ra “ngọn lửa trên bầu trời”, có thể khiến người cha hoặc người đàn ông trụ cột gặp phải tai nạn nghiêm trọng, bệnh tật, phá sản, mất việc làm.
Nếu cửa ra vào ở hướng Tây (tượng trưng cho trẻ em) hoặc hướng Tây Bắc (tượng trưng cho người cha/người đàn ông) thì bạn nên sơn cửa màu trắng, xám, vàng hoặc màu be.
Sai lầm 3: Treo một tấm gương phía sau bếp nấu
Quá nhiều yếu tố hỏa sẽ "thiêu rụi" ngôi nhà của bạn.
Bếp nấu là một phần của yếu tố Hỏa và khi có quá nhiều lửa thì nó sẽ thiêu rụi ngôi nhà. Sai lầm này xuất phát từ việc vị trí đặt bếp nấu khiến bạn không thể quan sát phía sau lưng, không biết được mọi người đang làm gì, ra vào như thế nào sau lưng mình.
Cũng có một số ý kiến cho rằng việc đặt gương sau bếp nấu sẽ tăng gấp đôi sự giàu có của bạn vì gương nhân đôi số thức ăn bạn nấu trên bếp. Sự thật thì việc khuếch đại năng lượng của lửa quá mức là rất có hại.
Treo gương đối diện bàn ăn tăng sự sung túc, dư dả.
Nếu bạn muốn tăng sự sung túc, dư dả bằng cách sử dụng gương, tốt nhất bạn nên treo nó ở phòng ăn hoặc khu vực bố trí bàn ăn. Thức ăn bày trên bàn được nhân đôi tốt hơn là những ngọn lửa trên bếp.
Một điều bạn nên lưu tâm là đối với hai yêu tốt nước và lửa thì cần sử dụng một cách điều độ, đúng và đủ.
Sai lầm 4: Sử dụng gương bát quái hoặc gương phong thủy để đẩy năng lượng tiêu cực đi
Không nên treo gương bát quái một cách tùy tiện nếu không hiểu biết rõ ràng.
Gương bát quái thường được sử dụng để xua đuổi năng lượng tiêu cực, tạo ra một ngã ba ở cửa ra vào hoặc ngôi nhà hoặc chống lại năng lượng xấu đến từ các hướng không mong muốn.
Những chiếc gương này sử dụng bát quái âm, phát ra nguồn năng lượng rất mạnh và có hại nên không được tùy tiện sử dụng. Bạn chỉ nên sử dụng gương bát quái nếu gặp trường hợp bất khả kháng và phải có lời khuyên của người am hiểu về phong thủy hoặc người tư vấn phong thủy.
Sai lầm 5: Mang cây xanh và nước vào trong phòng ngủ
Cây xanh và nước xuất hiện trong phòng ngủ gây ra nhiều sự hao tổn về thể lực, trí lực cho chủ nhân của căn phòng.
Theo phong thủy, cây xanh và nước cần được sử dụng một cách hợp lý. Để cây xanh trong phòng ngủ sẽ gây hao tổn sức lực cho chủ nhân của căn phòng khi ngủ vì ban đêm cây nhả khí CO2. Đối với phòng ngủ của vợ chồng thì cây xanh còn làm giảm đi sự lãng mạn giữa hai người.
Về phần nước, nếu nước chuyển động (tiểu cảnh) sẽ gây ra sự thất thoát tiền bạc, các vấn đề về hô hấp, bệnh xoang, sự trầm cảm hoặc trạng trái tinh thần mê man cho người ở trong căn phòng đó.
Tránh để cây xanh và hoa cảnh, trừ khi một ai đó bị bệnh và không bao giờ mang nước vào trong phòng ngủ. Trong phòng ngủ của trẻ nhỏ, các bức tranh hoặc giấy dán tường có họa tiết về cảnh biển hoặc đại dương có thể gây ra bệnh tật và thiếu sáng kiến cho trẻ.
Sai lầm 6: Treo pha lê trên cửa ra vào và cửa sổ
Khi vận dụng các yếu tố phong thủy luôn luôn lưu ý đến mức độ và liều lượng. Việc lạm dụng trong phong thủy sẽ gây ra ảnh hưởng xấu.
Treo pha lê trên cửa ra vào hoặc cửa sổ được cho là lưu chuyển năng lượng nhưng thực chất là ngăn chặn dòng chảy năng lượng bên trong ngôi nhà. Pha lê mang năng lượng của đất. Khi treo chúng lên một ô cửa thì nó mất đi ý nghĩa vốn có. Nó khiến cho người sống trong ngôi nhà đó thiếu tính quyết đoán, khó tiến về phía trước, sống lộn xộn và gặp các vấn đề về chuyển hóa như tăng cân.
Nếu bạn chỉ treo một viên pha lê trên một ô cửa sổ nhất định thì nó lại trở thành một biểu tượng. Cần phân biệt rõ việc treo chúng trên một hoặc hai cửa sổ trong nhà để đón ánh nắng là điều tốt. Nhưng treo pha lê ở tất cả các ô cửa trong nhà lại trở thành không tốt.
Sai lầm 7: Nhà vệ sinh luôn luôn xấu
Một vài thay đổi trong thói quen hàng ngày dễ dàng giải quyết những vấn đề phong thủy xấu.
Một điều chắc chắn là bất kỳ ngôi nhà nào cũng phải có hệ thống đường ống nước. Nhà vệ sinh không mang sắc thái đen hoặc trong theo phong thủy mà chúng có màu xám.
Bồn cầu cần phải có nắp đậy và nhớ đóng cửa phòng vệ sinh sau khi sử dụng.
Vì nhà vệ sinh nằm trong một khu vực nhất định của ngôi nhà, bạn nên quan tâm đến việc tăng cường các yếu tố trong góc phòng khách tương ứng với góc phòng vệ sinh. Ví dụ, nếu phòng vệ sinh ở hướng Tây Nam thì bạn cần thêm các yếu tố có màu đỏ ở hướng này trong phòng khách.
Cặp thứ ba trong Lục sát tinh là Hỏa-Linh (Hỏa tinh và Linh tinh). Lối an sao khiến cho tuổi nào cũng có thể gặp Linh Hỏa (cũng có tuổi không gặp). Có khi Linh-Hỏa đủ bộ, có khi Linh-Hỏa không đủ bộ và chỉ cần có một Linh hay một Hỏa tại Mạng hoặc tại cung Đại Vận. Những Linh và Hỏa cùng mạnh đến độ chỉ gặp một Linh hay một Hỏa cũng đã đủ ảnh hưởng.
Những tuổi gặp Hỏa Linh
Hai sao Hỏa và Linh thuộc Hỏa, rất kị các tuổi Canh, Tân (hàng Can) và Thân (hàng Chi), và những người Mệnh Kim.
Gặp Linh, hoặc gặp Hỏa (1 trong 2 sao) tại Mệnh hay tại Đại-Vận, thì những người tuổi Canh, Tân, Thân hay mạng Kim, là phải coi chừng.
Gặp tại Đại Vận, hay gặp những rắc rối, những khó khăn.
Gặp tại cung Mệnh, cuộc đời khó khăn, vất vả, phải cố gắng rất nhiều mới thành đạt, hoặc có khi khá lên mà rồi lại hỏng.
Sao nào mới trị được Hỏa Linh
Tuy nhiên, Hỏa Linh không phải hoàn toàn xấu. Chúng là một sức mạnh, để tự nhiên không người hướng dẫn thì sức mạnh đó tác hại, nhưng nếu có sự hướng dẫn thì sức mạnh đó lại hướng vào những cái tốt đẹp, phù giúp cho đương số. Điều này cũng y như cặp Không-Kiếp phải được gặp Phá Quân mới tốt, và cặp Kình-Đà phải được gặp Thất Sát.
Các sát tinh đó cũng như những đạo quân hùng mạnh, những đạo quân đó phải có chỉ huy giỏi và mạnh thì mới được việc hay. Nếu không có chỉ huy mạnh và sáng suốt, sức hung hãn của các đạo quân sẽ đáng sợ.
Hỏa và Linh phải gặp Tham Lang mới tốt.
Tham Lang mới vận dụng được sức lực, mới cai trị và chỉ huy được Hỏa và Linh.
Nhưng nên chú ý ở chỗ Tham Lang gặp Hỏa hay gặp Linh, mỗi đàng có một nét riêng biệt.
Tham Lang gặp Hỏa, thì được phú hơn là quý. Ví dụ : Ở Mệnh có Tham Lang và Hỏa-tinh là tốt, đương số được giàu có (hơn là được công danh). Mệnh có Tham Lang gặp Linh- tinh, thì đương số có chức phận lớn, có công danh (hơn là được giầu có, tức là phần tiền bạc bị kém)
Như trên đã nói, Hỏa-Linh tại Mệnh hay Hỏa Linh tại Đại Vận đều có ảnh hưởng lớn (cho bốc lên hay phá tán). Tuổi Canh, Tân, tuổi Thân, hay người Mệnh Kim gặp Linh, Hỏa thì bị nặng như đã nói . Ngoài ra, người có Mệnh Cơ-Lương, gặp Linh-Hỏa cũng bị nặng.
Phải Sát, Phá, Tham mới chỉ huy được Linh-Hỏa. Như thế, Linh-Hỏa ở Đại Vận gặp Sát, Phá, Tham thì tốt, mà người Mệnh Sát, Phá, Tham đến cung Đại Vận có Hỏa, Linh cung không sao.
Mệnh Tử Phủ, gặp Hỏa-Linh (tại Mạng hay tại Đại Vận), cũng bị ngăn trở đụng thêm Không Kiếp, càng hỏng.
Mệnh Vũ-Khúc, Thiên Lương gặp Hỏa-Linh thì không sao.
Thiên Tướng không sợ Hỏa, Linh, Không, Kiếp. Như thế, Mệnh Thiên Tướng gặp các sao đó chẳng sao. Người ở Mệnh có Thiên Tướng, đến Đại Vận gặp 4 sao xấu đó, không sao. Thiên Tướng chỉ sợ có Hình, Kình, Đà (nên nhớ là Đà La ở Thìn Thuất, vì ở Thìn Tuất, Đà La mới có ảnh hưởng là lưới trời ngăn cản công việc, công danh, tiền tài … của đương số).
Đạo quân
Theo lời cụ Thiên Lương:
-Không Kiếp như đạo quân nhảy dù
– Kình, Đà như đạo quân của Thủy Quân Lục Chiến
– Linh Hỏa như một đạo quân riêng biệt.
Ở một mình, không có chỉ huy mạnh và giỏi (hãm địa), chúng có sức tác hại mạnh mẽ, sai lạc. Nhưng gặp được chỉ huy giỏi có đất dụng võ hay, chúng lại có sức mạnh lớn, giúp ích cho đương số rất nhiều.
– Không Kiếp phải được Phá Quân
– Kình Đà phải được Thất Sát
– Linh Hỏa phải được Tham Lang
Có Tướng hay thì quân phải giỏi, phải giúp cho đương số lên mạnh.
Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ được xây dựng trên đỉnh núi Vặn (Tên mỹ là tự là núi Ốc Sơn), thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, có độ cao 170,2m so với mặt biển, nằm trong hệ thống “Tam sơn cấm địa” là núi Hùng, núi Trọc, núi Vặn.
Đứng trên đỉnh núi Vặn có thể bao quát một vùng rộng lớn sơn thuỷ hữu tình. Phía trước núi Vặn là núi Hùng, nơi thờ tự các vua Hùng. Núi Hùng trông xa giống như đầu con rồng lớn, mình rồng uốn lượn thành núi Trọc, núi Vặn ở phía sau. Bên tả có dòng sông Hồng, bên hữu có dòng sông Lô tựa như hai dải lụa đào, bao bọc lấy ba ngọn “Tổ Sơn” ở giữa. Phía sau núi Vặn là những dãy đồi lớn san sát như bát úp, gắn với truyền thuyết “Trăm voi chầu về Đất Tổ”. Cảnh thế ngoạn mục hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thủy tụ hội.
Lịch Sử: Theo truyền thuyết xưa: 3 ngọn “Tổ Sơn” là nơi lưu giữ dấu tích của Tổ tiên. Mẹ Âu Cơ kết duyên cùng cha Lạc Long Quân tại Động Lăng Xương – Thanh Thuỷ, về đến núi Hùng, sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành trăm người con trai. Khi các con khôn lớn, Cha Lạc Long Quân đưa 50 người con xuôi về vùng biển mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ đưa 49 người con lên vùng núi sinh cơ lập nghiệp, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải xây dựng cuộc sống. Trong dân gian hình ảnh mẹ Âu Cơ là người mẹ đầu tiên khai sinh ra cả dân tộc.
Kiến Trúc: Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình nghệ thuật kiến trúc có giá trị cao với các kết cấu kiến trúc đền chùa cổ, các pho tượng quý như tượng Âu Cơ, tượng Đức Ông, các bức chạm quý và nhiều cổ vật vô giá. Khu vực đền là một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài khoảng 200m và chiều rộng khoảng 150m với tường cao bao quanh.
Đền có kiến trúc bao gồm: Đền chính thờ Mẫu Âu Cơ, nhà tả vu, nhà hữa vu, nhà bia, trụ biểu, tam quan… được thiết kế theo phong cách xây dựng truyền thống, xen lẫn tính hiện đại. Các họa tiết trên trống đồng Đông Sơn: Cột gỗ có thớt đá kê, tường xây gạch mộc đỏ, mái đền có đầu đao cong vút như cánh chim Lạc, trụ biểu đá giống như cây bút đang viết lên trời xanh… cho nhân dân ta vừa cảm giác gần gũi với mẹ vừa thiêng liêng cao quý.
Trong Hậu cung đền đặt tượng Tổ Mẫu Âu Cơ được làm bằng đồng. Phía dưới đặt tượng Lạc hầu, Lạc tướng. Năm 1991, đền Mẫu Âu Cơ đã được Bộ Văn hóa – Thông tin nước CHXHCN Việt Nam cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Nhà Lưu Niệm trong Đền Thờ Mẫu Âu Cơ
Ngày lễ chính của đền Mẫu Âu Cơ là ngày Tiên giáng mùng 7 tháng Giêng. Dân trong vùng từ lâu đã có câu ca lưu truyền: Mùng bảy trong tiết tháng Giêng, Dân Hiền lễ tế trống chiêng vang trời…. Lễ hội có lễ tế Thành Hoàng ở đình, rước kiệu từ đình vào đền, lễ dâng hương và lễ vật gồm 100 bánh ngọt, 100 phẩm oản, hoa quả. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày liên tục từ mùng 7-9 tháng Giêng. Ngoài ra, các ngày lễ khác trong năm: ngày 11-12 tháng Hai, ngày 12 tháng Ba, ngày 13 tháng Tám, ngày Tiên thăng 25 tháng Chạp
Đền thờ Mẫu Âu Cơ là một công trình văn hoá lớn của thời đại chúng ta – con cháu các vua Hùng xây dựng nên, nhằm mục đích “quy tụ” và “hội tụ” văn hoá “Đền Hùng”. Bổ sung cho quần thể kiến trúc tín ngưỡng trong Di tích lịch sử Đền Hùng, thể hiện tình cảm của nhân dân ta đối với Tổ Mẫu Âu Cơ người mẹ thiêng liêng huyền thoại của dân tộc Việt Nam.
Trong Phong Thủy, hoa sen tượng trưng chosự thanh cao, thoát tục, sự hoàn hảo cuối cùng bởi sen là loài hoa mọc trongbùn nhơ nhưng luôn thanh cao, tinh khiết
Với tranh về hoa, cho dù là nhà ở, văn phòng làm việc hay cửa hiệu, việc sử dụng một cách khéo léo các tranh hoa chính là thể hiện sự thành khẩn một cách tao nhã. Nhìn những tranh hoa đẹp thường làm cho con người cảm thấy yên tĩnh, nhẹ nhõm, thanh thản, vô hình trung đã loại bỏ đi sự nóng nảy, bực dọc, tránh gây ra bất hòa trong các mối quan hệ giữa người với người, và ngăn ngừa chúng ta chỉ biết đắm chìm trong những khó khăn, thiếu thốn của hoàn cảnh hoặc cuộc sống. Có thể nói, nó có thể kích thích chúng ta hướng theo hướng tích cực và đạt được một thành tựu trong sự nghiệp. Không chỉ thế, trong phong thủy, các loài hoa từ ngàn xưa đã được nghiên cứu và chứng minh có nhiều công dụng với phong thủy. Với mỗi loài hoa khác nhau, lại mang trong mình một ý nghĩa phong thủy khác nhau:
Hoa sen: Trong Phong Thủy, hoa sen tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, sự hoàn hảo cuối cùng bởi sen là loài hoa mọc trong bùn nhơ nhưng luôn thanh cao, tinh khiết. Biểu tượng của nhà Phật, của thế giới Phật Pháp Vô Biên chính là hoa sen. Sử dụng tranh sen có tác dụng điều hoà khí vượng, tăng cường những nguồn năng lượng về sức khoẻ cho ngôi nhà., giúp gia chủ gỡ bỏ mọi ưu phiền, để tĩnh tâm, an hưởng hạnh phúc
Vị trí gợi ý:
Phòng khách của nhà riêng hay công ty đều có thể có thể lựa chọn các loại tranh vẽ trúc phú quý, cây lan đuôi hổ, xương rồng, cây thủy tùng, sen nhiều lá, cây cọ, cây phát tài, cây lan quân tử, cây lan cầu, hoa lan, hoa anh thảo, tắc, cây dương xỉ, cây huyết dụ…, các hoa này là “vật may mắn” trong phong thủy học, hàm ý như ý cát tường, tụ tài phát phúc.
Hãy đem những bức tranh vẽ hoa đầy màu sắc vào văn phòng hay căn phòng nhà bạn, bạn sẽ giúp cho luồng khí nơi đó được điều hoà và trôi chảy.
Nguồn: VietGem (st) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
Là một vật dụng vô cùng quen thuộc trong phòng bếp của mỗi gia đình, nhưng đa phần mọi người không để ý vị trí đặt tủ lạnh có liên quan đến sự giàu có và sức khỏe của các thành viên trong gia đình.
Dưới đây là một vài lưu ý khi chọn vị trí đặt và sử dụng tủ lạnh hợp phong thủy:
1. Không nên để tủ lạnh trong tình trạng trống rỗng
Tủ lạnh là vật dụng có liên quan rất mật thiết với chế độ ăn uống, từ đó liên quan đến sức khỏe của cả gia đình. Nếu tủ lạnh luôn đầy ắp thức ăn, điều đó phản ánh về sự trù phú trong khẩu phần ăn hàng ngày của gia đình. Nhưng nếu tủ lạnh trống trải, nó phần nào nói lên tình hình tài chính eo hẹp của gia đình và có thể dự báo sự hao hụt nguồn tiền. Do vậy, hãy cố gắng để tủ lạnh luôn có thức ăn.
2. Vệ sinh tủ lạnh thường xuyên
Trong phong thủy, tủ lạnh là một vật dụng ảnh hưởng tới sự may mắn thịnh vượng của các thành viên trong nhà. Do đó, hãy giữ gìn nó thật sạch sẽ bằng cách thường xuyên loại bỏ hết các thực phẩm thừa, thức ăn đã hết hạn sử dụng, hỏng, ôi thiu. Khi tủ lạnh sạch sẽ, ngăn nắp thì tài chính của gia đình cũng sẽ khởi sắc.
3. Không đặt tủ lạnh đối diện với cửa bếp
Thông thường tủ lạnh được đặt trong nhà bếp, cũng có thể đặt ở phòng khách nhưng cần lưu ý không để nó ở vị trí đối mặt với cửa ra vào. Vì như vậy sẽ làm những dòng năng lượng (khí) đụng độ với nhau và có thể gây ra sự bất ổn, thậm chí còn dẫn đến phá sản.
Tủ lạnh đặt đúng vị trí hợp phong thủy sẽ giúp mang lại may mắn
4. Không nên đặt quá gần bếp
Tủ lạnh có ngũ hành thuộc Kim, trong khi bếp nấu lại có thuộc tính Hỏa. Theo thuyết ngũ hành, hai loại vật chất này kị nhau. Vì vậy, tốt nhất nên đặt chúng càng cách xa nhau càng tốt. Đặc biệt là không đặt chúng đối diện nhau vì dễ gây ra xung đột, tranh chấp trong gia đình.
Không nên đặt bếp nấu quá gần hoặc đối diện với tủ lạnh
5. Không được đặt các thiết bị điện tử trên nóc tủ lạnh
Chưa tính đến yếu tố an toàn trong gia đình, mà cá loại thiết bị trong nhà bếp như lò nướng, lò vi sóng, máy ép trái cây hay các loại máy móc khác cũng không nên đặt trên nóc tủ lạnh. Vì những đồ điện tử thường phát ra các luồng không khí điện từ vô cùng mạnh gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của người sống trong nhà.
6. Tối kỵ đặt trong phòng ngủ
Ngày nay, do muốn tiện lợi, nhiều người có thêm xu hướng đặt một chiếc tủ lạnh nhỏ trong phòng ngủ. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, không nên đặt tủ lạnh trong không gian nghỉ ngơi bởi nó sẽ gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng giấc ngủ của mọi người. Chính sự suy giảm về sức khỏe cũng là đầu mối gây ra nhiều tai họa cho con người.
Theo nhiều người thì bùa ngải chính là một quyền phép có sức mạnh về huyền bí và siêu nhiên, nhưng đây là một sức mạnh xấu, hay nói đúng hơn là một ma lực dẫn dắt người dùng ngải đi đến mục đích mà mình mong muốn.
Theo nhiều người thì bùa ngải chính là một quyền phép có sức mạch về huyền bí và siêu nhiên, nhưng đây là một sức mạnh xấu, hay nói đúng hơn là một ma lực dẫn dắt người dùng ngải đi đến mục đích mà mình mong muốn.
Xem thêm: Bùa chú là gì? Cách phân loại bùa chú.
Thực chất, bùa ngải là một loại bùa được làm từ các loại ngải được trồng lâu năm, dùng để kêu gọi các thế lực hắc ám làm theo mục đích của người đã tạo ra nó.
Ngải thuộc họ thực vật, thân thảo có củ. Củ ngải có nhiều loại, loại củ nhỏ bằng củ nghệ thì có ngải đen, ngải nàng thâm, ngải xoài; loại củ to bằng con heo đất như ngải tượng, ngải hổ. Một số giống ngải có thể giúp ích cho việc chữa bệnh của người đã được khoa học chứng minh.
Dân gian có câu: Người Nam giỏi về bùa ngải, người Trrung giỏi về thư phù ( bùa chú), người Bắc thì giỏi về độc trùng (nuôi trùng độc). Bởi vì người miền Nam chịu ảnh hưởng của những tư tưởng và văn hóa của người Cao Miên và Lào Thái Lan nên sự phát triển về ngãi nghệ từ đó mà ra. Còn người Trung chịu ảnh hưởng của triều đại Chăm Pa nên lại thình hành về phù thư, đối ếm (bùa chú), người Bắc thì chịu ảnh hưởng hiều của người Trung Hoa – một đất nước hay dùng hương mê, thuộc độc để ha đối thủ..
Thực chất bùa, ngải chỉ là một hình thức để triển khai huyền thuật. Huyền thuật có lịch sử hơn 8000 năm, bất cứ tôn giáo nào, dân tộc nào cũng có huyền thuật riêng. Về cơ bản thì có những dòng huyền thuật chính như Nam Tông (ở Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar,…) hoặc các dòng Tiên Đạo (Trung Quốc, Tây Tạng,…). Tường truyền răng khi luyện ngải, các thầy phải cho ngải ăn, tắm cho ngải, nuôi ngải bằng máu gà và máu của mình, đọc thần chú cho ngải nghe,… với đủ có thứ ly kì và huyền bí khác.
Hầu hết những loại ngải thường sinh trưởng và phát triển trong những vùng núi sâu thẳm, những nơi âm u, ánh nắng mặt trời không chiếu tới hay những nơi đầy âm khí ngút ngàn. Những loại ngải này thường có linh tính, là nơi các vong linh hay yêu ma quỷ quái ẩn náu.
Tóm lại, ngải cũng chỉ là một loại thảo mộc mà chính các nhà pháp sư được đặc biệt chọn lựa và gieo trồng, nuôi nấng trong phạm vi thần quyền, nói một cách đơn giản là họ dùng một dạng quyền phép bí thuật để truyền vào cây ngải hoặc củ ngải. Tùy theo năng lực của pháp sư và độ hiếm của giống ngải thì việc truyển khai quyền phép và giá trị của ngải sẽ tăng lên.
Tuổi Trâu và tuổi Rắn có nhiều điểm chung hơn là sự khác biệt: Cả hai đều chăm chỉ, sâu sắc và coi trọng chất lượng hơn số lượng và vẻ hào nhoáng bề ngoài. Hai “hành tinh” này đều đặt gia đình ở ví trí hết sức quan trọng. Họ coi ngôi nhà của mình là
Bài học đáng suy ngẫm về lòng tự trọng của loài chó
Trong cuộc sống này cũng vậy, khi bạn đem người khác ra làm trò cười mà không lường trước được hậu quả, thì có thể bạn sẽ nhận lại những điều thật tồi tệ
Lòng tự trọng là một cảm xúc cơ bản của con người. Người ta cứ tưởng rằng ngoài con người ra, những sinh vật khác không hề có cảm xúc hay suy nghĩ độc lập. Đó là một nhận thức sai lầm, bởi chúng cũng có những cảm nhận riêng mà con người không nhận thấy.
Năm ấy tôi quen một huấn luyện viên dạy chó nghiệp vụ trong quân đội. Tôi hỏi anh: “Loại chó thông minh nhất có thể đạt được tới trình độ như thế nào?”
Anh trả lời: “Trừ chuyện không biết nói ra, chúng không khác gì người”.
Câu trả lời của anh khiến tôi sửng sốt. Tôi hỏi tiếp: “Phải chăng câu này của anh có lẫn lộn nhiều màu sắc tình cảm?”
“Không đâu!”, anh nói.
Rồi anh kể cho tôi nghe dăm ba câu chuyện về loài chó, đều là những chuyện chính anh từng trải qua. Có mấy chuyện tôi đã quên mất rồi, duy chỉ có một chuyện sau đây thì cho đến nay tôi vẫn còn nhớ như in.
Trong doanh trại của anh có một con chó cực kỳ thông minh tên là Đen. Để trắc nghiệm năng lực phản ứng của nó, một hôm mấy huấn luyện viên dạy chó nghĩ ra một biện pháp đặc biệt. Họ chọn hơn chục người xếp thành một hàng, sau đó cử một người trong số đó vào trong doanh trại “lấy cắp” một vật đem giấu đi, rồi lại trở về đứng trong hàng. Khi mọi việc đã xong xuôi, huấn luyện viên dạy chó dắt con Đen đến, bảo nó đi tìm vật bị mất.
Con Đen chạy đi, chỉ một loáng sau đã thấy nó ngoạm vật kia mang đến. Huấn luyện viên dạy chó vỗ vỗ lên đầu nó tỏ ý khen ngợi. Rồi anh chỉ tay vào hàng người kia, bảo con Đen đi tìm kẻ đã lấy cắp vật ấy. Nó chạy đến dí mũi hít hít ngửi ngửi hết người này đến người khác, chẳng mấy chốc đã cắn quần một anh lôi ra ngoài hàng, đúng là anh “kẻ cắp” kia.
Phải nói rằng như vậy con Đen đã hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ được giao, thế nhưng huấn luyện viên dạy chó lại cứ một mực lắc đầu bảo nó: “Không, không phải người ấy! Tìm lại đi!”
Con Đen tỏ ý hết sức ngạc nhiên, mắt nó ánh lên nỗi nghi hoặc, thắc mắc, vì nó tin chắc rằng mình không hề tìm nhầm người; nhưng mặt khác nó lại tuyệt đối tin tưởng vào huấn luyện viên của mình. “Đây, đây là chuyện thế nào nhỉ?”, chắc nó nghĩ vậy.
“Không phải người ấy! Đi tìm lại đi!”, huấn luyện viên cứ khăng khăng bảo.
Con Đen tin vào huấn luyện viên, nó quay lại tìm… Nhưng sau nhiều lần thận trọng ngửi đi ngửi lại, cuối cùng nó vẫn cứ cắn quần anh chàng kia lôi ra.
“Không! Không đúng!”, huấn luyện viên lại lắc đầu. Tìm lại đi! Con Đen mỗi lúc một thêm nghi hoặc, đành chạy lại chỗ hàng người kia. Lần này nó đánh hơi ngửi rất lâu, rất lâu để xác định ai là kẻ cắp.
Sau cùng, nó đứng lại bên cạnh anh “kẻ cắp” kia rồi quay đầu nhìn huấn luyện viên, tỏ ý “tôi cảm thấy chính là người này đây…” “Không! Tuyệt đối không phải người ấy!”, huấn luyện viên lại quát to, nét mặt trở nên nghiêm nghị. Sự tự tin của con Đen bị đập tan tành. Dĩ nhiên nó tin vào huấn luyện viên hơn là tin vào bản thân nó. Rốt cuộc nó bỏ kẻ cắp kia và đi tìm người khác, nhưng người khác… đều không đúng mà?
“Nó ở trong hàng người ấy đấy! Mau tìm ra ngay!”, huấn luyện viên quát lên.
Con Đen vô cùng thất vọng chán nản. Nó dừng lại bên chân mỗi người một lúc, nhìn nhìn ngó ngó xem người đó có giống tên kẻ cắp hay không, rồi quay đầu nhìn ánh mắt của huấn luyện viên, hy vọng có thể tìm thấy chút ít tín hiệu hoặc biểu thị gì đấy… Cuối cùng, khi nó nắm bắt được một chút xíu biến đổi trong ánh mắt của huấn luyện viên, nó cắn quần người đứng bên cạnh và kéo ra.
Tất nhiên, lần này thì nó đã nhầm, nhưng huấn luyện viên của nó cùng mấy người kia thì lại cười ha hả. Tiếng cười khiến con Đen trở nên lú lẫn. Sau cùng huấn luyện viên gọi “kẻ cắp” bước ra ngoài hàng, rồi bảo con Đen: “Lần đầu mày tìm đúng rồi, nhưng mày sai ở chỗ không kiên trì mình đúng…”
Một điều khiến huấn luyện viên và tất cả mọi người có mặt lúc ấy không thể hiểu được và vô cùng kinh ngạc, vô cùng ân hận, là ngay trong khoảnh khắc ấy họ đã nhìn thấy: Khi con Đen hiểu ra chuyện vừa rồi là một vụ lừa dối, nó “ngoào” lên một tiếng vô cùng đau khổ, mắt ứa ra những giọt nước mắt nóng hổi. Sau đấy nó ủ rũ gục đầu nặng nề, thui thủi từng bước bỏ đi…
“Đen! Đen! Mày đi đâu thế hả?”, huấn luyện viên sợ hãi đuổi theo hỏi tới tấp.
Con Đen chẳng hề đoái hoài tới người rèn dạy nó, cứ cắm cúi đi ra khỏi doanh trại.
“Đen! Đen! Tao xin lỗi mày!”, huấn luyện viên òa lên khóc.
Nhưng con Đen chẳng hề xúc động, nó không thèm ngoái lại nhìn chủ mình.
“Đen! Đừng giận! Tao chỉ đùa mày một tí thôi mà!”, huấn luyện viên chạy đến ôm chặt lấy con chó, nước mắt nóng hổi từ mặt anh lã chã rơi xuống con Đen. Con chó giãy giụa tuột ra khỏi vòng tay của huấn luyện viên, rồi nó thủng thẳng, lừ đừ từng bước đi lên quả đồi ở bên ngoài doanh trại, tìm một chỗ khuất gió xoài bốn chân nằm xuống đất…
Mấy ngày sau đấy con Đen không ăn không uống, ủ rũ chán chường. Mặc cho huấn luyện viên dỗ dành, nựng nịu thế nào đi nữa, nó cũng nhất định không chịu tha lỗi cho anh.
Lúc bấy giờ mọi người mới hiểu ra: Dù chỉ là con chó thôi, nó cũng có sự tự trọng của mình!
đấy.
Con người ta ai cũng có tự tôn riêng của mình, đừng vì một phút nhất thời mà đánh mất đi tình bạn quý giá.
Một bài viết về Tử Vi vấn đáp trích ở phần phụ luc cuốn Tử Vi Chỉ Nam do Cam Vũ viết. Đây là bài viết rất hay giải đáp các câu hỏi mà người học tử vi thường hay thắc mắc, cần lời giải đáp.
Trích từ phần "Tử vi vấn đáp" của tác giả Cam Vũ, cuối bản điện tử cuốn Tử Vi Chỉ Nam tác giả Song An - Đỗ Văn Lưu
Dưới đây là một số các kinh nghiệm Tử Vi được góp nhặt từ các bậc tiền bối, được trình bày dưới hình thức Tử Vi vấn đáp.
1. Tôi thấy sách nói: Kình Dương Tý Ngọ, Mão, Dậu phi yểu triết tắc nhi hình thương hoặc Kình Dương cư Ngọ là mã đầu đời kiếm trấn ngư biên cương nhưng rồi cũng chết bất đắc kỳ tử, mà nay lại thấy có người phát công danh lại trường thọ, không chết ở hạn ấy nghĩa là sao? Trường hợp lá số Dương Nam Bính Dần tháng 12 giờ Hợi ngày 05?
Trong mọi trường hợp phải để ý đến ngũ hành và cát tinh phù trợ, ở trường hợp này người ấy phát công danh to ở đại hạn cung Ngọ mà bản mệnh vững vàng vì hạn đến tam hợp Thái Tuế, có Long Phương Cái Hổ, mệnh Hỏa có Liêm Trinh Hỏa đồng hành nhập hạn mà Mệnh Thân lại có tam hóa. Ðại hạn của Tử Phủ Vũ Tướng thì hỏi sao mà không phú quý, hành của mệnh và hành sao nhập hạn khắc KÌNH DƯƠNG hành Kim. Thiên Phủ ở Dần chiếu lên giải tính hung ác của Kình Ðà.
2. Thế nào là Vượng Tướng Hưu Tù Tuyệt?
Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tuyệt là 5 yếu tố thuộc về sinh trưởng thu tàn của ngũ hành.
Nguyên tắc: Khi ta xét đến 1 hành, nếu có nguyên nhân nào làm cho hành ấy Vượng, hành được sinh là Tướng, hành sinh ra hành chánh là Hưu, hành khắc hành chánh là Tù và hành bị khắc là Tuyệt, tóm lại bảng tóm tắt sau:
Thí dụ: năm nay là Tân Dậu thuộc hành Mộc, thời Mộc Vượng, Hỏa Tướng, Thủy Hưu, Kim Tù, Thổ Tuyệt có lợi cho những ai hành Hỏa, Mộc, bất lợi cho 3 hành Thủy, Thổ, Kim.
Hay chi tiết hơn người ta xét đến khí của 4 mùa, mùa Xuân thuộc Mộc thời mộc vượng, mùa Hạ thuộc Hỏa thì hỏa vượng, mùa Thu thuộc Kim thì kim vượng, mùa Đông thuộc Thủy thì thủy vượng và giao mùa thuộc Thổ thì Thổ vượng. Năm yếu tố này được áp dụng trong Bốc Dịch và Y Học nhiều.
3. Sách xưa nói “sinh phùng bại đại phát đã hư hoa là sao”?
Ý muốn nói rằng Cung Mệnh, hay Thân cư ở nơi bại địa thì cuộc đời sẽ long đong vất vả, nếu có gặp được hạn tốt thì cũng chỉ phát như bông hoa bị vùi dập giông tố mà thôi. Khi mệnh lâm bại địa cần phải có cát tinh đắc địa hội chiếu hay Tuần Triệt án ngữ, nếu Ðại hạn lâm vào bại địa thì cũng một thời khốn khó. Căn cứ vào bảng dưới đây:
Bản mệnh Cung: mệnh, thân, hay cung hạn
Thí dụ: lá số Cụ Phạm Văn Toán (trang 33 sách Tử Vi Chỉ Nam của cụ Song An Đỗ Văn Lưu), tuổi Giáp Thìn là hỏa mệnh, cung mệnh là cung Dần là vượng địa, nên cuộc đời tuy có gặp khó khăn (tuần án ngữ) nhưng vẫn vượt qua được cả để tiến đến thành công.
4. Khi xem số Tử Vi làm thế nào để biết được người ấy bị lừa hay đi lừa người khác?
Tính chất cố hữu của Không, Kiếp là thị kỷ phi nhân (chỉ biết mình mà chẳng nghĩ tới người), tính điêu ngoa gian giảo tham lam của một số chính tim hãm địa như Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc nếu đứng chung với thế Thiên Không đắc Tả Hữu thì thật là mẫu người bán dối của người bồ tát, của mình lạt buộc. Nếu đứng chung với thế Thái Tuế là người lầm lạc, nên có tài mà bị đời lãng quên, nếu đứng chung với thế Tang Điếu, hay Trực phù - Thiếu âm - Long đức thì là người hay bị người khác qua mặt, lừa gạt, nếu ở hạn cũng luận như vậy.
5. Có người nói Mã ở Hợi là CÙNG ÐỒ MÃ, lại có sách xưa nói mã ở Hợi là Ô TRUY mã. Như vậy có mâu thuẫn không? Thế nào gọi là cùng đồ mã?
Gọi Thiên Mã ở Hợi là Ô Truy Mã là đúng, vì mã đó là Thủy Mã, rất tốt với người mệnh Thủy, đa tài mẫn cán, tháo vát và nghị lực rất mạnh. Còn gọi Mã ở Hợi là Cùng Đồ Mã thì cũng không sai, chỉ đúng 1 phần thôi. Chỉ khi nào có sao Tuyệt đồng cung với Thiên Mã ở Hợi, chỉ sự ngựa tuyệt lộ cùng đường chạy nên gọi là Cùng Đồ Mã, vì lấy cái lý sao Tuyệt là sao cuối của bộ Trường Sinh, Tuyệt lại hành Thổ khắc Mã Thủy.
6. Thế nào gọi là cách tuyệt sứ phùng sinh?
Khi Cung Mệnh an tại cung tuyệt địa, nhưng lại có chính tinh đắc địa cho hành của bản mệnh ví như người đang hấp hối lại được thần dược cứu sống.
7. Tại sao gọi là HẠN TAM TAI?
Hạn tam tai là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi, không phải cứ đến năm tam tai là có tai họa nhưng hễ cứ đến những năm tam tai thì sẽ gặp nhiều vất vả khó khăn xảy ra, nếu các yếu tố trong lá số thật tốt thì cũng làm giảm bớt, gây khó khăn bực mình, nếu trong hạn của lá số xấu thì sẽ bị xấu thêm, khó mà tránh được tai ương họa hại.
Tuổi Dần, Ngọ, Tuất thì 03 năm tam tai là Thân, Dậu, Tuất.
Tuổi Thân, Tý, Thìn, thì 03 năm tam tai là Dần, Mão, Thìn.
Tuổi Tỵ, Dậu Sửu thì 03 năm tam tai là Hợi, Tý, Sửu.
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, thì 03 năm tam tai là Tỵ, Ngọ, Mùi.
8. Khi lấy số Tử Vi nếu gặp tháng nhuận thì tính thế nào?
Có người tính từ 15 tháng sau coi như tháng trước và 16 tháng sau (tháng nhuận) được coi như tháng sau, nhưng do bởi lý: nếu đã nhuận (giống nhau) tức là thời điểm không đổi thì 2 tháng nhuận đều tính giống nhau. Thí dụ: sinh ngày 20 tháng 5 nhuận, ta vẫn cứ tính như ngày 20 tháng 5 thường mà thôi.
9. Người muốn giỏi về Tử Vi cần phải làm sao?
Muốn đoánTử Vi giỏi cần phải có 4 điều kiện sau:
TRÍ NHỚ: Tử Vi là một môn toán học phức tạp nên rất cần trí nhớ.
SUY LUẬN: phải thuộc tính chất để suy luận tính chế hóa thiện, hung của các sao, đặc biệt là sự chế hóa xung khắc, yếu tố tiêu trưởng của Âm Dương Ngũ Hành.
TRỰC GIÁC: cần phải có trực giác bén nhậy để giúp ích cho sự suy luận.
KINH NGHIỆM: cuối cùng là phải thực hành nhiều để đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết và suy luận ra những nguyên tắc về giải đoán cho phong phú.
10. Thế nào gọi là hạn Trúc La?
Hạn Trúc La là hạn SÁT PHÁ LIÊM THAM ở cung Mão, cung Mão thuộc hành Mộc quẻ Chấn, là tượng cho sấm sét, nên còn gọi là Mộc áp lôi kinh, nếu có các sao Kình, Hư, Tuế, Khách nữa thì chết, số Hạng Võ sinh năm Ðinh Mão, tháng 8 ngày 12 giờ Mão có cách này.
13. Ảnh hưởng của Tuần, Triệt là như thế nào?
Khi đoán số Tử Vi, đến cung nào có Tuần, Triệt trấn đóng, án ngữ bản cung thì nên thận trọng vì tính chất phức tạp của Tuần, Triệt.
Triệt: còn gọi là Triệt lộ không vong, hay gọi tắt là Triệt không, thuộc hành Kim đới Thủy, có nghĩa là chém đứt phân lìa ra.
Tuần: còn gọi là Tuần trung không vong, thuộc Hỏa đới Mộc, gọi tắt là Tuần không, có nghĩa là bao lại, bao vây, không cho phát huy khả năng.
Do tính chất hoàn không nên Tuần không, Triệt không hợp với Thiên không, Ðịa không gọi là Tứ không sẽ làm mất hết hiệu lực của các tính đẩu nằm trong phạm vi của nó, nhưng không có nghĩa là ngược lại, nghĩa là Tuần Triệt chỉ có tính chất làm mất cái tốt hoặc tiêu tan sự hung ác của ác sát tinh chứ không thể biến tốt thành xấu hay biến xấu thành tốt được.
Vị trí đắc địa của Tuần Triệt là ở cung Kim và cung Hỏa, khi “Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa” hai hành Kim khi va chạm sẽ gây nên tiếng vang, hai hành Hỏa hợp lại sẽ bùng to lớn mãnh liệt, nên người mệnh vô chính diệu, có bản mệnh đồng hành với Triệt, Tuần mệnh cư ở Ngọ hay Dậu (thế cung Ngọ là ly chính Hỏa, cung Dậu là đoài chính Kim) thì được nổi tiếng lẫy lừng và phú quý.
Về đặc tính của Tuần, Triệt trên lá số, sách xưa có các câu phú:
Tam phương xung sát hạnh nhất triệt nhi khả bằng.
Tứ chính giao phù kỵ nhất không chi trực phá. nghĩa là khi bản cung và các cung hợp phương gặp ác sát chi tinh, các hung tinh thủ chiếu, nhưng chỉ cần 1 sao Triệt cũng đủ làm cho bình yên. Khi bản cung được các cát tinh bội chiếu nhưng nếu chỉ gập 1 sao Không (Tuần hay Triệt) cũng đủ để phá mất ý nghĩa tốt đẹp đi.
Không vong định yếu đắc dụng. Nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu đại hữu kỳ công.
Tuần, Triệt cũng có chỗ đắc dụng khi nằm đúng vị trí thì lại thật là cần thiết vô cùng. Khi Mệnh ở cung Bại Ðịa hay Tuyệt Ðịa, thì Tuần Triệt ở đây lại phù trì cho các sao hãm địa lại trở nên vượng, bản mệnh từ mong manh lại trở nên vững vàng.
Trường hợp này đặc biệt hơn còn kỳ dư các cung khác, Tuần Triệt được ví như bộ thắng của chiếc xe vậy.
Về ảnh hưởng của Tuần, Triệt cụ Việt Viêm Tử có phổ biến định lý:
Dương hành tam thất: người Dương chịu ảnh hưởng cung dương 7 phần.
Âm qui nhị bát: người Âm chịu ảnh hưởng cung âm 8 phần.
Nhưng theo thiển nghĩ và kinh nghiệm áp dụng thì thấy rằng đối với Dương nam, Âm nữ là ở những tuổi thuận lý âm dương thì ảnh hưởng theo chiều thuận cho nên định lý Dương hành tam thất phải được dùng cho Dương nam Âm nữ.
Thí dụ: người Dương nam canh Dần, có Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nếu khởi theo chiều thuận thì đến cung Ngọ sẽ gặp Tuần, Triệt đương đầu, và ở cung Mùi thì Tuần, Triệt nằm sau lưng nên chỉ vuốt đuôi mà thôi. Ðối với tuổi Âm nam Dương Nữ, là ở những tuổi nghịch lý Âm Dương, nên chịu ảnh hưởng theo chiều nghịch cho nên định lý Âm qui nhị bát phải được áp dụng cho Âm nam Dương nữ.
Thí dụ: người Dương nữ canh Dần, Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nhưng vì là Dương Nữ cho nên ảnh hưởng theo chiều nghịch ( kim đồng hồ) vậy ở cung Mùi lại gặp Tuần Triệt đương đầu, mà với cung ngọ thì Tuần, Triệt lại chỉ là vuốt đuôi mà thôi.
Tam thập niên tiền quan Triệt.
Tam thập niên hậu khán Tuần.
Nghĩa là sao Triệt ảnh hưởng mạnh vào tuổi chưa lập thân (30 năm đầu)
Sao Tuần ảnh hưởng mạnh vào tuổi từ khi lập thân cho đến hết cuộc đời. Sở dĩ các cụ xưa dùng chữ tam thập niên tiền và tam thập niên hậu vì các cụ quan niệm là tuổi lập thân từ 30 trở ra, và cho đến 60 là hết vì nhân sinh thất thập cổ lai hi, đời người trung bình chỉ 60 thôi còn từ 70 trở ra là ngoại lệ.
14. Tại sao Triệt lại chỉ ảnh hưởng vào tiền vận 30 năm đầu, còn Tuần lại ảnh hưởng suốt cuộc đời?
Triệt Lộ Không Vọng được tính căn cứ vào Hang Thiên Can của năm sinh. Trở lại nguồn gốc vạn vật theo Hà Ðồ Lạc Thủ của Kinh Dịch, thì từ thuở hư không tức Thái Cực sinh trời rồi mới tới đất (Thiên nhất sinh thủy, Ðịa lục thành chi…) cho nên hàng can chính là cái cội rể của con người. Xét theo cuộc đời, thời gian thì hàng can phải là phần trước, có nửa đời trước thì mới có nửa đời sau, cái sau sinh ra bởi cái trước.
Tuần Trung Không Vong được tính theo can chi của năm sinh năm trong giáp nào tức là gồm cả thiên can và địa chi, thuộc giáp nào trong lục thập hoa giáp (Hội), mà can chi là 2 yếu tố căn bản để tạo nên tuổi của con người, nên Tuần sẽ ảnh hưởng suốt cuộc đời của con người.
15. Người có Tuần hay Triệt tại Mệnh, Thân thì sao?
Người có Tuần, Triệt án ngữ tại mệnh thì cuộc đời vất vả, làm việc gì cũng phải hai ba lần mới thành công, khi tai mệnh, thì thiếu niên tân khổ; nếu ở thân thì vất vả nhiều, chung thân bất như ý.
Nếu mệnh Tuần thân triệt hay ngược lại, thì cung mệnh hay thân lại rất cần vô chính diêu thì mới mong mát mặt với đời. Ðặc biệt khi mệnh hoặc thân có Tuần hoặc Triệt thì mọi sự lại hành thông.
16. Thế nào được gọi là lá số vô chính diệu?
Một lá số được gọi là vô chính diệu khi cung mệnh không có chính tinh chiếm đóng. Hoặc có chính tinh nhưng không được hưởng, nghĩa là chính tinh thủy mệnh không sinh hay đồng hành với bản mệnh.
Thí dụ: người tuổi Canh Tý là thổ mệnh, mệnh cư ở Hợi, có thiên đồng thủ mệnh, như thế là khắc với chính tinh, nên không hưởng mà không hưởng thì được coi như vô chính diệu.
Khi gặp lá số không có chính tinh thì phải lấy sao đồng hành với bản mệnh ở thế tam hợp cung mệnh phải khắc thắng được hành tam hợp của xung chiếu.
Thí dụ: mệnh cư ở cung Thân vô chính diệu, vậy phải tìm chính tinh đồng hành ở 2 cung tam hợp là Tỵ và Thìn, và lấy được ở cung Dần chiếu sang vì Thân, Tý, Thìn là Thủy khắc Dần, Ngọ, Tuất là hỏa cung trong trường hợp này nếu mệnh ở cung dần thì dùng được 2 cung tam hợp là Ngọ và Tuất. Còn các sao ở cung thân thì không hưởng được, trái lại còn nguy hại nữa là khác nếu có nhiều sao xấu.
17. Lá số vô chính hiệu thế nào thì tốt?
Gồm các trường hợp sau:
Mệnh vô chính diêu đắc tam không nhi phú quý khá kỹ. Phải là mệnh Hỏa, được 1 không thủ và 2 không chiếu (các sao Không gồm có Tuần Không, Triệt Không Thiên Không, Ðịa Không), trường hợp này được côngthành danh toại.
Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa: mệnh vô chính diệu có hung tính đắc địa đồng hành bản mệnh như Kình, Ðà, Linh, Hỏa, Khốc, Hư, Tang, Hổ nhưng phải mệnh Kim hay Hỏa Mới hợp. Trường hợp này phải xa lánh Tuần, Triệt.
Trung tinh đắc cách hội chiếu: Khôi, Việt, Xương Khúc, Thai Tọa, Tam Hóa... nhưng cũng phải không gặp Tuần Triệt cản thì mới được phúc lộc. Còn kỳ dư tất cả các trường hợp khác đều là mộng ảo hoàng lương, phi yếu tắc bần, tất cả chỉ là phá cách, không tốt.
Nhưng bất cứ trường hợp nào thì ngừơi có lá số vô chính diệu vẫn là người thông minh, khôn ngoan và có đặc tính, trước một vấn đề cần giải quyết dứt khoát thì thường hay đắn đo, do dự.
18. Khi đoán hạn phải để ý đến yếu tố nào?
Khi giải đoán đến đại hạn hay tiểu hạn thì phải lưu ý đến những điểm sau:
Phân biệt Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh để tìm ảnh hưởng vào nửa sau hay nửa trước của hạn, nếu gặp Tuần, Triệt thì ngược lại.
Mệnh phải được cung nhập hạn sinh hay đồng hành với bản Mệnh.
Chính tinh nhập hạn đồng hành hay sinh cho bản mệnh.
Trường hợp cung hạn khắc bản mệnh thì cần phải có chính tinh sinh mệnh là cách tuyệt sứ phùng sinh.
Xem hung tinh có đồng hành với bản mệnh hay với can của năm sinh hay không? Hung tinh không hại người đồng hành với nó, hay hành nó sinh. Thí dụ: Hỏa, Linh, không hại người mệnh Hỏa, hay Thổ mà chỉ hại ngưởi Thủy, Kim và Mộc.
Nếu được mệnh mà không đựơc can, hay ngược lại thì cũng lôi thôi. Thí dụ: tuổi Bính Dần đến hạn gặp Hỏa, Linh thì không việc gì Bính thuộc hỏa mà Bính Dần cũng thuộc Hỏa.
Người có cung nhập hạn khắc mệnh lại gặp Kình, Hình, Không, Kiếp, thì sẽ chết trong hạn đó.
Người mệnh Mộc hay có can Giáp, Ất, tối kỵ hạn gặp Kình, Hình.
Người có Mệnh Hỏa, hay có hàng can Bính, Ðinh tối kỵ hạn gặp Hỏa Ky.
Người có Mệnh Kim hay có hàng can Canh, Tân tối kỵ hạn gặp Hỏa, Linh.
Ba hành trên nếu gặp sao Kỵ khắc nhập hạn, sẽ gặp tai nạn, thương tổn lôi thôi.
19. Muốn xem nguyệt hạn thì phải làm sao?
Khi đoán đến nguyệt hạn tức là đoán đến chi tiết phải để ý đến nguyên tắc sau:
Cách cuộc của mệnh thân chi phối dài hạn (gia tăng hay xung phá, cách cuộc của đại hạn chi phối tiểu hạn, cách cuộc của tiểu hạn chi phối nguyệt hạn.
Ðặc biệt phải lưu ý đến can chi ngũ hành của nguyệt hạn, phối hợp với can chi và ngũ hành của bản mệnh và các sao cùng cung nhập hàm ra sao mà linh động chế hóa.
Có nhiều cách tính nguyệt hạn nhưng cách thông dụng nhất là khởi từ cung tiểu hạn là tháng 1 tính thuận đến tháng sinh rồi từ đó là giờ tý tính nghịch đến giờ sinh dừng lại cung nào thì đó là tháng 1 cứ thế theo chiều thuận mỗi cung 1 tháng cho đến tháng 12.
Cách tính can chi của tháng như sau:
Giáp, Kỷ Bính tác chủ
Ất, Canh, Mậu vi đấu
Bính, Tân, Canh dần khỏi.
Ðinh, Nhâm, Nhâm dần cầu
Mậu Quí tiên khởi Giáp.
Cung Dần nguyệt thuận lưu.
Nghĩa là: Năm thuộc can giáp hay can kỷ, thí dụ như năm kỷ mùi hay giáp thân thì tháng giêng là tháng bính dần, rồi đến tháng 2 là tháng đinh mão….cứ thế mà thuận đến tháng 12:
Năm thuộc can Ất, Canh, tháng giêng là mậu dần.
Năm thuộc can Bính, Tân tháng giêng là canh dần.
Năm thuộc can Ðinh, Nhâm tháng giêng là nhâm dần.
Năm thuộc can Mậu, Quí tháng giêng là giáp dần.
Nghĩa là bất cứ năm nào tháng giêng cũng là tháng dần, còn hàng can thì thay đổi theo hàng can của năm. Rồi cứ thế theo can chi mà luận xuống. Thí dụ năm nay là năm Tân Dậu. Vậy tháng 1 là tháng canh dần rồi tháng 2 là tân mão, tháng 3 là nhâm thìn tháng 4 là quí Tỵ, tháng 5 là giáp ngọ, tháng 6 là Ất Mão, tháng 7 là Bính Thân, tháng 8 là Ðinh Dậu, tháng 9 là Mậu Tuất, tháng 10 là Kỷ Hợi, tháng 11 là canh tý, tháng 12 là Tân Sửu.
Thí dụ: trong lá số Hoàng Ðế – trang 197 sách Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu - năm 25 tuổi là năm Giáp Ngọ.
Bây giờ muốn tìm nguyệt hạn tháng 3 năm giáp ngọ xem ở cung nào.
Năm Giáp Ngọ tiểu hạn ở cung Thìn.
Kể từ cung Thìn là tháng giêng thuận đến tháng sinh (nếu sinh tháng 1 thì kể từ ở đó), rồi kể từ giờ tý nghichh đến giờ sinh là giờ thân, đến cung thân là cung nguyệt hạn.
Vì năm giáp cho nên tháng 1 là tháng bính dần, tháng 3 là Mậu Thìn.
Vậy lưu nguyệt hạn tháng 3 là tháng mậu thìn ở cung thân.
Khi giải đoán thì xem can chi nguyệt hạn có xung phá với can chi bản mệnh không? Ngũ hành của nguyệt hạn lại khắc hay sinh cho ngũ hành bản mệnh? Rồi xem đến các sao trong cung nguyệt hạn có hợp bộ, phò tá cho tiểu hạn không? Hay bị xung phá, thí dụ: tiểu hạn có Lộc tồn, đến nguyệt hạn gặp Phá Quân, Ðại Hao, hay Không Kiếp là bị phá vậy, cứ căn bản mà chế hóa cho tinh tường thì ra được đáp số.
Khi đoán tiểu hạn hàng năm, làm thế nào để biết sự việc sẽ xảy ra cho chính đường số hay cho các đối tượng liên hệ như cha mẹ, anh em, vợ con….?
Trước hết, khi tiểu hạn nhập cung nào thì cung ấy phải được lưu ý nhiều.
Cung xung chiếu được kể là quan trọng thứ nhì, nếu hành cung tiểu hạn khắc thắng được hành cung xung chiếu, thì sự việc xảy ra. (Tốt lành hay hung dữ tùy theo sao) đến 80% là đối tượng thuộc cung đối chiếu với cung tiểu hạn. Thí dụ: người canh dần, dương nam, mệnh lập tại dần, lưu hạn năm mùi ở cung dậu là cung ách, cung dậu (ách ) khắc cung phụ mẫu ở mão, vậy những việc quan trọng sẽ xảy ra cho phụ mẫu vào năm mùi hay năm nay tân dậu, lưu tiểu hạn ở cung Tử tức tại cung Hội, xung chiếu khắc cung điền ở tỵ, vậy sự việc xảy ra năm nay xảy đến là điền trạch nhiều hơn (đổi chỗ ở ) rồi đến năm 1982 là năm Tuất, tiểu hạn đến cung thê, xung chiếu khắc quan lộc, nên sự việc liên quan đến Công Danh.
Xin được nhắc lại khi đoán hạn phải lưu ý:
Nếu là đại hạn thì phải lưu ý đến hành tam hợp trước, rồi đến cung nhập hạn, rồi đến sao.
Nếu là tiểu hay nguyệt hạn phải lưu ý đến can chi và ngũ hành của năm nay tháng muốn xem rồi đến hành của cung hạn, rồi đến sao của cung hạn.
Dù bất cứ trường hợp nào cũng phải để ý đến hành của sao nhập hạn với hành của bản mệnh, xem sinh khắc thế nào, rồi đến vị trí miếu hãm của sao rồi cũng đi tìm xem hợp bộ hay xung phá, rồi căn cứ vào tính chất của sao để cho ra lời giải đáp.
21. Sao Thiên Mã có những tính chất gì?
Hành của thiên mã sẽ tùy theo cung, thiên mã ở cung nào sẽ mang hành ở cung đó. Thí dụ Mã ở thân là kim mã.
Dù ở bất cứ vị trí nào nếu thiên mã đồng hành hay sinh hành bản mệnh cũng rất tốt đa tài mẫn cán. Các cách tốt đẹp của thiên mã gồm có:
Thiên mã đồng cung Lộc tồn: chủ phúc lộc.
Thiên mã, Phượng các: cứu giải mọi tai nạn.
Mã ngộ Khốc Khách: uy danh, oai vệ.
Mã ngộ Lưu Hà: cứu giải tai nạn.
Mã ngộ Trường sinh: thanh vân đắc lộ chủ về sự thăng tiến công danh.
Thiên Mã rất kỵ gặp các sao sau:
Tuần, Triệt.
Kình, Ðà
Thiên Hình
Không, Kiếp.
Nếu gặp chỉ gây ngăn trở công việc, nếu bản mệnh không vững thì thường tốn, tai nạn thương tật tay chân.
Riêng trường hợp thiên mã chỉ gặp 1 sao tuần, thì bên cạnh sau cái rủi sẽ có cái may, vì tuần chỉ như cái cầu ngăn cản để cho thiên mã phục rồi nhảy sang cung khác chứ không bị trảm như Triệt, Kình, Hình, Ðà. Mã còn là phương tiện di chuyển, mà cho phù hợp với lẽ biến dịch thì ngày nay chính là chiếc xe ta đang đi vậy. Như thế hành của bản mệnh và của thiên mã hay chiếc xe cũng nói lên ý nghĩa sau:
Hành của Thiên mã đồng hành với bản mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng, xe màu vàng vì màu vàng thuộc thổ sẽ cảm thấy thoải mái với phương tiện di chuyển của mình.
Hành của Thiên mã sinh hành của mệnh. Thí dụ: tuổi canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu đó vì màu đỏ thuộc hỏa sinh thổ, gây ích lợi cho bản mệnh.
Hành của thiệp mã khắc hành của mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu xanh thuộc mộc khắc thổ, gây bất lợi cho bản mệnh.
Hành của mệnh sinh hành Thiên mã. Thí dụ: tuổi canh Tý mệnh Thổ sử dụng xe màu trắng, vất vả vì xe cộ, có thể là dù xe mới, sửa cái nọ theo ý của mình, và có khi là cứ hay hư hỏng lung tung khiến mình nhọc sức với nó.
Hành của mệnh khắc hành Thiên Mã. Thí dụ: canh Tý mệnh thổ sử dụng xe màu đen hay nâu thuộc thủy bị thổ khắc, dễ hư hỏng, dễ gây tai nạn, nhưng bản thân không việc gì.
22. Muốn biết tổng quát đặc tính một người qua chính tinh thì căn cứ vào đâu?
Bộ: Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương thì bản tính hiền và hiếu thảo.
Bộ: Nhật Nguyệt thì thông minh mà tình cảm lai láng.
Bộ: Sát Phá Tham thì nóng nảy mà dâm dục
Các Lục Sát Tình thì tính khí hỉ nộ bất thường, lúc vui lúc giận không định trước được.
23. Muốn xem số phái nữ khi nào bị tai nạn về "trinh tiết" khi căn cứ thế nào?
Trước hết bất cứ là lá số phụ nữ nào khi cung quan lộc hay cung Thân có Tuần hay Triệt, bất luận về yếu sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái trước khi về nhà chồng.
Các lá số phụ nữ có các sao thuộc về dâm tinh thủ mệnh như Tham Lang, Thai, Ðào Riêu, Cự Ky. Xương, Khúc, Cái Mộc, thì trong trừơng hợp này không coi là 1 tai họa, mà còn được họ coi là tự nhiên, 1 nhu cầu hay 1 sở thích, không đặt vấn đề luân lý đạo đức.
Trường hợp được coi là tai họa khi ở mệnh hay hạn có các sao: Thai, phục gặp Kiếp, Không, chỉ sự bạo hành, cưỡng bức. Kinh nghiêm cho thấy hầu hết các lá số bị tai nạn tập thể do hải tặc Thái Lan đều thấy có Ðào Hồng gặp Hình Riêu Không Kiếp, Cự Môn và Hóa Kỵ, hay Tham lang hóa Kỵ chủ sự tình ngang trái mà sự thiệt thòi về phần phái nữ. Thai, Hình, Tang, Hổ: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, nghĩa là người con gái sau khi bị bạo hành sẽ bị giết chết. Ý nghĩa của sao Thai khi đi chung với các sao dâm dục khác còn mang ý nghĩa có thai của phụ nữ.
24. Những sao nào không có lợi cho việc hôn nhân?
Khi tọa thư hoặc hội chiếu vào cung phu thê thì các sao ngăn trở làm cho gia đạo bất hòa gồm có:
Hóa Kỵ: chỉ về cái lưỡi, khích bác chê bai.
Cự Môn: chủ về cái mồm.
Thiên Không: cuộc hôn nhân bất thành.
Thiên Hình: gay go và hay gặp trở ngại bất ngờ.
Khốc Hư Tang Hổ: chỉ cần gặp 1 trong 4 sao này cũng đã thấy có sự khó khăn.
Ngoài ra còn phải kể đến các sao như Thất Sát, Phá Quân, Cô Thần, Quả Tú, Tuần Triệt, nhất là cung thế có thiên mã gặp tuần, triệt là số vợ bỏ.
Tuần Triệt ngộ mã Hành thê vi vợ bỏ Chồng đào tỵ tha hương.
25. Tại sao có lá số Mã ngộ Khốc khách mà lại nghèo, công danh thất bại?
Mã là Ngựa, Khốc Khách là tiếng nhạc ngựa đeo, khi ngựa chạy thì nhạc rung mà phát ra tiếng, như ng ngựa có no thì mới chạy được ví như xe của ta ngày nay phải có nhiên liệu cho xe ta phải cótiền, một chiếc xe hết xăng, mà trong túi ta lại không có lấy 1 xu, thì chiếc xe lúc ấy trở thành vô dụng.
Bởi vậy muốn được hưởng Mã ngộ khốc khách cho đúng cách thì tam hợp với khốc khách Mã phải có Lộc tồn, tùy theo ở mệnh hay ở hạn, mã sẽ được hưởng lâu dài hay ngắn hạn.
Mã Khốc Khách mà không có Lộc Tồn là tiếng rên của ngựa chết đói.
26. Muốn biết về hình thương bệnh tật của 1 người thì căn cứ vào yếu tố nào?
Trước hết nên căn cứ vào mục các sao biểu tượng cho các phần trong cơ thể.
Sau đó tùy ở cung mệnh, cung hạn, cung ách, phối hợp với các sao lục sát tinh Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp mà luận.
Thí dụ: một người ở cung ách có kình dương ngộ Riêu Y, Cô Quả, Ðào Hồng, Kình Dương chủ bộ phận sinh dục, Cô Quả chỉ một mình, Đào Riêu chỉ sự dâm dục, như thế là người ấy sẽ mắc tật dâm dục kín. Nếu cung mệnh không có những sao cứu giải như Nguyệt Đức, sao lý trí mạnh như Thiên Hình, Thái Tuế - thông thường theo kinh nghiệm thì:
Bộ Sát Phá Tham và bộ Lục Sát, Thiên Hình hay gây ra các tai nạn về ngoại thương.
Bộ Nhật Nguyệt gặp Hình, Kỵ, Đà, Kình, Hỏa, Linh gây các bệnh thuộc về mắt và hệ tim mạch, có Nhật, Nguyệt thủ mệnh thì ngoài các đặc tính tốt lành, nhưng bao giờ cũng bị yếu, thần kinh dễ nhạy bén, hay dễ căng thẳng.
Bộ Cự Kỵ Thái Tuế thì hay gây vạ miệng.
Bộ Từ Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Ðồng Lương hay gây bệnh nội thương.
Hỏa Linh gặp Hao hay mệnh có Hao giáp Hỏa Linh thì bị nghiện, thường là ma túy.
27. Tại sao hầu hết các sách và kinh nghiệm cho thấy hạn Ðào Hồng Hỉ khi đắc tài danh có tình duyên, lợi cho thi cử mà khi người già hạn gặp đào hồng thì lại nguy đến tính mạng?
Nhớ lại cách xếp đặt của các tinh đẩu: Ðào hoa luôn luôn cứ ở tứ chính tức là 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu và phối hợp với Thiên Không, Lưu hà, Kiếp Sát, gọi là Thiên Hà Địa Sát.
Thí dụ: người tuổi canh Tý thì Ðào Hoa ở Dậu Thiên Không ở Sửu, Kiếp Sát ở Tỵ, một Kiếp Sát cũng đủ làm mưa làm gió; ở một số tuổi lại gặp cả Lưu Hà. Người còn trẻ thì các sao còn vượng với bản thân, Đào Hồng chính là trợ tinh cho các sao tốt nên công thành danh toại. Nhưng người già, sức tàn lực kém, ví như bông hoa đào tàn úa lung lay trước gió, thần lưỡi hái là kiếp sát chỉ ra tay nhẹ cũng đủ hồn qui tiên cảnh.
Lấy trường hợp điển hình:
a. Số cụ Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) chết năm Ất Mão 1967. Lưu hạn năm Mão ở cung Dậu có Đào Hoa ở chính cung có Thiên Không, Kiếp Sát ở Tỵ. b. Lá số Ngọc Hân công chúa sinh năm canh Dần 1770 chết năm 1803 ở cung Mùi có Đào Hoa, Thiên Không ở mão, Kiếp Sát ở hợi.
28. Tại sao ở trên đời thấy có nhiều cảnh, con người lại phải chết đang lúc công danh, tiền bạc, tình duyên lên, danh tiếng lẫy lừng?
Trong phú Tử Vi có câu: Hung tinh đắc địa phát dã như lôi. Cát tinh nhập miếu trầm trầm sự nghiệp.
Bản tính của các cát tinh cư nơi miếu địa đều chủ phúc lộc nhưng sự nghiệp cứ từng bước phát dần dần, còn tính chất của các hung, Sát Phá Liêm Tham và bộ lục sát Kình, Đà, Hỏa, Linh Không Kiếp, nếu đắc địa sẽ phát rất nhanh, những tính chất của hung tinh, là bạo phát cho nên thực tế, hầu hết giới nhà binh nhưng người được thăng cấp quá nhanh, các cấp chỉ huy quá trẻ đều được lên bàn thờ sớm.
29. Theo như kinh nghiệm cụ Thiên Lương cho biết, người nào đến hạn Thái Tuế thì nếu đang tai nạn cũng được khởi đều được công thành danh toại. Nhất là ở những người có mệnh ở thế tam hợp Thái Tuế, đáo đại hạn cũng vào cung tam hợp Thái Tuế, thì cũng có danh ở đời nhưng tôi, thấy có người đang ở hạn Thái Tuế mà lại chết là sao?
Có người đáo vận tam hợp tuổi (tam hợp Thái Tuế ) mà vẫn chết vì gặp quá nhiều sao hung ác, lại khắc hành bản mệnh nên phải chết.
Nhưng theo quy luật người ấy chưa hưởng hết hạn Thái Tuế mà đã phải chết nên dường như sự bù trừ vô hình đã dành cho họ được lưu danh với hậu thế, hầu hết cái chết của những người đang ở vào thời kỳ đại hạn nằm trong tam hợp tuổi đều có cái chết đặc biệt mà người đương thời và thời sau đều biết đến nhớ tiếc.
Thí dụ:
Ðức Khổng Tử tuổi Canh Tuất chết ở đại hạn cung Ngọ (73).
Hạng Võ tuổi Ðinh Mão chết ở đại hạn cung Mão (32).
Một số phần nội dung bài viết đã được lập trình vào trong Hệ Thống Giải Đoán Lá Số Tử vi Xem Tướng. Bạn đọc có thể truy cập vào: ## để lấy lá số
(lưu ý nhập ngày tháng năm và giờ sinh là âm lịch) sau đó căn cứu vào lời gợi ý giải đoán để tự tìm hiểu bản thân và tìm ra một cách ứng xử phù hợp với cuộc đời.
Vai trò tộc trưởng xưa và nay khác nhau như thế nào ?
Ngày xưa việc họ là cứ vào tộc trưởng. Họ lớn có tộc trưởng họ lớn; các chi có trưởng chi . Tộc trưởng có quyền lợi, nghĩa vụ rõ ràng. Ruộng hương hoả và tự điền có nhiều thì lễ to, nhà thờ họ lớn, tế khí đầy đủ và ngược lại. Khi vào tế lễ, tộc trưởng đầu còn trẻ tuổi vẫn là chủ tế, các ông chú dẫu cao tuổi vẫn là bồi tế. Nếu nhỏ quá thì một ông chú kế trưởng thay thế, cũng như ông vua trẻ chưa thành niên có phụ chính đại thần.
Thời nay ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn ruộng hương hoả, không còn chế độ thu tô như trước, quyền lợi của tộc trưởng hoặc người thay tộc trưởng, đối với tổ tiên và họ hàng cũng tuỳ thuộc vào nhận thức; tâm tư, trình độ hiểu biết, hoàn cảnh sinh sống của từng người, không có một chế độ quy định nào ràng buộc. Có nhiều họ, tộc trưởng ngụ cư hoặc không thoát ly công tác ở phương xa cũng không giao (hoặc không giao được) việc họ cho ai. Trong hoàn cảnh đó, việc hương khói tế tự tổ tiên và quan hệ họ hàng bị phế khoáng.
Thể theo nguyện vọng, tâm tư, tình cảm "Uống nước nhớ nguồn", ngày giỗ ngày tết con cháu muốn dâng lên Tổ tiên bát nước, nén hương. Để bổ cứu tình trạng trên nhiều họ đã có sáng kiến thành lập một hội đồng gồm những người có uy tín, nhiệt tình trong họ để chăm lo việc họ. Chưa có một văn bản hay có một tiền lệ nào qui định đó là ban nghi lễ. là hội đồng gia tộc hay hội đồng tộc biểu ...
Trước mắt, họ nào mạnh hay yếu, thành đạt hay suy vi, tình cảm họ hàng gắn bó hay không, tác động tốt xấu tới phong trào chung, còn tuỳ thuộc vào nhiệt tình, khả năng tổ chức lãnh đạo của một số cá nhân, đóng vai trò chủ chốt, chứ chưa có một cơ chế nào bảo đảm sự bền vững lâu dài.
Trong thời kỳ kháng chiến con cháu tản mác, nhiều họ bị phế khoáng không còn cơ sở vật chất để chăm lo từ đường hương hoả. Từ sau hoà bình, thống nhất đất nước, một số họ được khôi phục nhưng vì " Duy ý chí ", nên phong trào loé lên một thời gian ngắn rồi lụi dần. Không còn ruộng hương hoả của tổ tiên để lại thì con cháu đóng góp tiền gửi vào quỹ tích kiệm để lẫy lai hàng năm mà lo hương khói. Nhưng rồi do trượt giá, một vài yếu tố khách quan nữa tác động, hương khói cũng nguôi dần. Đó là nỗi lòng trăn trở nhất của những con cháu muốn kế tục sự nghiệp cha ông, muốn làm cho anh linh tổ tiên, cha ông, muốn cho dòng họ ngày càng thành đạt.
Mơ thấy diễn viên xiếc: Gan dạ và có tính sáng tạo –
Biểu diễn xiếc là một nghề khá nguy hiểm, mơ thấy diễn viên xiếc tượng trưng cho tinh thần gan dạ và đầy tính sáng tạo của người nằm mơ. Ý tưởng của họ trong kế hoạch công tác và học tập luôn vượt trội hơn người, thường bị những kẻ nhát gan ph
Kình Dương, Đà La trong khoa Tử Vi là hai sát tinh đi đôi như Linh Hỏa, cùng với Linh Hỏa thành bộ “tứ sát”. Nhưng Kình Đà có nhiều khác biệt với Hỏa Linh. Hỏa Linh mang đến phiền nhiễu, Kình Đà đem lại tổn thất.
Khi hội tụ đủ bộ tứ sát lại đoán khác và gặp Địa Không Địa Kiếp lại đoán khác. Kình Dương hóa khí là “Hình”, Đà La hoá khí là “Kỵ”. Hình từ Kình Dương biểu hiện sự phá hoại lực, có thể gây ra thất bại, có thể gây ra thị phi sau khi đã thành công. Kỵ từ Đà La biểu hiện ngăn trở trì trệ, có thể tạo nên những khó khăn bất ngờ, có thể khiến cho đương sự vào mê hồn trận. Phá hoại lực của Kình Dương thường rõ ràng dễ nhận thấy. Ngăn trở trì trệ của Đà La thường ngấm ngầm quỷ quyệt.
Kình Dương phá hãm ví như một chân tiểu nhân. Đà La phá hãm ví như ngụy quân tử. Bởi vậy khi Kình Dương hội Hỏa Tinh gây thành sức mạnh phản kháng như cách “Mã đầu đới tiễn” nơi cung Ngọ, vượt qua những khó khăn gian tân mà đến với thành công.
Nhưng nếu Đà La hội với Hỏa Tinh lại thành ra thứ trở ngại không vượt được rồi thất bại. Hung họa đến từ Kình Đà xem như thế còn tùy thuộc vị trí chúng đứng và hội tụ với sao nào để mà tìm ra đầy đủ ý nghĩa.
Kình Dương là một tình trạng phát triển thái quá. Còn mang tên gọi khác là “dương nhẫn” đầu mũi gươm xung kích tiền phong. Kình Dương vào Mệnh làm việc xông xáo, không do dự, đã quyết thì làm. Sở đoản của Kình Dương là khó tiếp thụ ý kiến người khác, hiếu thắng, cao ngạo, ăn nói sắc nhọn dễ gây thù oán. Khuynh hướng cực đoan, tình cảm yêu với hận rõ ràng ân với oán phân minh.
Đà La ngược lại, làm việc âm thầm, gan góc, tiến chậm nhưng không ngừng tiến, không vội vã nhưng không phải không có phản ứng mau. Thường nuốt để bụng và cực kỳ cố chấp, khả năng nhẫn nại cao.
Đến đây ta hãy bàn về vị trí của sao Kình Dương. Kình Dương bao giờ cũng đứng trước Lộc Tồn gọi bằng Tiền Kình Hậu Đà. Không thể đặt ngược vị trí của nó thành Tiền đà Hậu Kình.
Như trên đã nói Dương nhẫn là một tình trạng phát triển cao độ. Giáp Lộc đóng Dần thì sự phát trểin cao độ của Giáp Mộc phải vào mộc cung là Mão. Bính Hỏa Lộc tại Tỵ thì tình trạng phát triển mạnh cũng phải ở nơi cung hỏa Dương nhẫn tất phải đóng Ngọ.
Ất mộc Lộc tại Mão thì dương nhẫn Thìn là thủy mộc khố. Đinh Kỷ Lộc ở Ngọ thì Dương nhẫn đóng Mùi hỏa khố. Tân kim Lộc tại Dậu thì Dương nhẫn đóng Tuất kim khố…
Sách Tinh Bình Hội Hải viết “Giáp Lộc đáo Dần, Mão vi Dương nhẫn, Ất Lộc đáo Mão, Thìn vi Dương nhẫn…” Lộc tiền nhất vi vi “Nhẫn” vi vạn vật chi lý giai ố cực thịnh. Lộc quá Nhẫn sinh công thành đương thoái, bật thoái tắc quá việt kỳ nhân (Nghĩa là trước Lộc Tồn một cung là Dương nhẫn bởi lẽ cái lý của vạn vật không thuận được với tình trạng thái qua, Lộc lên cực điểm thành hoại, công thành rồi hay từ tồn lại, cứ tiếp tục quá khích tất sẽ bại.
Ở số Tử Bình không có sao Đà La, nhưng Dương nhẫn rất quan trọng. Tử vi căn cứ vào lý luận trên, không cách gì mà đổi ra tiền Đà hậu Kình, đổi như vậy lý ngũ hành mất đất đứng.
Lấy trường hợp tuổi Bính Mậu có Đồng Âm tọa thủ tại Mệnh, Đồng Âm ấy được Kình Dương mới hay, nếu như lại sao Đà La nằm chềnh ềch ở đây thật khôi hài. Câu phú Thiên Đồng Thái Âm cư Ngọ vị, Bính Mậu trấn ngự biên cương. Phải tiền Kình tuổi Bính Mậu mới có Dương nhẫn tại Ngọ được.
Kình Dương đắc địa thủ Mệnh thân tài chắc chắn, xương lớn nhưng không lộ cốt. Kình Dương hãm thân tài gầy guộc xương lộ da như cam sành. Kình Dương hợp với các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) vì mộ cung có khả năng thuần hóa được tính phát triển quá mức dủa sao này. Kình dương ở mộ tuy đắc địa nhưng vẫn phải có cuộc đời phiêu lưu bôn ba ly hương và xa cách người thân.
Kình Dương đóng vào tứ bại địa (Tí Ngọ Mão Dậu) nếu không kết hợp thành một cách riêng biệt như hội hợp với Đồng Âm, tính chất hình khắc nặng hơn, đáng ngại nhất là Dậu rồi đến Mão.
Riêng với nữ Mệnh có Kình Dương dù miếu địa cũng phải xem là “mỹ trung bất túc” vì nữ mệnh đều an định êm đềm trong đời là chủ yếu. Kình Dương gặp Nhật Nguyệt trai khắc vợ, gái khắc chồng. Kình Dương gặp Liêm Trinh Hỏa Tinh ắt có ám tật hoặc tứ chi bị thương.
Sách vở Trung Quốc có mấy câu đáng để ta suy ngẩm: Thiên Tứơng hãm phùng Dương Mẫn, nữ nhân thi lụy nghĩa là nam mạng Thiên Tướng đóng hãm địa gặp sao Kình Dương thường bị đàn bà làm khổ (vì tình mà khổ). Hồng Loan Dương Nhẫn vì tình đoạn trường nghĩa là số gái Hồng Loan gặp Kình Dương dễ đi vào cảnh buồn đoạn trường vì tình.
Đà La thủ Mệnh biểu hiện qua đôi mắt lớn, lồi, đắc địa ánh mắt từ tường, hãm ánh mắt mờ đục, răng dễ bị hư nếu vào hãm địa. Đà La đắc địa ở các cung mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) làm việc giỏi dắn, dám làm và thành công. Đà La hãm nơi Dần Thân Tỵ Hợi tính giảo quyệt ưa phá hoại, cô đơn. Đà đắc địa tứ mộ can đảm thâm trầm, lắm mưu mô thủ đoạn.
Đà la gặp Riêu Cái Tuế ở Mệnh có tật nói ngọng, nóilắp. Đà hãm gặp Linh hỏa Không Kiếp Kỵ Hình, đau yếu tật nguyền dễ lâm vào cùng khốn.
Đà La Kình Dương hội Thất Sát thường gặp tai hoạ lớn. Đà gặp Thiên hình ở vận hạn đưa đến kiện tụng, ẩu đả. Đà gặp Hỏa ở vận hạn đau ốm. Đà gặp Thiên Mã tại Mệnh rất không ngoan nhưng cũng rất mưu mô.
Đà La Sửu Mùi tốt nhất, thứ đến Mùi, Thìn vượng địa, Tuất bình hòa. Đà La hội với Tham Lang dễ biến thành con người ham mê chơi bời rượu chè.
Đà La gặp Hỏa Tinh hay bị thương tật hoặc bệnh lâu không khỏi. Đà La Mệnh, Kình Dương Thân thì hình khắc dữ dội hơn nữa.
Đà La vào Tật ách có bệnh phổi, xuất huyết ở phổi, mặt có sẹo, tê thấp, bệnh ngứa làm lột da. Kình Đà vào cung Tật ách của số nữ phải để phòng bệnh bướu tử cung đưa đến giải phẩu.
Kình với Đà kể về mặt hung họa tác hại ngang nhau. Nhưng với Kình thì rõ rệt, mọi người có thể biết. Còn với Đà La thì ngấm ngầm ít ai hay. Đó là điểm khác biệt giữa Kình với Đà cũng như “Hỏa Minh Linh Ám” vậy.
Đà La đứng bên Tham Lang khi Tham Lang ở cách ‘phiếm thủy đào hoa” tức Tham Lang đóng Hợi có thể đưa đến tình trạng “mê hoa luyến tửu dĩ vong nhân” chết vì trác táng do nghèo hay bệnh.
Đà La đứng với Tham Lang ở Dần cách gọi bằng “phong lưu thái trượng” lại là con người hào hoa phong nhã dễ bị lừa gạt bởi đam mê, không trác táng. Cách “phiếm thủy đào hoa” với “phong lưu thái trượng” khác nhau như vậy.
Kình Đà có một cách nhất định gây họa hại, ấy là khi Lộc Tồn đứng với hóa Kị, đương nhiên Kình Đà hiệp Mệnh, cổ nhân gọi bằng cách Kình Đà hiệp Kị. Cách này đưa đến cái họa bần bệnh giao gia (vì bệnh tật mà nghèo túng, đã nghèo túng còn bệnh tật). Sao Lộc Tồn đứng với Hóa Kị như thế thật xấu.
Kình Đà cũng không hợp với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc, nhưng Kình Đà mà hiệp sao Thiên Tướng hạm thì họa hại mạnh hơn hết. Cách Tham Hỏa là cách tốt nhưng có Đà Kình vào hỏng đi.
Cự Môn Kình Dương không hại lắm, hể có thêm Hỏa Tinh vào thì phiền. Nhưng Kình đắc địa đứng với Hỏa lại hay.
Ngoài ra không phải cứ thấy Kình Đà xuất hiện là tuyệt đối xấu. Kình Đà hung hiểm nhưng mặt khác nó cũng tạo nên điều cát lợi mạnh mẽ không kém.
Đà La đứng với sao Thái Âm tại Mệnh, số nữ tính dục cực vượng thịnh đến mức loại dâm bất kể Thái Âm đắc địa hay hãm địa. Trường hợp hãm thì loạn kèm theo tiện, trường hợp đắc sang trọng phong lưu.
Có một thuyết cho rằng Kình Dương tượng trưng bộ sinh thực khí của đàn ông và Đà La tượng trưng bộ sinh thực khí của đàn bà. Từ thuyết này mà Thái Âm Đà La mới loạn dâm, ý chí sức mạnh tình dục lên đến cực điểm. Cổ nhân không nhắc đến sự kiện Kình Dương gặp sao nào thì sức mạnh tình dục vượng, dĩ nhiên không phải là Thái Dương rồi.
Qua kinh nghiệm cho thấy Kình Đà vào Mệnh cung thường là con người thông minh. Kình Đà đi cùng Xương Khúc khiến cho cái chất văn của Xương Khúc tăng lên gấp bội. Như vậy thì Kình Đà liên quan tới sức mạnh tình dục là đúng.
Qua phân tâm học của Frued thì sức mạnh tình dục (pulsion sexuelle) đưa lên cao thành văn chương, đẩy xuống thấp thành trác táng, truy hoan. Đà La đứng cùng Thiên Hình Đào Hoa vì tình mà mang họa cũng là bởi sự liên quan đến tình dục nói trên.
Kình Đà còn một cách cục khác mà sách Tử Vi Đẩu Số không nói riêng ra là: Kình Dương độc thủ và Đà La độc thủ. Mệnh không có chính tinh (mệnh vô chính diệu) có Đà Kình tọa thủ là Kình Đà độc thủ.
Kình Dương độc thủ có thể ở Tí Ngọ Mão Dậu có thể ở Thìn Tuất Sửu Mùi. Kình Dương độc thủ chỉ tốt khi nó đứng ở Thìn Tuất Sửu Mùi và Sửu Mùi đẹp hơn Thìn Tuất, còn Tí Ngọ Mão Dậu kể là xấu gây hung họa.
Kình Dương độc thủ vào số trai hợp cách hơn số nữ. Đà La độc thủ vào số nữ hợp cách hơn số trai. Tuy nhiên số nữ mà Kình Đà độc thủ theo quan niệm của người xưa đều không coi như một cách cục tốt đẹp. Thời bây giờ thân phận nữ đã khác đi nhiều thì Đà La độc thủ được kể như cách cục hay nhưng không xem là tốt .
Tại sao hay mà không tốt? Hay chỉ khả năng giỏi dắn, thành công khi toan tính việc gì. Nhưng không tốt vì cuộc sống bôn ba thăng trầm gay go quyết liệt, thiếu an định êm đềm. Kình Dương độc thủ với nam mạng hễ đã thành công lớn vượt thiên hạ, nhưng lúc chưa đạt vất vả và gian lao cũng dữ dội. Kình Dương độc thủ vào binh nghiệp, kinh doanh lớn, chính trị để sáng tạo sự nghiệp.
Đà La độc thủ với nam mạng đắc địa sự thành công thường không qua chánh đạo mà hễ đã bại thì xuống đến tận cùng, cơ sự nghiệp mất, thanh danh cũng tiêu luôn. Trong khi Kình Dương độc thủ có bại vẫn giữ được danh thơm.
Số nữ Đà La độc thủ đắc địa có thể thành công to, nhưng tình duyên dang dở, bất mãn và luôn luôn là con người cô đơn vì quá giảo quyệt nên bị xa lánh. Đà La độc thủ chỉ tốt khi đứng cung Thìn Tuất Sửu Mùi, độc thủ Dần Thân Tỵ Hợi kể như xấu.
Những câu phú về Kình Dương Đà La:
- Kình Dương cư Tí Ngọ Mão Dậu hãm địa, tác họa hưng ương hình khắc thậm (Kình Dương đóng Tí Ngọ Mão Dậu gây ra tai họa hình khắc)
- Kình Dương nhập miếu gia cát, phú quí thanh dương (Kình Dương miếu địa gặp cát tinh, giàu sang dương thanh)
- Kình Dương Hỏa Tinh hãm vi hạ cách (Kình Dương đứng cùng Hỏa Tinh ở hãm địa là hạ cách)
- Kình Dương thủ mệnh, Thất Sát Phá Quân xung chủ hình khắc
- Dương Đà Hỏa Linh phùng cát phát, hung tắc kị (Dương Đà Hỏa Linh với cát tinh phấn phát thêm hung tinh rất xấu) - Kình Dương đối thủ tại Dậu cung, tuế điệt Dương Đà Canh mệnh hung (Kình Dương đóng Thiên Di, gặp hạn lưu Kình Đà người tuổi Canh nguy biến)
- Dương Đà hiệp Kị vi bại cục (Kình Dương Đà La hiệp Hóa Kị là cách thất bại)
- Kình Dương trùng phùng lưu niên, Tây Thi vẫn mệnh (Kình Dương mệnh gặp lưu niên hạn Kình Dương Tây Thi uổng mạng)
- Dương cư Đoài Chấn, lục Mậu lục Giáp phúc nan toàn (Kình Dương xung chiếu Mệnh tư Dậu hoặc Mão, người tuổi Mậu Giáp cuộc đời lắm tai ương)
- Kình Dương gặp Âm Đồng (Tí hay Ngọ) thêm Phượng Các, Giải Thần uy danh lừng lẫy
- Dương Đà Quan Phủ ư hãm địa loạn thuyết chi nhân (Mệnh có Kình Đà hãm địa đứng bên Quan Phủ ưa nói bậy, nói quá kỳ thực, nói lung tung)
- Đà Không lâm thủ Điền Tài Luận rằng số ấy sinh lai nghèo hèn
- Dương Nhẫn phùng Tuyệt Linh chốn hãm Công cù lao bú mớm như không (Cung Tử Tức có Tuyệt Linh Tinh và Dương Nhẫn, khó nuôi con, hoặc con cái có cũng bằng không)
- Kình Riêu Hoa Cái Thai Đà Vận phùng năm ấy đậu hoa phải phòng
- Tứ hung ngộ quí nơi Thân Dậu Đến Phật Đài cầu đảo mới xong (Vận đến Dậu Kình Đà Hỏa Linh gặp Tử Vi, Thiên Phủ phải làm việc thiện để mà tránh tai họa)
- Đào Hồng mặt mũi xinh tươi Kỵ, Hình, Đà, Nhẫn là người tật thương
- Thái Dương đóng chốn thủy cung Gặp Kình hay Kỵ yểu vong hoặc mù (Thái Dương ở Hợi Tí Kị Hình. Theo kinh nghiệm thì chỉ bị tật ở mắt, mắt kéo màng, chứ không phải yểu vong với mù)
- Hỏa Dương Tham Tướng Tị cung Hoặc là tứ mộ nổi danh tướng tài
- Sát Phá Liêm Tham lâm vào Kình Đà Kị ấy trách nào bạo hung
- Ngọ cung tam Hóa hợp Kình Người sinh Bính Mậu biên đình nổi danh
- Dương Linh thủ Mệnh mấy ai Lại gặp Bạch Hổ họa tai đao hình
- Kị Đà Thái Tuế họp bài Cảnh đời nào được mấy người thong dong
- Tuế Đà Cự Kị vận nghèo Một thân xuống thác lên đèo chẳng yên
- Kiếp Không Hình Kị Đà Dương Gian nan bệnh tật mọi đường khảm kha.
- Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày
- Hình Kình cư Ngọ đồng gia Sát Kiếp lại chiếu ắt là ngục trung
- Thìn Tuất Thất Sát xem qua Hình Kình hội ngộ ắt là đảo điên
- Nguyệt hãm Đà Hổ Tuế xung Hại thay điềm mẹ thoát vòng trần gian
- Dương Đà Thất Sát phải hay Chiếu thủ Thân Mệnh tháng ngày khổ đau (Tâm tư không mấy vui, bi quan)
- Mấy người đông tẩu tây trì Phá Quân Thiên Việt hợp về Kình Dương
- Thất Sát hãm thật đáng kinh Vận niên gặp phải lưu Kình sợ thay
- Kỵ Liêm Phá Vũ xấu xa Giáp cùng Không Kiếp Kình Đà sao nên
- Hóa Kị thi rớt lắm khi Dương phùng Kiếp Sát học gì cho xong
- Đà Tham tửu sắc la đà. Tuế Đà miệng lưỡi ắt là sai ngoa (Đà La Tham Lang vào Thê ăn chơi. Tuế Đà vào Thê cung vợ chua ngoa)
- Dương Đà Kỵ Nhật Nguyệt xung Chim cưu thói ấy vợ chồng chán nhau (Dương Đà Kị vào cung Phối vợ chồng khó ăn ở trọn vẹn)
- Kình Dương mà gặp Thiên Hư Hữu sinh vô dưỡng âu lo một đời (Kình Dương Thiên Hư ở cung tử tức)
- Kình Đà Không Kiếp Khốc Hư Sinh con điếc lác ngẩn ngơ thêm buồn
- Đà Không nghèo khó tai ương Lưỡng hao tài tán bốn phương thêm phiền (Đà La Thiên Không ở cung Tài Bạch)
- Đà La độc thủ tốt sao Phúc cung chánh diệu đệ bào tiệm hưng (Đà La độc thủ ở cung Huynh Đệ không bị các hung sát tinh khác)
- Đà La Không Kiếp án ngăn Đẹp gì trong họ ắt rằng suy hao Hỏa Linh hình khắc cô đơn Kình Đà cha mẹ cùng con bất đồng (Kình Đà đóng vào cung Phụ Mẫu mà là Kình Đà hãm địa)
- Kình Dương Tham Lang đồng cung tại Ngọ thủ mệnh uy chấn biên cương (Kình Tham đóng Ngọ có quyền có thế)
- Kình Dương Nhật Nguyệt đồng cung nam khắc thê nhi nữ khắc phu (Kình Dương đứng cùng Thái Âm Thái Dương, trai khắc vợ gái khắc chồng)
- Kình Dương Mão Dậu thủ Mệnh yểu triết hình thương (Mệnh đóng Dậu Mão có Kình Dương thủ hay bị tai nạn)
- Kình Dương thủ mệnh, Hóa Kị Kiếp Không xung phá ly tổ khắc thân (Kình Dương thủ Mệnh nơi đất hãm gặp Kị Hỏa Linh xung phá lưu lạc cô đơn)
- Kình Đà Linh Hỏa phùng cát phát tài, hung tắc kị (Kình Đà Linh Hỏa đắc địa, gặp sao tốt thì phát bị hung lại kém hay)
- Kình Dương trùng phùng lưu niên hung (Kình Dương ở đại hạn, lưu niên gặp Kình Dương là hung)
- Đà La hội Nhật Nguyệt Kị tinh nam nữ đa khắc, hữu mục tật (Đà La đứng với Hóa Kị và Nhật Nguyệt khắc vợ khắc chồng, bị tật nơi mắt)
- Đà La hãm hội Cự Môn Thất Sát hình khắc lục thân (Đà La đóng hãm cung gặp Cự Môn Thất Sát khó gần người thân)
"Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà" - không phải ngẫu nhiên mà dân gian lại truyền miệng câu ca dao này. Thật ra, theo quan điểm của nhân tướng học, hình dáng miệng cũng nói lên được rất nhiều điều về cuộc đời của một con người.
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Miệng là cơ quan tiếp nhận vật chất nuôi cơ thể, chuyện thị phi cũng từ đây mà ra. Hình dạng của môi sẽ tiết lộ tính cách hay dở của con người. "Đàn ông miệng rộng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà" - không phải ngẫu nhiên mà dân gian lại truyền miệng câu ca dao này. Thật ra, theo quan điểm của nhân tướng học thì hình dáng miệng, xem tướng đôi môi cũng nói lên được rất nhiều điều về cuộc đời của một con người.
Theo quan điểm của nhiều nhà nhân tướng học, hình dáng miệng có thể giúp báo hiệu được nhiều điều về số phận hay tài vận của con người. Dưới đây là một số quan niệm được truyền miệng trong dân gian:
- Miệng vuông vắn, to rộng, có góc cạnh, báo hiệu là người sẽ có cuộc sống trường thọ.
- Hình dáng miệng giống như chiếc cung là tướng cách của người có số phú quý.
- Miệng rộng, môi dày, báo hiệu là người giàu có, phúc đức.
- Miệng thẳng mà không lệch, môi dày là tướng của người không sợ thiếu thốn cơm áo gạo tiền.
- Miệng vuông hình chữ “tứ”, báo hiệu là người giàu có.
- Miệng nhọn lại cong, lệch lại mỏng là tướng của người bần hàn.
- Miệng không nói mà tự mở, lại có hình dáng giống như miệng ngựa là dấu hiệu của người có số phận nghèo khổ.
- Miệng nhọn như miệng chuột là tướng của những người hay đố kỵ, thích gièm pha, phỉ báng người khác.
- Miệng có dáng chúm lại giống như đang thổi lửa là tướng của những người cô độc.
- Sắc môi tím đen một cách tự nhiên là tướng của những người có cuộc sống khốn khổ, vất vả.
- Môi trên to hơn môi dưới, báo hiệu là người hay nói xấu người khác.
- Môi dưới dày là tướng cách của người dễ tiêu tài tốn của.
- Răng lộ ra ngoài là tướng của những người có trình độ học vấn không cao, đoản thọ.
- Trên miệng có nốt ruồi đen, báo hiệu là người giàu có, cuộc sống sung túc, đầy đủ.
- Môi có màu đỏ nhạt là tướng của người no ấm, không sợ thiếu cơm ăn áo mặc.
- Miệng rộng là tướng cách của người làm quan tướng.
- Môi mềm mại, đầy đặn là người giàu tài lộc.
- Môi trên môi dưới tương xứng với nhau là người văn hay chữ tốt.
- Môi là thành quách của miệng, lưỡi là lưỡi dao của miệng. Thành quách phải dày, dao phải sắc, dày tức là không có vết lõm, sắc tức là không dễ cùn, đây chính là tướng quý của môi và lưỡi. Lưỡi phải đỏ mà không xuất hiện màu den, đỏ nhạt mà không được trắng. Lưỡi đỏ tươi như màu máu thì có số làm quan, được hưởng lộc. Lưỡi dài chấm tới mũi là tướng của bậc quý nhân. Trên lưỡi có đường vân dài, cũng là báo hiệu của người được sẽ có công danh rạng rỡ. Trên lưỡi có nhiều đường vân là tướng của người giàu có. Lưỡi lớn miệng nhỏ là người có số nghèo hèn lại đoản mệnh.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
- Lưỡi có sắc tía, xám đen cũng là chỉ dấu của người có số nghèo nàn, hay gặp chuyện nguy nan. Lưỡi thè ra có hình dáng giống lưỡi rắn là tướng của người độc ác, đoản thọ.
- Người có môi trên và môi dưới có nhiều đường vân đan xen vào nhau, báo hiệu là con cháu đầy nhà.
- Người có viền môi rõ nét là tướng của người nhân ái tín nghĩa.
- Người có sắc môi đỏ tươi như máu trong nhà dư dả tiền bạc, người có miệng chúm lại như kén tằm đại đa sô” là người nghèo hèn.
- Người có miệng giống như ngậm đan là người giỏi về một môn nghệ thuật nào đó. Trong sách xưa có viết: Nếu môi như đang ngậm đan phần đa là thiên về nghệ thuật.
- Miệng không cân xứng có nghĩa là 2 môi trên dưới không cân xứng vói nhau. Nếu 2 môi không khít nhau sẽ không hiển thị rõ khóe miệng. Người như vậy khi nói chuyện rất kiêu ngạo, tự cao tự đại, là người thiếu tín nghĩa.
- Phụ nữ nếu như hai môi khép lại mà răng vẫn lộ ra ngoài, báo hiệu có thể sẽ gặp khó khăn chuyện sinh nở. Môi dưới to chờm môi trên là tướng sát phu. Môi trên nhô ra chòm xuống môi dưới là tướng người xảo trá.
- Người có khóe miệng trễ xuống, nếu là phụ nữ thì là tướng rất bần hàn, không làm "phòng nhì" thì cũng là mệnh kẻ hầu người hạ.
- Môi thô, dày, sắc tía, nếu là nữ thì là tướng không chồng.
Hình dáng miệng cao quý phải có những đặc điểm sau:
- Các góc cạnh của miệng rõ ràng, khi ngậm lại miệng phải nhỏ, khi mở miệng thì phải rộng, môi trên và môi dưới có đường nét góc cạnh rõ ràng, khẩu hình giống chiếc cung; tức là phải có hình dáng giống như đang ngậm nước, miệng vuông như hình chữ “tứ”, thêm sắc miệng đỏ giống như ngậm chu sa. Người nào có tướng miệng như vậy tất sẽ là quý nhân.
Dù có đầy đủ những điều kiện nói trên nhưng môi lại mỏng thì cũng không phải là tướng quý. Người môi mỏng đại đa số là người thích tụ tập chốn đông người, ăn chơi nên công danh sự nghiệp không hiển hách.
Miệng mang lại họa phúc cho con người. Đặc biệt, có thể nói, họa phúc đều là do con người tự tạo nên, vì thế nói năng không được tùy tiện. Có câu nói rằng: Khi những lời lẽ không hay mà đã được nói ra thì sẽ mang đến tai họa.
Người trung hậu ít nói, sẽ tránh được việc phải nghe những lời khó chịu. Người có cát tướng là người không nói nhiều. Nếu như cẩn thận, ít nói thì sẽ tránh được nhiều chuyện không hay. Người ăn nói ngông cuồng, thích phỉ báng, nói xấu sau lưng người khác sẽ gặp nhiều tai họa.
>> Đã có VẬN HẠN 2016mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Trong năm mới Ất Mùi 2015, hướng tốt nhất đối với cửa chính là hướng Đông. Đây là hướng sẽ mang lại tài lộc dồi dào cho gia chủ trong năm nay. Năm 2015 còn có những hướng nào tốt nữa ?
Hướng Đông là hướng cửa may mắn nhất trong năm 2015
Phương hướng của cửa chính là một yếu tố vô cùng quan trọng trong bố cục nhà cửa. Thông thường cửa chính là nơi sát khí ra vào thường xuyên. Năm 2015, hướng cửa chính may mắn nhất là hướng chính Đông, đây cũng là hướng tài vận tương đối dồi dào. Các đồ dùng trong gia đình cũng có thể đặt theo hướng này.
Phòng khách
Ghế sofa tốt nhất nên đặt ở vị trí “tài” trong phòng khách
Phòng khách được cho là không gian vượng tài nhất trong nhà, vì thế cần bố trí phòng khách đúng phương vị. Theo phong thủy tài lộc, vị trí của ghế sofa trong phòng khách cũng quan trọng không kém. Ghế sofa tốt nhất nên đặt ở vị trí “tài” trong phòng khách để nâng cao may mắn, tiền tài và vận thế của chủ nhân.
- Nếu cửa của ngôi nhà thiết kế ở bên trái, thì tài vị nằm ở góc đối diện bên phải của cửa phòng khách.
- Nếu cửa ngôi nhà thiết kế ở bên phải thì tài vị nằm ở góc đối diện phía bên trái của cửa phòng khách.
- Nếu cửa của ngôi nhà thiết kế ở giữa thì tài vị nằm ở góc đối diện 2 bên.
Phòng bếp
Phòng bếp không nên đặt quá gần phòng ngủ và phòng khách
Vị trí của phòng bếp nên tránh xa các phòng may mắn như phòng ngủ và phòng khách. Trong bố cục nhà cửa, phòng bếp thường được đặt ở vị trí “hung”, bởi vì nếu đặt ở vị trí may mắn sẽ làm hỏng việc tiếp nhận khí tốt của gia đình. Phòng bếp cũng nên đặt một số linh vật phong thủy để ổn định từ trường, tránh sự ảnh hưởng của hung khí từ phòng bếp.
Phòng ngủ
Với phòng ngủ, ngoài việc lựa chọn vị trí tốt, cũng nên chọn hướng tốt hợp tuổi của cả hai vợ chồng. Nếu như đặt đúng phương hướng, tình cảm vợ chồng sẽ mặn nồng, gia đình hạnh phúc. Bên cạnh đó, tuyệt đối không bao giờ đặt phòng ngủ ở vị trí Đông Bắc vì đây là hướng không thuận lợi nhất cho vợ chồng sinh sống, sẽ phá hỏng cuộc sống gia đình, hơn nữa cũng dễ dẫn đến cãi vã.
(Theo Eva/Khám phá) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Những chàng trai tuổi Tý có tính cách hòa đồng, điềm đạm và dễ chia sẻ. Ngoài ra, họ còn có tấm lòng bao dung, rộng lượng với mọi người xung quanh, đặc biệt là người mình yêu quý. Do vậy, họ để lại ấn tượng vô cùng tốt đẹp trong lòng mọi người.
Hơn thế, người tuổi Tý có kỹ năng sống khéo léo và ý thức tiết kiệm cao độ nên thường trong trạng thái chủ động về chuyện tiền bạc, hiếm khi rơi vào tình trạng "tiền khô cháy túi".
Về phương diện tình cảm, các chàng trai tuổi này yêu một cách chân thành, đắm say và trân trọng từng khoảnh khắc của tình yêu. Bởi vậy, con giáp này xứng đáng là đối tượng để phái đẹp chọn làm người yêu nhất.
No2: Tuổi Mùi
Anh chàng tuổi Mùi trọng lễ nghi, có lòng hiếu thảo tuyệt vời, đồng thời tính tình ôn hòa, dễ mến. Trong mắt mọi người, chàng trai tuổi này như một cậu bé hồn nhiên, giản đơn và có lòng thương người vô bờ bến.
Nhưng khi tiếp cận sâu hơn về thế giới nội tâm của họ, mọi người lại thấy đây là một con giáp vô cùng bản lĩnh nhưng thích sự lãng mạn nhẹ nhàng. Họ sẽ trở thành một người chồng, người cha tốt trong tương lai. Cô gái nào có được anh chàng tuổi Mùi làm người yêu, hẳn sẽ rất hạnh phúc và hài lòng.
No3: Tuổi Sửu
Nói tới người tuổi Sửu, ấn tượng đầu tiên mà mọi người thường nhắc tới là sự chất phác, thật thà, tinh thần trách nhiệm cao. Trong công việc, họ luôn cần mẫn và nỗ lực không ngừng, nên dành được nhiều tình cảm ưu ái của đồng nghiệp và cấp trên.
Trong tình yêu, dù không chủ động nhưng những chàng trai tuổi Sửu lại âm thầm quan sát, chăm sóc và bảo vệ người mình yêu thương. Họ sẽ là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người yêu hoặc vợ tương lai.
No4: Tuổi Hợi
Tính tình ngay thẳng, cương trực và điềm tĩnh trong mọi tình huống giúp người tuổi Hợi đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. Đối diện với khó khăn, thách thức, họ không chút than vãn, kể khổ mà điềm đạm xử lý mọi chuyện một cách êm thấm và chu toàn.
Trong cuộc sống, chàng trai tuổi Hợi có rất nhiều bạn tốt, những người bạn này sẵn sàng đưa tay giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Có được điều đó cũng là do sự hài hòa và tốt bụng trong bản chất con người họ.
Đối với người mình yêu, các anh chàng tuổi Hợi luôn biết cách trân trọng, tạo sự lãng mạn bất ngờ và dành tình yêu trọn vẹn. Ở bên cạnh họ, bạn sẽ có cảm giác an toàn và tin cậy. Họ xứng đáng làm người yêu trọn đời của bạn đó nha.
No5: Tuổi Dần
Bản tính dũng cảm, thẳng thắn, tự tin và ngoan cường đối đầu với thách thức dường như đã ăn sâu vào con người tuổi Dần. Trong cuộc sống hay phương diện tình cảm, họ luôn nhất quán, nói được là làm được, không mấy khi thay đổi quan điểm hay lời hứa của mình. Một khi đã hứa, họ sẽ thực hiện cho bằng được mới chịu dừng lại.
Một cô gái nhu mì, hiền thục và chân thành sẽ là sự kết hợp ăn ý với chàng trai tuổi Dần. Họ sẽ là cặp đôi hoàn hảo xây dựng hạnh phúc gia đình lâu bền, đúng như câu nói: "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm".
Mr.Bull
Top 3 con giáp 'đuối' chuyện tỏ tình
Người tuổi Dần có lòng tự trọng quá cao lại thiếu yếu tố lãng mạn, nên khó lòng bày tỏ tình cảm một cách trơn tru, mạch lạc.
Chuyện phong thủy về đồng 1 đô hình bát quái của Singapore
Chuyện phong thủy Singapore vốn nhiều không đếm hết, bởi nước này có nhiều người Hoa. Nhưng ly kì và được đồn đại nhiều nhất là chuyện Thủ tướng Lý Quang Diệu
Chuyện phong thủy Singapore vốn nhiều không đếm hết, bởi nước này có nhiều người Hoa. Nhưng ly kì và được đồn đại nhiều nhất là chuyện Thủ tướng Lý Quang Diệu xây tàu điện ngầm trên lưng rồng.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác
Từ khi ông Lý Quang Diệu lên làm Thủ tướng, đất nước Singapore bắt đầu có những bước phát triển rất mạnh liên quan tới các chính sách quản lý đất nước. Nhu cầu xây dựng đường tàu điện ngầm ngày một cấp thiết. Nhà thầu xây dựng được chọn là một tập đoàn xây dựng quốc tế có năng lực tài chính và kỹ thuật vào loại siêu mạnh. Nhưng lạ thay, công trình này không cách nào có thể thi công được qua một khu vực có điều kiện địa chất phức tạp. Các kỹ thuật hiện đại nhất đã được đưa ra áp dụng nhưng vẫn thất bại. Do việc lái tuyến thi công sang hướng khác không thực hiện được trong khi việc xây dựng được yêu cầu thực hiện sớm, tình hình được báo cáo lên chính phủ. Ông Lý Quang Diệu vốn là một nhà chính trị tài ba, nhưng cũng rất coi trọng vấn đề phong thủy. Ông đã cho mời một thầy phong thủy người gốc Hoa từ Mỹ về để nhờ tư vấn. Sau khi xem xét thầy phong thủy phán: Khu vực thi công có điều kiện địa chất phức tạp, đó chính là cái lưng của một con rồng lớn. Khi con rồng nằm yên thì thi công được, nhưng khi nó cựa mình thì công trình lại đổ vỡ. Vì vậy mà công tác thi công ở đây không thể tiến triển được cho dù có áp dụng các kiểu kỹ thuật hiện đại. Muốn thi công được và đảm bảo an toàn cho công trình trong quá trình sử dụng thì phải dùng biện pháp trấn yểm sao cho con rồng ấy chịu nằm yên không cựa quậy nữa. Và biện pháp trấn yểm chỉ có thể là: Toàn dân Singapore khi đi ra ngoài đường đều phải đeo hình bát quái trên người. Biện pháp này mới nghe tưởng là đơn giản nhưng làm sao thuyết phục được dân chúng chịu làm việc kỳ dị đó? Thủ tướng Lý Quang Diệu cùng nội các luận bàn rất nhiều mà vẫn chưa tìm được cách nào để thuyết phục dân chúng, đảm bảo phong thủy Singapore. Thấy chồng lo lắng buồn phiền về việc đó, vợ của Thủ tướng Lý Quang Diệu hiến một kế: “Cho đúc loại tiền xu 1$ có hình bát quái cho lưu hành thay thế đồng 1$ hiện tại”. Toàn dân Singapore, từ kẻ nghèo nhất đến người giàu có khi đi ra đường cũng đều có ít nhất 1$ trong người. Quả nhiên khi đồng 1$ có hình bát quái được lưu hành, sau đó một thời gian thì tuyến đường ngầm cũng được xây dựng xong và sử dụng ổn định cho đến ngày nay. Và ở Singapore tất cả các đồng tiền xu khác đều có hình tròn, nhưng riêng đồng 1$ thì lại có hình bát quái. Từ sau vụ việc xây dựng tuyến tàu điện ngầm đó, Chính phủ và cả người dân rất chú trọng vấn đề phong thủy Singapore trong xây dựng. ST
Tiền "cheo" là khản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nạp cheo song có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "Nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng.
Đầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng, có nơi còn đốt pháo mừng. Để đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần đần có những người làm ăn bất chính, lợi dụng cơ hội cũng chăng dây, vòi tiền, sách nhiễu, trở thành tục lệ xấu. Vì thói xấu lan dần, gây nhiều cản trở, triều đình phải ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã được thu tiền cheo. Khi đã nạp cheo cho làng, tức là đám cưới được làng công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Nạp cheo so với chăng dây là tiến bộ. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng vào việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng...Nhưng nhiều nơi chỉ cung đốn cho lý hương chè chén. Đã hơn nửa thế kỷ, lệ này bị bãi bỏ rồi. Thanh niên ngày nay chỉ còn thấy bóng dáng của tiền cheo qua ca dao- tục ngữ. - Nuôi lợn thì phải vớt bèo
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
- Cưới vợ không cheo như tiền gieo xuống suối.
- Ông xã đánh trống thình thình
Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.
- Lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em...
Giúp em quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Thật quá cường điệu, Chứ tiền cheo không thể vượt quá tiền cưới.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Gia đình Bình an – Tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh – Động thạch anh – Thạch anh hình khối trụ lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết thêm về lợi ích của đá thạch anh nhé! Lợi ích của
Gia đình Bình an – Tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh – Động thạch anh – Thạch anh hình khối trụ lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết thêm về lợi ích của đá thạch anh nhé!
Nội dung
1 Lợi ích của đá thạch anh trong phong thủy
1.1 Gia đình bình an – tài vận thông thuận
1.2 Cải thiện phong thủy và tích tài khí
1.3 Trấn trạch , tránh tà, vừa vượng vừa phát
1.4 Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần
1.5 Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng
1.6 Nhà không được hướng
1.7 Khử mùi
1.8 Hiện tượng bóng đè
1.9 Nơi buôn bán
1.10 Cách cầu tài
1.11 Cải thiện tình cảm , thắt chặt nhân duyên
Lợi ích của đá thạch anh trong phong thủy
Gia đình bình an – tài vận thông thuận
Đá cầu Thạch Anh – động Thạch Anh – Thạch Anh hình trụ khối lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà . Tác dụng : truyền khí từ trường , không những bảo hộ gia trung bình an , tránh tà mà còn giúp lưu thông không khí trong nhà đem lại nhiều may mắn.
Cải thiện phong thủy và tích tài khí
Đặt động thủy tinh trong nhà có tác dụng hoá xung giải sát, ngoài ra còn có thể tích phú, tích lộc .
Trấn trạch , tránh tà, vừa vượng vừa phát
Góc tài lộc ở trong phòng làm việc , công ty hoặc trong nhà nếu đặt động Thạch anh hoặc Thạch anh hình trụ có tác dụng trấn trạch – tránh tà – chặn sát khí , giúp bạn làm ăn thịnh vượng , phát đạt.
Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần
Đặt thạch anh tím trên bàn học hoặc đầu giường giúp bạn phát huy trí tuệ và cải thiện thị lực .
Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng
Bên cạnh Tivi, máy tính, lò vi sóng đặt một sản phẩm thuộc gia tộc họ thạch anh mầu trắng có tác dụng giảm bớt bức xạ phát ra , tránh gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người .
Nhà không được hướng
Ðối diện chính cửa ra vào là đường cái , hoặc vị trí nhà ở góc đường hình chữ L , cửa nhà có cây to , hoặc cột điện nên treo trước cửa ra vào một quả chuông gió bằng đá thuộc họ thạch anh hoặc góc nhà hướng cửa ra vào đặt động Thạch anh tím có thể tránh tà .
Khử mùi
Cửa nhà vệ sinh treo thạch anh hoặc đặt Thạch anh có thể giải uế khí.
Hiện tượng bóng đè
Ðầu giường hoặc dưới chân giường nên để một tảng Thạch anh hình trụ hoặc một sản phẩm bất kỳ thuộc họ Thach Anh có thể hoá giải hiện tượng bị bóng đè .
Nơi buôn bán
Tại quầy bán hàng đặt Thạch anh tím hoặc mầu phấn hồng tăng cường nhân duyên và duyên bán hàng.
Cách cầu tài
Dùng Trận thất tinh hoặc Thạch anh vàng cầu tài; Luc Du Linh gây dựng sự nghiệp – tài phúc.
Cải thiện tình cảm , thắt chặt nhân duyên
Đầu giường đặt thuỷ tinh phấn hồng có tác dụng dung hoà tình cảm giữa bạn bè , ngưòi thân , cải thiện mối quan hệ chăn gối hai vợ chồng