Mơ thấy đeo vòng vàng có ý nghĩa gì? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Tướng mũi cho thấy tình duyên không thuận lợi, dễ bị tái hôn |
![]() |
Tướng mũi khó thành công trong sự nghiệp, sức khỏe không tốt |
![]() |
Nữ giới có tướng mũi này rất tự tin nhưng hay nóng vội |
![]() |
Tướng mũi ki bo, không đáng tin cậy |
![]() |
Nếu có dáng mũi này, nữ giới thường háo thẳng và thích thể hiện bản thân |
![]() |
Tướng mũi xấu, chỉ người phụ nữ xảo trá |
![]() |
Nữ giới có khí phách kiên cường, tấm lòng lương thiện |
![]() |
Tướng mũi cho thấy chủ nhân phù hợp làm vợ hiền mẹ đảm |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Trên mặt khác Long Trì giỏi võ và Phượng Các giỏi văn. Trường hợp Long Phượng đồng cung ở Sửu Mùi thì văn vũ kiêm tư. Văn hay vũ hay nghệ còn tùy thuộc chủ tinh mà chúng đứng cùng.
Long Trì thuộc dương thủy còn Phượng Các thuộc dương thổ. Phượng Các chủ “tài”, Long Trì chủ “nghệ”. Phượng Các một mình đứng với Thiên Tài, Xương Khúc, hợp cùng Hóa Khoa rất tốt.
Long Phượng cùng đứng theo thế hiệp giáp làm thành con người thông tuệ. Long Phượng cũng đem cho nữ mạng nhan sắc phong thái diễm lệ yêu kiều và uy nghi. Long Phượng đứng với Khôi Việt Xương Khúc khiến nam mạng thành tài trí thông minh có tiếng tăm.
Long Phượng đi cùng những sao Liêm Trinh, Tham Lang, Đào Hoa thì chế giảm bớt tính trăng hoa. Long Phượng vào vận hạn chủ về tin vui, cưới hỏi, tài lộc, mưu sự.
Long Phượng gặp Diêu Hỉ càng tăng thêm điều vui. Long Phượng gặp Hoa Cái, Bạch Hổ làm thành bộ “tứ linh” có nhiều may mắn thành tựu.Long Trì hội Thai Phụ dễ thăng chức, gặp Mã Sinh Vượng đẻ con. Riêng Long Trì hội Không Kiếp hay Mộc Dục thì đề phòng sông nước gây tai nạn hoặc thành ra băng huyết cho nữ mạng. Trong khi Phượng Các mà hội Không Kiếp lại thường bị người oán trách cừu hận.
Sách Tử Vi Đẩu Số Tinh Diệu Tổng Đàm viết: “Tại Tật Ách cung mà Thất Sát đứng với Long Trì thì bị chứng âm hư, tai điếc, cũng cung này Thất Sát Phá Quân gặp Phượng Các thì lo bệnh nơi con mắt”
Những câu phú về Long Trì Phượng Các:
Phong thủy phòng khách luôn thể hiện mối quan hệ hài hòa giữa các thành viên trong gia đình, sự cân bằng trong việc thu nạp sinh khí, cát lành, bảo vệ nguồn tài sản, gia tăng thịnh vượng cho ngôi nhà. Trên thực tế, mọi người thường đặc biệt chú ý đến việc trang trí phòng khách bởi không gian này được xem là khu vực trung tâm, nơi có tầm ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề sức khỏe, tài lộc, con cái, sự hòa thuận của mỗi gia đình.
Để một năm mới an khang, thịnh vượng, vạn sự may mắn, bạn cũng nên dành chút thời gian xem lại cách bố trí không gian phòng khách, để không chỉ cải thiện tài lộc mà còn hút thật nhiều may mắn, bình an cho mọi người trong gia đình vào dịp năm mới.
Sắp xếp lại nội thất và trang trí phòng khách giúp nhà bạn gặp nhiều may mắn, tốt lành trong năm mới.
Vị trí phòng khách
Dù là căn hộ chung cư, biệt thự hay nhà phố, bạn cũng nên bố trí phòng khách ở vị trí đẹp nhất của ngôi nhà. Thông thường, phòng khách nên đặt gần nhất với lối vào nhà, gần với cửa chính để có thể thu nhận được nhiều sinh khí từ cửa vào. Nếu phòng khách của bạn cần đi qua một hành lang nhỏ, bạn nên chú ý đến việc dọn dẹp hành lang sạch sẽ, thắp đèn sáng ở hành lang. Đặc biệt cần hạn chế việc bày biện quá nhiều đồ đạc ở hành lang làm cản trở khí vào phòng khách gây ngột ngạt, bức bối, giảm bớt may mắn, tài lộc vào phòng.
Kiểu dáng sắp xếp nội thất
Ở không gian phòng khách, bạn nên chọn khu vực có diện tích vừa phải. Tuy nhiên, để luồng sinh khí di chuyển một cách hài hòa, bạn nên chọn căn phòng có kiểu dáng hình vuông hay hình chữ nhật. Không gian vuông vắn cũng là cách giữ được lâu hơn tài lộc và may mắn cho căn phòng. Bên cạnh đó, bạn nên chú ý đến việc bài trí sofa, một trong những nội thất chính làm nên vẻ đẹp của căn phòng này.
Một trong những cách đặt sofa phổ biến trong phong thủy đó là bố trí sofa góc với hướng quay ra cửa chính, đặt sofa song song với nhau, phần bàn trà quay ra cửa chính hoặc cửa sổ. Bạn cũng có thể đặt sofa hình chữ U với phần đáy song song với cửa chính. Đây là những cách bố trí đơn giản mang lại nhiều tài lộc, may mắn, thịnh vượng cho gia chủ.
Điều chỉnh vật dụng trang trí
Về cơ bản, phòng khách thường sử dụng khá nhiều đồ điện tử, công nghệ như loa, đài, ti vi, tủ lạnh... nên khi chọn vật dụng trang trí cần tiết chế những đồ có kiểu dáng sắc nhọn. Bởi việc mất cân bằng trong cách chọn lựa chất liệu nội thất dẫn đến mất cân bằng âm dương, là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến mối quan hệ của mọi người trong nhà cũng như khiến cuộc sống của mọi người gặp bất lợi về sức khỏe.
Tạo mùi hương tự nhiên
Nếu căn phòng có những mùi hôi khó chịu từ bàn ghế, bụi bặm, rèm cửa, hay sàn nhà vô tình sẽ khiến ngôi nhà bớt đi nhiều luồng sinh khí, gây ngột ngạt khó chịu cho mọi người. Để giữ lại luồng sinh khí, những điều may mắn, tốt lành cho căn phòng, mọi người có thể cắm hoa tươi, trồng cây thanh lọc không khí hay xịt phòng định kỳ sau khi dọn dẹp.
Đặt đồ trang trí phong thủy
Ngoài những đồ trang trí đơn thuần, bạn cũng có thể mua sắm thêm một vài vật phẩm phong thủy để kích tài, chiêu lộc, mang nhiều may mắn, cát lành đến cho mọi người sống trong nhà. Tùy thuộc vào mục đích mong muốn như chiêu tài lộc, giúp mọi người khỏe mạnh, làm ăn buôn bán thuận lợi, giúp mọi người keo sơn, gắn bó... để chọn vật phẩm phong thủy phù hợp cũng như đặt ở vị trí hợp lý.
Chú ý đến vị trí của cửa
Hướng của cửa chính và cửa sổ cũng là một trong những điều quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chiêu tài, đón lộc của ngôi nhà. Để xác định được hướng tài lộc, bạn có thể sử dụng la bàn, đứng ở trung tâm căn nhà để tìm kiếm. Nếu hướng tài lộc không có cửa chính hay cửa sổ, bạn có thể xem xét việc mở thêm cửa ở vị trí hướng xác định. Nếu không thể mở thêm cửa, bạn có thể treo tranh và hỗ trợ ánh sáng hắt để góc nhỏ tài lộc được kích hoạt nhanh hơn, mạnh hơn so với thông thường.
Phòng khách được xem là một trong những căn phòng tụ tán nhiều tài lộc nhất trong ngôi nhà. Tùy vào hướng cửa chính để bạn chọn lựa được tông màu hợp phong thủy với ngôi nhà cũng như căn phòng. Tuy nhiên, về cơ bản không nên chọn màu tối làm màu nền. Nếu thích những màu tối, bạn nên chọn đồ trang trí hay nội thất có kích thước nhỏ, giúp tạo nên điểm nhấn cá tính trong không gian thay vì khiến căn phòng tối tăm, lụp xụp, chật chội. Không gian tiếp khách sẽ cân bằng âm dương, ngũ hành khi được bố trí màu sắc và ánh sáng hợp lý, tạo nên nét hài hòa đầy ấn tượng cho ngôi nhà.
Nên chọn sàn có màu sắc và chất liệu đồng đều
Phòng khách có thể phân vùng hay không phân vùng nhưng vẫn cần đến sự đồng đều trên cùng một mặt phẳng, đồng đều về màu sắc và chất liệu. Sự đồng đều này tượng trưng cho sự êm ấm, bình yên gia đạo trong năm mới. Việc bố trí sàn giật cấp trong phòng khách là điều không nên bởi cách làm này dễ khiến cuộc sống gia đình gặp nhiều trắc trở, thăng trầm.
Tiết chế dầm trong phòng khách
Để hạn chế nhiều dầm, xà trong phòng khách, bạn nên thiết kế trần thạch cao. Cách chọn trang trí với trần thạch cao cũng giúp không gian tiếp khách đẹp tinh tế và hài hòa hơn, làm giảm đáng kể những bức xạ xấu hay sát khí do dầm xà đè xuống, gây tổn hao sức khỏe, tài chính của mọi người trong nhà.
Tháng sinh là nhân tố quan trọng trong bát tự, tháng sinh khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau đến mệnh lý. Sau đây là ba tháng sinh khiến chủ nhân không phải lo lắng về tiền bạc từ trung vận.
![]() |
![]() |
=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất |
1. Ngón tay thô, ngắn
Người ngón tay ngắn, thô dù là nam hay nữ đều có tính cách hoạt bát, nồng nhiệt, tác phong làm việc quyết đoán mạnh mẽ, không lề mề chậm chạp, không cứng nhắc chú ý tiểu tiết, gặp chuyện gì cũng có thể nhanh chóng đưa ra quyết định. Kiểu người như vậy thích hợp để làm kinh doanh. Với bộ óc sắc sảo, cái nhìn độc đáo và cá tính mạnh mẽ, chắc chắn họ sẽ đạt thành tựu nhất định trong sự nghiệp.
2. Ngón tay thanh mảnh
Người có ngón tay thanh mảnh hay suy nghĩ, tính tình ổn trọng, cái nhìn sâu sắc. Họ có khả năng phát hiện ra những điểm mấu chốt sau đó bình tĩnh phân tích vấn đề. Những người như vậy rất thích hợp với công việc lao động trí óc như: nghiên cứu, kinh tế, tài chính, chuyên gia phân tích thị trường chứng khoán hoặc các công việc có liên quan. Họ có thể đạt được thành tựu tốt nếu theo đuổi công việc như vậy.
3. Ngón áp út và ngón trỏ có cùng chiều dài
Người sở hữu bàn tay như vậy thường có đầu óc linh hoạt, phản ứng nhanh nhẹn, rất nhạy bén với các cơ hội. Họ giỏi đầu cơ tích trữ để kiếm tiền, vì vậy phù hợp với công việc liên quan đến cổ phiếu, kinh tế, bất động sản, đầu tư…
4. Bàn tay gầy, tĩnh mạnh hiện rõ
Đây là đôi bàn tay điển hình của những người ham học tập nghiên cứu, họ không ham công danh lợi lộc, thích quan sát, kiểm tra. Họ thích tự chìm vào thế giới riêng của mình, tập trung nghiên cứu những điều họ quan tâm. Những người như vậy rất thích hợp với công việc nghiên cứu khoa học và có thể đạt được những thành quả lớn lao. Nhưng bởi họ chỉ tập trung vào nghiên cứu, hoàn toàn không có khái niệm về tiền bạc nên rất khó để trở thành người giàu có.
![]() |
1. Dưới ngón tay cái | 2. Dưới ngón tay trỏ | 3. Dưới ngón giữa |
4. Dưới ngón áp út | 5. Dưới ngón út | 6. Cạnh trái của lòng bàn tay |
Mộc Trà (Theo Lol)
![]() |
![]() |
![]() |
Mua nhà, ngoại trừ xem mức giá, hoàn cảnh, hộ hình, còn có một vấn đề quan trọng tuyệt đối đừng bỏ quên, đó chính là hướng nhà. Cùng xét tới các yếu tố liên quan để xác định cát hung nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
“Kinh Lỗ Ban” ghi rằng: “Hai nhà, cửa không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai nhà, cửa không thể đối diện nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ”.
Nhưng ngày nay, thành phố chật hẹp, người đông, nhiều căn hộ, nhà cao tầng chuyện cửa đối diện cửa khó tránh khỏi, nếu phạm vào điều kiêng kỵ này thì sẽ hóa giải bằng cách nào?
Có không ít người quan tâm tới điều này, có người treo gương: Bát quái, bạch hổ để hóa giải, nhưng làm như vậy lại gây lo lắng cho nhà đối diện nên cần hai bên cùng tìm cách hóa giải.
Cũng có một số gia đình, vì cố muốn nhà được tốt mà làm ảnh hưởng tới nhà đối diện, gia chủ không nên dùng các cách hóa giải như: dùng bùa ngải, dùng gương phản, tượng đá, treo đầu thú…
Vì các cách trên đều làm cho việc hóa giải của hai gia đình không bao giờ kết thúc, hai bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa.
Ví dụ, một nhà dùng đầu sư tử để hóa giải, nhà đối diện lại dùng hai thanh kiếm đan chéo nhau hóa giải. Như thế sẽ có một nhà bị lụi. Bởi thanh kiếm có nguy cơ gây hại cho chiếc đầu sư tử. Vì thế mà việc hóa giải của hai gia đình sẽ kéo dài mãi…
Tuy nhiên, việc hai cửa đối diện nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.
Muốn xóa bỏ sự uy hiếp về tâm lý “Hai cửa đối nhau” lại vừa không để hàng xóm có cửa đối diện với cửa của mình bị mặc cảm, cách làm tốt nhất để giải quyết là trên dạ cửa treo 4 chữ “Thiên Quan Tứ Phước” (Trời ban cho phước lành), hoặc “Thiên Quan Thí Phước”, hoặc “Cát Tinh Cao Chiếu”.
Cách hoá giải là hai nhà đều treo trước cửa tấm biển đề 4 chữ
THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC thì cả hai nhà đều được may mắn và không ai hại ai.
Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính là điều vô cùng lý tưởng. Như thế cả hai nhà cùng có phúc lớn trời ban.
CHÚ THÍCH:
A.- 天 THIÊN
1 : Bầu trời.
2 : Cái gì kết quả tự nhiên, sức người không thể làm được gọi là “thiên”. Như “thiên nhiên” 天然, “thiên sinh” 天生,v.v.
3 : Nhà tôn giáo gọi chỗ các thần linh ở là “thiên”. Như “thiên quốc” 天國, “thiên đường” 天當, v.v.
4 : Ngày. Như “kim thiên” 今天 hôm nay, “minh thiên” 明天 ngày mai.
5 : Thì tiết trời. Như “nhiệt thiên” 熱天 trời nóng, “lãnh thiên” 冷天 trời lạnh.
6 : Phàm cái gì không thể thiếu được cũng gọi là “thiên”. Như “thực vi dân thiên” 食為民天 ăn là thứ cần của dân.
7 : Ðàn bà gọi chồng là “thiên”, cũng gọi là “sở thiên” 所天.
8 : Ông trời, có nhiều nhà tu xưa cho trời là ngôi chúa tể cả muôn vật, giáng họa ban phúc đều quyền ở trời cả.
9 : Hình phạt khắc chữ chàm vào trán gọi là “thiên”.
B.- QUAN 官
1 : Chức quan, mỗi người giữ một việc gì để trị nước gọi là “quan”.
2 : Ngôi quan, chỗ ngồi làm việc ở trong triều đình gọi là “quan”.
8 : Công, cái gì thuộc về của công nhà nước gọi là “quan”, như “quan điền” 官田 ruộng công.
4 : Cơ quan, như : tai, mắt, miệng, mũi, tim là “ngũ quan” 吾官 của người ta, nghĩa là mỗi cái đều giữ một chức trách vậy.
5 : Ðược việc, yên việc.
C.- TỨ 賜
1 : Cho, trên cho dưới gọi là “tứ”.
2 : Ơn, như “dân đáo vu kim thụ kì tứ” 民到于今受其賜 (Luận ngữ 論語) dân đến bây giờ vẫn còn được chịu ơn.
3 : Hết, như cuối bức thư nói “dục ngôn bất tứ” 欲言不賜 muốn nói chẳng hết lời.
D.- PHƯỚC = PHÚC 福
1 : Phúc, những sự tốt lành đều gọi là “phúc”. Kinh Thi chia ra năm phúc : (1) Giàu 富 (2) Yên lành 安寧 (3) Thọ 壽 (4) Có đức tốt 攸好德 (5) Vui hết tuổi trời 考終命.
2 : Giúp.
3 : Thịt phần tế.
4 : Rượu tế còn thừa.
5 : Vén vạt áo (lối đàn bà lạy).
Cách lựa chọn và phối hợp màu sắc đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thẩm mỹ của ngôi nhà cũng như tài vận cho gia chủ.
Phòng khách, vị trí tâm điểm của ngôi nhà, là nơi được chú ý nhiều nhất, bởi nơi đây là bộ mặt của gia đình. Việc bài trí, sắp xếp đồ đạc cũng như màu sắc chủ đạo trong phòng còn thể hiện tính cách của chủ nhà. Và theo quy luật phong thủy, màu sắc phòng khách có ảnh hưởng đến tài vận của chủ nhân. Tuy nhiên, để phòng khách có được màu sắc phong thủy hợp mệnh, lại đẹp về thẩm mỹ là cả một bài toán khó mà không phải gia đình nào cũng làm được.
Màu sắc phòng khách thường được gia chủ chọn là màu tươi sáng. Khi thiết kế ngôi nhà chúng ta dựa vào hai yếu tố Niên mệnh và Bản mệnh. Niên mệnh là dựa vào sơ đồ bát quái để thiết kế không gian, phương hướng, và vị trí. Tuy nhiên, để chọn màu sắc thì chúng ta lại căn cứ theo bản mệnh của từng người. Bạn nên chọn màu sắc theo bản mệnh của người giữ vai trò trụ cột trong gia đình.
Gia chủ có thể chọn được màu sinh và màu dưỡng cho từng người với từng bản mệnh khác nhau
Hỏa: màu đỏ. Thổ: màu vàng. Kim: màu trắng. Thủy: màu đen. Mộc: màu xanh.
Theo nguyên lý ngũ hành, trong mối quan hệ tương sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Trong mối quan hệ tương Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Dựa vào đó mà gia chủ có thể chọn những màu tương sinh cho ngôi nhà nói chung và phòng khách nói riêng.
Ví dụ chủ nhà sinh năm 1939 là mệnh Thổ, màu chủ đạo là màu vàng đất. Và theo quy luật ngũ hành, Hỏa sinh Thổ nên ta có thể chọn màu của Hỏa là màu đỏ. Người mệnh Kim có màu chủ đạo là màu trắng, đồng thời có thể chọn màu dưỡng cho nó là màu của Thổ là màu vàng tươi của cánh đồng lúa chín. Tương tự như vậy, gia chủ có thể chọn được màu sinh và màu dưỡng cho từng người với từng bản mệnh khác nhau. Tuy nhiên, gia chủ cần lưu ý tránh những màu khắc.
Trong quá trình thiết kế ngôi nhà, không phải ai cũng có điều kiện tham khảo ý kiến của các kiến trúc sư. Nếu lỡ chọn màu phòng khách chưa đúng theo quy luật ngũ hành và bản mệnh thì gia chủ có thể dùng một số cách để dung hòa nó nhằm tạo ra sự hài hòa để đón vận may vào nhà.
Để thay đổi tất cả màu sơn tường, nền nhà, đồ nội thất rất khó và tốn kém. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn có lựa chọn khác, bằng cách thay đổi những họa tiết trang trí nho nhỏ cho ngôi nhà. Có thể thêm những tấm thảm tại vị trí vào nhà, hay những đồ vật có màu sắc, chất liệu tương sinh cho bạn.
Ví dụ, bạn là mệnh Hỏa, màu chủ đạo là màu đỏ, màu dưỡng là màu xanh của Mộc. Nhưng nếu bạn đã lỡ không sơn màu đúng thì có thể dùng những tấm rèm hay những tấm thảm đỏ hoặc xanh.
Bạn thắc mắc trong 12 cung hoàng đạo cung hoàng đạo nữ nào kiếm tiền nhiều nhất? Bạn từng nghe nói đâu đó rằng: Vị trí đầu bảng thuộc về các cô nàng Bạch Dương, tiếp theo là Bò Cạp và Kim Ngưu. Liệu có phải thế không? Để kiếm chứng củ thể hãy cùng đọ bài viết cao thủ kiếm tiền trong 12 chòm sao nữ để xem mình có nằm trong tốp được gọi là cao thủ kiếm tiền không nhé!
Nội dung
Tính cách hướng ngoại, vui vẻ, lạc quan và khá nhanh nhạy trong cách nắm bắt và phân tích thông tin đã giúp những nàng Bạch Dương không bỏ sót bất cứ cơ hội kiếm tiền nào. Đó là lý do khiến khối tài sản của chòm sao này ngày một tăng lên nhanh chóng.
Bạch Dương rất quyết đoán và đưa ra những phán đoán hợp lý trong mọi tình huống. Dù đầu tư có mạo hiểm tới đâu bạn cũng không lo sợ, tiền dù đã mất nhưng bạn coi đó như là chi phí cho bài học đắt giá để rút kinh nghiệm cho những cố gắng kế tiếp.
Một trong những cao thủ kiếm tiền phải kể đến những cô nàng có tài năng lãnh đạo thiên bẩm, Bò Cạp. Hơn thế, chòm sao này lại chiếm được đông đảm cảm tình và sự ủng hộ của mọi người nhờ tính cách hòa đồng và biết đặt mình vào vị trí người khác để nhìn nhận vấn đề.
Một trong những tuyệt chiêu khiến Bò Cạp kiếm bội tiền, đó là dùng trí tuệ, đầu óc sắc lạnh và sự điềm tĩnh trong những tình huống cấp bách để khiến tiền đẻ ra tiền chứ không phải phí công dùng sức lực cơ bắp. Vậy nên, nhìn vẻ ngoài những cô nàng này lúc nào cũng khá thong dong, điềm tĩnh nhưng bên trong lại ẩn chứa một nội lực rất lớn.
Độ nhạy bén trong lĩnh vực tài chính của những nàng Kim Ngưu khá cao. Có thể nói, trong đầu của chòm sao này, lúc nào tiền bạc cũng là mối quan tâm hàng đầu. Bạn đã biết quản lý vấn đề chi tiêu tài chính của mình một cách hợp lý ngay từ khi còn rất nhỏ. Khi trưởng thành và có thể độc lập làm việc, số tiền bạn tiết kiệm được nhờ vào đầu óc tính toán và chi tiêu hợp lý là không hề nhỏ.
Kim Ngưu luôn biết cân nhắc thiệt hơn trước khi quyết định có nên chi một khoản tiền lớn nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân hay không. Nhưng các nàng này lại khá hào phóng trong việc mua quà tặng hoặc giúp đỡ tiền bạc cho những người thân trong gia đình và cả bạn bè thân thiết.
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Hóa Khoa là dương thủy, hóa khí là tiếng tăm, chưởng quản văn chương, chủ về thanh danh. Sao Hóa Khoa có hàm ý mở rộng là tâm tính vui vẻ, hiển lộ là mức độ nổi tiếng, có thể cụ thể hóa thanh danh, thành tích học tập và thi cử.
Sao Hóa Khoa thủ cung thân, cung mệnh, chủ về thông minh mẫn tiệp, tài năng hơn người, tính tình hòa nhã dễ gần gũi, có thanh danh. Nếu gặp sao Hóa Lộc, Hóa Quyền, sẽ là người hiển quý và địa vị cao. Nếu gặp hung tinh, tuy không được hiển quý nhưng cũng có tài văn chương. Nếu sao Văn Xương, Hóa Khoa ắt trở thành bậc thầy mẫu mực.
Tương tự như sao Hóa lộc, sao Hóa Khoa không có khả năng đề kháng sao Hóa Kị, nếu không được cát tinh trợ giúp, thì vất vả gian lao mà không thành tựu. Nếu được cát tinh phù trợ thì có thành tựu cũng khó tránh khỏi gian nan và trắc trở. Sao Hóa Khoa cũng không sợ gặp phải các sao không vong như Triệt Không, Tuần Không, Địa Không, Địa Kiếp, chủ về phù phiếm không thực, có tài mà không gặp thời, cô đơn khổ cực không nơi nương tựa.
Hai sao Văn Xương, Văn Khúc nếu Hóa Khoa gặp thêm Thiên khôi, Thiên Việt, thì lợi về đường thi cử, thăng quan tiến chức, hiển quý.
Sao Hóa Khoa tốt nhất nên đồng cung với các sao, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Tử Vi, Thiên Cơ, Cự Môn, Thiên Đồng, Thái Âm, Vũ Khúc, chủ về khai sáng sự nghiệp, nhưng nữ mệnh cần đề phòng ảnh hưởng tới chuyện hôn nhân.
Sao Hóa Khoa nhập miếu tại cung Sửu (không sợ sát tinh); vượng tại cung Ngọ, Thân (không sợ sát tinh); vượng tại hai cung Ngọ, Thân (không sợ sát tinh); đắc địa tại ba cung Thìn, Tuất, Mão (là phúc sợ sát tinh); lợi ba cung Dần, Tỵ, Mùi (phúc đến chậm, sợ sát tinh); bình hòa tại hai cung Hợi và Tý; không đắc địa tại cung dậu. Khi đồng cung với Triệt Không, Tuần Không, Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Thái Dương, Thái Âm, là lạc hãm.
1. Cách đặt tên xưa và nay
Ngày xưa, khi đặt tên con, các cụ thường đệm chữ "Văn" cho con trai và "Thị" cho con gái giúp phân biệt được giới tính ngay trong cái tên gọi. Đây là quan niệm từ thời phong kiến cho rằng con trai lo việc văn chương đèn sách, con gái thì đảm đang việc chợ búa, nội trợ.
![]() |
Cha mẹ đặt tên con theo nghĩa Hán Việt nhưng lại không hiểu hết ý nghĩa |
Ngày nay, các tên đệm như "Văn" dành cho nam và "Thị" dành cho nữ ngày càng ít dùng bởi có thể họ chưa hiểu hết ý nghĩa của những tên đệm đó. Mặt khác, ngày nay đã hình thành nhiều xu hướng đặt tên con mới nghe rất hay và lạ. Tuy nhiên, tùy theo quan điểm của mỗi người mà chọn tên khác nhau cho con. Miễn sao đừng ngược giới tính khiến trẻ sau này phải chịu nhiều phiền hà, rắc rối.
Những cái tên thời nay đã thể hiện rõ nét tính phóng khoáng trong cách đặt. Nhìn lại sự biến động của tên gọi người Việt từ trước đến nay, có thể nhận thấy một số cách đặt tên cũ gần như đã mất đi. Thí dụ như cách đặt tên bằng những từ có âm thanh xa lạ, cách đặt tên bằng những từ chỉ các bộ phận cơ thể hay hoạt động sinh lý của con người, cách đặt tên bằng những từ chỉ dụng cụ sinh hoạt sản xuất hoặc các động vật... Nhưng cách đặt tên có ý nghĩa tốt đẹp vẫn còn duy trì là đặt tên bằng từ Hán Việt.
2. Những cách đặt tên theo Hán Việt thường gặp
Theo các bộ chữ
Những gia đình theo Hán học thường đặt tên theo các bộ chữ Hán. Tức là tên các thành viên trong gia đình đều có chung một bộ chữ.
Ví dụ:
- Bộ Thuỷ trong các tên: Giang, Hà, Hải, Khê, Trạch, Nhuận…
- Bộ Thảo trong các tên: Cúc, Lan, Huệ, Hoa, Nhị…
- Bộ Mộc trong các tên: Tùng, Bách, Đào, Lâm, Sâm…
- Bộ Kim trong các tên: Kính, Tích, Khanh, Chung, Điếu…
- Bộ Hoả trong các tên: Thước, Lô, Huân, Hoán, Luyện, Noãn…
- Bộ Thạch trong các tên: Châm, Nghiễn, Nham, Bích, Kiệt, Thạc…
- Bộ Ngọc trong các tên: Trân, Châu, Anh, Lạc, Lý, Nhị, Chân, Côn…
Nói chung, các bộ chữ có ý nghĩa tốt đẹp, giàu sang, hương thơm như Kim, Ngọc, Thảo, Thuỷ, Mộc, Thạch… thường được chuộng để đặt tên.
Bằng hai từ Hán Việt có cùng tên đệm
Ví dụ: Kim Khánh, Kim Thoa, Kim Hoàng, Kim Quang, Kim Cúc, Kim Ngân.
Hoặc hai từ Hán Việt có cùng tên, khác tên đệm:
Ví dụ: Nguyễn Xuân Tú Huyên, Nguyễn Xuân Bích Huyên.
Theo các thành ngữ mà tên cha là chữ đầu
Ví dụ: Tên cha: Trâm
Tên các con: Anh, Thế, Phiệt
Tên cha: Đài
Tên các con: Các, Phong, Lưu.
Tên cha: Kim
Tên các con: Ngọc, Mãn, Đường
Theo ý chí, tính tình riêng
Ví dụ:
- Phạm Sư Mạnh: thể hiện ý chí ham học theo Mạnh Tử.
- Ngô Ái Liên: thể hiện tính thích hoa sen, lấy ý từ bài cổ văn : “Ái liên thuyết”.
- Trần Thiện Đạo: thể hiện tính hâm mộ về đạo hành thiện, làm việc lành.
Chiết tự những cái tên
Mạnh, Trọng, Quý: chỉ thứ tự ba tháng trong một mùa. Mạnh là tháng đầu, Trọng là tháng giữa, Quý là tháng cuối. Vì thế Mạnh, Trọng, Quý được bố dùng để đặt tên cho ba anh em. Khi nghe bố mẹ gọi tên, khách đến chơi nhà có thể phân biệt được đâu là cậu cả , cậu hai, cậu út.
Có thể dùng làm tên đệm phân biệt được thứ bậc anh em họ tộc (Mạnh – Trọng – Quý):
Ví dụ: Nguyễn Mạnh Trung
Nguyễn Trọng Minh
Nguyễn Quý Tấn
Vân: tên Vân thường gợi cảm giác nhẹ nhàng như đám mây trắng bồng bềnh trên trời. Trong một số tác phẩm văn học thường dùng là Vân khói – lấy Vân để hình dung ra một mỹ cảnh thiên nhiên nào đó: Vân Du (rong chơi trong mây, con của mẹ sau này sẽ có cuộc sống thảnh thơi, nhàn hạ),...
Anh: Những cái tên có yếu tố anh thường thể hiện sự thông minh, tinh anh: Thùy Anh (thùy mị, thông minh), Tú Anh (con sẽ xinh đẹp, tinh anh), Trung Anh (con trai mẹ là người thông minh, trung thực),...
Băng: Lệ Băng (một khối băng đẹp), Tuyết Băng (băng giá như tuyết), Hạ Băng (tuyết giữa mùa hè),...
Châu: Bảo Châu (viên ngọc quý), Minh Châu (viên ngọc sáng),...
Chi: Linh Chi (thảo dược quý hiếm), Liên Chi (cành sen), Mai Chi (cành mai), Quỳnh Chi (nhánh hoa quỳnh), Lan Chi (nhánh hoa lan, hoa lau),...
Nhi: Thảo Nhi (người con hiếu thảo), Tuệ Nhi (cô gái thông tuệ), Hiền Nhi (con ngoan của gia đình), Phượng Nhi (con chim phượng nhỏ), Yên Nhi (làn khói nhỏ mỏng manh), Gia Nhi (bé ngoan của gia đình),...
Theo Afamily.vn
Hành: Hỏa
Loại: Thiện Tinh
Đặc Tính: May mắn, vui vẻ, tăng tài lộc, cưới gả, sinh con, thi cử đỗ đạt
Là một phụ tinh. Sao thứ 8 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ. Phân loại theo tính chất là Thiện Tinh.
Tính Tình: Người có lòng tốt, vui tính.
Hỷ Thần gặp Long Trì, Phượng Các: Cả ba sao đều chỉ sự vui mừng, báo hiệu cho sự may mắn về thi cử hoặc về công danh hoặc về hôn nhân hoặc về sinh nở. Nói chung, đây là điềm lành về nhiều mặt.
Hỷ Thần gặp Đào Hoa (hay Hồng Loan): Có sự may mắn về tình duyên.
Trong tinh thần đó, sao Hỷ Thần ghép với một số sao khác sẽ làm lợi thêm cát tinh của sao đó, cụ thể như Hỷ Thần gặp Thiên Mã, Tràng Sinh hay Thiên Mã, Hóa Lộc hay gặp Phong Cáo, Quốc Ấn... có nghĩa đắc lợi về vận hội, về tiền bạc, về danh giá...
Ý Nghĩa sao Hỷ Thần Ở Cung Tật Ách:
Dễ có bệnh trĩ, ung nhọt, nếu đi chung với các sao Địa Kiếp, Điếu Khách.
Ý Nghĩa sao Hỷ Thần Ở Cung Phu Thê:
Cũng trong ý nghĩa chính là may mắn, sao Hỷ Thần đóng ở cung nào ban sự lành và lợi cho cung đó. Sao này ví như một hệ số về may mắn, bất luận hậu quả của sự may mắn đó có lợi hay hại.
Hỷ Thần đi với Đào hay Hồng thì vợ chồng xứng đôi.
Ý Nghĩa sao Hỷ Thần Ở Cung Huynh Đệ:
Hỷ Thần, Thiên Riêu: Anh chị em chơi bời, phóng túng.
Hỷ Thần Khi Vào Các Hạn:
Sao Hỷ Thần cũng báo hiệu cho hỷ sự, may mắn. Tùy theo các sao đi kèm sẽ giúp giải đoán phương diện nào được may mắn. Tuy nhiên, nếu gặp Điếu Khách, sự may mắn đó bị suy giảm hay tiêu tán đi vì Điếu Khách chế hóa được sự may mắn của Hỷ Thần.
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
– Sân sau phải được quét dọn thường xuyên thì con cái trong nhà mới thông minh.
– Ở hướng “thanh long” của sân sau không được có bể phân hóa học, nhưng có thể xây phòng vệ sinh.
– Không chất đống gạch đá, cối đá hay dây rợ lằng nhằng.
– Ở vị trí trung tâm, có thể làm thác nước hoặc bể chứa nước, nhưng không được lắp đặt hệ thống lò đun nước nóng.
– Không trồng quá nhiều cây để hạn chế ẩm ướt và âm khí quá nặng.
– Không trồng cây to, vì cây to quá sẽ chắn ánh sáng làm sân bị tối, gia đình không được bình an.
– Không trồng các loại hoa có gai.
– Nếu chăn nuôi gia súc thì phải thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, trong nhà mới được yên ổn.
– Tường bao sân không thấp hơn hoặc cao hơn nhà 1 thước (của cải ít).
– Nguồn nước không nằm chính giữa sân.
– Bệ đá hay bệ xi măng đặt chậu hoa phải đặt nằm ngang, không đặt thẳng đứng.
– Không khí trong sân phải được lưu thông thì gia đình mối đầm ấm, hạnh phúc.
Rất nhiều nhà đầu tư khi đầu tư cửa hàng nhân tố đầu tiên suy nghĩ đến đó là “tốc độ hoàn vốn đầu tư”. Tốc độ hoàn vốn đầu tư nhanh có nghĩa là tiền thuê cao, thời hạn thu hồi đầu tư thời kỳ đầu là ngắn, cũng đồng nghĩa với việc tiềm lực của cửa hàng ngày càng mạnh, lợi nhuận chuyển nhượng cũng càng cao. Những mê tín của tỷ lệ hoàn vốn đầu tư đã khiến cho các cửa hàng mở rộng và các cửa hàng tiêu thụ đưa ra những quy định tỷ lệ hoàn vốn đầu tư, một số cửa hàng thậm chí cam kết tỷ lệ hoàn vốn là 15% trở lên, công khai tuyên bố chỉ cần không lỗ, lấy sự mở rộng tuyên truyền không thực để thu hút nhà đầu tư.
Quả thực phân tích kỹ lưỡng một chút chúng ta sẽ phát hiện thấy rất nhiều thông tin truyền ra chỉ mang tính kêu gọi, hấp dẫn nhà đầu tư: cũng giống như là “thiên phương đạ đàn” của một đêm làm phú nông, những cách tính toán của tỷ lệ hoàn vốn đối với đầu tư đó, ngoài rất nhiều nhân tố ảnh hưởng không ổn định đến hoạt động kinh doanh.
Nhà đầu tư cần phải thoát khỏi nhận thức sai lầm về tỷ lệ hoàn vốn đầu tư cửa hàng, phải làm rõ những vấn đề sau đây: Đầu tiên, tiền thuê mãi mãi đều là tham số động thái. Những giá thuê cao trước mắt có thể là do cung không đáp ứng cầu mà thị trường dẫn đến, chứ không thể đại diện cho tiền thuê cao trong thời gian dài, cũng không thể bảo đảm liên tục trong 6 năm, 8 năm thậm chí 10 năm đều có thể lấy mức tiền thuê này để đưa ra thuê cửa hàng. Cái bánh lớn này không nhất định sẽ càng ngày càng to ra, nó sẽ càng ngày càng mỏng đi, tỷ lệ hoàn vốn chính là biến lượng. Chính vì vậy, dùng mức tiền thuê tĩnh thái trong một thời điểm nào đó để tính toán tỷ lệ hoàn vốn đầu tư đúng là không khoa học.
Tiếp đó, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư cũng là tiêu chí của động thái, nó sẽ biến động theo rất nhiều nhân tố biến động khác. Ví dụ: Tất cả các nhân tố như thay đối môi trường cạnh tranh địa đoạn, thay đổi quy hoạch ngành kinh doanh, thay đổi các loại ngành nghề kinh doanh, thay đổi các hình thái cung cầu tổng thể.v.v… đều có thể ảnh hưởng đến việc điều chỉnh động thái của tỷ lệ hoàn vốn đầu tư. Chính vì vậy, những cửa hàng khi mới bắt đầu liền thiết lập ra tỷ lệ hoàn vốn đầu tư khẳng định là có vấn đề, ít ra là không thể đại diện cho sự tính toán bước đầu của sự thay đổi, chỉ có thể tham khảo mà thôi.
Thứ ba là, đứng từ góc độ hoàn vốn đầu tư các cửa hàng đã lâu đời của nước ngoài, tỷ lệ hoàn vốn tổng hợp vào khoảng 5%, rất ít những cửa hàng có tỷ lệ hoàn vốn vượt quá 10%, thời kỳ thu hồi đó thường trong khoảng hơn 10 năm. Không thể phủ nhận rằng: Thời kỳ đều cần sự phát triển cửa hàng, giá trị của nó không được ai biết đến, giá bán rất thấp, đồng thời sự cạnh tranh thương mại cũng không kịch liệt, tiền thuê cũng rất cao, vì thế mà tỷ lệ hoàn vốn sẽ tương đối cao. Nhưng hiện nay là có sự khác biệt lớn, tỷ lệ hoàn vốn đã rơi xuống mức độ bình thường, cửa hàng mở rộng lại cam kết tỷ lệ hoàn vốn lên đến 15%, chúng ta lại phải mở to mắt ra để nhìn xem thế nào, những câu tuyên truyền như “đầu tư hiện tại chính là đầu tư cho tương lai” cũng bao hàm nghĩa cảnh tảnh. Rốt cuộc thì cái “bánh to” kia có thể làm to ra không, không thể dựa vào lời nói của những người kinh doanh mở rộng kia.
PHONG-NGUYÊN
Trên con đường học-hỏi, nghiên cứu về khoa tử-vi tôi được một điều may-mắn là hay gặp những vị cao-thâm và dày kinh-nghiệm về khoa này cho nên tôi đã thâu lượm được những điều hay lạ do các vị chỉ dẫn, mà nay tôi xin cống hiến quý vị bạn qua nhiều bài với niềm hi vọng khoa tử vi không bị thất truyền quá nhiều
Lọat bài này liệt kê tất cả đều do nhiều vị “sư” tử vi trao lại cho nên không có hệ thống (như vậy lại đúng với đường lối “tạp ghi của tôi). Nhưng tôi tin chắc quý bạn vẫn thấy lý thú và lãnh hội được mau lẹ hơn.
1. Vai trò của các hàng Can trong câu phú
Chắc quý bạn ai cũng đều biết câu phú: “Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh”, và ai cũng hiểu nghĩa câu phú này đồng thời thấy dễ áp dụng. nhưng nếu ai hỏi quý bạn tại sao chỉ có các tuổi Giáp, Đinh, Kỷ mới được hưởng cách này thì chắc quý bạn sẽ lung túng. Thực ra các vị uyên thâm tử vi đều giải thích được cả vì trong các sách tử vi của người Tàu cũng có đề cập tới. Điểm này tuy khó nhưng nếu được nghe giải thích quý bạn sẽ thấy giản dị vô cùng. Có nhiều người đóan mò cứ cho rằng nêu ra hàng Can tức liên quan đến ngũ hành sinh khắc chế hóa, nhưng thực ra hàng can được nêu ra chỉ nằm mục đích nói tới cách bố cục của một số sao, nhất là Khoa, Quyền, Lộc và Lộc Tồn vì các sao này được xem là nhóm sao bổ túc tối cần thiết cho cách đã nêu ra trong câu phú (trong trường hợp này là Tử Vi cư Ngọ).
Bây giờ hẳn quý bạn đã hiểu sơ qua về lý do tại sao có hàng Can trong câu phú, và tôi xin bàn trực tiếp đến câu phú trên cho quý bạn hiểu rõ rang. Điều cần nhất là quý bạn phải nhớ cách bố cục của các chính tinh. Nghĩa là khi Mệnh có Tử Vi cư Ngọ thì phải nhớ Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung tại cung Tuất (tức là cung Quan Lộc), Vũ Khúc, Thiên Tướng tại Dần (tức là cung Tài Bạch), Tham Lang cư Tý (tức là cung Thiên Di), và sau hết là Phá Quân cư Thân (tức là cung Phúc Đức). Quý bạn chỉ cần nhớ các chính tinh tại những cung chiếu về Mệnh và tại cung Phúc là đủ, nếu nhớ thêm các cung khác thì hơi mệt óc một chút mà lại không liên hệ gì đến cách đóan. Có nhớ được như vậy thì mới hiểu được mau lẹ cách bố cục của các nhóm sao bổ túc kể trên vì các sao này luôn an theo các chính tinh. Như tuổi Giáp an Hóa Lộc đồng cung với Liêm Trinh (cung Quan), Hóa Khoa đồng cung với Vũ Khúc (cung Tài), Hóa Quyền đồng cung với Phá Quân (cung Phúc); riêng Lộc Tồn tuy không an theo chính tinh nhưng vì ảnh huởng của sao này rất quan trọng nên phải chú ý, và trong trường hợp tuổi Giáp thì Lộc Tồn an tại Dần, đồng cung với Vũ Tướng và Hóa Khoa. Qua cách bố cục trên quý bạn thấy rằng Tử Vi đã hội đủ Tam Hóa và Lộc Tồn như vậy có đáng làm “công khanh” hay chưa? Nhất là không được gặp Hình Kỵ lại càng chắc ăn nữa, như trong câu phú đã ấn định. Về sao Hóa Quyền đồng cung với Phá Quân tại cung Phúc Đức quý bạn phải hiểu rằng cũng thuộc về mình vì cung Phúc Đức rất quan trọng cho mình. Ngòai ra, ta còn phải kể tới các sao Tướng Quân, Quốc Ấn nữa vì khi Lộc Tồn an tại Dần thời đối với tuổi Giáp đương nhiên Tướng Quân phải đồng cung với Tử Vi ở Ngọ và Quốc Ân sẽ tọa thủ tại Tuất (cung Quan), và khi Tướng Quân ở Ngọ, Phục Binh ắt phải ở cung xung chiếu, tức là được cách “nội tướng ngọai binh” là cách chỉ huy. Các bạn nên ghi nhớ thêm là tất cả các tuổi Giáp (như Giáp Tý, Giáp Ngọ, Giáp Dần, Giáp Thân…) nếu áp dụng cho đàn ông thời đương nhiên là Dương Nam và do đó Tướng Quân phải cư Ngọ trong trường hợp trên. Nếu là Dương Nữ chăng nữa thì Tướng Quân lại lọt vào cung Quan, như thế vẫn trực tiếp “phục vụ” cho Tử Vi cư Ngọ. Nói tóm lại, quý bạn hẳn nhận thấy cách trên đã hội đủ gần hết những yếu tố cần thiết cho Tử Vi cư Ngọ trong khi các tuổi khác không thể nào được như vậy. Tỷ dụ như tuổi Ất chẳng hạn chỉ được mỗi Hóa Khoa đồng cung với Tử Vi, còn Quyền Lộc chạy sang các cung khác, hơn nữa còn có khuyết điểm nặng nề là có Triệt án ngữ tại Ngọ-Mùi vì Tử Vi sợ nhất Triệt và nguy hại hơn nữa là Tướng Quân ngộ Triệt (mà Triệt lại lại chặn đầu nữa!) (Đối với các tuổi khác, quý bạn cứ việc suy luận theo như trên là hiểu ngay).
Qua thí dụ trên đây, quý bạn thấy rõ là các câu phú thật là súc tích và do đó các nhà tử vi điêu luyện nhiều khi chỉ bấm sơ trên tay là đóan được liền. Đối với những người có óc thực tế họ chẳng nhớ câu pú mà cứ nhắm vào các sao bổ túc kể trên để phối hợp với các chính tinh, nhưng như thế cần phải có sẵn lá số trước mặt chứ không thể bấm trên tay mau lẹ được.
2. Cách bố cục của các sao
Trong mục này tôi không chỉ dẫn về cách an sao mà trong các sách tử vi đều có. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến vấn đề phải nhớ đến hệ thống cố định của các sao, nhất là của các chính tinh, nghĩa là khi thấy các sao này ở cung Mệnh là đương nhiên sao nọ ở cung Quan, cung Thê v.v… Mục này khác với mục trên ở điểm là không phải chú trọng đến các nhóm sao bổ túc mà phải lưu ý đến các chính tinh cùng những sao an theo hệ thống cố định (tỷ dụ như có Hoa Cái ở Mùi thì đương nhiên Thiên Mã ở Tỵ, có Tang Môn ở Mệnh là đương nhiên có Thái Tuế ở cung Thê hoặc Phu v.v…). Có nhớ được như thế quý bạn mới hiểu được dễ dàng những điều tôi sẽ trình bày sau đây.
Tôi còn nhớ Cụ Song An Đỗ Văn Lưu (tác giả cuốn Tử Vi Chỉ Nam) khi còn sinh tiền có kể cho tôi nghe là Cụ thường thi đua với các nhà tử vi lành nghề về phương diện an sao cho nhanh và chính xác, và tất cả những nhà tử vi dự cuộc thi đặt điều kiện là phải an từng cung cho xong mới được qua các cung khác, chứ an theo cách đếm thường lệ thì rất dễ dàng. Tôi nêu ra chuyện này không phải đề cao Cụ Đỗ Văn Lưu vì thực ra Cụ đóan tử vi cũng chẳng giỏi gì, mà chỉ muốn nói rằng việc an sao như vậy rất có lợi cho cách đóan tử vi, nhất là khi muốn bấm bằng tay. Thực thế, khi quý bạn vừa nói với thầy tử vi là mạng quý bạn có Liêm Sát chẳng hạn, nếu thấy ông thầy đóan ngay lập tức là người vợ quý bạn đàng hòang, trung hậu, đảm đang thì bạn có phục và ngạc nhiên hay không? Nhưng nếu bạn nhớ cách bố cục cố định thì quý bạn cẳhng cho là lạ chút nào, vì khi cung Mệnh có Liêm Sát thời đương nhiên cung Thê có Thiên Tướng là sao có những đặc tính nêu trên, dù cho có gặp những sao khác chế hóa đi, cũng chỉ sai lệnh chút ít mà thôi.
Tôi xin nếu thêm một ví dụ khác nữa nếu biết cung mạng của quý bạn có Tang Môn ở bất cứ vị trí nào là tôi có ngay một khái niệm hạnh phúc lứa đôi của bạn, nghĩa là tôi đã biết sơ sơ là vợ chồng bạn (trường hợp có gia đình rồi) nương tựa lẫn nhau trên đường đời tuy hơi khắc khẩu.
Tại sao vậy? Cũng suy luận như trên khi mạng có Tang Môn thì cung Phối pảhi có Thái Tuế là sao hay cãi cọ, khẩu thiệt, nhưng cũng nói lên là sao nương tựa lẫn nhau vì tuổi mình ẩn trong sao đó (Thái Tuế an theo tuổi) và như vậy cung Thê phải đóng tại cung tuổi mình, tức là cách truyền cung mà tôi đã khen trong bài “Hạnh phúc vợ chồng qua cung Phối” đã đang trên KHHB. Nếu ngược lại, quý bạn cho tôi biết là cung Thê của quý bạn có Thái Tuế là tôi biết ngay quý bạn có tính đa nghi, hay hờn dỗi, ưa nghiên cứu kín đáo, có óc tế nhị, học hành dễ bị gián đọan hoặc chậm trễ; đó cũng chỉ vì tôi biết cung Mệnh của quý bạn đương nhiên có Tang Môn tượng trưng cho các tính chất trên.
Để chấm dứt mục này, tôi xin nêu ra một câu phú thong thường để nêu rõ sự cần thíêt về việc ghi nhớ cách bố cục cố định của các chính tinh. Đó là câu “Cự Nhật Dần Thân, quan tam đại”. Tại sao chỉ có cách Cự Nhật này mới được “quan phong tam đại”? Lại cũng suy luận theo cách bố cục của các chính tinh, ta thấy khi Mệnh của mình có Cự Nhật thì đương nhiên cung Ph1uc có Cơ Lương (ở Thìn hoặc Tuất) và cung Tử Tức có Thiên Phủ. Như thế phải 3 đời làm quan không? Cung Phúc có Cơ Lương ở Thìn Tuất thì ông cha của ta phải có chức phận trong chính quyền; cung Mệnh của ta có Cự Nhật thì chính ta phải làm quan, rồi đến cung Tử Tức có Thiên Phủ thì con cái ta cũng phải là người có công danh trong xã hội, lớn hay nhỏ còn tùy theo các sao khác, nhưng dù sao ta cũng mường tượng được dòng dõi của Cự Nhật rồi.
Trong bài hôm nay tôi mới chỉ tặng quý bạn được vài bông hoa trong rổ hoa tôi đã hái được nơi vườn tử vi và sẽ xin tiếp tục gởi đến quý bạn nhiều lòai hoa khác trong khu vườn tử vi, với điều kiện không bị các vị ‘sư phụ’ tử vi liên hệ ngăn trở vì một lý do nào đó.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Phải thôi, phải thôi! Do phấn đấu cả đời người mà chưa thi thố được tài năng về chính trị, cuối cùng Khổng Tử phải làm ông thầy dạy học, sau khi đã bươu đầu sứt trán, bất đắc dĩ phải cúi đầu nhận mệnh. “Không biết mệnh, không phải là nhà nho”, đó là ông tự vận vào mình sau khi bị nhiều lần thất bại, tâm tình ngày càng đi xuống, thế thì làm thế nào để “biết mệnh” được sớm? Thời Khổng Tử còn sống. Ngoài một số tướng thuật lẻ tẻ ra, đó là một việc không thể làm được, vì rằng lúc đó chỉ biết có mệnh mà không biết cách đoán mệnh.
Sau khi đã phát minh ra thuật đoán mệnh, do bởi tuân theo lời di huấn của bậc đại sư nho giáo, phần lớn là nghiên cứu dự đoán phú quý nghèo hèn, thọ yểu bệnh tật của một con người, tự nhiên đó là mục đích chủ yếu của thuật đoán mệnh.
Tại sao cũng một con người, sau khi sinh ra hoàn cảnh mỗi người lại khác nhau? Theo cách giải thích của nhà mệnh lý học. Tức là khi người đó mới thụ thai, khí âm dương giao lưu, chân tinh hoà hợp, nếu tiếp nhận được thanh khí thì có trí lực, tài năng, nếu tiếp nhận trọc khí thì sẽ ngu đần, có tài trí trong xã hội hẳn được lợi lộc nhiều, cho nên hoặc giàu hoặc thọ, nếu ngu đần làm ăn không phấn phát thì sẽ nghèo hèn mà chết yểu.
Nó phản ánh vào trong mệnh, tự nhiên sẽ hiện ra trong bát tự sao sinh của mỗi người.
Nói về cách tính tương lai của bản thân mệnh chủ, mỗi nhà mệnh lý học đều có một lô biện pháp của mình, đó là đoán phú quý nghèo hèn trước tiên phải xem can ngày trong mệnh của người đó có được lệnh hay không được lệnh, sau đó xem dụng thần có đắc lực hay không đắc lực, cuối cùng xem hành vận có thuận lợi hay không thuận lợi, nếu như can ngày đắc lệnh, dụng thân đắc lực, vận gặp tài quan, thường là phú nhiều phát phúc, đại cát đại lợi, ngược lại thì nghèo khó chao đảo, khổ không kể xiết.
Đoán sinh tử thọ yểu phải xem kỹ tuế vận và nguyên cục dụng thần là hỷ hay kỵ, nếu như tuế vận gặp kỵ thần trùm đấu, hỷ thần không cứu được, nếu nhẹ là hung, nặng thì chết. Nhưng cũng có cách nói. Lấy “tháng sinh mà định” (ngọc môn quan tập) rằng: thọ sinh lấy tháng sinh mà định, tháng sinh ở vào chỗ can chi nạp âm vượng, là ngũ hanh tương sinh không nghịch, giò Tỵ cùng thai, đều đắc số không cùng hình khắc, chủ thượng thọ. Ngoài ra trích thiên tuỷ có cách nói về phú quý nghèo hèn thọ yểu, có ảnh hưởng rất lớn:
1. Làm thế nào biết người ấy giàu, tài khí thông qua cửa ngõ
Thế nào gọi là tài khí thông qua cửa ngõ? Lưu Cơ chú giải rằng: tài liệu thân cường, quan tinh vệ tài, kỵ ấn mà tài có thể phá ấn, hỉ nhật mà tài có thể sinh quan, thương quan trọng tài thần lưu thông, tài thần trọng mà thương quan có hạn vô tài mà ám thành tài cục, tài bộ mà thương cùng lộ, đó đều là tài khí thông cửa ngõ, cho nên giàu. Nhậm Thiết Tiều thì nói bổ sung: tài diệu thân nhược không có quan, tất phải có thực, thương. Thân vượng tài vượng thì không có thực, thương, hẳn phải có quan có sát. Thân có ấn vượng thực, thương nhẹ, tài tinh đắc cục. Thân vượng quan suy ấn thụ nặng, tài tinh đương mệnh. Thân nhảy sang kiếp, không tài ấn mà có thực thương. Thân nhược tài trọng, không quan ấn mà có tỉ kiếp, đều là tài khí thông của ngõ. Do ở mệnh cục, cách luận tài cũng giống luận thê, cho nên có cách nói “thân tài thân thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, tài thần trọc mà thân vượng thì giàu có, nếu đi sâu vào nghiên cứu thì thuyết của họ Nhậm có thể tham khảo được. Ông nói: nếu thân vượng có ấn, quan tinh tiết khí, tứ chi không thấy thực, thương đều là tài tinh sinh quan, không thực, thương thì tài tinh cũng nông, chủ thể đẹp nhưng tài mỏng. Thân vượng không có ấn, quan nhược phùng thương, đắc tài tinh hoá thương sinh quan, thì cũng thông căn quan cũng được giúp, không những thê đẹp mà phú dày, thân vượng quan nhược, thực, thương trung kiến, tài tinh không thông với quan, nhà tuy phú nhưng thê xấu. Thân vượng nguyên quan, thực, thương có khí, tài tinh không liền với kiếp, không ấn mà thê, tài đều đẹp, có ấn thì tài vượng mà thê tổn thương. Bốn điều đó cần nghiên cứu kỹ.
Bát tự của mệnh:
Năm Giáp Thân Tháng Bính Tý
Ngày Nhâm Dần Giờ Tân Hợi
Nhâm Thuỷ sinh vào tháng giữa đông, dương nhận đương quyền, xem bề ngoài, chi ngày Dần thực thần Giáp Mộc bị Thân Kim xung phá nhưng hay ở chỗ chi ngày chi giò Dần Hợi hợp cục, hai cái đó là đất của niên can trung hoà và nguyệt can Bính Mộc Hoả trường sinh, thêm vào Tý Thân hợp Thuỷ, Thân Kim không những không xung Dần Mộc và sau khi hợp Thuỷ Thực Thần Giáp Mộc ngược lại được sinh phú, cho nên nói tài khí thông với cửa ngõ, là mệnh của phú ông trăm vạn, phàm là mệnh của bậc cự phú, không phải là tài tinh nhiều ít, chỉ cần sinh hoá có tình, thì tài khí sẽ thông cửa ngõ. Nếu tài tinh lâm vượng địa chi nên kiến quan vì quan tinh có thể làm tiết bớt khí của tài tinh. Nếu như nhật chủ thất lệnh thì hẳn phải có tỷ kiếp tương trợ mới là đẹp và tốt.
Bát tự của mệnh:
Năm Nhâm Thân Tháng Bính Ngọ
Ngày Quý Hợi Giờ Mậu Ngọ
Quý Thuỷ sinh vào tháng giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ tháng theo trụ giờ thấu xuất Bính Hoả Mậu Thổ, khó tránh được tài quan quá vượng. Hay ở chỗ trụ ngày Quý Thuỷ đắc địa, càng hay hơn là can năm Nhâm chi tiết toạ trường sinh, thân vượng Nhậm được tài quan, thêm vào ngũ hành không có Mộc, Thuỷ không tiết mà Hoả không trợ, cho nên lấy can năm Nhâm Thuỷ làm dụng thần. Sau đó vận đi về Tây Bắc, Kim Thuỷ đắc địa tuy nói di sản của tổ tiên để lại không nhiều, tay trắng làm nên, trở thành người giàu có 4-5 chục vạn.
2. Làm thế nào biết được quý (sang) quan tinh có lý hội
Giải thích về quan tinh có lý hội, Lưu cơ cho rằng: “quan vượng thân vượng, ẩn thụ vệ quan kỵ kiếp nên quan có thê khử kiếp, hỉ kiếp mà quan có thể sinh ấn, tài thần vượng mà quan tinh thông đạt, quan tinh vượng mà tài thần có đốt, không quan mà ngầm thành quan cục, quan tinh tàng mà tài thần cũng tàng. Những cái đó đều làm quan tinh có lý hội, cho nên quý.
Nhậm Thiết Tiêu thì nói: Thân yếu quan nhược, tài có thể sinh quan. Quang vượng thân nhược, quan có thể sinh ấn. An vượng quan suy, tài có thể phá hỏng ấn. ấn suy quan vượng, tài tinh không hiện. Kiếp nặng Tài nhẹ, Quan có thể khử Kiếp. Tài tinh hoại ấn, quan có thể sinh ấn. Dùng quan quan tàng tài cũng tàng dùng ấn lộ, quan cũng lộ, các quan tinh có- lý hội cho nên quý hiển vậy. Trong mệnh cục do luận quan và luận con cách làm giống nhau, cho nên lại có cách nói! Quan tinh thanh mà thân vượng thì quý, quan tinh trọc (đục) mà thân vượng thì nhiều con về chỗ này, Nhậm Thiết Tiêu nói thêm: nếu thân Vượng, quan vượng ấn cũng vượng, cách cục rất nhanh mà thương, thực tứ trụ, chẳng lẫn chút nào, tài tinh lại không xuất hiện, tình của quan tinh dựa vào ấn, tình của ấn dựa vào nhật chủ, chỉ sinh được một người, cho nên có quan không có vậy. Dù thực thương có hơi tạp cũng bị ấn tinh khắc, can cũng gian nan. Nếu thân vượng, quan vượng, ấn vượng, thực thương ám tang, không thương tổn quan tinh, không bị ấn tinh khắc, tự nhiên quý mà đông con. Nếu thân vượng quan suy, thực thương có khí, có ấn mà tài có thể hoại ấn, không tìa mà ngầm thành tài cục, không quý mà đông con và giàu. Nếu thân vượng quan suy, thực thương vượng mà không tài, có con tất nghèo, nêu thân nhược quan vượng, thực thương vượng mà không có ấn, nghèo mà không có con, hoặc có ấn phùng tài cũng theo luận thuyết này.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Đinh Dậu Ất Tỵ
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Tháng Bính Ngọ Giáp Thìn
Đông phương
Ngày Mậu Dần Quý Mão Mộc địa
Giáp Mộc trong Dần là sát dụng thần
Giờ Đinh Tỵ Nhâm Dần
Tân Sửu Bắc phương
Canh Tý Thuỷ địa
Mệnh này được tạo nên, nhật chủ Mậu Thổ, sinh vào tháng Ngọ giữa mùa hạ, Hoả khí viêm thịnh, lại gặp Hoả của Bính Đinh can chi năm, tháng, giờ sinh phù, Thổ của Mậu Kỷ trợ thân có thể nói thân cực vượng. Vượng lắm nên chế nên tiết cho nên lấy Dần trong chi ngày chế Giáp Mộc của ta thất sát, hoặc trong chi năm tiết Tân Kim trong Dậu của ta, lấy làm dụng thần. Lại xem hành vận, sớm trong năm Dần Mão Thìn Hợp Mộc, vạn hành phương đông được Mộc chế khắc, giữa và cuối năm chuyển sang Bắc phương Tý Sửu Thuỷ Vận, Thuỷ vượng sinh sát, cho nên là mệnh quý và quá phú.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm sát Quý Mão Nhâm Tuất Tây phương
Tháng sát Quý Hợi quan ấn Tân Dậu Kim địa
Ngày Đinh Mão ấn Canh Thân
Kỷ Mùi Nam phương
Giờ Tân Hợi Mậu Ngọ Hoả địa
Đinh Tỵ
Trong cục quan sát nắm quyền, tựa hồ thương uý, tốt ở địa chi Hợi Mão cung ấn, lưu thông Thuỷ khí, cho nên quan tinh có được lý hội. Đầu vận Tân Dậu. Canh Thân sinh sát hoại ấn, công danh đau tranh. Kỷ Mùi nhất vận, đại vận địa chi Mùi sẽ cảm ứng với mệnh cục Mão suy: Đại vận thiên can thấu xuất thực thần Kỷ Thổ, cho nên vận trình đi lên. Từ đó về sau Mậu Ngọ, Đinh Tỵ, thương sát thấu ra Tỷ kiếp trợ Thân, nên con đường thi cử huy hoàng, do đó có thể thấy, có mệnh ấy thì được vận ấy, nếu không chỉ mãi là hàn nho.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm quan Quý Dậu Bính Thìn Đông phương
Ât Mão Mộc địa
Tháng kiếp Đinh Tỵ Giáp Canh
Ngày Bính Ngọ Quý Sửu Bắc Phương
Giờ sát Nhâm Thìn Nhâm Tý Thuỷ địa
Tân Hợi
Bính Hoả sinh vào tháng đầu mùa hạ, toạ lộc lâm vượng, lại gặp can tháng Đinh kiếp trợ thân, cho nên bản thân thuộc cường, tốt ở địa chi Kỷ Dậu cung Kim, tài có thể sinh quan, quan lại chế kiếp. Càng hay hơn là Can giờ thấu xuất Nhâm Thuỷ, giúp khởi can năm quý quan, trỏ thành tượng ký tế của trụ tháng trụ ngày, kết hợp đại vận, một khi tiền vào Bắc Phương Thuỷ Địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi đều sáng.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tài Giáp Ngọ sát ấn Đinh Mão
Tháng quan Bính Dần tài quan ấn Mậu Thìn
Ngày Tân Dậu tỉ Ky Tị
Giờ ấn ẩn tỉ thực Canh Ngọ
Tân Mùi Nhâm thân Quý Dậu
Mệnh này bản thân can ngày Tân Kim, can năm tài tinh, can tháng quan tinh, can giờ ấn tinh, đều thông căn lộc vượng. Canh Ngọ nhất vận, 5 năm trước canh vận đeo vào người, nên trong vận năm Quý Dậu đăng khoa phát Giáp, sau 5 năm Ngọ vận thì sát vượng bệnh phát, thân thuộc hình tang đi đến Tân vận, tỉ đến trợ thân ở năm Kỷ Mão phát giáp lên cao, sau đó vận đi đến Kim Thuỷ. Giúp Thân chế sát, tung cánh bay cao.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Tỵ Canh Thìn
Tháng Tân Tỵ Kỷ Mão
Ngày Canh Thìn Mậu Dần
Giò Giáp Thân Đinh Sửu
Canh Kim ở vào ngày 5 lập hạ, Thổ đương lệnh mà Bính Hoả lại chưa nắm quyền, sinh canh Kim toạ thực, thêm vào chi Thìn, giờ Thân, sinh phù đều vượng, can tháng Tân kiếp, chi năm trường sinh là giúp, có thể thấy đấy là mệnh chưa sát ít. Phân tích trong mệnh tuy chi năm thấu xuất tài tinh nhưng tài tinh này vô căn mà gặp kiếp, cho nên có thê bói khi giao vào Đinh vận, do quan tinh nguyền thần phát lộ. Cho nên trong 2 năm Mậu Dần, Kỷ Mão tài tinh đắc địa. Thời hỉ dụng đều đến, khoa Giáp cùng đạt, sách nói: lấy sát hoá quyền, hiện rõ vẻ quý nơi cửa.
3. Sao biết người ấy nghèo
Tài thần Phân Bất gọi là “tài thần Bất Trân”, Nhậm Thiết Tiều cho rằng đại thể có 9 loại tình hình: một là tài năng mà thực, thương nhiều, hai là tài nhẹ hỉ thực, thương, mà ấn lườm tổn tài, ba là tài nhẹ kiếp nặng mà kỵ thấy thực thương, bốn là tài nhiều kiếp nhẹ mà quan tinh chế kiếp, năm là hỉ ấn mà tài tinh hoại ấn, sáu là kỵ ấn mà tài tinh sinh quan, bảy là hỉ tài mà tài hợp giảm thần mà hoá, tám là kỵ tài mà tài hợp gián thần hoá tài, chín là quan sát vượng dung ấn mà tài tinh đắc cục, đều là: phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới xem tựa hồ tốt đẹp, không tài quan đều đẹp thì can chi đều thanh không sát ấn tương sinh, thì tài làm vượng địa, không biết tài quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, đầu tiên nhật chỉ phải vượng tướng, mới có thể đảm đương tài phú, nếu thái quá bất cập, đều là bất trân, có thể tán có thể hao; rốt cục không thể phú quý được.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Quý Mão Quý Sửu
Tháng Giáp Dần Nhâm Tý
Ngày Đinh Tỵ Tân Hợi
Giò Kỷ Dậu Canh Tuất
Mệnh này Dậu tài tàng mà Quý sát lộ và sát ấn nối liền Bắc Phương, nhưng do sát can năm vô căn và tinh hoa của sát bị ấn thụ lấy mất, cho nên không dùng Quý Thuỷ làm dụng thần. Lại xem tài của Dậu Kim ở chi giờ, bên trên có Kỷ Thổ che trùm đầu, xem ra là đẹp nhưng mà toàn bộ cách cục Mộc vượng Thổ hư, tướng Hoả phùng sing, cho nên Kỷ Dậu không hội Kim thành tài, khiến cho tài tinh bất chân. Kết hợp đại vận khi giao Nhâm Tý, tiết Kim sinh Mộc, làm suy bại hết tổ nghiệp. Sau đó đi đến Quý vận, ấn gặp trường sinh, sẽ bị chết đói.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Nảm Tân Sửu Ất Mui
Tháng Bính Thân Giáp Ngọ
Ngày Qúy Tỵ Quý Tỵ
Giò Canh Thân Nhâm Thìn
Trong mệnh Bính tài tọa lộc, trong Sửu nhất sát độc thanh, xem ra tựa tốt đẹp, đáng tiếc trong cục ấn tinh qúa nặng, Sửu sát sinh ấn che tài, thêm vào Bính Tân Kim hợp mà hoá Thuỷ, biến tài thành kiếp, canh thân ở Tỵ, tài càng bất chân. Đầu hành vận, người Ất Mùi, Giáp Ngọ, Mộc Hoả đều vượng, thực thần sinh tài. Tổ nghiệp phong lưu. về sau một khi giao với Quý Tỵ, Tỵ cùng Thân Kim trong mệnh, đều hợp thành Thuỷ, khắp nơi Tỷ kiếp, bại tan như vôi, cuối cùng lâm cảnh ăn mày.
4. Sao biết người đó hèn
Quan tinh vẫn không thấy, Nhậm Thiết Tiều cho rằng quan tinh không thấy là do 3 tình huống, mức trên, mức giữa và mức dưới. Quan nhẹ, ấn nặng, thân vượng hoặc quan nặng ấn nhẹ, thân nhược, hoặc quan ấn bằng nhau, nhật chủ hưu tù, đây là quan tinh không thấy ở mức trên. Quan nhẹ, kiếp nặng, vô tài hoặc quan sát nặng vô ân, hoặc tài nhẹ kiếp nặng, quan phục, đó là quan tinh không thấy ở mức giữa.
Quan vượng hỉ ấn, tài tinh hoại ấn hoặc quan sát nặng vô ấn, thực thương cường chế hoặc quan nhiều kỵ tài, tài tinh đắc cục hoặc hỉ quan tinh mà quan tinh hợp với thần khác mà hoá thương, hoặc kỵ quan tinh, thần khác hợp quan tinh mà lại hoá quan, đó là quan tinh không thấy ở mức dưới.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Đinh Hợi Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào giữa mùa Đông, Can tháng thấu xuất Nhâm Thuỷ, địa Chi Hợi Tý Sửu hội bắc phương Thuỷ cục, mà Thìn lại là đất ướt. Không thể không chế được Thuỷ mà còn làm mò Hoả, thêm vào nhật chủ hư nhược, Giáp Mộc khô héo, Mộc ướt không thể sinh ra ngọn lửa được. Cho nên quan tinh vượng cực bất chân, trở thành tượng trong và khô. Tốt ở trong cục không có Kim, khí thế thuần trong, là người học vấn thực sự, xử thế không câu nệ, lấy việc dạy học làm kế sinh sống hàng ngày, chịu phận thanh bần, đó gọi là “quan tinh không thấy ở mức cao”
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Bính Thìn Tân Mão
Tháng Canh Dần Nhâm Thìn
Ngày Bính Ngọ Quý Tỵ
Giờ Nhâm Thìn Giáp Ngọ
Ất Mùi
Mệnh này Canh tài lâm vào tuyệt địa, vô căn, khí quan tinh cũng không đủ, vận đi về đông nam đất của Mộc Hoả, cho nên lúc nhỏ chết cha, mẹ đi lấy người khác, mấy năm sau mẹ chết, chăn trâu sông qua ngày. Lúc mối lớn lên đi ở kiếm sống, về sau không may mù cả hai mắt, không làm thuê mà đi xin ăn để sống.
5. Sao biết người ấy cát
Hỉ thần là phù bật hỉ thần là dụng thần phù bật, thuộc về cát thần trong tứ trụ nếu như có hỉ thân dụng thần có thể cả đời cát nhiều hung ít. Ngược lại trong tứ trụ không có hỉ thần xuất hiện, tuy có dụng thần nêu tuế vận không gặp kỵ thần xung khắc thì thôi, nếu qủa gặp kỵ thần, phần lớn khó tránh hung tai.
Bát tự của mệnh:
Năm sát Giáp Tý Tháng ấn Bính Dần sát ấn tĩ
Ngày Mậu Dần Giờ Kỷ Mùi
Đầu xuân, đất lỏng cát vượng phùng tài, cho nên lấy chính ấn Bính Hoả là dụng thần. Chi năm tài tinh sỏ thích cách với quả ấn và tài sinh sát, sát sinh ấn, có sinh sinh không sạch, lại lấy giờ Mùi giúp bản thân làm hỉ thần, hơn nữa tứ chi thuần tuý, chủ tòng đắc nghi thần, cho nên sớm đăng khoa Giáp, cả đời chỉ cát không hung, làm tới chức quan sát. Cuối đòi về hưu, phu phụ song toàn, thọ đến 80, mấy đời con cháu đều thi cử đỗ đạt
Bát tự của mệnh:
Năm Bính Thân Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Thìn Giờ Mậu Dần
Đây là hàn Kim hỉ Hoả, can năm Bính Hoả được chi giờ Dần Mộc tương sinh, thì Hoả có ngọn lửa, nhưng dụng tài sát đầu tiên phải thân ngày vượng, hiện tại can ngày Canh Kim hỉ phùng Kim trong chi năm là lộc và tam ấn can tháng Kỷ Thổ, can giờ Mậu Thổ, chi ngày Thìn Thổ đều sinh, thêm vào chi Hợi Thuỷ đương quyền, thân Kim tham sinh không xung Dần Mộc. Xem cả toàn cục, không Hoả thì Thổ đông Kim hàn, không Mộc thì Thuỷ vượng Hoả hư, cho nên cân nhắc lấy Hoả làm dụng thần, Mộc làm hỉ thần, cả hai Mộc Hoả không thể thiếu một. Trong đoàn viên trúng hỉ, dụng thần. Cho nên cả đòi không hung không hiểm, đăng khoa phát Giáp, quan chức lên cao, con cháu đều đẹp, thọ ngoài 80 tuổi.
6. Sao biết người ấy gặp hung
Kỵ thần theo Triển Thế Công nói: gọi là kỵ thần tức là thần làm tổn hại dụng thần. Kỵ thần trong bát tự là bệnh, hỷ bệnh không thuốc. Có bệnh có thuốc là cát, có bệnh không thuốc là hung, như người sinh tháng Dần, nếu không dùng Giáp Mộc mà dùng Mậu Thổ, thế thì Giáp Mộc khắc Thổ sẽ thành kỵ thần của đương lệnh. Lúc này trong mệnh cục của nhật chủ nêu có Hoả hoá Mộc, có Kim chế Mộc, Hoả Kim này sẽ thành hỉ thần, nếu từ đó về sau hành vận càng phù hỉ ức kỵ đều có thể chuyển hung thành cát. Ngược lại nếu trong mệnh trong vận không có Hoả hoá Mộc, không có Kim chế Mộc, trái lại có Thuỷ sinh Mộc, có Mộc nuôi Mộc thế thì tai hoạ nhiều bề, đến già cũng không cát, ngoài ra, tuế vận tuy chưa thể phù hỉ ức kỵ nhưng cũng không kết bè với kỵ thần thế thì suốt đời không hung không cát làng nhàng đến già. Vì thế Lưu Cơ nói: tài cung không có khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không phát đạt được mà thôi, cũng không bị hình hung. Còn như kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Chuyển sang công kích thần trong cục không được chuẩn bị, lại không theo chủ, không tránh khỏi hình tang phá bại, phạm tội, đến già cũng không cát.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Ất Hợi Đinh Sửu
Tháng Mậu Dần Bính Tý
Ngày Bính Tý Ất Hợi
Giờ Giáp Ngọ Giáp Tuất
Mệnh này Bính Hoả sinh vào ngày tháng Dần. Trong cục Dần Hợi hoá Mộc, năm đi vào Giáp Ất đều thấu, ấn tinh quá thịnh vượng mà chi ngày Tý Thuỷ lại bị chi giờ Ngọ Hoả xung phá, cho nên đành lấy can tháng khiếm Thổ làm dụng thần. Lại nhìn khí thế trong cục. Giáp Ất Mộc vượng, ngược lại được Hợi Tý Thuỷ sinh, đó là nói kỵ thần triển thế công vậy. Kết hợp vận trình, vận đầu Đinh Sửu, trợ khởi dụng thần, xuất thân cự phú, vui sướng đầy nhà. Khi giao với Bính Tý, Hoả không thông căn, Thuỷ trợ kỵ thần, nếu bố mẹ không chết, thì liên tiếp gặp Hoả tai. Vận đến Ất Hợi, Thuỷ Mộc đều vượng kỵ thần mỏ rộng, lại gặp Hỏa tai, khắc tam thê tự tử, nhảy xuống nước mà chết.
Bát tự của mệnh: Đại vận
Năm Tân Tỵ Kỷ Sửu
Tháng Can Dần Mậu Tý
Ngày Bính Thìn Đinh Hợi
Giờ Kỷ Sửu Bính Tuất
Ất Dậu
Bính Hoả tuy sinh vào tháng Dần nhưng xem rộng toàn cục Thổ Kim đều vượng, cho nên lấy Bính Mộc làm dụng thần. Nhưng Dần là cây non đầu mùa xuân, kỵ thấy Canh Kim che đầu nên lấy Canh là kỵ thần trong cục. Hành vận lúc đầu giao với Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh Kim tiết Hỏa, cha mẹ đều mất, sống cô độc không chịu nổi Đinh Hợi, Bính Tuất, vì Hoả đến Dậu đất Phương Bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên trải đủ phong sương, lập nên gia nghiệp vừa phải. Khi giao với Ất Dậu, Ất hợp với can tháng Canh Kim, Dậu hợp với chi ngày Thìn Thổ mà hoá Kim, kỵ thần đắc thế, hình thê khắc tử, gặp Thuỷ tai mà chết.
7. Sao biết người ấy thọ
Tính định nguyên thần dày gọi là “tính định” tức là 4 chi trong cục đắc địa, ngũ hành dừng đều, những gì hợp đều là gian thần, những gì hoá đều là dụng thần, những gì xung đều là kỵ thần, những gì lưu đều là hỉ thần. Khuyết nguyên không hãm, không thiên lệnh không bóp méo. Con người “tính định” không tham yêu đương, không làm việc cẩn thả, là người nhân hậu hoà bình, nhân đức đều đủ, cho nên nhiều phúc, nhiều thọ. Gọi là “nguyên thần dày” tức là 4 chi trong cung nhược, gặp tài, tài nhẹ, gặp thương, thân nhược có ấn thụ sinh thân, thân vượng có Thực, Thương, Thổ ra, những gì hỉ đều là thần của đề cương, những gì kỵ là vật thất lệnh, hơn nữa đề cương có tình với chi giờ, hành vận cũng hỷ dụng thần không dừng, cho nên phú và thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Tân Sửu Tháng Quý Tỵ
Ngày Giáp Tý Giờ Bính Dần
Mệnh này tứ trụ thông căn sinh vượng, đầu nguồn lưu thông, rất là đặc sắc. xem trước 4 chi, bản thân Giáp Mộc, quy lộc ở chi giờ, ấn thụ Quý Thuỷ lộc ở chi ngày, thực thần Bính Hoả, lộc ở chi tháng, quan tinh Tân Kim, chi toạ bại địa. Lại xem ngũ hành chi tháng Tỵ Hoả sinh chi năm Sửu Thổ. Chi năm Sửu Thổ sinh can năm Tân Kim, can năm Tân Kim sinh can tháng Quý Thuỷ, can tháng Quý Thuỷ sinh can ngày Giáp Mộc, can ngày Giáp Mộc sinh can giờ Bính Hoả, Bính Hoả lại toạ ở trường sinh địa, có thể nói là nguồn xa chảy ra. Vì vậy, người có mệnh chủ này nhân đức đều đủ, cương nhu giúp nhau, chức ở tam phẩm, giàu có trăm vạn, thọ đến trăm tuổi, chỉ chết vì già.
Bát tự của mệnh:
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Ất Mão Giờ Canh Thìn
Đông phương này chĩa thẳng vào nhân thọ cách, do Hoả khí trong cách suy vi, tài thần suy nhược nguyên khí, Mộc thế quá vượng, quan tinh mỏng mảnh vô cấn, cho nên suốt đời lận đận, trọng nghĩa khinh tài sông nếp thanh bần, nhưng hay ở đông phương nhất khí, nhân thọ thành cách. Lưu Cơ nói rằng: “khí của Giáp Ất Dần Mão lớn, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm, có được an nhàn nên thọ. Mộc thuộc nhân, nhân thì tho, ai cũng ứng nghiệm”. Vì vậy tuy cuộc sống thanh bần nhưng thọ đến 94 tuổi mới mất.
8. Sao biết người ấy yếu, khí đục thần khô
Gọi là “khí đục”, Nhậm Thiết Tiêu cho rằng: đục tức là nhược. Người khí đục, nhật chủ thất lệnh. Dụng thần nông mỏng, kỵ thần sâu nặng, đề cương cùng chi giờ không chiếu nhau, chi năm và chi ngày không hoà, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà không hợp, hành vận vô tình với hỉ dụng thần, ngược lại kỵ thần kết bè đãng, tuy không thọ nhưng có con. Gọi là “thần khô”, Nhậm Thiết Tiêu nói tiếp: thần cây bách, thân nhược mà ẩn thụ quá nặng, thân vượng mà đều không khắc tiết. Nhưng trọng dụng ấn mà tài tinh hoại ấn, thân nhược vô ấn mà trùng điệp thực, thương hoặc Kim hàn Thuỷ lãnh mà Thổ ướt hoặc Hoả bốc Thổ táo mà Mộc Khô, đều chết yểu mà không con. Lưu Cơ đã khái quát chung rằng i mệnh khí nhờn thần khô rất dễ xem., An thụ quá vượng, nhật chủ không có cái gì đến, tài sát quá vượng, nhật chủ không chỗ dựa, kỵ thần và hỉ thần tạp mà đánh nhau, tứ trụ nghịch với dụng thần mà tuyệt. Xung mà không Hoà, vượng mà không bị kiềm chế, ướt mà trệ, táo trên mặt, tinh lưu khí tiết, tháng bỏ giò thoát, đó đều là người không thọ.
Bát tự của mệnh:
Năm Đinh Sửu Nhâm Dần Bắc Phương
kỷ Thổ thương quan
Tháng Ọuý Mão Canh Tý Thuỷ Địa
Ẩt Mộc ân thụ dụng thần
Giờ thực thần
Mậu Tuất Ất Hợi
Mậu Thổ
thực thần Mậu Tuất Tây Phương
Đinh Dậu Kim Địa
Mệnh này Nhật chủ Bính Hoả, sinh tháng Mão giữa mùa xuân, Ất Mộc sinh Hoả, vốn thuộc việc tốt, đáng tiếc Kỷ Thổ trong chi năm Sửu. Mậu Thổ trong chi ngày Tuất, can chi trụ ngày lưỡng trùng Mậu Thổ, thực thương trùng trùng, khiến cho tự mình tiết khí quá nhiều, nhìn xem toàn cục khi lấy Ất Mộc ấn thụ làm dụng thần, đã có thể sinh ra mà còn chế phục được Thổ thái quá. Lại xem đại vận, từ Nhâm Dần về sau, cả một dày Hợi, Tý, Sửu là Thuỷ địa. Thuỷ tuy có thể chế Hoả nhưng Thuỷ lại có thể sinh Mộc, vận ở bước này không thể tốt hơn vận Mộc từ đông phương trực tiếp đến, nhưng lại không miễn cưỡng nói rằng đi qua. Nhưng một hành vận đi vào Tuất Dậu Kim địa, tuy nói Kim là tài vận nhưng Kim có thể khắc Mộc, tài tinh phá ấn, dụng thần bị chế, thế thì khó lòng giữ mệnh.
Bát tự của mệnh: Đại Vận
Năm Ấn thụ Ất Sửu Tân Kim Giáp Thấn
Tháng Ân thụ Ât Dậu Tân Kim, tử Quý Mùi
Ngày Bính Thìn Nhâm Ngọ
Giờ Chính tài Tân Mão Tân Tỵ
Mệnh này Bính Hoả sinh ở tháng Dậu tử địa, không có căn khí, thêm vào can giờ thấu xuất chính tài Tân Kim, chi năm chi tháng, Sửu Dậu cũng ngầm chứa chính tài Tân Kim, có thể nói là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thân, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần, vì rằng ấn, có thể sinh Thân, cho nên dụng thần ở đây sẽ áp tại Ất Mộc sinh ta vậy. Nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày cạn giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ tọa chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài đa thân nhược, với mệnh tài đa thân nhược mà không có tỉ kiếp trợ thần, tốt nhất lấy ấn làm dụng thần. Vì rằng ấn có thể sinh ta vậy, nhưng can năm dụng ở Ất Mộc, tuy cùng can ngày can giờ Thìn Mão thông căn nối liền, nhưng từ toạ chi của hai Ất Mộc mà xét, sẽ rơi vào tài tinh Tân Kim, có thể gọi là tài tinh phá ấn, trên dưới vô tình, ở trường hợp này, bề ngoài xem ra dụng thần tuy nhiên, nhưng lại không phải trân dụng, hơn nữa không có Tỷ, kiếp, lộc, nhậm sở hỉ trong mệnh bắt nhau, không khỏi gặp cảnh gian nan. Tốt ở đại vận Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Hoả đến trợ Thân, can ngày đắc địa nên có thể lấy vợ sinh con, nhưng khi giao vào vận Tân Tỵ can ngày Tân trong vận tước bỏ dụng thần Ất Mộc, tài có thể hoại ấn, địa chi trong vận cùng chi năm, chi tháng Sửu, Dậu trong mệnh cấu thành Kim cục, lại ra sức khắc chế thương tinh, ấn tinh chứa trong chi ngày chi giờ trong mệnh, chết yểu khó tránh ở kiếp tinh.
Về vấn đề sinh, tử, thọ, yểu trong Uyên Hải Tử Bình ở phần Cách cục sinh tử dẫn dụng có 7 điều, nêu lên để tham khảo
1. Phàm là cách cục, tự có định luận, giờ nói tóm tắt. Ấn thị kiến Tài hành tài vận lại kiêm tử tuyệt, tất xuống suối vàng, nếu có Tỷ kiên, có thể giải.
2. Chính quan gặp sát và thương quan hình xung phá hại, tuế vận song hành, tất tử,
3. Chính tài thiên tài gặp tỷ kiên chia nhau đoạt, kiếp tài dương nhận, lại gặp Tuế vận xung hợp, tất tử
4. Cách của thương quan, tài vượng thân nhược, quan sát gặp lại, hỗn tạp dương nhận. Lại gặp tuế vận, tất tử, nếu sống bị thương tật.
5. Giữ lộc, giữ quý, sang bằng lại gặp quan xung, nhận gặp tuế vận.
6. Lộc ngày quy giờ, hình xung phá hại, gặp thất sát, quan tinh, không vong, quan sát đại kỵ, tuế vận cùng vận tất tử.
7. Các cách khác đều kỵ sát và san bằng tuế vận cùng đến, tất tử, Gặp các hung thần ác sát, ấn thụ không vong, điếu khách, mộ, bệnh, tử cung chư sát, thập tử nhất sinh. Quan tinh thái tuế, tài nhiều thân nhược, nguyên phạm thất sát, thân được cứu thì cát, không được cứu thì hung, Kim nhiều yểu chết, Mộc thịnh bay trôi, Mộc vượng thì yểu, Thổ nhiều si ngây, Hoả nhiều ngu dốt. Thái quá bất cập, không để câu nệ mà phải quả đoán, cần phải lý hội để tìm ra sinh tử.
Ngoài ra Tam mệnh thông hội ở quyển 8 nói: “Ngày Đinh Hợi, giờ Ất Tỵ, ngày giờ đều xung, tổn thương vợ con, Tỵ, Dậu, Sửu, Than Ty, Thìn 2 cục Kim thuỷ, tài cung đắc dụng nên phú quý vậy. Tiếp theo còn nêu hai ví dụ về Bát tự của mệnh, một là Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Đinh Hợi, Ất Tỵ, nói đó là mệnh nghèo chờ chồng, một là Đinh Hợi, Giáp Thìn, Ất Hợi, Ất Tỵ, đó là mệnh ăn mày. Trên thực tế, do tồn tại khách quan nhiều loại không chuẩn xác, cho nên Trần Tố Am trong khán phú quý cát thọ bần tiện hung yếu pháp đã ra sức cổ vũ khuyến khích tư tưởng làm điều thiện, báo ứng nhân quả của Phật giáo. Lập luận của ông có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng mệnh học của các thế hệ đời sau, cho nên chúng tôi đã trích dẫn sau đây:
Cách cục phú quý cát, nghèo hèn hung, lấy lẽ đã định tương đối chuẩn, nhưng dùng đoán mệnh cho người không ứng nghiệm hoàn toàn là do bản thân có thiện ác và gia tộc có thiện ác. Phúc thiện dâm là lẽ tất nhiên. Như người làm điều ác, mệnh quý đến nhất phẩm thì giảm xuống chỉ còn tứ, ngũ phẩm, mệnh đáng giàu trăm vạn thì giảm xuống còn 6 - 7 chục vạn, mệnh đáng thọ trăm tuổi thì giảm xuống còn 6 - 7 chục tuổi; mệnh đáng hưởng đủ ngũ phúc thì giảm xuống còn 1 - 2. Như người làm điều thiện, mệnh lẽ cực hèn mà được vinh hiển một phần, mệnh đáng cực nghèo, có được tài sản của kẻ trung lưu, mệnh đáng chết sớm mà thọ được mấy chục tuổi, mệnh đáng gặp nhiều hung mà tránh được vài ba. Lẽ đời kẻ làm điều ác sao được hưởng phúc? Người làm điều thiện sao lại gặp hoạ, há không biết phúc đã bị tổn, hoạ đã bị diệt sao? Người biết hoạ phúc sao không biết mệnh, biết thiện ác là âm của hoạ phúc thì là biết mệnh. Tuy vậy, biết thì có ích gì? Có thay đổi được không, xưa Viên Liễu Phàm tiên sinh gặp thầy pháp thuật đoán mệnh, nói đi thì chỉ dừng ở cống sĩ mà không có con. Do trình bày cặn kẽ lý lịch, lúc đầu cái gì cũng đúng, sau gặp vị cao tăng, hướng dẫn học tạo mệnh, tích được phép làm điều thiện và cầu khoa bảng, tích được phép làm điều thiện cầu con cái. Thiên số đã định, thi hai kỳ đỗ cao, điều pháp sư đoán không có gì không nghiệm, cho nên phàm muôn cầu phú quý cát thọ mà tránh nghèo hèn hung yêu thì phải biết tích thiện là cần, hàng ngày tự nhớ việc làm, phải luôn tâm niệm nhân đức, việc việc đều thiện, lâu sẽ được như ý muốn. Nếu cậy mệnh thiện mà dám làm điều ác, mong mệnh giúp đỡ mà không biết suy nghĩ lại, đó là loại người ngu nhất trong thiên hạ, là kẻ sĩ chẳng có ý chí gì.
Đoán mệnh, ngoài đoán giàu nghèo thọ yểu là chính ra, có sách đoán mệnh còn không quên đoán bệnh tật cho người. Muốn đoán bệnh tật trước tiên phải liên hệ ngũ hành với lục phủ, sau đó căn cứ nguyên lý sinh ngũ hành để phân tích. Theo lý luận của Ô y, sự tương phối của ngũ hành với ngũ tạng, lục phủ như sau:
Giáp mật (đỏm) Ất gan (can)
Bính tiểu tràng Đinh tâm
Mậu dạ dày (vị) Kỷ tì
Canh đại tràng Tân phổi (phế)
Nhâm bàng quang Quý thận, tâm bào lạc tam tiêu
Trong đó mật, dạ dày, đại tràng, tam tiêu, bàng quan thuộc lục phủ, tính chất thuộc dương, cho nên đều phối với dương can, gan, tâm, tỳ thận thuộc ngũ tạng, tâm bào lạc thì thuộc vào tâm, tính chất thuộc âm, cho nên đều phối với âm can, ca rằng:
Giáp đơm Ất can Bính tiêu tràng
Đinh tâm Mậu vị Kỷ tỳ hương
Canh thị đại tràng Tân thuộc phế
Nhâm hệ bàng thoát Quý thận tàng
Tam tiêu diệc hướng Nhâm trung ký
Bào lạc đồng quy nhập Quý phương
Lại nói rằng:
Giáp đầu Ất hạng Bính kiên cầu
Đinh tâm Mậu hiếp Kỷ thuộc phúc
Canh thị tề luân Tân vi cổ
Nhâm cảnh Quý túc nhất Thân phúc
Chú thích: hạng (gáy) kiến (vai) hiếp (sườn) phúc (bụng) tề (rốn) cổ (đùi) túc (chân) Nam Định.
Đồng thòi, người xưa còn liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể nhưng nó không quan trọng bằng liên hệ với ngũ tạng, cho nên thường không được coi trọng.
Bây giờ đem việc liên hệ 12 địa chi với các bộ phận ở thân thể, ghép thành bài ca như sau:
Tý thuộc bàng quang thuỷ đạo nhĩ
Sửu vi bào đồ cập tỳ dương
Dần dởm phát mạch tịnh lưỡng thủ
Mão bản thập chỉ nội can phương
Thìn Thổ vì tỳ thận hung loại
Tỵ nhi xĩ yết hạ cửu cang
Ngọ Hoả tinh thần tự nhãn mục
Mùi Thổ vị quản cách tích lương
Thân Kim đại tràng kinh lạc phế
Dậu trung tỉnh huyết tiểu trường tàng
Tuất Thổ mệnh môn thoái Hoả túc
Hợi thuỷ vi đầu cập thận nang
Chú thích: bào (tâm bào) đỗ (bụng) đởm (mật) lưỡng thủ (hai tay) thập chỉ (10 ngón) can (gan) hung (ngực) xĩ yết (răng yết hầu) cửu cang (hậu môn) nhãn mục (mắt) vị quản (dạ dày) cách (hoành cách mô) tích lương (cột sống) phế (phổi) thoái (đùi) Hoả (mắt cá) túc (chân)...
Khi xem cụ thể, lấy can chi ngày làm chính, kết hợp ngũ hành sinh khắc thái quá bất cập mà định. Ví dụ can ngày là Giáp, Ất Mộc. Trong bát tự tứ trụ xuất hiện Kim trong Canh, Tân, Thân, Dậu, Mộc sẽ bị khắc, có thể sẽ bị gan mật, kinh sợ, lao lực, tay chân tê cứng, gân cốt đau nhức, đầu váng mắt hoa, hoặc mồm méo mắt xếch, phải trái bị liệt hoặc quỵ ngã thành thương tật. Ví dụ can ngày sinh vẫn là Giáp, Ất Mộc, trong Bát tự tứ trụ xuất hiện Hoả nhiều trong Bính, Đinh, Tỵ, Ngọ mà không có thuỷ đến trợ giúp, lúc này Mộc khí bị tiết quá nhiều, có thể bị nội nhiệt miệng khô, đòm suyễn khạc ra máu, trúng phong không nói được, phụ nữ kinh nguyệt không đều: mang thai bị sẩy, trẻ con kinh phong cấp mạn tính, ho thở khóc đêm, da xanh xám. Tại sao Mộc bị Kim chế hoặc Hoả tiết quá nhiều mà sinh ra những chứng bệnh này, trong y học cổ truyền đã nói và phân tích nhiều, ở đây không đi sâu bàn luận.
Về cách xem bệnh tật nói ở trên, Trần Tố Am có cách kiên giải độc đáo của ông: xưa phân ngũ hành, luận về bệnh tật của người, không gì không hợp lý nhưng Ngũ hành tạng phủ kinh lạc của con người đều đủ, nhưng trong trụ mệnh trong vận của con người, ngũ hành vị tất đã đủ đầy, phải lấy một hành nào đó để đoán bệnh thì chia đủ linh nghiệm. Phải xem ngày và cách cục của nó, nêu mạnh khoẻ, trung hoà hoặc Hoả thuận đều là mệnh không có bệnh, nếu yếu đuối, xô tạp hoặc rũ xuống đều là mệnh có bệnh. Lại xem khí thế của thần, hoặc thái quá, hoặc bất cập, rồi kết hợp xem ngũ hành trong trụ trong mệnh mà tính, tức là không có Mộc mà sinh Mộc, khắc Mộc, xem thần Mộc sinh Mộc khắc mà có thể đoán Mộc có bị bệnh hay không. Còn như can chi phôi với đầu, mắt, tay chân là ý muốn nói tìm biết tín hiệu. Nếu các bệnh đều thuộc về tâm thì theo luận thuyết của danh y, đâu phải ngũ hành? Phải trích mấy trăm loại sách thuốc để đưa vào mệnh vậy.
Để giản tiện dễ nhớ, lấy một phần bài phú cổ trích ra sau đây:
Gân cốt sưng đau, do Mộc bị Kim làm tổn thương, mắt mờ tối hẳn do Hoả bị thuỷ khắc; Thổ hư gặp Mộc vượng, tỳ bị tổn thương; Kim nhược gặp Hoả viêm là bị bệnh huyết lại nói:
Mộc gặp Kim khắc, bị tai nạn ở lưng sườn, Hoả bị Thuỷ làm tổn thương, tất bị tật mắt; tâm yếu thỏ dội thuộc về Kim Hoả tương hình; tỳ vị tổn thương do Thổ Thuỷ khắc nhau, chi Thuỷ can đều có Hoả bốc nên bụng đau tim bị che; chi Hoả can đầu có Thuỷ tích nên nội chướng mắt mờ; viêm trên (Hoả) đốt Thổ ướt nên đầu váng mắt hoa, nhuận dưới (Thuỷ) thuần ướt không Thổ chế, thận hư tai rè; đom đóm nháy (Hoả tinh) thừa vượng lâm li (Hoả phong); trong gió (trung phong) mất tiếng, thái bạch (Kim tinh) cứng sắc hợp Đoài Khôn (Kim Thổ) mất hồn mất vía.
Kết hợp với học thuật của các học giả Đài Loan thời nay, Từ Bình Bát tự đại đột phá cho rằng: phàm mệnh người, cường Kim phạt Mộc, Thổ nặng Mộc gãy, thuỷ nhiều Mộc trỗi. Hoả viêm Mộc bị đốt, Mộc nặng không tiết đều là gan mật có bệnh”, “phàm mệnh người, thuỷ nhiều Hoả tắt, Thổ nhiều Hoả mờ, Kim nhiều Hoả biến, Mộc nhiều Hoả tắc, Hoả nhiều không tiết, đều là bệnh tiểu tràng, bệnh tim”. “Phàm mệnh người, Mộc nặng Thổ lún, thuỷ nhiều Thổ hoang, Kim nhiều Thổ hư, Hoả nhiều Thổ cháy, Thổ vượng không tiết, đều là bệnh ở tỳ vị”, “phàm mệnh người , cường Hoả làm chảy Kim, Mộc rắn Kim bị thương, Thổ nhiều Kim bị vùi, thuỷ nhiều Kim bị chìm, Kim vượng không tiết, đều là đại tràng và phổi có bệnh” “Phàm mệnh người, Thổ nhiều thuỷ tắc, Kim nhiều thuỷ đục, Hoả nhiều thuỷ bốc hơi, Mộc nhiều thuỷ co lại, thuỷ vượng không tiết, đều là bàng quang và thận có bệnh.
Cách xem tật bệnh ở mệnh cục, học giả Đài Loan Lương Tâm Minh trong cuốn Hiện đại mệnh học còn tích cực để mắt tới việc nuôi dưỡng hậu thiên, đã nêu lên cách nói “tiên thiên hậu thiên điều hoà phù nhau bổ sung cho nhau. Trong sách Luận kiên khang cư gia chính quyết ông nói: thần điều hậu là thần dược, rất quan trọng trong mệnh cục. Mệnh chính cách sinh vào hạ lệnh viêm nhiệt, cần có thuỷ điều hậu tư nhuận, nếu không trong cục Hoả nhiệt quá táo sẽ không tốt. về mặt ăn uống, ăn chất mát thì tốt cho thân thể, những thức ăn táo nóng thì nên ăn ít. Mệnh chính cách sinh vào mùa đông lạnh, cần điều hoà cho ôn ấm, để lạnh quá sẽ không tốt, cho nên ăn chất nóng có lợi cho thân thể”.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Bạn đang thắc mắc 12 chòm sao phản ứng ra sao khi người yêu có em bé? Sư Tử hùng dũng chịu trách nhiệm, Ma Kết nghĩ ngay đến kết hôn. Còn những chòm sao khác thì như thế nào? Cùng khám phá trong bài viết sau!
Nội dung
Khi nghe tin người yêu mình có em bé, Chòm sao này có vẻ không vui và có cảm giác nghi ngờ về cái thai không biết liệu phải của mình không?
Khi nghe tin người yêu mình có em bé chòm sao này không hề vui vẻ và cho rằng đó không phải là con của mình. Nói đúng ra Kim Ngưu sẽ không chịu trách nhiệm về cái thai.
Khi biết người yêu có em cũng lảng tránh trách nhiệm. Sẽ biện cớ một lý do gì đó để trốn tránh.
Khi nghe tin người yêu có em bé, chòm sao này vui sướng khi được làm cha.
Chòm sao sư tử vẫn luôn thể hiện được bản lĩnh của một người đàn ông hùng manh. Những gì họ đã làm họ sẽ chịu trách nhiệm. Và khi biết người yêu có em bé cũng thế, Chòm sao này sẽ tự tin đứng ra chịu trách nhiệm.
Chòm sao này, có bản tính nghi ngờ, cho rằng đứa bé không phải là của mình.
Chòm sao này cũng nghi ngờ em bé không phải là con của mình.
Thể hiện ngay bản tính xấu, vô trách nhiệm ngay khi biết người yêu có em bé. Cho rằng việc đó không liên quan gì tới mình.
Khi nghe tin người yêu có em bé, chàng trai này rất sốc
Chàng trai này lại là người rất tình cảm. Sau khi nghe tin người yêu có em bé, anh ta rất vui mừng và cầu hôn người yêu của mình ngày khi biết tin.
Khi nghe tin người yêu có em bé anh chàng này rất vui, vì ngay ban đầu anh chàng này đã muốn tính chuyện xa hơn với người yêu. Đây trở thành cơ hội tốt để cầu hôn người yêu.
Khi nghe tin người yêu có em bé, chàng trai này không tin vào mắt mình. và không tin đứa bé là con mình.
iáo, nghệ thuật, ngoại giao, nhãn khoa, ngoại khoa, sản khoa…
Bệnh tim là một trong những loại bệnh đe dọa nghiêm trọng tính mạng con người. Các nhà y học trên thế giới thống kê trên lâm sàng, chia thành 2 loại A và B.
Loại A có đặc trưng: Nói nhỏ, trầm, nhu mì, hiền hậu, sinh hoạt chậm, bảo đảm an toàn.
Đặc trưng của loại B tương đôi rõ, đặc biệt là khi đã phát bệnh. Đó là cá tính quá mạnh, cố chấp, thích tranh biện, nôn nóng, căng thẳng, phát ra âm thanh to, vội vàng, thích đấu đá.
Dưới đây là câu chuyện kể về giấc mơ của một cô sinh viên:
Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, nhà trường không thể hoạt động được, đầu phố loạn lên vì xe tăng, quân đội; sân bay ngầu bụi. Có nhiều phụ nữ mặt trắng bệch, có lẽ do quá sợ hãi. về sau tất cả phụ nữ đều bị bắt. Lúc bấy giờ hình như chiến tranh tạm ngừng, hai bên đều ăn mừng thắng lợi. Tất cả đàn bà phải xếp hàng để kẻ thù chọn làm vợ. Tôi đứng đầu hàng, được chọn làm vợ một vị tướng. Tôi bị đưa đến tầng trên của Bộ Tư lệnh. Vị tướng đó đang đi kiểm tra bản đồ, bốn phía đều được canh phòng cẩn mật, tôi nhu’ bị bắt giam. Cảm giác bị đè nén khó thở. Tôi cảm thấy đau đớn. Về sau tôi báo cho vị tướng là tôi đã có thai, có thể sinh con. Lúc đó tên tướng giặc tìm xe đưa tôi đi bệnh viện.
Lúc này quang cảnh bên ngoài đã trở lại bình thường, chẳng có chút gì là vừa qua chiến tranh. Vị tướng giặc mặc âu phục, mặt lạnh lùng đưa tôi đến bệnh viện. Bác sĩ tiêm cho tôi một mũi, loại thuốc nước màu đỏ. Đứa bé ra đời.
Nghe xong, thầy thuốc đã phân tích như thế này:
– Cô có bệnh tim, bệnh trạng đã biểu hiện. Tim cô đau ờ thời kỳ đầu, cơn đau kéo dài mấy giây, hoặc không có quy luật, có lúc khiến cô hôn mê. Giấc mơ của cô là như thế.
Người bệnh khẽ gật đầu đồng ý. Thầy thuốc nói tiếp:
– Trong chiến tranh có nhiều người ở vùng địch chiếm đóng đã phải lấy bọn quan lính giặc. Chuyện lấy tên quan giặc chẳng qua là một điều vô thức. Do mắc bệnh nặng nên cô thiếu máu, người trắng bệch. Cô rất cần máu nên mơ thấy có người đến cho mình máu. Cô mơ sinh được đứa con là tượng trưng cho việc khỏi bệnh.
Thông thường, những người mắc bệnh tim trong giấc mơ đều thấy có thứ màu đỏ và màu trắng, có lúc bị kích thích mạnh. Hình ảnh chiến tranh, thương vong gây nên cảm giác đau đớn.
Hành: HỏaLoại: Hung Sát TinhĐặc Tính: Độc ác, sát phạt, cô bần, tai nạnTên gọi tắt thường gặp: Linh
Phụ Tinh. Thuộc bộ sao đôi Hỏa Tinh và Linh Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).
Vị Trí Ở Các Cung