Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những thế ao hồ họa nhiều hơn phúc

Trong phong thủy, nước là yếu tố rất tốt, chủ về tài lộc, may mắn nên nhiều gia đình có điều kiện thường đào ao, hồ quanh nhà. Tuy nhiên, muốn tốt phải nắm
Những thế ao hồ họa nhiều hơn phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được “bí kíp”, những thế ao hồ tai họa dưới đây thì nhất thiết phải tránh.


► Xem phong thủy và những điều ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn

Nhung the ao ho hoa nhieu hon phuc hinh anh
 
Nước thì tốt, có ao hồ vừa đẹp cảnh quan vừa hút năng lượng nhưng nhiều quá lại thành họa. Ao hồ cả hai phía Đông, Tây nhà là thế ao hồ tai họa, khiến người trong nhà thần kinh bất ổn. 
 
Trước nhà hoặc bên trái, bên phải đều có ao là thế chân rồng chân hổ giẫm lên nhau, thế ao hồ tai họa, ắt có tà dâm. Nhà có nhiều ao liền nhau, gia chủ trước sau cũng gặp nạn bất ngờ.
 
“Tiền đường hạ cấp đường, nhi tôn huyền tiểu vong”, tức là ao trước ao sau nhà, con cháu thường đoản thọ, là thế ao hồ tai họa phải tránh khi xây dựng.
 
Người xưa thường nói “Thượng đường liên hạ đường, quả phụ thủ không phòng, phong tật bất ly sàng”, nghĩa là ao trên liền ao dưới, vợ góa giữ phòng không, ao to nối ao nhỏ, bệnh phong chẳng rời giường. Còn ao hồ có hình dáng giống hoa mai thì chủ nhà dễ góa bụa.
 
Ao hồ gần nhà, ánh sáng mặt trời phản xạ được vào trong nhà, phong thủy học gọi là “gương soi chậu máu” hoặc “vạn đạo kim quang” chiếu vào nhà, thế ao hồ cực xấu. Gặp trường hợp như vậy, trước sau gì cũng thất vận.
 
Nhiều nhà hóa giải bằng cách treo gương to giữa cửa nhà để phản lại thì sát khí càng mạnh, độ hung càng lớn. Nên thả bèo kín ao để giảm tia nắng khúc xạ vào nhà. Ngoài ra, có thể trồng cây trúc phía bờ ao đối diện ngôi nhà. Trúc dễ trồng, mọc nhanh, sẽ chắn những tia nắng khúc xạ vào nhà khi chiều tà, sát khí giảm hẳn.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thế ao hồ họa nhiều hơn phúc

Cấm kị cho 12 con giáp trong tiết Mang Chủng

Dưới đây là những cấm kị cho 12 con giáp trong tiết Mang Chủng cần lưu ý để đón lành tránh dữ trong tiết khí này.
Cấm kị cho 12 con giáp trong tiết Mang Chủng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ngoài việc lưu ý áp dụng biện pháp để tăng vận khí, 12 con giáp cần nắm được những điều cấm kị để hạn chế xui xẻo, đón lành tránh dữ trong tiết Mang Chủng.
 

Dưới đây là những cấm kị cho 12 con giáp trong tiết Mang Chủng cần lưu ý để đón lành tránh dữ trong tiết khí này.  
Cam ki cho 12 con giap trong tiet Mang Chung hinh anh
 
Tuổi Tý    Nên: Cưới hỏi, xây sửa, nhập trạch, kê giường, an táng, cầu tự, cầu quý nhân.   Kị: Tế lễ, cầu phúc, khai quang, xuất hành, cầu tài, đi thuyền.   Thực phẩm bổ dưỡng: Dứa, mướp đắng   Khai vận: Lục U Linh (một trong loại thạch anh quý)   Tuổi Sửu   Nên: Khai trương, nhập trạch, sửa chữa, kê giường, xây bếp, cầu tự, cưới hỏi, an táng, cầu quý nhân.   Kị: Tế lễ, cầu phúc, khai quang, xuất hành, cầu tài, đi thuyền.   Thực phẩm bổ dưỡng: Đậu xanh, xoài   Khai vận: Thạch anh vàng   Tuổi Dần   Nên: Cầu quý nhân, cưới hỏi, nhập trạch, khai trương, cầu phúc.   Kị: Xuất hành, cầu tài, sửa chữa, kiện tụng.   Thực phẩm bổ dưỡng: Mướp đắng, đậu đỏ   Khai vận: Hắc diệu thạch    Tuổi Mão  
Cam ki cho 12 con giap trong tiet Mang Chung hinh anh 2
 
Nên: Tế lễ, cầu phúc, cầu quý nhân, khai trương, cưới hỏi, sửa chữa, nhập trạch, an táng.   Kị: Xuất hành, cầu tài.   Thực phẩm bổ dưỡng: Quả vải, hạt kiều mạch   Khai vận: Đá mắt hổ   Tuổi Thìn   Nên: Cầu phúc, cưới hỏi, nhập trạch, sửa chữa, an táng, tế lễ, xuất hành, cầu tự, cầu tài, khai trương, giao dịch.   Kị: Đổ mái, dựng xà nhà, nhập liệm.   Thực phẩm bổ dưỡng: Ngô, chuối   Khai vận: Thạch anh tím   Tuổi Tỵ   Nên: Tế lễ, cầu phúc, xây bếp, cưới hỏi, khai trương, xuất hành, cầu tự, nhập trạch.   Kị: Khai quang, sửa chữa, an táng.   Thực phẩm bổ dưỡng: Khoai lang, rau thơm   Khai vận: Mã não đỏ   Tuổi Ngọ  
Cam ki cho 12 con giap trong tiet Mang Chung hinh anh 3
 
Nên: Cưới hỏi, sửa chữa, nhập trạch, khai trương, an táng, xuất hành, cầu tài, cầu quý nhân, nhận con nuôi.   Kị: Đi thuyền, tế lễ, cầu phúc, cầu tự, thắp hương.   Thực phẩm bổ dưỡng: Quả anh đào, tỏi   Khai vận: Tiền xu đồng (lỗ tiền xu hình vuông)    Tuổi Mùi   Nên: Khai trương, nhập trạch, sửa chữa, kê giường, xây bếp, cầu tự, cưới hỏi, xuất hành, an táng, cầu tài.   Kị: Tế lễ, cầu phúc.   Thực phẩm bổ dưỡng: Đậu tương, dưa chuột   Khai vận: Tràng hạt tử đàn   Tuổi Thân   Nên: Tế lễ, cầu phúc, cầu quý nhân, cầu tự, cưới hỏi, khai trương, nhập trạch, an táng.   Kị: Đóng thuyền, sửa chữa, động thổ, xuất hành, cầu tài, kiện tụng.   Thực phẩm bổ dưỡng: Đậu Hà Lan, quả sơn trà   Khai vận: Thạch anh trong   Tuổi Dậu  
Cam ki cho 12 con giap trong tiet Mang Chung hinh anh 4
 
Nên: Giao dịch, cầu tự, cầu quý nhân.   Kị: Tế lễ, cầu phúc, xuất hành, sửa chữa, xuất quân.   Thực phẩm bổ dưỡng: Quả roi, củ mài   Khai vận: Ngọc bích   Tuổi Tuất   Nên: Cầu tự, sửa chữa, xây bếp.   Kị: Tế lễ, cầu phúc, khai quang, xuất hành, cầu tài, đi thuyền.   Thực phẩm bổ dưỡng: Quả na, khoai tây   Khai vận: Thạch anh xanh   Tuổi Hợi   Nên: Tế lễ, cầu phúc, cưới hỏi, nhập trạch, an táng.   Kị: Xuất hành, cầu tài, sửa chữa, xuất quân.   Thực phẩm bổ dưỡng: Sầu riêng, cây tỏi tây   Khai vận: Đá hắc nguyệt quang  
► Tra cứu: Lịch âm 2016, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Ngọc Điệp
  Tiết Mang Chủng: 12 con giáp nên làm gì để tăng vận khí?
Tiết Mang Chủng đứng thứ 9 trong 24 tiết khí, là thời điểm báo hiệu thu hoạch vụ nông. Nhân cơ hội này, 12 con giáp có thể áp dụng một số tuyệt chiêu sau để

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cấm kị cho 12 con giáp trong tiết Mang Chủng

Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý có Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành
Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tháng hai âm lịch, tháng 2/2016 của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.



Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc
 
Theo tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý, tháng của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Tháng này cũng thích hợp để bạn tiến hành các hoạt động thể chất nhằm bảo vệ sức khỏe, nâng cao sức đề kháng cho cơ thể.


BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 2
 

CÔNG VIỆC


Trong công việc, lúc đầu gặp nhiều khó khăn, hầu như không đạt được thành tích nào, xuất hiện dấu hiệu khiến chức vụ lung lay. Vì bản mệnh Tý tương hình với Nguyệt Lệnh lại thêm đặc trưng tháng có âm khí quá mạnh nên mọi việc khó đoán trước. Trở ngại có mà thời cơ chuyển vận cũng có, mọi chuyện trông chờ vào chính bạn. Công việc gặp nhiều chọn lựa vô hình, bạn cần quyết đoán, đưa ra quyết định nhanh chóng, tránh do dự, nếu không sẽ nhận lấy sự thất bại nặng nề.

Khi giao tiếp với lãnh đạo nên lưu ý lễ nghĩa, lời ăn tiếng nói vì tháng này dễ xảy ra vận trình Phi Liêm bại vận nhất. Giữa tháng, bạn gặp trục trặc trong mối quan hệ xã giao với đồng nghiệp lớn tuổi hoặc lãnh đạo trong công ty, đoàn thể. Dù người tuổi Tý có mong muốn hòa giải nhưng vì lợi ích cá nhân mà không thể nói nên lời.

TÀI LỘC


Có sự xuất hiện của Thiên Tài Tinh, vận trình tài lộc của người tuổi Tý có thể coi là ổn định nhất tháng. Nhưng cần phải xem xét kế hoạch tiêu tiền thật cẩn thận, tránh vì cả nể mà vung tay quá trán, tiêu xài hoang phí, không tính toán.

Tháng này, bạn nên dành nhiều thời gian suy tính kế hoạch công việc cho cả năm hơn là mạnh tay đầu tư “xương máu” vào những hạng mục chưa chắc chắn. Tháng Tân Mão nên tĩnh không nên động, mưu sự kỹ càng không được quá gấp gáp.
 
Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 3
 

TÌNH CẢM


Theo luận giải tử vi trọn đời của người tuổi Tý, bạn cần điều chỉnh tốt chuyện tình cảm, đặc biệt với những người đã kết hôn, không nên đứng núi này trông núi nọ dễ làm gia đình tan vỡ. Do ảnh hưởng công việc bất ổn từ đầu tháng, nên tinh thần bạn có phần đi xuống. Lo nghĩ quá nhiều khiến người độc thân khó tập trung phát triển công việc, thậm chí còn khiến cho mọi người xung quanh lo lắng. Người đã kết hôn thì còn trút cơn bực dọc cho nửa kia, khiến không khí gia đình bất hòa, căng thẳng. Nguyên nhân chủ yếu do hai người vẫn chưa dành trọn vẹn tình cảm cho tổ ấm gia đình.

SỨC KHỎE


Sức khỏe hoàn toàn tốt, cần chú ý mặc ấm đề phòng gió máy, cảm cúm bất ngờ. Giữa tháng có dấu hiệu xuất hiện sự cố liên quan tới ngũ hành Thủy, người tuổi Tý nên hạn chế tới những nơi có nước như hồ ao, sông suối, biển... Khi ra đường cần chú ý nhìn trước ngó sau, tránh bị va chạm chỗ nọ chỗ kia, đặc biệt trẻ con. Ngoài ra, vì thiếu nguyên khí nên bạn cần tránh tiêu hao quá nhiều sức lực vào những thú vui như du lịch, leo trèo, trò cảm giác mạnh.

Nhìn chung, tháng 2 âm lịch này vận trình người tuổi Tý lên xuống khá thất thường, thời cơ chưa tới và có dấu hiệu chức vụ lung lay. Mặc dù trong bạn luôn sục sôi sức mạnh vượt khó nhưng luôn có cảm giác lực bất tòng tâm, công việc thực hiện vội vàng, tình cảm nửa vời. Nửa cuối tháng, bản mệnh sớm thay đổi và chủ động điều chỉnh thì vận trình sẽ được cải thiện.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh
 

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

Những lời chúc tết hay, những câu chúc tết hay nhất và ý nghĩa nhất dành cho người thân, bạn bè khi xuân Đinh Dậu 2017 sắp tới đã được ## tổng hợp tại đây. Các bạn hãy lưu lại để chúc bạn bè người thân mình nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đầu xuân năm mới, ngoài việc lì xì cho nhau để mang lại may mắn thì những lời nói, những câu chúc tết là không thể thiếu. Những câu chúc tết hay còn được nhiều người sử dụng, xem đó là lời chúc là mong muốn mà mọi người gửi gắm đến nhau.

Những lời chúc tết hay, những câu chúc tết hay nhất và ý nghĩa nhất dành cho người thân, bạn bè khi xuân Đinh Dậu 2017 sắp tới đã được ## tổng hợp tại đây. Các bạn hãy lưu lại để chúc bạn bè người thân mình nhé.

1. Thơ chúc tết mọi người

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

2. Thơ chúc tết hay nhất năm 2017

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

3. Thơ chúc mừng năm mới xuân Đinh Dậu 2017

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

4. Các câu chúc Tết hay nhất năm 2017 cho bạn bè

Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

Xem thêm: Những bài thơ chúc Tết cho các bé

Trên đây là tuyển tập những câu chúc tết hay nhất cho năm 2017 mà Phong thủy số đã tổng hợp được. Nếu bạn đọc có những bài thơ chúc Tết hay có thể chia sẻ tới hòm thư hoặc Fanpage của Phongthuyso.vn

: Tết 2017 Những bài thơ chúc tết hay Những câu chúc tết hay Thơ chúc xuân hay Thơ chúcTết người yêu Những lời chúc năm mới hay
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các câu chúc Tết hay nhất cho năm 2017

Các giờ xấu cho từng việc cụ thể –

2.1. Giờ “Sát chủ” rất xấu, tránh động thồ, khởi công làm nhà Tháng Giêng và tháng Bảy: giờ Tý (23 giờ đến 1 giờ sáng). Tháng Hai và tháng Tám: giờ Sửu (1 giờ đến 3 giờ sáng). Tháng Ba và tháng Chín: giờ Dần (3 giờ đến 5 giờ sáng). Tháng Tư và tháng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

be tong

2.1. Giờ “Sát chủ” rất xấu, tránh động thồ, khởi công làm nhà

  1. Tháng Giêng và tháng Bảy: giờ Tý (23 giờ đến 1 giờ sáng).
  2. Tháng Hai và tháng Tám: giờ Sửu (1 giờ đến 3 giờ sáng).
  3. Tháng Ba và tháng Chín: giờ Dần (3 giờ đến 5 giờ sáng).
  4. Tháng Tư và tháng Mười: giờ Mão (5 giờ đến 7 giờ sáng).
  5. Tháng Năm và tháng Mười một: giờ Thìn (7 giờ đến 9 giờ sáng).
  6. Tháng Sáu và tháng Mười hai: giờ Tị (9 giờ đến 2 giờ sáng).

2.2. Giờ “Thọ tử” đặc biệt xấu, kiêng làm mọi việc quan trọng

  1. Tháng Giêng – Hai: giờ Mão
  2. Tháng Ba – Bảy: giờ Sửu
  3. Tháng Tư – Tám: giờ Thìn
  4. Tháng Năm – Sáu: giờ Tý
  5. Tháng Chín – Mười: giờ Dậu
  6. Tháng Mười một – Chạp: giờ Thân

2.3. Giờ “Trùng tang”

  1. Tháng Giêng – Bảy: giờ Thân và Canh
  2. Tháng Hai – Tám: giờ Mùi và Tân
  3. Tháng Ba – Chín: giờ Tý và Mậu
  4. Tháng Tư – Mười: giờ Bính và Nhâm
  5. Tháng Năm – Mười một: giờ Tị và Đinh
  6. Tháng Sáu – Chạp: giờ Tý và Mậu

2.4. Giờ “Thiên la – Địa võng” xấu

  1. Tháng Giêng – Hai – Ba: giờ Sửu và Mùi
  2. Tháng Tư – Năm – Sáu: giờ Thìn và Tuất
  3. Tháng Bảy – Tám – Chín: giờ Ngọ và Dần
  4. Tháng Mười – Mười một – Chạp: giờ Sửu và Dậu

2.5. Giờ “Tránh khâm liệm” người quả cố

  1. Người chết thuộc các tuổi Thân – Tý – Thìn: tránh giờ Tị
  2. Người chết thuộc các tuổi Dần – Ngọ – Tuất: tránh giờ Hợi
  3. Người chết thuộc các tuổi: Tị – Dậu – Sửu: tránh giờ Dần
  4. Người chết thuộc các tuổi: Hợi – Mão – Mùi: tránh giờ Thân

* Lưu ý:
– Giờ “Khâm liệm” tránh cả chôn cất vào ngày và giờ giống nhau. Ví dụ: các tuổi Hợi – Mão – Mùi tránh cả ngày Thân và giờ Thân. Song tránh giờ là chủ yếu.
“Năm không hằng tháng Tháng không bằng ngày Ngày không hằng giờ”
Ý này dùng cho cả tốt và xấu.

2.6. Giờ “Bạch hổ nhập miếu”, tránh làm việc lớn

  1. Ngày Mậu Thìn: tránh giờ Giáp Tý
  2. Ngày Giáp Tuất: tránh giờ Đinh Sửu và Giáp Thân
  3. Ngày Bính Tuất: tránh giờ Giáp Ngọ
  4. Ngày Kỷ Mùi: tránh giờ Giáp Thìn
  5. Ngày Quý Mão: tránh giờ Nhâm Tuất và Giáp Dần

* Lưu ý:
Muốn biết các giờ này có thể xem ở lịch hàng năm hoặc có thể tự tính theo cách tính can giờ từng ngày: Can giờ bắt đầu từ giờ Tý, căn cứ can giờ Tý (23 – 1 giờ sáng) để tính tiếp.

Cụ thể:

  1. Ngày Giáp và Kỷ đầu giờ là Giáp Tý
  2. Ngày Ất và Canh đầu giờ là Bính Tý
  3. Ngày Bính và Tân đầu giờ là Mậu Tý
  4. Ngày Đinh và Nhâm đầu giờ là Canh Tý
  5. Ngày Mậu và Quý đầu giờ là Nhâm Tý

Ví dụ: ngày Giáp và ngày Kỷ thì giờ đầu là Giáp Tý (23-1 giờ sáng), các giờ tiếp theo là Ất Sửu (1-3 giờ sáng), Bính Dần (3-5 giờ); Đinh Mão (5-7 giờ); Mậu Thìn (7-9 giờ)…

2.7. Giờ “Lôi đả” (giờ sét đánh) cẩn thận trọng khi trời mưa

Ngày Giáp

Giờ Sửu và Ất

Ngày Kỷ

Giờ Tuất – Nhâm – Giáp

Ngày Ất

Giờ Ngọ và Nhâm

Ngày Canh

Giờ Dần – Mậu – Canh

Ngày Bính

Giờ Dậu – Tân – Đinh

Ngày Tân

Giờ Dần – Mậu Canh

Ngày Đinh

Giờ Tý – Canh

Ngày Nhâm

Giờ Tý – Canh

Ngày Mậu

Giờ Tuất – Nhâm – Giáp

Ngày Quý

Giờ Dậu – Tân – Đinh

* Lưu ý: Ngoài các giờ cho Chi còn có các giờ cho Can. Các giờ Chi kết hợp với can phù hợp để có 5 giờ Can Chi. Các giờ cho Can phải tính thêm 6 giờ Can Chi. Do đó có những ngày có tới 17 giờ “Thiên lôi đả”.

2.8. Giờ đặc biệt xấu tính theo ngày

Giờ rất xấu trong ngày

Giờ không vong

Giờ sát chủ

Ngày Giáp – Kỷ

Ngày Ất – Canh

Ngày Bính – Tân

Ngày Đinh – Nhâm

Ngày Mậu – Quý

Giờ Thân và giờ Dậu

Giờ Ngọ và giờ Mùi

Giờ Thìn và giờ Tị

Giờ Dần và giờ Mão

Giờ Tý và giờ Sửu

Giờ Ngọ

Giờ Tị

Giờ Sửu

Giờ Hợi

Giờ Ty


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các giờ xấu cho từng việc cụ thể –

Tiết lộ bất ngờ chuyện Khổng Tử kén rể hiền

Câu chuyện về Khổng Tử kén rể hiền tuy những ghi chép này không được hoàn chỉnh lắm, nhưng xem ra cũng vô cùng kỳ lạ và hấp dẫn.
Tiết lộ bất ngờ chuyện Khổng Tử kén rể hiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Câu chuyện về Khổng Tử kén rể tuy những ghi chép này không được hoàn chỉnh lắm, nhưng xem ra cũng vô cùng kỳ lạ và hấp dẫn. Người ta lấy chuyện kết hôn để rước hỉ lâm môn, cầu cho bệnh tật tiêu tán nhưng Khổng Tử ngược đời muốn dùng việc hôn nhân của ái nữ để thể hiện thái độ, cố ý chọn một phạm nhân đang ngồi trong ngục để làm rể quý.

Công Dã Trường rốt cuộc là ai mà có thể lọt được vào mắt xanh của Khổng Phu Tử? Vì sao với thân phận của một phạm nhân trong bỗng chốc có thể đến Khổng Phủ và ngồi lên long kiệu để rước dâu? Đáng tiếc là trong sử sách có rất ít ghi chép về Công Dã Trường, nhưng có một điểm thống nhất chung là môn đệ của Khổng Tử. Còn những thông tin khác như quốc tịch, quê quán và các thông tin liên quan khác về anh ta vẫn còn đang tranh cãi.

Có một tương truyền tương đối phổ biến về Công Dã Trường đó là anh ta có thể nghe hiểu và chuyển dịch được tiếng chim hót. Những tương truyền này thịnh hành từ thời Nam Bắc triều đến thời Đường. Theo tương truyền thì đây cũng chính là nguyên nhân khiến anh ta phải ngồi tù.

Nghe tin Công Dã Trường thông thạo điểu ngữ, quốc vương Lỗ quốc cho rằng đó là tà ma mê hoặc quần chúng bèn hạ lệnh nhốt vào trong ngục. Một hôm có đám chim bay đến gần hót, Công Dã Trường nghe và dịch biết được Tề quốc đang xuất binh lấn chiếm biên cương nước Lỗ. Tề vương phái người đi điều tra thì quả đúng như thế. Công Dã Trường được minh oan và được ban thưởng một chức quan.

Cũng có câu chuyện khác tương đối là thịnh hành về khả năng này của Công Dã Trường. Khi cùng Khổng Tử chu du liệt quốc, trên đường từ Vệ quốc trở về Lỗ quốc, khi đến biên giới hai nước anh ta nghe được lũ chim đang rủ nhau đi ăn thịt người chết ở dưới khe xanh.

Một lúc sau thì gặp một bà lão khóc lóc ven đường hỏi ra mới biết con trai bà đi từ hôm qua giờ chưa thấy về cũng đoán là có thể đã chết nhưng không biết chết ở chỗ nào. Công Dã Trường bèn nói lúc nãy nghe đàn chim hót rủ nhau đến khe núi để ăn thịt người, sợ rằng đấy là con trai của cụ.

Bà lão đến bên khe sâu thì quả nhiên thấy thi thể của con trai ở đó. Sự việc được báo quan, quan viên cho rằng chính Công Dã Trường là người đã giết con trai bà cụ nên đã bắt giam vào ngục. Anh ta bị giam trong ngục 60 ngày. Một hôm tình cờ nghe được chim nói chuyện với nhau về chiếc xe bò bị lật ở bên hồ Bạch Liên, kê đổ đầy mặt đất, sừng con trâu kéo bị gẫy, và thêm nhiều lần kể chuyện về tiếng con vật nói chuyện nên cuối cùng chứng minh được rằng mình là người thật sự hiểu được tiếng chim nên đã được thả.

Hai câu chuyện trên chỉ là tương truyền trong dân gian còn thực hư thế nào cũng khó mà xác minh được. Nhưng việc Công Dã Trường đang ngồi tù mà được Khổng Tử chọn làm rể quý thì chắc chắn phải có nguyên do.

Nếu nói đến tiêu chuẩn kén rể thì với người được tôn xưng Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời) thì Khổng Tử có quá nhiều đệ tử ưu tú, nhưng Công Dã Trường hiển nhiên không nằm trong danh sách đó. Nếu theo logic thông thường, khi chọn rể hiền luôn cần phải chọn người ưu tú nhất. Việc Khổng Tử chọn Công Dã Trường làm rể đương nhiên không phải vì anh ta là người có thể hiểu được tiếng chim. Bởi với bản lĩnh đó chắc chắn không thể qua được ải Khổng Tử.

Việc ông đã chọn Công Dã Trường làm rể quý tức ông có lý do của mình. Chắc chắn Công Dã Trường cũng có bản lĩnh và ưu điểm riêng, ngoài học tài, đức hạnh thì tuổi tác, tướng mạo, gia cảnh, nhân phẩm và tính cách đều là những nhân tố để Khổng Tử cân nhắc.

Hơn nữa việc thời loạn thế lạm dụng việc bắt bớ làm hình phạt đã khiến số người bị oan uổng không ít. Việc chọn một phạm nhân để làm rể trong Khổng phủ có lẽ là cách Khổng Tử muốn thể hiện thái độ bất mãn của mình đối với sự băng hoại của lễ giáo đương thời.

Thêm việc Khổng Tử chọn Nam Dung (Nam Cung Thích tự là Tử Dung) là rể cũng có thể đoán được rằng tiêu chuẩn quan trọng nhất để Khổng Tử chọn làm rể quý chính là tính cách trung hậu, thật thà, nói năng nho nhã và luôn coi trọng đạo đức.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết lộ bất ngờ chuyện Khổng Tử kén rể hiền

Mơ nhiều về chuyện ấy là ham muốn cao?

Khi bước vào gia đoạn dậy thì, vấn đề chuyện ấy sẽ bắt đầu xuất hiện trong giấc mơ của chúng ta. Điều đó không chỉ nói lên mức độ ham muốn của mỗi con
Mơ nhiều về chuyện ấy là ham muốn cao?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Khi bước vào gia đoạn dậy thì, vấn đề "chuyện ấy" sẽ bắt đầu xuất hiện trong giấc mơ của chúng ta. Điều đó không chỉ nói lên mức độ ham muốn "chuyện yêu" của mỗi con người mà còn là điềm báo về khả năng sinh lý.

 

Mo nhieu ve sex la ham muon tinh duc cao hinh anh
Ảnh minh họa

Nếu bạn gái mơ thấy âm đạo của mình,  điều này ám chỉ những vấn đề về nữ tính và nhu cầu/sự thôi thúc mãnh liệt về "chuyện yêu" của bạn.

Còn nếu các bạn nam mơ thấy "cậu bé", điều này cho thấy bạn đang lo lắng về vấn đề sinh lực tính dục, sức mạnh và khả năng sinh sản. Nếu bạn thấy một "cậu bé" lớn khác thường thì có nghĩa là bạn đang nghi ngờ và lo âu về dục tính và khả năng sinh lý.

Bạn mơ thấy mình đang ở giữa cuộc vui nhưng lại không thể điều khiển "nó" theo ý muốn. Điều đó tương tự như giấc mơ "bại liệt" khi bạn thấy mình không thể cử động. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, nó có nghĩa là bạn cảm thấy bất lực hay mất hết khả năng trong cuộc sống. Chẳng hạn, khi đang tìm việc mới hay cố gắng thăng tiến, bạn sẽ có giấc mơ này. Nó có thể ám chỉ sự bực bội của bạn khi không thể phát triển trong một lĩnh vực nào đó.

Nếu bạn nằm mơ thấy mình có hành vi làm "chuyện ấy" với người đồng giới, có nghĩa là bạn đang muốn người tình của mình hành động nam tính hơn một chút. Một số nhà tâm lý học lý giải, đó là sự khao khát người phụ nữ của mình thể hiện những phẩm chất của đàn ông như sự logic, lý trí và mạnh mẽ.  

Các chuyên gia cũng khẳng định, nếu một giấc mơ đồng tính làm bạn lo lắng, chắc hẳn, bạn không phải là người đồng tính. Vì vậy, bạn không cần lo lắng về vấn đề giới tính của mình nhé.

Bạn mơ thấy mình làm "chuyện ấy" tại nơi công cộng trước cặp mắt của bao người lạ. Giấc mơ này có thể ám chỉ nỗi sợ về sự thân mật thể xác, hoặc lo lắng về cảm giác bị tổn thương hay bị bắt gặp. Chẳng hạn, bạn có giấc mơ này sau khi nói chuyện với bạn tình về một kiểu quan hệ kỳ quái và nó cho thấy cảm giác tội lỗi trong bạn.

Mơ thấy mình làm "chuyện yêu" với nữ khác giới nhưng không phải là vợ hay bạn gái thì bạn cũng không cần phải tự trách mình, giấc mơ này chỉ phản ánh sức tưởng tượng về giới tính của bạn mà thôi, ở cuộc sống thực tế bạn là một chàng trai ngoan ngoãn và đúng mực.


Mơ thấy mình làm chuyện nhạy cảm với mỹ nữ có nghĩa là nội tâm của bạn đã phát hiện ra ưu điểm của cô gái ấy chứ không hẳn vì vẻ bề ngoài mà thích cô ấy.

Mơ thấy mình làm "chuyện yêu" với giới tính khác nhưng vô cùng căng thẳng - ngụ ý quan hệ của bạn với giới tính khác khá căng.


Theo Bí ẩn điềm chiêm bao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ nhiều về chuyện ấy là ham muốn cao?

Mơ thấy nhân viên tiếp thị: Ước mơ sẽ thành sự thật –

Nhân viên tiếp thị trong mơ là tượng trưng cho tất cả những gì bạn cần và mong muốn. Trong mơ xuất hiện nhân viên tiếp thị, cho thấy bạn hy vọng sẽ mang tặng người khác những gì bạn thấy cần cho bản thân. Nếu mơ thấy mình trở thành nhân viên tiếp thị
Mơ thấy nhân viên tiếp thị: Ước mơ sẽ thành sự thật –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nhân viên tiếp thị: Ước mơ sẽ thành sự thật –

Đi chùa lễ Phật nên “hiểu” Phật như thế nào?

Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ. Vào đình, đền bạn có thể cầu xin may mắn trong sự nghiệp, tình cảm….
Đi chùa lễ Phật nên “hiểu” Phật như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Đi chùa lễ Phật mà không "hiểu" Phật

Có một nghịch lý là: Mấy chục năm trước, thời bao cấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, thì người đi chùa lễ Phật ít lắm (đa phần là người lớn tuổi đã Quy y cửa Phật), chủ yếu để vãn cảnh chùa và cầu bình an, sức khỏe cho tâm hồn thanh thản…Không hề có chuyện đốt vàng mã, cúng Phật, Thánh mâm cao, cỗ đầy…

Nay nhờ công cuộc đổi mới và kinh tế phát triển, nhiều người nhiều nhà giàu lên thì việc đi lễ chùa lại khác xưa, nó như trở thành một phong tục. Rất nhiều người đi lễ chùa (phần lớn chưa phải là phật tử), cách thức lễ lạy khác nhau (người đứng, người quỳ, người chắp tay trước ngực, người trước trán), dâng lễ mâm cao, cỗ đầy, đốt rất nhiều vàng mã và cầu xin đủ thứ…!

Có thể tạm kể ra 5 nhóm người đi lễ Phật lễ Thánh và các việc cầu xin sau đây:

- Nam thanh nữ tú đang đi học thì cầu học giỏi đỗ cao, được học bổng đi du học nước ngoài.

- Công chức, viên chức đang đi làm thì cầu được cất nhắc thăng quan tiến chức…hoặc chuyển đổi công tác được công ty, doanh nghiệp nước ngoài (lương cao) tiếp nhận…

- Người kinh doanh đất đai, bất động sản…thì cầu trúng thầu dự án, mua đất bán nhà, làm nhà

- Người buôn bán tiểu thương thì cầu “trúng quả” kinh doanh, phát tài phát lộc…

- Người muốn lấy vợ lấy chồng thì cầu tình duyên

Dường như bây giờ nhiều người đi lễ chùa có quan niệm rằng, càng dâng lễ lớn, càng đốt nhiều kim ngân, ngựa, voi, trang phục và nhiều đồ tế lễ khác…để dâng Phật-Thánh thì việc cầu xin của mình mới có hiệu quả, Phật-Thánh mới chứng giám và phù hộ, độ trì cho!

Phải hiểu đức Phật là một vị chân tu đắc đạo Niết Bàn. Ngài không ban phát, mà chỉ khai thị, đưa đường chỉ lối cho chúng sinh biết cách tu hành, giác ngộ Phật pháp hướng tới Niết Bàn. Vì thế đức Thế Tôn mới nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành!”.

Đi chùa lễ Phật thì nên “hiểu” Phật như thế nào?

Đức Phật là bậc Đại từ bi (muốn giải thoát chúng sinh thoát khỏi khổ đau), Đại minh triết (giáo lý nhà Phật nhân văn, sâu sắc). Ngài không  “cho” (ban phát), mà chỉ “dạy” (giác ngộ). Giáo lý nhà Phật có nhiều, chỉ xin nêu 5 điều sau đây (Thiết nghĩ, người đi chùa lễ Phật nên biết):

1- Phải từ bỏ tham-sân si, bởi phiền não của con người cũng từ đây mà ra. Vì thế Phật dạy: “Tri túc tâm thường lạc” (Biết đủ thì lòng mới vui).

Vậy đi chùa đừng “xin” Phật quá nhiều thứ, mà nên chú ý đến việc Niệm Phật (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!) và LỄ PHẬT, bởi “Niệm Phật một câu Phước sinh vô lượng” và “Lễ Phật một lạy tội diệt hà sa”.

2- Phải phát tâm từ bi hỷ xả

- Từ bi là lòng thương người, không chỉ thương người hoạn nạn, mà ‘thương” cả kẻ đã gây hoạn nạn cho ta (việc này mới khó!). Bởi theo Luật nhân quả của đạo Phật thì: 

Nếu bạn gieo lòng tốt – Bạn sẽ gặp thân thiện

Nếu bạn gieo tha thứ  - Bạn sẽ gặt hòa giải

- Hỷ xả là vui mừng và buông bỏ. Hai hành động này có tác động tương hỗ lẫn nhau. Muốn được vui mừng (hỷ) thì phải biết buông bỏ (xả). Đó là:

Phải xả những thói hư tật xấu của ta (tham-sân-si).

Phải xả những phiền muộn, tức giận mà kẻ xấu đã gây ra cho ta.

Phải xả của cải ta dư thừa để giúp đỡ những người còn khó khăn, thiếu thốn.

3- Phải giữ ngũ Giới, không được vi phạm

Theo Hòa thượng Thích Thanh Từ, người nào giữ được ngũ Giới thì đời sau sẽ gặp nhiều may mắn, phước đức. Đó là:

Không sát sinh – Đời sau khỏe mạnh, sống lâu

Không trộm cướp – Đời sau giàu có

Không tà dâm – Đời sau là người nghiêm trang, đẹp đẽ

Không nói dối – Đời sau là người nói năng lưu loát, ai cũng quý mến

Không nghiện rượu, ma túy – Đời sau trí tuệ minh mẫn, sáng suốt

4- Phải hiểu tác dụng của việc bố thí, cúng dường

Như trên đã nói, không phải đi chùa cứ dâng lễ lớn, đốt nhiều vàng tiền, đồ mã là được nhiều phước đức (được Phật độ cho nhiều việc, ban cho nhiều thứ!). Làm như vậy, tức vẫn còn nặng lòng tham, thì phước đức rất ít (tỷ lệ nghịch với đồ cúng lễ!). Vì đức Phật đã dạy: “Phước báu nhiều hay ít là do Tâm bố thí nhiều hay ít, chứ không phải của bố thí nhiều hay ít”. Vậy chỉ cần lòng thành, tâm tốt thì việc cúng lễ dù ít, dù nhiều cũng đều được phước lớn. Người đi chùa lễ Phật nên biết tác dụng của 2 việc cúng dường sau đây:

- Người giàu có đặt lễ 100, người nghèo khó chỉ có lễ 10 nhưng thành tâm thì phước đức nhận được như nhau.Tuy nhiên, nếu người giàu lại bắt chước người nghèo, cũng đặt lễ 10 thì phước đức nhận được lại ít hơn! Đức Phật từ bi thật công bằng!

- Người đi chùa đưa tiền hoặc hiện vật cúng dường có ghi tên, địa chỉ…thì đó là bố thí hữu tướng (muốn được danh tiếng, để người khác biết đến…) thì công đức nhận được có hạn! Vì đó là bố thí hữu ngã, mà giáo lý nhà Phật lại coi “Bố thí hữu ngã là tội liền sinh!”.

- Ngược lại với cách trên là bố thí vô tướng (không ghi tên, địa chỉ…), còn gọi là bố thí vô ngã, bố thí Ba la mật (bố thí bằng Tâm thanh tịnh, Tâm không chấp ngã) thì công đức vô biên, vô hạn.

5- Phải hiểu nguyên lý Nghiệp (báo), Duyên (khởi) và quy luật Nhân quả

Hành động của mỗi người (từ Thân-Miệng-Ý) tạo ra Ngiệp (nhân) của người đó. Người nào có hành động-lời nói-ý nghĩ tốt đẹp, không làm hại ai thì tạo ra Nghiệp thiện, Nghiệp lành và ngược lại sẽ tạo ra Nghiệp bất thiện, Nghiệp ác. Theo quy luật Nhân quả của Phật giáo thì đó chính là Nhân. Một nhân không thể tạo ngay thành quả được, mà phải có các yếu tố thời gian, lý do, nguyên cớ…tác động, gọi là nhân duyên, cơ duyên hoặc duyên (khởi) thì mới tạo thành quả được. 

Theo quy luật Nhân quả, từ Nhân tạo ra Quả và Quả luôn có trong Nhân, nếu Nhân tốt thì Quả tốt và ngược lại. Hiểu luật Nhân quả, ta phải làm việc thiện tránh việc ác để tạo Nhân tốt sẽ có Quả tốt. Nếu Nhân xấu đã tạo rồi, thì dù có sợ, Quả xấu vẫn hình thành. 

Vì thế dân gian mới có câu “Ở hiền gặp lành”, hoặc “Ác giả ác báo”, “Gieo nhân nào ăn quả nấy”, “Gieo nhân lành đơm trái ngọt”. Đức Phật còn nói: “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”, vì Bồ tát biết nhân xấu liền tránh nên không sợ quả xấu. Còn chúng sinh thấy việc xấu vẫn làm, đến khi kết quả không hay vận vào thân mới sợ thì đã muộn! Tuy nhiên một Nghiệp xấu đã làm, phải chờ một thời gian hội tụ đủ Duyên mới tạo thành Quả xấu. 

Chính trong thời gian này, người làm việc xấu nhận thức ra, biết hối lỗi, đi chùa lễ Phật, sám hối lỗi lầm, xả bỏ vô minh, làm việc thiện tránh việc ác thì chắc chắn sẽ được đức Phật chứng giám và độ cho để chuyển hóa nghiệp, từ Nghiệp ác sang Nghiệp thiện để các Nhân xấu ác (tức lỗi lầm) đã tạo trong quá khứ không đủ Duyên để trổ thành Quả xấu được!

Như vậy dù là phật tử hay người bình thường đi chùa lễ Phật vẫn có thể cầu Phật độ cho bản thân và gia đình được bình an, thân tâm an lạc, phước đức đủ đầy, công việc hanh thông viên mãn…hoặc sám hối lỗi lầm trước Tam Bảo để xin chuyển Nghiệp từ xấu sang tốt, từ nặng thành nhẹ!

Hiểu được đạo Phật từ bi, công bằng, minh triết và nhân văn như vậy để làm theo lời Phật dạy thì việc đi chùa lễ Phật mới thực sự có ý nghĩa và tác dụng!

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Những điều không được cầu khi đi chùa

Theo quan niệm của nhà Phật, Phật chỉ phù hộ an bình, che chở cho con Phật chứ không thể phù hộ đường công, danh, tài, lộc. Vì vậy, khi chúng ta làm lễ cầu tới cửa Phật nên xin được Phật che chở, bảo vệ. Vào đình, đền bạn có thể cầu xin may mắn trong sự nghiệp, tình cảm….

Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.

1. Đừng cầu thân thể không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì lòng tham sẽ dễ sinh. Muốn lấy thuốc lành trị bệnh khổ, thì nên thực hành giác ngộ giải thoát khỏi thế giới này.

2. Đừng cầu không khó khăn, vì có có khăn thì đạo tâm mới kiên cường.
Bước qua được khó khăn thì con đường càng lớn, mỗi lần vượt qua trở ngại thì bầu trời càng cao rộng hơn.

3. Đừng cầu tâm không khúc mắc, vì tâm không khúc mắc thì ngạo mạn dễ sanh.
Vườn tâm thường nhổ cỏ phiền não, vô minh trở thành vô lượng ánh sáng quang minh.

4. Không cầu lợi về mình, chấp trước vào mình dễ sinh vào ba cõi xấu.
Nguyện chịu bệnh khổ thế chúng sinh, khiến họ đều được thân tâm an lạc.

5. Đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng tôi luyện thì sao thành Phật.
Ma là bạn tốt của người tu hành, người đức cao tự hàng phục được các loại ma.

6. Không cầu làm việc mong dễ thành công vì người ở trong cảnh thuận lợi khó tu hành.
Nghịch cảnh thuận cảnh không phân biệt, việc thành việc bại đều như nhau.

7. Không cầu danh lợi, tham muốn danh lợi dễ đọa vào luân hồi.
Luôn nhớ danh lợi như giấc mộng hão huyền, cam nguyện âm thầm làm người cống hiến.

8. Không cầu mong báo đáp, vì muốn người báo đáp thì con đường làm ơn đã sai lệch.
Tùy duyên dứt nghiệp đoạn sanh tử, không nợ không thiếu sống an nhàn.

9. Oan ức không cầu biện bạch, nhẫn nhục chịu đựng trả món nợ xưa.
Người khác đánh đập mắng chửi là trợ hạnh cho mình, quên hết ân sủng hay bị làm nhục thì công đức mới vẹn toàn.

10. Không cầu người khác giúp mình, tự lực cánh sinh không nên phan duyên.
Khi có điều mong cầu thì lúc đó có khổ, lúc không có gì để mong cầu thì được tự do tự tại. 

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đi chùa lễ Phật nên “hiểu” Phật như thế nào?

Mơ thấy nói xấu: Xem trọng danh dự bản thân –

Nói xấu trong mơ đại diện cho uy tín và tình bạn. Mơ thấy nói xấu, chứng tỏ bạn là người rất xem trọng danh dự bản thân. Nếu mơ thấy mình bị kẻ khác nói xấu, uy tín của người nằm mơ sẽ được nâng cao trong đời sống hiện thực. Mơ thấy người khác bị nói
Mơ thấy nói xấu: Xem trọng danh dự bản thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy nói xấu: Xem trọng danh dự bản thân –

Giải mã vận mệnh người tuổi Giáp Dần theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người sinh năm Giáp Dần ngũ hành Mộc, Mộc Dần chi mệnh, nạp âm Đại khê Thủy.
Giải mã vận mệnh người tuổi Giáp Dần theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh năm Giáp Dần ngũ hành Mộc, Mộc Dần chi mệnh, nạp âm Đại khê Thủy.


Giai ma van menh nguoi tuoi Giap Dan theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Tử vi của người sinh năm Giáp Dần trẻ tuổi thì phát triển, tuổi già thì lụn bại; ngược lại thời trẻ vất vả thì về già an khang. Cuộc đời có cơ hội để thực hiện kế hoạch lớn. Trụ gặp Bại Kiếp, Thương Quan cẩ thận hôn nhân có người thứ ba xen vào hoặc hai bên sinh sự với nhau. Phương pháp hóa giải là ở phục vị trong nhà đặt gương bát quái.   Gia đình lãnh đạm, tình duyên bôn ba, hay thay đổi, ly hợp khó định, khổ vì tình. Phương pháp hóa giải là nên bày đồ có màu tím ở đầu giường ngủ hoặc mang bên mình bùa hộ thân làm từ  đá thạch anh hồng, sáp ong.   Tình cảm nhiều tranh chấp, vợ chồng không hợp nhau, đề phòng trung niên mất vợ hoặc mất chồng, phải chịu cảnh cô phòng. Phương pháp hóa giải là đàn ông mang trang sức bằng đá hắc thạch, phụ nữ mang trang sức bằng đá vân hải.   Tử vi người tuổi DẦN tháng 3 Âm lịch năm 2016
Sự bảo thủ của người tuổi Dần còn gây bất lợi cho các mối quan hệ nhân duyên trong sự nghiệp. Có lẽ bạn nên tìm ra phương pháp nghỉ ngơi để

Người tuổi Giáp Dần
thì Thổ không thể khắc, hai mộc chế Thổ. Gặp Nhâm Dần, Quý Mão mệnh Kim là đầy đủ ngũ hành. Giáp Dần, Nhâm Tuất hai nạp âm Thủy, âm thắng dương, gian tà thắng chính nghĩa, phải có Thổ Hỏa tăng cường thì mới thành châu báu.
  Mệnh này không sợ Canh Tân, nho nhã ở Đinh Nhâm. Gặp Kỷ Sửu cũng khá có lợi, gặp Canh Tân là đắc cách, không khắc chế. Kị Canh Thìn. Sinh vào mùa hạ thì may mắn tốt lành. Nam không nên để tóc húi cua.
Số mệnh của người tuổi Giáp Dần thông minh, độc lập, tâm địa thiện lương, thích cứu giúp kẻ khốn khổ nhưng người nữ thì cô đơn. Hóa giải bằng cách mang thạch anh hồng hộ mệnh. Người này khoan dung độ lượng, tự lập tự cường, cả đời chăm chỉ nên có duyên với tài phú, triển khai được kế hoạch lớn, tính tình cần kiệm.   
Giai ma van menh nguoi tuoi Giap Dan theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh 2
 
Nhân duyên không như ý, nhiều tranh chấp, gia vận kém, một khi phát sinh sự việc thì phức tạp và nhiều rủi ro. Khiếm khuyết năng lực xã giao nên nhiều khi phải thua thiệt trong công việc. Hóa giải bằng cách mang lam ngọc bên người.
 
=> Xem tử vi hàng ngày của bạn cập nhật mới nhất

Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Giáp Dần theo Lục Thập Hoa Giáp

Chọn hướng treo tranh phong thủy trong nhà –

Khi treo tranh trong nhà, gia chủ nên chọn hướng theo bát quái đồ. Củ thể như thế nào? Tại sao lại chọn hướng theo bát quái đồ? Chúng ta cùng dọc bài viết dưới đây để biết được hướng treo tranh phong thủy nhé! Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi treo tranh trong nhà, gia chủ nên chọn hướng theo bát quái đồ. Củ thể như thế nào? Tại sao lại chọn hướng theo bát quái đồ? Chúng ta cùng dọc bài viết dưới đây để biết được hướng treo tranh phong thủy nhé!

tranh-son-thuy-huu-tinh

Nội dung

  • 1 Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia đạo
    • 1.1 Hướng chính đông và hướng đông nam
    • 1.2 Hướng chính nam
    • 1.3 Hướng Đông Bắc, Tây Nam
    • 1.4 Hướng chính Bắc
    • 1.5 Hướng Tây Bắc, Hướng chính Tây

Để tranh phát huy năng lượng tốt cho gia đạo

Hướng chính đông và hướng đông nam

Hướng chính Đông và Đông-nam, theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.

Hướng chính nam

Hướng chính Nam, theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.

Hướng Đông Bắc, Tây Nam

Hướng Đông-bắc và Tây-nam, theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.

Hướng chính Bắc

Hướng chính Bắc, theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài vận của gia chủ.

Hướng Tây Bắc, Hướng chính Tây

Hướng Tây-bắc và hướng chính Tây, theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng treo tranh phong thủy trong nhà –

Văn khấn giải hạn Sao Kế Đô

Người xưa cho rằng mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh. Nếu năm nào sao xấu chiếu mệnh nên dâng sao giải hạn cầu bình an, mọi tai ách sẽ qua...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa cho rằng: mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Cùng một tuổi, cùng một năm đàn ông và đàn bà lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Trong 9 ngôi sao có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn.

van-khan-sao-ke-do

1. Ý nghĩa của làm lễ dâng sao giải hạn

Để giảm nhẹ vận hạn người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào đầu năm (là tốt nhất) hoặc hàng tháng tại chùa (là tốt nhất) hay tại nhà ở ngoài trời với mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng.

Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau:

Sao Thái Dương: Ngày 27 hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 hàng tháng
Sao Vân Hán: Ngày 29 hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 hàng tháng
Sao La Hầu: Ngày 8 hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 hàng tháng

2. Sắm lễ dâng sao giải hạn: Sao Kế Đô

Lễ cúng sao Kế Đô vào ngày 18 hàng tháng, thắp 21 ngọn nến, bài vị màu vàng.

Sao Kế Đô là sao Hung tinh xấu nhất về xuân hạ, nhưng xuất ngoại đi xa lại gặp điều tốt hơn.

Sao Kế Đô đối với nữ xấu hơn đối với nam.

Lễ cúng gồm có: Hương hoa; Tiền vàng; Phẩm oản; Mũ màu vàng; 36 đồng tiền.

Hướng về chính Tây làm lễ giải sao.

3. Văn khấn dâng sao giải hạn: sao Kế Đô

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.

- Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cực Tử Vi Tràng Sinh Đại đế.

- Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.

- Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.

- Con kính lạy Đức Địa cung thần Vỹ Kế Đô Tinh quân.

- Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.

Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….

Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, thiên lập linh án tại (địa chỉ)…………………………để làm lễ giải hạn sao Kế Đô chiếu mệnh.

Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.

Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn giải hạn Sao Kế Đô

Chùa Đông Khê - Hải Phòng

Chùa Đông Khê nằm trên địa bàn Tp.Hải Phòng. Chùa Đông Khê là một công trình tôn giáo văn hoá có giá trị, đồng thời là một sơn môn nổi tiếng.
Chùa Đông Khê - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Đông Khê là một công trình tôn giáo văn hoá có giá trị, đồng thời là một sơn môn nổi tiếng của Phật phái Trúc Lâm. Đây là ngôi chùa được xây dựng từ rất sớm. Theo truyền thuyết, Như Hiện thiền sư, sau khi đắc pháp trong phái Trúc Lâm đã đến trụ trì, khai hoá thành chốn tổ. Trước cổng chùa có hai dãy tháp – mộ các vị sư từng trụ trì ở chùa.

Chùa Đông Khê cùng đình Đông Khê, chùa Linh Quang tạo thành khu di tích văn hoá hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là vào ngày lễ chính tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 2 hàng năm. Chùa Đông Khê tọa lạc tại phường Đông Khê, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi đại sư: Ni Sư Thích Giác Tiến

Chùa Đông Khê tên chữ là Nguyệt Quang tự, một ngôi chùa cổ của Hải Phòng, một môn sơn nổi tiếng. Chùa được dựng từ lâu đời, năm Chính Hòa thứ 5 đã có đợt sửa chữa lớn, nhưng chỉ từ khi thiền sư Như Hiện thuộc dòng Lâm Tế, đời Pháp thứ 37 của Phật phái này về trụ trì thì chùa Đông Khê trở thành một chốn tổ lớn, có ảnh hưởng rộng, đào tạo nhiều tăng tài trong đó có đến 60 người xuất sắc. Thiền sư tinh thông đạo pháp, kiên trì giới hạnh được nhân dân, sĩ thứ vô cùng kính trọng.

Năm 1748, Thiền sư được vua Lê Hiển Tông ban chức tăng cương, năm 1757 lại được vua phong Tăng thống Thuẫn Giác hòa thượng. Ngài viên tịch ngày 6-5 Ất Dậu( 1765), bảo tháp lưu giữ xá lỵ ở chùa Đông Khê hiện còn. Chùa hiện mang phong cách kiến trúc Nguyễn gồm Đại hùng bảo điện, nhà tổ, vườn tháp, nhà tăng, nhà phương trượng… đã hoàn chỉnh. Tam quan, cổng chùa vốn khá đẹp nhưng năm 2000 lại được làm mới hoàn toàn với quy mô to đẹp hơn. Từ ngày đổi mới đến nay, nhà sư trụ trì đã tu bổ, tôn tạo nhiều tạo nên một danh lam.

Chùa Đông Khê có khuân viên rộng
Chùa Đông Khê có khuân viên rộng

Đồ thờ tượng tháp cổ đều còn giữ được khá đầy đủ, đặc biệt chùa còn giữ được một quả đại hồng chung, đúc năm Tân Dậu, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9 – đời Sơn Tây. Ngoài các ngày lễ, cũng như các chùa thờ Phật khác, hàng năm chùa Đông Khê giỗ tổ vào ngày 4-2 âm lịch. Thực ra đây chính là ngày sinh của sư tổ Như Hiện, nhng người ta đã quen gọi như vậy.

Chùa Nguyệt Quang đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1997. Chùa Đông Khê và chùa An Đà mới được trùng tạo là một quần thể di tích rất có giá trị thu hút đông đảo khách hành hương, khách du lịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Đông Khê - Hải Phòng

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Quẻ Quan Âm thứ 70 Lý Mật Phản Đường đoán rằng ngày nào cũng như con ong mật đi tlm hoa, bôn ba khắp đông nam tây bắc.
Quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 70 được xây dựng trên điển cố: Lý Mật phản Đường hay Lý Mật phản lại nhà Đường.

Thừ quái mật phong thái hoa chi tượng. Phảm sự lao tảm phí lực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Cuối nhà Tùy, Tùy Dạng Đế ngày càng ngông cuồng, xa xỉ, hoang dâm, thu thuế nặng nề, vơ vét của dân, khiến dân chúng lầm than khổ cực, nông dân các vùng lũ lượt dựng cờ nối dậy. Năm Đại Nghiệp thứ 12 (năm 616), sau khi cuộc nổi dậy của Dương Huyền cảm chống lại nhà Tùy thất bại, Lý Mật (582 – 619) có xuất thân quý tộc đã chuyển sang đầu quân Ngốa Cương.

Lý Mật có tài thao lược, sau khi Địch Nhượng bên quân Ngõa Cương chọn dùng kế sách của Lý Mật, đã đánh bại Trương Tu Đà là bề tôi đắc lực của nhà Tùy. Do đó Lý Mật chiếm được chỗ đứng vững chắc trong quân Ngõa Cương, đồng thời xây dựng được doanh trại Bồ Sơn Công, doanh trại này do Lý Mật trực tiếp vũ trang. Vì vậy thế lực của Lý Mật trong quân Ngõa Cương dần dần lớn mạnh.

Cùng với những thắng lợi liên tục của quân Ngốa Cương, mâu thuẫn giữa Lý Mật với Địch Nhượng cũng ngày càng sâu sắc. Sau đó Lý Mật bày tiệc rượu mời đám Địch Nhượng, trong bữa tiệc, đã ra tay giết chết Địch Nhượng cùng mấy trăm tùy tùng thân tín. Lý Tích (vốn họ Từ, tên là Thế Tích, tự Mậu Công) bị trọng thương, còn Đan Hùng Tín thì cầu xin mà được miễn tội chết. Sau khi Lý Mật thay thế Địch Nhượng, công thành chiếm đất, chiến công lừng lẫy.

Năm 618 sau Công nguyên, Vũ Văn Hóa Cập giết chết Tùy Dạng Đế, chính quyền nhà Tùy trong tình thế cấp bách, bèn chiêu dụ Lý Mật, lệnh cho Lý Mật tiêu diệt Vũ Văn Hóa Cập. Đúng lúc Lý Mật nghênh chiến với Vũ Văn Hóa Cập, thì nội bộ Đông Đô nhà Tùy cũng xuất hiện phản loạn, Vương Thế Sung lợi dụng binh quyền trong tay mà lũng đoạn triều chính. Lý Mật lại xuất quân nghênh chiến Vương Thế Sung. Lý Mật đoán trước là có người muốn đầu hàng Vương Thế Sung, nên quyết định tương kế tựu kế, khi Vương Thế Sung đang vượt sông Lạc Thủy tiếp ứng cho quân phản loạn, sẽ nổi dậy tiêu diệt Thế Sung. Nào ngờ khi Vương Thế Sung vượt sông Lạc Thủy, binh sĩ thuộc hạ của Lý Mật lại xao nhãng không nhận ra. Đến khi phát hiện ra thì quân đội của Vương Thế Sung đã sang sông lên bờ toàn bộ rồi. Quân của Lý Mật thất bại như núi lở, chỉ còn cách mang theo một tốp người ngựa nhỏ chạy trốn. Lý Mật ban đầu muổn đi đến chỗ Lý Tích ở Lê Dương, nhưng lại cảm thấy không đáng tin, trong lúc không còn đường nào để đi, chỉ có cách cùng VớI Vương Bá Đương quy thuận Lý Uyên.

Sau khi Lý Mật đầu quân về Đại Đường, cho rằng dựa vào địa vị và uy vọng của mình, chắc chắn sẽ nhận được sự ưu đãi của Lý Uyên. Không dè Lý Uyên lại không hề coi trọng Lý Mật, chỉ cho làm một chức quan hư danh là Quang lộc khanh (thời Tần Hán gọi là Quang lộc huân, phụ trách việc canh giữ cửa cung điện. Từ sau nhà Bắc Tề đều gọi là “Quang lộc khanh”, chức trách được mở rộng là chuyên quản lý việc ăn uống trong triều đình cùng yến tiệc, đồ cúng tế trong triều hộl hoặc tế tự), nên trong lòng rất không vui.

Không lâu sau, Lý Uyên nghe nói những vị tướng cũ của Lý Mật trước kia đã đầu hàng Vương Thế Sung, rất nhiều người đều đã đổi ý, nên sai Lý Mật đi chiêu hàng. Lý Mật trong lòng bất mãn, tính kế bỏ đi. Khi chạy đến Thao Dương, Lý Uyên lại sai người hạ chỉ gọi Lý Mật quay về. Lý Mật nghỉ ngờ Lý Uyên không tin tưởng mình, muốn giết mình, vì thế đã phản lại nhà Đường. Dù Vương Bá Đương hết sức khuyên ngăn, nhưng Lý Mật vẫn không nghe.

Lý Uyên đối với Lý Mật quả thực là nửa tin nửa ngờ, nên sai đại tướng Sử Vạn Bảo, Thịnh Nhan Sư cho quân mai phục ở hang núi, giết hết toàn bộ người của Lý Mật và Vương Bá Đương. Khi Lý Mật chết mới có ba mươi bảy tuổi, hang núi mà Lý Mật bỏ mạng sau này được mọi người gọi là “Đoạn Mật giản” (tức là khe suối giết Lý Mật).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lý Mật Phản Đường

Thôi miên - hiện tượng mơ hồ và tác dụng thiết thực

Thật lạ lùng là sau gần hai thế kỷ, giới khoa học vẫn chưa xác định xem thôi miên là hiện tượng tâm linh hay khoa học, nhưng tác dụng của nó thì là điều không
Thôi miên - hiện tượng mơ hồ và tác dụng thiết thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Về thực chất, thôi miên là gì? Thật lạ lùng là sau gần hai thế kỷ khảo sát, giới khoa học vẫn chưa đạt được sự nhất trí trong vấn đề căn bản đó. Thậm chí, còn chưa thể xác định xem nó là hiện tượng tâm linh hay khoa học, nhưng tác dụng của thôi miên thì là điều không cần bàn cãi.


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Thoi mien - hien tuong mo ho va tac dung thiet thuc hinh anh
 
Kiểm soát đau
Dưới thôi miên, bệnh nhân đau mãn tính được ám thị rằng, cơn đau giảm hay biến mất. Sự phân ly nhân cách dưới thôi miên như thế là một phương thức “đánh lạc hướng” các trung khu cảm nhận và giải đoán đau trong não, nên có tác dụng giảm đau tốt. Thôi miên rất có ích trong giảm đau khi sinh nở và khi chữa răng.
 
Cai nghiện thuốc lá Dù không thành công trong nghiện rượu và ma túy, thi thoảng thôi miên giúp cai nghiện thuốc lá. Người đang dưới thôi miên được ám thị rằng, mùi vị thuốc rất khó chịu. Cách khác là người nghiện tự thôi miên để từ bỏ thèm muốn hay tự ám thị rằng họ có cách bảo vệ bản thân khỏi sự độc hại của khói thuốc.
 
Điều trị một số rối loạn tâm lý Thôi miên thường dùng để tạo thư giãn, giảm lo âu hay sửa chữa các ý nghĩ tự hủy hoại ở một số rối loạn tâm thần.

Điều tra tội phạm Thôi miên được dùng để nhớ lại các tình tiết vụ án mà nhân chứng đã quên. Tuy nhiên thông tin thu được thường chỉ có ý nghĩa tham khảo chứ không có tính pháp lý.
 
Cải thiện thành tích thể thao Thỉnh thoảng giới vận động viên chuyên nghiệp dùng thôi miên để cải thiện thành tích. Chẳng hạn võ sĩ vô địch thế giới Ken Norton thường thôi miên trước lúc thượng đài, còn ngôi sao bóng rổ nhà nghề Mỹ Rod Carew dùng thôi miên để tăng sự tập trung trong thi đấu.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thôi miên - hiện tượng mơ hồ và tác dụng thiết thực

Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét

Nhìn xa thì tưởng soái ca nhưng tiếp xúc mới thấy họ có thể làm các cô gái điên đầu. Cùng điểm danh những chòm sao nam đáng ghét như vậy nhé.
Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hẹn hò vốn là chuyện vô cùng vui vẻ, mang tới bầu không khí thoải mái, phấn khởi nhưng có những chòm sao được mệnh danh là “sát thủ hẹn hò”.

Diem danh 4 chom sao nam dang ghet la sat thu hen ho hinh anh 2
 

Hạng 5: Xử Nữ

  Chòm sao theo đuổi hoàn mỹ Xử Nữ lúc hẹn hò nhất định cực kì chu đáo, bất kì chi tiết nhỏ nào cũng đều phải tự tay chuẩn bị mới yên tâm, làm bạn gái người này thực sự là vừa hạnh phúc vừa đau khổ. Hạnh phúc chính là như công chúa hưởng thụ sự tỉ mỉ chu đáo quan tâm, cực khổ là họ thường xuyên yêu cầu bạn gái cũng phải dốc lòng dốc sức cho cuộc hẹn hò.   Khi phát hiện người yêu chưa chuẩn bị được tốt hoặc làm việc có sai sót thì Xử Nữ tự động bật chế độ lải nhải, nhai đi nhai lại lỗi lầm khiến người ta mặt mày xám xịt. Có đẹp đến mấy thì chàng trai này cũng biến thành chòm sao nam đáng ghét, khiến các nàng muốn chạy thật nhanh để không còn phải nghe những lời càu nhàu như mẹ già ở nhà.  

Hạng 4: Ma Kết

  Ma Kết là cung hoàng đạo chuẩn soái ca với bề ngoài lạnh lùng mà hấp dẫn, lại thêm năng lực vượt trội, nam tính ngời ngời nữa chứ, hẹn hò với người này chắc hẳn sẽ vô cùng hãnh diện đúng không. Không sai, Kết Kết có rất nhiều ưu điểm, là mẫu đàn ông trong mơ của không ít cô gái nhưng xuất sắc không có nghĩa là am hiểu tình yêu, hẹn hò tuyệt vời đâu nhé.   Người này có nề nếp, trật tự, đời sống dường như chỉ xoay quanh việc đi làm đi học chứ không mấy thấu hiểu về phong tình. Hẹn bạn gái quanh đi quẩn lại chỉ có ăn cơm, xem phim, đi công viên, lãng mạn mấy cũng biến thành tẻ nhạt. Đừng hi vọng họ có thể mang tới những niềm vui bất ngờ hay những món quà sáng tạo. Thật là muốn người ta tức chết đây mà.  

Hạng 3: Bạch Dương


Diem danh 4 chom sao nam dang ghet la sat thu hen ho hinh anh 2
 
Nhiệt tình là ưu điểm lớn nhất của đàn ông cung Bạch Dương nhưng có lúc nhiệt tình quá mức sẽ gây phản ứng ngược. Thời điểm hứng phấn, họ không biết giữ mồm giữ miệng, kích động không che giấu mà bỏ quên mất tâm trạng, suy nghĩ, cảm nhận của bạn gái. Rất nhiều lúc sắc mặt đối phương đã cực kì khó coi rồi mà cừu trắng còn một mình một thế giới, người xung quanh đều phát hiện ra chỉ riêng chòm sao nam đáng ghét này thì hoàn toàn chẳng biết gì.   Thường là sau khi hẹn hò với Bạch Dương, các cô gái sẽ lập thời thề sắt son có chết cũng chẳng bao giờ chọn đối tượng thuộc cung Bạch Dương nữa. Thực ra cũng hơi oan cho chàng trai ấy mà, chỉ vô tình thôi, tuyệt đối là vô tình, không cố ý đâu. Họ không được tỉ mỉ và săn sóc lắm, hãy thường xuyên nhắc nhở để họ cải thiện nhé.  

Hạng 2: Kim Ngưu

  Ồ, chòm sao nam chung tình lại tốt tính như Kim Ngưu sao lại có trong danh sách này nhỉ? Ấy là vì họ chẳng có một tế bào lãng mạn nào cả, khiến người khác phải bó tay. Chàng trai này chân thật và thực tế, luôn nghĩ rằng mua cho bạn gái bó hoa thà tặng một con gà nướng còn thiết thực hơn; đi ăn ở nhà hàng Tây đắt đỏ hưởng không khí nhân tạo thà rằng thưởng thức bữa ăn ở vùng làng quê tự nhiên còn hơn.   Tất nhiên quan điểm của kim Ngưu không sai, ai cũng có ý kiến riêng nhưng trong mắt con gái thì thật chẳng hay ho chút nào. Tình yêu không cân đo đong đếm bằng tiền nhưng các nàng ấy sẽ nghĩ, vì mình mà không dám tiêu chút tiền như thế thì đâu cần thiết phải hẹn hò thêm nữa. Sau những trải nghiệm không mấy thoải mái, họ sẽ tự động cho Kim Ngưu vào danh sách đen, xếp vào hàng những chàng trai không nên hẹn hò.  

Hạng 1: Sư Tử

  “Sát thủ hẹn hò” bậc nhất trong 12 cung hoàng đạo lộ diện đây rồi. Theo đuổi chủ nghĩa đại nam tử, mười phần thô bạo, chín phần cục cằn, ít cô gái nào cho rằng hẹn hò với Sư Tử là một chuyện hạnh phúc. Thực tế, chòm sao nam đáng ghét này luôn coi mình là trung tâm, trong quá trình yêu đương phải lấy họ làm chủ đạo, người yêu chỉ có một việc là nhất nhất nghe lời.  Khi bắt đầu các cô gái hoàn toàn có thể chấp nhận nhưng sau một thời gian cứ kéo dài như vậy, nguyện vọng chẳng bao giờ được lắng nghe, như con chim nhỏ bị nhốt trong lồng son thì ai có thể chịu đựng được. Nếu Sư Tử không thay đổi phương pháp đối xử với bạn gái thì sẽ làm tổn thương người đó và không ai muốn ở bên cạnh bạn đâu.
5 chòm sao nam có máu Hoạn Thư không kém gì phụ nữ Xếp hạng độ vị tha của 12 chòm sao nam khi nửa kia ngoại tình Ngỡ ngàng 4 chòm sao nam nặng tình trong lòng mà thờ ơ ngoài mặt
Trình Trình

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 chòm sao nam đáng ghét

Những phương pháp chiêu quý nhân cho ngôi nhà của bạn

Mua đất làm nhà rất cần chú ý đến việc xem hướng đất, xem vị trí tốt để có thể an cư lạc nghiệp. Dưới đây là một số phương pháp chiêu quý nhân cho ngôi nhà bạn.
Những phương pháp chiêu quý nhân cho ngôi nhà của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mua đất làm nhà hầu hết ai cũng chú ý đến việc xem hướng đất, xem vị trí tốt để có thể "an cư lạc nghiệp"... Dưới đây tiếp tục là một số phương pháp chiêu quý nhân cho ngôi nhà bạn trong phong thủy. 


1. Tìm hiểu tầm quan trọng của Huyền Vũ


Trong phong thủy, 4 tứ linh Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước tượng trưng cho 4 phía của một ngôi nhà. Nếu như mặt tiền được xem là Chu Tước, là Minh Đường, bộ mặt rất quan trọng của ngôi nhà, thì mặt sau của ngôi nhà - Huyền Vũ cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng.

Minh Đường, chữ “minh” có nghĩa là sáng sủa. Sáng sủa, đẹp đẽ, hấp dẫn mới mời đón sinh khí vào nhà được. Sinh khí có vào nhà thì công danh, hạnh phúc, sức khỏe và tiền tài mới đến với gia chủ. Còn Huyền Vũ được xem như biểu tượng của quý nhân, của những người giúp đỡ mình cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần trong cuộc sống hằng ngày, hoặc phù trợ cho mình lập nên công danh sự nghiệp.

Huyền Vũ là một trong bốn linh thú trong phong thủy


Trong kiến trúc đô thị hiện đại, những cao ốc đã thay thế cho đồi núi, và những con đường đã thay thế cho những dòng sông. Nhưng nguyên tắc “sau lưng là đồi núi, trước mặt là sông biển” của khoa phong thủy vẫn còn giá trị như ngày trước.


Ý niệm “Ỷ sơn, hướng hải” (tựa núi hướng biển) cũng đơn giản như cảm giác của người ngồi trên một cái ghế. Nếu cái ghế có lưng dựa thì thế ngồi sẽ vững chắc, thoải mái và ngồi được lâu dài hơn. Cái lưng dựa đó chính là Huyền Vũ, biểu tượng của quý nhân, của sự bảo bọc, che chở phía sau lưng. Và nếu cái ghế có thêm tay dựa nữa, thì người ngồi trên ghế sẽ cảm thấy an toàn, thoải mái hơn.
Hai tay dựa của cái ghế tương ứng với Thanh Long, bên trái và Bạch Hổ, bên phải của một căn nhà, một kinh thành hay một thành phố…


Nói như vậy, chúng ta thấy rằng, một kiến trúc dù theo đúng với những nguyên tắc của phong thủy, nhưng không ở tại một vị trí mà sau lưng được bảo bọc, trước mặt có nước để lưu tụ sinh khí và hai bên phải, trái cũng được che chở, thì tuy có tốt, nhưng cái tốt không được tồn tại lâu dài.


Đối với nhà ở cũng vậy, mặt sau của căn nhà giữ một vai trò không kém phần quan trọng, cho nên chúng ta phải lưu ý đến những điểm sau đây: Nếu đằng sau căn nhà của chúng ta không có nhà cửa hàng xóm hoặc một cao ốc, thì căn nhà đã thiếu Huyền Vũ.


2. Tạo Huyền Vũ


Chúng ta có thể tạo nên Huyền Vũ bằng những cách như:

- Xây tường hoặc trồng một hàng cây cao ở mặt sau căn nhà.


- Có thể đắp một mô đất như hình cái mai con rùa hoặc nuôi một con rùa, hoặc đặt một con rùa bằng đá, bằng sành sau vườn để làm biểu tượng cho Huyền Vũ, và chỉ cần một con là đủ rồi.


- Trong những khu chung cư như condominium hay apartment ở tầng thứ hai, thứ ba… thì chung quanh không có đất, chúng ta có thể treo một bức tranh hình con rùa trên vách tường mặt sau của căn nhà hay đặt một con rùa bằng đá, bằng sành, bằng thủy tinh hay bằng kim loại tại phần sau căn nhà để tượng trưng cho Huyền Vũ.


Đối với khoa phong thủy, phần đất phía sau căn nhà, thông thường còn gọi là sân sau hay vườn sau là tượng trưng cho hậu vận của gia chủ. Vì thế, chúng ta nên lưu ý những nguyên tắc sau đây:


- Vườn sau cần có chiều sâu hơn là chiều rộng. Nhà mà phần đất phía sau ngắn hoặc không có đất thì hậu vận của gia chủ thường không được tốt đẹp.


- Thế đất của vườn sau lúc nào cũng phải cao hơn đất đằng trước nhà, hoặc bằng nhau, chứ không nên thấp hơn đằng trước.


- Tối kỵ là đất ở vườn sau bị trũng xuống, hoặc đằng sau nhà là một đường cống lớn, một cái hố sâu hay một vực thẳm, như trường hợp một số nhà trên đồi, quay lưng ra sườn đồi.


Những trường hợp như vậy, thường đoạn cuối cuộc đời của gia chủ hay gặp những hoàn cảnh khó khăn, bi đát.


Những thế đất như vừa nêu trên, dù phía sau có trồng cây hay xây tường cũng khó lòng cứu vãn, vì sinh khí, vượng khí không những hiện hữu và di chuyển trên mặt đất, mà còn hiện hữu và di chuyển trong lòng đất, gọi là địa khí, địa khí di chuyển đến đây thì bị đường cống, hố sâu hay vực thẳm cắt đứt. Một thế đất như vậy gọi là đất đoản hậu.


Khoa phong thủy rất sát với thực tế của cuộc đời, bởi vậy, có thể nói: Quý nhân lúc nào cũng đứng đằng sau chúng ta. Có bước đến nâng đỡ chúng ta hay không là tùy ở mỗi người.


(Theo Vietbao.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phương pháp chiêu quý nhân cho ngôi nhà của bạn

Tính cách người tuổi Dần nhóm máu AB: lạc quan vui vẻ, mạnh mẽ tự tin

Những người sinh năm Dần thường rất mạnh mẽ và tài giỏi. Tính cách người tuổi Dần nhóm máu AB lạc quan vui vẻ nên được rất nhiều người yêu mến.
Tính cách người tuổi Dần nhóm máu AB: lạc quan vui vẻ, mạnh mẽ tự tin

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong mắt người khác, họ là ánh dương rạng rỡ, chiếu sáng cho những tâm hồn còn tăm tối.  

Tính cách đặc trưng người tuổi Dần nhóm máu AB
 

Những người thuộc nhóm này có trực giác rất tốt, họ có thể phán đoán suy nghĩ, tính cách của bạn bè và đối thủ một cách tương đối chính xác. Tính tình tốt bụng, thích kết giao bạn bè. Mỗi khi bạn bè gặp khó khăn, họ đều sẵn sàng đưa tay giúp đỡ, tuy nhiên bản thân lại là người không thích phiền hà người khác.
 
Người tuổi Dần nhóm máu AB đặc biệt tự tin vào bản thân mình. Khi thấy người khác mắc lỗi, họ sẽ không ngần ngại góp ý, lời lẽ nhẹ nhàng khéo léo mà vẫn đầy tính thuyết phục, khiến người kia tâm phục khẩu phục, người bên cạnh thấy vậy cũng có ấn tượng tốt.
 
Tính cách người tuổi Dần nhóm này rất lạc quan, không thích than vãn buồn phiền, càng không ưa chê trách sự đời. Họ luôn giữ cho mình tâm hồn vui vẻ và tràn ngập niềm tin vào cuộc sống, thích đem niềm vui đến cho những người xung quanh. 
 
Dù cuộc sống bình lặng, không sóng gió nhưng cũng luôn tự tìm kiếm niềm vui cho bản thân. Phương châm sống của họ là làm sao cho khỏi sống hoài sống phí, một ngày trên đời cũng hãy nở nụ cười tươi. Tinh thần lạc quan yêu đời và trái tim lương thiện khiến họ được rất nhiều người yêu quý, cũng có vô số bạn bè khắp bốn phương. 
 
Là người sôi nổi và giàu nhiệt huyết, tuy nhiên khi làm việc họ lại có phần thiếu tập trung. Bất cứ việc gì mới mẻ cũng đều thu hút sự chú ý của những người này. Họ thích thử thách ở những lĩnh vực mới, lại hay muốn tranh tài với chuyên gia hay những người giàu kinh nghiệm, vì thế mà thường xuyên gặp thất bại. 
 
Có điều nhờ tính cách lạc quan nên họ rất dễ dàng vượt qua nỗi buồn thua cuộc, vẫn hừng hực khí thế làm lại từ đầu. Nếu có thể chuyên tâm đầu tư công sức hơn cho một lĩnh vực nào đó thì sớm muộn cũng sẽ gặt hái được rất nhiều thành công.
 
Người tuổi Dần nhóm máu AB là những người ưa mạo hiểm, thích thể hiện tình yêu với người khác. Một khi đã có tình cảm với đối phương, họ sẽ không màng tới bất cứ điều gì mà tiến tới thổ lộ nỗi niềm. Không quan tâm tới chuyện đối phương liệu có lớn tuổi hơn mình nhiều quá, liệu họ đã kết hôn hay chưa, thậm chí không cần biết người ta có đồng ý kết giao hay không, họ vẫn cố gắng hết mình để giành được tình cảm của đối phương.


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau AB lac quan vui ve, manh me tu tin hinh anh
 
Cách thức tiến tới tình yêu của những người này có phần mang tính cưỡng chế, không suy xét trước sau, càng không tính đến hậu quả, vì thế mà thường hát mãi bài ca tình đơn phương, thất bại không đường cứu vãn. 
 
Mỗi khi thất tình, tâm trạng họ tồi tệ đến cực điểm, tựa như cả thế giới sụp xuống trước mắt. Song họ lại có thể nhanh chóng hồi phục, từ hàn gắn vết thương lòng, tiếp tục hướng đến thế giới tươi đẹp và lập tức tìm được mục tiêu tình yêu mới. 
 
Khi đến tuổi trung niên, họ sẽ dần dần trưởng thành và chín chắn hơn. Lúc này, con người họ sẽ tỏa ra sức quyến rũ ngày càng lớn, lại thêm kinh nghiệm yêu đương đúc rút từ nhiều năm trai trẻ, họ thông minh và bình tĩnh suy xét, nghiên cứu đối sách để có được người mình yêu, áp dụng những cách thức mà người khác có thể chấp nhận được, từng bước từng bước giành lấy trái tim người ấy.
 
Đa số người tuổi Dần nhóm máu AB đều kết hôn khá muộn. Bông hoa tình yêu của họ tuy vãn khai nhưng lại cực kì rực rỡ. Sau khi kết hôn, đời sống hôn nhân của những người này đều rất ổn định. Họ đã qua thời thanh niên sôi nổi mà bồng bột, giờ chỉ muốn đắm chìm trong hạnh phúc bình lặng của tổ ấm gia đình, có phần xa rời bạn bè, lánh khỏi những cuộc vui phù phiếm.
 

Ưu điểm người tuổi Dần nhóm máu AB
 

Xem bói tử vi trọn đời, những người sinh năm Hổ nhóm máu này có trực giác cực kì mạnh, lại chính trực hào sảng, hay làm chuyện giúp đỡ người khác. Họ rất thích kết giao bạn bè, bình thường đối xử với bạn bè chân thành hết mực, khi bạn gặp khó khăn là không nề hà xắn tay tương trợ. Tuy nhiên, khi bản thân gặp chuyện khó khăn, họ hiếm khi mở lời nhờ người giúp đỡ.
 
Tính cách người tuổi Dần nhiệt tình, quả cảm, dám nghĩ dám làm. Khi nhìn thấy việc chướng tai gai mắt, họ không sợ phiền phức mà sẵn sàng đứng ra nói lý lẽ. Nhờ tài ăn nói, lại khéo léo chỉ ra khuyết điểm người khác mà không làm mất mặt họ nên những người này được tiếng là thuyết khách tài ba. 
 
Họ luôn rất tự tin trước bất cứ việc gì, cũng có khả năng làm việc rất tốt, thường nhanh nhẹn hoàn thành công việc một cách hiệu quả, được đồng nghiệp tín nhiệm và cấp trên khen ngợi. Trong thế giới quan của họ, dường như không tồn tại 2 chữ “khó khăn” và “trở ngại”. Khi đã xác định được mục tiêu, người này sẽ hào hứng bắt tay vào, sẵn sàng lăn xả, dù gặp khó cũng không nản lòng, quyết chí đến cùng vì mục tiêu đã chọn.
 
Trong mắt bạn bè, người tuổi Dần nhóm máu AB như một ánh dương rạng rỡ, sự lạc quan vui vẻ, ngây thơ đáng yêu của họ lan tỏa đến tất cả mọi người. Họ sẵn sàng cống hiến hết mình vì xã hội, tham gia rất nhiều các hoạt động tình nguyện và từ thiện.


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau AB lac quan vui ve, manh me tu tin hinh anh
 
Những người nhóm này luôn có trái tim thơ trẻ, tò mò hiếu kì trước bất cứ điều gì mới mẻ, luôn muốn thử làm việc nọ việc kia, chẳng thế mà họ thường trở thành người dẫn đầu trào lưu gì đó.
 
Người sinh năm Hổ nhóm máu này cũng rất thích mạo hiểm, thường mạnh tay đầu tư những khoản lớn. Tuy nhiên họ cũng rất cẩn thận, thường tìm hiểu và cảm thấy nắm chắc phần thắng mới ra tay thực hiện. Vì thế, nếu chuyên tâm đầu tư công sức cho một lĩnh vực nào đó, khả năn thành công của người này là cực kì cao.

 

Nhược điểm người tuổi Dần nhóm máu AB
 

Do có phần quá tự tin nên họ thường bỏ lơ cảm xúc của người khác, làm theo ý mình mà không quan tâm người khác nghĩ gì hay thấy thế nào. Tính cách ương ngạnh, thích lãnh đạo người khác, không chấp nhận góp ý của mọi người, luôn muốn tất cả làm theo sự sắp xếp của bản thân. Tuy họ làm vậy hoàn toàn theo bản năng mà không có ác ý gì, nhưng không khỏi khiến cho bạn bè và đồng nghiệp cảm thấy họ quá bá đạo.
 
Trong tình yêu, tính cách này của người tuổi Dần càng thể hiện rõ rệt, chẳng thế mà người yêu của họ hay thấy bức bối, bất bình. Trong các mối quan hệ xã giao, họ cũng thường lấy mình làm trung tâm, đem sự tích cực, lạc quan của mình ra yêu cầu mọi người cũng phải như vậy. Kết quả là họ thường thất vọng vì thấy mọi người quá đỗi bi quan, còn mọi người thì mếch lòng vì sự vô tư đến vô tâm của họ.
 
Thêm nữa, bạn quá vô tư, không quan tâm đến cảm xúc của người khác nên rất hay vô tình gây ác cảm cho mọi người, bị ghét bỏ lúc nào không hay biết. Sự tò mò, háo hức với những chuyện mới mẻ khiến bạn làm việc không chuyên tâm, đứng núi này trông núi nọ, thiếu kiên nhẫn và nghị lực.
Những người này tính cách cực kì cố chấp, lại lạnh lùng, hay than phiền người khác không để ý đến mình, cũng rất hay đố kị. Nữ tuổi này thích buôn bán chuyện trò cùng đồng nghiệp, nói xấu người khác, có vậy mới thấy cân bằng tâm hồn. Thường xuyên lỡ hẹn, không giữ quy tắc trong nhiều chuyện, thua mà không phục, cũng không chịu học hỏi từ người khác. 
  Ngoài ra, những người này thường bỏ mặc dục vọng của mình vượt ngoài vòng kiểm soát. Những thứ họ thích thì nhất định phải giành lấy, dù đôi khi người ấy đã thuộc về một người khác cũng không từ. Trong cuộc sống gia đình, đây là mẫu người ích kỉ, luôn ham lợi về mình, vì thế kinh tế gia đình sung túc, no đủ. Nam giới thích nghe lời mách lẻo của vợ, song lại độc đoán trong khi xử lý mọi việc.

Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau AB lac quan vui ve, manh me tu tin hinh anh
 

Tử vi Tài lộc người tuổi Dần nhóm máu AB
 

Đường tài lộc của người tuổi Dần nhóm này khá tốt. Họ có tài năng, lại có ý chí vươn lên nên chỉ cần phát hiện thấy cơ hội “làm giàu” thì sẽ nhanh nhạy nắm bắt, quyết không bỏ lỡ, triệt để lợi dụng từng cơ hội dù là nhỏ nhất.
 
Những người này có chút tùy tiện, làm việc theo cảm hứng, lại thiếu kiên trì nên bỏ lỡ rất nhiều cơ hội tốt. So với những người cùng tuổi nhóm máu khác, họ có phần kém hơn về tiền tài, công danh. Do đó, cần thay đổi mình, cố gắng nỗ lực không ngừng, chuyên tâm làm việc thì mới có thể tài lộc dồi dào.
 
Tới tuổi trung niên, vận may của họ đến tới tấp, hãy thông minh nắm bắt và sử dụng chúng để phát tài phát lộc.
 

Tình yêu hôn nhân người tuổi Dần nhóm máu AB
 

Tình yêu
 

Người tuổi Dần nhóm máu này thường thể hiện tình cảm khá mãnh liệt. Họ luôn muốn thông qua hành động để biểu đạt tình yêu, có thể nói, họ là những người thuộc nhóm “hành động”. Những người này có ham muốn sở hữu khá lớn, nếu không được ở bên cạnh người yêu, họ sẽ cảm thấy bất an, lo lắng rằng người kia không quan tâm, chú ý đến mình, sợ hãi mất đi người mình yêu.
 
Chính vì tính xốc nổi, chỉ hành động mà không suy xét tới hậu quả nên người tuổi Dần nhóm này thường hay bị thất tình. Mỗi khi như vậy, tinh thần họ vô cùng suy sụp, không thiết làm gì. Ngoài ra, bản tính cố chấp cũng khiến họ không chấp nhận sự thật mình thua cuộc, càng thêm chán nản, buồn rầu.
 
Là người thẳng thắn và ưa mạo hiểm, nếu đã thích người khác, họ sẽ tìm đủ cách để cho đối phương biết được. Họ luôn quyết tâm theo đuổi, khiến người khác phải chú ý đến mình, cho dù đối phương có hơn tuổi hay là người đã có gia đình cũng không ảnh hưởng đến ý chí của những người này.

Theo tử vi tình duyên năm 2017 của người tuổi Dần, do không bị xung Thái Tuế ảnh hưởng nên tất cả các mặt của người này đều cát tường, vận trình tình cảm cũng rất tốt. Đặc biệt, cát tinh Thiên Hỉ chiếu rọi giúp người tuổi Dần có một năm 2017 bội thu ái tình.


Tinh cach nguoi tuoi Dan nhom mau AB lac quan vui ve, manh me tu tin hinh anh
 

Hôn nhân
 

Cuộc sống hôn nhân người tuổi Dần nhóm máu AB thường khá ổn định và bình lặng, không dễ thay đổi hay xảy ra biến động như những người cùng tuổi nhóm máu khác.
 
Tuy nhiên, vì tính cách người tuổi Dần vốn sôi nổi nên khi lập gia đình và chỉ chú tâm cho tổ ấm lứa đôi, họ có phần bối rối khi không cân bằng được giữa chuyện tình cảm và bạn bè. Họ chỉ muốn ở bên gia đình mà bỏ bê bè bạn, xa lánh những cuộc vui. Nên cố gắng cân bằng để vừa có cuộc sống gia đình hạnh phúc mà vẫn có những người bạn chia sẻ buồn vui.
 
Nữ giới tuổi này thường chịu sự ảnh hưởng của người chồng. Nếu người chồng không đồng thuận, họ sẽ khó lòng quản lý gia đình, cũng không hạnh phúc trong chuyện chăn gối. Còn nam giới do tính cách chi phối nên thường khá bảo thủ trong mối quan hệ vợ chồng, không thoải mái cho 2 người có được tự do cá nhân.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Người tuổi Dần hợp với tuổi nào trong tình yêu, hôn nhân? 
 

Lời khuyên dành cho người tuổi Dần nhóm máu AB
 

Trong cuộc sống, bạn hãy cố gắng kiềm chế sự bốc đồng, xốc nổi, chịu khó suy nghĩ kĩ càng và khoan dung hơn với mọi người. Tự tin và mạnh mẽ đều không phải chuyện xấu, nhưng hãy giữ chúng ở mức độ vừa phải, có thể mới làm nổi bật cá tính và tài năng của bạn, bởi quá mạnh mẽ, bá đạo chỉ khiến người khác thấy phản cảm mà thôi.
 
Khi theo đuổi tình yêu, bạn nên có đối sách và thực hiện vừa phải, đừng nóng lòng đốt cháy giai đoạn, cũng đừng quá cưỡng cầu. Có những thứ không phải của mình thì thực sự không nên ép mình theo đuổi. Bạn có thể tìm cho mình nhiều niềm vui và sở thích, song trong công việc thì nên chuyên tâm thực hiện, đừng vì ham vui mà làm hỏng sự nghiệp.
 
Hy Vũ
Quá thông minh và mạnh mẽ phải chăng là lý do khiến tuổi Dần cao số?
Vì sao mẹ dặn không yêu người tuổi Dần?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Dần nhóm máu AB: lạc quan vui vẻ, mạnh mẽ tự tin

3 con giáp làm 'quân sư quạt mo' cực chuẩn

Nếu đang bế tắc về chuyện tình yêu, bạn hãy tìm đến người tuổi Ngọ, Mão và Tỵ để xin lời khuyên cực chuẩn nhé!
3 con giáp làm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tuổi Ngọ

Nói tới chuyện tình cảm, người cầm tinh con Ngựa không hề có bề dày kinh nghiệm tình trường đâu nhé, mọi thứ họ biết chỉ là do được chứng kiến thôi. Ấy vậy mà, hễ nói tới chuyện yêu đương, con giáp này “chém gió phần phật”, kiểu như ta đây từng trải ghê gớm lắm.

Thực ra vì đi nhiều nơi, hiểu biết nhiều sự việc nên nền tảng kiến thức xã hội của người tuổi Ngọ rất vững. Nếu gặp bất cứ vấn đề khúc mắc nào cần giải quyết, đặc biệt về phương diện tình cảm, bạn có thể tìm tới con giáp này. Họ sẽ là chuyên gia gỡ rối tơ lòng nhanh chóng và hiệu quả giúp bạn.

3-con-giap-lam-quan-su-quat-mo-cuc-chun

2. Tuổi Mão

Trông vẻ bề ngoài người tuổi Mão yếu đuối, dịu dàng thế thôi nhưng bên trong họ sở hữu trái tim sắt đá lắm đấy nhé. Điều đó lý giải tại sao hiếm khi thấy con giáp này bi lụy trong chuyện tình yêu.

Với họ, khi một mối tình chấm dứt cũng đồng nghĩa với việc bản thân được tận hưởng khoảng trời tự do hoàn toàn mới. Vì thế họ không đau buồn hay gặm nhấm nỗi đau trong quá khứ, thay vào đó tích lũy kinh nghiệm bản thân, từ đó giúp mọi người gỡ rối chuyện yêu đương khá hiệu quả.

3-con-giap-lam-quan-su-quat-mo-cuc-chun-1

3. Tuổi Tỵ

Trái ngược với người tuổi Ngọ chỉ “hữu danh vô thực” trong tình cảm, người cầm tinh con Rắn lại rất am hiểu và từng trải trong vấn đề này. Nói như vậy không có nghĩa ám chỉ rằng họ quá phong lưu, đa tình nên mới trải qua nhiều mối tình đâu nhé. Sở dĩ như vậy bởi người cẩn thận và tỉ mỉ như họ sẽ nhớ rất dai, thậm chí họ còn có thể viết sách về chuyện tình cảm của mình ấy chứ.

Nếu có bạn thân là con giáp này, bạn có thể hoàn toàn yên tâm dốc bầu tâm sự chuyện yêu đương bởi họ là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này mà. 

3-con-giap-lam-quan-su-quat-mo-cuc-chun-2


Mr.Bull (Theo DYXZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp làm 'quân sư quạt mo' cực chuẩn

Cách hóa giải nhà không đúng hướng –

- Hai căn nhà có cửa chính xung đối nhau : Theo Phong Thuỷ, nếu hai nhà có cửa chính xung đối sẽ làm cho khí nhà này xung thẳng vào cửa nhà kia nên chắc chắn sẽ có một nhà bị xấu. Để khắc phục có thể dùng gương bát quái hoặc chuông gió bằng mã n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Hai căn nhà có cửa chính xung đối nhau :

Theo Phong Thuỷ, nếu hai nhà có cửa chính xung đối sẽ làm cho khí nhà này xung thẳng vào cửa nhà kia nên chắc chắn sẽ có một nhà bị xấu. Để khắc phục có thể dùng gương bát quái hoặc chuông gió bằng mã não và thạch anh treo ở cửa. Gương trong Phong Thuỷ có tác dụng phản xạ lại luồng khí bay tới, nhưng việc sử dụng gương phải hết sức cẩn thận, không được sử dụng bừa bãi vì gương có thể phạn xạ cả cát khí..

Ngoài ra để hoá giải hung khí có thể dùng đôi tỳ hưu  , đá thạch anh để trấn ở cửa hoặc chân cầu thang để chặn hung khí

– Nhà ở có đường đâm thẳng vào nhà :

Nếu có con đường đâm thẳng vào nhà thì hung khí sẽ dội thẳng vào nhà. Ở nhà này không yên ổn dễ sinh thị phi bệnh tật, hao tổn tài lộc. Để khắc phục có thể dùng gương Bát Quái hoặc đặt hốc đá thạch anh tím, thạch anh vàng để chấn

– Nhà ở có dốc cao chạy thẳng vào nhà :

Nếu có dốc cao chạy thẳng vào nhà thì khí sẽ xung thẳng vào nhà hoặc khí đổ thẳng ra đường. Khí vận chuyển trong ngôi nhà cũng như mạch máu trong cơ thể, phải thu nạp sinh khí và xuất đi uế khí. Khí vận chuyển phải quanh co uốn lượn không được xộc thẳng vào hoặc xộc thẳng ra ngoài. Trường hợp này cần xây nhiều bậc lên xuống để giảm xung khí và treo rèm ở cửa ra vào. Dùng thêm tỳ hưu, hoặc hốc đá thạch anh chế ở vị trí dốc cao đâm vào nhà.

Hoa-giai-huong-nha-xau-cua-tuoi-Giap-Ngo-1

– Nhà có cửa chính thông với cửa hậu :

Nếu cửa chính thông với cửa hậu và cửa giữa (nếu có) thì tạp thành thế ba cửa thông nhau. Khí vào sẽ bị thất tán hết, chủ tiền tài không vượng, hao tổn tiền tài, không cầm giữ được tài lộc. Trường hợp này cần sửa lại cửa hoặc đặt bình phong chắn ở giữa để cửa chính và cửa phụ không nhìn thấy nhau nữa. Dùng cầu thạch anh đặt ở vị trí thông giữa hai cửa, dùng tượng phật hoặc khối đá phong thủy theo mệnh che chắn ở phía cửa phụ.

Nếu cửa chính bị phạm hướng xấu thì dùng hướng bếp để khắc chế, cụ thể như sau :

– Hướng cửa chính phạm Ngũ Quỷ thì đặt bếp hướng Sinh Khí
– Hướng cửa chính phạm Tuyệt Mệnh thì đặt bếp hướng Thiên Y
– Hướng cửa chính phạm Lục Sát thì đặt bếp hướng Phúc Đức
– Hướng cửa chính phạm Hoạ Hại thì đặt bếp hướng Phục Vị

Ví dụ : Người sinh năm 1957- Đinh Dậu mệnh cung Đoài, cửa chính hướng Nam là Ly phạm Ngũ Quỷ. Vậy phải đặt bếp hướng Tây Bắc để chế vì Tây Bắc là Càn được Sinh Khí sẽ hoá giải được hướng cửa chính bị phạm.

– Gương trong phòng ngủ :

Gương trong Phong Thuỷ có tác dụng phản xạ lại các luồng hung khí chiếu đến. Việc sử dụng gương phải hết sức cẩn thận không được đặt bừa bãi. Trong phòng ngủ, khi nằm không nên nhìn thấy mình trong gương. Nếu nhìn thấy thì khí bị xung sát dễ gây nên mộng mị, ảnh hưởng sức khoẻ.

– Xà nhà chắn ngang giuờng ngủ hoặc bàn thờ, bếp :

Tại các vị trí đặt xà, khí của nó tương đối mạnh và thường là sát khí. Nếu giường ngủ đặt ngay dưới xà nhà hoặc dưới chân cầu thang thì vô cùng bất lợi. Cần khắc phục bằng cách kê giường chỗ khác hoặc dùng một trần gỗ hoặc giấy căng ngang phủ lấy xà nhà. Như vậy sẽ giảm bớt tác động xấu của xà. Điều này cũng áp dụng tương tự với bếp và bàn thờ.

– Trước nhà có căn nhà đổ nát :

Nếu đối diện nhà có căn nhà hoang tàn đổ nát thì hung khí của nó sẽ tác động ngay đến nhà mình và gây ra nhiều tác động xấu. Cần treo gương Bát Quái hoặc một chuông gió đá mã não ở trước cửa để hoá giải hung khí do nhà đối diện mang lại. Có thể dùng tượng  tượng Tam Đa để hoá giải hung khí.

– Trước nhà có 1 cây to hoặc cây khô trước nhà :

Phong Thuỷ tối kỵ có cây khô trước nhà, hoặc trước nhà có một cây to, gọi là độc mộc, chủ buồn khổ cô độc. Vì vậy cần chặt hết những cây khô trước nhà và không trồng duy nhất một cây to. Nếu có cây to và chưa chặt được thì dùng một đèn sáng màu đỏ trước cửa hoặc đá thuộc Hoả nhiều màu đỏ đặt trước cửa. ( hỏa có thể đốt mộc )

– Nhà ở đối diện đường vòng hoặc giao lộ :

Nếu ở đối diện đường vòng hoặc đối diện thì khí xung sát sẽ chiếu thẳng vào nhà. Sát khí làm hao tổn nhân đinh, gây thị phi bất hoà, ly tán gia đình, sát vợ hại con. Trường hợp trên chỉ dùng làm cơ sở kinh doanh không nên ở. Trước nhà nên dùng gương Bát Quái hoặc đặt đá có năng lượng chắn. Có thể dùng tỳ hưu để trấn áp, hoá giải luồng hung khí.

– Thiên Trảm Sát :

Phong Thuỷ tối kỵ trước nhà mình có một khe hở giữa hai nhà cao tầng chiếu thẳng vào nhà gọi là “Thiên Trảm Sát” rất xấu cho ngôi nhà. Vì thế cần dùng một chuông gió treo trước nhà để hoá giải hung khí hoặc dùng một bể cá, một bình nước đặt ở trước nhà hoặc ở cửa sổ để tiết chế hung khí do Thiên Trảm Sát gây ra. Dùng các vật khí chế hoá bằng đá năng lượng cũng phát huy tác dụng rất tốt.

– Gian phòng khách bị lộ :

Nếu nhà gần đường đi lại mà người đi ngoài đường có thể nhìn thấy rõ phòng khách và những người ngồi trong nhà thì theo Phong Thuỷ điều đó rất bất lợi cho gia chủ. Gây nên chuyện thị phi, bất hoà, hao tán tài lộc. Hãy xây tường bao hoặc cổng, cửa, nếu không thể xây thì dùng mành hoặc rèm che khuất để người ngoài không thể nhìn trộm vào nhà. Dùng các vật khí trấn áp như tỳ hưu, nghê, tượng phật trong phòng khách hướng ra cửa.

– Giường ngủ hoặc bàn đọc sách gần cửa sổ :

Nếu giường ngủ hoặc bàn làm việc, bàn đọc sách gần cửa sổ thì khí bên ngoài sẽ xung thẳng vào giường hoặc bàn, ảnh hưởng đến sức khoẻ và việc học hành và công việc. Khí đến giường ngủ cần yên tĩnh, kín đáo. Khí đến bàn làm việc, bàn đọc sách tránh phân tán. Vì thế, gặp trường hợp trên nên treo rèm trước cửa sổ hoặc đóng lại không sử dụng khi ngủ hoặc làm việc. Dùng thêm các vật khí lợi cho công danh thi cử như qủa cầu thạch anh, tháp văn xương đá thạch anh màu trắng…

– Giường ngủ hoặc bếp gần nhà vệ sinh :

Trong bài trí Phong Thủy tối kỵ nhà bếp hoặc giường ngủ sát ngay nhà vệ sinh. Uế khí của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và nguồn tài lộc của gia đình. Gặp trường hợp trên nhất thiết phải di chuyển giường và bếp, hoặc phá nhà vệ sinh đi không dùng nữa. Để khắc phục phải sử dụng các vật khí hỗ trợ như đá năng lượng, cầu thạch anh …

– Bàn thờ ở trên hoặc dưới nhà vệ sinh :

Hiện nay, ở các đô thị có rất nhiều nhà cao tầng và gian thờ thường đặt trên tầng thượng. Cần chú ý không để bàn thờ mà ở tầng dưới có nhà vệ sinh. Uế khí của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thờ cúng gia tiên, gây nên nhiều điều xấu cho gia chủ. Gặp trường hợp trên cần di chuyển bàn thờ ra vị trí khác hoặc đóng nhà vệ sinh lại không sử dụng nữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà không đúng hướng –

Mơ thấy quả dâu tây: Vận may đến gần –

Quả dâu tây là hình ảnh tượng trưng cho vận may. Người đã kết hôn mơ thấy mình ăn dâu tây, có nghĩa hôn nhân mỹ mãn và hạnh phúc. Người chưa kết hôn mơ thấy mình ăn dâu tây, dự báo sắp sửa kết hôn. Thương nhân mơ thấy mình đang thưởng thức vị ngọt dâ
Mơ thấy quả dâu tây: Vận may đến gần –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quả dâu tây: Vận may đến gần –

Tra cứu mức độ hợp khắc trong tình yêu của 12 con giáp

Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã.
Tra cứu mức độ hợp khắc trong tình yêu của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi nào tương hợp - tương khắc, bổ khuyết cho nhau? Các bạn có thể tham khảo bảng tra dưới đây để biết mối tương quan giữa các con giáp nhé.

Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã. Qua bảng dưới đây, các bạn 12 con giáp sẽ biết được đối tượng tương khắc với mình và tránh ghép đôi cùng nhau hoặc tìm cách hóa giải tương khắc nhé.

Bảng tra mức độ hợp khắc giữa 12 con giáp

Tuy nhiên bảng này chỉ tra theo tương hợp tương khắc giữa Chi của con giáp, Nên vấn đề hợp khắc chỉ có tính tương đối, nếu xem tuổi vợ chồng hoặc xem bói tình yêu thì cũng chỉ nói lên một phần rất nhỏ trong quan hệ của hai người. Các bạn có thể dùng để tham khảo nhanh nhé

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tra cứu mức độ hợp khắc trong tình yêu của 12 con giáp

Trang trí nội thất hợp phong thủy đón tài lộc

Phong thủy học quan niệm, Thủy và Mộc là những yếu tố có thể mang lại tiền tài và vận may cho gia chủ. Dưới đây là một số mẹo trang trí nội thất mang lại tài lộc cho gia đình bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Bài trí nhiều cây xanh

Trong nhà, bố trí không gian xanh với những loại cây như cây phát lộc (lucky bamboo), cây kim tiền, cây phát tài hay các loại cây có tác dụng thanh lọc không khí khác như thiết mộc lan, cau trúc, cây dây nhện...

2. Trang trí nhà với đồ vật đặc trưng phong thủy

Đài phun nước đem theo năng lượng của hành Thủy nên rất phổ biến trong phong thủy. Bên cạnh đó, phong thủy cũng coi trọng vai tác dụng của gương trong trang trí nhà. Gia chủ có thể làm một đài phun nước trong ngôi nhà nhưng bảo đảm nước phải sạch và dòng chảy nước phải liên tục, thường xuyên hoặc trưng bày bất cứ đồ vật hiển thị hình ảnh của nước như tranh sông, thác nước, hồ, đại dương...

3. Lưu ý hình dáng đồ vật bài trí trong khu vực tài lộc

Trang trí giấy dán tường, khung ảnh, đồ vật, bình hoa, dụng cụ mang hình dáng cụ thể như hình vuông (đặc trưng cho yếu tố thổ), hình lượn sóng (đại diện cho thủy) hay hình chữ nhật (đại diện cho mộc) được sắp đặt trong khu vực tài lộc có thể đem đến năng lượng tốt cho vận nay của bạn.

cây phong thủy
Bố trí cây xanh trong nhà hợp phong thủy giúp mang lại tài lộc
 

4. Hình ảnh về công viên, rừng cây hay những đồng cỏ xanh mát

Bất kỳ hình ảnh, trang trí, tranh vẽ mang hình ảnh rừng núi, bãi biển, thiên nhiên đều tốt cho sự thịnh vượng của bạn.

5. Sử dụng màu sắc phù hợp

Nên lựa chọn sơn tường, vải, khăn trải bàn hay các họa tiết trang trí màu xanh lá, xanh dương, nâu, đen, sắc vàng hoặc ánh đỏ cho khu vực tiền tài trong nhà. Các màu sắc nổi bật như đỏ san hô, đỏ tươi, hồng hoặc tím cũng có thể sử dụng nhưng nên tránh dùng những màu sắc này làm gam màu chủ đạo.

6. Trang trí bằng những hình ảnh, đồ vật  đặc trưng cho dư giả và sung túc

Có thể lựa chọn những cá nhân hoặc hình ảnh đại diện cho sự giàu có hay những vật có thể tác dụng thúc đẩy nguồn năng lượng của sự giàu có cho gia đình bạn.

7. Bài trí theo phương pháp phong thủy cổ điển

Thuyền tài lộc, bể cá phong thủy, bình tài lộc, tiền xu cổ, đá phong thủy (citrine, pyrite), tượng Phật cười... đã được dùng nhiều trong nhiều thế kỷ với ý nghĩa có thể thu hút được sự giàu có.

8. Sử dụng hoa tươi, tinh dầu, nến thơm

Luôn giữ nguồn năng lượng sôi động, vui vẻ bằng những mùi hương dễ chịu, tốt cho sức khỏe bằng tinh dầu, nến thơm hoặc hoa tươi. Những mùi hương dễ chịu, bản nhạc không lời, ánh sáng vừa đủ còn có tác động tích cực đến hệ thần kinh, giúp tâm trạng thoải mái, thư giãn bên cạnh việc thu hút năng lượng phong thủy của sự giàu có và thịnh vượng.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí nội thất hợp phong thủy đón tài lộc

Tuổi Tỵ và tuổi Tuất hợp nhau không? –

Hai người tuổi Tỵ và Tuất có mối quan hệ khá phức tạp nhưng họ hoàn toàn có thể dung hòa được. Cả hai con giáp này đều hay lo lắng và cảm thấy bất an. Điều tuyệt vời là nhờ có mối quan hệ chung này mà cả Tỵ và Tuất đều có thêm sức mạnh, nghị lực và t
Tuổi Tỵ và tuổi Tuất hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tỵ và tuổi Tuất hợp nhau không? –

Nhà thêm tiền bạc nếu bài trí phong thủy đúng cách

Bạn thấy gia đình mình làm ăn không được suôn sẻ ? Có thể một trong những lí do có liên quan đến phong thủy. Không để nước rò rỉ, giữ bếp sạch hay chọn màu sắc ưa thích… là những mẹo giúp bạn thu hút tiền bạc, niềm vui vào nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Giữ bếp sạch

Nhà bếp không chỉ có ảnh hưởng quan trọng đến sức khỏe mà còn liên quan trực tiếp đến khả năng thu hút tài chính của chủ nhà. Sắp xếp gọn gàng tủ đựng bát đĩa, tủ lạnh, sử dụng thực phẩm tươi sống cho nhu cầu ăn uống. Để thu hút may mắn về tiền bạc nhiều hơn, bạn cần giữ cho bếp luôn sạch, mỗi khu vực cần được sử dụng đúng cách. Cuối cùng là loại bỏ những vật dụng không cần thiết trên bàn ăn.


Màu đỏ được coi là đem tới may mắn và đem lại cảm giác tươi vui

2. Trang trí với màu đỏ, tím hoặc xanh

Màu đỏ có tác động mạnh mẽ tới tâm trạng. Màu đỏ cũng được coi là tốt lành và mạnh mẽ. Màu tím và màu xanh lá cũng là những màu thu hút sự thịnh vượng nhưng có vài điểm đặc biệt. Nếu bạn không thể chịu nổi màu xanh lá, nó sẽ không giúp ích gì cho bạn. Nếu bạn yêu màu tím, hãy vẽ lên tường bức tranh hoa oải hương hoặc bọc ghế màu tím violet. Sau đó, điều chỉnh lại các khoảng không gian. Đây là cách không chỉ giúp căn phòng có thêm nhiều đồ vật mà còn trang trí tạo ra sức hút cho riêng ngôi nhà.

3. Cửa trước dễ nhìn

Nếu cửa trước của ngôi nhà khó tìm hoặc khiến người khác khó khăn khi đi vào thì đó chính là khó khăn cho cuộc sống của bạn. Nhà cần có chuông cửa để tiện cho khách tới gọi chủ nhà. Cửa trước là nơi đón không khí tươi sáng và trong lành. Quét dọn các bậc thềm và sân trước, thêm một chậu cây trên lối vào.

4. Giảm sự lộn xộn, thêm cây và nước

Để mang lại sự thịnh vượng, điều quan trọng là tạo nên cảm hứng sôi động, lành mạnh và loại bỏ sự bừa bộn. Bừa bộn gây ùn tắc nguồn khí, dẫn đến sự trì trệ. Cây và hoa mang lại năng lượng sôi động cho cuộc sống, giúp không khí trong lành. Đài phun nước rất quan trọng trong phong thủy, nó giúp điều chỉnh vượng khí, kích thích năng lượng và tượng trưng cho tiền bạc.

5. Thêm niềm vui

Nếu phòng ngủ quá gọn gàng hoặc mang lại cảm giác vô trùng, hãy thêm một vật gì đó làm bạn mỉm cười. Đó có thể là tác phẩm nghệ thuật hoặc bức ảnh hai vợ chồng đang cười với nhau. Điều này mang lại năng lượng tích cực vào phòng và giúp cải thiện mối quan hệ.

6. Không để rò rỉ nguồn nước

Vòi nước chảy là dấu hiệu của việc lãng phí tiền bạc. Tình hình tài chính của bạn được phản ánh thông qua những nguồn nước trong nhà. Để làm giàu thêm tài chính, hãy sửa chữa đài phun nước đang hỏng hay loại bỏ các nguồn nước đang bị ứ đọng. Tránh treo những tác phẩm nghệ thuật liên quan tới nước hoặc treo gương cao quá mũi bạn và tránh đặt gương hay tranh ảnh vẽ nước ngay trên đầu giường.

7. Tạo dựng văn phòng tại gia

Nhiều người làm việc tại nhà nhưng lại bỏ qua không gian cho hoạt động kinh doanh. Hãy tự mình làm công việc kinh doanh thật nghiêm túc nếu muốn thu hút khách hàng mới và có cơ hội lớn hơn. Văn phòng cần phải có một bàn lớn đối diện với cửa ra vào và cửa sổ. Bạn hãy tạo không gian để mọi người có thể đi vào, ngồi xuống, bắt tay với mình. Tránh kê bàn sát tường, nó sẽ khiến bạn cảm thấy quỵ lụy và không được tôn trọng. Không gian tương đương với cơ hội, vì vậy, cần sắp xếp ghế ngồi sao cho bản thân giữ đươc tầm nhìn ra phía trước.

8. Chọn màu sắc ưa thích

Bản thân chủ nhà và ngôi nhà phải hòa hợp với nhau mới mang lại phong thủy tốt. Theo các chuyên gia, sai lầm về tiền bạc trong phong thủy là gia chủ lựa chọn những thứ mà họ không thích. Ví dụ màu đỏ được xem là màu may mắn và bạn nghe rằng sơn cửa màu đỏ sẽ thu hút sự giàu có. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là bạn lại không thích màu đỏ và thường ghét phải đi qua nó mỗi ngày.

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà thêm tiền bạc nếu bài trí phong thủy đúng cách
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd