Tướng đàn ông qua râu –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1. Con cái xinh đẹp, tuấn tú, khỏe mạnh
Mong muốn này thường được thể hiện qua các tên như: Tuấn, Uy, Anh, Trang, Tú, Vũ, Hùng, Tùng, Sơn, Quyên, Giao, Mị, Uyển, Lệ, Mỹ, Lan…
2. Con cái có học vấn uyên thâm, đa tài
Khát vọng con cái mình học hành giỏi giang, thông minh hơn người, có công việc ổn định và không phải lo cơm áo gạo tiền cũng là niềm mong mỏi của những người làm cha, làm mẹ. Những tên gọi như: Linh, Triết, Minh, Hiếu, Hiển, Duy, Học, Tư, Văn, Thư, Cần… rất hợp để chuyển tải mong ước đó.
3. Con cái có phẩm chất lương thiện
Ai cũng mong muốn con mình lớn lên sẽ trở thành người tốt, có phẩm chất lương thiện và một tâm hồn đẹp. Để gửi gắm mong ước này, bạn có thể chọn những tên như: Ái, Nhân, Dung, Đức, Hiền, Lương, Luân, Chính, Thanh, Nghĩa, Thành, Trực, Đạo. Tuy nhiên, muốn chọn được một tên hay thể hiện mong ước này, bạn cần xem tên và họ của con bạn có phối hợp hài hòa với nhau không?
![]() |
| Mong muốn con cái được hạnh phúc, bình an là mong mỏi của cha mẹ |
4. Con cái có cuộc sống sung túc
Có đời sống sung sướng, đầy đủ về mọi mặt là điều mong muốn của bất kỳ người làm cha làm mẹ nào. Đạt, Diệu, Hưng, Vinh, Hoa, Vương, Doanh, Phong, Thịnh… là những tên gọi giúp bạn một cách đắc lực trong việc thể hiện mong ước dành cho đứa con yêu của mình.
5. Con cái được hạnh phúc, bình an
Sau nhiều trải nghiệm trong cuộc đời, ước muốn con cái được hạnh phúc, bình an là điều mong mỏi của không ít ông bố, bà mẹ. Những cái tên như: An, Tĩnh, Thông, Thái, Nhiên, Định, Khang… sẽ biểu đạt được mong muốn đó.
6. Con cái thành đạt trong sự nghiệp
Thành đạt trong sự nghiệp là điều ao ước và là mục đích phấn đấu của không ít người. Để đạt được điều đó, con người cần phải có tinh thần tự lập tự cường, say mê công việc và có ý chí phấn đấu cao. Những tên gọi như: Nghị, Cương, Hoành, Nhẫn, Hằng, Kiên, Lực, Quyết, Định, Lập, Trí, Ý… sẽ góp phần tích cực tạo nên những nét phẩm chất tốt đẹp cho con bạn.
7. Con cái có chí hướng và hoài bão lớn, tích cực
Nếu bạn mong muốn con cái mình sẽ có nhiều cống hiến cho xã hội, làm vinh danh dòng họ và được vang danh thiên hạ thì những tên gọi như: Bá, Cao, Chiến, Trí, Đắc, Đại, Quảng, Bằng, Việt… rất thích hợp.
Theo Tên hay thời vận tốt
![]() |
Hiện tượng: Có một số ngôi nhà do mối quan hệ của bố cục bên trong nên sau khi vào cửa phải di qua phòng ngủ hoặc phòng bếp mới có thể đến được phòng khách, kiểu bố cục này trong phong thủy học gọi là “thoái tài óc” (ngôi nhà mất của cải), chưa nói đến không hợp với lý thuyết phong thủy, mà nói đơn giản về sinh hoạt cũng gây ra nhiều bất tiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nghỉ ngơi và sinh hoạt bình thường của người trong nhà.

Phương pháp hóa giải: Phương thức hóa giải triệt để nhất chính là lập tức sửa đổi bố cục và động tuyến, không còn cách nào khác, sống lâu trong căn nhà như vậy, sức khỏe con người chắc chắn bị ánh hưởng.
| ► Xem thêm: Các bố trí phong thủy phòng ngủ chuẩn tránh ma quỷ quấy nhiễu |
![]() |
| Ảnh minh họa |
- Chưa có sự lý giải chính thức về mức độ tốt khác nhau và tốt về phương diện nào theo số lượng sao Không thủ chiếu cung vô chính diệu?
- Tác dụng của các sao Không này đối với chính tinh trực chiếu ra sao?
- Giá trị của chính tinh trực chiếu so với giá trị của phụ tinh tọa thủ ra sao?
- Phải chăng 4 Không (Thiên Không, Địa Không, Triệt Không và Tuần Không ) có giá trị như nhau?
Để trả lời cho những vấn đề này chúng ta nên tìm hiểu vô chính diệu là như thế nào?
Cung vô chính diệu là cung mà không có chính tinh tọa thủ. Theo khoa tử vi có tất cả 14 chính tinh phân phối đều 12 cung như vậy thông thường trong một lá số, mỗi cung có một chính tinh tọa thủ và quản lý chi phối cung đó, và hai cung là có 2 chính tinh đồng quản lý. Trong trường hợp có hơn hai cung mà có hai chính tinh tọa thủ thì sẽ có cung thiếu chính tinh như vậy sẽ cung thiếu chính tinh sẽ rơi vào trường hợp vô chính diệu. Và cung vô chính diệu là cung bị thiệt thòi vì không có sự tác động của chính tinh như là con thuyền không lai hay miếng đất chưa khẩn hoang. Trường hợp cung vô chính diệu lại rơi vào cung mệnh hay thân thì mức độ ảnh hưởng lại quan trọng hơn.
Theo suy luận trên đưa đến hệ quả là cung vô chính diệu vì không có sự quản lý của chính tinh nên mọi sự giải đoán tại cung này khác hẳn với cung có chính tinh tọa thủ.
Hiện nay có hai khuynh hướng giải quyết sự việc này:
- Khuynh hướng thứ nhất cho rằng cung vô chính diệu có chính tinh đắc địa chiếu mới tốt hơn chính tinh hãm địa. Và chính tinh đắc địa là căn cứ vào vị trí tọa thủ chứ không căn cứ vào cung chiếu vô chính diệu.
- Khuynh hướng khác cho rằng phải có hung sát tinh hợp hành bản mệnh mà không bị Tuần Triệt án ngữ mới tốt.
Theo ý kiến và kinh nghiệm riêng của người viết có nhận xét như sau:
- Không có trường hợp nào cung vô chính diệu lại gặp cung trực chiếu cũng vô chính diệu. Như vậy cung vô chính diệu luôn luôn có chính tinh trực chiếu.
- Vì cung vô chính diệu khiếm khuyết chính tinh do vậy chỉ nên căn cứ vào số lượng sao Không thủ chiếu và chính tinh trực chiếu để giải quyết. Các phụ tinh dù là cát tinh hay hung tinh vì chịu ảnh hưởng của nhiều sao Không thủ chiếu nên mức độ tốt xấu đã thay đổi, không còn thuần nhất như ở cung chính diệu.
- Các sao Không ở cung vô chính diệu ngoài ý nghĩa cơ bản của nó, nó còn có ý nghĩa bổ khuyết trong trường hợp thủ chiếu cung vô chính diệu, về mặt lý thuyết THIÊN, ĐỊA, NHÂN.
THIÊN: đó là sao Thiên Không nói về thiên thời tùy theo vị trí đắc địa hay hãm địa.
ĐỊA: Đó là Địa Không nói về môi trường sống và hoạt động
NHÂN: Triệt Không (cuộc sống trước 30 tuổi) Tuần (cuộc sống sau 30 tuổi)
Như vậy tùy theo số lượng và ý nghĩa của sao Không chỉ nên được lý giải tốt xấu do sự hiện diện của các yếu tố Thiên Địa Nhân đắc địa và hãm địa.Và các sao này chịu ảnh hưởng trực tiếp của cung tọa thủ chứ không phải cung chiếu mà cũng không phải hành bản mệnh của đương số.
Tóm lại lá số vô chính diệu hiệu nay vẫn còn nhiều nghi vấn mà câu trả lời vẫn còn trong tìm kiếm và sự đóng góp của các bậc thức giả quan tâm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Có rất ít người biết rằng chỉ cần bày vài chậu hoa hay cây cảnh trong văn phòng hay nhà ở một cách hợp lý là đã có thể cải thiện vận khí cho nơi đó. Việc đặt chậu cây cảnh phù hợp không chỉ tạo ra một môi trường làm việc thoải mái hay một không gian sống dễ chịu mà còn giúp cải thiện vận may cho chính bản thân mình. Mỗi người thuộc những cung mệnh khác nhau sẽ hợp với những loài cây khác nhau:
Màu xanh giúp đem lại may mắn cho những người thuộc mệnh Mộc, nhưng người mệnh Mộc lại rất kỵ màu trắng. Để tăng tài vận cho những người mệnh Mộc thì số chậu hoa trong nhà tốt nhất nên để 3 hoặc 8 chậu. Gia chủ có thể chọn các loại cây thuộc họ tùng trúc, cây Phát Tài, hoa Thủy Tháp, hoa Lan, sâm cảnh, cây Vạn Niên Thanh, các loại dừa cọ, cây Kim Tiền,… để tăng tài vận.
Người mệnh Mộc nên chọn các loại cây thuộc họ tùng trúc, cây Phát Tài, hoa Lan
Người mệnh Kim rất hợp với màu trắng và màu bạc nhưng lại rất kỵ với màu đỏ. Để tăng vận khí cho bản thân thì người mệnh Kim nên trồng 4 hoặc 9 chậu cảnh trong nhà. Để tăng tài vận, người mệnh Kim nên trồng các loại cây như Bạch Lan, cây Trà Phúc Kiến, hoa Bách Hợp vàng, hoa Cửu Ly Hương, hoa Hàm Tiếu, hoa Mễ Lan, hoa Kim Quế, hoa Kim Ngân,…
Người mệnh Kim nên trồng các loại cây như Bạch Lan, cây Trà Phúc Kiến, hoa Bách Hợp vàng,...
Màu đen, xám và xanh da trời là những màu sắc đem lại may mắn cho những người mệnh Thủy, nhưng những người mệnh này lại rất kỵ với màu vàng. Trồng 1 hoặc 6 chậu cây trong nhà sẽ giúp tăng tài vận cho người mệnh Thủy. Gia chủ mệnh Thùy có thể chọn trồng các loại cây như Lan Hồ Điệp, hoa Thủy Lục, Dương Xỉ, cây Liêm Hồ Đằng, Trúc Phú Quý, cây hoa trà, cây Thường Xuân, cây Ngọc Kỳ Lân, cây Mẫu Tử, hoa Đại tướng quân,…
Hoa Lan Hồ Điệp rất phù hợp để trồng trong nhà của người mệnh Thủy
Màu vàng không hợp với người mệnh Thủy nhưng lại là màu bản mệnh của người mệnh Thổ. Trong khi đó, người mệnh Thổ lại kỵ với màu xanh lá cây. Gia chủ mệnh Thổ nên trồng 5 đến 10 chậu cây cảnh để tăng tài vận cho mình. Người mệnh này có thể chọn trồng các loại hoa như hoa Hàm Tiếu, hoa Mễ Lan, hoa Quế, cây Mẫu Tử, cây Thiên Tuế,…
Người mệnh Thổ nên trồng các loại cây như hoa Hàm Tiếu, hoa Mễ Lan, hoa Quế,
cây Mẫu Tử, cây Thiên Tuế
Các màu sắc như màu đỏ, hồng và tím rất hợp với người mệnh Hỏa, trong khi màu đen lại kỵ với mệnh này. Để tăng tài vận cho người mệnh Hỏa thì nên trồng 2 hoặc 7 chậu cảnh trong nhà. Dưới đây là một số cây mà gia chủ mệnh Hỏa có thể chọn trồng như hoa Giấy đỏ, hoa Son Môi, hoa Trà đỏ, cây Long Huyết, cây Văn Trúc, cây Ngũ Gia Bì, cây Thường Xuân, hoa Quế, cây Phát Tài,…
Hoa Giấy đỏ, hoa Son Môi, hoa Trà đỏ, cây Long Huyết, cây Văn Trúc, cây Ngũ Gia Bì, cây Thường Xuân,
hoa Quế, cây Phát Tài,… là các loại cây thích hợp với người mệnh Hỏa
Vận thế là do mỗi người trong chúng ta tự quyết định. Nếu bạn biết cách bố trí nhà cửa hợp phong thủy thì con đường tài lộc sẽ càng trở nên thuận lợi và gần hơn bao giờ hết.
(Theo Khám phá)
Ngày nào là ngày tam nương tương sát
Theo trang Tử vi số mệnh, ngày tam nương có xuất xứ từ Trung Quốc. Tam nương có nghĩa là “ba người đàn bà”. Theo dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba nàng: Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự (những giai nhân tuyệt sắc làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công nguyên). Trong suốt thời đại của mình, họ được coi là “hồng nhan họa thủy” mang lại sự xui xẻo cho mọi người liên quan. Ngày tam nương chính là ngày sinh và ngày mất của 3 người này, nên một tháng có 6 ngày tam nương, đó là các ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 âm lịch.
Theo các nhà khoa học tâm linh, những ngày tam nương tương sát trong phong thủy được tính là các phi tinh (trong Cửu cung bát quái) có Ngũ hoàng (trung cung) xấu nhất, bay tới đâu mang họa tới đó và cứ phi tinh hết các cung (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử) lại gặp ngũ hoàng. Ngày tam nương tương sát cũng là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn…
Ngày tam nương tương sát còn được kiêng trong các sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ quan niệm: Đón dâu về nhà ngày tam nương tương sát thì vợ chồng sẽ cãi cọ, không ở được với nhau dài lâu, tuyệt đường con cái; Nếu đi sông biển ngày tam nương tương sát sẽ gặp họa vì khó tìm được bến bờ trở về; Nếu có bổ phong, nhận chức vào ngày này thì gặp họa thảm sầu, hoặc phải đi xa biền biệt…
Nhận định về ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch có “xấu” hơn so với các tháng khác trong năm không, ông Doãn Phú, Chủ nhiệm bộ môn Phong thủy (Viện Nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người) cho rằng, những ngày tam nương trong tháng 7 Âm lịch cũng như những ngày tam nương trong các tháng khác, không xấu hơn. Cũng theo ông Doãn Phú, không chỉ 6 ngày trên, những ngày 5, 14, 23 (các số cộng lại bằng 5) cũng là ngày xấu, được cho là "nửa đời, nửa đoạn", làm gì cũng không như ý.
Ông Doãn Phú cho biết thêm, người phương Tây cũng có quan niệm về những ngày xấu, gọi là ngày nguyệt kị, rơi đúng vào các ngày tam nương tương sát. Khoa học giải thích rằng, khi Trái đất tự quay quanh nó và mặt trăng quay quanh Trái đất thì khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới, khiến các dòng năng lượng giao động, ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên Trái đất. Các chuyên gia thiên văn hiện đại cho rằng, vũ trụ thường xuyên xảy ra những vụ va chạm trong thiên hà và phát sinh những bức xạ, tia xạ ảnh hưởng lớn đến Trái đất, chi phối đời sống của sinh vật, trong đó có con người. Và những ngày tam nương là thời điểm mặt trăng chuyển sang vùng mới, tránh ngày xấu chính là tránh thời điểm không tốt của sự vận động vũ trụ và khí quyển.
Hạn chế làm việc gì?
Đại đức Thích Pháp Đạt,nguyên trụ trì chùa Trường Sa lớn (huyện đảo Trường Sa), người đã có nhiều chuyến đi về giữa đảo và đất liền nhân tháng Vu Lan đã chia sẻ rằng, nhà chùa không phân biệt ngày tốt, xấu, ngày thường hay ngày tam nương tương sát như trong dân gian. Nhà chùa khuyên mọi người không nên lệ thuộc, sợ hãi quá vào những ngày tốt, xấu. Nhà chùa không kể ngày, giờ tốt hay xấu, đặc biệt khi có người cầu cứu, các nhà sư không chờ ngày tốt, giờ tốt mới đi, hoặc né tránh giúp người vì lý do ngày, giờ xấu.
Với đạo Phật, mọi việc đều do nghiệp quả, quan niệm xui hay không là do con người. Nếu cố chấp, lo lắng nhiều thì khó khăn sẽ đến. Nhưng nếu buông bỏ, không coi trọng những quan niệm đó thì sẽ không có gì. Bỏ đi được quan niệm xấu, tốt, hay không bỏ quan niệm đó cũng tùy “nghiệp” của từng người, nhưng đừng sa đà vào mê tín dị đoan.
Ông Doãn Phú cũng khuyên, ngày tam nương, nguyệt kị là xấu theo dân gian và tâm linh, nhưng thực sự chưa có nghiên cứu, kiểm chứng khoa học nào về những xui xẻo do ngày đó mang lại. Ông Doãn Phúc nhận định: “Quan sát gần đây thấy có những kiêng kị dân gian có cái còn phù hợp, có cái không. Và thực tế nhiều vụ tai nạn máy bay rơi, đắm tàu thuyền lớn… gần đây không hoàn toàn rơi vào những ngày xấu. Đã từng có nhiều việc trọng đại diễn ra vào các ngày 13/6, 13/7 Âm lịch và đều đạt kết quả rất tốt. Như vậy, những ngày này không phải xấu như quan niệm. Người dân không nên quá lo lắng để tìm cách hóa giải”.
Tuy nhiên, ông Doãn Phú cũng khuyến cáo vì các ngày tam nương tương sát thường là những ngày năng lượng giao động khiến cơ thể con người mất cân bằng, kém minh mẫn. Vì vậy, nên thận trọng khi lái xe, điều khiển máy móc, hạn chế các chuyến đi chơi xa, leo núi, tới nơi rừng rú...
Ông Doãn Phú nói: "Quan điểm của tôi là việc kiêng hay không kiêng, tránh hay không tránh ngày tam nương tương sát là tùy mỗi người. Nếu là người làm ăn, hoặc khi triển khai các việc lớn như khai trương, ký hợp đồng, khởi công nhà mới.. thì cần xem kỹ ngày để tránh xui xẻo. Còn bình thường thì không nên xem trọng quá. Ngày tam nương tương sát chỉ nên xem đó là một ngày bình thường, cứ sinh hoạt, làm việc bình thường, đừng để những quan niệm ảnh hưởng đến cuộc sống của mình vì con người vẫn là yếu tố quyết định".
Bạn đừng nghĩ tranh phong thuy treo ở bất kì hướng nào cũng tốt hết nhé, treo tranh phong thủy phải lựa chọn tranh hợp với tuổi, với mệnh và phải lựa chọn hướng treo thì lúc đó mới phát huy được cái tốt của tranh phong thủy
1. Chính Đông theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.

2. Chính Nam, Đông Nam theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
3. Đông Bắc theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.
4. Bắc theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài lộc, may mắn của gia chủ.
5. Tây Bắc theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, có anh hùng tính, thấy chuyện bất bình ra tay can thiệp. Đôi khi võ đoán chuyên quyền. Chữ “ tân” là cay đắng nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc phải trắng tay. Phải sớm ly hương hay xa gia đình cha mẹ anh chị em thì tốt hơn. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất dễ thành công. Hạp màu vàng, trắng, kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này bê tha. Một người dù tài giỏi thông minh tới đâu mà không chịu học, sẽ phải hối hận suốt đời. Thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài mà thôi. Chỉ cần chăm chỉ tốt nghiệp 4 năm đại học thôi, có thể sẽ thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“Tuổi trẻ hôm nay ráng học hành
Ngày mai rạng rỡ bước công khanh
Dùi mài khó nhọc công đèn sách
Hiếu thảo làm vui đấng sinh thành”
Nếu đang chơi soccer hay football, phải cẩn thận, đề phòng thương tích tay chân. Xấu nhứt là tháng 5.
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Tam-Kheo: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan, công danh thăng trầm, đường chồng con cũng nhiều trắc trở khó khăn. Tuy nhiên ly hương hay xa gia đình thì lại thành danh. Tuổi già thích làm công ích xã hội và tạo nhiều thiện nghiệp. Cho nên đời đạo thong dong, tiền tài súc tích. Chẳng những chỉ có bàn tay và khối óc mà dễ dàng thành tựu, còn phải nhờ ở phước đức do chính mình vun bồi. Hạp màu vàng, trắng. Kỵ màu đỏ. Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là ngay hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh lỗi lạc tới đâu mà không chịu học, thì phải ân hận suốt đời. Thiên tài cũng nhờ ở cố gắng bền bỉ mà thành danh. Chỉ cần hoàn tất 4 năm đại học thôi, có khi được thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này:
Cơm cha áo mẹ công thầy
Ráng công học tập tháng ngày chăm lo
Tương lai giàu có ấm no
Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”
Nếu chơi game nhiều hay lạm dụng internet, computer sẽ bị cận hay viễn thị ngay năm nay!
KỶ-TỴ 25 TUỔI: ( Sinh từ 6/2/1989 đến 27/1/1990)
Mệnh: Đại-Lâm-Mộc ( cây trong rừng lớn).
NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Thông minh, có tài năng, sắc sảo, có lý tưởng, nhạy bén nhưng hơi chủ quan. Đôi khi nuôi nhiều tham vọng, tự phụ. Trước 30 tuổi thường gặp nghịch cảnh. Nếu có vì học vấn mà xa gia đình sẽ may mắn, nên tự lập sớm. Hướng nhà ở và thương mại là Tây và Tây-Bắc. Lấy vợ hợp với những tuổi Bính-Tý (1996), Đinh-Sửu ( 1997), At-Hợi (1995) và Tân-Mùi (1991).
“Đời trai học vấn làm đầu
Siêng năng chăm chỉ ngày sau đạt thành
Hôn nhân sự nghiệp công danh
Thảnh thơi mai hậu: học hành hôm nay !”
Năm nay thi cử đỗ đạt, tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm vừa ý. Nếu muốn thay đổi chỗ làm, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp cơ hội thuận lợi. Muốn đi xa xuất ngoại cũng thành công. Bạn nào đã làm hãng xưởng dễ được lên chức, lên lương. Bạn nào kinh doanh thương mại sẽ thành công trên thương trường. Tuy nhiên lái xe phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong tháng 3 và 9.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người sáng trí thông minh, nhanh nhẹn tháo vát, tự tin. Nhưng tiền vận thường phải phấn đấu với nghịch cảnh và sống nhiều về nội tâm. Bạn nào sinh ban đêm vào mùa Thu, Đông tình duyên rất thuận lợi.
“Tuổi trẻ miệt mài học hôm nay
Ngày mai danh lợi sáng tương lai
Siêng năng tiến bước đường học vấn
Hạnh phúc công danh sẽ an bài”
Hôn nhân hợp với tuổi Qúi-Hợi (1983), Tân-Dậu (1981), Bính-Dần (1986) và Đinh-Mão (1987). Lấy chồng bất luận năm nào, luôn luôn chọn ngày giờ trong tháng 3, và 9 âm lịch là tốt nhất. Kinh doanh thương mãi, chọn hướng Bắc, Nam và Đông Nam. Năm nay thi cử đỗ đạt. Bạn nào tốt nghiệp ra trường sẽ có việc làm như ý. Bạn nào muốn thay đổi trường học, chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều được mãn nguyện. Bạn nào khởi đầu thương mãi cũng đầy may mắn. Muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.
ĐINH-TỴ 37 TUỔI: (Sinh từ 18/2/1977 đến 6/2/1978).
Mệnh: Sa Trung Thổ (Đất lẫn trong cát).
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Tính tình cương trực, nhưng hay sợ trách nhiệm, không dám đương đầu với khó khăn nên việc lớn khó thành. Vừa muốn yên thân lại không biết lo xa nên dễ thất bại trong buổi thiếu thời. Từ tình duyên đến công danh sự nghiệp đều có trở ngại ban đầu. Tuy nhiên, nhờ tích lũy kinh nghiệm, biết cần cù, nhẫn nại, sau 30 tuổi việc làm ăn lại thành công. Chọn vợ hạp nhất trong các tuổi Đinh-Tị (1977), Mậu-Ngọ (1978), Quý-Hợi (1983 ) và Đinh-Mão (1987). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây-Bắc.
“ Tiền vận đôi khi lắm chuyện buồn
Tình duyên sự nghiệp chẳng mấy suông
Qua nhiều thử thách nhờ kiên nhẫn
Công thành danh toại thẳng tiến luôn”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” nên tận dụng vận may để xây cất nhà cửa, cơ sở thương mãi. Nhờ đó, việc làm ăn sẽ phát đạt lên. Tuy nhiên trước khi lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Đồng thời phải cẩn thận đề phòng tai nạn rủi ro về xe cộ. Nếu say rượu lái xe thì thảm họa khó tránh. Không nên đầu tư chứng khoán. Mọi việc đều xấu trong tháng 1, 7.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh : Mẫu người tài năng thông minh nên thích tự lập. Rất tự tin nên khó thuyết phục. Do đó lúc gặp nghịch cảnh phải chịu thành bại bất thường. Người sinh ban đêm vào mùa Hạ,Thu sẽ dễ thành công hơn. Lúc nhỏ hay đau ốm lặt vặt. Tiền vận thường gặp nhiều trắc trở về tình duyên. Tuổi chồng hợp nhất là Bính-Thìn (1976), Đinh-Tị (1977), Tân-Hợi (1971), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Tân-Dậu(1981) và Mậu-Thân (1968). Tối kỵ tuổi Giáp-Dần (1974). Hạp màu đỏ. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc.
“Tình duyên trắc trở buổi ban đầu
Nhu mì uyển chuyển mới bền lâu
Thông minh tài đức, năng thắng số
Duyên phận nhẫn hòa khỏi lo âu“
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Tứ Tấn Tài” rất thích hợp cho việc xây cất nhà cửa chỉnh trang cơ sở thương mại. Hy vọng nhờ đó mà công việc làm ăn phát đạt, thành công hơn. Tuy nhiên gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Xấu nhất là tháng 3, 9. Lái xe cũng phải cẩn thận đề phòng những rủi ro trong 2 tháng này. Nếu muốn đẻ con út, thì nên có thai sau tháng 6, để đẻ con năm Giáp-Ngọ, có thể giúp cha mẹ phát đạt 20 năm.
ẤT-TỴ 49 TUỔI: (Sinh từ 2/2/1965 đến 20/1/1966).
Mệnh: Phú Đăng Hỏa (Lửa ngọn đèn).
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch, hạn Tán-Tận: Mẫu người ngay thẳng, trọng lời hứa, có tinh thần trách nhiệm, thích giúp người nhưng ít khi được người đền đáp. Tiền vận gian nan, vất vả, thăng trầm. Tình duyên cách trở đổi thay. Nhiều khi có tài mà không gặp thời. Người sinh ban đêm mùa Xuân, Hạ dễ thành công hơn. Người ly hương tự lập thường tạo nên sự nghiệp. Vợ là cánh tay phải rất đắc lực nếu nhằm vào các tuổi Nhâm-Tí (1972), Quý-Sửu (1973), Ất-Tị (1965), Giáp-Thìn (1964), Canh-Tí (1960), Tân-Sửu (1961) và Nhâm-Dần (1962). Rất kỵ tuổi Bính-Ngọ (1966). Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen, đi xe đen. Nhà cửa và kinh doanh tốt nhất trên hướng Tây Bắc và chánh Tây.
“ Có tài mà chẳng gặp thời
Tánh tình ngay thẳng giúp người quản chi
Gian nan vất vả lắm khi
Đức năng thắng số lo gì tương lai”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Tháng 5, kỵ mặc đồ trắng, gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con, tài lộc hao tán. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại. Tất cả công việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây nên tình trạng bế tắc về tài chánh.
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người đoan chính, bền tâm kiên nhẫn, cần cù nhẫn nại, vượng phu ích tử, rất năng nỗ quán xuyến đảm đang. Tình đầu trắc trở. Xuất ngoại ly hương dựng nên sự nghiệp lớn lao. Người sinh ban đêm vào mùa Xuân, Hạ rất thành công. Đại kỵ màu đen, đi xe đen. Hạp màu đỏ. Tuổi chồng hạp nhất là Ất-Tị (1965), Tân-Sửu (1961), Đinh-Dậu (1957), Bính-Thân (1956), Tân-Mão (1951) hoặc Đinh-Mùi (1967), Bính-Ngọ (1966) và Quý-Tị (1953). Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và Tây Bắc.
“Vượng phu ích tử số người
Đảm đang quán xuyến tuyệt vời vợ ngoan
Duyên lành gặp được chồng sang
Trọn đời hạnh phúc huy hoàng trăm năm”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tuy nhiên tránh mở mang rộng lớn, chẳng những lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không; mà còn gây ra tình trạng bế tắc về tài chánh. Nếu làm việc nhiều bằng computer, sẽ bị đau mắt. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại gây nhiều hao tán.
QUÝ-TỴ 61 TUỔI: (Sinh từ 14/2/1953 đến 2/2/1954).
Mệnh: Trường Lưu Thủy ( Nước chảy thành dòng lớn).
NAM: Cung Khôn, sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Người thông minh lanh lợi, thích bạn bè náo nhiệt. Tánh tình cẩn thận, biết tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và hay xa gia đình. Tình duyên lận đận trong hồi tiền vận. Người sinh tháng 6, 7, 11 dễ thành công hơn những tháng khác. Nhờ lo xa mà cuộc sống gia đình được sung túc an nhàn. Xuất ngoại sớm thành công danh sự nghiệp. Nếu hiền nội nhằm tuổi Giáp-Ngọ (1954) thì rồng mây tương hội, công danh hiển hách, phú quí giàu sang. Nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“ Cuộc đời vốn được an nhàn
Rồng mây tương hội giàu sang mấy hồi
Gia đình dầu có xa xôi
Cửa nhà tốt đẹp hạ hồi thuận duyên”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu trúng vào “Nhứt Kiết”; nếu muốn xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Tháng 3, tháng 9, gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên việc làm ăn rất thắng lợi và thành công. Qúy ông làm công chức được thăng quan tấn chức. Qúy ông kinh doanh thương mãi cũng vững bền tài lộc. Đồng thời nhiều cơ hội đi xa xuất ngoại vui vẻ sẽ tới trong năm.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Người thông minh nhiều sáng kiến, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh và luôn gặp qúi nhân trong đời. Số hơi vất vả buổi đầu, nhưng trung và hậu vận lại phát đạt thành công. Hồng nhan đa truân, tình duyên thường có trắc trở chia ly rồi lại tái hợp vững bền. Sẽ nhờ chồng nếu gặp tuổi Ất-Mùi (1955), Tân-Mão (1951), At-Dậu (1945). Đời sống khỏi lo lắng nhiều, chỉ nhờ cần cù nhẫn nại mà vẫn sung túc an nhàn. Rất hạp màu trắng. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam.
“ Quý-Tỵ hậu vận thành công
Qua bao thử thách vợ chồng đẹp đôi
Làm ăn phát đạt thảnh thơi
Thăng quan tiến chức cứ ngồi hưởng thôi”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết”, nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở kinh doanh thương mãi, có thể thực hiện được. Mặc dù tháng 1, tháng 7 gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Tuy nhiên muốn thay đổi chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại sẽ gặp hoàn cảnh thuận lợi vui vẻ.
TÂN-TỴ 73 TUỔI : (Sinh từ 27/1/1941 đến 14/2/1942).
Mệnh: Bạch Lạp Kim (Vàng ở chân đèn).
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người có tài năng thích lãnh đạo chỉ huy, thích làm việc cộng đồng, nhưng đôi khi hơi võ đoán chuyên quyền. Chữ “Tân” là cay đắng khổ sở nên khi thì công danh tột đỉnh, có lúc lại trắng tay. Phải sớm ly hương xa cha mẹ anh em mới khỏi bị mồ côi. Hậu vận thích triết, thích đạo lý và có khuynh hướng tu hành hướng thượng. Người sinh mùa Xuân, Thu rất thành công. Kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Tài trai ngang dọc uy nghi
Dang tay gánh vác sá chi thân mình
Hy sinh vì nghĩa chân tình
Nặng lòng chung thủy hiển vinh an nhàn.”
“ Thất thập cổ lai hi”. Vậy đã 73 tuổi, qúy ông nên tính chuyện về hưu “ rửa tay gác kiếm”, qui ẩn giang hồ may ra có thể tránh được bệnh hoạn ốm đau. Xấu nhất là tháng 1, 7 trong gia đình có người phát bệnh hoặc tang chế bà con. Qúy ông còn lái xe, cũng phải cẩn thận đề phòng rủi ro về xe cộ trong 2 tháng này. Không nên đầu tư chứng khoán, may ít rủi nhiều trong năm nay. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người biết lo xa, có tinh thần trách nhiệm, nhiều mưu cơ, giỏi ứng biến. Tiền vận rất gian nan thăng trầm về công danh, đường chồng con cũng nhiều trở ngại khó khăn. Tuy nhiên khi ly hương thì lại đạt nhiều mơ ước. Tuổi già thích đạo lý và tu hành, giúp đỡ người, làm điều phước thiện. Vật chất tiền tài sung túc thì nên tiếp tục làm phước. Sự giàu sang phú quí hiện tại, một phần là do bàn tay và khối óc, một phần là nhờ ở phúc đức của chính mình. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc
“Công danh dầu dãi khó khăn
Tạo nhiều phước đức công bằng Trời ban
Qua hồi vất vả gian nan
Trăm năm hạnh phúc vẻ vang một đời”
Năm nay tháng 3, tháng 9 gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hoặc tang chế bà con. Cổ nhân nói “Thất thập cổ lai hi”. (Được sống tới 70 cũng ít). Vậy năm nay qúy bà đã 73 tuổi, nên về hưu, “rửa tay gác kiếm, qui ẩn giang hồ” may ra có thể tránh được bệnh hoạn, ốm đau. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại vì nhiều bất trắc khó lường!
Nguồn Vietstar
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
3 con giáp muốn thành công chỉ dựa vào chính mình
| ► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh, phong thủy chuẩn xác |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Biến động vận trình của 12 con giáp dịp lễ Thất Tịch
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt tọa lạc trên đồi Linh Quy phía đông của bán đảo Sơn Trà, thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt là một trong ba ngôi chùa cũng có tên gọi là Linh Ứng tại thành phố Đà Nẵng:
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt tựa lưng vào đỉnh Sơn Trà vững chãi, mặt nhìn ra biển Đông bao la, xa xa bên tả là đảo Cù lao Chàm án ngự, phía hữu là ngọn Hải Vân ngăn che với dòng Hàn giang hiền hòa thơ mộng.
Sơn Trà còn là nơi giao hòa giữa biển trời với núi sông trong khoảng không trầm lặng, với tiếng vỗ rì rầm của biển cả và lời kể về một câu chuyện thuở xưa: “Vào thời vua Minh Mạng, dân chài ven biển nơi đây đã phát hiện một tượng Phật trên bãi cát, bằng lập am thờ tự. Và rồi, Ngài Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn xuất hiện cứu người vượt vòng trầm luân, kể từ đó sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn, từ đó nơi đây có tên gọi là Bãi Bụt, hay còn gọi là Cõi Phật giữa chốn trần gian.”
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hiện được xem là ngôi chùa lớn nhất ở thành phố Đà Nẵng cả về quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật. Ngôi chùa mang một phong cách hiện đại kết hợp với tính truyền thống vốn có của chùa chiền Việt Nam, với mái ngói uốn cong có hình rồng, những trụ cột vững chắc được bao quanh bởi những con rồng uốn lượn rất tinh xảo.
Gian chính điện Tam Bảo và gian Nhà Tổ (bên trong một mặt đặt tôn tượng Đạt Ma Tổ Sư, một mặt đặt tôn tượng Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi) nối cách nhau một khoảng sân, có mái ngói che chắn. Sát gian Nhà Tổ là hai gian nhà khách mới xây, trong đó có một gian được bố trí theo cạnh chữ U.
Ngay khoảng sân áp lưng gian Chính điện, nhìn hướng Nhà Tổ là một “vườn tượng Phật” nhỏ với tôn tượng Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn bằng đồng, còn lại là tôn tượng Đức Phật Bổn Sư, tôn tượng Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tôn tượng Đức Phật Di Lặc, tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát bằng gỗ trông thật đẹp. Nơi gian Chính điện Tam Bảo uy nghiêm thanh tịnh, chính giữa là tôn tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, bên phải là tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, và bên trái là tôn tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Sảnh trước gian chính điện, một bên là tôn tượng Diện Nhiên Vương Bồ Tát, bên kia đặt tôn tượng Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát. Thẳng hướng chính điện là “Vườn La Hán” nhìn ra biển, nơi đặt tôn tượng 18 vị La Hán được tạc bằng đá trắng nguyên khối. Toàn bộ mái chùa và các gác mái, thay vì lợp ngói đỏ, sơn màu nâu hoặc đỏ nâu, đều phủ một màu xanh trúc dịu mát.
Các gian liền nhau, đều có kiến trúc mái tầng, nhưng được sắp đặt rất khoa học, thoáng đãng nhưng không quá loãng, gần nhau nhưng không san sát tới mức vướng tầm mắt. Dù ở không gian nào, bên trong hay ngoài trời, không khí vẫn trong lành, mát dịu. Bên ngoài, khi có ánh nắng mặt trời, các khoảng sân đều được lấp đầy ánh nắng, nếu đứng từ trong nhìn ra, như nơi gian nhà khách sát Nhà Tổ chẳng hạn, bạn sẽ thấy một thảm nắng vàng lung linh, từng làn gió biển mát rượi xa đưa thật khoan khoái…
Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng Bãi Bụt có tượng Phật Quan Thế Âm được xem là cao nhất Việt Nam (cao 67m, đường kính tòa sen 35m, tương đương tòa nhà 30 tầng). Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng ra biển, đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ như rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa. Trên mão tượng Quan Âm có tượng Phật Tổ cao 2m. Trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”.
, đồng thời cũng là nơi ngoạn cảnh của du khách bốn phương, một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn của thành phố Đà Nẵng, là nơi hội tụ linh khí đất trời và lòng người.
Chỉ cần bạn tìm kiếm trên mạng, bạn sẽ thấy hàng câu chuyện có được tình yêu nhờ bỏ bùa mê thuốc lú.
1./ Bùa yêu – Những câu chuyện có thật.
Một anh chàng đẹp trai, trắng trẻo, khoẻ mạnh, quê ở một tỉnh đồng bằng. Vì không đỗ đại học, nên anh theo người bà con đi làm phụ hồ, nay Hoà Bình, mai Lạng Sơn, Tuyên Quang. Sau hai năm dãi dầu mưa nắng, chàng trai đã thực sự trở thành người đàn ông cứng cáp, nhanh nhẹn, là niềm mơ ước của bao cô gái, nhất là những cô gái cùng làng.
Ở nhà, bố mẹ chàng trai cũng đã để ý giúp anh vài đám, định bụng cho anh đi làm ăn vài năm, kiếm chút tiền, sửa lại cái nhà rồi mới cưới vợ cho anh. Mỗi lần anh về chơi, các cô gái cùng xóm chủ động sang nhà anh chơi, không ít cô còn bạo dạn ngỏ lời trước, anh chỉ cười và ậm ừ cho qua chuyện. Mọi người khen anh là hiền lành, chịu khó, dễ thương.
Đùng một cái anh đòi cưới vợ, là một cô gái người dân tộc thiểu số, hơn anh 2 tuổi, mới chỉ học hết lớp năm. Gia đình ngăn cản, anh tỏ ra bực tức và bỏ nhà lên chung sống với cô gái đó. Đến nay đã gần 10 năm, chàng trai hạnh phúc bên vợ, chăm chỉ làm ăn, ngoan ngoãn, chung tình và đặc biệt rất nghe lời vợ. Vợ cho phép Tết về quê 3 ngày, thế là đúng 3 ngày anh lại xách túi ra đi. Có năm, gia đình làm thượng thọ cho ông nội, nên chàng trai cố ở lại thêm một hôm, nhưng đến đêm, chàng thấy ruột gan nóng như có lửa đốt, phải bỏ nhà đi ngay. Gia đình nói anh bị cô gái người dân tộc “bỏ bùa yêu”.

Một anh sinh viên tình nguyện lên miền núi giúp đỡ bà con vài tháng, gặp cô gái đẹp người đẹp nết, anh đem lòng yêu mến. Cô gái cũng thương anh, trao cho anh tất cả, đến mức cô đã có thai. Hè hết, anh xin phép về thành phố tiếp tục học, hứa sẽ quay trở lại cưới cô gái. Nhưng rồi anh định “đánh bài chuồn”. Nào ngờ hai tháng sau chàng sinh viên ấy hoá điên, gia đình đưa đi bệnh viện, chữa mãi chẳng khỏi, đành cho anh bỏ học, nhốt ở nhà. Ngày ngày anh ngồi trong phòng, nhìn qua cửa sổ, hát véo von một mình bài hát không rõ lời, mọi người bảo đó là bài hát tiếng dân tộc. Người ta bảo anh bị cô gái “bỏ bùa yêu”, nếu có ý định phản bội sẽ hoá điên. Nghe đâu gia đình định đưa anh lên núi tìm cô gái đã yêu thương anh và xin được cưới cô.

Hay câu chuyện về gia đình cô Bảy, hai vợ chồng cô làm ăn buôn bán khấm khá hơn nhiều so với nhiều nhà trong vùng. Gia đình đang êm ấm, bỗng dưng một ngày không hiểu sao chú Bảy dở chứng đi cặp bồ với một cô gái trẻ hơn cô Bảy. Cô này đã bỏ chồng và đã có con riêng. Tài sản của gia đình bị chú Bảy mang đi cho cô bồ trẻ không biết là bao nhiêu lần. Cô Bảy dù biết chuyện song không có cách nào để ngăn sự việc lại.
Một lần tình cờ tâm sự cùng mẹ đẻ, bà liền bảo rằng bùa yêu sẽ có thể giúp chồng cô bỏ được cô bồ trẻ và quay về nhà. Thế là bà mẹ cho cô con gái địa chỉ nơi làm bùa yêu nhà thầy Mo người dân tộc Thái.
Cô Bảy liền đi xin bùa mang về và thực hiện. Đúng hai tuần sau đó chú Bảy đột nhiên chia tay cô bồ trẻ về nhà. Từ đó cho tới hiện nay, chú Bảy không hề đả động tới việc bồ bịch bên ngoài, gia đình yên ấm.

Áo - Một vật dụng hay bị "yểm" bùa yêu
Còn một chuyện về một phụ nữ ở Thái Bình làm buôn bán và ở góa vì chồng bị chết sớm. Cô này không có ngoại hình ưa nhìn cho lắm. Cô có tình cảm với một anh chàng trai tân, có điều kiện ở Vinh. Mặc dù có tình cảm song cũng chỉ là thứ tình cảm đơn phương từ phía cô. Trong một lần đi làm ăn, cô tình cờ biết đến một “bùa yêu” và làm theo. Kỳ diệu thay, đúng một tuần sau thì anh bạn ở trên Vinh chủ động hẹn gặp cô. Mặc dù trước đó, chỉ có cô là người chủ động. Mối quan hệ hai người tốt dần lên, tới mức hai người thường xuyên đi lại hai gia đình. Tôi nghĩ sớm muộn cũng cưới nhau mà thôi.
Bước cuối cùng của bùa yêu là cô này phải mang chiếc áo đã được yểm bùa cho anh chàng mặc vào. Cấm kỵ là chiếc áo đã được yểm bùa trước khi anh chàng mặc không được: đưa qua háng, đưa dưới dây phơi quần áo, ngồi lên, đi vệ sinh mang theo... Khi mang áo đi gặp anh chàng, cô đã quên mất để quên trong cốp xe. Phạm phải cấm kỵ là ngồi lên áo. Ngay sau đó mối quan hệ đổ vỡ chỉ vì cô đã quên lời dặn khi xin bùa.
>> Xem BÓI NGÀY SINH mới nhất 2016 nào!
>> Xem BÓI BÀI mới nhất 2016 nào!
2/ Bùa yêu là gì?
Nhiều người bảo bùa yêu có thật, có người nói chính chị gái, em trai, chú ruột, bác họ của họ đã bị “bỏ bùa yêu”, nhưng chưa ai chỉ ra được bùa yêu là cái gì, làm ra sao, tại sao nó lại có sức mạnh ghê gớm đến mức bắt trái tim vào khuôn khổ. Người ta nói làm “Bùa yêu” là một bí quyết, không ai được tiết lộ, nếu tiết lộ sẽ mất thiêng, chính vì thế ngành sản xuất bùa yêu mới không phát triển. Giá có bùa yêu thật bày bán và có hiệu nghiệm, chắc chắn những người làm ra nó sẽ thành tỉ phú trong một thời gian ngắn, bởi “khách hàng” khá đông.
Ông Tám - huyện Hướng Hoá, người rất am tường về các tập tục, bùa ngải của đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Trị, với kinh nghiệm của mình, ông cho biết, “bùa yêu” chỉ có 2 dạng.
Dạng thứ nhất: Dùng thuốc để ép người khác phải yêu mình.
Cái này chỉ có tác dụng tức thời, tối đa là vài tháng. Thuốc có dạng bột cực mịn, được chế ra tự một loại vỏ cây mà chỉ người trong nghề mới biết. Người bỏ bùa kiểu này thường cho thuốc vào áo, sau đó rũ áo này trước mặt người muốn bỏ bùa, hoặc nhờ người đó giặt hộ chiếc áo ấy. Khi ngửi hoặc hít loại bột này, hay chỉ đơn giản là giặt áo, nạn nhân sẽ lập tức trở nên không tỉnh táo, làm việc theo sự sai khiến của chủ nhân chiếc áo. Chính vì vậy, người nào có bùa yêu thường rất kiêng kỵ nhờ mẹ hoặc chị/em gái trong nhà giặt áo. Với loại này, khi “thuốc” yêu không còn tác dụng nữa, nạn nhân sẽ trở nên căm ghét tận xương tủy người đã bỏ bùa mình.

Hình minh họa
Dạng thứ hai: Chỉ dùng ánh mắt, mùi hương.
Dạng này ít người gặp hơn. Cái này đòi hỏi người bỏ bùa phải có nội công thâm hậu (?!), bởi chỉ cần dùng ánh mắt, hoặc mùi hương là họ có thể “thôi miên” nạn nhân đi theo lôi kéo, đề nghị của mình (?!). Tuy nhiên, theo ông Tám, người có “phép thuật” bỏ “bùa yêu” loại này ở Quảng Trị còn rất ít.
Đúng là thật khó để xác định bùa yêu là gì. Vậy chúng ta cùng đi tìm hiểu một số bùa yêu cụ thể đã được những người dùng kể lại nhé!
3./ Một số bùa yêu và cách dùng
Đầu tiên là một cô gái tên MH, vì để níu kéo tình yêu của mình mà đã lặn lội từ Sài Gòn lên Phú Thọ để xin bùa. Sau khi tốn vài triệu tiền lễ, Thầy bày cách cho là:
- Lấy ảnh chụp cá nhân của anh bồ, một cái áo hoặc cái quần anh bồ hay mặc, một lọn hay nhúm tóc của anh bồ đưa cho thầy.
- Để ảnh của cô gái vào một góc kín trong phòng anh bồ mà phải đảm bảo tuyệt đối bí mật, không ai biết.
Và cô gái rất thành tâm làm theo lời chỉ dẫn của thầy. Không biết vị thầy kia đã chế tạo bùa yêu và thi pháp như thế nào mà đùng cái 3, 4 tháng sau, cô gái lên xe hoa và đồng chí chồng chính là anh chàng bị "bùa yêu" đó.

Câu chuyện thứ 2, là chuyện ông thầy xem bói có tiếng ở Hà Nội. Khách của ông thầy đến 2/3 là những phụ nữ đến nhờ tìm chồng, tìm con bỏ đi với gái, chơi bời hoặc đi bụi.... Thầy bảo mang đến chỗ thầy (mang bí mật) một cái quần hoặc áo hoặc dép của người cần tìm, một bức ảnh chụp cá nhân. Sau đó thầy làm lễ cho, sau vài ngày thì chồng hoặc con sẽ về nhà đoàn tụ, phí cũng không đắt, chỉ vài trăm thôi. Những người hàng xóm xung quanh cũng chả rõ hiệu quả đến đâu nhưng nhà thầy lúc nào cũng rất đông khách.

Chuyện kể trên thực hư thế nào không rõ, nhưng câu chuyện sau đây được cho là có thật. Có cô gái tên Hiền rất thích chàng trai tên Minh, nhưng anh chàng vừa đẹp trai, vừa có tài này có vẻ “lửng lơ con cá vàng”. Hiền đã phải chủ động gọi điện, hẹn hò, mua quà cho chàng trai mà vẫn chưa được chàng để ý. Bực mình, Hiền rủ chàng trai đi nhà nghỉ để tâm sự, chủ động đưa chàng vào bẫy. Hy vọng sau một đêm “làm tiên ông”, Minh sẽ phải yêu thương cô. Vậy mà chàng vẫn trơ như đá. Nghe người mách bảo trên Bắc Giang có ông thầy, có khả năng làm “bùa mê thuốc lú” giỏi có tiếng, thế là Hiền lặn lội lên gặp “thầy”.

Hiền đã nhiều lầ chủ động, tạo cơ hôi nhưng Minh vẫn trơ như đá
(Hình minh họa)
- Lần đầu đến nhà thầy bói, nên thầy bảo về nhà lừa lúc Minh không để ý, hãy nhổ một bãi nước bọt vào cốc nước để anh ấy uống, bảo đảm anh ta sẽ chết mê chết mệt ngay. Vậy mà từ bữa đó, Minh uống đến cả chục lần nước bọt của Hiền mà anh vẫn trơ như đá.
- Buồn bã vì chuyện vẫn chưa thành, Hiền lại đến gặp thầy. Thầy bảo con và nó có duyên nợ với nhau, sớm muộn cũng thành vợ thành chồng. Nhưng hiện nay đang có kẻ ám, thành ra nó chưa mặn mà với con. Muốn cho nhanh, chỉ có cách làm lễ “giải ám”. Thầy dặn về nhà sắm lễ vật, tiền lễ và kiếm một nhúm tóc, 2 mẩu móng tay của chàng trai mang đến, thầy sẽ giúp. Vất vả mãi mới kiếm được những thứ kia từ chỗ ông chủ quán Minh hay cắt, Hiền đến gặp thầy, rồi đưa thầy làm lễ. Làm xong, thầy gói hai thứ kia bảo Hiền mang về đặt dưới gối của mình, thế nào cũng đến lúc Minh để ý đến cô.
Nhưng cả tháng trời không thấy Minh đến chơi, buồn quá cô gọi điện hẹn anh đi uống nước. Nhìn thấy mái tóc Minh dài ngang vai, có đến mấy tháng chưa cắt, Hiền biết mình bị lão chủ quán cắt tóc lừa, lấy tóc và móng tay của ai đó đưa cho cô. Không biết bùa mê có tác dụng không nhưng cô thấy may mắn vì không thấy ai tìm đến mình. Nếu không lại xuất hiện ông già nào mà cô đã lấy tóc và móng tay của ông đưa thầy làm bùa, đến tán tỉnh, đòi yêu cô thì chết.

- Đến lần thứ ba, thầy cho Hiền một tờ giấy xanh đỏ, có vẽ ngoằn ngoèo cái gì đó mà thầy bảo đấy là bùa yêu. Thầy dặn phải đốt lên, cho vào cốc nước cho “nó” uống, nó sẽ theo con, xách dép cho con suốt đời. Vậy là hôm ấy Minh đến chơi, Hiền pha cà phê đen cho anh uống. Nhân lúc Minh vào nhà vệ sinh, Hiền lén đổ gói tàn tro vào cốc cà phê đen đá của anh. Nhưng chưa kịp ngoáy cho tan hết, Minh đã ra. Nhìn thấy cảnh Hiền đang dốc nốt chỗ tàn tro vào cốc nước của mình thì anh sợ quá, bỏ đi thẳng.
Vậy là ba lần dùng bùa yêu không thành, ba lần Hiền đều thất bại.

"Đốt bùa yêu lấy tro cho người kia uống. nó sẽ theo con, xách dép cho con suốt đời"
Còn đây là “thang thuốc” của một bùa yêu hoàn chỉnh.
Tác giả của bùa yêu là cam đoan là đã có rất nhiều người dùng và thành công. Nhưng lá bùa yêu dành riêng cho bất kỳ ai tuổi con hổ, bất luận nam hay nữ .

- Chọn đêm trăng rằm ,chờ lúc mây phủ trăng bắt đầu vẽ bùa vào một mảnh vải đen, vẽ một hơi thật nhanh, có thể vẽ sẳn tại nhà, lúc đem ra tế luyện thì dùng nhang theo số tuổi của mình mà đồ lại bùa, nhớ nín hơi khi đồ bùa, khi thở ra là cất nhang lên.
- Nên vái số lần câu thần chú theo số tuổi của mình,tính theo tuổi âm lịch. Khi vẽ bùa, sắp lễ vật tế cúng gồm: 1 bó hoa tươi, 1 bát nước trong, 1 chén muối hột, 1 chén nổ rang, 3 tép trầu cau, 1 nắm xôi đậu.

- Sau khi tế lễ, cúng bùa xong cần đem lá bùa về lót trong gối ngủ, đọc thần chú liên tục cho đến lúc ngủ quên, trong ba đêm đầu như vậy…. những ngày về sau có thể niệm ít hơn, song muốn cho bùa hay thì nên niệm hàng đêm .
- Bùa này đặc biệt hợp với những đối tác tình cảm có tuổi Mão (con mèo), tuổi Tý (con chuột), tuổi Tuất (con chó), tuổi Ngọ (con ngựa) và tuổi Sửu (con trâu).
- Cấm kỵ khi dùng bùa là không dùng những thứ liên quan tới hổ như: cao hổ hay thịt hổ, kể cả đeo vuốt hổ…. cũng không được ăn thịt lươn, tê tê, các loại thịt rùa, ba ba, cua đinh ….và cuối cùng là không ăn thịt chó. (?!)
- Không nên dùng bùa với hai đối tác cùng một lúc ….và với đối tượng là chư tăng hay chư ni bùa sẽ mất hiệu quả ngay sau đó .
Dưới đây là bài thần chú đi kèm khi dùng bùa:
“Om phí ắc khu .
Phí ắc sãm min thoonl
ốm kha la sà nê môn.
ề hí ề hị ….tên tuổi …thứ mấy trong nhà ….
bờ chau bờ chi chuôôc” (?!)
>> Đã có TỬ VI 2016 mới nhất. Xem ngay nhé!
>> Đã có LÁ SỐ TỬ VI 2016 của 12 CUNG HOÀNG ĐẠO mới nhất. Xem ngay nhé!
4./ Kết quả của việc sử dụng bùa yêu:
- Quay lại với câu chuyện của cô gái MH bên trên – người đã sử dụng bùa yêu đạt được kết quả như ý nguyện. Sau đám cưới, một thời gian trôi qua, MH sụt sùi kể là buồn lắm, vợ chồng đánh chửi nhau suốt ngày, chồng cặp bồ ở ngoài, giờ cứ trông con thế thôi, vẫn phải cố gắng đi làm vì k muốn mang tiếng ăn bám chồng, gia đình chồng thì cực kỳ coi thường cô, đối xử với cô k tốt... Mọi người biết chuyện trước kia MH xin bùa, cứ hay hỏi nhau: "Sao hồi ấy nó không xin luôn bùa đời đời kiếp kiếp yêu nhau nhỉ?" .

- Còn một trường hợp khác, cô gái dùng bùa yêu để lấy bằng được một anh chàng, mà lần này nghe nói là bùa yêu đó trói suốt đời đến khi một trong hai người chết cơ. Thời gian đầu mới cưới thì hạnh phúc lắm. Nhưng được một vài năm thì anh chàng đó bắt đầu chày bửa, bỏ việc, suốt ngày rượu chè, cờ bạc, gái gú, chị kia muốn bỏ lắm nhưng không bỏ được vì anh ta ăn vạ như kiểu Chí Phèo ấy. Chị kia chán lắm rồi, mà không biết làm thế nào, bây giờ thì ân hận vì dại dột của tuổi trẻ mà phải trả giá cả cuộc dời.

- Nhiều người còn cho rằng, bùa yêu thì có, nhưng dùng bùa yêu phải cẩn thận, vì không may có thể làm cho đối tượng của mình bị điên, hoặc nhẹ hơn là bị tâm thần (đã có trường hợp này xảy ra). Thế nên suy nghĩ thật kỹ, không lẽ vì mình yêu người đó mà đành đoạn để người ấy phải chịu như thế ... vì mình.
Quan điểm này cũng trùng với quan điểm về “bùa yêu” ở nước ngoài. Sách nước ngoài gọi là “love spell”. Trong đó có ghi rất nhiều cách để làm bùa yêu. Nhưng phần cảnh báo thì viết rất dài, rất chi tiết về những tác hại của việc dùng loại bùa này. Trong đó nó giải thích rằng bùa yêu ko phải có tác dụng với tất cả mọi người, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nó nhấn mạnh nếu một người cố tình dùng bùa yêu để ép buộc một ng khác yêu mình thì hậu quả (quả báo) sẽ đến nhiều gấp ba lần. Vì tình yêu là “free will” mà. Một khi đã tác động vào cái “free will” của một người và bắt người đó yêu mình, trong khi theo lẽ ng ta sẽ yêu một ng khác, thì coi như mình đã làm sai lệch cái “natural order of things” rồi – nghĩa là mình làm sai lệch quy luật tự nhiên ấy. Thế nên phải nhận lấy hậu quả.
5./ Các nhà khoa học, nhà nhiên cứu văn hóa nói gì?
Bùa yêu xuất phát từ mục đích tốt ( ?!)
Xung quanh vấn đề này, ông Bùi Huy Vọng, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, phong tục tập quán dân tộc Mường đạt giải thưởng của hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhận định:
Bùa yêu là một sự thật có trong văn hóa người Mường. Nhưng các thầy làm bùa luôn phải xuất phát từ mục đích tốt chứ không phải muốn làm thế nào cũng được. Nó giống như một lời nguyền thiêng liêng mà bất cứ kẻ nào cố tình làm trái, làm bậy đều sẽ phải trả giá đắt. Ngày xưa, chỉ có con nhà nghèo hoặc quá xấu không có điều kiện lấy được chồng/vợ mới phải cầu đến bùa yêu. Và họ cũng không thể làm cho một người phản bội vợ/chồng của mình để đi yêu một người khác, điều đó là cấm kỵ.

Hình minh họa
Việc làm bùa yêu và giải bùa yêu là có thực (?!)
Ông Nguyễn Phúc Giác Hải, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và ứng dụng tiềm năng con người cho hay:
Trước đây bản thân ông đã từng nghiên cứu về một vị thầy lang chuyên chữa bệnh bằng cách cho người ta sử dụng miếng giấy nhỏ, trên miếng giấy đó ông ta đã tích một loại năng lượng riêng để đặt vào chỗ đau của người bị bệnh. Sau khi sử dụng, người bệnh tự nhiên khỏi và trở lại cuộc sống bình thường.
Xét về khoa học, miếng giấy ông tích năng lượng chỉ là vật mang thông tin. Khi người ta đốt miếng giấy đó và cho vào cốc nước thì lúc này cốc nước đó chính là năng lượng đã được tích và người ta uống cốc nước đó sẽ khỏi bệnh. Theo lý giải của những nhà khoa học hiện đại, nước bây giờ không phải là nước đơn tuần nữa mà nó là một chùm phân H2O n lần và chùm phân này có thể bị thay đổi hình thù theo thông tin đưa vào.
Như vậy, không chỉ qua giấy, nước mà người ta có thể truyền năng lượng vào bất cứ đồ vật, con vật, quả chuối, quả cam để làm thuật bùa ngải: giữ người yêu, trói chồng…Tuy nhiên, năng lượng đó có thể là năng lượng tốt hoặc năng lượng xấu.
Năng lượng tốt tức loại năng lượng đó khi sử dụng có thể làm cho người ta khỏi bệnh, giúp cho vợ giữ được chồng, làm cho gia đình họ hạnh phúc hơn xưa …còn năng lượng xấu là sẽ làm cho họ lú lẫn về lý trí, ý thức và bị dẫn dụ theo ý muốn của người đưa năng lượng đó vào.
Việc có thể vừa làm, vừa giải bùa yêu là có thực. Tuy nhiên đó nghiên cứu và lý giải theo dân gian còn để nghiên cứu, tìm hiểu chi tiết về việc làm bùa yêu hay giải bùa yêu thì tôi vẫn chưa gặp ngoài đời thực mà chỉ gặp những ông thầy lang có khả năng chữa hóc xương, gãy tay, gãy chân…
Bùa yêu là có thật nhưng nó chỉ mang lại tình yêu hời hợt (?!).
Một vị thầy thuốc Đông y, chuyên nghiên cứu về cây cỏ và những được liệu chuyên dùng để bỏ bùa thì cho biết ba lát gừng mà mà vị thầy lang ở xóm M (Tân Sơn, Phú Thọ), dùng làm bùa yêu, thực chất là loại gừng bình thường dùng để ăn hàng ngày và nó chưa hề được pha lẫn với một loại hợp chất nào khác. Còn việc trong những lát gừng này chứa những câu thần chú, bùa ngải để trói người chồng là có thực hay không thì chỉ có người có khả năng siêu nhiên đó mới biết được. (?!)
Theo một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã chứng minh thì việc sử dụng bùa yêu là có thực, tuy nhiên nó không quá thần kỳ và bí ẩn như người ta vẫn truyền tai nhau. Thậm chí bùa yêu chỉ là cách điều khiển theo ý muốn của các vị thầy lang và chưa hẳn mang lại tình yêu thực sự khi vợ chồng đã có mầm mống ly hôn.
Cũng theo họ, các loại bùa ngải, bùa yêu chủ yếu được làm bằng thảo dược, cây cỏ có tác dụng kích thích giác quan, điều khiển ý thức khiến người bị bỏ bùa nảy sinh ham muốn với đối tượng đã “bỏ bùa” mình. Chính vì thế, họ sẽ hành động theo sự kích thích của loại thảo dược đã được yểm chất đó, thứ đó vào.
Như vậy, theo lý giải của các nhà nghiên cứu, Đông y, nhà khoa học thì bức màn về thuật bùa yêu đã phần nào được sáng tỏ. Tuy nhiên, bản chất sự việc đều có hai mặt của nó và chúng ta nên cẩn thận, sáng suốt để không bị lôi kéo vào những thứ ma thuật mê tín đó. Những câu chuyện đồn thổi về việc bỏ vợ, bỏ chồng để đến với người thứ 2 và được người vợ, người chồng đó thuyết phục quay trở về vẫn diễn ra trong đời sống thường ngày mà không nhất thiết phải nhờ tới bất cứ loại “bùa yêu” nào.

Bùa yêu - Nếu có tác dụng thì chỉ mang lại tình yêu hời hợt
(Hình minh họa)
6./ Và tác dụng thực sự của bùa yêu mang tên : “Chung thủy”
Viết đến đây chúng tôi chợt nhớ lại chuyện cô gái khiếm thị tên Phương Lan ở TP Hồ Chí Minh. Bị mù từ nhỏ, cô chăm chỉ học, giỏi tiếng Anh, lại còn theo học ngành tâm lý học từ xa của một trường đại học bên Mỹ. Cô đâu có bỏ bùa mê cho ai, vậy mà một chàng sinh viên tên là Goerge đã mê cô như điếu đổ dù chưa biết mặt. Theo đuổi suốt 8 năm, cô gái Phương Lan mới chấp nhận “lên máy bay hoa” về nhà chồng. Trong ngày cưới, chàng trai Mỹ luôn luôn gọi vợ bằng biệt danh do anh đặt cho, đó là “Phương Lan dũng cảm”. Vậy bùa yêu của Phương Lan có thể chính là gương mặt đôn hậu, nụ cười dễ thương và lòng dũng cảm, ý chí vượt khó, lòng tự trọng.

Hay chuyện anh sinh viên Việt Nam tên là Phạm Ngọc Cảnh, du học ở Triều Tiên hơn ba mươi năm về trước đem lòng yêu một cô cán bộ ở nhà máy, nơi anh đến thực tập. Chàng trai có bỏ bùa yêu gì đâu mà bắt cô gái Triều Tiên chờ đợi suốt 31 năm trời, mặc dù hai người chỉ thỉnh thoảng nhận được thông tin do anh Cảnh gửi cho mẹ... cô gái. Họ gọi nhau là “đồng chí”. Chàng trai đã thành danh trong sự nghiệp, có lúc làm “to to”, lấy ai chẳng được.
Vậy mà vì tình yêu ấy, chàng kiên trì hoạt động trọng Hội hữu nghị Việt - Triều. Mãi đến năm 2002, họ mới chính thức nên duyên vợ chồng, khi chàng sinh viên đã đến tuổi nghỉ hưu và cô gái đã là bà già lục tuần. Bùa yêu của cô gái Ry Yong Hui chính là lòng chung thuỷ.

Vâng, “bùa yêu” là có thật, khi một ai đã vướng vào, sẽ chung thuỷ dài lâu. Nhưng đó không phải là thứ “bùa mê thuốc lú”, nó là tấm lòng son sắt thuỷ chung, là tình yêu không vụ lợi, là tấm lòng độ lượng, bao dung, sự dũng cảm, kiên trì, là lối sống đẹp, cử chỉ tao nhã. Muốn được yêu, bạn trước hết phải trở thành người đáng yêu. Còn không, dù có bất cứ thứ bùa ngải nào cũng vô tác dụng...
Còn đây là một thang thuốc làm “bùa yêu” đang được lan truyền trên mạng.
Chúng tôi xin đưa ra để kết thúc bài viết này. Thuốc này có kết quả nhanh lắm. Tự tay làm và uống. Không sợ phải hàng dỏm .Thuốc này có 10 vị thôi . Cũng dễ kiếm, bỏ ra chừng một buổi ngồi yên lặng suy nghĩ là có thể tìm đủ:
1.Bụng dạ tốt một khúc
2.Tâm từ bi một miếng
3.Ôn nhu nửa lạng
4.Đạo lý ba phân
5.Tín hạnh cho nhiều
6.Trung trực một cục
7.Hiếu thuận mười phân
8.Chân thật một cái
9.Âm chất dùng tròn
(tức Thiện Tâm phải lớn, làm việc tốt cho trọn cho tận tâm để đức tích được nhiều)
10.Phương tiện nhiều ít chẳng ngại
Cách phục dụng:
Cho 10 vị thuốc ấy vào trong''cái nồi lòng rộng''mà sao cháy sem sém, đừng sao nóng quá, cũng đừng cho khô quá, bớt ba phần lửa. Đoạn đổ thêm vào vị thuốc ''bình đẳng'' đã nghiền tán nhỏ. Dùng ''tâm tư'' làm bột, thấm với ''lục ba la mật'' mà vò thành viên lớn bằng hột bồ đề, mỗi ngày ba lần, chẳng luận giờ nào, dùng ''nước hoà khí'' mà uống thuốc... Nếu theo y đó mà uống thì bệnh nào mà chẳng dứt.
Đặc biệt khi dùng thuốc trên thì phải kiên thật kỹ 7 món sau tránh gây phản tác dụng:
1.Lời nói thanh tao mà hành động ô trược
2.Ích lợi cho mình mà tổn hại cho người
3.Âm thầm lắp tên đặng bắn lén
4.Bụng chứa mưu độc
5.Tiếng cười ghim lấy con dao
6.Rắn hai đầu
7.Đất bằng dậy sóng
Chúc các bạn thành công!
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| => Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
Đối chiếu đường chỉ tay Tình cảm để biết hai bạn có phải là một cặp trời sinh (P2)
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
| ► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Những món ăn lưu truyền trong dân gian, đều có những câu chuyện lý thú tương truyền trong dân chúng. Bánh Trung Thu được coi là biểu tượng của sự phúc lành, đoàn tụ. Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Tám, mọi người đoàn tụ với gia đình, ăn bánh, trái cây, uống trà và thưởng ngoạn Trăng Rằm.
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.

Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Thả trâu ăn lúa gọi cha ồi ồi
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Bà thời cầm tiền đi chuộc lá đa.
Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:
- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!
Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.
Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....
Tết Trung Thu theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng.
Ở Việt

Bánh Trung Thu người Trung Hoa gọi là Bánh Trăng (Nguyệt), ngày xưa còn gọi là Bánh Hồ (bánh của người Hồ), bánh nhỏ, bánh đoàn (đoàn tụ), bánh đoàn viên . Những loại bánh trên người Tàu ngày xưa dùng để cúng tế, dần dần trở thành bánh dùng để cúng và ăn vào ngày Trung Thu.
Bánh Nguyệt có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc, sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh Trung Thu. Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào (walnut), dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào. Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên còn gọi là bánh hồ đào.
Đến thời Đường trong dân gian có những người hành nghề làm bánh, ở thành phố Trường An có những tiệm bánh trứ danh. Tương truyền có một đêm Trung Thu Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là Bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn , nên từ đó về sau Bánh Trung Thu có tên là Bánh Nguyệt mà người Tàu dùng cho đến bây giờ.
Đến thời nhà Tống, tập tục ăn bánh Trung Thu rất thịnh hành trong giới quý tộc. Thơ Tống có nhiều bài viết về việc ăn bánh Trung Thu, thưởng ngoạn Trăng vào ngày này. Tuy nhiên, trong dân gian việc ăn bánh Trung Thu mới trở thành phổ cập . Các nhà kinh doanh nghề bánh dùng câu chuyện Hằng Nga trên cung Trăng để làm tăng thị hiếu.
Ngày nay, Bánh Trung Thu là quà tặng cần thiết trong ngày Trung Thu. Mức lượng bánh Trung Thu sản xuất hàng năm vào mùa Trung Thu ở Đông Nam Á, Đông Á và Trung Quốc thật khổng lồ. Nhiều tiệm bánh ở vùng này nhờ lợi tức mùa bánh Trung Thu mà đủ chi tiêu cho cả năm trời.
Bánh trung thu tượng trưng cho sự đoàn viên, là thứ không thể thiếu để cúng trăng và thổ địa công vào mỗi mùa Trung thu. Phong tục ăn bánh trung thu vào Tết Trung thu bắt đầu từ cuối đời nhà Nguyên bên Trung Quốc đến nay.
Tương truyền vào thời đó, người Trung Nguyên không chịu nổi ách thống trị của người Mông Cổ, những người có chí khí đều muốn khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Để tập hợp được các lực lượng đấu tranh, nhưng trong điều kiện không thể truyền tin đi, Lưu Bá Ôn đã nghĩ ra một cách truyền tin rộng rãi và bảo đảm, đó là kêu gọi mọi người mua bánh trung thu ăn vào Tết Trung thu để tránh họa. Sau khi mọi người mua bánh về và cắt ra, nhìn thấy bên trong có giấu một mảnh giấy viết “đêm 15 tháng 8 khởi nghĩa”, nhờ vậy người dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, và lật đổ được nhà Nguyên. Cũng từ đó, bánh trung thu đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào mỗi Tết Trung thu.
1. Cửa hàng nhất định phải ở mặt phố, mặt đường
Phong thủy học cho rằng: “Lộ vi tài”. Phong thủy học trong thành phố đường xá là “hư thủy”, cũng là tài. Có đường, xe mới có thể đến, có đường, người mới có thể đi đến. Có xe có người đến, mới có tài đến. Cho nên, mặt phố mặt đường được coi là quan trọng.

2. Môi trường xung quanh của cửa hàng phải mở rộng, hướng phía Nam
Xung quanh cửa hàng mở rộng, người xe dễ dàng đi vào, người càng nhiều có thể hội tụ, tài khí tự nhiên sẽ vượng. Thành phố hiện đại giao thông thuận lợi là điều kiện tốt để trở thành nơi mua sắm của người dân xung quanh. Ví dụ như những siêu thị lớn, những quảng trường và những trung tâm mua sắm. Những trung tâm mua sắm lớn chiếm diện tích mặt bằng lớn, giao thông thuận lợi, trong đó đều có thiết bị điều hoà không khí và phong cách phục vụ tốt, thu hút được nhiều ánh mắt chú ý. Cửa hàng tốt nhất là hướng phía Nam. Nam là dương, ánh mặt trời vừa đủ, hiệu quả thông gió tốt, khách hàng có thể dễ dàng bước vào trong. Hướng phía Bắc là âm, âm khí nặng, mùa đông dễ bị gió lạnh thổi mạnh, nhiệt độ trong cửa hàng đủ cân bằng, cho nên khách hàng không thích đến những nơi có nhiều âm khí.
Cho nên những cửa hàng mặt phố hướng Bắc càng nên chú ý đến việc điều chỉnh nhiệt độ, chú ý việc thiết kế cửa ra vào và cửa sổ phải tiện lợi và chắc chắn, để có thể điều hoà được không khí và ánh mặt trời chiếu vào khi đóng mở, vì khách hàng có thể tạo ra môi trường mua sắm thoải mái. Ngoài ra, địa thế trước mặt cửa hàng phải bằng phẳng, tiện cho khách hàng có thể qua lại dễ dàng. Những cửa hàng mà có địa thế hơi cao nên đón chào khách hàng từ chỗ thấp, nếu không khách hàng sẽ không muốn leo lên quá cao để bước vào cửa hàng.
3. Chú ý xung hung khí đối diện với cửa chính của cửa hàng
Lựa chọn cửa hàng không nên đối diện với cơ quan chính phủ, cơ quan chấp pháp, pháp viện, phòng quản lý trị an, chùa miếu. Những nơi này không có tính chất thương nghiệp. Ngược lại, không khí nghiêm túc, vắng lặng sẽ làm cho không khí thương mại xung quanh bạn sẽ bị xung tán, khiến cửa hàng vắng vẻ, làm ăn ảm đạm.
Ngoài ra, trước cửa cửa hàng không nên có những cột điện cao áp lớn, hay những trạm điện biến áp và các thiết bị phòng cháy chữa cháy quá lớn che lấp cửa hàng. Có một số thiết bị do từ trường không ổn định, người ta khi đi qua những nơi này, tự nhiên sẽ phải đi vòng qua, lúc này nhân khí sẽ khó có thể tụ lại, việc làm ăn sẽ bị thua thiệt nhiều. Ngoài ra, cửa hàng mặt phố không nên có những cây to, âm khí của cây quá lớn, dương khí trực xung cửa chính, nhân khí tự nhiên không vượng, tài khí tự nhiên mất đi.
Tuổi can chi của mỗi người được hình thành dựa vào sự kết hợp giữa 10 thiên can và 12 địa chi. Sự kết hợp này cho ra tổ hợp gọi là 60 hoa giáp (Lục thập hoa giáp, lục thập Giáp Tý). Mỗi tuổi lại mang ngũ hành nạp âm khác nhau. Dưới đây là 30 cặp tuổi ứng với 30 loại ngũ hành nạp âm. Căn cứ vào đó có thể xem bói tình yêu chính xác, lựa chọn nhân duyên phù hợp.
Mục lục (Click vào đây để tới nội dung muốn xem nhanh nhất)
Tại sao 2 tuổi này gọi là Hải Trung Kim (Kim trong biển): vì ngũ hành của Tý là Thủy, Thủy còn gọi là vùng nước lớn, nghĩa là Thủy rất vượng.
Trong vòng Trường sinh, Kim tử ở Tý, Mộ ở Sửu. Vậy là Thủy lớn, thịnh vượng mà Kim lại tử ở Thủy nên bé nhỏ. Do đó gọi là Hải Trung Kim. Người mệnh nạp âm này đều kỵ người mệnh Hỏa.
Tính chất của Hải Trung Kim: Có thể biết được tâm tưởng mà không hiểu rõ được tâm cơ, lòng người như kim đáy bể, khó dò. Có khả năng nhưng thiếu sự xông xáo, cần người đề bạt mới thi triển được.
Có thể bạn quan tâm: Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Kim
![]() |
Tại sao lại gọi 2 tuổi này là Lư Trung Hỏa (lửa trong lò): vì Bính Đinh đều mang tính Hỏa, còn Dần Mão đều là Mộc, như vậy có sự sinh của Hỏa. Lúc này, trời đất như phảng phất lửa trong lò mới sinh, vạn vật cũng vừa mới bắt đầu sinh trưởng, nên gọi là Hỏa giữa lò: Hỏa vừa mới sinh.
Người mệnh Lư Trung Hỏa đều kỵ người mệnh Thủy.
Vì sao 2 tuổi này gọi là Đại Lâm Mộc (gỗ rừng lớn): vì Thìn Thổ mang hình tượng đất đai hoang dã, là giải bình nguyên rộng lớn. Tị là ánh thái dương chói chang nuôi dưỡng vạn vật, trong đó có Mộc. Mộc lại được Hợi Thủy trường sinh, cành lá xum xuê. Cây to xum xuê, phồn vinh sinh ở đất đai rộng lớn hoang dã nên được gọi là Đại Lâm Mộc.
Xem bói tình yêu, người mệnh này đều kỵ với người mệnh Kim.
Vì sao 2 tuổi này gọi là Lộ Bàng Thổ (đất ven đường): vì Mùi Thổ được Hỏa sinh, khiến Ngọ Hỏa vượng. Thổ lại là nơi sinh ra vạn vật (Mộc), Mộc lại sinh ra Hỏa, phản lại Thổ, nên Thổ bị hại đến bản thân, như đất bụi ven đường, vậy nên gọi là Lộ Bàng Thổ.
Lộ Bàng Thổ nếu gặp Thủy thì sinh ra vạn vật, nếu gặp Kim giúp thì “xây dựng cung điện phú quý”, nghĩa là rất tốt. Người mệnh này nếu gặp người mệnh Mộc không khắc mà lại tốt đẹp, được thanh quý vẻ vang.
Xem thêm: Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Thổ
Tại sao gọi 2 tuổi này là Kiếm Phong Kim (vàng đầu kiếm): vì ngũ hành của Thân và Dậu đều là Kim. Kim trong quá trình sinh trưởng lại Đế vượng ở Dậu, khiến Kim vượng, cương cứng, nhưng sự cương cứng cũng không thể vượt quá lưỡi kiếm, nên gọi là Kiếm Phong Kim.
Thường thì Kim Hỏa tương khắc, kỵ gặp Hỏa, nhưng các nhà Dịch học xưa cho rằng, người Kiếm Phong Kim nếu gặp người mệnh Hỏa, nhất là Lư Trung Hỏa, nhờ nó mà thành vật báu, được rèn luyện, nghĩa là tốt.
Vì sao gọi 2 tuổi này là Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi): vì Tuất Hợi ví như cửa trời, Giáp Ất thuộc Mộc, đốt lửa soi sáng cửa trời “hỏa chiếu thiên môn”, ánh lửa chiếu lên cao nên gọi là lửa trên núi.
Sơn Đầu Hỏa thường thông với trời cao bao la nên ai có mệnh tính này thường quý hiển, vinh hoa. Nhưng núi phải có Mộc (gặp Mộc), còn nếu chỉ có Hỏa thôi thì ánh lửa khó chiếu đến tận cửa trời.
Ngoài ra, lửa trên núi lại rất kỵ Thủy, nếu gặp Đại Hải Thủy (nước biển lớn) thì tương khắc, kéo hung thần đến.
![]() |
Vì sao gọi 2 tuổi này là Giản Hạ Thủy (nước dưới khe): vì Thủy Đế vượng ở Tý, Suy ở Sửu. Vậy là Thủy trong Bính Tý, Đinh Sửu trước vượng sau yếu. Do vậy không thể thành nước sông lớn được mà gọi là nước dưới khe núi (khe suối). Loại nước này trong, thanh mảnh.
Thủy gặp Kim thích hợp sẽ gặp cát, tức Giản Hạ Thủy gặp Giáp Ngọ, Ất Mùi (Sa Trung Kim) sẽ tốt. Nhưng với Thổ lại không hay vì Thổ làm cho nước đục, không hợp. Tốt nhất là gặp và kết hợp với Giáp Dần, Ất Mão (Đại Khê Thủy, nước khe lớn) thì tương hợp mà thành sông lớn, càng lâu dài càng tốt bền.
Tham khảo Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Thủy để biết thêm chi tiết.
Vì sao gọi 2 tuổi này là Thành Đầu Thổ (đất tường thành): vì Mậu và Kỷ đều thuộc Thổ, Dần Mão đều thuộc ngũ hành Mộc, giống như tích Thổ thành núi, gần như đắp thành tường nên gọi là đất tường thành.
Theo các nhà Dịch học xưa, dù Mộc khắc Thổ, nhưng Thành Đầu Thổ không kỵ người mệnh Mộc và các loại mệnh Mộc khác nhau.
Gọi là Bạch Lạp Kim (vàng trong sáp) vì Kim hình thành trong đất, Kim dưỡng ở Thìn, trường sinh ở Tị, hình thành chất mới chưa cứng cáp nên gọi là Bạch Lạp Kim. Đây được coi như chất ngọc chưa mài giũa, cần được khổ luyện.
Mệnh này tính Kim yếu, không phải lúc nào cũng khắc được Mộc, gặp Thủy thì quý, đều kỵ người mệnh Hỏa.
Gọi là Dương Liễu Mộc (gỗ cây liễu) vì Mộc tử ở Ngọ, mộ ở Mùi, muốn tồn tại phải mượn Thủy ở Nhâm và Quý. Nhưng sức sống của Mộc ở đây vẫn yếu, nên gọi là Dương Liễu Mộc.
Mệnh này thích hợp với Ốc Thượng Thổ, thích Thủy nhưng trừ Đại Hải Thủy, còn lại kết hợp đều tốt. Bản tính Dương Liễu Mộc rất yếu, nếu gặp Hỏa mạnh dễ bị chết yểu, nếu gặp Thạch Lựu Mộc sẽ bị Mộc này áp chế, làm cho một đời hèn kém. Ngoài ra, người mệnh này đều kỵ mệnh Kim.
Đừng bỏ lỡ: Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Mộc
![]() |
Vì sao gọi 2 tuổi này là Tuyền Trung Hải (hoặc Tỉnh Tuyền Thủy: nước trong suối hoặc nước trong giếng): vì Kim Lâm quan ở Thân, Đế vượng ở Dậu, Thân Dậu đều vượng Kim tất vượng, ắt Thủy được sinh ra, nhưng vì sức mạnh không lớn nên gọi là Tuyền Trung Hải.
Mệnh này gặp Sa Trung Kim hay Thoa Xuyến Kim đều tốt, gặp Thủy và Mộc cũng tốt, còn nếu gặp người mệnh Thổ thì suốt đời không được ấm no.
Gọi là Ốc Thượng Thổ (đất trên mái nhà) vì Bính Đinh thuộc Hỏa, Tuất Hợi như cánh cửa trời, Hỏa đang cháy trên cao rồi nhạt và sinh ra Thổ, Thổ tự nhiên không ở bên dưới nên gọi là đất trên mái nhà.
Đất trên mái nhà là gạch, ngói, đồ lợp, đương nhiên phải cần có Mộc làm giá đỡ, sau cần Kim làm trang điểm. Ốc Thượng Thổ gặp Kiếm Phong Kim, Thoa Xuyến Kim đều thành mệnh phú quý. Ốc Thượng Thổ sợ Hỏa, nhưng gặp Thiên Thượng Hỏa lại rất tốt bởi nó tượng trưng cho ánh mặt trời. Ngoài ra, người mệnh này không kỵ người mệnh Mộc.
Vì sao gọi là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét): vì Sửu thuộc Thổ, Tý thuộc Thủy, Thủy ở chính vị với nạp âm thuộc Hỏa. Hỏa trong Thủy thì chỉ có Long thần, nên ví Hỏa này như lửa sấm sét.
Bản chất Thủy Hỏa vốn khắc nhau kịch liệt nhưng nay lại hợp nhất thành sấm chớp. Long thần xuất hiện thường kèm theo gió mưa sấm chớp, vì thế Tích Lịch Hỏa với Thủy, Thổ, Mộc gặp nhau là tốt hoặc không có hại. Cái kỵ là Hỏa vì hai Hỏa gặp nhau thì khô khan, xấu.
Các nhà Dịch học xưa cho rằng, người mệnh này gặp mệnh Thủy thì trọn đời gần bậc vương hầu.
Có thể bạn chưa biết những kiến thức về Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Hỏa
Tại sao 2 tuổi này gọi là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng): vì Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở Dần, vượng ở Mão. Tính Mộc sinh vượng không phải là yếu nên gọi là gỗ cây tùng, chịu được sương tuyết, cho gió thổi qua vi vu như nhạc cụ, cành lá xao động như cờ bay.
Cây tùng có sức sống mãnh liệt nên chỉ kỵ Lư Trung Hỏa. Trong Thủy thì chỉ có Đại Hải Thủy mới có thể hại được nó, ngoài ra các ngũ hành khác đều vô hại.
Tùng Bách Mộc kỵ gặp Đại Lâm Mộc và Dương Liễu Mộc vì sẽ nảy sinh đố kỵ. Mệnh này kỵ gặp Kim. Nếu gặp Tang Đố Mộc thì mệnh phú quý.
Gọi là Trường Lưu Thủy (nước sông dài) là do Thìn là Thủy khố mà Tị là Trường Sinh của Kim, Kim sinh Thủy vượng. Đã vượng mà còn chứa vào kho nước không bao giờ hết nên gọi là nước sông dài.
Kim sinh Thủy, nên Trường Lưu Thủy gặp Kim thì tốt. Nhưng mệnh này sợ gặp Thủy, bởi Thủy nhiều lên sẽ úng lụt. Thủy Thổ tương khắc, nếu gặp mệnh Thổ thì mệnh này bị nguy, nếu đã gặp cần có Kim sinh Thủy để ứng cứu.
Thủy Hỏa tương khắc, nhưng Trường Lưu Thủy gặp Phú Đăng Hỏa và Sơn Đầu Hỏa cũng không sao.
Ghi chú: Đây chỉ là một trong những gợi ý về chọn tuổi kết hôn, còn nhiều cách khác, bạn đọc nên tham khảo, tìm hiểu nhiều nguồn để có sự lựa chọn tốt nhất.
Xem bói tình yêu: Tự xem nhân duyên sinh khắc qua 30 cặp mệnh nạp âm (P2)
Lichngaytot.com
Bài của Ân Quang
Kình Đà và Lộc Tồn tinh hệ
Trong bài trước, tôi có bàn về điểm dị biệt giữa Tinh, Diệu, Thân và Kình, Đà là hai khí lực luôn ở quanh Lộc Tồn.
Lộc tồn di chuyển đến đâu, thì Kình Đà cũng di chuyển theo bao quanh, ở hai cung giáp Lộc Tồn, theo chiều hướng “Tiền Kình Hậu Đà, Lộc Tiền nhất vị, thị Kình Dương”. Tiền và hậu đây là căn cứ vào vị trí của Lộc Tồn.
Bộ sao Quốc Ấn, Đường Phù cũng luôn luôn di chuyển theo Lộc Tồn, theo một hướng khác: “Thuận Cửu Nghịch Bát”. Thuận Nghịch đây là so với vòng xoay chuyển của địa chi.
Vì vậy, Lộc Tồn tinh hệ gồm cả thảy mười bảy sao. Đó là Lộc Tồn, Kình, Đà, Ấn, Phù, Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, ….
Chỉ vì sự xếp đặt trình bày dưới hình thức Đồ Biểu (xem thì có vẻ Khoa học) mà có sự ngộ nhận rằng Lộc Tồn tinh hệ chỉ có mười ba sao là Lộc Tồn, Bác sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu hao …
Mới đây lại có cuốn sách Tử-Vi, tách Lộc Tồn rời ra, lập thành Bác Sĩ tinh hệ, chỉ gồm có mười hai sao, khởi đầu là Bác Sĩ rồi đến Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu hao...
Tử-Vi tinh hệ chỉ có sáu sao, đó là: Tử-Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Thiên Phủ tinh hệ lại có tám sao, đó là: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Không có một định luật nào bó buộc rằng một tinh hệ chỉ có, hoặc phải có đúng mười hai sao. Có thể có mười hai sao, hoặc hơn hoặc kém số đó. Kình Đà luôn luôn ở quanh Lộc Tồn, Ấn, Phù cũng xê dịch tùy theo vị trí của Lộc Tồn tinh hệ. Và như vậy, Lộc Tồn tinh hệ có mười bảy sao.
Vì đâu mà có KÌNH DƯƠNG ở Dần Thân Tỵ Hợi. ĐÀ LA ở Tý Ngọ Mão Dậu.
Trước đây hai mươi mốt năm (1952), cuốn Tử Điển Tử-Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản tại Hà Nội có luận về các sao Kình, Đà như sau:
Kình Dương là Dương Tinh, phù cho người Dương Nam, Dương Nữ. Kình Dương Vượng ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Đắc địa ở Tỵ, Hợi, Dần, Thân. Hãm ở Mão, Tý, Ngọ.
Đà La là Âm tinh, phù cho người Âm Nam, Âm Nữ. Đà La Vượng ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Đắc địa ở Tý, Hợi. Hãm ở Dần, Mão, Tỵ, Thân, Ngọ, Dậu.
Cũng trước đây, trên hai mươi mốt năm (năm 1952), trong Tử-Vi Đẩu Số Quyển Hạ, ở trang 172 tác giả Nguyễn Mạnh Bảo có luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân, và qua trang 173 thấy có ghi là “ở cung Dần thì đắc địa”.
Vài năm sau đó (1957) tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân.Trong cuốn Tử Vi Chỉ Nam xuất bản năm 1957 (cách đây mười sáu năm), tác giả Song An Đỗ Văn Lưu cũng có nói về Kình Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi và Đà La ở Tý Ngọ Mão Dậu.
Và cứ thế tiếp tục, một vài cuốn sách Tử-Vi xuất bản gần đây cũng có luận về sự hung hãn của Kình Dương ở Dần, Thân.
Thế nhưng, áp dụng phương pháp an sao của quý vị tác giả ấy thì không thể nào tính cho có được Kình Dương ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Đà La ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Quý bạn Tử-vi thử tính lại, hoặc xem lại phần chỉ dẫn an sao thì rõ.
Sở dĩ có sự lủng củng như vậy (luận về ảnh hưởng của Kình ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Đà La ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, mà trong phần chỉ dẫn an sao thì không có) là vì đã tách rời Kình Dương và Đà La ra khỏi Lộc Tồn tinh hệ. Rồi từ đó đã áp dụng lần lần câu: “Tiền Kình Hậu Đà, Lộc Tiền nhất vị, thị Kình Dương”.
Kình và Đà là hai khí vận luôn luôn đi theo kèm hai bên Lộc Tồn.
Tuổi Giáp, Lộc Tồn tại Dần
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Mão, Đà La tại Sửu.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Sửu và Đà La tại Mão. Như vậy thì mới có trường hợp Đà La tại Mão (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Ất, Lộc Tồn tại Mão
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Thìn, Đà La tại Dần.
Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Dần và Đà La tại Thìn. Như vậy mới có trường hợp Kình Dương ở Dần (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Tuổi Bính & Mậu, Lộc Tồn tại Tỵ
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Ngọ, Đà La tại Thìn.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Thìn và Đà La tại Ngọ. Như vậy thì mới có trường hợp Đà La tại Ngọ (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Đinh & Kỷ, Lộc Tồn tại Ngọ
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Mùi, Đà La tại Tỵ.
Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Lộc tiền nhất vị, thì Kình Dương tại Tỵ và Đà La tại Mùi. Như vậy mới có trường hợp Kình Dương tại Tỵ (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Tuổi Canh, Lộc Tồn tại Thân
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại Dậu, Đà La tại Mùi.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương thì Kình tại Mùi và Đà tại Dậu. Như vậy mới có trường hợp Đà La tại Dậu (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Tân, Lộc Tồn tại Dậu
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương, thì Kình tại Tuất, Đà tại Thân.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại tại Thân và Đà La tại Tuất. Vì vậy mà có Kình Dương tại Thân (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Tuổi Nhâm, Lộc Tồn tại Hợi
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương, thị Kình Dương tại Tý, Đà La tại Tuất.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại tại Tuất và Đà La tại Tý (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Qúy, Lộc Tồn tại Tý
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Sửu, Đà La tại Hợi.
Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà Lộc tiền nhất vị, thị Kình Dương thì Kình Dương tại Hợi và Đà La tại Sửu. Vì vậy mới có trường hợp Kình Dương tại Hợi (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, khi bàn về Miếu, Vượng, Hãm của các sao có nói Kình Dương Hãm ở Tỵ, và Đắc địa ở Dần, Thân, Hợi.
Cụ Ba La trong khi luận giải kỹ một vài lá số, cũng đã an Kình Đà và luận về sự Đắc, hãm của bộ sao này như vậy. Tuy nhiên, với một vài người chưa thông cảm lắm, hoặc có thái độ chất vấn, đánh đố phiền phức thì Cụ không ham muốn tranh luận phải trái làm gì. Giá trị của Tử-Vi không phải chỉ thu gọn vào một số công thức khô khan để giải đáp những khắc khỏai giây lát mà nằm ở những quan niệm sâu xa, luận giải tế nhị. Luận giải tế nhị với người chưa nắm vững căn bản thì mất nhiều thời giờ, có khi lại đi đến chỗ tranh luận phiền phức, hơn thua chẳng lợi lộc gì.
Trong khi sưu tầm các quan niệm Tử-Vi xưa, tôi không hề có ý dựa vào quan niệm của Cụ Ba La hoặc của Cụ Song An làm tiêu chuẩn cho chân lý Tử-Vi. Tôi chỉ muốn trình bày rằng, sự vội vã công thức hóa Tử-vi, thu gọn Tử-vi vào trong một số đồ biểu, đã làm thất lạc những quan niệm thâm thúy của người xưa. Thọat nhìn qua thì một số công thức, đồ biểu, có vẻ khoa học, dễ hiểu, để áp dụng cho người mới nhập môn. Nhưng khi bình tâm tính kỹ lại thì dễ có điểm mâu thuẫn khó giải quyết, hoặc thiếu ý nghĩa sâu rộng khiến cho người nghiên cứu Tử-vi khó có thể tiến xa được.
Mâu thuẫn không phương hướng giải quyết, vì như bên trong có cuốn sách thì luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân; có đoạn sách nói là Kình Dương ở Dần là Đắc Địa, mà ở phần chỉ dẫn an sao, không tính cách nào cho có được Kinh Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi (chỉ vì đã tách rời Kình Đà ra khỏi Lộc Tồn tinh hệ, áp dụng lầm lẫn câu Tiền Kình Hậu Đà. Lộc Tiền Nhất Vị, Thị Kình Dương).
CÁC CUNG MIẾU, ĐẮC, HÃM ĐỊA CỦA KÌNH DƯƠNG VÀ ĐÀ LA
Phần lớn các sách Tử-Vi đều luận rằng:
– Bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Miếu địa của Kình Dương và Đà La.
– Bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi là Hãm địa của Đà La.
Riêng về Kình Dương thì Hãm địa là cung Tỵ, và Đắc địa là Dần Thân và Hợi.
Theo cụ Song An (tác giả cuốn Tử-Vi chỉ Nam) thì Kình, Đà cũng Đắc địa tại Tý, có đọan lại luận là Bình.
Tôi thiển nghĩ là không nên phân vân, khẳng định hoặc phủ nhận một công thức nào. Các công thức trong Tử-Vi không phải là đã được lập thành bởi những định luật tóan học, vật lý, hóa học, máy móc, mà bởi “kinh nghiệm”. Tử-Vi là một môn Khoa Học luận tương đối. Không có đơn vị nào để đo lường sự sai biệt giữa Đắc và Bình, giữa Miếu và Vượng. Một sao “Bình” mà được đa cát tinh giao hội vẫn đắc lực hơn một sao “Đắc” mà đứng chơi vơi một mình, không được phò tá.
Những công thức Tử-Vi được lập thành do những quan niệm Lý Học, do sự luận giải, chiêm nghiệm, kinh nghiệm. Muốn chiêm nghiệm, rút kinh nghiệm thì cần hiểu ý nghĩa, tính chất các sao ấy. Có hiểu ý nghĩa các Sao thì mới có thể nhìn xâu xa, vì các Vị sao trong Tử-Vi, không phải là những con số. Trên các vị sao ấy (tạm gọi chung là như vậy) có khi còn kéo theo cả một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Người xưa đã ngụ ý rất nhiều khi đặt tên các vị Sao.
Ý NGHĨA CỦA KÌNH DƯƠNG VÀ ĐÀ LA
Trong vòng Lộc Tồn, thì Thanh Long và Bệnh Phù là hai ngôi luôn luôn đối chiếu nhau.
Gặp Bệnh Phù ở cung chính thì ít người để ý, mà lại tập trung cái nhìn của mình vào Thanh long, từ ngoài chiếu lại.
Khi xem cung Thìn là cung chính, gặp Bệnh phù ở đó thì không kể đến, mà lại chú trọng luận giải Thanh Long ở cung Tuất chiếu vào. Bệnh Phù và Thanh Long cùng ở trong một vòng sao, hai ngôi luôn luôn đối chiếu nhau. Vì sao lại bỏ Bệnh Phù ở bên trong, để nhìn vào Thanh Long bên ngoài? Ấy cũng chỉ là thói quen vội vã thông qua những tên sao nào có vẻ rắc rối khó hiểu, chỉ nhìn vào những sao nào có vẻ dễ hiểu, hoặc có vẻ hấp dẫn hơn.
Bệnh phù là cái gì mơ hồ, nghe có vẻ như bệnh hoạn, phù thũng. Thanh long nghe có vẻ sáng sủa hấp dẫn hơn. Thế rồi, khi xem cung Thìn là chính, thấy có Bệnh phù, cũng bỏ đó, hãy luận về Thanh Long ở cung Tuất chiếu vào đã.
Một vài người nghiên cứu Tử vi thường có thói quen như vậy. Nhờ linh tính, trực giác, gặp may nhiều khi cũng đoán đúng. Nhưng, thiển nghĩ rằng sự đoán đúng này, dùng để chứng minh ảnh hưởng của trực giác chứng minh cái thuyết “Phúc chủ lộc Thầy”…thì đúng hơn là để đi tìm cái tinh hoa của môn lý học.
Cũng do sự vội vã thông qua, do thói quen dồn các bộ sao vào một công thức mà không mấy người, không mấy cuốn sách tử vi nói rõ điểm dị biệt giữa Kình và Đà, Linh và Hỏa, Khôi và Việt, Không và Kiếp…
Cứ nói rằng Kình Đà, Không Kiếp, Linh Hỏa, là bộ lục Sát. Rồi thì Kình cũng như Đà, Đà cũng giống Kình, Kiếp cũng như Không, Không cũng là Kiếp, Linh cũng như Hỏa – Hỏa cũng giống Linh hay sao?
Cứ nói rằng “Tọa khôi hướng Việt”, “Tọa Quý hướng Quý” là quý cách, Khôi và Việt là bộ văn tinh, Quý tinh. Rồi Khôi cũng là Việt. Việt cũng giống Khôi hay sao?
Có tìm hiểu ý nghĩa dị biệt giữa Kình Dương và Đà la thì mới thấy được cái Lý Kình Dương luôn luôn đứng chung với Lực sĩ, khi tính Tiền Kình Hậu Đà.
Có tìm hiểu ý nghĩa khác nhau giữa Kình Dương và Đà La thì mới hiểu được, chiêm nghiệm trường hợp, cùng thì người tuổi Tân, Dương Nam Âm nữ có Kình Dương tại Tuất, Âm nam Dương Nữ có Đà la tại Tuất, Kình tại Tuất hay Đà tại Tuất cũng đều nhập miếu. Vậy hai trường hợp nhập miếu này khác nhau ra sao?
Ngày nay, cách viết tên hai vị “Sao” này bằng chữ Hán cũng có một vài trường hợp lủng củng, thất truyền, khiến cho người nghiên cứu ít nhìn thấy điểm dị biệt giữa Kình và Đà.
Những điểm tế nhị còn nhiều, không thể kể hết trong một vài trang giấy, tôi xin trình bày thêm vào những kỳ Giai phẩm tới.
KHHB số 40
Ngoài Tỳ Hưu là vật phẩm phong thủy số một để tạo may mắn về tài lộc, thì Cóc 3 chân, cá chép, voi, ngựa…đều mang lại may mắn về tài lộc.
Ngoài Tỳ Hưu là vật phẩm phong thủy số một về việc chiêu tài khí bốn phương để tạo may mắn về tài lộc cho mọi người trong công việc làm ăn, thì bên cạnh đó vẫn còn những vật phẩm phong thủy khác mang lại may mắn về tài lộc như sau :
Cóc 3 chân (Thiềm thừ)
![]()
Đây không phải là con cóc bình thường, nó có 3 chân, không giống với những con cóc bình thường có 4 chân, nó có thể nhả ra tiền. Thiềm thừ là con vật huyền thoại cóc vàng có 3 chân,nó là biểu tượng của Thần Tài,của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc.Thiềm Thừ chuyên dùng trong Phong Thuỷ ở những khu vực tốt để tăng cường tài lộc,nó tượng trưng cho sự hoạnh phát tài lộc,giảm thiểu rủi ro,nó còn mang ý nghĩa bình an và hạnh phúc cho mọi người.Nên có thể dùng để biến hung thành cát trong Phong Thuỷ. Trong phong thủy, cóc là sinh vật được cho là mang lại điềm lành. Người Trung Quốc xưa tin rằng, nếu họ nhà cóc ở dưới giếng, ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy hiểm rình rập. Cóc 3 chân được xem là biểu tượng rất may mắn. Nó thường ngậm đồng tiền xu trong miệng, tượng trưng cho việc cóc mang vàng vào nhà. Tuy nhiên, đừng để cóc đối diện với cửa chính,cửa sổ.Nếu không cóc 3 chân sẽ nhã tiền ra ngoài hết. Vị trí tốt nhất để đặt cóc 3 chân là ở góc đối diện chéo với cửa chính, mặt hướng vào bên trong như thể cóc đang nhảy vào nhà. Cóc cũng có thể nằm bên dưới gầm bàn, bên trong tủ hoặc giấu dưới ghế, những đồ đạc khác… Đây sẽ là mốn quà ý nghĩa để tặng người thân hoặc các đối tác, với mong muốn và lời chúc cho họ thành công, phát tài phát lộc. Và mọi người nên có cóc 3 chân ở trong nhà .
Cá chép

Ngựa

Ngựa là con vật rất trung thành, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, sự bền bỉ, lâu dài, sự may mắn mang lại tài lộc. Ngựa phi nước đại trên còn được gọi là “Lộc Mã”, nó đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến tiền tài, khiến những công việc dự định sẽ nhanh chóng hoàn thành hơn dự kiến và đạt kết quả cao hơn mong muốn. Trong đầu tư kinh doanh thì nó mang lại lợi lộc lớn cho chủ nhân.Ngựa là con vật tượng cho sự đi xa , nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác xa , hoặc bôn ba đây đó. Đây là một vật khí không thể thiếu cho những doanh nhân thường xuyên đi xa. Nên đặt ở hướng Tây, Tây Bắc hoặc hướng Đông Bắc để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này để vượng tài. Bày trên bàn làm việc, bàn học,và chỗ tài vị trong nhà, mặt nên hướng ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ đại cát. Không được đặt ngựa trong bếp , trong nhà tắm. Nói chung với việc dùng ngựa , xin lưu ý mấy điểm sau : Người tuổi Tý tránh dùng biểu tượng hay tranh ảnh ngựa. Nếu đặt nhiều con ngựa , thì 3 con ngựa bằng bột đá có tác dụng phát huy Thổ khí trong vận 8 nên còn có tác dụng bổ trợ phong thủy cho văn phòng. 6 con ngựa là tốt nhất cho việc sinh tài lộc , 8 ngựa phi nước đại trên còn được gọi là “Bát Mã”, tượng trưng cho sao Bát Bạch rất vượng khí, nó đem lại nguồn tài lộc rất lớn. Ngựa không dùng cho hóa sát. Nó đem lại nguồn tài lộc, sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến tiền tài, khiến những công việc dự định sẽ nhanh chóng hoàn thành hơn dự kiến và đạt kết quả cao hơn mong muốn. Ngựa kéo củ cải. Biểu tượng cho của cải được mang về nhà,sự thắng lợi về tài lộc.Đặt ở phòng khách,bàn làm việc,đầu quay vô nhà.
THUYỀN BUỒM : BIỂU TƯỢNG MAY MẮN CỦA DOANH NHÂN

Theo phong thủy, thuyền buồm được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Bởi vì, nó tượng trưng cho gió, mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh tốt đẹp và thu được nhiều lợi nhuận. Sau biểu tượng rồng, hình ảnh thuyền buồm là biểu tượng được giới doanh nhân Trung Quốc ưa chuộng nhất. Để kích hoạt vận may trong kinh doanh, bạn hãy đặt một chiếc thuyền buồm trên bàn làm việc hay gần cửa ra vào sao cho chiếc thuyền di chuyển theo hướng đi vào bên trong văn phòng, công ty. Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó lại mang ý nghĩa là thuyền buồm mang tiền bạc ra khỏi nhà. Trong phong thủy, thuyền buồm lộng gió chở đầy vàng đến cho bạn được xem là thuận lợi nhất. Bạn có thể mua một chiếc thuyền buồm, tiếp theo là chất đầy trong lòng chiếc thuyền những nén, thỏi vàng của Trung Quốc hoặc những đồng xu, sau đó đặt vào những vị trí như đã nêu trên.
Voi

Voi là con vật hay giúp đỡ con người, trong phật giới cũng có thờ thần đầu voi, truyền thuyết cho rằng voi được sinh ra từ các mảnh vụng tan ra của ngôi sao Dao quang. Vì thế voi được coi là con vật linh thiêng. Hơn nữa voi là con vật to lớn mạnh mẽ, nên bày voi trong nhà, thì vận nhà được bình ổn, người trong nhà làm ăn thuận lợi Với Voi Đồng hoặc đá thì tác dụng chính của nó là Hút Tài Lộc , nhất là nhà mà mở cửa , cửa sổ nhìn thấy ao , hồ , sông , biển thì càng có hiệu quả cao. Với voi bằng gồm sứ , thường được dùng để hóa giải các cấu trúc nặng nề như dầm nhà , xà nhà đè xuống. Thủy là biểu tượng của tiền của, nếu đặt một con voi đồng hoặc đá cỡ vừa trong nhà thì “hút thủy”, đại tài, tiểu tài sẽ đến, trong nhà luôn có điềm lành. Nếu đặt ở chỗ tài vị thịnh, thì cả nhà được lộc.
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí vô cùng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Đây là mảnh đất trù phú, được thiên nhiên ưu ái và ban tặng cho địa thế phong thủy khá tốt. Nhiều thầy phong thủy đã đánh giá thành phố Hồ Chí Minh, nay vẫn còn phổ biến với tên gọi cũ là Sài Gòn, có phong thủy đẹp. Vào những năm giữa thế kỉ 20, nơi đây từng được ví là Hòn ngọc Viễn Đông.
![]() |
![]() |
![]() |
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
Theo quan niệm dân gian, hai tuổi 49, 53 là “tuổi hạn” nặng nhất trong đời người. Điều đó có đúng không? Lý giải như thế nào? Vì sao có người ở vào “tuổi hạn” thì gặp “hạn nặng", có người lại không vấn đề gì? Có cách nào để hóa giải “hạn" hay không?
1./ Vì sao lại có quan niệm về "tuổi hạn”? (tuổi hạn chung cho mọi người)
Theo từ điển Hán Việt thì Hạn là vùng đất nguy hiểm, ranh giới, phạm vi quy định, kỳ hạn quy định, ngưỡng cửa ...
Từ xưa tới nay hễ nghe đến hạn là mọi người đều nghĩ tới những điều xấu không may mắn tới với mình, nhưng thực tế không phải Hạn nào cũng xấu. Thí dụ : đến Hạn lên lương, thăng quân hàm, nhận lãi tiết kiệm, kỳ phiếu, gia hạn vay vốn, CTTN hữu hạn....
Thậm chí Hạn sao Mộc đức, Thái dương.v.v. lại rất tốt nhưng mọi người vẫn gọi là Hạn. Nên mới có chuyện đầu năm nhiều người vất vả xem bói nhờ Thầy cậy Thợ cắt giải hết cả sao Tốt đi thì con gì Phúc nữa.
Sao xấu (hung tinh,ác tinh..) thì mới cắt giải, nhương tinh (nhượng) chuyển đổi đi.
Còn Cát tinh ,sao tốt thì phải Nghênh tinh (đón rước về) thì mới tốt chứ.
Tóm lại Hạn là 1 cái Mốc, Ngưỡng, đến khi đó ta sẽ gặp sự kiện xấu hoặc tốt đến với bản thân hoặc gia đình.
2./ Lí giải câu “49 chưa qua, 53 đã tới”:
Ý ngĩa của câu này là: “Trong thực tế, bất cứ thời gian nào trong cuộc đời đều có thể gặp vận hạn xấu, nhưng thường thì tỷ lệ thấp hơn tuổi 49, 53″.
Tại sao lại như vây? Trong nhân gian có nhiều cách giải thích.
* Cách thứ nhất:
Khi cộng dồn số 49 ta thấy:
4 + 9 = 13
1 + 3 = 4,
Tương ứng với nam gặp sao Thái Bạch, nữ gặp sao Thái Âm;
Khi cộng dồn số 53 ta thấy:
5 + 3 = 8
Tương ứng nữ gặp sao Thái Bạch, nam gặp sao Thái Âm.
Mà “Thái” là quá,
"Bạch" là trắng (chủ về tang chế, tai nạn, xương cốt).
“Âm” là tối, đen, nước, hiểm trở (chủ về ốm đau, dao kéo, xe cộ, sông nước).
* Cách thứ hai:
Chòm sao Thái Tuế quản 12 năm hàng Chi, khởi điểm (1 tuổi) mang sao Thái tuế, cứ 12 năm lặp lại một lần.
Vào những năm có số tuổi chia cho 12 dư 1 như sau: 13, 25, 37, 49, 61, 73, 85 sẽ mang sao Thái Tuế. Mà Thái Tuế chủ về quan sự, khẩu thiệt, hao tốn, ốm đau, tang chế…
Trước Thái Tuế có Thiên Không, sau Thái Tuế có Quán Sách, đôi sao này thuộc “hỏa” và không có lợi.
* Cách tính thứ ba:
Theo quy luật của tạo hóa thì từ khi thai nghén, con người đã theo chu kỳ 7 x 7. Theo đó, các mốc có số 7 như 7 giờ, 7 ngày, 7 tuần, 7 tháng, 7 năm đều đánh dấu sự thay đổi quan trọng . Cụ thể, 7 năm thứ nhất phát triển chiều ngang, 7 năm thứ hai phát triển chiều cao, 7 năm thứ ba phát dục, 7 năm thứ tư phát triển cơ bắp, 7 năm thứ năm phát triển trí tuệ, 7 năm thứ sáu phát triển toàn diện, 7 năm thứ bảy dừng lại, ổn định, dần suy giảm. Mà 7 x 7 = 49 sẽ hết một chu kỳ. Hết chù kì này sẽ là 49, 53, có thể sẽ bị diệt vong, cũng có thể sẽ phát triển chu kỳ tiếp theo.
Đó là sự sinh, còn xét ở sự tử thì khi con người mất đi cũng theo luật tạo hóa, cái gì sinh trước sẽ mất trước, sinh sau mất sau. Do đó, người ta mới có lễ Tứ Cửu (49 ngày). Cũng theo quy luật đó thì hết vòng 49, 53 thì mọi sự lại tốt đẹp, hồi xuân”.
Ông Lương Gia Tĩnh, viện phó Học viện Phật giáo Việt Nam đưa ra một cách lý giải khác: 49 là năm “hạn” Tam Tai, còn 53 là tuổi Kim Lâu. Hai “hạn” này đều nặng, tránh làm việc lớn.
GS Nguyễn Trường Tiến, Hội Cơ học Đất và Địa kỹ thuật công trình Việt Nam lại cho rằng, câu “49 chưa qua, 53 đã tới” mang ý nghĩa phiếm chỉ một loạt tuổi từ 49 – 53 chứ không hoàn toàn gói gọn trong hai tuổi ấy. “Xét về mặt khoa học, ở vào khoảng tuổi này đồng nghĩa với việc người ta đã bước sang nửa kia của đời người. Sức khỏe bắt đầu giảm sút, sức đề kháng kém hơn, nguy cơ ngã bệnh cao hơn, xương cốt yếu hơn… Do đó mà nhiều người bị bệnh, thậm chí là thiệt mạng.
Về mặt tâm linh, từ tuổi 49 – 53 ứng vào con số 5 (là số ngũ hành, gồm sinh – lão – bệnh – tử – sinh). Nếu ai đó vượt qua được nghĩa là họ đã thay đổi nhịp sinh học để bước vào một chu kỳ phát triển mới trong đời”.
3./ Những tuổi được cho là “hạn”, cùng với 49, 53:
Đây là cách tính Cửu diệu tinh quân rất nhanh và đơn giản nhưng chính xác.
Lấy số tuổi (tuổi Mụ) cộng dồn lại trừ cho 9 còn lại :
+ Là 1 Nam La hầu, Nữ Kế đô
+ Là 2 Nam Thổ tú, Nữ Hoả đức,
+ Là 3 Nam Thuỷ diệu, Nữ Mộc đức.v.v.
Sao La hầu
Nam giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82
Nữ giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78-87
Sao Thổ tú
Nam giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Nữ giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Sao Thuỷ Diệu
Nam giới tuổi : 12-21-30-39-48-57-66-75-84
Nữ giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Sao Thái Bạch
Nam giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85
Nữ giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80
Sao Thái Dương
Nam giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Nữ giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Sao Hoả Đức
Nam giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78
Nữ giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Sao Kế đô
Nam giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Nữ giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82
Sao Thái âm
Nam giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80
Nữ giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85
Sao Mộc đức
Nam giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Nữ giới tuổi : 03-12-21-30-39-48-57-66-75-84
4./ Cách “giảm” mức độ của hạn:
Trong thực tế cho thấy bất cứ thời gian nào trong cuộc đời đều có thể gặp vận hạn xấu. Cũng tuổi 49, 53 hoặc cùng tuổi hạn như nhau nhưng mức độ ảnh hưởng không giống nhau. Người thì nhẹ, người gặp nặng, người không sao, có người còn thành công nữa. Bởi vì hạn có 2 cách ảnh hưởng: Chiếu Bản Mệnh và Chiếu Gia sự.
Nếu 1 người đau mắt đau răng thì chỉ bản thân họ đau thì gọi là chiếu Bản Mệnh.
Nếu cháy nhà, có tang ..v.v.. thì ảnh hưởng đến cả nhà thì gọi là chiếu Gia sự.
Khi xem gia sự thì cần quan tâm đến tuổi và vận hạn của chủ nhà.
Nếu các thành viên trong nhà cùng tuổi hạn nhiều thì xấu hơn. Nhưng nếu ngược lại thì thành ra tốt.Ngoài tuổi hạn và 49,53 ra rồi cần phải xem những hạn khác có đi kèm không
Thí dụ: Hạn Tam tai, Hạn Huỳnh tuyền, Tam kheo, Ngũ mộ, Thiên tinh, Toán tận,Thiên la, Địa võng, Diêm vương, Hoang ốc, Kim lâu.
Những yếu tố trên sẽ quyết định Hạn xấu tốt của con người.
Bí quyết giải hạn tống ách trừ tai ,cải hung hoá cát, cải hoạ vi tường :
-Sống hoà nhập thiên nhiên, tuân thủ quy luật tạo hoá.
-Không tham, sân, si.
-Năng làm việc thiện, giúp đỡ người tàn tật, khó khăn.
-Sinh hoạt điều độ, không hút thuốc, uống rượu, cẩn thận khi tham gia giao thông.
-Lễ dâng sao giải hạn, cầu Quốc thái Dân an là việc tốt, nên làm.
Riêng việc Nhương tinh giải hạn, Nghênh tinh tiếp phúc tuy không tốn kém nhưng phải đúng ngày giờ giáng hạ, chữ viết bài vị, đủ số đèn, đúng hình sao, đúng hướng, đọc đúng tên vị Thần quản sao, chọn lễ đúng màu, lễ trung thiên thì mới có giá trị. Nếu không lập đàn được như trên thì thành tâm lễ Chùa hoặc lễ Thần linh + Gia tiên trong nhà mình là đủ.
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Đây là điển cố thứ Hai tư trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Ân Giao Ngộ Sư (còn gọi là Ân Giao Gặp Thầy). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Ân Giao Ngộ Sư có bắt nguồn như sau:
Ân Giao là con trai của Trụ Vương nhà Thương, do Khương hoàng hậu sinh ra. Sau bị Đát Kỷ bức hại, nhờ có Quảng Thành Tử cứu mới trốn thoát, liền bái Quảng Thành Tử làm thầy, sau ba năm đã học thông phép thuật. Quảng Thành Tử nói với Ân Giao rằng: “Nay nếu ta sai ngươi đi làm quân tiên phong giúp nhà Chu, ngươi có đi không?”
Ân Giao nghe lời thầy, đến vách Sư Tử đằng sau động Đào Nguyên để tìm binh khí. Chưa tìm được binh khí, nhưng phát hiện ra bên kia cây cầu đá trắng có một sơn động, là nơi mình chưa từng đi đến. Ân Giao đi vào sơn động, phát hiện có một cái mâm đựng bảy tám hạt đậu đã nấu chín, bèn bỏ vào miệng ăn. Vừa ăn xong, chợt thấy toàn thân nóng bừng, trong nháy mắt đã mọc ra ba đầu sáu tay. Quảng Thành Tử thấy bộ dạng Ân Giao thành ra như vậy thì không hề kinh ngạc, ngược lại còn vỗ tay cười lớn: “Tuyệt quá! Tuyệt quá!” Nói xong, Quảng Thành Tử bèn dạy cho Ân Giao phép biến hóa dành cho ba đầu sáu tay. Sau khi phép thuật đã học xong, Quảng Thành Tử lại lấy ra cây Phương thiên họa kích, truyền thụ võ nghệ cho Ân Giao.
Nhờ sự chỉ dạy của Quảng Thành Tử, Ân Giao nhanh chóng luyện tập võ nghệ thành thạo. Sau đó, Quảng Thành Tử lại lấy ra ba báu vật là Phan thiên ấn, Lạc hồn chung, Thư hùng kiếm giao cho Ân Giao, và nói rằng: “Thầy giao ba báu vật này cho con, là mong sau khi con xuống núi sẽ một lòng phò tá cho Khương sư thúc của con, diệt vua Trụ nhà Thương, chớ có làm việc sai lầm!” Ân Giao vội quỳ xuống nói: “Đệ tử sau khi xuống núi nhất định sẽ làm theo lời dạy của sư phụ, nếu có lòng dạ nào khác, đệ tử sẽ phải chết dưới lưỡi cuốc lưỡi cày.”
Quảng Thành Tử nghe Ân Giao thề độc như vậy, liền nói: “Ta đã hiểu ý của con, hãy mau xuống núi đi!”
Trên đường dẫn người ngựa đến núi Kỳ Sơn, Ân Giao gặp Thân Công Báo. Lúc đầu, Thân Công Báo không thể lừa được Ân Giao, nhưng sau đó Thân Công Báo bịa ra chuyện Ân Hồng (trong tiểu thuyết, Ân Hồng là con trai thứ dòng đích của Trụ Vương nhà Thương, là em trai của Ân Giao) bị Khương Tử Nha hại chết, để lừa Ân Giao đứng về phía đối lập với Tây Kỳ.
Đế báo thù cho Ân Hồng, Ân Giao bèn đi gặp Trương Sơn. Trương Sơn rất kinh ngạc, sau khi đã xác nhận đúng người, Trương Sơn liền đem người ngựa giao cho Ân Giao. Ngày hôm sau, Ân Giao đích thân cưỡi ngựa, đánh bị thương Na Tra, bắt cha con Hoàng Phi Hóa, Hoàng Phi Hố về doanh trại. Khương Tử Nha vội vàng lệnh cho quân sĩ vào thành, còn mình ngồi trong điện mà lo lắng. Dương Tiễn bèn nói: Đệ tử thấy vũ khí mà Ân Giao dùng để đánh Na Tra là Phan thiên ấn, bảo bối này là của sư bá Quảng Thành Tử, tại sao lại giao cho Ân Giao?” Tử Nha nói: “Lẽ nào Quảng Thành Tử lại sai hắn đến tìm ta?”
Dương Tiễn bèn mời Nhiên Đăng và Quảng Thành Tử đến, Quảng Thành Tử lập tức ra trận. Ân Giao vươn người trên ngựa mà nói: “Sư phụ, đệ tử mặc giáp trụ trên người, không dám cúi lạy!” Quảng Thành Tử mặc y phục vương thất trên người, quát lớn: “Đồ súc sinh! Ngươi không nhớ đã nói thế nào ở trên núi sao? Bây giờ tại sao ngươi lại đổi lời?”
Ân Giao khóc mà nói rằng: “Đệ tử không dám làm trái mệnh trời. Chỉ là em trai của đệ tử mắc tội gì, mà lại dùng Thái cực đồ đế biến nó thành tro bụi. Nó và ông có thù oán gì, mà lại phải chết thảm ở đây!” Ân Giao nói xong, liền khóc lớn.
Quảng Thành Tử nói: “Ân Giao, ngươi không biết rằng Thân Công Báo có mối hiềm khích với Khương Tử Nha hay sao? Hắn đã lừa dối ngươi, ngươi không được tin theo. Chuyện này là do em trai ngươi tự chuốc lấy, đó là số trời!” Nhưng Ân Giao không nghe lời khuyên giải của sư phụ, lại càng không chú ý đến lời thề của mình trước đây, vẫn cố chấp coi Khương Tử Nha là kẻ thù, sau bị Đạo sĩ Nhiên Đăng dùng kế dụ vào núi Kỳ Sơn, kẹp giữa hai vách núi, bị Quảng Thành Tử dùng cày đánh chết.
Cá chép Koi là một biểu tượng phổ biến ở cả văn hóa Trung Quốc nói chung và phong thủy nói riêng. Hình ảnh cá Koi hay xuất hiện trên các tác phẩm nghệ thuật, quần áo, hình xăm và được nuôi trong nhiều gia đình. Vậy tại sao cá chép Koi lại được yêu thích đến vậy?
Truyền thuyết về cá chép Koi
Trong khi nhiều người biết về cá Koi tại Nhật Bản nhưng thật ra cá Koi được nhập khẩu đến Nhật Bản từ Trung Quốc và một số quốc gia khác ở châu Á và châu Âu. Người Nhật đã thu thập và lai tạo ra nhiều loại cá Koi đẹp như hiện nay.
Có rất nhiều truyền thuyết cổ xưa liên quan đến cá chép.. Huyền thoại lâu đời nhất là câu chuyện về nhà triết học Trung Quốc - Khổng Tử. Vào năm 533 Trước Công nguyên, khi Khổng Tử sinh được con trai, hoàng đế đã tặng cho ông một món quà - con cá trắm đen. Tương truyền rằng, tất cả cá chép Koi hiện đại ngày nay, đều có nguồn gốc từ con cá của nhà vua.
Ban đầu, cá chép Koi được nuôi như một loại thực phẩm trong gia đình, chứ không phải để làm cảnh. Việc nuôi cá chép trong hồ được bắt đầu mãi sau này ở Niigata, Nhật Bản. Trong suốt một mùa đông khắc nghiệt, các nông dân Nhật Bản ở Niigata không thể câu cá và duy trì bất kỳ cây trồng nào. Bởi vậy họ làm ao để nuôi cá koi nhằm cung cấp thức ăn cho gia đình. Trong thời gian này, nhiều nông dân bắt đầu nhận thấy màu sắc đột biến khác nhau trên da của những con koi mới lớn lên. Vì vậy, họ chọn cẩn thận những con cá có màu sắc đẹp và nuôi trong ao riêng biệt để giữ như là vật nuôi gia đình. Koi tiếp tục được lai tạo để có nhiều màu sắc đẹp tuyệt vời. Ngày nay, cá koi có hơn 100 loại màu sắc khác nhau.
Biểu trưng của cá Koi
Các chú cá chép có một sức sống mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng, chứng minh bằng khả năng bơi ngược dòng chảy. Sức mạnh thần kì của cá Koi đã trở thành sự tích "Cá chép hóa rồng" trong điển tích Trung Quốc.
- Vận may
- Sự thành công
- Sự phồn thịnh
- Trường thọ
- Lòng can đảm
- Tham vọng
- Sự bền bỉ
Cá Koi bền bỉ có thể bơi ngược dòng
Biểu trưng màu sắc
Mỗi một loại cá Koi với màu sắc khác nhau mang đến ý nghĩa nhất định thể hiện mong ước của gia chủ.
- Kohaku - thân trắng, đốm đỏ: Thành công trong sự nghiệp.
- Kumonryu - thân trắng, đốm đen hoặc đen toàn bộ: Cuộc sống luôn thay đổi và biến đổi.
Với những gia chủ yêu "xê dịch thì Kymonryu sẽ mang đến sự bình an
- Ogon - thân bạc: Thành công trong kinh doanh và sự giàu có.
- Kuchibeni - màu trắng, đốm đỏ quanh môi : Tình yêu và các mối quan hệ lâu dài.
- Yamabuki - màu vàng: Sự giàu có.
Yamabuki với màu vàng óng ả giúp thu hút nhiều tiền bạc
Âm Dương và cá chép Koi
Trong phong thủy, cá chép koi được gắn với các biểu tượng âm dương. Cá đực và cá cái biểu trưng cho hai nửa đen - trắng đối lập mà hòa hợp trong vòng tròn âm dương. Trên thực tế, một cặp cá koi thường được sử dụng như một biểu tượng may mắn, chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ mới cưới về một cuộc hôn nhân viên mãn.
Cá chép Koi thường được nuôi theo cặp tượng trưng cho Âm - Dương hòa hợp
Cá chép Koi trong bài trí nhà cửa
Nếu trong nhà không có điều kiện để xây ao hoặc có một bế cả trong nhà, những bức tranh hoặc các tác phẩm điêu khắc hình cá Koi cũng giúp thu hút tài lộc vào nhà.
Nếu nuôi cá Koi trong nhà, bạn phải đảm bảo nguồn nước luôn được giữ gìn sạch sẽ. Trong điều kiện hoàn hảo, những chú cá chép có thể sống từ 50 đến 75 năm, có những con sống gần 200 năm. Không có gì ngạc nhiên khi cá Koi còn đại diện cho sự trường tồn, chúc ông bà bách niên giai lão.