Mơ thấy phượng hoàng –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
| Không nên bày quá nhiều đá trong tiểu khu |
Sức khỏe của gia chủ và các thành viên trong gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với phong thủy ngôi nhà họ sinh sống. Theo các chuyên gia, có 5 loại sát khí trong nhà luôn đem đến bệnh tật cho các thành viên.
![]() |
Những con giáp chào đón may mắn khi tháng 5 tới![]() |
Những câu nói hay nhất về mưa. Mưa vốn dĩ là một hiện tượng của tự nhiên khi hơi nước bốc lên, ngưng tụ thành những đám mây rồi rơi xuống tạo thành mưa. Nhưng trước những tâm hồn lãng mạn, mưa trở thành bạn và mang đến cho con người thật nhiều cảm xúc.
Dẫu vui hay buồn, con người ta đều có thể tìm đến mưa. Nhưng dường như mưa thường gắn liền với những kỉ niệm buồn. Có lẽ bởi tiếng mưa rả rích dễ khiến người ta trở nên tâm trạng hơn. Chính vì lẽ đó mà những câu nói hay về mưa ra đời, mang theo chút gì đó mang mác buồn. Nếu bạn cũng đang có những tâm sự, đừng giấu chúng trong lòng mà hãy thả chúng vào cùng với những giọt mưa, mưa sẽ giúp rửa trôi những muộn phiền trong bạn.
1. Cơn mưa chiều nay sao vô tình đến thế, ướt lối em về nước mắt khẽ tuôn rơi.
—-
2. Tình yêu và hạnh phúc giống như những hạt mưa vậy. Trông thấy nhiều nhưng đưa tay giữ lấy chúng thật khó.
—-
3. Tuổi trẻ giống như một cơn mưa, cho dù bị cấm nhưng vẫn muốn quay lại để được ướt dưới mưa thêm một lần nữa.
4. Mưa sa giọt nhỏ giọt ngừng
Tuổi em còn nhỏ chưa từng nhớ thương
5. Mưa sa lác đác gió tạt vô thành
Đôi ta chồng vợ ai dỗ dành đừng xiêu.
6. Tháng giêng là tiết mưa xuân
Đẹp người thục nữ thanh tân má hồng.
Muốn cho đây đấy vợ chồng
Hay còn quyết chí một lòng chờ ai?
7. Mưa xuân lác đác ngoài trời
Trông ra đường, thấy một người thơ ngây
Gặp nhau ở quãng đường này
Như cá gặp nước như mây gặp rồng.
8. Mưa xuân lác đác vườn đào
Công anh đắp đất ngăn rào vườn hoa
Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn.
9. Mưa xuân phơi phới vườn hồng
Ta về đập đất, ta trồng lấy cây.
10. Mưa mai sợ nỗi nắng chiều
Con người thất vận cũng nhiều người thương!
11. Mưa rơi, gió thổi, mặt trời tỏa nắng… tất cả diễn ra một cách tự nhiên, cũng như anh yêu em.
12. Mưa ngừng rơi chắc gì trời đã tạnh
Chia tay rồi chắc gì đã hết yêu.
13. Em mỉm cười tươi như nắng, nhưng lòng em thì mưa không ngớt anh à. Chắc sẽ không bao giờ em mỉm cười như thế nữa đâu.
14. Hôm nay trời nắng mà thấy lòng mình vẫn có mưa rơi…
15. Tuổi thanh xuân giống như một cơn mưa rào. Dù cho bạn từng bị cảm lạnh vì tắm mưa, bạn vẫn muốn được đắm mình trong cơn mưa ấy lần nữa.
16. Mưa từ thung lũng mưa ra
Trèo non, lội suối em qua tìm chồng
Tìm chồng sao chẳng thấy chồng
Lênh đênh trôi dạt theo dòng tới đâu
Mưa từ trong núi mưa ra
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua chùa Thầy
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ non!
17. Mưa từ trong Quảng mưa ra
Mưa khắp Hà Nội mưa ra Hải Phòng
Hạt mưa trong thực là trong
Mưa xuống sông Hồng mưa cả mọi nơi
Hạt mưa vẫn ở trên đời
Mưa xuống hạ giới cho người làm ăn.
18. Cơn mưa ngày nào còn nhớ không anh
Hai đứa hẹn hò gặp mưa bất chợt
Em bối rối sợ mưa ướt áo
Anh cười xòa: mưa mùa hạ đó em
Anh đưa tay hứng lấy những hạt mưa
Quay lại hỏi: em thích mưa hả bé?
Em mỉm cười nhìn anh rất khẽ
Bởi cơn mưa mùa hạ mà anh!
19. Trời gợn buồn, mưa bụi cứ lay lay
Sáng mùa thu, bên thềm mưa rơi rụng
Ngồi đan tay ngắm nhìn trời làm nũng
Mưa ướt đầm vùng khờ dại bình yên
Mưa xuân lác đác vườn đào
Công anh đắp đất ngăn rào vườn hoa
Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn.
20. Mưa lại về trên con phố ngày xưa
Hàng liễu rủ như nỗi buồn ngơ ngác
Em xòe tay đón hạt mưa rào rạc
Lại một mùa mưa nữa chẳng cùng anh
Em đi tìm trong quá khứ mỏng manh
Tìm trong gió, trong mây rồi trong nắng
Tìm về anh của một thời xa vắng
Của một thời hai đứa bước chung đôi.
Cuộc sống không phải lúc nào cũng chỉ có niềm vui, sẽ có lúc bạn thấy trong lòng có những trống trải, buồn mà không biết tâm sự với ai. Nhưng bạn thử nghĩ mà xem, nếu bạn cứ mãi u sầu thì bao giờ niềm vui mới đến? Chúng tôi hy vọng rằng, với những câu nói hay về mưa, chúng tôi đã chạm được một phần nào đó đến những cảm xúc, những nỗi lòng trong bạn. Hãy chia sẻ cùng với chúng tôi hay trút bầu tâm sự cùng mưa, những hạt mưa ngoài kia sẽ giúp bạn cuốn trôi đi hết mọi muộn phiền trong cuộc sống. Cứ vui lên rồi bạn sẽ nhận ra mưa thật đẹp và đáng yêu.
Nội dung
Ngũ hành tồn tại mối quan hệ tương sinh tương khắc.
Quy luật ngũ hành tương sinh: “Sinh”, bao hàm ý nghĩa tư sinh, trợ trưởng. Trong Ngũ hành có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau, dựa vào nhau để tồn tại, quan hệ này được gọi là “tương sinh”. Quy luật tương sinh trong Ngũ hành là: Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy: sự tuần hoàn đời này qua đời kia không bao giờ kết thúc. Chúng có tác dụng thúc đẩy nhau phát triển.
Trong tương sinh Ngũ hành, bất kỳ một hành nào cùng đều có sự liên hệ hai mặt “sinh tôi”, “tôi sinh”, cũng chính là quan hệ mẫu tử. Lấy Thủy làm ví dụ: “sinh tôi” của Thủy là Kim, tức Kim chính là mẹ của Thủy: “tôi sinh” của Thủy là Mộc, tức Mộc là con của Thủy, từ đó cứ tiếp tục suy ra tương tự.

Nguyên lý ngũ hành tương sinh
Quy luật tương khắc: “khắc”, bao hàm ý nghĩa chế ngự, thắng. Trong Ngũ hành có quan hệ chế ước lẫn nhau, khắc phục lẫn nhau. Loại quan hệ này được gọi là “tương khắc”. Quy luật tương khắc Ngũ hành là: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, sự chế ước lẫn nhau như vậy, không có tuần hoàn, không ngừng.
Quan hệ tương khắc trong trường hợp thông thường, cũng là một lực lượng duy trì cân bằng. Nếu tương khắc Ngũ hành quá lớn thì sẽ gây thương tổn rồi sinh ra những biến hoá bất thường. Trong tương khắc Ngũ hành, bất kỳ một hành nào cũng đều có quan hệ “khắc tôi” và “tôi khắc”, cũng chính là quan hệ “thắng” và “bất thắng”. Lấy ví dụ hành Mộc: “khắc tôi” là Kim, “tôi khắc” là Thổ, vậy thì, Thổ chính là hành mà Mộc “thắng”. Kim chính là hành mà Mộc “bất thắng”, còn lại suy ra tương tự. Trong tương khắc Ngũ hành, cũng giống như tương sinh là không thể tồn tại độc lập. Trong tương khắc cũng cần phải có tương sinh bên trong nó, nếu không thì vạn vật sẽ không thể có sinh khí.
Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành.
Phong thủy phòng bếp có liên quan mật thiết tới vận thế của cả gia đình. Một phòng bếp có phong thủy tốt đem đến vận may, một phòng bếp phạm phải cấm kị sẽ gây ra tai họa. Trong phong thủy học, phòng bếp quan trọng là thế, nên từng chi tiết nhỏ như bàn bếp, bp và gương trong phòng bếp cũng cần được chú trọng.
Một phòng bếp đẹp không chỉ thể hiện ở mỹ quan mà còn thể hiện ở sự hài hòa trong phong thủy.
Dưới đây là những cấm kỵ trong việc xây dựng và bố trí phòng bếp.
Sau vị trí đặt bếp không được để trống
Sau bếp tốt nhất là một bức tường. Nếu như sau vị trí đặt bếp không có chỗ tựa, không những đem lại cảm giác hụt hẫng, mà còn ảnh hưởng tới tài vận của cả gia đình.
Bếp không được gần máng nước
Bếp và máng nước tốt nhất nên tách riêng. Bếp (Hỏa) và máng nước (Thủy) gần nhau sẽ khiến vận thế của gia đình tụt dốc, dễ gây ra thị phi, hao tài tốn của, chiêu gọi tiểu nhân.
Phòng bếp không nên treo gương
Phòng bếp tốt nhất không nên treo gương, càng không nên để gương chiếu đến lửa bếp, bởi vì hiện tượng này trong phong thủy gọi là “Thiên môn hỏa”, dễ khiến cả gia đình gặp tai họa.
Bếp không nên đặt dưới xà ngang
Khi sử dụng, bếp sẽ tỏa ra nhiệt, nếu phía trên bếp có xà ngàng, sẽ hình thành khí áp, gặp nhiệt lượng sẽ khiến cho từ trường của phòng bếp không ổn định, ảnh hưởng tới sức khỏe của cả gia đình.
Các cửa hàng phía trước mở rộng nhiều ngành nghề như lông cừu, kinh doanh nhà đất… tốc độ làm mới sản phẩm trong cửa hàng khiến cho các nhà đầu tư cũng phải hoa mắt chóng mặt, rốt cuộc thì những cửa hàng mở rộng nào đáng để tin cậy, đáng để đầu tư, điều này luôn khiến cho dân đầu tư cảm thấy hoang mang. Có một số nhà đầu tư đã áp dụng những biện pháp đơn giản, duy trì cách nghĩ “dựa vào cây to mà hưởng bóng mát”, “để người ta mang đồ đến”, cho rằng chỉ cần có thực lực, uy tin tốt bảo đảm cửa hàng sẽ có thắng lợi, đáng để đầu tư. Biện pháp này suy luận theo logic thì không sai, trong trường hợp bình thường cũng có thể làm được, nhưng không phải trường hợp nào cũng đúng.

Đầu tiên, những khu vực mở rộng thương mại trong nước hiện nay đang tồn tại những khoảng cách rất rõ ràng, rất nhiều cửa hàng được khai thác mở rộng từ những khu nhà được “chuyển nghiệp” mà thành. Họ là do bị sức cuốn của lợi nhuận cao của việc mở rộng thị trường thương mại để bước vào giai đoạn thị trường này, gọi là “trụ nhi ưu tắc thương” (ở chán rồi cũng làm thành cửa hàng), thực ra những người này rất thiếu những kinh nghiệm mở rộng thương mại và kinh nghiệm quản lý kinh doanh. Rất nhiều cửa hàng có cái tên thu hút khách hàng thực chất chỉ là những khu nhà thay đổi diện mạo thành mà thôi, thiếu đi khả năng kinh doanh phát triển dài lâu này.
Tiếp theo là những cửa hàng bán lẻ, tự doanh, phát triển đăng ký kinh doanh hoạt động như công ty. Khi đăng ký kinh doanh, hạng mục kinh doanh hoàn toàn ngẫu hứng, hoặc sao chép từ những bộ hồ sơ thành lập công ty khác trước đó do các văn phòng luật sư cung cấp. Nhưng với bản chất là kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu tính chuyên nghiệp, nên sau khi hoạt động kinh doanh mới phát hiện ra bản thân còn thiếu nhiều kinh nghiệm ở tầm hoạt động mới. Những mơ ước nông dân trở thành doanh nghiệp đã nhanh tróng tiêu tan. Nguyên nhân cơ bản của sự thất bại này là hình thức hoạt động kinh doanh như kiểu bình mới rượu cũ. Tuy tư cách pháp nhân là một doanh nghiệp nhưng bản chất hoạt động kinh doanh và điều hành quản lý vẫn là kiểu kinh doanh nhỏ lẻ, tự phát. Như vậy, chúng ta có thể thấy, việc thay đổi hình thức không phải vấn đề quan trọng quyết định sự phát triển. Việc kinh doanh phải phù hợp với loại hình kinh doanh, phù hụp với năng lực quản lý, không nên vì cái lợi nhỏ mà khiến cho vốn liếng tiêu tan.
Bạn có biết số lượng hoa tay nói lên điều gì? Mỗi người có số lượng hoa tay khác nhau, người có 1 hoa tay, người thì có 2 hoa tay, .. cũng có những người có tới 10 hoa tay. Vậy ý nghĩa của số lượng hoa tay nói lên điều gì? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn:

Ý nghĩa của hoa tay:
Dân gian ta có câu:
1 hoa nghèo
2 hoa giàu
3 hòa 4 hoa bán đậu hũ
5 hoa 6 hoa mở hiệu cầm đồ
7 hoa 8 hoa làm quan
9 hoa thanh nhàn
10 hoa thanh nhàn phúc phận
Người có 1 hoa tay thường có thời vận không tốt, thông thường phải tự thân vận động thì mới đạt được thành công
Với những người có 2 hoa tay thường là những người duyên dáng, thu hút những người khác giới, nhưng khá kén chọn, khó tìm được người ưng ý. Những người này phù hợp với nghè văn nghệ hoặc biểu diễn.
Với những người có 3 hoa thường là người chịu khó, thông minh, họ cũng là những người mẫu của gia đình, luôn hết lòng về gia đình.
Đây là nhóm người có bền ngoài khá cởi mở, thấu tình đạt lí. Họ là những người hoàn mỹ, được những người xung quanh ưa thích.
Họ là những người hiền lành, nhưng mạnh mẽ, có chí tiến thủ. Trong tình yêu, những người này thường có yêu cầu không cao đối với người yêu, không những thế họ còn có xu hướng thần tượng người yêu của mình.
Với những người có 6 hoa tay thường là người khá tình cảm và có các ý nghĩ kỳ quái. Những người này thường ở quê nhà phát triển sự nghiệp thì tốt hơn là đi xa. Tình yêu của họ khá nhẹ nhãng và yên bình.
Họ là người sống khá nội tâm, tính tình cổ quái. Thường biết phấn đấu cho mục tiêu của mình. Trong tình yêu họ thường khó chọn được người tâm đồng ý hợp với mình.
8 hoa tay là người lương thiện, vào thời trung niên thường có vận khí tốt nhất. Trong tình cảm khá đào hoa, lãng mạn. Với những người có 8 hoa tay thường cần nhiều nỗ lực mới vượt qua được những khó khăn.
Người có 9 hoa tay là người nhiệt tình, tích cực. Họ thường có khả năng trong việc giỏi ứng biến, biết các tổ chức. Trong tình yêu, họ là những người khá kiêu ngạo, tự cao.
Những người có 10 hoa tay nói lên điều gì? Thông thường họ là những người lương thiện, cố chấp. Trong cuộc sống thì vận khí những người này tốt lên từ thời trung niên và khi đến già lại càng vượng.
Cùng tìm hiểu: Nếu không có hoa tày nào thì sao?
Tìm kiếm liên quan: hoa tay nói lên điều gì, hoa tay là gì, ý nghĩa của hoa tay, số lượng hoa tay nói lên điều gì, 10 hoa tay nói lên điều gì, người có 10 hoa tay
: Hoa tay ngón áp út
Những cửa hàng ở vị trí tốt có những đặc điểm sau:
1. Ở nơi trung tâm thành phố
Khu vực này thường là khu trung tâm thương nghiệp, hoạt động buôn bán đông đúc, náo nhiệt, kinh doanh rất tốt. Địa điếm của những cửa hàng này còn được gọi là nơi “tấc đất tấc vàng”.

2. Nơi có mật độ dân cư cao
Nơi dân cư tập trung đông thì tầng lóp người tiêu dùng cũng đa dạng, thanh niên, người già, tầng lớp trung lưu, thượng lưu, dân lao động đều có cả. Dù bán loại hàng hóa nào cũng có một lượng khách tiêu dùng nhất định.
3. Giao thông thuận tiện
Giao thông thuận tiện là điều kiện đầu tiên đi mua hàng của người tiêu dùng. Nếu cửa hàng gần bến xe hoặc nơi xe cộ đi lại thuận tiện, không phải đi bộ xa thì vị trí của cửa hàng đó đáng để các doanh nghiệp suy nghĩ.
4. Khu phố bán hàng
Đối với phần lớn các doanh nghiệp, nếu có thế tập trung vào một nơi cùng bán hàng thì càng có lợi trong kinh doanh.
Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.
Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".
"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.
Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.
Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.
Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?
Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:
Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.
Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN
1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng
Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.
Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.
Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.
Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.
Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.
Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.
Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".
Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.
Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.
Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.
Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.
2- Quan sát toàn diện 12 cung
Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.
Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.
Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.
3- Các bước luận đoán mệnh bàn
Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:
3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.
Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.
3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch
Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.
Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.
3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức
Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.
Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.
3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý
Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.
Xin đưa ra một ví dụ thực tế:
- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.
3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn
Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.
Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.
Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).
Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.
Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".
Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.
Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.
3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung
Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.
Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo
- Mượn sao an cung
Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.
Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.
Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.
Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.
Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.
Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.
Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.
Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.
Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau
Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".
Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:
Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.
Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.
Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.
Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).
Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.
Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.
Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".
"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm
Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.
Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.
Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.
Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:
+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang
+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt
+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã
+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.
Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.
- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.
- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.
- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".
- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.
Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:
Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).
Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.
"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN
Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.
Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.
Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.
Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.
Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.
Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.
Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )
Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.
Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".
Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.
Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".
Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".
Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.
Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.
KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN
1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu
Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).
Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".
Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch
- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn
Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.
Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:
1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)
2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)
Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.
Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.
Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:
1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.
2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.
3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.
4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.
Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.
Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.
Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.
Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.
Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.
Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.
Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.
2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên
Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.
Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:
Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.
Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.
Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.
Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.
Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.
Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.
Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).
Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.
Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.
Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.
Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.
Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.
Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.
Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"
Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.
Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.
Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.
Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.
Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao
Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.
Mệnh bàn nguyên cục:
- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.
Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.
Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.
Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.
Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.
Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.
Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.
Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.
Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.
Ghi chú về phép định Tiểu hạn
Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.
3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt
Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.
Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.
Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.
Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.
Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.
Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".
Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.
Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.
Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.
Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.
Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.
Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt
Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.
- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát
- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.
- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.
- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.
- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.
- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.
- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban
Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con
Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.
Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:
- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)
Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.
4)- Cách luận đoán lưu nhật
Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.
Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.
Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...
Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.
Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.
Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.
Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:
- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.
Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.
Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.
Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.
Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.
Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.
Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.
Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.
Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.
Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.
Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.
Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.
5)- Cách luận đoán lưu thời
Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.
Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:
- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý
Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.
| ►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm |
![]() |
Vượng sơn vượng hướng còn gọi là đáo sơn đáo hướng, tức là vượng tinh đương lệnh của sơn bàn bay tới tọa sơn gọi là “đáo sơn”; vượng tinh đương lệnh của hướng bàn bay tới hướng gọi là “đáo hướng”. Nếu hình cục phù hợp thì “đáo sơn” phía sau phải có núi, “đáo hướng” phía trước phải có nước, đó là cách cục chủ về vượng cả đinh lẫn tài.

Tinh bàn Vượng sơn, vượng hướng vận 3 (Sơn Thìn hướng Tuất vượng tinh đương lệnh 3 tới sơn bàn, vượng tinh đương lệnh 3 tới hướng bàn)
Cách cục Vượng sơn vượng hướng phải kết hợp với địa hình lưng tựa vào núi, mặt hướng về nước mới thành cát cục vượng cả đinh lẫn tài. Phía sau có ngọn núi hùng vĩ, phía trước có dòng sông uốn khúc bao quanh, hoặc có ao hồ sông ngòi. Cục này phải chú trọng lai long, coi “nhọn”, “tròn”, “vuông” là ba cát tinh, tọa hướng của ngôi nhà không được phạm xuất quẻ, cũng không được sai thác (Ngũ hành lẫn lộn). Nếu phù hợp với cục thế thì được hưởng phúc thọ bền lâu, chủ nhà là bậc chính nhân quân tử, tài vận vượng, nhân khẩu đông đúc, phú quý song toàn, sống lâu trăm tuổi. Nếu lập hướng mà là sơn âm hoặc hướng âm, mà sao nhập trung cung lại bay ngược thì chắc chắn đó là cách cục Vượng sơn vượng hướng.

Vượng sơn vượng hướng phải gặp cách tựa núi kề sông của địa hình thực tế

Vượng sơn vượng hướng trong đô thị, phương tọa của căn nhà là công trình kiến trúc cao hơn, phương hướng là đường giao thông thấp hơn
Từ vận 2 đến vận 8 tổng cộng có 48 cục vượng sơn vượng hướng, vận 1 và vận 9 không có cục này. Trong đó vận 2, 3, 4, 6, 7, 8 nỗi vận có 6 cục (tổng cộng là 36), vận 5 có 12 cục, tất là quy lại là 48 cách cục qua các vận trên:
| Vận |
Tên sơn hướng |
Vận |
Tên sơn hướng |
Vận |
Tên sơn hướng |
Vận |
Tên sơn hướng |
|
2, 8 |
Sơn Càn hướng Tốn |
3, 7 |
Sơn Mão hướng Dậu |
4, 6 |
Sơn Cấn hướng Khôn |
5 |
Sơn Tý hướng Ngọ Sơn Ngọ hướng Tý |
| Sơn Tốn hướng Càn |
Sơn Dậu hướng Mão |
Sơn Khôn hướng Cấn |
Sơn Mão hướng Dậu Sơn Dậu hướng Mão |
||||
| Sơn Tị hướng Hợi |
Sơn Ất hướng Tân |
Sơn Dần hướng Thân |
Sơn Ất hướng Tân Sơn Tân hướng Ất |
||||
| Sơn Hợi hướng Tị |
Sơn Tân hướng Ất |
Sơn Thân hướng Dần |
Sơn Đinh hướng Quý Sơn Quý hướng Đinh |
||||
| Sơn Sửu hướng Mùi |
Sơn Thìn hướng Tuất |
Sơn Giáp hướng Canh |
Sơn Thìn hướng Tuất Sơn Tuất hướng Thìn |
||||
| Sơn Mùi hướng Sửu |
Sơn Tuất hướng Thìn |
Sơn Canh hướng Giáp |
Sơn Sửu hướng Mùi Sơn Mùi hướng Sửu |
Theo Thẩm thị Huyền Không học

Tuổi Giáp Tý đại kỵ kết hôn:
Trai tuổi Giáp Tý đại kỵ cưới gái những tuổi kể dưới đây.
Trai tuổi này kỵ cưới vợ năm 15, 19, 21, 27, 31, 33, 39 tuổi.
Gái tuổi này kỵ có chồng năm 16, 17, 22, 23, 28, 29, 34 tuổi.
Những năm tuổi trên đây kỵ hiệp hôn, luận việc hôn nhân không thành, còn có đôi bạn rồi mà gặp những năm nói trên thì hay sanh việc buồn và xung khắc hoặc chịu cảnh xa vắng.
Tuổi này trai hay gái sanh nhằm tháng 1 tháng 7 trong đời sanh hay xảy việc buồn phiền bất đồng ý, đến ngày hót khó nên đôi.
TuổI này trai hay gái khi có đôi bạn số định gặp ngườI bạn ở hứơng Mẹo mới nhằm căn duyên.
XIN LƯU Ý
Trai tuổi Giáp Tý sanh tháng 1, 12, 5, 9, 11, 6 và tháng 10, như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Thê hoặc đa đoan về việc vợ.
Gái tuổi Giáp Tý sanh tháng 1, 10, 2 và tháng 11, như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Phu hoặc trái cảnh về việc chồng.
Còn sanh nhằm tháng 3 và tháng 12 số khắc con, khó sanh và khó nuôi.
TuổI: GIÁP TÝ
(Hiệp Hôn Tốt và Ở Đặng)
ĐOÁN PHỤ THÊM
Ta có thể quan sát bảng sau:
CÁC SAO TRÊN 12 CUNG HOÀNG ÐẠO
Cách đặt tên của vòng Zodiac và của âm lịch theo mười hai con giáp không liên quan gì đến nhau. Sự so sánh này để cung cấp cho các bạn cách nhìn tổng quan của quan niệm thiên văn Ðông Tây và cách gọi của Việt Nam để cho dễ gọi khi chiêm nghiệm bầu trời sao.
Các sao trong vòng Zodiac dùng để chỉ 12 cung Hoàng Ðạo chứ không phải để gọi tên tháng. Tạp chí Horoscope (chiêm tinh học) của Pháp xuất bản hàng tháng đều thấy sự tương ứng của tháng hiện tại với 12 cung Hoàng Ðạo này để đưa ra lời dự đoán và lời khuyên cần thiết. Cách gọi 12 cung Hoàng Ðạo được gọi theo danh từ của Pháp nhưng nghĩa của chúng thì không đổi. Ðó là Bélier, Taureau, Gémaeux, Cancer, Lion, Vieges, Balance, Scorpion, Sagitaire, Capicornes, Versau vàPoissons.
Cách gọi tên hàng tháng có nguồn gốc từ lịch sử Roma.
Ban đầu, lịch này quy định một năm có 10 tháng, thứ tự như sau:
1. Martius : Vũ thần
2. Aprilius : nảy mầm
3. Maius: phồn vinh
4. Junius : mẫu thuần
5. Quintilis :
6. Sextilis :
7. September :
8. October:
9. November :
10. December :
Về sau người ta thêm vào hai tháng nữa là:

Hai tháng này được thêm vào đầu năm, thành 2 + 10, từ đó Martius thành tháng 3.
Cách mạng Pháp 1789 cũng đưa ra lịch Cộng Hoà của mình vào ngày 22/9/1973. Nguyên tắc xác định tên tháng của lịch này dựa trên đặc điểm thời tiết hay mùa màng:

Như vậy, ở đây không có con vật nào được dùng để đặt tên cho tháng. Cách đặt tên tháng theo nông lịch như trên cũng đã có trong thời cổ Trung Quốc. Ðã có một thời kỳ dài người Trung Quốc gọi tên tháng bằng tên các loài cây, loài hoa thường gặp trong tháng trong mùa đó:
Tháng giêng là nguyên nguyệt
Tháng hai là hạnh nguyệt
Tháng ba là đào nguyệt
Tháng tư là hoè nguyệt
Tháng năm là lưu nguyệt
Tháng sáu là hà (sen) nguyệt
Tháng bảy là đồng nguyệt
Tháng tám là quế nguyệt
Tháng chín là cúc nguyệt
Tháng mười là mai nguyệt
Tháng mười một là giá (lau) nguyệt
Tháng mười hai là lạp (tế lễ) nguyệt
Như vậy sự lên ngôi của các con vật để trở thành mười hai con giáp chẳng phải dễ dàng. Người Phương Tây vẫn giữ nguyên vòng Hoàng Ðạo Zodiac và bảo tồn tên gọi của các tháng mà họ đã kế thừa từ người La Mã.
Lược trích từ sách "12 con giáp"
Văn Khấn Lễ Thánh Sư thường dùng để cúng Thánh Sư còn gọi là Tiên sư hay Nghệ Sư. Tức là ông tổ một nghề nào đó, người đã khai phá ra nghề đó và truyền lại cho các thế hệ sau.
Mỗi nghề ở làng quê Việt nam đều có một vị Thánh Sư. Họ chỉ là con người bình thường nhưng được nhân dân tôn thờ vì họ đã tao ra nghề và truyền dạy cho dân chúng. Những người cùng một nghê hay cùng buôn bán một thứ hợp nhau lại thành một phường hội, lập miếu thờ Thánh Sư.
Người Việt rất quý trọng Thánh Sư nên ngòai việc thờ Thánh Sư tại miếu chung của phường, các gia đình trong phường cũng lập bàn thờ Thánh Sư tại gia đình mình.
Trong những ngày Sóc Vọng, lễ, Tết, khi cúng Gia tiên, gia chủ cũng đồng thời cúng Thánh Sư, với đồ lễ tương tự như cúng Thổ Công.
Nhưng ngày cúng Thánh Sư quan trọng nhất trong năm là ngày Kỵ Nhật của Thánh Sư. Ngày đó được cúng giỗ chung lại miếu phường và các gia đìnhphường viên cũng tổ chức cúng riêng tại nhà để tỏ lòng tưởng nhớ ông tổ nghề của mình.
Những người hành nghề, mỗi khi gặp khó khăn đều làm lễ cúng Thánh Sư để được phù hộ gặp may mắn.
– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ thần quân.
– Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quan trong xứ này.Tín chủ con là …………………………………………………………………………………………..
Ngụ tại…………………………………………………………………………………
Hôm nay là ngày… tháng…..năm………………………………………………Tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương dâng lên trước án, thành tâm kính mời: Đức Hoàng thiên hậu Thổ Chư vị Tôn Thần, ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ Địa, ngài Bản gia Táo Quân cùng Chư vị Tôn thần.
Con kính mời ngài Thánh sư nghề……………………………………………..
Cúi xin Chư vị Tôn thần Thánh sư nghề……………………………………… thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù Trì tín chủ chúng con toàn gia an lạc, công việc hanh thông. Người vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Danh ngôn về công việc hay nhất. Tổng hợp những danh ngôn công việc nổi tiếng, câu nói hay bất hủ và ý nghĩa giúp bạn thành công trong công việc hơn.
– Khi bạn muốn bỏ cuộc, hãy nhớ lại lý do khiến bạn bắt đầu.
– Không làm được không phải vì bản thân không có khả năng, mà vì bản thân chưa đủ cố gắng.
– Đừng quan trọng thái quá mọi việc ở đời này. Một khi ta nghĩ nó vô thường như cánh mây.
– Con chó được yêu quí không vì tiếng sủa hay. Đánh giá người phải nhớ qua công việc hàng ngày.
– Hãy khắc mục đích vào bê tông và viết kế hoạch lên trên cát
– Tôi rất biết ơn tất cả những người đã nói KHÔNG với tôi. Nhờ vậy mà tôi biết cách tự mình giải quyết sự việc
Thà không chung thủy còn hơn chung thủy mà không muốn thế.
Không chịu suy xét là người mù quáng, không thể suy xét là người ngu xuẩn và không dám suy xét là nô lệ.
Không có lao động, mọi cuộc sống đều trở nên mục ruỗng. Nhưng khi lao động không hồn, cuộc sống ngột ngạt và chết.
Sự mệt mỏi thường không xuất phát từ công việc, mà từ lo lắng, thất vọng và oán trách.
Làm điều bạn là tự do. điều bạn làm là hạnh phúc.
Doing what you like is freedom. Liking what you do is happiness.
Frank Tyger
Tôi tìm thấy lạc thú lớn nhất, và cũng như phần thưởng, nằm trong công việc vượt qua điều mà thế giới gọi là thành công.
I find my greatest pleasure, and so my reward, in the work that precedes what the world calls success.
Thomas Edison
Con người sẽ nhẹ nhõm và vui vẻ khi dồn tâm sức vào công việc và nỗ lực hết mình; nhưng điều anh ta đã nói hay đã làm sẽ không cho anh ta sự yên bình.
A man is relieved and gay when he has put his heart into his work and done his best; but what he has said or done otherwise shall give him no peace.
Ralph Waldo Emerson
Công việc sẽ chiếm một phần lớn trong cuộc đời bạn, và cách duy nhất để có thể thực sự thỏa mãn là làm điều bạn tin là đáng giá. Và cách duy nhất để làm điều đáng giá là yêu điều mình làm. Nếu bạn chưa tìm thấy nó, hãy tiếp tục tìm kiếm. Đừng thỏa hiệp. Cũng giống như tất cả mọi điều thuộc về con tim, bạn sẽ biết khi nào bạn tìm thấy nó. Và, cũng giống như những mối quan hệ tuyệt vời, nó chỉ trở nên tốt hơn cùng với thời gian. Vì vậy hãy tiếp tục tìm kiếm cho tới khi tìm thấy nó. Đừng thỏa hiệp.
Your work is going to fill a large part of your life, and the only way to be truly satisfied is to do what you believe is great work. And the only way to do great work is to love what you do. If you haven’t found it yet, keep looking. Don’t settle. As with all matters of the heart, you’ll know when you find it. And, like any great relationship, it just gets better and better as the years roll on. So keep looking until you find it. Don’t settle.
Steve Jobs
Cũng giống như có ăn thì mới ngon miệng, công việc đem lại cảm hứng, nếu cảm hứng không cảm nhận được ngay từ đầu.
Just as appetite comes from eating, so work brings inspiration, if inspiration is not discernible at the beginning.
Igor Stravinsky
Người phụ nữ có thể tự tạo công việc cho mình là người phụ nữ sẽ có được danh vọng và vận mệnh.
The woman who can create her own job is the woman who will win fame and fortune.
Amelia Earhart
Để chữa trị căn bệnh lo lắng, công việc tốt hơn rượu whiskey.
As a cure for worrying, work is better than whiskey.
Ralph Waldo Emerson
Khi bạn yêu công việc của mình, ngày nào cũng là ngày lễ.
When you like your work every day is a holiday.
Frank Tyger
Có điều gì đáng buồn hơn công việc không được hoàn thành không? Có chứ, công việc chưa bao giờ được bắt đầu.
Can anything be sadder than work left unfinished? Yes, work never begun.
Christina Rossetti
Ngũ khí - Thuật ngữ trong phong thủy, ngũ khí trong phong thủy có ý nghĩa như thế nào?
Ngũ Khí là chỉ khí của ngũ hành, cũng là một cách nói khác của sinh khí, là thuật ngữ thường dùng của các nhà phong thủy thường dùng. Đó là một loại khí lưu chuyển trên mặt đất mang tính chất của lực lượng thần kỳ mà con người không thể nhìn thấy và mô phỏng được.
Các nhà phong thủy cho rằng, Ngũ Khí có thể điều hòa âm dương, sinh ra vạn vật. Xây dựng nhà cửa mà đucợ Ngũ Khí tất được bình an và phúc lộc, mộ phần được nó tất con cháu thịnh vượng an khang.
Cái gốc của thuật phong thủy mục đích cuối cùng là dạy cho chúng ta cách phân biệt và vận dụng Ngũ khí. Trong sách Táng Thư của Quách Phác có ghi rằng: "Chôn cất là nhuận sinh khí, ngũ khí lưu chuyển trên mặt đất, sinh ra vạn vật. Con người nhận hình thể từ cha mẹ, thể cốt được khí, di thể vong linh để lại phúc âm cho con cháu về sau"
Vì yêu thương nên đợi chờ, vì đợi chờ là rất yêu thương nên 4 chòm sao chung tình dưới đây dù trải qua thời gian dài hay gặp nhiều cách trở vẫn không thôi nhung nhớ và hi vọng vào tình cảm đích thực.
| |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu sâu sắc, cảm động nhất |
12 con giáp ăn gì để vừa khỏe mạnh vừa may mắn trong tháng 4
Theo tướng số lý giải một người đáng tin cậy có tướng mạo như thế nào? Có câu ‘tướng do tâm sinh’, bạn có thể nhìn vào ánh mắt, sống mũi, lông mày… của một người để đoán độ tin cậy của người đó. Để củ thể hơn chúng ta cùng đi tìm hiểu về tướng mạo của người đáng tin cậy hay nói ngắn gọn hơn là tướng mạo một người tốt như thế nào nhé!
Nội dung
Hình dạng mắt mỗi người có thể đẹp xấu khác nhau, nhưng ánh mắt mới là quan trọng. Ánh mắt trốn tránh, không dám nhìn thẳng vào mắt người đối diện chẳng những không tạo cảm giác tin tưởng mà ngược lại, còn khiến người ta nảy sinh ngờ vực. Người có ánh mắt láo liên, xoay chuyển vòng vòng cho thấy họ đang bày mưu tính kế hay nghĩ ra chủ ý gì kỳ quái, cách tốt nhất là hãy tránh xa.
Tâm thiện thì mắt cũng thiện. Nhìn vào một đôi mắt ôn hòa, kiên định, ai cũng sẽ cảm thấy thoải mái, yên tâm kết giao.
Mũi to hay nhỏ, xấu hay đẹp không quan trọng, chỉ cần sống mũi hài hòa với các bộ vị xung quanh thì hầu hết là người trung hậu, trong lòng không có suy nghĩ ác độc. Ở bên những người này bạn sẽ không phải lo lắng bị lừa gạt, hãm hại. Dù họ có tức giận, cãi nhau với bạn thì vẫn chính trực, sáng suốt, cãi xong thì thôi chứ không ghi hận trong lòng rồi bí mật trả thù.

Người có lông mày thưa thớt hay rậm rạp thường không coi trọng tình cảm, khiến người khác không thể hoàn toàn yên tâm kết giao. Nếu lông mày không quá thưa cũng không quá rậm, hài hòa với các bộ phận khác trên khuôn mặt, đây là người có thể làm chủ cảm xúc, đối xử chu đáo, có qua có lại, không phụ lòng tin của người khác với mình.
Người có hàm dưới và cằm quá nhọn thường gây cảm giác không dễ nói chuyện. Cằm quá vuông lại thuộc dạng hơi máy móc, không biết cách lý giải, khoan dung người khác. Người có đường nét hàm dưới và cằm hơi tròn đầy, nhu hòa thì dễ tạo cảm giác thân thiết, biết đối xử tốt với mọi người và sẵn lòng giúp đỡ người khác. Ở bên những người như vậy, bạn sẽ thấy thật thoải mái, nhẹ nhõm.
Xem thêm:
Sau đó các tình nguyện viên làm một bài kiểm tra khả năng hiểu suy nghĩ của người khác, một kỹ năng quan trọng trong đời sống xã hội của con người. Kết quả cho thấy những người sở hữu não lớn có nhiều bạn hơn những người sở hữu não nhỏ, đồng thời khả năng duy trì các mối quan hệ của họ cũng tốt hơn. "Chúng tôi kết luận những cá nhân có nhiều bạn bè thực hiện các hoạt động thần kinh tốt hơn so với những người có ít bạn. Ngoài ra thể tích của vùng vỏ trán-ổ mắt của họ cũng lớn hơn", giáo sư Robin Dunbar, trưởng nhóm nghiên cứu, phát biểu. Vùng vỏ não trán-ổ mắt nằm ở phía trước hộp sọ và phía trên đôi mắt. Con người sử dụng vùng vỏ não này để tư duy bậc cao. "Hiểu biết về mối quan hệ giữa kích thước não của con người và số lượng bạn bè sẽ giúp chúng ta tìm ra những cơ chế khiến con người sở hữu hộp sọ lớn hơn các loài động vật linh trưởng khác", Dunbar giải thích. Nhóm nghiên cứu cho biết, kích thước của những vùng não phía trước hộp sọ người đã tăng mạnh trong nửa triệu năm qua. Dunbar nói thời gian dành cho các mối quan hệ xã hội, tính cách, giới tính, nơi sinh sống là những yếu tố tác động tới số lượng bạn bè của mỗi người. Tuy nhiên, các kỹ năng thần kinh cũng đóng vai trò quan trọng đối với khả năng duy trì các mối quan hệ xã hội. "Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng khả năng hiểu suy nghĩ của đồng loại sẽ giúp con người duy trì được nhiều mối quan hệ bạn bè", giáo sư nói.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Bắt đầu từ hình dáng và đặc tính:
Hình dáng của hành Kim trong ngũ hành là tròn, phương vị là phía Tây và biểu trưng thời tiết là mùa thu. Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ. Ngược lại, Kim khắc chế Mộc và bị Hỏa khắc. Với những đặc trưng gần như tương phản với hành Mộc, hành Kim cần vận dụng trong nhà ở sao cho hài hòa, phát huy hiệu quả.

Những đặc tính thuộc về kim loại như sự chuyển động, cứng rắn, phản chiếu ánh sáng…Đặc trưng của hành Kim, cũng như các hành khác trong ngũ hành được nhận biết không chỉ qua vật liệu mà còn qua hình dáng, màu sắc, khối tích…
Do đó, trong từng không gian cụ thể, cần xem xét, cân đối liều lượng của mỗi hành. Hành nào cần nhấn mạnh để nổi bật, các hành kia bổ trợ hoặc kiềm hãm bớt để tạo sự cân bằng chung.
Ví dụ, phòng ngủ nên kết hợp hài hoà giữa Mộc và Kim, cụ thể là không nên dùng vật dụng bằng kim loại sẽ gây cảm giác lạnh lẽo, khó ngủ. Nhiều gỗ quá lại gây cảm giác nặng và bí nên vẫn cần một chút hành Kim như dùng mảng sơn màu trắng khung tranh bằng đồng….
Cho đến vận dụng trong nhà ở
Những vật dụng mang tính Kim rất phổ biến trong nhà ở hiện đại không chỉ dừng lại ở những đồ vật sinh hoạt thiết yếu như ti vi, tủ lạnh, máy tính….mà còn thể hiện ở chất liệu xây dựng như kính, sắt, thép, inox…

Trong không gian nhà ở, nhà xe và chỗ làm việc có tính chất trường khí nghiêng về hành Kim nhiều nhất (máy móc, tính phân tích…). Do đó, không nên bố trí chỗ làm việc ngay phòng ngủ mà nên ngăn cách, tạo không gian riêng biệt.
Đặc tính chắc chắn, nhẹ, dễ chế tác và tạo hình khiến hành Kim ngày càng được ưa chuộng, trong nhà ở hiện đại Kim vốn càng góp mặt nhiều hơn, thiết thực hơn đối với sinh hoạt gia đình. Kim và Mộc là hai hành khắc nhau nhưng lại được sử dụng song song, xen kẽ lẫn nhau thường thấy ở đồ nội thất như tủ gỗ kết hợp kính, inox, cầu thang gỗ lan can bằng kính.
Một xu hướng ưa dùng là “ruột kim vỏ mộc”, tức là dùng kết cấu kim loại nhưng được sơn phủ bên ngoài bề mặt mang tính chất gỗ, tạo vân gỗ để đáp ứng tâm lý người sử dụng. Điều này cũng thể hiện sự phối hợp các loại vật liệu một cách hài hoà trong làm nhà, không ưu ái quá mức một loại vật liệu nào (không thiên lệch trong ngũ hành) và phù hợp theo tâm lý người sử dụng.
(Theo dothi)
"Trăm hay không bằng tay quen”, đây là câu thành ngữ mà chúng ta vẫn thường nói để nhắc nhở nhau rằng mọi kỹ năng đến từ việc thực hành luyện tập chăm chỉ.
Chuyện kể rằng, có một cung thủ kỳ tài tên là Trần Nghiêu Tư. Ông không bao giờ bắn trượt bất cứ mục tiêu nào, học trò của ông đã gọi ông với biệt danh “cung thủ thần tài”. Trần Nghiêu Tư vô cùng tự hào về khả năng của mình, và tin rằng ông chính là người bắn cung điệu nghệ nhất trên đời.
Một ngày, trong khi đang bắn tên, Trần Nghiêu Tư thu hút đám đông chú ý và bắt đầu tung hô tài năng của mình. Trong đám đông ấy có một ông lão bán dầu, ông ta chỉ lắc đầu và không lộ vẻ ấn tượng gì.

Ngạc nhiên trước thái độ của ông lão, Trần hỏi: “Ông có thể làm được không?”
Ông lão trả lời: “Không”!
Trần lại hỏi: “Ông nghĩ sao về tài bắn cung của tôi?”
Ông lão đáp lại: “Cũng được đấy, nhưng không có gì đặc biệt cả; tất cả chỉ cần luyện tập là có thể làm được”.
Điều này khiến Trần không vui. Một trong những học trò của Trần nói với ông lão bán dầu: “Không ai có thể sánh với tài năng bắn cung của thầy tôi. Sao ông dám hạ thấp thầy tôi chứ?”
Đám đông ai nấy đều sửng sốt. Ông lão bán dầu quay sang Trần và nói: “Điều đó cũng chẳng là gì cả. Tôi có thể làm được việc này nếu tôi đã luyện tập nó rất nhiều. Mọi kỹ năng đều đến từ việc luyện tập mà thôi”.
Không nói lời nào, ông lão lấy ra một cái bình, để nó trên mặt đất, và đặt một đồng xu có lỗ vuông ở giữa lên trên miệng bình. Rồi ông rót dầu từ chiếc gáo gỗ vào bình mà không để rớt một giọt dầu nào lên đồng xu ấy.
Nói xong, ông lão quay đi, để lại đám đông lặng nhìn nhau.
Lời nhận xét của ông lão bán dầu đã khiến Trần vô cùng hổ thẹn về hành vi ngạo mạn của mình trước đó. Kể từ đó, Trần trở nên khiêm tốn, hòa nhã và luyện tập bắn cung chăm chỉ hơn trước. Chẳng bao lâu sau, Trần trở nên nổi tiếng không chỉ về tài bắn cung điêu luyện, mà còn về nhân cách của mình.
Về sau, người ta sử dụng thành ngữ “Thục năng sinh xảo” (Trăm hay không bằng tay quen) để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hành và luyện tập.
Theo Vietdaikynguyen
Bàn chân của mỗi người từ khi sinh ra đã có những dặc điểm khác nhau. Theo tướng số, những người sở hữu bàn chân như sau sẽ có con đường tài vận cực tốt. Hãy cùng xem bàn chân của bạn có đặc điểm như vậy không nhé!
1: Ngón chân thô và ngắn
Nhìn thì có vẻ bàn chân này không đẹp nhưng người có bàn chân này tài vận cực tốt nhé. Bạn là người chú trọng đến chất lượng cuộc sống, biết hưởng thụ, theo đuổi giàu sang, tiền tài không thiếu. Bàn chân này tuy không đẹp nhưng nó mang lại vận khí cực tốt. Vì vậy những ai có bàn chân thô thì đừng vì thế mà tự ti nhé !
2: Lòng bàn chân có vân xoáy hình tròn.
Bạn sẽ đễ đạt được thành tựu to lớn, danh tiếng và tiền bạc của bạn sẽ luôn song hành với nhau. Đây có thể nói là bàn chân của người có khả năng thăng quan tiến chức. Bàn chân này rất hiếm, những người có bàn chân này thực sự rất giỏi, vì thế họ đạt được những thành tựu và tiền bạc dồi dào là điều đương nhiên
3: Lòng bàn chân lõm sâu.
Bàn chân lõm sâu không phải là do vận động nhiều đâu nhé, bàn chân này là từ khi sinh ra đã có hình dáng như vậy. Người có bàn chân này có gia thế rất giàu sang, vì thế chuyện vận khí, tiền tài đến với những người có bàn chân này là chuyện rất bình thường bởi ngay từ khi sinh ra vận khí của họ đã tốt rồi.
4: Ngón chân dài và có lực.
Người có bàn chân này có ý chí phấn đấu rất cao. Bạn có thể gây dựng được sự nghiệp thành công từ hai bàn tay trắng bởi vì bạn có tinh thần mạnh mẽ và năng lực cống hiến. Bàn chân này là bàn chân của sư thành công trong bất kì lĩnh vực nào, người có bàn chân này có khả năng phấn đâu rất cao và họ sẽ đạt được những điều mà họ lập kế hoạch ra.
5: Lòng bàn chân có nốt ruồi đen
Nốt ruồi ở bàn chân mang lại may mắn về nhiều thư. Bạn là tướng có phúc, trong cuộc sống sẽ gặp rất nhiều vận may về tiền bạc. sau này bạn sẽ không phải lo về vấn đề “ cơm ăn áo mặc”.
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Tính cách bốc đồng nóng nảy luôn là nguyên nhân gây hậu quả trong đời sống vận mệnh, trong tình cảm vợ chồng rất dể gây ra diễn cảnh ly hôn, ngoài xã hội tính cách bốc đồng rất dể gây nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.
Tính cách này thường biểu lộ trong khoa Tử vi như sau:
Cục số, bản mệnh:
Trong ngũ hành thường hành hỏa thể hiện tính nóng nảy, các hành khác không mấy gì thể hiện tính cách nóng nảy.
Vì vậy bản mệnh làm căn gốc, cục số là dụng, mối tương quan giữa cục số và bản mệnh phần nào đó thể hiện sơ qua tính cách này.
Các loại bản mệnh được nạp âm thì Tích Lịch Hỏa đại diện cho tính cách nóng nảy nhiều nhất, các loại bản mệnh hành hỏa khác chỉ nói lên cá tính nóng nảy nhưng mức độ và hình thức thì sự nóng nảy không bằng.
Trong khoan lá số tử vi, bản mệnh là thể (gốc) cục số là dụng (ngọn). Cục số biểu diễn sự vận động của bản mệnh, vì vậy khi bản mệnh hỏa có mối tương hòa với cục số cho thấy đời sống vận mệnh tương đối thuận lợi, do đó tính cách tuy có nóng nảy nhưng có mức độ chừng mực không dẫn đến bốc đồng thiếu suy nghĩ.
Ngược lại mối tương quan giữa cục số với bản mệnh hỏa không tương hòa, gây bất lợi cho bản mệnh hỏa, cho thấy đời sống xã hội không tương thuận với bản mệnh, từ đó là động cơ gây nên tính cách nóng nảy, bốc đồng hành sự thiếu suy nghĩ.
Khi phân tích tính cách nóng nảy, ta cần xem xét thêm chi tiết chính diệu và phụ diệu để rỏ hơn từng tình trạng tính cách này.
Chính diệu:
Trong 14 chính diệu, độc lập có hai sao mang ngũ hành hỏa đặc trưng cho cá tính nóng nảy: Liêm Trinh và Thái Dương.
Liêm Trinh: là tinh diệu chủ tù tinh và đào hoa tinh. Khi bị lạc hãm tính cách của Liêm Trinh rất dể trở nên khó khăn, nóng nảy. Mức độ khi Liêm Trinh lạc hãm, hội đủ các lục sát tinh tính cách của Liêm Trinh càng trở nên cố chấp, mù quáng, bốc đồng nóng nảy, với cá tính này khó tránh những việc làm vi phạm hình pháp.
Trong lá số khi Liêm Trinh không thủ cung mệnh, nhưng thiết nghĩ củng nên lưu ý tam phương tứ chính hội chiếu về mệnh cung, vì Liêm Trinh thường trong bộ tinh diệu: Sát, Phá, Liêm, Tham chủ võ tinh. Tính cách của võ tinh thường thiên về hành động, hơn là tư duy
Thái Dương: là tinh diệu chủ quí tinh. Khi bị lạc hãm tính cách của Thái Dương không còn quang minh sáng tỏ, hành sự thường mù quáng, nóng nảy.
Khi mệnh cung Thái Dương không tọa thủ, cầm xem xét tam phương tứ chính Thái Dương có hội chiếu về mệnh cung hay không. Khi Thái Dương hội chiếu về cung mệnh ta cần phải cân nhắc cung mệnh là tinh diệu gì, nếu là Cự Môn (ám tinh) thì tính cách nóng nảy một cách ngang tàng.
Phụ diệu:
Lục sát tinh là bộ tinh diệu đặc trưng tính chất nguy hiểm của tính cách bất ổn không bình thường. Trong đó các tinh diệu mang hành hỏa đặc trưng cho tính cách nóng nảy: Địa không; Địa kiếp; Hỏa tinh; Linh tinh.
Địa không, Địa kiếp:
Khi hội chiếu hoặc đồng tọa thủ mệnh cung với hai chính diệu nêu trên, tính cách của Không Kiếp càng trở nên quái dị, tư tưởng không hòa hợp với xã hội, bản thân Không Kiếp mang hành hỏa nên tình trạng nóng nảy bộc phát càng nguy hiểm hơn cho mọi người xung quanh.
Hỏa tinh, Linh tinh:
Khi hội chiếu hoặc đồng cung mệnh với chính diệu nêu trên, tính cách của Hỏa Linh biến thể là sự quấy quá, gây loạn, tâm tưởng không dừng lại ở mức ổn định. Hỏa Linh mang hành hỏa vì vậy tính nóng nảy rất dể gây loạn, không phân định đâu là ranh giới đạo đức.
Thiên không:
Thiên không chủ ám bại tinh, khi hội chiếu hoặc đồng cung mệnh với nhiều tinh diệu mang hành hỏa, tính cách của Thiên không càng trở nên nóng nảy một cách dữ dội, hậu quả sau khi nóng nảy thường là bại sự, không thành tựu được việc gì.
Thái tuế, Tuế phá, Thiên hình, Quan phù, Quan phủ:
Những tinh diệu này khi hội chiếu hoặc đồng tọa thủ mệnh cung với hai chính diệu vừa nêu trên, từ tính cách nóng nảy rất dễ dẫn hiềm khích, thù oán, tranh chấp, và có thể dẫn đến tù tội.
Đại tiểu hao, Điếu khách, Lực sỉ, Phá toái, Thái tuế:
Các tinh diệu này thường thể nóng nảy do lòng tự trọng, trong kinh doanh rất có máu muốn chóng có kết quả thành đạt, đầu cơ thường liều lĩnh.
Tóm lại:
Khảo sát tính cách nóng nảy, mức độ hình thức nóng nảy như thế nào, nóng nảy trong việc gì và diễn biến sau khi nóng nảy là hậu quả gì, trước ta cần khảo sát bản mệnh và cục số.
Sau đó ta khảo sát vòng tam hợp tuổi, và tam hợp cung mệnh có mối tương quan như thế nào.
Trong những điều kiện khảo sát trên, lá số càng hội nhiều tinh diệu mang hành hỏa và có số lượng ít tinh diệu mang hành thủy tương khắc, tính cách nóng nảy bốc đồng càng mạnh hơn và càng rỏ rệt hơn.
Bản Mệnh hỏa, Cục hỏa đều là bừng chứng của sự nóng nảy. Nếu Bản Mệnh hỏa gặp Cục mộc thì tính nóng nhiều hơn. Có thể chia các sao hỏa chỉ sự nóng nảy làm hai hạng, dựa trên tính chất hung hay cát của sao:
Hạng nặng:
- Địa Không - Phục Binh - Quan Phù
- Địa Kiếp- Phi Liêm- Quan Phủ
- Hỏa Tinh - Đại Hao - Thái Tuế
- Linh Tinh - Tiểu Hao - Tử Phù
- Thiên Không - Lực sỹ - Điếu khách
- Kiếp Sát - Phá toái - Bệnh
- Thiên Hình - Tuế Phá
Hạng vừa:
- Thái Dương - Thiên Quan - Nguyệt Đức
- Liêm Trinh - Thiên Phúc - Đẩu Quân
- Thiên Khôi - Thiên Đức - Văn Tinh
- Thiên Việt - Thiếu Dương
- Thiên Mã - Hỷ Thần
Các sao hạng vừa là những quý tinh, văn tinh, phúc tinh vì là sao tốt nên hình thái nóng nảy tương đối nhẹ hơn hung sát hao bại tinh.
Tuy nhiên, không phải chỉ có sao hỏa mới nóng nảy. Có nhiều sao thuộc 4 hành khác cũng đồng nghĩa. Chẳng hạn như Tướng Quân (Mộc), Thất Sát, Trực Phù, Kình Dương, Đà La (Kim), Thiên Tướng, Tham Lang, Phá Quân, Hóa Quyền, Thiên Sứ (Thủy), Thiên Thương, Thiên La, Địa Võng, Tuyệt (Thổ).
1- Khi coi hạn năm, người dự đoán trước tiên là căn cứ vào Đại vận đang hành của đương số (kể cả theo phương pháp Tử Bình hoặc Tử Vi). Nếu Đại vận đang hành tốt đẹp mà gặp được Tiểu hạn (năm coi hạn) cùng tốt đẹp thì năm đó nhiều tốt đẹp thuận lợi may mắn. Nếu Đại vận mờ ám xấu xa thì cho dù cung Tiểu hạn có tốt đẹp cũng bị triết giảm nhiều may mắn thuận lợi. Trường hợp cả Đại-Tiểu vận đều mờ ám xấu xa thì năm đó rất dễ phát sinh nhiều sự cố xấu. Cũng phải kết hợp Sao lưu động chiếu của năm Tiểu hạn để biết mức độ ảnh hưởng tốt-xấu của năm coi hạn.
2- Căn cứ vào đặc tính Ngũ Hành của các Sao tọa thủ, để biết nó ảnh hưởng mạnh trong mùa nào, ví dụ tháng 1-2 thuộc Hành MỘC, vậy xem có những Sao nào thuộc Hành MỘC (tọa thủ trong cung Tiểu hạn, cung xung chiếu và 2 cung trong Tam hợp với cung Tiểu hạn), đương nhiên là nếu những Sao thuộc Hành MỘC này sáng sủa thì sẽ có nhiều sự phù trợ tốt theo đặc tính của nó, và nếu nó bị mờ ám thì cũng tác họa mạnh theo đặc tính của nó chủ yếu là vào mùa Xuân (các tháng 3-6-9-12 thuộc Hành Thổ).
3- Sách có cấu “Nhất mộ, nhì phòng, tam Tứ trụ” có nghĩa là Đại-Tiểu hạn do Tứ trụ mà có, (nếu coi theo phương pháp Tử Bình) hoặc cung nhập Đại hạn-tiểu hạn theo Tử Vi (lá số) chỉ đứng hàng thứ 3 (thứ yếu). Nhất mộ là căn cứ theo cung Phúc Đức, nếu sáng đẹp là mồ mả Tổ Tiên tốt đẹp, đương số được hưởng Phúc, mọi hung họa chỉ thoáng qua vì cung Phúc sáng có uy lực hóa giải hung họa rất mạnh, cho dù rơi vào Đại-Tiểu vận xấu cũng không đáng ngại. Nhì phòng có nghĩa là Phong Thủy nhà ở nếu được tốt đẹp thì cũng có sự hỗ trợ tốt đẹp tương tự như cung Phúc sáng đẹp. Nếu Phong Thủy nhà ở bị phạm nhiều sát kỵ thì khi rơi vào Đại-tiểu vận xấu thì “dậu đổ bìm leo” khó tránh khỏi tai họa.
4- Ảnh hưởng nhân-quả của “Hậu Thiên” tức là những tiêu chí tàng chứa trong Tứ trụ hoặc lá số là những tiêu chí thuộc “Tiên Thiên” do Trời định, nhưng qua thời gian hành vận đương số đã làm nhiều việc có sự ảnh hưởng căn bản đến các tiêu chí Tiên Thiên. Nếu làm nhiều điều thiện thì các tiêu chí xung xấu được giảm đi nhiều, tất nhiên là nếu làm nhiều điều xấu thì những tiêu chí hung họa cũng tăng theo tỉ lệ thuận. Cho nên khi coi hạn năm cho những người càng lớn tuổi thì các tiêu chí thông tin ở các cung Tiểu hạn không có độ chuẩn xác cao so với thực tế vì đã có sự can thiệp của Hậu Thiên tác động làm cho các tiêu chí Tiên Thiên sai lệch đi, ví dụ như thấy 2 cung Đại-Tiểu hạn rất mờ ám, đáng lẽ là năm đó sẽ phải xảy ra bệnh tật-hoặc tai nạn nặng nhưng vì người đó suốt trong cuộc đời đã làm thiện tích đức nhiều nên đã hóa giải được xung xấu này nên năm đó bình an vô sự.
Sở dĩ chúng tôi cần phân tích những yếu tố trên để những ai chẳng may gặp Đại-Tiểu hạn thấy có nhiều xung xấu thì cũng không nên quá lo lắng nếu như tin chắc rằng mình có nhiều yếu tố đẹp hỗ trợ. Những ai tự biết mình thiếu nhiều sự hỗ trợ thì cho dù gặp năm chỉ có những tiêu chí xung xấu nhẹ cũng không nên chủ quan coi thường vì rất có thể gặp sự cố xung xấu bất ngờ.
Vui lòng nhấn vào đây để order Xem hạn năm.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)