Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Quy trình và ngày giờ tốt bốc bát hương cuối năm

Ngày đẹp giờ tốt bốc bát hương thay chân nhang cuối năm Bính Thân, hướng dẫn chi tiết quy trình bốc bát hương bát nhang, thay bát hương, gộp tách bát hương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày đẹp giờ tốt bốc bát hương thay chân nhang cuối năm Bính Thân

Những ngày giờ tốt trong tháng 12 âm lịch năm Bính Thân, để quý vị tham khảo cho việc bốc lại bát hương, thay chân nhang trong nhà mình:

12/12/2016 âm lịch, giờ tốt: 5h-7h, 19h-21h

16/12/2016 âm lịch, giờ tốt: 13h-15h

21/12/2016 âm lịch, giờ tốt: 7h-9h

24/12/2016 âm lịch, giờ tốt: 15h-17h, 17h-19h

27/12/2016 âm lịch, giờ tốt: 9h-11h, 17h-19h

Dịp cuối năm là lúc con cháu hướng về tổ tiên, các vị thần linh cầu mọi sự bình an, tỏ lòng hiếu thuận. Vào cuối năm, nhiều gia đình thường có nhu cầu bốc lại bát hương. Lý do của việc thay đổi này là do trong nhà đang có nhiều bát hương cần gộp lại, hoặc có ít quá (một bát chung) cần tách ra, hay thay đồi bát hương cho đồng bộ...

Đầu tiên, chúng ta thường nghĩ người bốc bát hương phải là người cao minh, thường là các thầy hoặc pháp sư. Thực tế, ai cũng có thể bốc được bát hương, nhưng gia chủ đích thân bốc là tốt nhất.

Theo Đại đức Thích Tâm Kiên, Trụ trì chùa Một Cột (Ba Đình, Hà Nội), đối với người phương Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng thì bát hương (hay bát nhang) là một vật linh thiêng dùng để thờ cúng trong mỗi gia đình. Đó là nơi con cháu hướng lòng tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên, các vị thần linh cai quản ở mảnh đất của gia đình... nhằm cầu mong sự an lành, bình yên.

Đại đức Kiên cũng cho hay, ai cũng có thể bốc được bát hương, nhưng sẽ là tốt nhất nếu đó là người trong gia đình, có thể là vợ hoặc chồng hay bố mẹ, ông bà. Tuy nhiên, hiện nay, do một số điều kiện nên không ít gia đình lên chùa nhờ chính các nhà sư hay một số pháp sư bốc cho. Dù là ai thì người bốc cũng phải là người thành tâm và khi bốc chân tay phải sạch sẽ. Có người cẩn thận còn phải tắm rửa sau đó, rửa bằng nước gừng để tẩy uế tạp.

Quy trình bốc bát hương bát nhang

Về quy trình tiến hành bốc bát hương (bát nhang), sẽ có các bước như sau:

  1. Chuẩn bị bát hương, lau rửa sạch: Tùy theo nhu cầu mà mỗi gia đình có thể lựa chọn các loại bát hương bằng gốm sứ hoặc chất liệu với mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc khác nhau. Sau khi mua bát hương về cần phải lau rửa sạch. Có thể dùng gừng giã nhỏ cho và rượu trắng hoặc cho vào nước rồi đun sôi lên để lau rửa bát hương. Dùng khăn sạch nhúng vào đó và lau bát hương để tẩy trừ đi những uế tạp ở bát hương. Lau xong để ráo nước hoặc dùng khăn khô khác lau lại cho khô ráo.
  2. Việc chuẩn bị tro: Đối với tro, trước đây, các cụ thường chọn loại rơm nếp, được cắt và làm sạch, phơi khô, để riêng. Trước khi đốt thành tro thì dùng nước hoặc rượu gừng vẩy lên rơm để tẩy uế. Còn hiện nay, loại tro này được bán ngay tại các cửa hàng mã. Ngoài tro, cần chuẩn bị một trong thất bảo của nhà Phật bao gồm: vàng, bạc, mã não, ngọc, san hô... Tối thiểu có ba thứ là vàng, bạc, ngọc ( ưu tiên đá quý, ngọc như hổ phách, lưu ly, thạch anh,... vì có trường khí cao, mua ở các cửa hàng đá quý). Không nên cho giấy trang kim, hạt nhựa,... bán sẵn ở các hàng mã. Cũng không nên cho bùa chú, linh phù,... của Đạo gia, Mật tông,... vào vì gây ra trường khí âm bất lợi.

  1. Quá trình bốc: Rửa tay sạch sẽ bằng rượu hay nước gừng. Khi bốc bát hương thì bốc lần lượt từng nắm tro đặt vào. Để cho yên tâm, nhà chùa thường khuyên đếm theo số sinh như "sinh, lão, bệnh, tử". Lần lượt đếm và bốc tro đến khi gần đầy miệng bát. Thông thường, khi đến nắm cuối cùng sẽ dừng lại ở số "sinh". Khi bốc nên bốc từng nắm cho vào đầy và lắc chứ không nên ấn hoặc nèn chặt. Trước khi bốc bát hương nào thì cũng phải khấn nhỏ là "Con ... (họ tên)... xin bốc bát hương cho thần linh (thần linh/gia tiên...)". Bốc xong để riêng từng vị trí, tránh nhầm lẫn. Thông thường, các gia đình thường bốc ba bát hương, thờ quan thần linh, gia tiên, bà cô hoặc ông mãnh. Còn đối với các cửa hàng, công ty thì bốc bát hương thần tài. Trong quá trình bốc, nếu sợ nhầm, có thể viết giấy dán bên ngoài, đến khi đưa lên ban thờ phải bỏ ra.
  1. Bốc xong đặt bát hương lên ban thờ. Bát hương thần linh ở giữa, bát hương bà cô ở tay trái từ trong nhìn ra, bát hương gia tiên bên tay phải. Ở ta hay có quan niệm coi trọng người đứng khấn hơn bàn thờ, nên hay tính theo người đứng khấn, tức bát hương bà cô để bên tay trái nhìn vào. Sự khác biệt này cũng không có ảnh hưởng lớn. Đồng thời, khi chân nhang quá nhiều cần rút bớt, nhớ để lại 5 chân. Những chân nhang đã nhổ cần đem đốt, thả tro xuống sông suối. Bát nhang bỏ đi (ví dụ bát nhang của ban thờ vong) cần thả xuống sông suối (tốt nhất là đặt trên miếng xốp nổi), tránh vất nơi uế tạp.
  1. Sắm lễ: Hoa tươi, quả tươi, nước sạch bày lên bàn thờ. Mở rộng cửa ra vào trước khi thắp hương. Lúc mới đầu mỗi bát hương thắp 3 nén, những lần sau chỉ cần 1 nén là đủ. Nếu có chân nhang cũ có thể cắm lại mỗi bát 5 chân nhang.

     6. Bố trí: Bát hương đã đặt lên ban thờ cần giữ nguyên vị trí, không xê dịch. Sau bát hương là phần thờ cúng, chỉ nên để ảnh gia tiên (nếu có), không bày rượu, vàng mã,... ở đây. Tất cả đồ thờ dâng lên (hoa tươi, quả tươi,...) cần ở phía trước hay bên cạnh bát hương.

bốc bát hương

Văn khấn bốc bát hương bát nhang

Nam mô A di đà Phật!

Kính lạy: Chư Phật mười phương, thần Thổ địa, gia tiên họ............ , bà cô, ông mãnh, chư vị tiên linh.

Hôm nay ngày tháng .... năm........................

Chúng con là:..............................................

Trú tại:.......................................................

Thành tâm sửa biện hương hoa, dâng lên trước án, kính mời thần thổ địa, gia tiên họ....,bà cô giáng lâm trước án, thụ hưởng lễ Xin thần linh Thổ địa, gia tiên,bà cô yên vị để gia đình thờ phụng.

Xin chư vị minh thần độ cho gia quyến khỏe mạnh, làm ăn tiến tới, vạn điều tốt lành, cả nhà bình an, sức khoẻ dồi dào, thịnh vượng an khang.

Chúng con người trần, nhân vô thập toàn, có gì sơ suất, xin được lượng thứ..

Dãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.

Xem tiếp:

Văn khấn trước khi lau dọn bàn thờ (23/12 ÂL)

Văn khấn ông Táo chầu trời (23/12 ÂL)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quy trình và ngày giờ tốt bốc bát hương cuối năm

12 chòm sao và giấc mơ báo có kẻ thứ 3 chen ngang

Nếu Cự Giải, Kim Ngưu, Ma Kết mơ thấy được người yêu cũ bày tỏ tình cảm, thì khả năng có kẻ thứ 3 chen vào rất cao.
12 chòm sao và giấc mơ báo có kẻ thứ 3 chen ngang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mơ thấy người yêu mình bị thay thế bởi người khác

Nếu bạn đang có người yêu, nhưng trong giấc mơ, bạn thấy người yêu mình bị thay thế bởi người khác, là điềm báo thể người yêu hiện tại của bạn đang có những hành vi không được bình thường, nó khơi dậy nguy cơ trong tiềm thức của bạn. Đặc biệt là đối với trực giác siêu nhạy như Song Ngư, Bạch Dương, Bò Cạp, giấc mơ này ám chỉ lo ngại về một nửa phản bội sẽ thành sự thật.

2. Mơ thấy khi ôm người yêu, đối phương tỏ ra lạnh nhạt

Đối với Bảo Bình, Thiên Bình, Bò Cạp, trong giấc mơ, nếu cảm thấy sợ hãi vì thái độ lạnh nhạt của người yêu, đặc biệt là khi ôm nhau, ám chỉ đối phương sẽ thay lòng đổi dạ, mối quan hệ giữa hai người sẽ dần xa cách.

0-6579-1420626827.jpg

3. Mơ thấy được người yêu cũ bày tỏ tình cảm

Nếu Cự Giải, Kim Ngưu, Ma Kết mơ thấy điều này, ám chỉ khả năng có kẻ thứ 3 chen vào rất cao. Nếu bạn thể hiện sự khoan dung và dịu dàng, kẻ thứ 3 sẽ chùn bước, tình yêu của hai người sẽ phục hồi như cũ.

4. Mơ thấy vẻ ngoài của mình ngày càng xấu

Đối với những người chú trọng vẻ bề ngoài như Thiên Bình, Song Tử, Sư Tử, nếu mơ thấy vẻ bề ngoài ngày càng xấu và cảm thấy đau khổ, ám chỉ kẻ thứ 3 xen ngang hội tụ đủ điều kiện và tiêu chuẩn vượt bạn mọi mặt. Người ấy xen vào mối quan hệ và khiến bạn cảm thấy thua thiệt nhiều.

5. Mơ thấy nấu ăn làm áo quần dính bẩn

Giấc mơ này ám chỉ tình yêu của bạn có nhiều thăng trầm, khả năng kẻ thứ 3 xuất hiện rất cao, nếu không thể hiện rõ thái độ không sợ hãi và đối đầu thì nửa kia rất dễ bị kẻ thứ 3 cướp đi. Đối với Kim Ngưu, Xử Nữ, Ma Kết thiếu niềm tin và hành động không quyết đoán thì cần phải chú ý hơn đến điều này.

6. Mơ thấy người yêu bị bắt làm con tin hoặc bị sát hại

Giấc mơ này ám chỉ kẻ thứ 3 cố tình đóng giả thành tri kỷ của người yêu bạn. Người đó cố ý gây xích mích, chia rẽ mối quan hệ giữa hai bạn. Để tránh trường hợp này xảy ra, bạn cần phải tin tưởng nửa kia. Nếu xảy ra hiểu lầm, cần phải dịu dàng và kịp thời giải thích. Đối với Cự Giải, Xử Nữ, Bò Cạp thường nghi ngờ thì nhất định phải ghi nhớ rõ điều này.

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao và giấc mơ báo có kẻ thứ 3 chen ngang

Chọn đúng hướng nhà, hướng phòng để phong thủy nhà ở cực đỉnh

Phong thủy nhà ở cần chú trọng rất nhiều việc, trong đó chọn hướng đón ánh nắng tụ nhiên rất quan trọng, ảnh hưởng nhiều tới gia vận.
Chọn đúng hướng nhà, hướng phòng để phong thủy nhà ở cực đỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà ở cần chú trọng rất nhiều việc, trong đó chọn hướng đón ánh nắng tụ nhiên rất quan trọng, ảnh hưởng nhiều tới gia vận. Một số lưu ý dưới đây sẽ giúp bạn đọc có thêm hiểu biết về lĩnh vực này.


► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Chon dung huong nha, huong phong de phong thuy nha o cuc dinh hinh anh 2
 
Phong thủy nhà ở cần đón nắng, đón gió tự nhiên để thoáng đãng, khơi thông các nguồn năng lượng. Căn cứ vào thời gian chiều sáng của Mặt Trời, vị trí Mặt Trời cao hay thấp mà chọn hướng nhà, hướng cửa cho phù hợp. Ngay khi thiết kế nhà, hãy tính toán trước để bố trí cho hợp lý, khi đưa vào sử dụng nhất định sẽ cảm thấy cực kì tiện lợi.   Phía Nam là nơi Mặt Trời chiếu lâu nhất, mùa đông cũng không ngoại lệ, cần chú trọng thông gió ở vị trí này đồng thời chọn loại rèm cửa dày để cản bớt nắng. Khu vực phía Đông nhận ánh nắng sáng sớm lại tránh nắng gắt trưa chiều, có thể bố trí phòng ăn, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng nghỉ ngơi thư giãn theo hướng này.    Phía Tây là vị trí nóng nhất trong nhà, dẫu chiều muộn vẫn nóng nên phải thông gió cho thoáng mát, hè nóng đông lạnh, chỗ này chỉ nên bố trí phòng ít khi dùng tới là hợp lý. Ví dụ như nhà kho, nhà vệ sinh, phòng chứa đồ,….
Chon dung huong nha, huong phong de phong thuy nha o cuc dinh hinh anh 2
 
Phía Bắc làm văn phòng rất tuyệt vì không bị ánh Mặt Trời chiếu chính diện, tốt cho mắt, có thể dễ dàng điều tiết ánh sáng, nhiệt độ, tăng cường tập trung, hoạt động trí não hiệu quả. Phòng này cũng nên bố trí ban công, sân thượng để đón gió tự nhiên, nâng cao sinh khí cho cả nhà. Nếu có điều kiện hãy thiết kế cửa kính thật lớn, phong thủy nhà ở sẽ tự khắc được cải thiện rõ rệt.   Khi thiết kế nhà, căn cứ vào đặc điểm của từng vị trí về khí hậu, ánh sáng và ngũ hành để bố trí cho hợp lý. Một căn nhà hợp phong thủy là một căn nhà hài hòa với tự nhiên, tuân theo những quy luật của thời tiết, khí hậu một cách tốt nhất. Có như vậy thì nhà ở mới thực sự tạo cảm giác thoải mái, dễ chịu cho chủ nhân. Điều này cũng giúp tạo ra môi trường sống hợp lý, tiết kiệm tối đa chi phí chiếu sáng, làm mát, sưởi ấm, vẹn cả đôi đường.
Bày lọ hoa chuẩn phong thủy ở 9 cung vị trong nhà Lưu ý phong thủy nhà ở rất cần phải biết Cải thiện phong thủy nhà ở nhờ treo rèm cửa chuẩn
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn đúng hướng nhà, hướng phòng để phong thủy nhà ở cực đỉnh

Tăng vận thế của nữ chủ nhà để chồng luôn rộng rãi

Nguồn thu lớn nhất của người phụ nữ nội trợ trong gia đình là từ phía người chồng. Do đó, bạn cần biết cách nâng cao vận thế của bản thân để người chồng luôn
Tăng vận thế của nữ chủ nhà để chồng luôn rộng rãi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rộng rãi với mình.

Phòng ngủ đại diện cho vận thế của nữ chủ nhà. Xét về từ trường Âm Dương thì nữ chủ nhà ngủ phía bên phải giường là thích hợp nhất (phân biệt phải trái theo hướng nằm ngủ trên giường). Đồng thời có thể đặt 1 chậu thủy tinh/pha lê được làm từ những hạt thủy tinh/pha lê màu hồng  trên chiếc tủ kê đầu giường bên phải. Pha lê màu hồng có thể nâng cao khả năng giao tiếp của người phụ nữ, giúp họ tạo dựng mối quan hệ nhân duyên tốt đẹp. Nhân duyên càng tốt đẹp thì tiền tài càng đổ về nhiều.

Nữ chủ nhân nên nằm ngủ phía bên phải giường để nhân duyên luôn tốt đẹp

Treo rèm cửa bằng những hạt thủy tinh màu hồng. Chú ý, rèm phải có độ dài quá đầu gối sẽ giúp tăng cường vận đào hoa và khiến cho quan hệ vợ chồng luôn tốt đẹp. Đồng thời, nó sẽ có tác dụng hóa sát giải ách, ngăn chặn miệng lưỡi thị phi, làm thay đổi từ trường trong nhà, giúp cho bầu không khí gia đình luôn hòa thuận, êm ấm và gặp nhiều may mắn.

Ngoài ra, còn có thể chuẩn bị 2 cái phong bao màu đỏ, mỗi cái để 1 đồng xu, tốt nhất là 1 đồng bạc và 1 đồng vàng. Tiếp đến, bỏ vào phong bao tờ giấy viết ngày tháng năm sinh và tên của 2 vợ chồng (chú ý tên chồng viết trên tên vợ), ở giữa viết dòng chữ “tài phúc đến nhà ta”. Chuẩn bị xong xuôi thì lần lượt để xuống dưới gối của mỗi người, như vậy có thể khiến chồng rộng rãi hơn với mình. Cũng có thể tạo 2 con dấu cho 2 vợ chồng, không quan trọng chất liệu, trên mặt dấu khắc hình rồng và phượng, tượng trưng cho nhân duyên trời định. Sau đó, dùng sợi chỉ 7 màu buộc 2 con dấu lại hoặc cùng bỏ vào 1 cái hộp hoặc đặt trong chiếc tủ kê đầu giường. Như vậy, không chỉ khiến cho tình cảm vợ chồng mặn nồng hòa hợp, mà còn có thể tăng tài vận cho nữ chủ nhà.

Theo Phong thủy ứng dụng Tình yêu nồng thắm

 


 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tăng vận thế của nữ chủ nhà để chồng luôn rộng rãi

Có nên rải nhiều đá trong sân vườn không? –

Khi trang trí sân vườn, ngoài việc mua các loại cây cảnh, hòn non bộ, bạn còn có thể mua các loại đá dăm, đá lát, đá cuội về điểm xuyết cho sân vườn, nó sẽ có tác dụng làm tăng sự tao nhã của sân vườn. Nhưng nếu số lượng đá trong sân vườn quá nhiều s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ẽ có những ảnh hưởng sau:

Phong thủy học truyền thống cho rằng, nếu rải quá nhiều đá sẽ làm tiêu hao hơi khí của đất, ảnh hưởng đến cây trồng, tổn thương tới dương khí.

vuon-da

Đá hấp thụ nhiệt lượng rất lớn nhưng khả năng tản nhiệt lại rất chậm. Dưới ánh nắng chói chang của mùa hè, đá sẽ giữ lại nhiệt lượng và phản xạ nhiệt lượng ra ngoài, nhiệt lượng này tỷ lệ thuận với số đá được rải trong sân vườn, khiến cho bạn có cảm giác nóng nực. Vào mùa đông giá lạnh, đá hút khí ẩm ban ngày, khiến xung quanh càng thêm lạnh lẽo, bạn ra đó có thể bị nhiễm lạnh. Trong những ngày mưa, rải nhiều đá cuội sẽ cản trở sự bay hơi của nước đọng, càng làm tăng độ ẩm, làm nặng thêm hơi ẩm trong nhà.

Mặt khác, trong sân vườn rải quá nhiều đá cuội, thì khi bước, bàn chân cảm thấy chộn rộn không thoải mái, thậm chí có trường hợp nghiêm trọng là trật khớp, bong gân.

Vì vậy, khi lát, rải đá cần chú ý:

Trang trí đá tại sân vườn cần tăng cường dùng những vật liệu cứng nhân tạo hoặc có sự gia công của con người như khắc đá, khắc gỗ, chậu cảnh, đài phun nước, hòn non bộ và các cảnh quan mềm như trồng cỏ, bụi cây thấp, bồn nước, xen kẽ nhau, hỗ trợ nhau, thông qua cảnh quan toàn bộ ngôi nhà để thể hiện nét văn hóa sâu đậm.

Khi lát, rải đá, phải lựa chọn đá sao cho có kích thước vừa phải và mang tính thực dụng cho cả ngôi nhà. Nếu diện tích sân vườn rộng, có thể rải ít đá cuội có kích cỡ lớn, nhỏ khác nhau, phải lát, rải thật cẩn thận tỉ mỉ và trồng xen kẽ với cỏ để tăng thêm mỹ quan và tránh được tác hại do đá cuội gây ra.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên rải nhiều đá trong sân vườn không? –

5 dấu hiệu trên lòng bàn tay chứng tỏ bạn dễ lấy chồng đại gia

Nếu có hình chữ thập ngay dưới đường tâm đạo, bạn dễ có cuộc sống gia đình hạnh phúc, giàu sang, không bao giờ phải lo lắng về các vấn đề tiền bạc, vật chất.
5 dấu hiệu trên lòng bàn tay chứng tỏ bạn dễ lấy chồng đại gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đường tâm đạo dài, thẳng, trơn tru

Đây là dấu hiệu điển hình của những cô nàng có số "vượng phu" - không những lấy được chồng giàu, mà cuộc sống hôn nhân cũng rất hạnh phúc, viên mãn.

2. Dưới đường tâm đạo có hình chữ thập

Hình chữ thập đại diện cho tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc. Nếu có hình chữ thập ngay dưới đường tâm đạo, bạn dễ có được cuộc sống gia đình hạnh phúc viên mãn, cuộc sống giàu sang, phú quý, không bao giờ phải lo lắng về các vấn đề tiền bạc, vật chất.

5-dau-hieu-tren-long-ban-tay-chung-to-ban-de-lay-chong-dai-gia

3. Trên ngón tay có vân tiền tài

Vân tiền tài nhỏ, mảnh, nằm ở giữa ngón út và ngón vô danh. Những người có vân tiền tài thường lấy được chồng đại gia, tài sản kếch xù, cuộc sống giàu sang phú quý, không phải lo nghĩ gì chuyện tiền nong.

4. Lòng bàn tay sáng mịn và hồng hào

Những người có lòng bàn tay sáng mịn, hồng hào thường tính cách tốt bụng, nhiệt tình. Mọi chuyện xảy ra với họ đều thuận buồm xuôi gió, dữ hóa lành... Không những thế, họ còn dễ lấy được người chồng vừa có tài lại có đức - lúc nào cũng yêu chiều, chăm sóc, cuộc sống trôi qua yên bình, nhẹ nhàng.

5. Lòng bàn tay có nốt ruồi

Nốt ruồi trong lòng bàn tay là đại diện cho sự thông minh và tài lộc - cuộc sống an nhàn, dễ lấy chồng giàu sang, môn đăng hộ đối.

Mi Na (theo D1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 dấu hiệu trên lòng bàn tay chứng tỏ bạn dễ lấy chồng đại gia

Tướng người lông mày rậm –

Lông mày rậm tối kị thô mà thiếu nét trông như 1 quẹt mực đen lởm chởm tán loạn, khô cứng. Người mang loại lông mày này thuộc dân cướp trộm vừa ngu như heo, vừa dữ như hổ. Lông mày rậm phải có nét dáng lên xuống mềm mại đi đôi với đôi mắt sáng rất tố
Tướng người lông mày rậm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người lông mày rậm –

Đặt tên cho người tuổi Tỵ

Người tuổi Tỵ sinh vào các năm 1965, 1977, 1989, 2001, 2013...
Đặt tên cho người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tỵ sinh vào các năm 1965, 1977, 1989, 2001, 2013...

Dựa theo tập tính của loài rắn, mối quan hệ sinh - khắc của 12 con giáp (tương sinh, tam hợp, tam hội...) và nghĩa của chữ tượng hình Trung Hoa - các bộ chữ, chúng ta có thể tìm ra các tên gọi mang lại may mắn cho người tuổi Tỵ. 

Rắn thích ẩn náu trong hang, trên đồng ruộng hoặc ở trên cây và thường hoạt động về đêm. Vì vậy, có thể dùng các chữ thuộc các bộ Khẩu, Miên, Mịch, Mộc, Điền để đặt tên cho người tuổi Tỵ.

Những chữ đó gồm: Khả, Tư, Danh, Dung, Đồng, Trình, Đường, Định, Hựu, Cung, Quan, An, Nghĩa, Bảo, Phú, Mộc, Bản, Kiệt, Tài, Lâm, Tùng, Sâm, Nghiệp, Thụ, Vinh, Túc, Phong, Kiều, Bản, Hạnh, Thân, Điện, Giới, Lưu, Phan, Đương, Đơn, Huệ…

Rắn còn được gọi là "tiểu long"

Rắn được tô điểm thì có thể chuyển hóa và được thăng cách thành rồng. Nếu tên của người tuổi Tỵ có chứa những chữ thuộc bộ Sam, Thị, Y, Thái, Cân - chỉ sự tô điểm - thì vận thế của người đó sẽ thăng tiến một cách thuận lợi và cao hơn.

Bạn có thể chọn các tên như: Hình, Ngạn, Thái, Chương, Ảnh, Ước, Tố, Luân, Duyên, Thống, Biểu, Sơ, Sam, Thường, Thị, Phúc, Lộc, Trinh, Kì, Thái, Thích, Chúc, Duy…

Tỵ, Dậu, Sửu là tam hợp. Vì vậy, những tên chứa các chữ Dậu, Sửu rất hợp cho người tuổi Tỵ. Ví dụ như: Kim, Phượng, Dậu, Bằng, Phi, Ngọ, Sinh, Mục, Tường, Hàn, Đoài, Quyên, Oanh, Loan…

Tỵ, Ngọ, Mùi là tam hội. Nếu tên của người tuổi Tỵ có các chữ thuộc bộ Mã, Dương thì thời vận của người đó sẽ được trợ giúp đắc lực từ 2 con giáp đó. Theo đó, các tên có thể dùng như: Mã, Đằng, Khiên, Ly, Nghĩa, Khương, Lệ, Nam, Hứa…

Rắn là loài động vật thích ăn thịt. Vì vậy, bạn cũng có thể chọn những chữ thuộc bộ Tâm, Nhục - có liên quan đến thịt - để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Các tên đó gồm: Tất, Chí, Cung, Hằng, Tình, Hoài, Tuệ, Dục, Hồ, Cao, Hào, Duyệt, Ân, Tính, Niệm…

Rắn còn được gọi là “tiểu long” (rồng nhỏ). Do vậy, những chữ thuộc bộ Tiểu, Thiểu, Thần, Sĩ, Tịch… cũng phù hợp với người tuổi Tỵ. Những tên bạn nên dùng gồm: Tiểu, Thiếu, Thượng, Sĩ, Tráng, Thọ, Hiền, Đa, Dạ…

(Theo Bách khoa thư 12 con giáp)

 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho người tuổi Tỵ

Sơn Tùng M-TP: Chàng trai Cự Giải tâm điểm của... đạo nhạc

Ngay từ khi bước chân vào làng nhạc Việt, Sơn Tùng M-TP đã liên tục gặp rắc rối với những bản hit bị cho là đạo nhạc.
Sơn Tùng M-TP: Chàng trai Cự Giải tâm điểm của... đạo nhạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Sinh ra dưới chòm sao Cự Giải, Sơn Tùng M-TP vốn sẽ là một người gắn bó với gia đình, ngại tiếp xúc với công chúng và sống khá khép kín. Tuy nhiên, dưới năng lượng của Mặt Trăng, sao Thủy và sao Hỏa thuộc cung Song Tử kết hợp với ảnh hưởng của sao Kim thuộc cung Sư Tử trên bản đồ sao, tính cách của chàng trai Cự Giải này đã được pha trộn thêm sự thông minh, lanh lợi, quảng giao của Song Tử và khát khao tỏa sáng của Sư Tử. Đây là những động lực lớn nhất thúc đẩy Sơn Tùng vươn ra khẳng định vị trí của mình trong làng giải trí.

Son Tung M-TP Chang trai Cu Giai tam diem cua... dao nhac hinh anh
 
Cuối tháng 7, đầu tháng 8, thời gian Sơn Tùng M-TP ra mắt MV Chúng ta không thuộc về nhau cũng đồng thời là thời điểm sao Thủy di chuyển sang cung Cự Giải, đi qua Mặt Trời trên bản đồ sao gốc của chàng ca sỹ này.
 
Đồng thời với sự kết hợp của sao Hải Vương đang hoạt động trong cung Song Ngư, tạo góc hòa hợp với Cự Giải, đây là thời điểm thúc đẩy động lực hoạt động sáng tạo của các Cự Giải lên cao nhất trong năm. Là một Cự Giải, nên việc chọn ra mắt MV mới trong giai đoạn này của Sơn Tùng cũng là điều dễ hiểu.
 
 "Vạn sự khởi đầu nan" - Chàng ca sỹ người Thái Bình có vẻ không gặp mấy thuận lợi trên bước đường sự nghiệp của mình. Dường như các hành tinh thế hệ trên bầu trời thời gian này đều đang dịch chuyển ở những vị trí tạo khá nhiều khó khăn, thách thức cho anh chàng này.
 
Sao Diêm Vương hoạt động trong cung Ma Kết từ năm 2008 đang tạo góc đối đỉnh với Mặt Trời trên bản đồ sao gốc của Sơn Tùng, mang đến cho anh nhiều tham vọng phát triển sự nghiệp cũng như trong cuộc sống cá nhân. Điều này lý giải cho động lực lao động hăng say của Sơn Tùng những năm gần đây.
 
Tuy nhiên, năng lượng của sao Diêm Vương ở góc đối đỉnh cũng đồng thời mang tới những thách thức, khó khăn lớn, khiến cho anh chàng này luôn cảm thấy chùn chân, nhất là khi việc theo đuổi đam mê cũng làm cho Sơn Tùng không mấy quan tâm được đến gia đình như trước.   Sao Thiên Vương đi vào khu vực của chòm Bạch Dương từ năm 2011, tạo góc cản trở với Mặt Trời Cự Giải của Sơn Tùng, tạo ra nhiều biến động bất ngờ trong cuộc sống của anh. Tác động này đánh dấu nhiều bước ngoặt đột phá trên chặng đường sự nghiệp của Sơn Tùng trong làng giải trí.
 
Điển hình nhất là việc các ca khúc anh ra mắt liên tục thành "hit" dù dư luận có tạo sóng gió thế nào; và Chúng ta không thuộc về nhau cũng không ngoại lệ. Tuy vậy, năng lượng ở góc cản trở cũng sẽ mang tới những trở ngại nhất định cho mọi bước tiến đột phá của anh chàng này. Các "scandal" xuất hiện như một 'điều kiện cần' trong mọi cú hít của anh là minh chứng rõ rệt cho điều đó.

Son Tung M-TP Chang trai Cu Giai tam diem cua... dao nhac hinh anh
 
Dù vậy, các Sky vẫn có thể đặt niềm tin vào một Cự Giải lạc quan, tích cực, luôn hướng về tương lai phía trước, bởi Sơn Tùng còn mang trong mình những cá tính rất đặc biệt khác của Song Tử và Sư Tử nữa.
 
Nói thêm về nghi án đạo nhạc, với nhiều hành tinh trên bản đồ sao cùng nằm trong cung Song Tử, điều này cho thấy Sơn Tùng là một người vô cùng thông minh và sáng tạo, vốn không cần sao chép, đạo nhạc thì cậu ấy vẫn có thể thành công. Chỉ là do các hành tinh thế hệ trên trời đang tạo góc tương tác không thuận lợi với cậu nên bất cứ sản phẩm nào của Sơn Tùng tung ra sẽ dính nghi án đạo (không đạo nhạc thì đạo trang phục, phong cách...).
 
Chắc chắn, những khó khăn đó sẽ chẳng nề hà gì với anh chàng ca sĩ mạnh mẽ này. Biết đâu, bản tính của Song Tử trong Sơn Tùng lại có thể khiến anh chút xu hướng bàng quan và đôi khi còn chẳng để ý kỹ đến các 'scandal' của mình ấy chứ. Lạc quan và vô tâm đâu phải lúc nào cũng tiêu cực, phải không nào?

ST.

Phạm Hương: Cô nàng Xử Nữ điên nhưng thú vị Cảnh báo 4 chòm sao xui xẻo trong tháng 12, đi đâu cũng gặp tiểu nhân Đại cát đại lợi 3 chòm sao may mắn trong tháng 12

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sơn Tùng M-TP: Chàng trai Cự Giải tâm điểm của... đạo nhạc

Thiên Mã

Thiên Mã là sao chủ về sự biến hóa, năng động, dịch chuyển. Thiên Mã báo hiệu có hỷ sự, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít nhất cũng là thu
Thiên Mã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Mã là sao chủ về sự biến hóa, năng động, dịch chuyển. Thiên Mã báo hiệu có hỷ sự, nhiều nhất là có tin mừng thăng quan, tiến chức, ít nhất cũng là thu được lợi trong sự vận động. Tuy nhiên, Thiên Mã cũng giống như Đào Hoa, tùy thuộc vào tổ hợp tứ trụ để xét mức độ tốt hay xấu.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Cách tra Thiên Mã là lấy chi ngày (hoặc chi năm) làm cơ sở để tra các địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Thiên Mã nhập mệnh.

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Dần, Ngọ, Tuất thấy chi Thân

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Thân, Tý, Thìn thấy chi Dần

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Tỵ, Dậu, Sửu thấy chi Hợi

- Chi ngày (hoặc chi năm) là Hợi, Mão, Mùi thấy chi Tỵ

Ví dụ: Người sinh vào 16 giờ ngày 14/9/1990 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Canh Thân, ngày Quý Hợi, tháng Bính Tuất, năm Canh Ngọ.

Theo trường hợp 1, chi năm Ngọ (Canh Ngọ) gặp chi Thân của giờ (Canh Thân), do vậy tổ hợp này xuất hiện Thiên Mã.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thiên Mã

Đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được

Nếu để đồng hồ vị trí phù hợp sẽ giúp gia đình thêm hạnh phúc, êm ấm và dư dả. Để không đúng sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh và sức khỏe của cả gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hầu hết mỗi gia đình đều treo đồng hồ với mục đích biết chính xác thời gian hoặc đơn giản chỉ là cho đẹp. Tuy nhiên đa phần chúng ta đều không biết rằng bản thân đồng hồ cũng có tác động không nhỏ đến tổng thể phong thủy của cả gia đình. Nếu để vị trí phù hợp sẽ giúp gia đình thêm hạnh phúc, êm ấm và dư dả. Để không đúng sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh và sức khỏe của cả gia đình.

Không nên treo đồng hồ trong phòng ngủ hay phòng làm việc. Về cơ bản treo đồng hồ ở hai nơi này đều không có bất cứ tác dụng phong thủy tích cực nào. Nếu không biết treo nhầm hướng còn có thể gây họa cho cả nhà. Chẳng hạn như ở phòng ngủ thì không treo ở đầu giường hay cuối giường sẽ gây ra những suy nghĩ tiêu cực. Còn phòng làm việc thì không nên treo đồng hồ ở phía bàn làm việc vì sẽ tạo cảm giác bức bối, dễ gây stress.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Theo phong thủy hiện đại, tiếng kim đồng hồ chạy và tiếng kêu báo giờ có tác dụng tốt làm tăng sự phấn khởi và trong lành cho cả gia đình. Tiếng kêu đều đặn, có quy tắc sẽ giúp cuộc sống gia đình thêm gắn bó và vui tươi hơn. Chính vì vậy để đồng hồ trong phòng khách là thích hợp nhất. Tuy nhiên nên lưu ý, không nên để đồng hồ ở hướng đối diện với cửa phòng khách, sẽ khiến khách đến nhà gặp vận xui, ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã giao của gia chủ.

Mỗi gia đình cũng chỉ nên treo một đồng hồ trong phòng khách mà thôi. Nếu nhiều quá sẽ gây nhiễu loạn các khí trong nhà, từ xấu sẽ thành tốt. Đồng thời cũng không nên để các vật trang trí ở xung quanh đồng hồ nếu không sẽ làm thay đổi vận khí tốt của cả gia đình.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Những điều cần lưu ý khi treo đồng hồ trong phòng khách

Nên:

1. Treo đồng hồ ở hướng Chu Tước (phía Nam) là hướng tốt cho gia chủ. Vì đây là hướng của Hỏa nên chọn đồng hồ có màu đỏ, tím, cam hoặc hồng có hình dạng bát giác là cực kỳ tốt và giúp gia chủ thêm may mắn.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 3.

(Ảnh: Internet)

2. Đồng hồ ở hướng Thanh Long (phía Đông) đại diện cho sự may mắn. Màu sắc thích hợp nhất là màu xanh và đồng hồ hình vuông vì đây là hướng Mộc.

3. Hoặc chúng ta có thể để đồng hồ ở hướng Tây Bắc với màu sắc chủ đạo là trắng hoặc vàng, hình dáng nên là tròn để tăng thêm sự may mắn cho gia đình.

4. Hoặc nếu không rõ phương hướng gia đình bạn có thể treo đồng hồ ở tường trái để tạo vận may cho mọi người trong gia đình.

Không nên:

1. Không nên để đồng hồ ở hướng Huyền Vũ (hướng Bắc) vì Huyền Vũ chỉ thích tĩnh không thích động. Tiếng đồng hồ kêu hay kim đồng hồ chạy sẽ làm xáo trộn Huyền Vũ, lâu ngày sẽ ảnh hưởng xấu đến cả gia đình.

2. Không nên treo đồng hồ hướng Bạch Hổ (hướng Tây). Trong phong thủy, hướng Bạch Hổ là hướng cực xấu, để đồng hồ ở nơi này sẽ làm xáo trộn gia đình, gia đình lục đục, mọi người dễ gặp chuyện bất trắc.

đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được - ảnh 4.

(Ảnh: Internet)

3. Không nên treo đồng hồ ngay phía trên ghế sô pha. Nếu không những ai hay ngồi ở vị trí này sẽ xuất hiện các dấu hiệu thần kinh tiêu cực. Nhẹ thì căng thẳng hay stress, nặng sẽ dẫn thành trầm cảm và ảo tưởng.

4. Không nên treo đồng hồ đối diện với cửa như cửa nhà hay cửa sổ sẽ làm xáo trộn các khí tốt khi vào nhà. Tuy nhiên nếu hướng cửa sổ không tốt, có sát khí thì treo đồng hồ đối diện lại có tác dụng hóa giải và ngăn chặn những khí xấu này.

Chọn hướng đồng hồ theo tuổi của từng người

Tuổi Tí: Nên treo đồng hồ ở hướng Đông Bắc

Tuổi Sửu: Đồng hồ nên để ở ngay chính giữa bức tường hướng Bắc của phòng riêng.

Tuổi Dần: Trong phòng riêng nên treo ở bức tường hướng Bắc.

Tuổi Mẹo: Hướng Tây Bắc là thích hợp nhất

Tuổi Thìn: Nên treo đồng hồ ngay chính giữa bức tường hướng Tây của phòng riêng.

Tuổi Tỵ: Tuổi Tỵ chỉ cần có đồng hồ treo trong phòng là được, không cần phải chọn hướng.

Tuổi Ngọ: Đồng hồ nên treo ở góc Tây Nam của bức tường hướng Tây hoặc góc Tây Nam của tường hướng Nam là được.

Tuổi Mùi: Nên treo đồng hồ ngay chính giữa bức tường hướng Nam của phòng ngủ riêng.

Tuổi Thân: Để đồng hồ ở góc Đông Nam của bức tường hướng Nam.

Tuổi Dậu: Đồng hồ nên treo ở góc Đông Nam của tường hướng Đông.

Tuổi Tuất: Treo ngay chính giữa bức tường hướng Đông.

Tuổi Hợi: Đồng hồ nên treo ở góc Đông Bắc của tường Đông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đồng hồ treo tường và những cấm kỵ trong phong thủy mà bạn không thể ngờ được

Nuôi con bằng đồ chay liệu trẻ có đủ lớn?

Ăn chay không chỉ dành cho người lớn mà còn có thể áp dụng với trẻ nhỏ. Nhiều người cho rằng, như vậy sẽ khiến trẻ thiếu dưỡng chất, đó là vì chưa hiểu đủ về
Nuôi con bằng đồ chay liệu trẻ có đủ lớn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ăn chay không chỉ dành cho người lớn mà còn có thể áp dụng với trẻ nhỏ. Nhiều người cho rằng, như vậy sẽ khiến trẻ thiếu dưỡng chất, đó là vì họ chưa hiểu đúng và đủ về vấn đề này thôi.


Nuoi con bang do chay lieu tre co du lon hinh anh
 
Ăn chay có lợi cho sức khỏe là điều ai cũng biết nên việc nuôi dưỡng trẻ nhỏ bằng đồ chay cũng không phải ngoại lệ. Hàm lượng chất béo thấp, không chứa cholesterol, giàu dưỡng chất và phong phú những chất thúc đẩy thể trạng là ưu điểm của thực phẩm chay. Vì thế, dù không phải là tín đồ của Phật giáo, không phải vì mục đích tâm linh, thì bạn vẫn nên ăn chay và hướng con cái tới thói quen tốt này.   Lo lắng về việc thực phẩm chay không đủ để cung cấp các chất cần thiết khiến thể trạng của bé thấp còi, yếu ớt hơn những đứa trẻ ăn mặn khác hầu như ai cũng gặp phải. Mọi chuyện sẽ được giải quyết nếu các bà mẹ tuân thủ một số lưu ý cần thiết sau.   1. Bổ sung vitamin D cho trẻ bằng việc thường xuyên hấp thụ ánh sáng mặt trời buổi sáng sớm hoặc chiều muộn để chống còi xương.   2. Từ 4 đến 6 tháng tuổi là thời điểm mà cơ thể trẻ đặc biệt cần bổ sung sắt. Đây cũng là lúc trẻ có thể ăn các loại thực phẩm hơi cứng một chút nên bột yến mạch là lựa chọn phù hợp.     Áp dụng 4 điều hay của nhà Phật để có giấc ngủ vẹn tròn
Giấc ngủ là một trong những cách thức nghỉ ngơi vô cùng quan trọng đối với sức khỏe của con người. Học nhà Phật 4 lưu ý khi ngủ dưới đây sẽ

3. Vấn đề duy nhất là thực phẩm chay không thể cung cấp đủ cho trẻ là vitamin B12, mà chất này có nhiều trong sữa mẹ nên tăng cường cho trẻ bú đến 12 tháng tuổi. Sau đó cho trẻ ăn dặm bằng các loại ngũ cốc, hoa quả, rau xanh có chứa nhiều abumin và các nguyên tố như đậu xanh, đậu đỏ, đậu hũ,… Khi trẻ cứng cáp hơn có thể nghiền nát quả hạch cho trẻ ăn.
  Càng lớn, nhu cầu vitamin B12 của cơ thể trẻ càng cao, trẻ nhỏ mỗi ngày cần 500g, trẻ tuổi nhi đồng từ 4 đến 8 tuổi mỗi ngày cần 800g. Nên bổ sung bằng cách khuyến khích trẻ uống nước trái cây hoặc ăn trái cây tươi. Ngoài ra, có thể cho trẻ uống viên B12 khi trẻ đủ lớn.  
Nuoi con bang do chay lieu tre co du lon hinh anh
 
4. Nhiều người cho rằng đồ chay không đủ dinh dưỡng, trong khi lại cho trẻ uống sữa thay vì ăn các loại thực phẩm. Đây là sai lầm rất trầm trọng. Vì hàm lượng các chất thiết yếu trong sữa không cao như mọi ngưỡi lầm tưởng. Trong khi đồ chay với sự phong phú về chủng loại, đặc biệt là các loại rau, trái cây lại cung cấp đủ những chất cần thiết trong quá trình trẻ phát triển.
  Vitamin C giúp tăng cường khả năng tiêu hóa và hấp thụ chất. Nên nếu nuôi con bằng đồ chay thì cần bổ sung vitamin C để sẽ hấp thụ tối đa dinh dưỡng từ thực phẩm. 5. Các loại thực phẩm có chứa lượng dầu thực vật cao như quả hạch, đậu, hạt cải có thể đáp ứng tốt nhu cầu chất béo của trẻ. Trừ khi đứa trẻ dị ứng, còn không nên duy trì khẩu phần ăn mỗi ngày.   Những thực phẩm chay tinh khiết, không có những chất có hại cho sức khỏe sẽ là lựa chọn thông thái cho những bà mẹ dành cho sự trưởng thành lành mạnh của con mình.
Tâm Lan
Xem Clip Nuôi con bằng khoa học 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nuôi con bằng đồ chay liệu trẻ có đủ lớn?

11 điều bạn cần nhớ khi chuyển nhà mới để đón tài lộc về

Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc dọn về nhà mới cũng đồng nghĩa với việc tất cả thành viên trong gia đình bạn sẽ bắt đầu một cuộc sống mới. Chính vì vậy việc nắm rõ một số lưu ý phong thủy truyền thống sẽ giúp cuộc sống ở nhà mới thuận lợi hơn.

Dưới đây là một số điều mọi người cần nhớ khi chuyển về nhà mới.

1. Một điều vô cùng quan trọng bạn cần nhớ đó là phải chọn ngày lành tháng tốt để chuyển nhà. Để chọn được ngày chính xác nhất, bạn cần căn cứ vào ngày tháng năm sinh của tất cả các thành viên trong gia đình, nhưng chủ yếu ưu tiên người trụ cột để lấy kết quả tốt nhất. Trường hợp bạn không thành thạo việc này có thể tìm đến các chuyên gia phong thủy để được tư vấn kỹ hơn.

2. Cần chuyển tới nhà mới theo đúng ngày giờ đã xem trước đó. Nên nhớ trong ngày hôm đó, mọi người tuyệt đối không mời khách đến chơi vì chỉ duy nhất người trong nhà mới được có mặt vào thời điểm đó. Bởi ngày hôm đó chúng ta chuyển nhà chứ không phải ngày tân gia. Mọi người cần phân biệt rõ hai ngày này để tránh mắc lỗi phong thủy.

 11 dieu ban can nho khi chuyen nha moi de don tai loc ve - 1

Cần chuyển tới nhà mới theo đúng ngày giờ đã xem trước đó (Ảnh minh họa)

3. Vào ngày chuyển nhà, mọi người trong gia đình cần nhớ phải luôn luôn nói những điều tích cực, tươi sáng và tốt lành. Tránh tuyệt đối nói những điều u ám, tiêu cực.

4. Trong ngày chuyển nhà, mọi thành viên trong gia đình cần hòa thuận với nhau. Các bạn không nên cãi, đánh nhau. Bố mẹ không mắng con để tránh có tiếng khóc. Tất cả những hành động này tượng trưng cho sự bất hạnh và mối bất hòa trong gia đình vì thế cần tránh.

5. Khi chuyển sang nhà mới, bạn nên bật sáng tất cả các bóng đèn, thiết bị điện tử, thiết bị gas, xả tất cả vòi nước... trong nhà để chắc chắn mọi thiết bị trong gia đình đều hoàn hảo.

6. Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật.

 11 dieu ban can nho khi chuyen nha moi de don tai loc ve - 2

Trong đúng ngày chuyển nhà, mọi người không nên ngủ trưa ngay tại nhà mới vì nó tượng trưng cho sự lười biếng và bệnh tật (Ảnh minh họa)

7. Bạn hãy đặt 1 túi vải nhỏ màu đỏ (loại chuyên dùng trong nghi lễ phong thủy) dưới đáy thùng gạo. Sau đó, đổ gạo vào túi cho đến khi đầy tràn, dính miệng túi lại và dán một tờ giấy đỏ có ghi chữ "Đầy đủ" hoặc “Viên mãn”.

8. Khi chuyển sang nhà mới, đừng tiếc nuối chiếc chổi đã từng sử dụng ở nhà cũ mà thay vào đó bạn hãy mua ngay cho mình một chiếc chổi quét nhà mới. Đây là hành động dùng chổi mới để quét đi những điều không may mắn của quãng thời gian sống trước đây.

 11 dieu ban can nho khi chuyen nha moi de don tai loc ve - 3

Khi chuyển sang nhà mới, đừng tiếc nuối chiếc chổi đã từng sử dụng ở nhà cũ mà thay vào đó bạn hãy mua ngay cho mình một chiếc chổi quét nhà mới (Ảnh minh họa)

9. Khi bước vào nhà mới, đừng vào nhà với bàn tay trắng. Mỗi thành viên trong gia đình nên mang theo một cái gì đó tốt đẹp. Đó có thể là một số loại trái cây như cam (sự thịnh vượng), táo (sự an toàn), dứa (sự may mắn), lựu (cơ hội thăng tiến) và đào (sức khỏe dồi dào).

Khi bước vào nhà mới, bạn cũng có thể mang theo những thứ có giá trị như vàng, sổ tiết kiệm hay bất cứ thứ gì tượng trưng cho sự may mắn.

10. Phụ nữ đang mang thai nên tránh tham gia việc chuyển nhà.

11. Vào ngày đầu tiên khi chuyển về nhà mới, bạn bắt buộc phải mở bếp và nấu một thứ gì đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 11 điều bạn cần nhớ khi chuyển nhà mới để đón tài lộc về

Móng tay mang mật mã vận mệnh

Móng tay tròn là người thông mình, lanh lợi; móng tay vuông là người chính trực, khá giả...
Móng tay mang mật mã vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Móng tay hình vuông

Móng tay hình vuông là người chính trực, nghiêm túc, tác phong làm việc chuyên nghiệp. Sở hữu tính cách như vậy nên tài vận của họ cũng ngày càng tốt hơn, thu nhập ổn định, khá giả. Họ thích rõ ràng trong tình yêu, ghét sự dối trá. Họ là người bạn trung thực và đáng tin cậy nhất. Đặc biệt, họ không thích giao lưu với những người giảo hoạt, giả tạo.

2. Móng tay hình chữ nhật

Người có móng tay hình chữ nhật thường trầm tĩnh, kiên nhẫn, tình duyên tốt. Sự nghiệp của họ rất phát triển, bởi họ dám nghĩ dám làm, là nam thì có khí phách nam tử hán, là nữ thì mạnh mẽ kiên cường.

1-5009-1412394229.jpg

3. Móng tay hình bách hợp

Móng tay hình bách hợp là móng tay dáng tương đối dài, bốn góc tròn, phần đầu nhọn, giống như cánh hoa bách hợp. Đây là dáng móng tay đẹp nhất, thấy nhiều ở phái nữ. Những người có dáng móng tay bách hợp thì dù là nam hay nữ tính cách cũng ôn thuận, thân thiện dễ gần, vận đào hoa tốt, được bạn bè yêu quý, sự nghiệp thuận lợi.

4. Móng tay tròn trịa

Móng tay tròn là người thông minh lanh lợi, họ không thích tranh giành quyền lợi, vật chất, chỉ muốn làm những việc bản thân yêu thích. Trong tình yêu họ rất chu đáo, tinh tế, sau khi kết hôn sẽ hết lòng vì gia đình.

Xem tiếp

Kunie (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Móng tay mang mật mã vận mệnh

Nguồn gốc và ý nghĩa của Father's Day - Ngày của Cha

Cũng như ngày của mẹ, thế giới cũng tạo ra một ngày để biết ơn tình nghĩa công lao của người đã sinh thành chúng ta, đó là Ngày của Cha – Father’s Day.
Nguồn gốc và ý nghĩa của Father

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## gửi tới bạn đọc công cụ xem ngày theo Lịch vạn sự chuẩn xác và nhanh chóng

Ngày của Cha hay Father’s Day là một ngày lễ được dùng để người con tỏ lòng biết ơn tôn vinh những người làm cha, người đã che chở sinh thành. 

Nguon goc va y nghia cua Fathers Day - Ngay cua Cha hinh anh goc
“Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
  Nguồn gốc ngày của Cha?

Ngày của Cha thường được tổ chức vào ngày Chủ nhật thứ ba của tháng 6.
 
Ngày của Cha được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1910 qua câu chuyện của cô gái có tên Sonora Louise Smart Dodd. Nhưng ít ai biết, Ngày của Cha thực chất đến từ một câu chuyện đau lòng từ trước.
 
Ngày của Cha thực chất đến từ câu chuyện thảm họa hầm mỏ ở Monongah, tây Virginia (Mỹ) vào tháng 12.1907. Vụ tai nạn đã khiến 362 người đàn ông thiệt mạng, trong đó có 250 người đã làm cha, nghĩa là khoảng 1.000 đứa trẻ đã mồ côi cha từ sự việc đau lòng này, theo tờ The Mirror ngày 19.6.
 
Đây cũng là tai nạn khai thác mỏ tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nạn nhân hầu hết là người Ý di cư. Cho đến nay, chính quyền ước tính con số nạn nhân thiệt mạng thực tế gần 500 người.
 
Cô Grace Golden Clayton, một người con mất cha trong tai nạn này, đã tổ chức một buổi lễ tưởng nhớ đến những người cha xấu số tại nhà thờ địa phương tây Virginia. Cô Clayton đã chọn ngày chủ nhật gần nhất với ngày sinh nhật của cha cô để tổ chức lễ. Đó cũng chính là nguồn gốc của Ngày của Cha, diễn ra lần đầu vào ngày 5.7.1908.
 
Tuy nhiên, cô Clayton khá kín tiếng và ngày lễ cũng không được tổ chức lại vào những năm sau.
 
Khoảng 2 năm sau, cô Sonora Smart Dodd, sống ở Shokane, Washington, có người cha là ông William Jackson Smart, từng là cựu chiến binh trong cuộc nội chiến nước Mỹ. Vợ ông chẳng may qua đời khi sinh người con út. Kể từ đó, người cha một thân “gà trống” nuôi 6 đứa con đến lúc trưởng thành.
 
Cảm phục trước sự hy sinh và tình yêu thương vô bờ của cha dành cho gia đình, cô Dodd quyết định kêu gọi thành lập một ngày để tưởng nhớ công ơn người cha. Với sự giúp đỡ của các mục sư và Hiệp hội Thanh niên Thiên chúa giáo, ngày lễ của Cha đã được tổ chức vào năm 1910. Kể từ đó, Ngày của Cha được vận động trở thành quốc lễ của Mỹ.
 
Cho tới năm 1972, tổng thống Richard Nixon đã ký duyệt và công bố Ngày của Cha chính thức là ngày quốc lễ của nước này và được tưởng niệm vào chủ nhật thứ ba của tháng 6 mỗi năm.   Ngày nay, ngày của Cha được lan truyền khắp thế giới, trong đó có cả Việt Nam, những người con đều dành tặng cho người Cha của mình những lời chúc, những tấm thiệp hay những món quà đầy ý nghĩa với mong muốn Cha mình được khỏe mạnh và hạnh phúc.   Hãy dành cả tấm lòng cho người cha đáng kính, người đã dành cả tình yêu thương cho những đứa con từ khi chập chững cho tới khi trưởng thành. 
ST.
Ngày Của Mẹ là ngày gì?
Ngày của Mẹ hay Mother’s Day thường được chọn là ngày Chủ nhật thứ hai của tháng 5. Vào ngày này những người con sẽ tặng cho người Mẹ của mình những món quà về
Ngày Trái Đất là gì?
Ra đời cách đây hơn 40 năm, ngày Trái Đất được coi là ngày truyền cảm hứng cho nhận thức và đánh giá cao môi trường tự nhiên của Trái Đất.
Vì sao 20/3 được chọn là Ngày Quốc tế Hạnh phúc?
Ngày Quốc tế Hạnh phúc được lấy từ ý tưởng của Bhutan -Vương quốc bé nhỏ nằm sâu trong lục địa miền đông Himalayas, vốn được đánh giá là nước có chỉ số hạnh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa của Father's Day - Ngày của Cha

Lá số tử vi đức thánh Hưng Đạo Vương –

Hưng-Đạo-Vương là tước vị của hoàng thân Trần-Quốc-Tuấn, một vị danh tướng nhà Trần có chiến công không kém phần quan trọng và hiển hách so với các vị anh hùng dân tộc như Đại đế Quang Trung, Lê-Thái-Tổ. Ngài là vị anh hùng đuổi quân xâm lăng Mông cổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

, chứ không phải chỉ là một vị linh thần như một số người hiểu lầm dưới một khía-cạnh đánh phạt tà-ma cứu nhân độ thế với uy hiệu là Đức Thánh Trần.

tran thai tong

Theo một số dã sử, Ngài tuổi Mậu Tý (1228 TL) sanh ngày 30 tháng chạp giờ Ngọ, Qui thần ngày 20-8 năm Canh Tí (1300 Tl) hưởng thọ 72 tuổi.

Xem Tướng Chấm Net xin được trích dẫn phần luận giải của cụ Thiên Lương về lá số tử vi Đức Hưng Đạo Vương:

Theo tử vi Tuổi Mậu Tí thân mệnh đồng cung tại Mùi vô chính Diệu là vị trí của người đã chấp nhận với định mệnh lấy đức nhân hậu làm chủ đích dầu thân phận có phải hy sinh cũng không ngại.Vì thế đương số mới ghi được câu nói bất hủ : Nếu bệ hạ muốn hàng Mông Cổ xin trước hãy chém đầu tôi đi đã rồi sau sẽ hàng cũng không muộn”. Ăn nhịp với câu cứng cỏi bất khuất của thái sư Trần Thủ Độ: “Đần thần chưa rơi xuống đất thì xin bệ Hạ đừng lo”.

Người vô chính diệu Hỏa mệnh đắc Tuần câu hút Nhật-Nguyệt tịnh minh Mão Hợi phải nói là cách Vô chính Diệu tuyệt hảo, một sự thông minh quán chúng, một đức độ chính đính sánh với trời cao đất rộng ( Song Long Quan Phúc), còn Hồng Việt Tả Hữu Khoa Quyền một khả năng văn võ toàn tài quyền uy đúng mức.

Đây có phải là một vị Thiên Tướng xuống trần như dã sử đã nói : lúc có mang An-Sinh Vương phu nhân nằm mơ thấy thiên thần xin đầu thai, đến lúc sinh ra Vương có hào quang mùi thơm ngào ngạt. Lên 6 tuổi đã biết làm thơ và hay bày chơi đồ bát trận (Nam Hải Dị Nhân của Phan kế Bính).

Lòng chính đính của Vương ngay cả ở bộ tinh đẩu giáp 2 bên Mệnh Thai, Tọa, Quang, Quí phá tan cả nghi vấn Tử-Phá là hoản cảnh bất hạnh Vương phải gánh chịu một trong hai điều bất trung hay bất hiếu. Vì nhà Trần theo sử liệu, có sự lỉnh kỉnh trong hoàng hoàng tộc nên khi Đức Ông An-Sinh Vương-Liễu lúc sắp qua đời có trối chăng cho Vương là phải giải hận cho Ông. Nên lúc phò xa-giá Nhân-Tôn chạy loạn vào Thanh-Hóa, Vương phải bẽ mũi gươm ở tay để tránh điều nghi kỵ, và tỏ lòng trung thành minh bạch của Vương như đôi vừng nhật nguyệt ở số định, tưởng sự chân thành này không còn bút nào tả hết, và công nghiệp vang dội cũng không biết nói thế nào cho đủ với Tuần của Hỏa mệnh.

Đem so sánh với lá số tử vi vô chính diệu của Lê-Thái-Tổ khi mệnh đắc Bạch Hổ cư Dậu, lá số của vị đại đế cứu quốc cũng được Nhật Nguyệt ở Sữu chiếu lên.Người tuổi Sửu đứng ở Dậu là cái thế của người làm việc chính-nghĩa, Kim mệnh đóng Kim cung ở thế Kim, đối phương ở mão (Mộc) khó mà ở yên không thể không bị khắc chế. Nếu thêm tuần thì lại giảm uy danh của Bạch Hổ độc thủ, tuy là câu hút được Nhật Nguyệt dễ dàng, vậy không nên quan niệm tính ở “Không” mà định giá trị của số Vô chính Diệu.

Đại đế Lê-Thái-Tổ với Bạch Hổ ở Dậu mệnh Kim được Nhật Nguyệt ở Sửu, binh quyền ở Tỵ đủ cái nghĩa một vị Đại-Đế anh hùng thời cuộc. Còn Hưng-Dạo-Vương vô chính Diệu không có nòng cốt một sát tinh đắc địa hợp mệnh của tuổi Hỏa, phải mượn thế Thái Dương nhờ Tuần thâu hút, dầu Tuần là Hỏa, cũng là một số đắc cách. Nhưng được tuần lôi kéo Nhật Nguyệt nhất là Nhật ở Mão, Nguyệt ở Hợi là vị trí tuyệt phẩm của thông minh sáng suốt hơn hẳn bất cứ vị trí nào của bộ Âm-Dương. Huống chi bồi thêm Tả hữu Hồng Việt Khoa Quyền dư tài làm một vị nguyên soái thông văn đạt võ điều khiển thiên binh vạn mã. Chỉ hiền vị trí ở Mùi là luôn luôn ở thế bị động chỉ tìm cách chống đỡ (Mộc) thế công ở Sửu (Kim). Đối phương từ Đồng cự đền Hà sát, Kiếp Không, Toái Kỵ, một đòan quân từ cấp chỉ huy đến ba quân chỉ biết đem giải khắp đó đây sự khủng khiếp mạnh ai nấy vơ vét, rồi ra cũng chẳng nên trò trống gì ở vị trí Thiên KHông chính vị ( Thìn Tuất Sửu Mùi).

Quân Nguyên bắt đầu khởi hấn đem quân sang xâm chiếm vào tháng 10 năm Quí Mùi (1283) cho đến trận thất bại cuối cùng ở Bạch Đằng-Giang vào tháng 3 năm Mậu Tí(1288) tức là giai đọan Hưng Đạo Vương đi vào cung Tí (56-65) nghĩa là giai đọan thắng thế nhất thời của Vương ở thế chính Thái Tuế, chứ bộ Sát Phá Tham này chẳng có gì là tốt đẹp (hãm địa) quân thần tả sứ thiếu be bét, được một Linh(Thìn) phụ tá cho cấp chỉ Huy mặt trận Tham Lang là hợp cách, còn Thất Sát, Phá Quân như là chịu trận không một chút khả năng nâng đỡ, hèn chi Vương phải mấy phen phò giá rời bỏ Long thành.

Đứng về phương diện tử vi , trường hợp vô chính diệu như hai lá số của Lê-Thái-Tổ và Hưng Đạo Vương phải kể là 2 trường hợp đắc cách nhất. Một đằng tuổi Kim đắc sát tinh đắc địa thủ mệnh, một đằng Hỏa mệnh đắc Tuần thâu hút Âm Dương là hai kiểu điển hình xếp theo thứ tự giá trị. Dĩ nhiên hai số này phải sắp xếp sau số của Đại Đế Quang Trung, Tuổi Nhâm Thân(Kim), Mệnh đóng ở Thân (Thái Tuế) có Thất Sát thủ Mệnh (Kim). Nguyên một chi tiết nhỏ đó cũng đủ thấy một vị anh hùng không biết cái thua là gì.

Xét về công nghiệp thì Đại Vương Quốc Tuấn với cái thân thế là một danh thần phải kể là quá lớn lao đối với Tổ quốc dân tộc thì ngàn thu hương khói, chỗ linh địa Vạn kiếp cũng là rất xứng đáng với lòng dân thờ kính, tuy vậy vẫn còn lả thiệt thòi, so sánh với 2 vị Đại đế, phải chăng là ở vị trí Long đức, định mệnh đã an bài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số tử vi đức thánh Hưng Đạo Vương –

Những tật xấu muốn giấu của 12 con giáp –

12 con giáp có những tật xấu gì? Thứ nhất người tuổi Tỵ thích ngắm mình khỏa thân trong gương, còn người tuổi Sửu lại mắc tật cuồng tắm gội. Củ thể như thế nào? những con giáp khác thì sao? họ có tật xấu gì cần giấu đi? Hãy đọc để biết củ thể nhé! Nh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

12 con giáp có những tật xấu gì? Thứ nhất người tuổi Tỵ thích ngắm mình khỏa thân trong gương, còn người tuổi Sửu lại mắc tật cuồng tắm gội. Củ thể như thế nào? những con giáp khác thì sao? họ có tật xấu gì cần giấu đi? Hãy đọc để biết củ thể nhé!

xem-tu-vi-2015

Những tật xấu muốn giấu của 12 con giáp

Nội dung

  • 1 Tuổi Tý
  • 2 Tuổi Sửu
  • 3 Tuổi Dần
  • 4 Tuổi Mão
  • 5 Tuổi Thìn
  • 6 Tuổi Tỵ
  • 7 Tuổi Ngọ
  • 8 Tuổi Mùi
  • 9 Tuổi Thân
  • 10 Tuổi Dậu
  • 11 Tuổi Tuất
  • 12 Tuổi Hợi

Tuổi Tý

Kiểm tra và đếm tiền trước khi đi ngủ

Ngay cả khi có ít tiền, người tuổi Tý vẫn giữ thói quen kiểm tra và đếm tiền trước khi đi ngủ.

Họ muốn biết chắc chắn rằng ngày hôm đó mình đã tiêu hết bao nhiêu tiền và việc chi tiêu đó có hợp lý hay không. Đồng thời, họ muốn xác nhận tiền có còn hay bị mất và lên kế hoạch chi tiêu hợp lý hơn.

Tuổi Sửu

Cuồng tắm gội

Mọi thứ trên người tuổi Sửu, từ đầu tóc, mặt mũi, quần áo đến giày dép, tư trang cá nhân… đều phải sạch sẽ và chỉnh tề. Chỉ cần có chút bụi bẩn bám trên người hoặc quần áo bị nhăn nhúm, họ phải đi tắm ngay lập tức để thay đồ mới.

Trong mắt mọi người, họ dường như đã mắc chứng “cuồng tắm”. Nó trở thành tật xấu mà người tuổi Sửu muốn giấu nhẹm.

Tuổi Dần

Luôn muốn chiếm hữu

Nhìn thấy người khác có món đồ mới, ngay lập tức người tuổi Dần có suy nghĩ chiếm hữu đồ vật đó. Họ tìm trăm phương ngàn kế để biến thứ đó thành vật sở hữu cho riêng mình ngay cả khi không thể. Họ sẵn sàng trả cái giá khá đắt cho tật muốn chiếm hữu của mình.

Tuổi Mão

Thiếu kiên nhẫn

Người tuổi Mão thuộc tuýp khó kiểm soát cảm xúc. Khi tức giận, họ nói thẳng mọi điều bất bình trong lòng mà không để ý tới cảm xúc và suy nghĩ của người xung quanh.

Đôi khi tật thiếu kiên nhẫn đó của người tuổi Mão khiến họ tự rước họa vào thân. Nếu cầm tinh con giáp này, bạn cần phải sửa đổi tật xấu ngay để tránh việc không hay xảy đến với mình.

Tuổi Thìn

Độc đoán và hiếu thắng

Có thể mọi người không chú ý một điều là khi đi đường, người tuổi Thìn không thích người khác đi trước mặt mình, kể cả bạn bè chiến hữu. Việc đi trước và “vượt mặt” người khác khiến người tuổi Thìn cảm thấy thoải mái. Bởi trong họ luôn tồn tại tính cách độc đoán và hiếu thắng.

Tuổi Tỵ

Thích ngắm mình khỏa thân trong gương

Người tuổi Tý luôn cho rằng mình sở hữu một thân hình lý tưởng và có sức hút mãnh liệt với người khác giới. Do đó, khi một mình, họ thích ngắm mình nude để chiêm ngưỡng vẻ đẹp lý tưởng đó.

Đối với họ, trang phục cổ điển, gò bó sẽ không bao giờ xuất hiện trong tủ đồ. Họ chỉ săn tìm kiểu thời trang thoáng đãng và “mát mẻ”.

Tuổi Ngọ

Muốn thay đổi mọi thứ

Nhiều lúc người tuổi Ngọ mua hàng loạt đồ dùng như quần áo, giày dép, chăn gối… không nhằm mục đích ăn diện cho bản thân mà đơn giản vì sở thích muốn thay đổi mọi thứ. Họ thích thú với việc may vá, sửa chữa một vài chi tiết trên những đồ mình mua sao cho hợp với cá tính nhất.

Chuyện tình cảm cũng không ngoại lệ. Họ muốn đối phương thay đổi thói quen, sở thích để “hợp cạ” với mình. Điều đó khiến nửa kia cảm thấy ngột ngạt, khó chịu.

Tuổi Mùi

Nằm mơ giữa ban ngày

Nếu gọi mãi mà không thấy người tuổi Mùi trả lời, bạn đừng giận vội, bởi có lẽ họ đang nằm mơ giữa ban ngày đó. Người tuổi Mùi là vậy, nghĩ gì mơ nấy, ngay cả giữa ban ngày.

Tuổi Thân

Hay kích động người khác

Dù biết việc kích động người khác là không tốt, người tuổi Thân vẫn không thể từ bỏ được thói xấu này. Bản thân con giáp này cũng không có ác ý khi khích bác người khác trong lúc họ nhiều tâm trạng.

Tuổi Dậu

Kiêng kỵ quá kỹ

Người tuổi Dậu thích tìm hiểu những đồ vật hoặc sự việc kiêng kỵ với bản thân. Họ còn tỏ vẻ hào hứng và hiếu kỳ với điều đó. Do vậy, người tuổi Dậu thường kiêng kỵ rất kỹ, nhằm tránh những điều xui xẻo. Việc này đôi khi khiến mọi người khó chịu.

Tuổi Tuất

Thích ganh đua, cạnh tranh

Theo người tuổi Tuất, có được thứ mình muốn quá dễ dàng là điều vô cùng tẻ nhạt và không có ý nghĩa gì. Tuy nhiên nếu họ chiếm được nó từ tay người khác thì sẽ cảm thấy vô cùng vui vẻ và hào hứng.

Người tuổi Tuất là vậy, họ luôn thích ganh đua và cạnh tranh. Nếu một ngày nào đó, trên thế giới không còn sự ganh đua, họ nhất định sẽ thấy cuộc sống nhạt nhẽo, vô vị.

Tuổi Hợi

Bảo thủ

Người tuổi Hợi chúa ghét bị người khác chi phối hoặc can thiệp vào chuyện của mình dù người đó có ý tốt. Một khi người tuổi Hợi đã quyết làm theo ý mình thì không ai có thể tham gia góp ý và khuyên bảo. Tật bảo thủ đã trở thành bản chất cố hữu trong con người họ từ khi sinh ra.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tật xấu muốn giấu của 12 con giáp –

Phong thủy đặt bể cá trong nhà –

Tất cả các loại bể cả khung đặt ở phía sau ghế salon: Từ góc độ phong thủy mà xem xét, nêu căn nhà có Thủy chảy phía sau làm sơn là không phù hợp với quy luật. Bởi lẽ, tính của Thủy không ổn định, nếu có Thủy ở phía sau thì không thể mưu cầu ổn định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất cả các loại bể cả khung đặt ở phía sau ghế salon: Từ góc độ phong thủy mà xem xét, nêu căn nhà có Thủy chảy phía sau làm sơn là không phù hợp với quy luật. Bởi lẽ, tính của Thủy không ổn định, nếu có Thủy ở phía sau thì không thể mưu cầu ổn định cho gia đình. Cũng như vậy, nếu bày bể cá phía sau ghế ngồi thì những người trong nhà bình thường ngồi trên ghế đó luôn cảm thấy bất an, ngoài ra nó còn gây mất ổn định cho vận thế ngôi nhà. Mà nếu như đặt bể cá bên cạnh ghế salon thì lại không có trở ngại gì đối với phong thủy gia trạch,

2120175985_e731bfa272

Bể cá không đuợc đặt đối lập với bếp nấu: Bể cá có nước, mà bếp nấu lại thuộc Hỏa, bởi vì “thủy” và “hỏa” là tương khắc. Chính vì vậy bể cá trong phòng khách nếu đặt hình thành một đường thẳng với bếp nấu thì đã phạm vào điều cấm kỵ của thủy hỏa tương khắc. Bể cá và bếp nấu đối lập nhau thì sẽ có tổn hại đến sức khỏe của mọi người trong nhà; nguyên nhân là sự tương khắc của thủy hỏa, thủy có thể khắc hỏa, tổn hại hơn cả là bếp nấu thuộc hỏa mà mọi người trong gia đình đều ăn uống thông qua bếp nấu, cũng sẽ vì thế mà chịu liên đới.

Bể cá không nên đặt dưới thần tài: Giống như có câu ngạn ngữ là “‘tài quy tài vị”, cho nên những loại thần tài như tam tinh Phúc lộc Thọ nên đặt ở vị trí đương vương, như vậy mới có thể ra hoa kết quả. Nếu đặt thần tài trên bể cá thì thật là sai lầm lớn. Bởi vì bể cá vốn nên đặt ở vị trí hung của cản nhà, nếu đặt thần tài ở gần bể cá, như vậy tức là đã mâu thuẫn với nguyên tắc “tài quy tài vị”, hơn nữa đặt thần tài ở trên bể cá là phạm vào điều cấm kỵ “chính thần hạ thủy” trong phong thủy học, điều này sẽ phá vỡ vận tài.

Số lượng cá nuôi cũng cần phải phối hợp với ngũ hành của chủ hộ: Số lượng cá trong bể phù hợp với đạo phong thủy, chủ yếu nên căn cứ vào ngũ hành tính mệnh của gia chủ mà định ra.

Số lượng cá được tính theo “hà đồ lạc thủy” cũng đã nói rằng: “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi: địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi; thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi; địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi: thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi”. Căn cứ vào điều trên mà định, chỉ cần tìm ra được ngũ hành tính mệnh của chủ nhà, là có thể kiểm tra xem nên nuôi bao nhiêu con cá là phù hợp.

Sự phối hợp màu sắc cần phải có những nghiên cứu, hơn nữa cũng có liên quan đến chức năng sinh lý của cơ thể con người mới có thể sử dụng những loại màu sắc đó bố trí xung quanh ta, nếu không thì lại càng tăng thêm phiền phức, lãng phí tiền bạc dẫn đến tiền mất tật mang.

Trong nhà có nhiều màu đỏ, người  trung Quốc luôn cho rằng màu đỏ là màu cát tường. Nhưng ở Hàn Quốc thì lại lấy vải màu đỏ đẻ tượng trưng cho màu của những gia đình có tang.

Trong nhà dùng nhiều màu hồng phấn, lại là màu tạo nhiếu hung, màu hồng phấn dễ khiến cho cảm xúc con người bị Nếu màu đỏ quýt mà dùng nhiều, tuy thể hiện được sinh khí dồi dào, có cảm giác ấm áp, nhưng nếu quá nhiều màu này, cũng sẽ khiến cho lòng người dễ sinh ra cảm giác phiền muộn

Nếu trong nhà màu vàng nhiều, tình cảm phiền muộn, bồn chồn bất an, có những cam giác kinh hãi, buồn phiền mà không thể nói ra được. Chính vì vậy khiến não bộ đầy những tầng ảo giác, những người bị bệnh thần kinh lại càng phải tránh với những màu săc này.

Màu sắc trong nhà tốt nhất là dùng màu trắng sữa, màu ngà, màu trắng. Ba loại màu này rất thích hợp với thần kinh thị giác của con người, bời vì ánh mặt trời thuộc loạt màu trắng, đại diện cho ánh sáng, trái tim của con người. Con mắt cũng phải cần đến ánh sáng điều hoà, hơn nữa trong gia đình các tổng màu trắng để phôi hợp với các đồ dùng trong gia đình, tông màu trắng cũng đại diện cho sự hy vọng.

Những mẫu của gỗ nguyên sơ là màu sắc tốt nhất. Màu sắc nguyên bản của gỗ khiến người ta gần gũi và tự nhiên, đặc biệt là trong thư phòng, cố gắng dùng những màu sắc của gỗ là tốt nhất. Tóm lại, các loại màu sắc đều không nên quá nhiều, lấy sự phù hợp và với lý làm nguyên tắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy đặt bể cá trong nhà –

May mắn với thư pháp

Người Trung Quốc thời xưa rất thích treo tranh thư pháp trong nhà, đặc biệt là tranh chữ
May mắn với thư pháp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thư pháp là nghệ thuật viết chữ Hán bằng bút lông trên giấy, lụa, có bố cục đẹp với những nét chữ như tranh vẽ. 

Thư pháp chữ "Phúc"

Trước kia, viết chữ là minh họa cho bức tranh, tuy nhiên sau này là bức họa toàn bằng chữ. Đây là một loại hình nghệ thuật nổi tiếng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông được gọi là nghệ thuật thư pháp.

"Phúc". Nó có nghĩa là đem lại may mắn, hạnh phúc cho cả gia đình. Có nhiều người tin rằng treo chữ "Phúc" đảo ngược có thể giúp công việc kinh doanh thu được nhiều lợi nhuận.

Thực ra không riêng gì người Trung Quốc, người Việt Nam vẫn thường treo những bức tranh thư pháp chữ "Tâm", "Đức", "Nhẫn"... Mọi người cho rằng bức thư pháp này có thể sẽ mang lại những điều tốt lành. Thư pháp và các biểu tượng có thể vẽ ra trên giấy và treo như tranh hoặc khắc lên gỗ, lên đồ đạc...

Thời trước, mỗi khi tết đến xuân về, mọi người vẫn thường đến cụ đồ để xin chữ. Những bức tranh thư pháp thường được treo hoặc dán vào những nơi trang trọng nhất. Trong phong thủy, tranh thư pháp được xem là biểu tượng mạnh và có hiệu quả nhất trong cách bài trí nội thất.

Người Trung Quốc lưu truyền một câu chuyện thú vị về thư pháp như sau

Nhà thư họa Vương Hy Chi thời Tấn nổi tiếng văn hay chữ tốt. Ông cứ viết chữ nào treo lên là hôm sau mất ngay chữ ấy.

Một hôm, để chuẩn bị đón năm mới, ông nghĩ ra một cách, viết câu đối họa theo câu thành ngữ "Họa vô đơn chí - Phúc bất trùng lai"  (Họa theo nhau mà đến - Phúc không bao giờ lặp lại). Ông viết mỗi 4 chữ:

Phúc vô song chí 

Họa bất đơn hành.

Nghĩa là:

Phúc không đến hai lần

Họa không đi đơn lẻ.

Mọi người đều cho rằng, ông ngớ ngẩn. Ngày tết ai lại treo câu đối như thế, đó là điều gở. Sáng hôm sau, mùng một tết, ông thấy câu đối còn nguyên, không ai lấy cả. Khi ấy ông mới viết tiếp cho trọn từng câu của vế đối như sau:

Phúc vô song chí kim triêu chí

Họa bất đơn hành tạc dạ hành.

Nghĩa là:

Phúc không đến hai lần hôm nay đến

Họa chẳng đi đơn lẻ đêm qua đi.

Không ngờ câu đối này của ông trở nên nổi tiếng và nghệ thuật thư pháp Trung Hoa cũng nổi tiếng từ đó.

(Theo Phong thủy để thành công trong công việc và kinh doanh)
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: May mắn với thư pháp

Xuất hành dịp Tết Đoan Ngọ, 12 con giáp chớ mắc cấm kị này

Tết Đoan Ngọ đang đến gần, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ với các bạn điều cấm kị khi xuất hành dịp này đối với 12 con giáp, nên đi về hướng nào để được cát lành.
Xuất hành dịp Tết Đoan Ngọ, 12 con giáp chớ mắc cấm kị này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Đoan Ngọ đang đến gần, hôm nay Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ với các bạn những điều cấm kị khi xuất hành dịp này đối với 12 con giáp. Hy vọng các bạn sẽ có một ngày thật vui vẻ và an lành.  

Tết Đoan Ngọ hàng năm trùng với mùa hè, là dịp nhiều người lên kế hoạch đi du lịch nghỉ mát, cho trẻ nhỏ đi chơi xa sau cả năm học dài vất vả. Vậy trong dịp này, nếu có ý định xuất hành thì 12 con giáp nên chú ý những điều gì? Có những cấm kị gì dành riêng cho từng con giáp?

 

Cùng Lịch ngày tốt xem bói tử vi để biết trước đề phòng, tránh mắc phải những điều đó và có ngày Tết thật vui vẻ, hạnh phúc bên gia đình, bè bạn nhé.

 

Để xem nội dung mình muốn biết nhanh hơn, mời bạn click vào Mục lục dưới đây.

 

      MỤC LỤC

 

  1. Tuổi Tý
  2. Tuổi Sửu
  3. Tuổi Dần
  4. Tuổi Mão
  5. Tuổi Thìn
  6. Tuổi Tị
  7. Tuổi Ngọ
  8. Tuổi Mùi
  9. Tuổi Thân
  10. Tuổi Dậu
  11. Tuổi Tuất
  12. Tuổi Hợi

 

 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh
 

1. Tuổi Tý

 

Ngũ hành: Thủy

Màu sắc may mắn: xanh lam, trắng, đen.

Màu sắc kiêng kị: vàng, xanh lá.

Con số cát tường: 1, 2, 4, 6, 7, 9.

Con số hung hiểm: 0, 3, 5, 8.

 

Người tuổi Tý tháng này Thái Tuế tương xung, điềm báo phải đi lại nhiều. Họa tiểu nhân rình rập, con giáp này làm việc không được thống nhất, phong độ thất thường.

 

Xuất hành dịp Tết Đoan Ngọ, người tuổi Tý nên chú ý, tránh đi về hướng Đông Bắc, đó là hướng tương xung với con giáp này. Bạn có thể chọn đi tới các hướng tương hợp như hướng Đông hoặc hướng Nam, kết bạn đồng hành với các con giáp Sửu, Thân, Thìn. Có như vậy thì người tuổi Tý mới dễ gặp nhiều thuận lợi, đôi bên bù đắp cho nhau những nhược điểm, thiếu sót.

 
Bạn đã biết Muốn vượng vận, 12 con giáp nên đi đâu trong Tết Đoan Ngọ chưa?
 

Tuổi Tý không hợp với Ngọ, Mùi, Mão, dễ gây tranh cãi hoặc xảy ra chuyện không vui. Nếu đồng hành cùng những con giáp này, bạn nên chú ý điều chỉnh tâm trạng, tránh để cảm xúc chi phối ảnh hưởng đến công việc.

 

2. Tuổi Sửu

 

Ngũ hành: Thổ

Màu sắc may mắn: đỏ, hồng, vàng, đen, xám

Màu sắc kiêng kị: trắng, xanh lá

Con số may mắn: 0, 1, 2, 5, 6, 7

Con số hung hiểm: 3, 4, 8, 9

 

Người tuổi Sửu nếu Tết Đoan Ngọ này có kế hoạch đi đâu thì cần nhớ giữ tiền bạc cẩn thận. Điềm báo hao tài tốn của rành rành, lại thêm họa đào hoa giáng xuống, bản mệnh dễ gặp phải chuyện rắc rối về tình cảm. Nhất là những người đã lập gia đình, nên vạch rõ ranh giới trong quan hệ nam nữ, chớ gây hiểu lầm không đáng có.

 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh 2
 

Bạn nên tránh đi về hướng Đông và hướng Bắc để khỏi gặp họa tương xung. Hướng xuất hành cát lành cho người tuổi Sửu dịp này là hướng Nam và hướng Tây, tuy nhiên nên chú ý đừng gây xung đột với tuổi Mùi và tuổi Ngọ. Nên đi cùng với bạn bè tuổi Tý, Tị và Dậu để có cuộc hành trình vui vẻ và thú vị.

 

3. Tuổi Dần

 

Ngũ hành: Mộc

Màu sắc may mắn: đen, xám, xanh, xanh lục.

Màu sắc kiêng kị: trắng, bạc, đỏ.

Con số cát tường: 0, 1, 3, 5, 6, 8.

Con số hung hiểm: 2, 4, 7, 9.

 

Những căng thẳng mệt mỏi trong tháng này không nhiều nữa, vận thế người tuổi Dần tháng này khá tốt. Bạn có thể tranh thủ đi nghỉ ngơi, du lịch ở đâu đó để giải tỏa bớt áp lực. Đặc biệt, đây là dịp thích hợp cho nam nữ độc thân nắm bắt cơ hội tìm được cho mình một nửa như ý, mối lương duyên có lẽ cách bạn không còn xa nữa.

 

Dịp này, người tuổi Dần nên tránh đi về hướng Nam và Đông Nam. Nếu muốn đi du lịch, tốt nhất bạn nên chọn nơi nào ở hướng Nam và hướng Bắc, kết bạn đồng hành với các con giáp Ngọ, Hợi, Tuất. Nên giữ khoảng cách, tránh nảy sinh mâu thuẫn với người tuổi Thân, tuổi Tị.
 

Có thể bạn chưa biết: Ăn gì ngày giết sâu bọ trong Tết Đoan Ngọ?
 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh
 

4. Tuổi Mão

 

Ngũ hành: Mộc

Màu sắc may mắn: đen, vàng, xanh, xanh lá.

Màu sắc kiêng kị: trắng, bạc, đỏ.

Con số cát tường: 0, 1, 3, 5, 6, 8

Con số hung hiểm: 2, 4, 7, 9.

 

Tháng này đào hoa khá vượng, song người tuổi Mão nên chú ý họa đào hoa trong dịp Tết Đoan Ngọ này. “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, lắm mối mà tối nằm không thì cũng chẳng nên cơm cháo gì. Có 2 điều người tuổi Mão dịp này nên nhớ kĩ, một là chú ý mối quan hệ nam nữ, hai là chú ý trong chuyện giao tiếp, đối nhân xử thế.

 

Nên điềm đạm, bình tĩnh nói năng, tránh gây mâu thuẫn, xích mích với người khác. Có chuyện gì nếu không quá nghiêm trọng thì nhẫn nhịn là hơn, đừng để một phút nóng nảy mà gây ra nhiều hậu họa khôn lường.

 

Tối kị, nên tránh đi về hướng Chính Tây. Hướng Đông Bắc, Bắc và Tây Nam là những lựa chọn không tồi. Trong thời gian này, nên chú ý, đừng thân mật quá mức với người tuổi Dậu, tuổi Thìn. Nên dành nhiều thời gian với các con giáp Hợi, Tuất, Mùi, sẽ có lợi cho tương lai sau này.

 

5. Tuổi Thìn

 

Ngũ hành: Thổ

Màu sắc may mắn: đen, vàng, xanh, xanh lá.

Màu sắc kiêng kị: trắng, bạc.

Con số cát tường: 0, 1, 2, 5, 6, 7.

Con số hung hiểm: 3, 4, 8, 9.

 

Vận thế tình duyên tháng này của người tuổi Thìn khá ổn, các phương diện khác cũng có thu hoạch không tồi. Bạn có nghĩ tới chuyện tự thưởng cho mình một chuyến du lịch, nghỉ ngơi sau những ngày làm việc căng thẳng, vui vẻ cùng bạn bè và thắt chặt tình cảm với người thân?

 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh 4
 

Người tuổi Thìn nên chú ý cẩn trọng trong từng lời ăn tiếng nói, chớ đắc ý mà kiêu căng, ra vẻ ta đây. Luôn nhắc nhở bản thân phải khiêm nhường thì mới gặp chuyện lành. Nên xuất hành về hướng Chính Tây hoặc hướng Bắc, tránh đi về hướng Tây Nam kẻo gặp chuyện không như ý. Nên kết giao với người tuổi Thân, Tý, Dậu, tránh tranh chấp với tuổi Tuất, Mão.

Mời bạn đọc thêm: 8 mẹo phong thủy xua tan tà khí trong ngày Tết Đoan Ngọ.

 

6. Tuổi Tị

 

Ngũ hành: Hỏa

Màu sắc may mắn: xanh lá, đỏ, hồng.

Màu sắc kiêng kị: vàng, trắng.

Con số cát tường: 2, 3, 4, 7, 8, 9

Con số hung hiểm: 0, 1, 5, 6.

 

Thời gian này, người tuổi Tị gặp khá nhiều chuyện may mắn, song lạc cực dễ sinh bi, có đi lại đâu đó thì nên linh hoạt hơn trong suy nghĩ và cách hành xử. Dĩ hòa vi quý thì mọi sự cát lành, đừng nóng nảy mà tranh cãi kẻo gặp họa thị phi. Nói nhiều thường nói sai, nên tập trung trọng tâm cần thiết, tránh lan man đi theo cảm xúc.

 

Đây là dịp để nam thanh nữ tú đi du lịch vui chơi, qua đó kết giao bè bạn, mở rộng mối quan hệ. Bạn sẽ có nhiều cơ hội để cải thiện tình trạng yêu đương của mình, đừng bỏ lỡ nhé. Phương vị tốt để xuất hành là hướng Tây và Đông Bắc, hạn chế đi về hướng Bắc. Nên làm quen với con giáp Dậu, Sửu, Thân, bình tĩnh khi tiếp xúc với người tuổi Hợi, Dần.

 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh 5
 

7. Tuổi Ngọ

 

Ngũ hành: Hỏa.

Màu sắc may mắn: đỏ, xanh lá, hồng.

Màu sắc kiêng kị: vàng, trắng.

Con số cát tường: 2, 3, 4, 7, 8, 9.

Con số hung hiểm: 0, 1, 5, 6.

 

Công việc bề bộn với nhiều áp lực khiến người tuổi Ngọ mệt mỏi, đây là lúc bạn nên dành thời gian cho bản thân, nghỉ ngơi xả hơi để tránh ép mình sinh bệnh. Khi không vui thì càng nên bình tĩnh, đừng nóng vội sẽ dễ hỏng việc mà còn tạo cơ hội để kẻ tiểu nhân gây chuyện.
 

Bạn đã biết cách Cúng Tết Đoan Ngọ 2017 để công danh tình tiền vượng phát chưa? 
 

May là thời gian này tốt đẹp sẽ khiến con giáp này thấy nhẹ nhõm hơn nhiều, người có tình ắt đến với nhau. Đi về hướng Đông và Tây Nam sẽ giúp bạn gặp nhiều may mắn, chớ nên đi về hướng Chính Bắc. Bạn bè tuổi Dần, Mùi, Tuất sẽ rất hợp chuyện trò, song kết bạn đồng hành với tuổi Tý, Sửu thì sẽ mang lại hiệu quả ngược lại.

 

8. Tuổi Mùi

 

Ngũ hành: Thổ

Màu sắc may mắn: đỏ, hồng, vàng.

Màu sắc kiêng kị: trắng, xanh lá.

Con số cát tường: 2, 3, 4, 7, 8, 9.

Con số hung hiểm: 0, 1, 5, 6.

 

Người tuổi Mùi có một khoảng thời gian may mắn với vận trình hanh thông, sự nghiệp phát triển. Tâm trạng bạn cũng theo đó mà phơi phới vui tươi, hãy dành thời gian bên gia đình và cùng nhau tạo nên nhiều kỷ niệm đẹp nhé.

 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh 6
 

Tuy nhiên, bạn nên chú ý nhiều hơn đến vấn đề sức khỏe, ăn uống điều độ và đầy đủ dinh dưỡng, nghỉ ngơi đúng giờ. Đi chơi nên đi về hướng Tây Bắc và hướng Đông, kị đi về hướng Bắc. Nên làm quen với người sinh năm Ngọ, Hợi, Mão. Tránh bất đồng, mâu thuẫn với người tuổi Sửu, Tý, mọi chuyện đừng quá khắt khe mà hãy bình tĩnh cảm thông và thấu hiểu cho nhau.

 

9. Tuổi Thân

  

Ngũ hành: Kim

Màu sắc may mắn: vàng, trắng, bạc, tím.

Màu sắc kiêng kị: đỏ, đen, xanh lam.

Con số cát tường: 3, 4, 5, 8, 9.

Con số hung hiểm: 1, 2, 6, 7.

 

Người tuổi Thân thời gian này đi xa nên cẩn thận kẻo vướng họa thị phi. Tiểu nhân rình rập hãm hại, bản mệnh nên nhẫn nhịn, lấy nhu thắng cương, đừng chuyện gì cũng ra mặt đối đầu kẻo rước họa vào thân.

 

Người độc thân có duyên may gặp người như ý, hãy mạnh dạn thổ lộ tâm tình, đừng mãi do dự mà để mất người xứng đôi vừa lứa. Nên chọn hướng Bắc và Đông Nam để xuất hành, hạn chế đi về hướng Đông Bắc. Người tuổi Thân sẽ có khoảng thời gian vui vẻ với người tuổi Tý và Thìn, Tị. Con giáp này tương khắc với tuổi Dần và Hợi, nên tránh xung đột với lãnh đạo và người lớn tuổi.

 

10. Tuổi Dậu

 

Ngũ hành: Kim

Màu sắc may mắn: vàng, trắng, xanh lá.

Màu sắc kiêng kị: đỏ, hồng, đen, xanh lam.

Con số cát tường: 0, 3, 4, 5, 8, 9.

Con số hung hiểm: 1, 2, 6, 7.

 

Đứng trước chuyện tình cảm, người tuổi Dậu nên nhìn rõ lòng mình, đừng thấy núi này mà trông núi nọ. Tất nhiên mọi chuyện vẫn nên theo cảm xúc, nhưng cũng đừng đánh mất lý trí, mù quáng dễ dẫn đến sai lầm.

 

Xuat hanh dip Tet Doan Ngo, 12 con giap cho mac cam ki nay hinh anh 7
 

Hướng Đông Nam, Đông Bắc là lựa chọn tốt để xuất hành cho người tuổi Dậu, đừng nên đi về hướng Đông và Tây Nam. Người tuổi Thìn, Tị, Sửu sẽ hợp với con giáp này trong nhiều chuyện. Nếu kết giao bạn bè, nên cẩn trọng với người tuổi Mão và Tuất, giữ khoảng cách hợp lý để tránh tranh chấp bất đồng.

 

11. Tuổi Tuất

 

Ngũ hành: Thổ

Màu sắc may mắn: đỏ, hồng, vàng, đen

Màu sắc kiêng kị: trắng, xanh lá.

Con số cát tường: 0, 1, 2, 5, 6, 7.

Con số hung hiểm: 3, 4, 8, 9.

 

Người tuổi Tuất thời gian này có vận tài lộc cực kì tăng tiến, cơ hội kiếm tiền không ngừng đến với con giáp này. Tuy nhiên, người tuổi Tuất xuất hành đi xa nên đặc biệt chú ý kẻo hao tài tốn của, chi tiêu không hợp lý dễ khiến bạn rơi vào cảnh khi rủng rỉnh, khi thiếu thốn.


Mời bạn đọc thêm: Những kiêng kị phong thủy cần biết trong Tết Đoan Ngọ
 

Nên đi về hướng Đông và hướng Nam để gặp được nhiều điều may mắn, tránh đi về hướng Đông Nam và hướng Tây. Con giáp Mão và Dần, Ngọ rất hợp với tuổi Tuất, nên năng qua lại để thắt chặt quan hệ. Tránh xung đột với người tuổi Thìn và tuổi Dậu.

 

12. Tuổi Hợi

 

Ngũ hành: Thủy

Màu sắc may mắn: trắng, bạc, đen, xám, đỏ.

Màu sắc kiêng kị: vàng, xanh lá, cam.

Con số cát tường: 1, 2, 4, 6, 7, 9.

Con số hung hiểm: 0, 3, 5, 8.

 

Vận trình người tuổi Hợi dịp Tết Đoan Ngọ này khá ảm đạm, nhiều chuyện không vui liên tiếp kéo tới. Áp lực công việc ngày càng gia tăng, việc không như ý khiến bạn căng thẳng và mệt mỏi. Tinh thàn bất ổn nên nếu có đi xa thì nên chú ý tránh mâu thuẫn với mọi người, họa tiểu nhân, thị phi thấy rõ, đừng nghĩ gì nói nấy bởi họa từ miệng mà ra.

 

Trong chuyện tình cảm, đừng nghi ngờ, ghen tuông vô lối. Đôi chút giận hờn có thể là gia vị cho tình yêu, nhưng nghi ngờ lại là liều thuốc độc. Nếu bạn đang mông lung trong chuyện tình cảm, hãy mau chóng điều chỉnh bản thân, lắng nghe con tim mình thực sự mong muốn điều gì.

 

Hướng Đông Bắc và hướng Đông có lợi cho người tuổi Hợi trong cả tình duyên lẫn công việc, nên chọn hướng này xuất hành để vạn sự hanh thông, thuận lợi. Tránh đi về hướng Đông Nam và Tây Nam, cẩn trọng trong mối quan hệ với người tuổi Tị và tuổi Thân. Con giáp Dần, Mão, Mùi là quý nhân trợ lực, người tuổi Hợi nên năng qua lại để quan hệ thêm gần gũi, có ích cho tương lai sau này.


Hy Vũ  
 

Trước và sau Tết Đoan Ngọ, con giáp nào mừng đón hỷ sự lâm môn Tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa Tết Đoan Ngọ Chú ý dành riêng cho 12 con giáp trước Tết Đoan Ngọ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xuất hành dịp Tết Đoan Ngọ, 12 con giáp chớ mắc cấm kị này

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Hướng của ban công như thế nào là tốt? –

Đứng ở ban công mà cảm thấy khoan khoái dễ chịu, có thể phóng tầm mắt nhìn ra xung quanh, đón nhận ánh nắng ban mai và những cơn gió mát mẻ, tràn đầy sinh khí và sức sống như được hòa mình cùng thiên nhiên. Ban công đó chắc chắn đã được chủ nhà chọn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đúng phương vị tốt. Đó là ban công được quay về hướng Đông và Nam.

ban-cong-dep-2011

Ban công được bố trí ở hướng Đông, hướng mặt trời mọc nên luôn được đón nắng ấm của mặt trời và khí may mắn (“Tử khí đông lai”, tức khí tím từ phía Đông tới) mang lại cho cả nhà cảm giác dễ chịu, sảng khoái và sự bình an, cát tường.

Ban công được bô” trí ở hướng Nam, căn nhà sẽ đón nhận được làn gió trong lành, mát mẻ.

Ban công không được bố trí ở phía Bắc và hướng Nam thì mùa đông sẽ bị hứng gió lạnh và hằng ngày bị nắng quái chiều hôm hắt vào gây nóng nực, ảnh hưởng tới sức khỏe của cả nhà.

Với những căn hộ chung cư, ban công có thể ở các hướng đã nêu hoặc đôi diện với cửa ra vào hoặc cửa bếp của ngôi nhà, cách khắc phục như sau:

–  Mắc rèm che cửa ở ban công và thường xuyên kéo khép lại để che bớt ánh nắng và gió lạnh thổi vào.

–   Giữa cửa ban công và cửa ra vào đặt một bể cá cảnh, tấm bình phong hoặc một chậu cây cảnh.

Bắc dàn hoa, trồng dây leo hoặc đặt chậu cảnh, nhằm ngăn cách giữa trong và ngoài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng của ban công như thế nào là tốt? –

Soi tính keo kiệt, ích kỷ qua khuôn mặt

Người nào có răng nhỏ và khít thì rất coi trọng tiền bạc, không muốn lãng phí một đồng nào, khả năng giữ tiền cực giỏi...
Soi tính keo kiệt, ích kỷ qua khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Miệng nhỏ, hơi chu ra

Con trai hoặc con gái có miệng nhỏ, môi hơi chu ra, quanh viền môi có nhiều đường vân nhỏ, thì tài vận không được suôn sẻ, đường tiền tài không rộng bởi vậy bình thường họ rất keo kiệt. Nếu họ có được một khoản tiền thì cũng không nỡ tiêu mà sẽ để dành.

2. Sống mũi thẳng như dao, đầu mũi nhọn

Người sống mũi thẳng nhưng đầu mũi nhọn, ít thịt, thường tính tình khắc nghiệt, ích kỷ, khó cùng người khác sống chung hay hợp tác thành công.

Là con gái thì không coi trọng bạn bè, rất lạnh lùng, đôi khi còn xa cách với anh em bạn bè, người yêu, bởi vậy họ không có mấy bạn bè thân thiết. Trong cuộc sống hôn nhân cũng ít có chàng trai nào có thể chịu được tính cách của họ.

soi-tinh-keo-kiet-ich-ky-qua-khuon-mat

Ảnh minh hoạ.

3. Lỗ mũi hẹp

Lỗ mũi hẹp, khó nhìn thường là người tính tình hướng nội, khó đoán. Lỗ mũi hẹp, hai cánh mũi cũng hẹp nhỏ thì tâm tính nhỏ nhen ích kỷ, đa nghi. Họ coi trọng tiền bạc, có tiền không nỡ tiêu. Khi gặp phải vấn đề thì họ cứ phải chuyện bé xé ra to mới thấy an tâm.

4. Ấn đường hẹp

Muốn xem một người có rộng rãi hay không thì xem mũi và ấn đường của họ có đủ rộng không. Nếu ấn đường quá rộng thì tính cách yếu đuối, nhưng nếu ấn đường quá hẹp thì lại là người chi li, mọi chuyện đều quá mức thận trọng, nhìn nhận vấn đề hạn hẹp, hay nghi kỵ, không có chính kiến, không tin tưởng bản thân, không thích hợp để làm việc nhóm, họ khó có thể sinh tồn khi ở trong nhóm có nhiều người.

5. Mắt lác

Người có mắt lác thường đơn độc, không thích ai cưỡng ép hợp tác với mình, không biết nhân nhượng, không quan tâm đến cảm nhận người khác, đặt tình cảm của mình lên trên hết, dễ kích động, thích tranh đấu với người khác.

6. Mũi khoằm

Người mũi khoằm thì tâm tư mờ ám, thích tính kế sau lưng người khác, nếu đầu mũi hướng xuống nữa chứng tỏ họ rất tiếc tiền, luôn muốn tiết kiệm tiền nhưng theo chiều hướng tiêu cực. Thay vì tiêu tiền đúng cách họ lại tìm cách để người khác chi trả cho mình.

7. Răng nhỏ và khít

Con trai hay con gái mà có răng nhỏ và khít thì rất coi trọng tiền bạc, không muốn lãng phí một đồng nào, giữ tiền cực giỏi, cho dù bạn bè có gặp chuyện lớn nhỏ cần nhờ họ cũng sẽ biết cách buộc chặt túi tiền của mình, chỉ sợ bị người ta lấy mất.

8. Mặt nhọn

Thật ra ở một mức độ thì người keo kiệt ích kỷ vẫn có thể kết giao bạn bè bình thường, chỉ cần không làm ra điều gì quá đà khiến người khác phản cảm là được. Nhưng nếu con gái mà có hai đặc điểm lỗ mũi hẹp, cánh mũi mỏng nhỏ lại có gương mặt nhọn thì thường rất nhỏ nhặt hà khắc, tư lợi, ích kỷ không bao giờ hy sinh vì ai, bởi vậy họ khó được chàng trai nào tiếp nhận.

Kunie (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi tính keo kiệt, ích kỷ qua khuôn mặt

Luận bát tự biết người có số làm lãnh đạo

Hãy cùng ## luận bát tự xem số lãnh đạo để biết mình có nằm trong số những người đứng đầu không nhé.
Luận bát tự biết người có số làm lãnh đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo khoa học tử vi, xem bát tự của một người có thể nhìn ra vận thế, sự nghiệp, tình yêu, sức khỏe cùng tài vận của người đó.


Luan bat tu biet nguoi co so lam lanh dao hinh anh
 

1. Sinh vào ngày Thất Sát

Kỷ Mão, Nhâm Thìn, Quý Sửu, Giáp Thân, Mậu Dần, Ất Dậu, Nhâm Tuất là ngày Thất Sát. 7 ngày này là thời điểm thập thần tại vị. Bát tự có thập thần tọa Thất Sát, đại biểu cho sự nghiệp, danh vọng, tham vọng đều cường thịnh, lại còn có khí phách hơn người. Trụ ngày cũng thể hiện cung vị của bản thân.
 

Luận bát tự xem số lãnh đạo mà có ngày sinh trúng vào 7 ngày trên thì cá nhân có chí tiến thủ, ôm mộng mưu nghiệp lớn, cương trực, mạnh mẽ, tất là người có số lãnh đạo, thống lĩnh người khác và cũng có nỗ lực vươn lên làm lãnh đạo, không muốn nghe theo chỉ thị của người khác.
 
2. Bát tự mệnh cách, Sát Ấn tương sinh
 
Ngoài trường hợp sinh vào ngày Thất Sát kể trên, còn có thể xem lá số tử vi của người lãnh đạo bằng cách phân tích bát tự mệnh cách. 
 
Nếu mệnh cách vượng, có Thất Sát thì như sách Bát tự thượng ghi: “Mệnh trung Thất Sát tọa, do như ngọa hổ miên”. Thất Sát biểu trưng cho sự ngay thẳng, khí phách đồng thời cũng thể hiện tính tình hỏa bạo, nóng nảy, cương trực, mạnh mẽ, thiếu tính nhẫn nại. 
 
Chính Ấn trong bát tự mệnh lý học đại biểu cho sự nhân từ, ổn định, có trật tự. Bát tự mà có Thất Sát  lại xuất hiện Chính Ấn, hơn nữa Chính Ấn ở bên trong không bị khắc phá thì liền tạo thành cách Sát Ấn tương sinh. Cách này chủ đường làm quan thuận lợi, người tuy quyết liệt nhưng cũng biết suy tính, thích hợp theo đuổi con đường lãnh đạo.   3. Bát tự có Thương Quan vượng
 
Trong tử vi, Thương Quan là “địch tinh”, phản quan thập thần, khắc vận quan trường, xấu tốt khó lường.
 
Người mà bát tự có Thương Quan vượng thì năng lực vượt trội, có tài ngoại giao, thuyết trình, nổi bật trước đám đông, thích hợp làm lãnh đạo. Nhưng “cây to đón gió lớn”, người càng có tài thì càng bị tiểu nhân ghen ghét, người khác đố kị. 
 
Thương Quan quá vượng sẽ khắc chế đường quan trường, không hòa hợp với người đồng cấp, bị lãnh đạo trù dập. Quan trường không lưu tình, người mà bát tự có Thương Quan vượng, phải quyết đoán, tàn nhẫn mới có thể làm quan.   Trần Hồng (Theo 12ky)    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận bát tự biết người có số làm lãnh đạo

Các lễ hội ngày 5 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đền Vua Bà

Hội Đền Rầm và Hội Đền Vua Bà được tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 2 âm lịch. Các lễ hội trong tháng 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 5 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đền Vua Bà

Các lễ hội ngày 5 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đền Vua Bà

1. Hội Đền Rầm

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 5 tới ngày mùng 7 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: thôn Sâm Dương, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội).

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thủy cung Thánh Mẫu (tức Mẫu thoải - vị thần của dân gian Việt Nam chịu trách nhiệm cai quản vùng sông nước).

Nội dung: Lễ hội đền Rầm có lễ rước, và các trò múa rồng, múa sư tử, kéo chữ, cờ người, hát quan họ, chọi gà.

2. Hội Đền Vua Bà (Hội Thủy Tổ Quan Họ):

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 5 tới ngày mùng 7 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: làng Viêm Xá, xã Hoàng Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức vua bà - Thủy tổ Quan họ.

Nội dung: Hội đền vua Bà cũng là hội quan họ duy nhất trong vùng quan họ. Mọi hoạt động lễ hội đều liên quan trực tiếp tới quan họ. Ngày hội chính là ngày mùng 6, nhưng từ chiều hôm mùng 5, dân làng đã tổ chức mở lễ đền và lễ dâng hương, lễ cầu mưa rửa đền. Lễ tế thần vào sáng ngày mùng 6 bao giờ cũng có hát quan họ ca ngợi công chúa Đức Vua Bà, cầu Đức vua Bà cho mưa thuận gió hòa để mùa màng được bội thu. Hát thờ ở hội đền Vua Bà chỉ được sử dụng giọng la rằng (làng Viêm Xá gọi là giọng A rằng).

Về sau dân làng còn dựng và diễn sự tích Vua Bà ở ngoài trời, không diễn ở trong đền. Trong diễn tích có cả những câu thuộc hệ thống giọng lẻ, giọng vặt mang nội dung giao duyên nam nữ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 5 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đền Vua Bà

7 nốt ruồi kỳ lạ của các bậc đế vương Việt Nam

Ngay từ lúc sinh ra, Lý Thái Tông đã mang tướng lạ, sau gáy có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu), được xem là điềm báo xứng đáng nối ngôi thiên tử.
7 nốt ruồi kỳ lạ của các bậc đế vương Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lê Thái Tổ: Miệng rộng, mũi cao và bả vai có 7 nốt ruồi

Về lý lịch xuất thân của Lê Thái Tổ (Lê Lợi), sách Đại Việt thông sử chép: "Vua sinh giờ Tí (tức từ khoảng 23h đến 1h sáng) ngày mùng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385), niên hiệu Xương Phù thứ 9 nhà Trần, tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương. Nguyên trước, xứ Du Sơn, thôn Như Áng Hậu thuộc làng này (Chủ Sơn), có một cây quế, dưới cây quế này có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai.

Từ khi Vua ra đời thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ. Ngày Vua ra đời thì trong nhà có hào quang đô chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn lên thì thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên trái có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường".


Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Lê Lợi sinh ra trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Năm ông 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Rồi sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ở Đông Kinh, mở đầu triều Lê sơ, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mặc dù ở ngôi ngắn ngủi được có 6 năm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nên độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Và nhờ cố gắng đó, hai năm sau (1430), Lê Thái Tổ đă cho ban hành những điều luật đầu tiên của triều đại mình".

Lý Thái Tông: Sau gáy có 7 nốt ruồi tụ lại như chòm sao Bắc Đẩu

Lý Thái Tông tên húy Phật Mã, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Ông là con trai trưởng của Vua Lý Thái Tổ và bà Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và Dương Vân Nga.

Tượng Lý Thái Tông tại đền Lý Bát Đế

Tương truyền, ngay từ thuở lọt lòng, Lý Phật Mã đã có những dấu hiệu lạ lùng. Ông có tướng lạ, sau gáy có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu). Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng hiện ra, khiến người ta duy tâm đây là lời "sấm truyền" cho một đế vương.

Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) rất chú ý tới Phật Mã và có ý nuôi dạy ông kế vị. Năm Nhâm Tý (1012), lúc mới 13 tuổi, Lý Phật Mã đã được lập làm Đông cung Thái tử, rồi được phong làm Khai Thiện Vương, đồng thời nhiều lần được cử làm tướng cầm quân đi dẹp loạn và lập được công lớn. Vì thế, triều thần cũng như thần dân lúc bấy giờ rất tôn kính Phật Mã. Năm 1028, vua cha mất, Lý Phật Mã lên ngôi.

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nhận xét về Lý Thái Tông: “Vua là người trầm mặc, cơ trí, biết trước mọi việc, giống như Hán Quang Vũ đánh đâu được đấy, công tích sánh với Đường Thái Tông". Ông là vị vua giỏi thời nhà Lý. Hơn 30 năm chinh chiến và trị quốc, ông đã củng cố nền cai trị của nhà Lý, chống lại những nguy cơ chia cắt, bạo loạn, xâm lấn, thu phục lòng dân, khiến cho nước Đại Cồ Việt trở nên vững mạnh.

Trần Nhân Tông: Nốt ruồi đen gánh vác việc nước

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ (1258), là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng thái hậu. Khi mới sinh toàn thân màu da như vàng ròng - sáng chói. Vua cha đặt tên là Phật Kim. Sách Thánh Đăng ngữ lục chép: "Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật...”.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Được tinh anh của Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng ròng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng... Vai bên tả có một nốt ruồi đen, các nhà tướng số cho rằng: ngày sau sẽ gánh vác việc lớn".



Trần Khâm được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi vào ngày 22/10 năm Mậu Dần (1278). Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình). Các sử gia thời Hậu Lê đã viết về Trần Nhân Tông: "Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân".

Theo Đất Việt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 nốt ruồi kỳ lạ của các bậc đế vương Việt Nam

4 con giáp nữ là chúa ghen

Nữ tuổi Ngọ cá tính mạnh, thích gì làm đấy, cuộc sống của họ đầy màu sắc nhưng lại rất nghiêm khắc với người yêu, thường hay ghen bóng ghen gió.
4 con giáp nữ là chúa ghen

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1. Nữ tuổi Mùi

Những người tuổi Mùi luôn xem hôn nhân là chuyện đại sự và gắn liền suốt cuộc đời, cho nên họ không thể chấp nhận được việc người yêu không chung thủy. Nếu chẳng may phát hiện ra người yêu của mình lăng nhăng, cô nàng tuổi Mùi dịu dàng sẽ lật ngược thế cờ - họ trở nên tức tối và sẵn sàng phục thù bằng mọi cách, tuyệt đối khiến bạn ăn không nổi. Chúa ghen chính là quý cô tuổi Mùi đấy bạn.

4-con-giap-nu-la-chua-ghen

No2. Nữ tuổi Tý

Những người tuổi Tý vốn vô cùng tinh tế, nhạy cảm trong tình yêu. Hai người đang đi trên đường, nếu bạn nhìn vu vơ cô gái nào đó, cô nàng tuổi Tý sẽ hiểu rằng trong mắt bạn không còn cô ấy nữa, bạn đã để trái tim về nơi khác... Nếu nghiêm trọng hơn, cô ấy sẽ khiến cuộc sống của bạn bỗng chốc rơi vào vực thẳm chỉ vì tính ghen tuông thái quá.

No3.  Nữ tuổi Dậu

Những cô nàng tuổi Dậu có tiêu chuẩn vô cùng khắt khe trong việc "tuyển chọn" người yêu. Họ vốn theo đuổi sự hoàn mỹ. Mặt khác, dục vọng chiếm đoạt của họ vô cùng mạnh. Khi đã quyết định yêu bạn, họ sẽ không cho phép bạn có bất cứ bí mật nào liên quan tới đối tượng khác giới. Cũng vì vậy, tỷ lệ con giáp tuổi dậu ly hôn là khá cao - họ không chấp nhận sự thiếu chung thủy, dù thế nào chăng nữa.

No4. Nữ tuổi Ngọ

Nữ tuổi Ngọ cá tính mạnh, thích gì làm đấy, cuộc sống của họ đầy màu sắc nhưng lại rất nghiêm khắc với người yêu. Giả sử nhìn thấy người yêu mình đi với người con gái khác và nói cười không ngớt, họ sẽ lập tức nổi đóa lên. Nữ tuổi Ngọ sẽ không lập tức tấn công, nhưng họ sẽ không ngừng hoài nghi bạn, khi không vui sẽ lập tức phát tác khiến bạn phải khiếp sợ.

Anh Anh (theo D1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp nữ là chúa ghen

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd