Nhận định chung về tướng lòng bàn tay –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Núi Hai Vai là một di tích lịch sử cấp quốc gia, nằm trên địa phận ba xã Diễn Minh, Diễn Bình, Diễn Thắng của huyện Diễn Châu. Nhìn từ xa, hình dáng núi giống như một ông tướng cụt đầu có hai vai nhô lên nên được gọi là núi Hai Vai. Núi cao 141m, dài 800m, rộng 120m.
Trong cuốn “Du lịch Đông Dương” của một tác giả người Pháp, đã xếp núi Hai Vai là một trong những danh thắng đẹp của miền Trung Việt Nam.
Trước đây trên núi có rừng cây rậm rạp với nhiều chim muông, thú rừng. Mùa xuân khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi, muôn hoa khoe sắc. Thấp thoáng dưới tán cây trên núi là các hang động có cấu trúc độc đáo với nhiều tên gọi khác nhau, gắn liền với những truyền thuyết ly kỳ.
Trong đó, hang Thần Đồng (hay hang Tiên Động) được người dân xưng tụng là nơi tỏa linh khí giúp mảnh đất này sinh ra nhiều nhân tài.
Ông Lê Đình Minh (65 tuổi, ngụ xã Diễn Bình) cho biết, hang Thần Đồng gắn liền với một nhân vật lịch sử nổi tiếng của nước ta là ông Nguyễn Trung Mậu, một vị quan tài giỏi dưới thời nhà Nguyễn.
Cha của Nguyễn Trung Mậu từng tham gia đội quân thần tốc của vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Sau khi vua Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi đã thực hiện chính sách trả thù khốc liệt đối với hậu duệ và tướng lĩnh của Quang Trung. Cha của Nguyễn Trung Mậu phải trốn vào ở trong núi Hai Vai.
Nhận thấy hang Thần Đồng là nơi có linh khí khác thường nên ông đưa con trai lúc đó mới 10 tuổi vào ở trong hang để dạy dỗ, nuôi chí phục thù. Nguyễn Trung Mậu thông minh nên sớm nổi tiếng là thần đồng, sau này đỗ đạt và được giao phó nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình. Cái tên hang Thần Đồng từ đó mà có.
Suốt cuộc đời làm quan, Nguyễn Trung Mậu đã để lại nhiều dấu ấn với các công trình văn hoá, lịch sử triều Nguyễn như: Ngọ Môn, điện Thái Hoà, Cửu Đỉnh…Những công trình do ông làm có giá trị vô giá. Đến ngày nay chúng vẫn là các điểm hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách tham quan chiêm ngưỡng.
Quốc sử quán triều Nguyễn đã đánh giá về ông như sau: “…làm quan đến 40 năm, giữ mình trong sạch khác người. Khi chết được tặng Hiệp biện Đại học sĩ và được nhà vua cho tế một tuần…”.
Người dân địa phương đều cho rằng nhờ linh khí trong hang Thần Đồng nên Nguyễn Trung Mậu mới trở thành một người tài giỏi như vậy. Để tưởng nhớ công lao của ông người dân xã Diễn Bình đã lập một đền thờ ngay tại quê hương.
Hang Thần Đồng được người dân địa phương khá tôn kính. Hang nằm phía trên đỉnh của núi Hai Vai, địa hình hiểm trở khó đi lại, nhưng bên trong lại rộng rãi thoáng mát, diện tích khoảng 30m2. Theo truyền thuyết, ngoài cửa hang Thần Đồng có một tảng đá hình tháp bút. Tháp hướng về đâu thì nơi đó có nhiều người tài giỏi đỗ đạt cao.
Ngày xưa tháp bút hướng về làng Văn Tập (xã Diễn Bình ngày nay) nên trong làng có rất nhiều người học giỏi đỗ đạt. Truyền thuyết cho rằng sau này làng Trung Phường (nay là xã Diễn Minh) đã lên núi “yểm” tháp bút quay về phía làng mình. Từ đó làng Trung Phường có nhiều người đậu cao trong các kì thi và làm quan to trong triều.
Dải đất khoa cử
Trên thực tế, cả hai làng Trung Phường và Văn Tập xưa kia đều nổi tiếng có nhiều người tài giỏi và đỗ đạt. Làng Trung Phường có tới 2 người đậu tiến sỹ, 44 người đậu hương cống, cử nhân, 116 vị tú tài. Làng Văn Tập cũng không thua kém, có gần 100 vị đậu cử nhân, tú tài và 2 tiến sỹ.
Hiện nay truyền thống hiếu học của hai làng vẫn còn được thế hệ sau tiếp nối. Đây là hai mảnh đất có nhiều tiến sĩ, thạc sĩ và đậu đại học cao nhất huyện. Đặc biệt nơi đây có rất nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, tiêu biểu như nhà thơ Trần Hữu Thung …
Ngoài ra trong hang còn có một số di vật của ông Nguyễn Trung Mậu như nghiên mực, bút lông, tảng đá nơi ông ngồi đọc sách… Trước đây nhiều người vào hang đã tự ý mang các đồ vật này về nhà, nhưng sau khi một số người gặp chuyện xui xẻo kỳ lạ, mọi người sợ hãi bảo nhau mang các vật trên trả lại hang. Hàng năm cứ đến mùa thi cử, học sinh khắp vùng lại leo lên núi vào hang Thần Đồng thắp hương cầu xin thần linh phù hộ làm bài tốt.
Người dân xung quanh cho biết, hang Thần Đồng rất linh thiêng. Ngày xưa có một người đàn ông lên núi kiếm củi đi ngang qua đã nhổ một bãi nước bọt trước cửa hang. Về nhà miệng người này tự dưng sưng vù không nói năng gì được. Người nhà đã đưa anh ta đi chạy chữa khắp nơi nhưng các thầy thuốc đều bó tay trước căn bệnh lạ. Sau đó anh này nhớ đến việc mạo phạm hang Thần Đồng nên lên thắp hương tạ tội, từ đó mới khỏi bệnh.
Năm 1988 có nhóm công nhân đến khai thác đá ở lèn Hai Vai. Họ đặt thuốc nổ trên núi khiến cho rất nhiều hang động bị tàn phá. Hang Thần Đồng cũng bị hư hỏng nặng. Tháp bút trước cửa hang bị mìn làm đánh sập, thậm chí cửa hang còn bị đất đá vùi lấp.
Thật trùng hợp là năm đó các xã Diễn Minh, Diễn Bình vốn là hai vùng nổi tiếng học giỏi lại không có ai đỗ đại học. Dân làng lo lắng cùng nhau lên đào đất đá thông cửa hang. Sự lạ là năm tiếp theo, các sĩ tử của hai địa phương lại đỗ đạt như thường.
Người dân nơi đây cho biết, trong những năm công nhân khai thác đá ở núi Hai Vai, không năm nào không có người bị tai nạn chết. Có năm chết đến 3 người. Dân làng đều cho rằng do những công nhân này tàn phá hang Thần Đồng linh thiêng nên mới bị thần linh quở phạt.
Cũng từ đây xuất hiện những lời đồn thổi về oan hồn lẩn khuất quanh núi khiến ai cũng sợ hãi. Vào những đêm khuya khoắt mưa gió không người nào dám đến gần ngọn núi vì nghe thấy những tiếng khóc than. Dần dần những người công nhân cũng sợ hãi không dám khai thác đá tại đây và từ đó cũng không còn ai phải bỏ mạng ở núi Hai Vai.
Trong tâm tưởng người Diễn Châu từ xưa luôn coi hang Thần Đồng là biểu tượng của tinh thần hiếu học. Tuy nhiên do thời gian và tác động của con người, hang Thần Đồng nói riêng và núi Hai Vai nói chung đã bị phá hủy nhiều. Người dân địa phương đã nỗ lực tìm các biện pháp để “cứu” di tích và trông mong các cơ quan chức năng có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ di tích này.
Theo Pháp luật VN
Trước hôm cải táng làm lễ cáo từ đường. Đến hôm cải táng, lại làm lễ khấn thổ công chỗ để mả mới táng.
Trước hết khai mả, nhặt lấy xương xếp vào một cái tiếu sành, rẩy nước vang vào rồi che đậy thật kín, không cho ánh sáng mặt trời lọt vào được. Nhà phú quý thì dùng quan quách liệm như khi hung táng.
Đoạn, đem cải táng sang đất khác. Còn quan tài cũ nát thì bỏ đi, tốt thì đem về dùng hoặc làm cầu, hoặc làm chuồng trâu chuồng ngựa, để trâu ngựa đứng cho khỏi sâu chân.
Tục lại tin rằng: Hễ ai đau tức thì lấy mảnh ván thộ (mảnh ván quan tài nát) đốt lên, để gầm giường mà nằm thì khỏi đau tức.
Cải táng có nhiều cớ.
Một là vì nhà nghèo, khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài.
Hai là vì chỗ đất mối kiến, nước lụt thì cải táng.
Ba là vì, các nhà địa lý, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau ốm lủng củng, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì cho là tại đất mà cải táng.
Bốn là, những người muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có người thầy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà kia, để cầu được hưởng dư huệ.
Trong khi cải táng, tục lại có ba điều là tường thuỵ (tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng.
Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là long xà khí vật. Hai là, khi mở quan tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết. Ba là, hơi đất chỗ đó ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Bí quyết cắm hoa đào ngày Tết |
Bài viết của tác giả Ân Quang
Cung Quan có Đào Hồng tại Tý
Tuổi Tý, Dậu làn nên sớm nhưng yểu.
Câu này ở trang 66, trong cuốc Tự Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản năm 1952 tại Hà Nội.
Và cũng lại có một câu tương tự, ở trang 223, sách Tử Vi Đẩu Số của Vân Đằng Thái Tứ Lang, xuất bản năm 1957. Câu ấy như sau:
“Đào Hồng toạ thủ tại Tý” tuổi Tý Dậu hiển đạt nhưng chết non.
Theo phương pháp an sao, lập thành lá số, mà các tác giả ấy hướng dẫn nơi phần đầu cuốn sách thì:
Tuổi Tý, Hồng Loan tại Mão, Đào Hoa tại Dậu
Tuổi Dậu, Hồng Loan và Đào Hoa đồng cung tại Ngọ.
Chỉ có tuổi Mão mới có Đào Hồng cũng ở Tại cung Tý mà thôi! Không thê nào tuổi Tý Dậu (hoặc Tỵ, Dậu) mà lại có Đào Hồng toạ thủ tại Tý được!
Người sinh lục Giáp, Lục Mậu, Mệnh cư Dần Thân có Kình Dương toạ thủ là cô đơn, không giữ được tổ nghiệp, mang hai họ thì sống lâu, làm nghề khéo léo.
Ở trang 172, Tử Vi Đẩu Số, quyền Thượng, tác giả Nguyễn mạnh Bảo đã luận như thế, và qua trang 173 thì lại nói Kình Dương “ở cung Dần là đắc địa”.
Cuốn Tử Vi Đẩu số của tác giả Nguyễn Mạnh Bảo xuất bản năm 1951, đến năm 1957, lại thấy một câu tương tự trong cuốn Tử Vi Đẩu Số của tác giả vân Đằng Thái Thứ Lang, trang 155 nói về sao Kình Dương:
“Kình toạ thủ tại Dần, Thân, tai hại nhất đối với tuổi Giáp, Mậu v.v..
Tuổi Giáp, tuổi Mậu tính làm sao cho có được sao Kình Dương ở Dần, Thân. “Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương”
Trước Lộc Tồn một cung là sao Kình Dương.
Giáp Dần, Ất Mão lộc chỉ khoa
Canh Thân, Tân Dậu lộc diệu đa
Nhâm trư, Quý thử tòng trung lại
Đinh Kỷ Ngọ trang, Bính Mậu xà.
Đó là một trong nhiều bài phú tương tự nói về cách an sao Lộc Tồn. Khi đã có sao Lộc Tồn thì “tiền Kình, hậu Đà”, cung trước Lộc Tồn là Kình Dương, cung sau Lộc Tồn là Đà La.
Lại còn có biết bao nhiêu đồ biểu chỉ vẽ cách an sao Lộc Tồn, Kình Dương, Đà La. Đồ biểu trình bày có vẻ rất khoa học. Áp dụng các đồ biểu ấy cũng chẳng thấy tuổi nào có Kình Dương ở Dần, Thân.
Đến đây buộc lòng chúng ta phải hoài nghi khả năng bấm Tử Vi thuộc lòng của các tác giả ấy. Nếu đã thuộc lòng bản cửu chương, chín lần chín là tám mươi mốt, khi nghe ai nói chín lần chín là tám mươi, thì chúng ta sẽ thấy ngay là người ấy có nhầm lẫn. Nếu đã thuộc lòng tuổi Giáp có Lộc Tồn ở Dần, thì chẳng thể nào viết sách, rằng tuổi Giáp có Kình Dương ở Dần được.
Tiếc thay, trong một cuốn sách Tử Vi xuất bản gần đây, có những bài phú chỉ dẫn cách an sao thuộc lòng, lại cũng chẳng thấy có đoạn tương tự!
“Người tuổi Giáp, tuổi Mậu mà Mệnh đóng tại Giần Thân lại gặp Kình Dương thì phá tán tổ nghiệp”.
Nêu lên những sai lầm kể trên, chúng tôi không có ý khen chê một tác giả nào. Chúng tôi chỉ muốn đưa ra một nhận xét rằng khoa Tử Vi đã bị thất truyền, lại còn bị làm rối loạn thêm bởi những “công thức các bộ sao chỉ có thể có trong trí tưởng tưởng, chứ không thể xảy ra khi an sao, lập thành lá số.
Thí dụ như cách “Tả Hữu giáp Thân, Mệnh an tại Dần, Tuất” là phú quý, đàn bà giàu có, kẻ vì người mong và cũng là cách không thể nào xảy ra khi an sao, lập thành lá số (trang 117 - Tự điển Tử Vi – Tác giả Đắc Lộc).
Nếu ở trang 179, cũng sách ấy tác giả nói đến cách:
“Vũ, Liêm đồng cung bần cùng” thì tác giả Nguyễn Mạnh Bảo cũng luận về sự Sinh Khắc Chế Hoa của các sao như sau:
Ví dụ như Vũ Khúc là Kim tinh với Liêm Trinh là Hoả tinh, cùng ở với nhau tuy Vũ Khoá là tài tinh, có kiếm được đi chăng nữa thì cũng phải hết vì Liêm Hoả khắc Vũ Kim.
Thật ra không thể nào tính được sao Vũ Khúc và Liêm Trinh đồng cung. Hai sao này luôn luôn ở vào phương vị hạp chiếu nhau, vì cùng nằm trong thứ tự của vòng sao Tử Vi.
Những sự sai lầm ấy, không có gì hại nhiều. Chỉ làm cho học giả Tử Vi mất thêm chút thời gian đọc sách bận rộn trí óc thêm một chút. Chỉ mất thì giờ chứ không có hại, vì khi áp dụng vào luận đoán, nhìn vào lá số, không gặp những cách kể trên thì thôi, không ai thắc mắc làm gì.
Những cách ấy, trường hợp ấy chẳng bao giờ xảy ra. Người nghiên cứu Tử Vi chẳng bao giờ gặp cách ấy trong lá số, để luận đoán, vì vậy cũng chẳng ai đặt thành vấn đề phân tách hoặc rút kinh nghiệm. Những cách ấy có thực đâu mà rút kinh nghiệm.
Chẳng hạn, cứ viết là:
“Thất Sát đồng cung với Thiên Cơ thì thiện được bà phần”.
Người viết cứ việc viết, người đọc cứ việc bỏ thì giờ ra mà đọc. Người mới học Tử Vi, làm sao biết được rằng Thất Sát chẳng bao giờ đồng cung với Thiên Cơ.
Những điều kể trên cũng chỉ làm mất thì giờ, bận rộn trí óc người đọc sách chứ không có hại lắm, vì quý bạn nghiên cứu Tử Vi có bao giờ gặp được những cách ấy trong lá số nào đâu.
Còn nhiều cách lẩm cẩm tương tự. Nhưng chúng tôi không làm công việc điểm sách Tử vi vì e rằng có những sự hiểu lầm. Thực lòng, chúng tôi chỉ mong góp một phần nhỏ trong việc bảo tồn và làm sáng tỏ chân lý Tử Vi mà thôi. Chúng tôi xin đề nghị với quý bạn mới nghiên cứu Tử Vi nên chịu tốn công một chút, học cách an sao thuộc lòng, cũng như người làm tóan thì cần thuộc lòng bản cửu chương. Chừng ấy quý bạn có thể tự mình nhận xét, tìm thất những cách không hề xảy ra khi an sao, lập thành lá số. Thí dụ như khi đã quen với cách tính thuộc lòng, lại thất sách viết: “Tử Vi có Thái Âm, Thái Dương hợp chiếu” lúc ấy quý bạn có thể nhận ra rằng đó là một quái thai Tử Vi vậy.
Nếu theo cách an sao trong các sách Tử Vi hiện nay, thì không một tuổi nào có Kình Dương ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, quý bạn cứ xem lại các sách Tử Vi thì sẽ rõ.
Tuổi Giáp, tuổi Mậu thì tuyệt đối không khi nào có Kình Dương ở Dần, Thân.
Còn đối với các tuổi khác thì có thể, theo một cách tính Tử Vi xưa, có Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi không phải ngẫu nhiên mà có chuyện Kình Dương đắc đại ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Trong một số đáng kế những lá số Tử Vi viết và luận sắc sảo bằng chữ Hán mà chúng tôi sưu tầm được, thì thấy có tính đến Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Ngoại trừ hai tuổi Giáp và Mậu.
Riêng trong cuốn Tự Điển Tử Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản năm 1952, có nói vắn tắt là Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Tị, Hợi. Nhưng trong phần an sao thì cũng không trình bày cách tính thế nào mà được Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Tị, Hợi.
Sách Tử Vi Chỉ Nan của tác giả Song An Đỗ vẫn lưu xuất bản năm 1957, cũng có nói đến Kình Dương đắc địa ở Dần, Thân, Hợi hãm ở Tị. Thế mà trong phần an sao, cũng không chỉ dẫn tính cách nào cho có được Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi.
Chẳng lẽ đã viết sách lại còn giấu nghề, nhất là đã có công sưu tầm sách chữ Hán để dịch ra chữ Việt. Có lẽ quý vị ấy cũng chưa khám phá hết cái sai lầm có dụng ý của người xưa.
Ông Cao Trung đã có lần nói đến những cái “ sai lầm có dụng ý” của người xưa, trong lá thư Toà soạn kỳ bào số 20.
Chúng tôi được biết số, hiện nay có một thầy Tử vi uyên thâm tại Sài Gòn, khi bấm số Tử vi vẫn tính có trường hợp Kình Dương đóng ở Dần Thân, Tị, Hợi. Nhưng cũng chẳng nói với ai. Không hẳn là vị Thầy ấy giấu nghề. Đứng vào tư thế của một người hành nghề, lại đưa ra một kinh nghiệm, hoặc một quan niệm có vẻ đi ngược lại trào lưu (dù là trào lưu sai lầm) thì dễ gặp những sự chống đối, chất vấn, có khi đi đến chỗ đánh đố vặt, chẳng lợi lộc gì, chi bằng cứ giữ im lắn, chẳng thiệt thòi, lại đỡ va chạm, thêm ồn ào.
Trong một bài khác chúng tôi sẽ trình bày trường hợp Kình Dương ở Dần, Thân, Tị, Hợi và cũng trình bày một vài quan niệm về các trục Tý - Ngọ, Mão - Dậu, Dần – Thân, Tị - Hơị, Thìn - Tuất, Sửu – Mùi.
Bây giờ xin trở lại với điểm chính của bài này.
Nếu những công thức tưởng tượng như đã kể trên không làm hại cho việc luận đoán một lá số ( vì làm gì có những công thức ấy khi an Sao) thiì những câu phú chữ hán được dịch một cách ngớ ngẩn đã làm cho người nghiên cưú Tử Vi rơi vào một “ Mê hồn trận”. Thí dụ như một số câu phú sau đây:
“ Mộc Dục độc thủ, chỉ hảo dã dong”
Được dịch:
“Thân, Mệnh có một sao Mộc Dục toạ thủ thì chỉ làm thợ bạc hay thợ rèn” (trang 47, Tử Vi Đẩu Số, quyển Hạ tác giả Nguyễn Mạnh Bảo).
Cùng viết một các chữ “Dã” có hai nghĩa: một nghĩa là nấu đúng đổ kim khí, nghĩa thứ 2 là trau dồi vẻ đẹp.
Và Dã Dong, hay là Dã Dung là một chữ kép có nghĩa là trau dồi, làm dáng, trau dồi dung mạo.
Lại như câu:
Thái Tuế phùng Thất Sát
Mệnh viên, hung trung gia diệu toán
Được dịch là:
Mệnh có Thái Tuế gặp Thất Sát tuy trọng hung nhưng phải xem các thủ chiếu rồi mới đoán (trang 90, Tử Vi Bổ Túc N, M.
Hung là lồng ngực, cái ngực của thân mình.
Hung trung là trong lòng.
Gia Diệu Toán là thên tính toán giỏi.
Câu ấy chỉ có nghĩa là Thấy Sát và Thái tuế ở Mệnh thì trong lòng thêm cơ mưu, tính toán giỏi.
Câu này tương tự như câu “Thái Tuế phùng Thất Sát, trí dùng hữu dư” vậy.
Chữ “Hung trung” là để đối lại với chứ “Thân thượng” trong câu”:
“Trường Sinh hội Thiên Lương, ư Phúc địa thân thượng hữu kỳ tài”.
Có lắm trường hợp, câu chữ Hán được in vào sách, gần như chỉ để trang trí cho cuốn sách Tử Vi đó mà thôi.
Thí dụ như câu:
Tinh lâm miếu vượng địa, tái quan sinh khắc chi ư”
“Mệnh sinh cường cung, tế sách chế hoá chi lý
(Tử vi Đẩu Số - Nguyễn Mạnh Bảo – trang 2 - quyển Hạ)
Câu chữ hán đã in sai, còn lời giải thích thì mông lung, gần như không có liên hệ đến câu chữ hán.
Chúng tôi xin miễn nói lại ý nghĩa hai câu này, vị cụ Quản văn Chính đã giải thích rõ trong đặc san này, số 7 và số 9.
Gặp những chữ hán, tương tự như vài chữ Việt, mà vội vã thông qua, vội dịch theo cái cảm quan của riêng mình, thì cũng dễ tạo thành chuyện khôi hài.
Thí dụ như câu:
“Phá toạ ly, ngôn ngữ thô bạo, phùng Lộc, Dương, năng giải xướng cuồng’.
(Tử Vi Đẩu Số tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang – trang 143).
Dịch là:
“Cung Mệnh an tại Ngọ có Phá toạ thủ, nên hay gắt gỏng thô lỗ. Đây, nếu Phá, hoặc gặp lộc đồng cung hoặc gặp Thiếu Dương hội hợp lại vui tính, hay đùa bỡn”.
Chữ “Xướng cuồng” đây nghĩa là làm càn, làm xằng bậy, chứ nào có nghĩa vui sướng, hát xướng, cuồng loạn, rửng mỡ!
Chữ “ Năng giải xướng cuồng” có nghĩa là có thể giả được sự làm càn, làm xằng bậy, đối lại với mấy chữ “ Ngôn ngữ thô bạo” ở trước.
Lại có trường hợp, một câu chữ Hán bị sửa sai lệnh hẳn đi chỉ vì người luận đoán không khiểu nghĩa câu chính.
Thí dụ như câu: “Tử Vi tu cần Tam Hoá, nhược phùng Tứ Sát, phong bãi hà hoa”.
Chữ “Bãi” nghĩa là đưa qua đưa lại.
“Phong bãi hà hoa” là gió thổi cành hoa sen đưa qua, đưa lại, là canh hoá vị gió vùi dập.
Ấy vậy mà chúng tôi đã gặp câu này, trong một vài trường hợp khác lại được sửa là “ Phong Bão hà hoa”.
Thật là một sự phối hợp kỳ diệu chữ Bão (chữ Việt thuần tuý) và chữ Phong ( Chữ Hán Việt) - Chữ Hán làm gì có chữ Phong Bão là gió bão.
Như đã trình bay ở trên, chúng tôi không làm công việc điểm sách Tử Vi, e rằng có sự hiểu lầm.
Trong những sách Tử Vi kể trên cũng như trong một số sách Tử Vi khác, còn nhiều công thức các bộ sao tưởng tượng, mà dường như sách sau chép lại của sách trước, và cũng còn nhyiều câu chữ Hán dịch quá cẩu thả.
Chúng tôi chỉ nên lên một vài trường hợp đặc trưng. Mong rằng quý soạn tác giả khi xuất bản hoặc tái bản sách Tử Vi nên lưu ý thận trọng hơn.
Chúng tôi xin thành thật khâm phụ hầu hết quý vị soạn giả sách Tử Vi., vì đã có công rất lớn trong việc mở đường cho phong trào nghiên cứu Tử Vi được sâu rộng như ngày nay. Tiếc rằng mới đây trên thị trường, đã có cuốn sách Tử Vi, đầy rẫy những lỗi lầm tử phần ấn loát đến phần dịch thuật, mà có lẽ không nói đến tên cuốn sách ấy, quý vị trong giới Tử Vi đều có thể nhận biết dễ dàng. Đó thật là Tử Vi gặp Tứ Sát vậy.
Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí
Tết Nguyên đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết), là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác. Vì Trung Quốc và một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc dùng lịch pháp theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng). Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau. Phong tục của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam vô cùng phong phú. Nào là chúc Tết, lì xì, bày mâm ngũ quả, trồng cây nêu, gói bánh chưng, treo câu đố,….Tất cả tạo thành nét đẹp văn hóa ngày Tết của người Việt. Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Nên lưu ý là từ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Trung Quốc và Việt Nam. Câu đối có nguồn gốc từ người Trung Quốc. Người Trung Quốc gọi câu đối là đối liên nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù. Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa chữ Hán, người Trung Quốc quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa". Đối liên có lịch sử ra đời cách đây khoảng 3000 năm, nhưng theo Tống sử Thục thế gia, câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà Hậu Thục (934-965) là Mạnh Sưởng viết trên tấm gỗ đào vào năm 959. Khi viết câu đối, nếu chọn được câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh đối hay đối cân. Ngày Tết thiếu câu đối Tết là chưa đủ Tết. Trong nhà dù tranh hoàng thế nào mà thiếu câu đối đỏ, Tết vẫn phảng phất thiếu một cái gì đó thiêng liêng. Câu đối xưa được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm bởi những người có học hành, chữ nghĩa giỏi mà dân gian gọi là Ông Đồ nhưng ngày nay thì câu đối tết còn được viết bằng chữ quốc ngữ với những nội dung phong phú và rất đẹp. Làm câu đối, thách họa đối, chơi câu đối,…vốm là hinh thức sinh hoạt độc đáo và tao nhã của người Việt Nam. Nó thể hiện trí thông minh sắc sảo, cách xử sự linh động và cao thượng, thế giới quan lành mạnh cũng như những mong ước tốt đẹp trong cuộc sống thường ngày. Tết đến, câu đối lại càng khó có thể thiếu trong niềm vui đón chào năm mới của mỗi gia đình. Ngày xưa, câu đối thường treo lên cột, khắc trên khung mái, hoặc viết lên cổng, cửa, tường nhà, đền miếu, đình chùa... Đặc biệt, hai hàng cột gỗ hai bên bàn thờ phải treo câu đối, còn phía trên bàn thờ là hoành phi, cuốn thư. Tất cả làm cho không gian thờ cúng trở nên cân bằng vuông vức như có khuôn phép, tạo cảm giác hài hòa, trang trọng và linh thiêng. Câu đối được làm từ nhiều chất liệu: có loại sơn son thiếp vàng để dùng lâu dài, có loại làm bằng giấy bồi (gọi là liễn) hoặc cắt bằng giấy màu, viết bằng mực nho... để dễ thay đổi theo từng năm, từng mùa cho mới, cho hợp hoàn cảnh. Ngày thường, câu đối chỉ treo trên bàn thờ. Ngày tết thì treo ở nhiều nơi, thậm chí những người ham mê và muốn giữ tục lệ cũ còn chơi câu đối giấy, dán suốt từ ngoài cổng vào trong nhà! Câu đối có thể mua sẵn hoặc nhờ, thuê người viết, nhưng hay nhất vẫn là do tự chủ nhân làm ra. Mỗi câu đối gồm hai vế có số chữ bằng nhau, ý nghĩa và luật bằng trắc đối chọi hoặc tương hợp nhau. Câu đối thể hiện những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và cuộc sống trần thế, về năm mới và mùa xuân, đề cao đạo lý cùng những quan niệm đẹp, cầu mong mọi việc tốt lành... Mơ ước năm mới vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát đạt và có nhiều bạn bè. Dịp tết, thường phải có câu đối đỏ. Màu đỏ vốn được coi là màu rực rỡ nhất và theo quan niệm dân gian, là biểu tượng của sức sống mãnh liệt (máu, lửa). Nó vừa nổi trội vừa hài hòa với màu xanh của bánh chưng, màu vàng của hoa mai... làm tươi sáng thêm không khí tết, tạo cảm giác ấm áp trong mùa xuân mới. Từ xa xưa, Tết Nguyên Đán đã trở thành một bộ phận hợp thành nét văn hóa đặc sắc của người dân Việt Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Nó được thể hiện trên nhiều phương diện như: chúc tuổi, lì xì,….và đặc biệt qua phong tục dán câu đối Tết. Đó là nét văn hóa cần được duy trì và phát triển.
Nguồn: Lính Chì
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
Đây là điển cố thứ Ba sáu trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Tương Tử Ngộ Tân (còn gọi là Hàn Tương Tử Gặp Lã Động Tân). Quẻ Quan Thế Âm Tương Tử Ngộ Tân có bắt nguồn như sau:
Hàn Tương Tử là một thư sinh phong lưu tuấn tú trong Bát tiên của Đạo giáo. Có thuyết cho rằng, Hàn Tương Tử là do con rồng vàng do vợ của vua Vũ là Nữ Anh sinh ra biến hóa thành. Đầu tiên, rồng vàng là một con trùng nhỏ, để tránh bị Nga Hoàng truy sát, đã trốn vào trong ống trúc rỗng ruột, sau đó rồng vàng tu luyện thành tiên trong động Hoàng Long ở núi Lao Sơn, hóa thành Hàn Tương Tử. Có một thuyết cho rằng, Hàn Tương Tử là cháu của nhà văn học nối tiếng đời Đường Hàn Dũ, các tác phẩm như “Thái Bình quảng ký” hay “Tiên truyện thập di” đều có nhắc đến ông. Thuyết này sở đĩ cho rằng Hàn Tương Tử là cháu của Hàn Dũ, bởi vì trong lịch sử Hàn Dũ đúng là có một người cháu tên là Hàn Tương Tử, từng làm quan đến chức Đại Lý thừa.
Truyền thuyết Hàn Tương Tử thành tiên xuất hiện sớm nhất trong tác phẩm “Dậu Dương tợp trở” của Đoạn Thành Thức đời Đường. Trong sách nói rằng, Hàn Dũ có một người cháu họ xa trẻ tuổi, họ Hàn tên Tương Tử, tự là Thanh Phu, tính tình phóng đãng không chịu bó buộc, không thích đọc sách, chỉ thích uống rượu. Tương truyền người này học đạo thành tiên, năm hai mươi mốt tuổi đến Lạc Dương thăm người nhà, rồi ham thích núi sông mà một đi không trở lại, nhiều năm bặt vô âm tín. Vào niên hiệu Nguyên Hòa đời Đường (805 – 820), lại đột nhiên quay về Trường An, quần áo cũ rách, hành vi khác thường. Hàn Dd cho anh ta vào thư viện học cùng với những thư sinh khác, nhưng khi thảo luận thì anh không nói một lời. Anh thích cùng với những người thấp hèn đánh bạc, uống say rồi ngủ trong chuồng ngựa, khi đã ngủ thì ngủ từ ba đến năm ngày. Điều đó khiến cho Hàn Dũ hết sức lo lắng, thường hay trách móc rồi khuyên bảo: “Mỗi người đều có một sở trường, đến như kẻ tiểu thương cũng có một chút sở trường, ngươi phá phách như vậy, thì sau này có thể làm được gì đây?” Hàn Tương nói: “Cháu cũng có một tài nghệ đấy, chỉ là chú không biết thôi!” Hàn Dũ hỏi: “Thế ngươi có thể làm gì?” Lúc này đang vào đầu mùa đông, thời tiết lạnh giá, cây cối lụi tàn. Hàn Tương Tử nói: “Hiện giờ có thể hạ lệnh cho mẫu đơn nở hoa, hoa nở có nhiều màu sắc”, rồi góp chậu đố đất, trong chốc lát mẫu đơn đua nở, khiến Hàn Dũ hết sức kỉnh ngạc.
Theo các tác phẩm “Hàn Tương Tử dẫn độ thăng tiên hội” và “Hàn thoái chi tuyết ủng Lam Quan ký” thời Nguyên, câu chuyện Hàn Tương Tử đắc đạo thành tiên đã mang sắc thái thần thoại rõ ràng:
Hàn Tương Tử vốn là một con hạc trắng ở phía trước chỗ ngồi của Đông Hoa Công và Tây Thành Công trong động Hoàng Lão ở phía tây núi Tân Long, thuộc cánh đồng Thương Ngô, vì thường nghe các vị thần tiên giảng đạo mà lĩnh hội được, chỉ vì bản thân là chim, cho nên không được lên cùng hàng với tiên. Sau đó, Lã Động Tân dạy cho Tương Tử (khi đang là chim) cách biến đối thành loài người trước, trút bỏ lông mao trên người. Con chim hạc trắng này liền đầu thai vào nhà họ Hàn ở huyện Mạnh, Hà Nam, sau khi sinh ra được đặt tên là Hàn Tương. Hàn Tương mất cha mẹ từ nhỏ, được người chú họ Hàn Dũ đem về nuôi dưỡng thành người, hy vọng anh ta có thể dốc lòng theo Nho học. Lã Động Tân đối tên là “Quan Vô Thượng” đi truyền đạo, giác ngộ Hàn Tương, khiến cho Hàn Tương nhanh chóng thành tiên, gọi là “Dao Hoa Đế Quân”, được xếp vào hàng ngũ thần tiên.
Trong dân gian còn có một thuyết khác: Tương truyền thừa tướng An Phủ đời Hán có một người con gái, tên là Linh Linh, tài mạo song toàn, đã hứa gả cho Hàn Tương. Nhưng hoàng đế nhà Hán lại muốn gả cô cho người cháu trong hoàng thất của mình, An Phủ kiên quyết không đồng ý. Hoàng đế nhà Hán rất tức giận, bãi quan Hàn Tương, bắt sung quân, Linh Linh buồn rầu mà chết, Hàn Tương đầu thai thành con chim hạc trắng. Hạc trắng được Lã Động Tân giáo hóa, lại đầu thai đến huyện Xương Lê, trở thành con trai của Hàn Hội, tên là Tương Tử. Hàn Tương Tử mất cha khi còn nhỏ, được người chú là Hàn Dũ nuôi dưỡng. Sau khi lớn lên lại được hai vị tiên Chung Ly Quyền và Lã Động Tân truyền cho thuật tu hành. Hàn Dũ nhất quyết phản đối việc Hàn Tương tu đạo, thường răn dạy anh ta. Hàn Tương vì thế mà xuất gia, ẩn cư tu đạo ờ núi Chung Nam, sau tu thành chính quả, được liệt vào hàng Bát tiên.
Quẻ Quan Thế Âm Tương Tử Ngộ Tân là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 36 !
Quẻ này là tượng con khỉ thoát khỏi giam cầm.
Những việc mong cầu trước khó sau dễ.
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
Hà Anh Tuấn (17/12/1984) - Chàng trai Nhân Mã đầy cá tính |
![]() |
Thanh Hằng (22/07/1983) - Cô gái Cự Giải đầy mạnh mẽ |
![]() |
Có hay không mối duyên kì lạ giữa Nhân Mã và Cự Giải? |
![]() |
Đây là điển cố thứ Bốn tư trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Duy Ngãi Đấu Trận (còn gọi là Khương Duy Và Đặng Ngãi Đấu Trận). Quẻ Quan Thế Âm Duy Ngãi Đấu Trận có bắt nguồn như sau:
Khương Duy là đại tướng nhà Thục Hán, Đặng Ngải là tướng quân của nước Tào Ngụy. Câu chuyện hai người đấu trận xuất hiện trong Tam Quốc diễn nghĩa. Khương Duy và Đặng Ngải gặp nhau ở núi Kỳ Sơn, hai quân đội dàn trận ở trước núi Kỳ Sơn. Khương Duy theo phương pháp “bát trận” của Vũ Hầu, dựa vào hình thái của trời, đất, gió, mây, chim, rắn, rồng, hổ đế sắp xếp trận thế. Đặng Ngải thấy Khương Duy dàn thành trận đồ Bát quái, cũng bố trí quân đội của mình thành trận đồ Bát quái. Khương Duy cầm cây thương từ trên lưng ngựa nói lớn: “Ngươi bắt chước ta, bày thành trận đồ Bát quái, vậy ngươi có thể biến trận được chăng?”
Đặng Ngải cười nói: “Ngươi cho rằng thế trận này chỉ có ngươi biết bày hay sao? Ta đã bày trận được, lẽ nào lại không biết biến trận?” Rồi thúc ngựa đi vào trận đồ, lệnh cho quan chấp pháp phất cờ ra hiệu, biến thành tám tám sáu mươi tư cửa, rồi Đặng Ngải lại đi ra phía trước trận đồ, hỏi: “Biến pháp của ta thế nào?” Khương Duy nói: “Tuy là không tồi, nhưng ngươi có dám đấu vây cùng trận đồ Bát quái của ta không?” Đặng Ngải đáp: “Có gì mà không dám!”
Thế là hai đội quân đều tiến lên theo đội ngũ của mình. Đặng Ngải ở giữa đội quân điều khiển đội ngũ. Hai đội quân đối đầu nhau, trận pháp không sai lệch chút nào. Khương Duy đi đến giữa đội quân của mình, cầm cờ lệnh phất lên, đột nhiên biến thành trận đồ “trường xà quyển địa” (rắn dài cuốn đất), vây hãm Đặng Ngải vào giữa, bốn bề tiếng hò reo vang dậy. Đặng Ngải không hiểu được phép biến hóa của trận pháp này, trong lỏng rất sợ hãi. Quân Thục dần dần vây đến gần, Đặng Ngải dẫn các tướng muốn phá vây xông ra nhưng không thành, chỉ nghe thấy tiếng quân Thục đồng thanh hô lớn: “Đặng Ngải mau ra hàng!” Đặng Ngải ngẩng lên nhìn trời thở dài: “Ta nhất thời cậy tài, đã trúng kế của Khương Duy rồi!”
Bỗng nhiên, ở góc phía tây bắc có một toán quân đánh vào, Đặng Ngải thấy là quân Ngụy, bèn thừa thế đánh ra. Người cứu Đặng Ngải là Tư Mã Vọng. Sau khi Tư Mã Vọng cứu Đặng Ngải ra, thì chín doanh trại của quân Ngụy đóng ở núi Kỳ Sơn đều bị quân Thục cướp mất cả. Đặng Ngải mang theo bại quân, đóng quân ở phía nam sông Vị Thủy. Đặng Ngải hỏi Tư Mã Vọng: “ông làm thế nào mà hóa giải được trận pháp đó của Khương Duy?”
Tư Mã Vọng trả lời: “Ta lúc nhỏ đi học ở Kinh Nam, từng kết bạn với Thôi Châu Bình và Thạch Quảng Nguyên, đã từng luận bàn về trận đồ này. Trận đồ mà Khương Duy biến hóa ra hôm nay, chính là trận “trường xà quyển địa”. Nếu như tấn công từ những vị trí khác, chắc chắn sẽ không thể phá được. Tôi thấy phần đầu của trận thế ở phía tây bắc, cho nên tấn công từ phía tây bắc, tự nhiên sẽ phá được thôi.”
Đặng Ngải nói: “Ta tuy có học được trận pháp, nhưng thực không hiếu về biến pháp, ông đã biết được phép ấy, ngày mai hãy sử dụng phép ấy chiếm lại các doanh trại cũ ở Kỳ Sơn, ông thấy thế nào?”
Tư Mã Vọng nói: “Những gì mà ta học được, e rằng không qua mặt được Khương Duy!”
Đặng Ngải nói: “Ngày mai ông đấu trận pháp với hắn, còn tôi sẽ dẫn một đội quân, đánh úp quân đội ở sau núi Kỳ Sơn của hắn. Hai bên cùng đấu, có thể lấy lại được doanh trại!” Vì thế lệnh cho Trịnh Luân làm tiên phong, Đặng Ngải tự mình dẫn quân tập kích ở sau núi, mặt khác lại sai người soạn thư khiêu chiến, hẹn Khương Duy ngày hôm sau đấu trận pháp.
Khương Duy đã biết được mưu kế của Đặng Ngải, nhưng vẫn nhận lời đấu trận, lại sai Liêu Hóa mai phục ở sau núi, đợi quân của Trịnh Luân vừa vòng qua sườn núi, Liêu Hóa lập tức dẫn quân đánh ra, một đao chém Trịnh Luân rơi xuống ngựa. Đặng Ngải rất kinh hãi, vội vàng lui quân, nhưng lại bị tướng của quân Thục là Trương Dực tấn công, quân Ngụy đại bại.
Xem bói Quẻ Quan Thế Âm Duy Ngãi Đấu Trận là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 44 !
Quẻ này là tượng gặp phải kỳ phùng địch thủ.
Những việc mong cầu phài bỏ công suy tính mới được tốt đẹp thuận lợi.
Đạo hiếu xuyên suốt trong mọi phong tục của nhân dân ta, không thể không nói đến chữ hiếu khi viết về phong tục cổ truyền của ta. Lễ tế, lễ tang, lễ cưới, kể cả sinh đẻ, xây nhà dựng cửa, hội hè đình đám, việc nước, việc làng, thuần phong mỹ tục đã đành mà trong số những phong tục đã lỗi thời, ngày nay bị xếp vào loại đồi phong bại tục, ta cũng chắt lọc được một phần tinh hoa của đạo hiếu.
"Hiếu" là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong "Luân lý giáo khoa thư" các em đã hiểu: "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"... Những chân lý đó, ai không chấp nhận, song quan niệm về chữ "Hiếu" ngày nay cũng có phần khác thời xưa.
Tôi không dám lên mặt dạy đời, chỉ xin thuật lại một buổi tranh luận trong nội bộ gia đình tôi:
Trước hết tôi hỏi" "Hiếu" là gì? Cháu nhanh nhảu trả lời: "Hiếu" là hiếu với dân, Bác Hồ khuyên" "Trung với nước, hiếu với dân". Đài báo cũng nhắc luôn: " Hiếu với chân, tức là cán bộ phải chăm lo cho dân, đừng ăn hôi lộ, đừng hách dịch với dân".
- "Việc hiếu" là gì?
- "Việc hiếu " là việc ... là việc... là việc cán bộ chăm lo cho nhân dân mà không ăn của đút, không... Đến đây cháu lúng túng. Thằng con út tôi trả lời thay:
- "Việc hiếu" là việc đưa đám ma, vì hôm trước, đưa đám ma xong, ông hàng xóm đứng lên cảm ơn thân bằng cố hữu đã giúp gia đình lo xong việc hiếu....
Đến đây, được chú em tôi phụ hoạ thêm:
- Cháu nói có lý đấy anh ạ! "Việc hiếu" là việc đối với người chết, cho nên người ta thường nói "Hiếu", "Hỷ", tức là chỉ việc tang, việc cưới. Nhưng cháu ạ, việc hiếu phải ba năm chứ không phải đưa ma xong là xong đâu ! Đến như tiến sĩ Lý Trần Quán, một người tận trung tận hiếu cuối triều Lê, trước khi chết còn viết đôi câu đối "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn. Thập phần chi trung vị tận" (Chữ "Hiếu" 3 năm đã xong, chữ "Trung" mười phần chưa trọn).
- Hiếu đối với người chết, còn đối với người sống thì sao? "Sự tử như sự sinh" kia mà?
- ồ, anh muốn biết con anh có hiếu hay không, xin anh hãy ráng chờ sau khi anh chết sẽ rõ. Ca dao có câu "Khi sống thì chẳng cho ăn. Đến khi chết xuống làm văn tế ruồi". Thời xưa còn thế nữa là bây giờ. Nhưng anh cũng đừng lo ruồi ăn hết phần, vì thanh niên ngày nay có biết đọc văn nữa đâu mà tế ruồi.
Đến đây lại chuyển sang mục tranh cãi giữa tôi và chú em về quan niệm chữ "Hiếu" thời xưa vàc thời nay.
- Thời nay lớp trẻ chẳng biết "Chín chữ cù lao" là cái gì. Công ơn mang nặng đẻ đau, nuôi con khôn lớn tốn bao nhiêu tâm lực, đến nay chúng nó có lớn mà chẳng có khôn.
- Tôi phàn nàn - Đã thế còn hỗn láo, bướng bỉnh...
- Đó chẳng qua là cái món nợ đồng lần, mình nuôi con rồi nuôi cháu cũng thế. Lớp trẻ bây giờ nhiều người nói ngược: "Sinh ra ta, nuôi ta lớn lên, đó là trách nhiệm của các ông bô bà bô". Có đứa còn trách bố mẹ: "Sao người ta ăn sung mặc sướng, được chiều chuộng. Bố mình thì "Khắt khe", "Ky bo' mà còn kể ơn huệ!" - Chú em tôi kể thêm.
Đối với những ông bố bà mẹ có những đứa con như vậy, quả thật là bất hạnh, song cũng phải khẳng định số người đó rất ít, vả lại khi đến tuổi trưởng thành, được tiếp thu sự giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và qua khảo nghiệm thực tế của cuộc đời, chúng sẽ thay đổi tính tình. Bố mẹ bao giờ cũng sẵn sàng tha thứ, nước mắt chảy xuôi là lẽ thường tình.
Bàn đến câu ca dao: "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư", rồi "Trứng khôn hơn vịt"... được dịp, con cả tôi xen vào:
- Con xin phép cha mẹ và chú, con cãi cha mẹ không phải trăm phần trăm con hư cả. Nếu cha mẹ nghĩ sai làm sai, con can ngăn thì đó có phải là bất hiếu đâu!
Ông chú gật gù tán thành:
- Cháu nói có lý. Câu "Con cãi cha mẹ trăm phần con hư" chỉ đúng khi đứa con còn thơ ấu, chứ khi đã trưởng thành có nhiều cô cậu còn khôn hơn cha mẹ. "Con hơn là nhà có phúc" mà ! Thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật tiến vùn vụt, tư duy chính trị, kinh tế bây giờ cũng đổi mới mà cánh già chúng ta thường hay thủ cựu, bảo thủ cố chấp. Âu cũng là mâu thuẫn giữa hai thế hệ...
- Theo chú, câu tục ngữ "Có con tội sống, không có con tội chết" có đúng không?
- Đúng thời xưa nhưng không đúng thời nay. Thời xưa có câu "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" (có 3 điều bất hiếu với cha mẹ, trong đó không có con là điều nặng nhất). Cha mẹ ông bà tuy đã qua đời nhưng không còn sống trong ta, nếu ta không có con thì sau khi ta chết, ta cũng làm tiêu tan nốt giòng máu của bao đời tổ tiên, ông cha lưu lại. Nhưng còn tội sống thì sao ? Có ít người cho rằng nuôi con chẳng qua chỉ mang thêm tội vạ. Đã vậy sao nhiều người ghét con lại thương cháu. Có lẽ họ nghĩ rằng chon họ đã không nối được nghiệp cha ông thì hy vọng cháu mình sẽ nối.
Trong cuốn "Một nghìn lẻ một đêm" một nhà thông thái đã trả lời đám đông: "Nỗi khổ nhất và dai dẳng nhất trên đời là có đứa con hư". Nhưng còn một mặt khác, mà là mặt tích cực và phổ biến "Con khôn nở mặt mẹ cha" "Một con một của", có ai từ. Gặp nhau người ta hỏi thăm nhau: "Mấy trai máy gái rồi ?", chứ có hỏi: "Mấy của rồi ?"đâu. Còn như câu "Trẻ cậy cha, già cậy con" ngày nay liện còn đúng không ?
Nhân nhắc đến những gương hiếu kính thời xưa được nhà vua ban biển vàng như thời vua Lê Huyền Tông cách đây gần ba trăm năm (1663-1671), ban biển đỏ với bốn chữ vàng "Hiếu hạnh khả phong" như thời vua Hàm Nghi cách đây hơn một trăm năm (1885-1888) chú em tôi thắc mắc có tính chất gợi ý: "Thời nay thiếu gì gương hiếu kinh sao từ trung ương đến địa phương chưa thấy có hình thức khen thưởng biểu dương gì ?. Trong quyển "Nhị thập tứ hiếu" có Lục Tích người quận Cửu Chân mới 6 tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong dấu quả quýt mang về cho mẹ Quận Cửu Chân là đất Thanh Hoá ngày nay. Lục Tích cũng được liệt trong số "Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu", sao trong sử sách ta, không thấy nói đến.
Ông chú vừa dứt lời, cậu con trai thứ của tôi xen ngay :
- Tưởng ai nổi danh, chứ như Lục Tích giấy quýt về cho mẹ cũng đưa vào sử sách, thì ở nước ta giấy mực đâu mà thống kê cho hết, ở một vùng cũng đến hàng ngày hàng vận người. Ngay như cháu đây, lúc nhỏ cùng đi ăn giỗ với chú ở nhà thờ họ, hẳn chí còn nhớ, lúc đó cháu mới bốn, năm tuổi, cháu còn nhớ chú xé sẵn cho cháu một tài lá chuối trước khi ăn cỗ, thế rồi phần giò, phần nêm, chả, xôi, hoa quả của cháu, cháu đều gói cả lại mang về phần mẹ, phần em, mặc dầu cháu rất thèm, cháu hơn hẳn Lục Tích chứ chú!
Nghe con nhắc lại chuyện cũ, vợ tôi nhoẻn miệng cười gật đầu tán thưởng. Tôi liếc thấy vợ tôi còn rơm rớm nước mắt vì cảm động.
Cậu con thứ của tôi, bỗng quay lại phía chú, đột ngột hỏi:
- Vua ban bằng 'Hiếu hạnh" gì gì đó có đúng đối tượng không chú ? Hay lại nghe dưới tâu báo lên, chỉ phong cho bọn lắm tiền, khéo nịnh, để được ăn khao cho to ? Chú ạ, ngày xưa các cụ ngốc lắm" "Đức Đại thánh họ Ngu vua Thuấn" thì đúng là không khôn: hiếu với cha mẹ đã đành một nhẽ, chứ với mụ gì ghẻ cay nghiệt như kiểu mẹ con Cám, gặp phải cháu thì ăn đám chứ đừng hòng "Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt". Đời nhà ai, có người chôn con nuôi mẹ như Hán Quách Cự mà cũng được "Thơm nghìn muôn thu". Đáng lý ra triều đình phải ngiêm trị tội giết người, hơn nữa lại là tội giết hại trẻ con.
Cuối cùng chú em tôi quay sang hỏi tôi:
- Theo ý anh, thế nào là "Có hiếu", thế nào là "Bất hiếu". Giữa hai đứa con, anh chọn đứa nào, một như cháu đây: Con nhà nghèo, mới 4, 5 tuổi đã biết giành phần ngon về biếu mẹ, một là đưa giàu sang, không đúng ngày giỗ cha cũng lấy cớ bịa ra ngày giỗ, cỗ bàn linh đình để khoản đãi, cầu cạnh những kẻ cao sang, lmà ra vẻ người con chí hiếu, trong khi đó thì hắt hủi người mẹ quê mùa, lam lũ nghèo hèn như trong chuyện "Báo hiếu cha" của Nguyễn Công Hoan. Thế nào, giữa "Lục Tích nhà ta" mặc dầu có lúc còn hỗn láo bướng bỉnh và nhân vật "Chủ hãng ô tô con cọp" của Nguyễn Công Hoan, anh chọn đứa nào?
Dường như để tránh dung dưỡng cho những điều không phải, chú em tôi quay lại, nhỏ nhẹ bảo cháu:
- Cháu ạ, cháu có thể tranh luận với cha mẹ nhưng phải lễ độ, từ tốn, phải biết lựa lời, chọn lúc, tuyệt đối không được có thái độ nóng nảy, cáu gắt, hỗn láo, nhất là khi có khách, khi ra đường, giữa công chúng, hoặc trước mặt vợ con, đừng để ông bà trên bàn thờ quở mắng bố mẹ cháu rằng không biết dạy con; đừng để vợ con cháu, em út cháu khinh nhờn bố mẹ cháu, tất nhiên cũng khinh nhờn cả cháu. Sau này cháu sẽ rõ: có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
Từ nãy đến giờ nhà tôi chỉ ngồi nghe, bây giờ mới lên tiếng: "Nghe cha con, chú cháu nhà ông nói thì ai cũng có lý "!
Xin mượn câu đó làm câu kết cho bài này.
► Xem phong thủy sim để biết số điện thoại của bạn mang lại may mắn hay vận hạn |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Những thú vị từ 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất |
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy phòng ngủ và những ảnh hưởng đến gia chủ |
Nhà Trắng (Washington, Mỹ) là nơi ở và làm việc của Tổng thống Mỹ cùng gia đình. Công trình này mang phong cách tân cổ điển do James Hoban thiết kế, có 132 phòng, 35 WC, 6 tầng ở, 28 lò sưởi, 8 cầu thang và 3 thang máy. Chú chó Bo của gia đình ông Obama chụp trong khuôn viên tòa nhà.
Thỉnh thoảng, ông Obama cũng có những phút vui đùa với con cái của nhân viên trong phòng Bầu Dục, nơi làm việc chính của ông.
Ông bà Obama và hai con gái trong trang phục lộng lẫy đi dự tiệc được tổ chức tại chính nơi ở của mình. Sảnh của tòa nhà có đèn chùm lộng lẫy được trang trí thêm hoa.
Vợ chồng ông Obama đãi tiệc tại phòng ăn lớn trong Nhà trắng. Các Tổng thống Mỹ chuyển vào Nhà Trắng đều có những chỉnh sửa nội thất cho phù hợp với mình.
Cậu bé Nicholas Tamarin (3 tuổi), con trai một cố vấn của Obama, đóng vai Người Nhện chơi đùa bên ngoài phòng Bầu dục.
Người dẫn chương trình nổi tiếng Jimmy Fallon có cơ hội chơi trò nhảy bao bố trong phòng Phía Đông.
Cả gia đình Tổng thống Mỹ dành thời gian vừa thưởng thức đồ ăn vừa xem một trận đấu bóng trong phòng Hiệp Ước.
Ông Obama cùng vợ tiếp đón những người tới thăm Nhà trắng tại phòng Xanh.
Chú chó Bo vui đùa cùng ông Obama ở những dãy hành lang dài nhưng nhiều ánh sáng của khu nhà.
Trong khuôn viên Nhà trắng có cả sân tenis, bóng rổ, bể bơi. Ông Obama thường tranh thủ những phút rảnh rỗi hiếm hoi để chơi thể thao và giao lưu với mọi người.
Gia đình cùng khách mời xem Siêu cúp bóng bầu dục Mỹ Super Bowl với kính 3D trong phòng chiếu phim.
Nhiều khu vườn được xây dựng trong suốt lịch sử của Nhà Trắng trong đó có Vườn Hồng nổi tiếng.
Phu nhân Tổng thống để lại dấu ấn với vườn rau xanh rộng 100 m2. Buổi tiệc chiêu đãi lãnh đạo các nước thường có đồ ăn chế biến từ rau quả gia đình tự trồng được.
Lam Huyền
![]() |
![]() |
Tiền sảnh hợp phong thủy mang tới tài vận tốt cho công ty |
![]() |
Những đồ vật trang trí có tính động ở tiền sảnh chuyển hóa tà khí thành vượng khí |
![]() |
Khi cung Tài Bạch của bạn phát triển không tốt nhưng đường Thái Dương thì đường tiền tài của bạn cũng khả quan hơn.
1. Tiểu Khang
Đường Thái Dương của bạn kéo dài từ gốc ngón áp út xuống đến đường Tình Cảm có nghĩa cuộc sống của bạn đạt đến mức độ của Tiểu Khang (có xe, có nhà, có khoản tiền gửi nhất định). Nói chung là bạn có của ăn của để, tốt hơn những người bình thường và kém hơn so với những người giàu có.
2. Tiểu Phú
Muốn được coi là Tiểu Phú thì ngoài việc cung Tài Bạch đầy đặn phát triển ra, đường Thái Dương của bạn cũng phải dài hơn so với trường hợp trên. Đường Thái Dương bắt đầu từ gốc ngón áp út kéo dài xuống và còn phải cắt qua Tình Cảm, như vậy thì tài vận của bạn sẽ rất tốt, hoặc gặp được quý nhân tương trợ, có thể đạt đến mức độ Tiểu Phú. Những người này thường từ 31 tuổi trở đi, sẽ tiến đến đỉnh cao của sự nghiệp.
|
3. Trung Phú
Có hai trường hợp: Thứ nhất là đường Thái Dương giao với đường Tình cảm rồi uốn cong tại gò Hỏa Tinh Âm. Trường hợp thứ hai là đường Thái Dương sau khi gặp đường Tình Cảm tiếp tục kéo dài đến gò Thái Âm. Nếu gặp được cả hai trường hợp trên thì chứng tỏ bạn đứng ở tầng lớp Trung Phú, bạn sẽ có được rất nhiều của cải, tiền bạc.
4. Đại Phú
Trên thực tế người có số đại phú là rất ít, cho nên người có bàn tay như vậy cũng rất hiếm. Nếu đường thái dương từ gốc ngón áp út kéo dài thẳng xuống giao với đường sinh đạo hoặc gần với đường sinh đạo thì người này có số đại phú đại quý. Trường hợp này cực hiếm bởi không phải ai cũng có đường Thái Dương dài như vậy.
Kunie
► Tra cứu ngày âm lịch hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hơn ai hết, các chuyên gia tử vi, phong thủy hiểu rõ tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Cuộc sống hiện đại, dễ dàng bố mẹ có thể tham khảo tư vấn để lựa chọn cho con cái tên tốt nhất.
Câu hỏi: Em sinh con vào ngày 28/7/2013 tức là ngày 21/6 Âm lịch. Trước khi sinh, bạn bè em cũng nhiều người khuyên nên đợi con ra đời, biết ngày biết giờ rồi mới đi xem tên cho con. Bạn bè em hay nói "Cái tên cũng rất quan trọng vì sẽ gắn kết với con cả đời, nhiều khi con quyết định vận mệnh con". Tuy nhiên, vì trước giờ hai vợ chồng cũng không quá quan tâm tới chuyện phong thủy khi đặt tên nên em cũng thường để ngoài tai. Thêm vào đó, vì thích con sau này sẽ thông minh, học giỏi nên vợ chồng em đã định đặt tên cho cháu là Anh Minh.
Minh nhà em rất khó nuôi. Con thường xuyên ngày ngủ đêm thức, ăn uống lại lung tung thất thường. Thêm vào đó, không hiểu sao từ khi có con, việc làm ăn buôn bán của chồng em lại xuống dốc hẳn. Hôm vừa rồi chị hàng xóm sang chơi, thấy em tâm sự chuyện con. Chị khuyên em nên đi khai sinh lại cho Minh. Chị bảo Minh tuổi Tỵ, loài rằn kỵ nhất là những tên thuộc bộ Nhật như Tinh, Đán, Tảo, Minh, Tình, Huy, Trí, Thời, Hiểu, Thần, Diệu, Yến, Tấn, Nhật…"Em đặt tên cho con như vậy, khó trách nó toàn ngày ngủ đêm thức. Chị không biết xem mệnh nhưng có lẽ tên con xấu cũng khắc bố nên việc làm ăn mới đi xuống" chị tâm sự.
Đặt tên cho con có đi xem phong thủy không ạ? Liệu có đúng là em nên khai sinh lại cho con vì đặt phải tên không hợp mệnh không?
Trả lời:
Phân tích cái tên
Bạn chưa cho thông tin đầy đủ, nên không thể xem cụ thể tuy vậy, theo ngày tháng bạn cho 28/7/2013, tức năm Quý Tỵ - tháng Kỷ Mùi - ngày Ất Mùi, đang trong tiết khí Đại thử. Tuy không có thông tin giờ sinh, nhưng cũng có thể nhận định là can ngày không được lệnh, Ất Mộc yếu gặp Kỷ Thổ mạnh, theo nguyên lý hóa giải ngũ hành trong cuốn "Trang sức đá quý ngọc theo phong thủy", cần bổ sung Mộc.
Hiện tượng quấy khóc, khó nuôi có nhiều nguyên nhân, như không hợp tuổi bố mẹ, trường khí đất nơi ở thấp hoặc không ổn định, sinh vào năm tháng ngày giờ không thuận lợi mà dân gian hay gọi là phạm giờ sinh. Cần phải xem cụ thể từng trường hợp để có kết luận đúng đắn.
Việc đặt tên theo năm sinh (cụ thể ở đây là năm Tỵ) chỉ dùng để tham khảo, bởi điều này tác động bởi ý nghĩa nhiều hơn là tác động bởi âm dương ngũ hành, nên không có quyết định được toàn bộ. Nếu xét tên theo ngũ hành, Anh (Mộc) Minh (Hỏa) thì cũng được tương sinh, nhưng trường hợp này đang cần Mộc, sinh cho Hỏa là bị tiết đi cũng không tốt.
Đặt tên cho con cũng khiến nhiều cha mẹ "đau đầu nhức óc" (ảnh minh họa)
Sử dụng phong thủy để hóa giải bé hay quấy khóc do không hợp mệnh
Khai sinh lại là quyền của bạn, cá nhân quan điểm của tôi là mọi trường hợp đều có hướng hóa giải. Ví dụ trường hợp này thiếu Mộc, bổ sung hành Mộc như quần áo màu xanh, cháu bé quá chưa đeo được trang sức, thì cũng có thể cho ít đá xanh vào dưới gối như mã não xanh, đá ô liu,... Tất nhiên nên nhớ đây là những viên đá nhỏ đường kính 1-2mm đã mài nhẵn, số lượng vừa phải trong khoảng 2-300gr, liều lượng cụ thể phải tùy thực tế cân nặng và thời gian định đặt. Như vậy sẽ giúp cháu ngủ ngon hơn, bớt quấy khóc.
Cách đặt tên cho con hợp mệnh
Từ phong thủy hay bị lạm dụng quá nên thành ra cái gì cũng phong thủy, phong thủy bản chất là nghiên cứu về khí, nhằm mục đích cân bằng khí của môi trường sống với cơ thể con người, chứ cũng không phải là gió và nước như nhiều người lầm tưởng. Họ tên liên quan nhiều hơn đến mệnh lý, có dính dáng đến phong thủy thì cũng là trên nền tảng âm dương ngũ hành, tuy vậy không nên đánh đồng với nhau. Họ tên tất nhiên liên quan nhiều đến tính cách, hay số phận, nhưng không thể trả lời ngắn gọn ở đây được. Bạn chỉ cần biết rằng, một cái tên dễ nghe, dễ nhớ cũng đã tạo thuận lợi hơn trong giao tiếp rồi.
Như đã nói ở trên về từ phong thủy, đặt tên thì nên suy xét đến mệnh lý, đến âm dương ngũ hành. Còn khi cần làm nhà dựng cửa, sẽ cần đến phong thủy.
Nguyên tắc cơ bản khi đặt tên con lại phải tùy theo quan niệm, trường phái hay cách đặt. Ví dụ có nhà kiêng đặt tên trùng với người lớn tuổi hơn trong dòng họ như ông bà bố mẹ cô dì chú bác, thì đó là nguyên tắc đặt tên của nhà đó gia đình đó. Còn về cơ bản, tên hợp và đẹp cần chú ý đến các nhân tố sau:
- Âm thanh: Khi âm thanh của tên một người được gọi ra, người ta có thể cảm nhận một cách trực tiếp bản thân người có cái tên đó và cảm nhận của người được gọi. Bản thân "âm" cũng bao hàm cả số (tần số âm), có số chính là có sự hiệu ứng. Do đó khi chọn tên cần lựa chọn những âm dễ nghe, dễ gọi, tránh những âm không thanh nhã và những âm gần giống nhau.
- Ý nghĩa: ý nghĩa của tên, nếu cùng biểu trưng cho một người thì không nên dùng những chữ không nho nhã, thô tục. Tốt nhất là có liên quan đến họ, tức là ý nghĩa của họ và tên phải thông suốt trời đất. Như tên Mai Lan Phương, tức là trong họ và tên có sự nâng đỡ lẫn nhau, cùng ca ngợi nhau. Nhiều cái tên thô tục quá như Nguyễn Thị Khoái, Lại Văn Nhanh,... dễ làm mọi người bật cười khi nhắc đến.
- Hình: Hình dạng của chữ thể hiện khả năng dẫn dắt và ám thị, sức khỏe của người đó. Cần chú ý kết cấu dài ngắn cân đối hài hòa.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
– Mệnh Mộc hợp màu gì? Màu sắc có vai trò cân bằng, hỗ trợ và điều hòa yếu tố âm dương trong phong thủy. Mỗi yếu tố ngũ hành khác nhau lại mang màu sắc đặc trưng không giống nhau. Hãy cùng tìm hiểu người mệnh Mộc hợp màu gì nhất nhé.
![]() |
![]() |
![]() |
Thái Âm là phú tinh nên có nhiều ý nghĩa tài lộc nhất
Thái âm chủ về tình cảm, hóa khí là phú, chủ cung Điền trạch.
Thái âm lạc hãm, vợ không hỗ trợ, cha mẹ không thể giúp đỡ, bất động sản không nhiều, tình cảm bất lợi, muôn sự không được như ý, Thái âm thêm sát tinh chủ về gan không tốt.
- Đại, tiểu hạn gặp thì nữ giới trong nhà chịu thương tổn.
- Thái âm lạc hãm chủ về muôn sự không toại ý, nếu thêm sát tinh thỉ có thể thương tổn. Mệnh nữ gặp chồng không tốt, tái giá 3 lần.
- Thái âm miếu vượng, vợ đảm đang, hiền thục, xinh đẹp hoặc ít ra có 1 trong 3 đặc điểm trên.
- Thái âm ở cung đối diện có Dương nhân chủ về vì ung thư Gan hoặc ung thư tuyến tụy mà qua đời.
- Thái âm và Văn xương đồng cung, có thể học xem mệnh, làm giáo viên hoặc hoạt động trong giới nghệ thuật
- Thái âm đồng cung với Thiên đồng ở cung Ngọ là người dễ mắc bệnh tương tư ,thuộc dạng người dễ thất tình hoặc yêu thầm người khác
- Thái âm đóng tại cung Tỵ là người số phạm đào hoa là mệnh nữ phần lớn là không chính trực ,nam thì đam mê tửu sắc, những người này có tài nhưng không gặp thời ,cả đời thường lưu lạc tha hương
- Thái âm miếu vượng tại Tuất ,Hợi tuy không tọa cung phụ mẫu cũng có mẹ tốt, không tọa cung điền trạch cũng có bất động sản.