Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất - Tử vi - Xem Tử Vi
Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất, Tử vi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất, tu vi Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất, tu vi Tử vi
Cùng tìm hiểu xem phải đợi bao lâu nữa tài vận sẽ đến với bạn nhé!
Tuổi Tý
Theo phân tích dựa trên tài vận trong một ngày của người tuổi Tý, thời điểm dễ gặt hái được thành công trong ngày chính là giờ Ngọ. Tý là thủy dương, Ngọ là hỏa âm, hai yếu tố tương trợ. Theo đó, căn cứ vào năm âm lịch, những năm Ngọ là thời cơ tốt nhất mang lại may mắn và thuận lợi cho công danh, sự nghiệp của người tuổi Tý.
Tuổi Sửu
Nếu tính theo một ngày, thời điểm người tuổi Sửu có nhiều vận may tài chính và dễ thành công nhất là giờ Tý. Sửu là thổ âm, Tý là thủy dương, hai yếu tố này có tính tương hỗ nên giờ Tý trong ngày là thời cơ tốt nhất cho con giáp này. Theo đó, nếu tính theo năm, người tuổi Sửu sẽ dễ dàng phát tài vào những năm Tý.
Tuổi Dần
Với người tuổi Dần, thời điểm mang lại nhiều may mắn và thành công nhất trong ngày chính là giờ Sửu và giờ Mùi. Dần là mộc dương, Sửu và Mùi là thổ âm. Các yếu tố này mang tính tương trợ cho nhau, giúp người tuổi Dần dễ dàng thu về nguồn tài chính lớn. Do đó, những năm Sửu và Mùi hứa hẹn thành công lớn cho người tuổi Dần.
Tuổi Mão
Nếu phân tích theo thời gian 1 ngày, thời cơ may mắn về tài vận của người tuổi Mão là giờ Thìn và giờ Tuất. Mão là mộc âm, Thìn và Tuất là thổ dương. Đây là những yếu tố có mối quan hệ tương hỗ. Khi gặp nhau, đó chính là thời điểm mang lại nhiều may mắn nhất. Xét theo thời gian một năm, những năm Thìn và Tuất sẽ giúp người tuổi Mão dễ phát đại tài.
Tuổi Thìn
Xét theo thời gian 1 ngày, giờ Hợi là thời điểm quy tụ nhiều tài lộc nhất cho người tuổi Thìn. Bởi Thìn là thổ dương, Hợi là Thủy âm, mang tính tương hỗ thúc đẩy nhau phát triển. Do đó, nếu phân tích dựa trên thời gian 1 năm, cơ hội phát tài của người tuổi Thìn sẽ vào năm Hợi.
Tuổi Tỵ
Nếu phân tích dựa trên thời gian 1 ngày, giờ Dậu là thời điểm mang lại nhiều may mắn về tài chính nhất cho người tuổi Tỵ. Bởi hai yếu tố, Tỵ là hỏa dương, Dậu và kim âm hỗ trợ cho nhau, giúp phát triển tài lộc cho người tuổi Tỵ. Do đó, tính theo thời gian 1 năm, năm Dậu hứa hẹn thời cơ chín muồi để người tuổi Tỵ phát tài một cách dễ dàng.
Tuổi Ngọ
Phân tích theo thời gian 1 ngày, thời điểm tài vận của của người tuổi Ngọ đạt mức đỉnh điểm là vào giờ Thân. Hai yếu tố Ngọ là hỏa âm, Thân là kim dương tương trợ cho nhau, tu vi giúp người tuổi Ngọ dễ dàng có được nhiều vận may tài chính. Xét theo thời gian 1 năm, con giáp này dễ dàng phát tài phát lộc nhất là vào năm Thân.
Tuổi Mùi
Phân tích độ tăng giảm tài vận của người tuổi Mùi dựa trên thời gian 1 ngày cho thấy, thời điểm con giáp này có được nhiều may mắn và thành công nhất là vào giờ Tý. Sự kết hợp tương hỗ của hai yếu tố Mùi là thổ âm và Tý là thủy dương, mang lại mức độ thuận lợi cực cao cho người tuổi Mùi. Do đó, khi phân tích theo thời gian một năm, năm Tý chính là thời cơ tốt nhất giúp họ phát tài.
Tuổi Thân
Trong thời gian 1 ngày, thời điểm người tuổi Thân dễ dàng có được thành công nhất là giờ Mão. Bởi hai yếu tố Thân là kim dương tương hỗ với Mão là mộc âm, tạo điều kiện thuận lợi cho tài vận của người tuổi Thân bùng phát mạnh mẽ. Theo đó, xét trên khoảng thời gian 1 năm, con giáp này dễ dàng gặt hái thành quả của mình là vào năm Mão.
Tuổi Dậu
Nếu tính theo thời gian 1 ngày, giờ Dần là thời điểm thuận lợi cho người tuổi Dậu dễ dàng tăng khả năng tài chính của mình nhất. Sự kết hợp giữa hai yếu tố mang tính bổ trợ Dậu là kim âm, Dần là mộc dương đã tạo nên sự may mắn và thuận lợi đó. Do vậy, tính theo thời gian 1 năm, người tuổi Dậu dễ dàng phát tài nhất chính là vào năm Dần.
Tuổi Tuất
Giờ Hợi chính là thời điểm mang lại nhiều tài lộc nhất cho người tuổi Tuất nếu tính theo thời gian 1 ngày. Hai yếu tố Tuất là thổ dương và Hợi là thủy âm kết hợp với nhau tạo thêm lực đẩy cho tài vận của người tuổi Tuất phát triển. Xét theo thời gian 1 năm, con giáp này dễ dàng đạt được mong muốn và tăng thêm thu nhập tài chính cho mình là vào năm Hợi.
Tuổi Hợi
Phân tích dựa vào thời gian 1 ngày về sự biến chuyển tài vận của người tuổi Hợi cho thấy, giờ Tỵ là thời cơ then chốt giúp con giáp này dễ phát tài phát lộc nhất. Chính sự kết hợp giữa hai yếu tố mang tính bổ trợ cho nhau, Hợi là thủy âm, Tỵ là hỏa dương đã tạo nên sự thuận lợi này. Theo đó, khi xét theo thời gian 1 năm, năm Tỵ chính là “thời điểm vàng” mang lại nhiều may mắn và thành công cho người tuổi Hợi.
Tháng 7 âm lịch thường được nhiều người gắn cho là tháng tâm linh nhưng nếu tinh ý một chút sẽ nhận ra, đối với người phương Đông, tháng 7 là tháng của ân tình
Tháng 7 âm lịch thường được nhiều người gắn cho là tháng cô hồn, tháng quỷ lễ, tháng tâm linh và đặt ra muôn điều cấm kị. Nhưng nếu tinh ý một chút sẽ nhận ra, đối với người phương Đông, tháng 7 là tháng của ân tình.
Thật vậy, tháng 7 âm lịch không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà có rất nhiều dịp lễ tâm linh: Rằm tháng 7 Vu Lan báo hiếu, Rằm tháng 7 xá tội vong nhân, Thất Tịch 7/7 lễ tình nhân phương Đông Ngưu Lang – Chức Nữ. Và điểm chung của tất cả những dịp lễ này là đều thấm đẫm ân tình, mang giá trị nhân văn về tình cảm.Cúng Rằm tháng 7 hay cúng xá tội vong nhân là hoạt động tâm linh thường niên của người phương Đông. Lễ này xuất phát từ lễ cúng Quỷ Diệm Khẩu của Phật giáo, tức là cúng quỷ miệng lửa, quỷ đói. Sau dần dần trở thành lễ cúng cô hồn, cúng xá tội vong nhân, cúng thí thực cho những linh hồn vất vưởng, không nơi nương tựa, không có người thân lang thang chốn dương gian vào tháng 7 âm lịch – thời điểm quỷ môn mở cửa. Hoạt động này không chỉ để quỷ đói không quấy nhiễu gia đình mình mà còn ẩn chứa tinh thần tương trợ, cứu giúp đầy tình nghĩa, cả khi đó là những người không còn trên nhân thế. Là hoạt động mở rộng tấm lòng, cưu mang sự côi cút, bơ vơ một cách thiện lương nhất.Tháng 7 âm lịch còn là mùa Vu Lan báo hiếu, mùa của những đứa con hướng về cha mẹ. Cũng là một dịp lễ tâm linh bắt nguồn từ tích Phật Giáo, Vu Lan đề cao tinh thần hiếu đạo và tình cảm gia đình. Trong trăm thiện, thiện nhất là hiếu, trong trăm phúc, phúc nhất là hiếu, tấm lòng cha mẹ với con cái là quanh năm tháng ngày, tháng 7 Vu Lan, mỗi năm một lần, nhất định phải bày tỏ chân tình với đấng sinh thành.
Tình yêu trên đời có trăm ngàn cách, nhưng người phương Đông chọn tháng 7 mưa ngâu để thể hiện tình yêu vượt ngàn cách trở, tạo thành lễ tình nhân phương Đông 7/7 Thất Tịch. Chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ vượt qua thân phận, vượt qua chia cách mà yêu nhau, mỗi năm một lần gặp gỡ trên cầu Ô Thước bắc qua sông Ngân Hà, khóc nước mắt thành mưa từ ngàn đời nay vẫn không thôi xúc động.Tháng 7 âm lịch, xin đừng chỉ thấy là tháng tâm linh, hãy nhớ đến nó như tháng của ân tình, tháng của tình yêu đôi lứa, của tình cảm gia đình và tình thương con người. Một tháng ba lễ khác nhau nhưng lễ nào cũng đong đầy giá trị và mang ý nghĩa sâu sắc.
Các bài viết cùng chủ đề tháng 7, tháng cô hồn: Tháng cô hồn: Nên sờ ngực, kị nhặt tiền rơi?Nhắc nhở 6 điều tuyệt đối không nên làm trong tháng cô hồnThực sự có ma quỷ trong tháng 7 âm lịch?Tâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp
Vào ngày mùng 10 tháng 5 có diễn ra một số lễ hội tiêu biểu như sau: Hội Làng Cựu Ấp được tổ chức tạitỉnh Vĩnh Phúc và Hội Cúng Biển Mỹ Long tổ chức tại tỉnh Trà Vinh.
Các lễ hội diễn ra trong ngày 10 tháng 5 âm lịch - Hội Làng Cựu Ấp
Các lễ hội tiêu biểu được tổ chức trong ngày 10 tháng 5 âm lịch
1.Hội Làng Cựu Ấp
Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Tam Giang Đại Vương Thổ Lệnh.
Nội dung: Ngoài hoạt động dâng hương tạ ơn Tam Giang Đại Vương Thổ Lệnh, hội làng còn tổ chức đua thuyền cướp kén: Thuyền đua xuất phát từ đình Chải, bơi sang làng Xuân Viên bên kia sông cướp né kén đem về lấy may.
2. Hội Cúng Biển Mỹ Long
Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: miếu bà Chúa Xứ, thị trấn Mỹ Long, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bà Chúa Xứ và Cá Ông.
Nội dung: Lễ hội cúng biển Mỹ Long hay còn gọi là Lễ hội nghinh Ông có cách nay khoảng 300 năm diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 5 (âm lịch) tại miếu bà Chúa xứ, khóm 4, thị trấn Mỹ Long, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Lễ hội này xuất phát từ tín ngưỡng thờ Đức Ông Nam Hải (cá Voi) của ngư dân. Lễ hội cúng biển Mỹ Long là lễ hội truyền thống dân gian đặc sắc gắn liền với lịch sử, tín ngưỡng, phong tục tập quán của cư dân vùng đất Mỹ Long - Cầu Ngang, là điểm tựa tinh thần, nơi vui chơi giải trí, giao lưu cộng cảm và trao truyền đạo lý, tình cảm; nơi để mọi người thỉnh cầu, bày tỏ ước muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, cho mùa vụ đầy ắp cá tôm, phúc lộc thọ mọi nhà. Trong những ngày lễ hội, hàng chục ngàn khách thập phương từ các tỉnh lân cận đổ về trẩy hội và tham gia nhiều trò chơi dân gian như: đua thuyền buồm, đua thuyền chèo, dự khán xem hát bội - múa bóng rỗi, đi cà kheo... Các lễ chính thức của lễ hội cúng biển Mỹ Long bao gồm: Nghinh Ông (đám rước trên biển), Chánh tế (tại miễu Bà), Dâng Mâm lộc (tại miễu Bà), Nghinh Ngũ phương (đám rước khắp thị trấn), Tống Quái (đám rước trên biển)...
Sáng sớm ngày 11/5 lễ Giỗ Tiền Chức diễn ra tại gian thờ Tiền Hiền trong miếu Bà Chúa xứ nhằm tạ ơn công lao và cầu mong các bậc tiền nhân ban thêm ân huệ. Đến 9 giờ thì tổ chức Nghinh Nam Hải tức (Cá Ông) còn gọi là Nghinh Ông. Đoàn nghinh khởi hành từ miếu ra cửa Cung Hầu để nghinh Nam Hải về. Khoảng 5 giờ chiều thì Tế Thần Nông và chiến sĩ trận vong tại sân miếu. Tuy là phối tự nhưng lễ tế Thần Nông được tổ chức quy mô, trang trọng, có cả học trò lễ, đội lân, đội nhạc; có đọc văn tế và người tham gia chật kín cả sân miếu. Mục đích nghi lễ là tế Thần Nông vị thần nông nghiệp và các chiến sĩ trận vong vì dân, vì nước cùng về chứng giám, phối hưởng mà tiếp tục phù hộ cư dân.
Lễ Chánh tế Chúa Xứ: Vào lúc 10 giờ đêm 11 sáng ngày 12 tháng 5 âm lịch tổ chức Chánh tế Chúa Xứ trong chính điện trước bàn thờ Bà Chúa Xứ. Vật cúng lễ Chánh tế là xôi, heo trắng. Học trò lễ có cặp đăng, cặp đài và cặp thài. Đến giờ trống nhạc nổi lên các học trò lễ, ban quý tế lần lược tiến hành hiến tuần hương, tuần hoa, tuần quả, tuần rượu, dâng sớ và tuần trà. Sau lễ Chánh tế là hát bóng rỗi đây là hình thức diễn xướng tổng hợp có chức năng thực hành nghi lễ đồng thời nó cũng là loại hình nghệ thuật biểu diễn phục vụ người dự lễ hội.
Sang ngày 12/5 lúc 7 giờ sáng thì tổ chức lễ Nghinh ngũ phương quanh chợ Mỹ Long để tống tiễn những sui rủi của năm qua, đón nhận mai mắn sẽ đến. Liền sau đó thì tổ chức lễ Tống tàu.Chiếc tàu được thiết kế rất cẩn thận bằng ván gỗ theo kiểu tàu đánh cá chiều dì khoảng 3,5m chiều ngang 1,5m được trang trí rất tỉ mĩ có cả hình nộm của tài công, các ngư phủ cùng các vật cúng thí như chuối, gạo, muối, bánh, tiền vàng mã... Phía trước đầu tàu bày một bàn lễ vật cúng tế gồm: 01 con heo trắng, 01 thau huyết heo, 01 thau lòng heo, 01 mâm bánh bò, 01 chén huyết cùng một ít lông heo, trà, hoa, rượu.
Vào lễ vị pháp sư đóng vai trò điều hành cùng các vị hương chức tiến hành nghi thức. Nghi lễ thực hiện xong, các vật cúng ở bàn cúng được đưa vào tàu và tiến hành tống tàu. Đoàn đi cũng có lân, nhạc, trống, chiêng, vị pháp sư, các hương chức, hầu bóng, chức việc khoảng 2.000 - 3.000 người. Từ miếu đoàn đi vòng qua chợ Mỹ Long rồi đến Vàm Lầu trong tiếng trống, tiếng nhạc rộn rã. Đến Vàm Lầu tàu chở vật cúng được hạ thủy rồi được một tàu đánh cá khởi hành kéo ra cửa biển Cung Hầu cách Vàm Lầu khoảng 4 km.
Đến vị trí tống tàu các tàu dừng lại, vị chủ tế khăn áo chỉnh tề rồi châm ba tuần rượu, một tuần trà khấn nguyện Đại Càn Quốc Gia Nam Hải rồi ra hiệu lệnh tháo dây tống tàu gởi theo đó bao ước mơ, hy vọng cho một mùa đánh bắt mới may mắn, tốt đẹp.
Lễ hội cúng biển Mỹ Long góp phần tạo ra đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, củng cố bền vững khối đoàn kết cộng đồng. Đây là lễ hội truyền thống giàu tính nhân văn, sáng tạo đã trở thành một sinh hoạt văn hóa mang đậm tính dân gian và là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tâm linh của người dân.
Có người chuyện buồn vui gì cũng thể hiện ra mặt, có tâm sự gì cũng chia sẻ cùng người khác nhưng 3 chòm sao kín đáo dưới đây thì khác hẳn, họ rất khó mở lòng, rất khó bày tỏ tâm tư của mình.
Thủy BìnhThủy Bình bề ngoài ôn hòa, ngẫu nhiên có thể trẻ con, nội tâm phong phú, thích du lịch nhưng lại lưu luyến gia đình. Họ thường tự đưa mình vào thế giới tưởng tượng, không thoát ra được. Chòm sao kín đáo này mẫn cảm với thế giới nhưng thái độ thì lạnh lùng, tình cảm mãnh liệt lâu dài nhưng không thể hiện ra ngoài. Đúng là tự ngược đãi bản thân. Thủy Bình lúc nào cũng lâm vào trạng thái mâu thuẫn, có tài hoa nhưng không nguyện ý để lộ, có năng lực nhưng trưởng thành chậm chạp, có điều muốn giãi bày nhưng mồm miệng yếu ớt, cũng khó mà tìm được người tâm giao sẵn sàng lắng nghe.
Điểm danh 4 chòm sao đã yêu là hành động3 chòm sao tỉnh bơ trước sóng gió cuộc đờiSư Tử và cuộc cạnh tranh mạnh mẽ Sư TửChòm sao Sư Tử là điển hình của trường hợp cứng miệng nhưng mềm lòng, ngoài lạnh trong nóng. Miệng thì cậy mạnh, nói năng bất cần nhưng trong lòng lại khát khao được người khác quan tâm. Bất luận là gặp chuyện gì, khó khăn đến đâu họ cũng chỉ lặng yên giữ lại cho riêng mình, không bao giờ kể ra nỗi ủy khuất với người khác.Độ nhẫn nại của Sư Tử cực cao, mỗi lần thấy sóng yên biển lặng thì thực ra trong lòng bão giông gió giật. Cho nên, không lạ gì khi người bình thường chỉ thấy vẻ mạnh mẽ, kiêu ngạo của Sư Tử, chỉ thật thân quen mới biết nỗi lòng họ.Nhân Mã
Mỗi khi rảnh rỗi, Nhân Mã thích miên man suy nghĩ, gặp chuyện dễ xúc động mà khóc nhưng tuyệt đối chỉ là khóc thầm. Bề ngoài chòm sao này có vẻ hoạt bát, thoải mái, phóng khoáng nhưng nội tâm rất nhạy cảm, ý chí kiên cường, khép kín, ít khi thể hiện tâm trạng thật ra bên ngoài. Họ cự tuyệt sự gần gũi của người khác, thường tỏ thái độ vô tư, không để ý.Vì thế, khi thân thiết với Nhân Mã, bạn sẽ nhận ra sự yếu đuối, dễ tổn thương và muốn được đồng cảm từ họ. Hãy cho họ tự do, nhưng luôn ở bên, sẵn sàng lắng nghe và trở thành chỗ dựa mỗi khi họ buồn. Nhân Mã sẽ rất biết ơn.
► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất
3 chòm sao thất tình là sụp đổ
Trình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Mục đích của phong thủy là vươn đến sự kết hợp hài hòa giữa thiên, địa và nhân. Chúng ta có thể kiểm soát được địa mệnh; nhân mệnh; chính nhân mệnh quyết định
Cơ thể mỗi chúng ta đều phát ra năng lượng. Vì vậy mọi người cần biết cách sử dụng và phát huy nguồn năng lượng của mình. Theo đó, việc tự cân bằng đời sống tâm lý của bản thân được coi là giải pháp hữu hiệu mà bạn nên thực hiện.
Khi giận dữ, buồn chán hoặc lo âu, chúng ta dễ tạo ra năng lượng âm có hại. Điều này có xu hướng xấu đi cho tinh thần, vì vậy hãy cố gắng trấn áp trạng thái buồn chán và loại bỏ những cảm giác này.
Nếu muốn có những điều kiện phong thủy tốt trong nhà, bạn cần rũ bỏ mọi trạng thái tâm lý tiêu cực. Thay vào đó, hãy giữ một tinh thần lạc quan và hy vọng mọi thứ tốt đẹp sẽ đến với mình. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng điều đó luôn đúng. Bằng cách này bạn đang nuôi dưỡng nội tâm và tinh hoa của đời sống tinh thần.
Cửa ở hướng Nam Chủ nhân là người lãng mạn, đôi khi khá mạnh bạo để nhanh chóng tiến đến hôn nhân. Những người này đang nắm giữ vận may tốt nhưng cần phải điềm tĩnh và cẩn trọng đề phòng với những rắc rối từ ngoại cảnh.
Cửa ở hướng Bắc Những người sống trong nhà có cửa hướng Bắc rất nhạy cảm với tình yêu. Đôi khi, vì kiêu kỳ, kén chọn nên họ đánh mất tình yêu.
Cửa ở hướng Đông Chủ nhân của ngôi nhà có cửa hướng Đông thường né tránh, e ngại và rụt rè trong việc bày tỏ tình cảm. Họ thường chờ đợi “nửa kia” lên tiếng trước. Vì vậy mà một số người không giữ được tình yêu của mình.
Cửa ở hướng Tây Tình yêu của những người sở hữu ngôi nhà có cửa hướng Tây dễ dao động. Để tình yêu của họ có thể đi đến đích, hình ảnh trẻ nhỏ sẽ là chất xúc tác tốt, làm thức dậy khát vọng về một gia đình đầm ấm trong họ.
Cửa ở hướng Đông Nam Đây là những người rất sôi nổi trong tình yêu. Đôi khi, muốn thay đổi không khí, họ lại tiếp tục kiếm tìm tình yêu mới. Để có cuộc hôn nhân đích thực, những người này nên có quyết định lựa chọn rõ ràng.
Cửa ở hướng Đông Bắc Chủ nhân của ngôi nhà có cửa hướng này là những người sống chan hòa, thân thiện. Họ thường được các đồng nghiệp quý mến và tình yêu của họ có thể nảy sinh từ các mối quan hệ này.
Cửa ở hướng Tây Nam Những người sống trong ngôi nhà cửa hướng Tây Nam thường rất ý chí. Họ luôn xác định và phấn đấu cho mục tiêu đã đặt ra. Vì vậy, ở mẫu người này, lý trí thường làm chủ cảm xúc. Tuy nhiên, họ là người gặp nhiều may mắn về hôn nhân.
Cửa ở hướng Tây Bắc Đây là những người gặp may cả về tình yêu và hôn nhân. Họ có thể kết hôn với người có địa vị xã hội cao.
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Một năm, người Việt có Tết Nguyên Ðán (đúng mồng một tháng giêng âm lịch) là ngày tết lớn nhất, ngoài ra còn có rất nhiều lễ, tết đặc trưng khác.
Tết Nguyên đán
Tết Nguyên đán (Tết âm lịch) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ phong tục hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới; giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên đán Việt Nam từ buổi "khai thiên lập địa" đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông và quan niệm "ơn trời mưa nắng phải thì" chân chất của người nông dân cày cấy ở Việt Nam... Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri âm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng...
Giao thừa
Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa.
Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch
* Lễ trừ tịch
Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt Nam theo cổ lệ có làm lễ Trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.
* Sửa lễ giao thừa
Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.
Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
* Cúng ai trong lễ giao thừa và tại sao cúng giao thừa ngoài trời
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Các cụ quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật... Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.
Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
* Lễ cúng Thổ Công
Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
Một số tục lệ trong đêm giao thừa
Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
+ Lễ chùa, đình, đền: lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
+ Kén hướng xuất hành: khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
+ Hái lộc: đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần, Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
+ Hương lộc: có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
+ Xông nhà: thường người ta kén một người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.
Một số lễ đầu xuân
* Lễ Ðộng thổ
Lễ Ðộng thổ bắt đầu ở Trung Quốc sau truyền sang Việt Nam. Ðộng thổ nghĩa là động đất, và trong khi động đất phải có lễ cúng Thổ Thần để trình xin bắt đầu động đến đất cho một năm mới.
Hàng năm, sau ngày mồng ba tết, các làng thường làm lễ Ðộng thổ để cho dân làng có thể đào cuốc xới được. Các bậc kỳ lão và quan viên được cử làm chủ tế và bồi tế. Lễ vật gồm hương đăng, trầu rượu, y phục và kim ngân đồ mã. Trong buổi lễ, ông chủ tế cuốc mấy nhát xuống đất để lấy một cục đất đặt lên bàn thờ, "tường trình" với Thổ Thần xin cho dân được động thổ. Sau lễ động thổ dân làng mới được động tới đất. Ai cuốc xới trước lễ động thổ bị dân làng bắt vạ.
* Lễ Khai hạ
Theo tục lệ Việt Nam, ngày mồng bảy tháng giêng là ngày hạ cây nêu. Cây nêu trồng trong năm, khi sửa soạn đón tết cùng với cung tên bằng vôi trắng vẽ trước cửa nhà để "trừ ma quỷ", nay được hạ xuống.
Lễ hạ nêu còn được gọi là lễ Khai hạ. Nhân dịp này, ngoài lễ giữa trời cúng trời đất, người ta còn sửa lễ cúng Gia tiên, cúng Thổ côngvà thần tài. Thường sau ngày lễ này, mọi công việc thường xuyên mới được bắt đầu trở lại.
* Lễ Thần Nông
Thần Nông tức là vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng. Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong sự được mùa và nghề nông phát đạt.
Trên các quyển lịch hàng năm của người Trung Hoa thường có vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tuỳ theo sự ước đoán của cơ sở dự báo khí tượng về mùa màng năm đó tốt hay xấu. Năm nào được mùa, Thần Nông giầy dép chỉnh tề, còn năm nào đói kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày có một chân. Con trâu đổi màu tuỳ theo hành của mỗi năm, vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Hàng năm, vào ngày Lập xuân tại triều đình xưa cũng như tại các tỉnh có tục tế và rước Thần Nông. Người ta nặn trâu và tượng Thần Nông có dáng vẻ và màu sắc đúng với sự ước lượng về mùa màng năm đó. Sau đó lập đài để rước trâu và tượng Thần Nông tới làm lễ tế. Sau mỗi cuộc tế, trâu và tượng Thần Nông được khiêng cất vào kho hoặc đem chôn.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
* Lễ Tịch điền
Lễ Tịch điền còn gọi là lễ Hạ điền do chính vua Thần Nông đặt ra. Cũng như các nghi lễ khác, lễ Tịch điền của người Tàu đã du nhập sang ta. Hàng năm vào đầu xuân, nhà vua lại tự thân cày mấy luống đất để làm gương cho dân chúng và cử hành lễ Tịch điền. Tiếp sau vua, các hoàng thân, các quan văn võ, các chức sắc, bộ lão sở tại cũng ra cày. Tại các tỉnh, các xã cũng có lễ Tịch điền... Ở tỉnh, quan tỉnh bắt đầu lễ Tịch điền bằng việc cày và ở xã là vị chức sắc cao nhất trong xã. Tùy từng triều đại việc cử hành lễ Tịch điền có lúc long trọng, lúc đơn giản và ở mỗi địa phương cũng có những tục lệ riêng.
* Lễ Khai ấn
Các ấn được lau chùi trong năm, ngoài xuân bộ lễ theo tục cũ cũng được chọn ngày lành, ngày giờ tốt để làm lễ khai ấn nghĩa là dùng ấn đóng lên một công văn, chỉ dụ. Thường văn bản đầu tiên được đóng ấn là bản văn tốt lành. Tục khai ấn này, Tại các tỉnh, các phủ, huyện, châu, xã xưa kia mỗi viên chức có ấn đều được chọn ngày khai ấn và sửa lễ cúng vị thần giữ về ấn tín trong dịp lễ khai ấn.
Tết Thượng nguyên
(Tết Nguyên tiêu)
Tết Thượng nguyên vào ngày rằm tháng giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa chiền, vì rằm tháng giêng còn là ngày vía của Phật tổ. Ta có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng". Tục ta tin rằng ngày rằm tháng giêng, đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của các tín đồ phật giáo. Trong dịp này chùa nào cũng đông người tới lễ bái. Sau khi đi chùa mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ.
Tết Thanh minh
Là tiết thứ năm trong "nhị thập tứ khí" và đã được người phương Ðông coi là một lễ tiết hàng năm. Tiết thanh minh đến sau ngày Lập Xuân 45 ngày. Theo nghĩa đen, thanh là khí trong, còn minh là sáng sủa. Khi tiết Xuân Phân qua, những cơn mưa bụi của trời xuân đã hết, bầu trời trở nên quang đãng, sáng sủa là sang tiết thanh minh (thường bắt đầu trong tháng ba hoặc muộn lắm là đầu tháng tư âm lịch tùy từng năm).
Lễ thanh minh
Nhân ngày thanh minh, cũng như nhiều dân tộc Á Đông khác. Dân ta có tục đi viếng mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ.
Lễ tảo mộ: Tảo mộ chính là sửa sang ngôi mộ cho được sạch sẽ. Nhân ngày lễ thanh minh người ta mang theo cuốc xẻng để đắp lại nấm mồ cho to, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trèo lên mộ có thể phạm tới hài cốt của người thân đã khuất. Sau đó cắm mấy nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa dâng cho vong hồn người quá vãng. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, săn sóc, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người có lòng nhân đức không khỏi mủi lòng thường cắm một nén hương, đốt nắm vàng mã cho những ngôi mộ này. Tại các nơi tha ma mộ địa còn có lập một cái am để thờ chung những mồ mả vô chủ gọi là Am chúng sinh và mỗi cửa am có một bà đồng sớm tối đèn hương thờ phụng. Trong ngày tảo mộ, bãi tha ma vốn vắng lặng bỗng trở nên đông đúc. Mọi người đi tảo mộ đều ăn vận rất chỉnh tề, lo khấn vái nơi phần mộ. Cả trẻ em cũng có thể theo cha mẹ đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là bố mẹ muốn tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này để tảo mộ gia tiên và xum họp với đại gia đình. Thường người ta đi tảo mộ từ sáng sớm cho đến gần trưa.
Tục lệ tảo mộ: Thường người ta đi tảo mộ vào tiết thanh minh trời quang mây tĩnh, và sau đó kính mời hương hồn tổ tiên về hưởng cỗ con cháu cúng trong dịp này. Nhưng cũng có nhiều nơi người ta tảo mộ vào dịp trước và sau ngày tết. Nhiều làng ở vào vùng đất thấp, tới vụ nước, ruộng nương và cả bãi tha ma đều ngập nước, thì người ta đi tảo mộ vào đầu tháng chín, sau khi nước đã rút. Dù đi tảo mộ vào ngày nào thì việc thăm nom mồ mả tổ tiên cũng là việc hay. Nghĩ đến gia tiên tức là nghĩ đến gốc, tưởng đến nguồn.
Cúng lễ trong ngày tết thanh minh: Tết thanh minh cũng là dịp để con cháu sửa lễ cúng gia tiên sau khi viếng mộ về. Cũng có nhà sửa lễ mang ra mộ cúng, nhưng đó chỉ là cúng riêng một ngôi mộ. Còn sau đó người ta vẫn cúng ở bàn thờ tổ tiên và khấn tất cả gia tiên nội ngoại về phối hưởng. Người ta thường cúng mặn trong ngày thanh minh, nghĩa là có làm cỗ, hoặc không làm cỗ thì cũng có đĩa xôi, con gà cùng với hương hoa, trà rượu, vàng mã. Và đồng thời với việc cúng tổ tiên cũng có cúng Thổ Công như trong mọi dịp.
Tết Hàn thực
Tục lệ ăn bánh trôi, bánh chay ngày Tết hàn thực
Theo phong tục cổ truyền, ngày mồng 3 tháng 3 tức tết Hàn thực, ta làm bánh chay. Tết này có xuất xứ từ bên Trung Quốc, làm giỗ ông Giới Tử Thôi (một hiền sĩ thời Xuân Thu có công phò Tần Văn Công), bị chết cháy ở núi Ðiền Sơn. Cũng như ngày mùng năm tháng năm tết Ðoan Dương cũng xuất xứ bên Trung Quốc là giỗ ông Khuất Nguyên (đời Xuân Thu, thờ vua Sở Hoài Vương) gieo mình chết trôi ở sông Mịch La. Ðành rằng dân ta theo tục đó nhưng khi cúng chỉ cúng gia tiên nhà mình.
Tết Ðoan Ngọ
Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Ðoan Dương còn nhiều tục truyền đến nay. Sáng sớm cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì giết sâu bọ bằng uống rượu hoặc ăn rượu nếp.
Tết Trung Nguyên(Rằm tháng bảy)
Rằm tháng bảy theo tín ngưỡng là ngày xá tội vong nhân, nghĩa là bao nhiêu tội nhân ở dưới âm phủ ngày hôm đó đều được tha tội. Bởi vậy trên dương thế mọi gia đình đều làm cỗ bàn, đốt vàng mã cúng gia tiên và đồng thời cúng những linh hồn bơ vơ không được ai chăm sóc. Người ta cũng thả chim lên trời, thả cá xuống sông, để làm điều phúc đức.
Tết Trung thu(Rằm tháng Tám)
Trung thu là giữa mùa thu, tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu tức là vào rằm tháng tám âm lịch. Tết Trung Thu là tết của trẻ em.
Tết Hạ Nguyên (Tết cơm mới)
Tết Hạ nguyên vào rằm hay mồng một tháng mười. Ở nông thôn, tết này được tổ chức rất lớn vì đây là dịp nấu cơm gạo mới của vụ vừa xong - trước là để cúng tổ tiên, sau để thưởng công cầy cấy.
Tết Trùng thập
Tết của các thầy thuốc. Theo sách Dước lễ thì ngày mười tháng mười (âm lịch), cây thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ thời (Xuân-Hạ-Thu-Ðông) trở nên tốt nhất. Ở nông thôn Việt Nam, đến ngày đó người ta thường làm bánh dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu những người thân thuộc (chứ không mấy quan tâm đến cây thuốc, thầy thuốc).
Tết Táo Quân
Tết Táo quân vào ngày 23 tháng chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp" lên chầu trời để tâu lại việc bếp núc, làm ăn, cư xử của gia đình trong năm qua. Bởi thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa "ông Táo". Cứ phiên chợ 23 tháng chạp, mỗi gia đình thường mua 2 mũ ông Táo, 1 mũ bà Táo bằng giấy và 3 con cá chép làm "ngựa" (chuyện cá chép hoá rồng) đế Táo quân lên chầu trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông...
Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.
>> Đã có VẬN HẠN 2016mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Các bước cơ bản để gieo quẻ kinh dịch, lập quẻ kinh dịch qua thời gian xem dự báo
Qua bốn cấp độ thời gian lịch Tiết khí hay lịch Âm cũng như qua các yếu tố ngẫu nhiên, các nhà mệnh lý phương Đông xưa lập ra mô hình đối tượng để dự báo, mô hình này được gọi là quẻ. Một quẻ luôn có quan hệ với 2 hướng trong không gian trên Trái đất. Hướng không gian trên Trái đất được người Tiền sử gọi là quái. Khi dự báo, cần tiến hành theo các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Xây dựng mô hình dự báo hay quẻ về đối tượng.
Bước này có những việc sau đây:
a. Tìm Ngoại quái và Nội quái qua 4 cấp thời gian.
b. Lập mô hình dự báo hay quẻ: đặt Ngoại quái trên Nội quái.
c. Lập đồ hình hướng không gian Trái đất (đồ hình Toàn tức lên đối tượng xem) để quan sát các bước tiếp theo về sinh khắc qua Thế, Ưng.
d. Tra bảng tìm mô hình dự báo hay quẻ để dự báo.
Khi dự báo một đối tượng, cần xem xét đối tượng đó có quan hệ gì với các hướng trong không gian mà đối tượng đó là trung tâm. Nhìn chung, tất cả mọi đối tượng, kể cả tất cả mọi người đều có liên hệ mật thiết với 8 hướng trong không gian trên Trái đất.
Tám hướng đó là:
Đông, mà Kinh Dịch gọi là Chấn;
Tây: gọi là Đoài;
Nam: gọi là Ly;
Bắc: gọi là Khảm;
Đông Nam: gọi là Tốn;
Đông Bắc: gọi là Cấn;
Tây Nam: gọi là Khôn;
Tây Bắc: gọi là Càn.
Mỗi hướng không gian Trái đất đều có một ký hiệu gồm 3 vạch (vạch liền hoặc là vạch đứt đoạn. Vạch liền:__ gọi là hào Dương, vạch đứt đoạn: _ _ gọi là hào Âm).
Khi dự báo về một đối tượng, thì đối tượng đó chỉ quan hệ qua lại với 2 hướng không gian Trái đất.
Sau đây là ký hiệu của từng hướng và trị số từng hướng không gian Trái đất:
Nhìn bảng trên: hướng Trái đất Tây có trị số là 6, Kinh Dịch gọi là Càn, ký hiệu 3 hào Dương; tương tự Bắc gọi là Khảm, trị số là 1, ký hiệu như trong bảng, có 2 hào Âm và 1 hào Dương... Như vậy từ nay trở đi, khi nói phương Tây ta chỉ cần nói là phương Đoài, phương Đông nói là Chấn, Nam nói là Ly, Tây Nam là Khôn....(nhìn trên bảng trị số trên).
Trong bảng có Trị số Vũ trụ, đây chỉ ký hiệu và phương hướng Vũ trụ đối xứng với phương hướng trên Trái đất (người Tiền sử gọi là Thiên hay trị số Tiên Thiên, còn trị số trên Trái đất gọi là Hậu Thiên).
Trị số Vũ trụ hay Tiên Thiên dùng trong dự báo bằng Kinh Dịch qua hướng xuất phát của đối tượng dự báo, như xem cho một người cho biết họ tới từ phương hay hướng nào, tiếng con gà gáy từ đâu (phương hay hướng) nào....
Trị số hướng Trái đất hay Hậu Thiên dùng cho dự báo qua thời gian khi bắt đầu xem.
Để bạn đọc có cách nhìn rõ về phương hướng trên Trái đất khi ta xem Kinh Dịch (dự báo) và đối tượng cần xem hay dự báo có liên quan thế nào với các phương đó, xin xem qua sơ đồ sau (người Tiền sử gọi sơ đồ này là Hậu Thiên Bát quái).
Chú giải: hướng không gian Trái đất có tất cả 8 hướng hay 8 phương. Mỗi hướng có 2 cách gọi, như:
* Hướng Bắc còn gọi là hướng Khảm, ngũ hành Thủy.
* Hướng Nam còn gọi là hướng Ly, ngũ hành Hỏa.
* Hướng Đông còn gọi là hướng Chấn hay Lôi, ngũ hành Mộc.
* Hướng Tây còn gọi là hướng Đoài hay Trạch, ngũ hành Kim.
* Hướng Đông Nam còn gọi là hướng Tốn hay Phong, ngũ hành Mộc.
* Hướng Đông Bắc còn gọi là hướng Cấn hay Sơn, ngũ hành Thổ.
* Hướng Tây Nam còn gọi là hướng Khôn hay Địa, ngũ hành Thổ.
* Hướng Tây Bắc còn gọi là hướng Càn hay Thiên, ngũ hành Kim.
Bạn đọc lưu ý: đây là đồ hình phương hướng Không gian Trái đất mẫu cho mọi dự báo khi tự xem Kinh Dịch. Bạn chỉ việc chép lại nguyên mẫu, sau đó đánh dấu 2 hướng (quẻ) đề lập Mô hình dự báo (hay Quẻ, một quẻ bao gồm 2 quái hay 2 hướng không gian), tìm Ngũ hành của quẻ Thể và Dụng (sẽ trình bày chi tiết ngay sau đây) khi tự xem Kinh Dịch.
Khi dự báo bằng Dịch, một đối tượng như một người, một sự việc, thì đối tượng đó luôn liên quan đến 2 hướng trong không gian, trong đó có một hướng của “phía mình” mà Kinh Dịch gọi là Nội quái; một hướng bên ngoài “phía mình” mà Kinh Dịch gọi là Ngoại quái. Nói cách khác, mỗi người với số phận, hành vi và ý đồ, luôn luôn bị chi phối bởi 2 hướng trong không gian trên Trái đất. Khi lập một quẻ hay mô hình dự báo, người ta đặt hướng Ngoại quái lên trên, Nội quái xuống dưới (Ngoại/Nội), khi gọi tên, gọi tên Ngoại quái trước, tên Nội quái sau (sẽ có bảng tên quả dưới đây, chỉ việc tra số là biết tên gọi, biết lời đoán).
Ví dụ: đối tượng xem có hướng Ngoại quái là Cấn, Nội quái là Càn, thì quẻ là: Cấn/Càn, tên quẻ: Sơn Thiên Đại Súc
Để làm rõ điều này, ta xét qua ví dụ sau đây:
Ví dụ 1: một người muốn xem xét kết quả kinh doanh một sản phẩm sẽ cho ra đời vào cuối năm 2012. Thời gian lúc bắt đầu dự báo (lúc hỏi) là: 7 giờ 40 phút tối, ngày 61712012, tức giờ Tuất, ngày 18, tháng Đinh Mùi, năm Nhâm Thìn.
a. Cách dự báo: trước tiên tìm hướng của bản thân người đó lúc này qua tìm Nội quái: Công thức hướng bản thân - Nội quái:
(Trị số năm+Trị số tháng+Trị số ngày+Trị số giờ): 8 = X.
Kết quả phép chia này sẽ như sau:
*Nếu phép chia hết, thì Nội quái là quái Cấn (vì Cấn có trị số là 8).
*Nếu phép chia có số dư, thì số dư là trị số của hướng không gian từ đó là Nội quái. Ví dụ dư 3 thì Nội quái là Chấn, dư 9 là Ly, dư 1 là Khảm,...dư 7 là Đoài.
b. Tìm hướng không gian bên ngoài tác động đến đối tượng - Ngoại quái:
Công thức: hướng bên ngoài - Ngoại quái:
(Trị số năm+Trị số tháng+Trị số ngày): 8=x
Kết quả phép chia này sẽ như sau:
*Nếu phép chia hết, thì Ngoại quái là quái Cấn (vì Cấn có trị số là 8).
* Nếu phép chia có số dư, thì số dư là trị số của hướng không gian từ đó là Ngoại quái. Ví dụ dư 3 thì Ngoại quái là Chấn, dư 9 là Ly, dư 1 là Khảm,...dư 7 là Đoài.
c. Quẻ hay mô hình sự việc kinh doanh trong năm 2012:
Trở lại ví dụ trên: 7h40 là giờ Tuất, trị số 11, ngày hỏi: 18 của tháng 5, năm Thìn trị số là 5. Áp dụng công thức tìm nội quái, ngoại quái ta có:
Nội quái: 5+5+18+11 = 39; 39 : 8 = 4 dư 7--> Đoài
Ngoại quái: 5+5+18 = 28; 28 : 8 = 3 dư 4 --> Tốn
Vậy mô hình sự kiện kinh doanh hay quẻ là 4/7 hay: Tốn/Đoài. Tốn là Phong, Đoài là Trạch, tra bảng 64 quẻ vần Phong Trạch ta có mô hình hay quẻ đem ra dự báo là Phong Trạch Trung Phu.
Quẻ mô tả thực trạng kinh doanh năm 2012: Phong Trạch Trung Phu, quẻ số 61:
“Khi dự báo, gặp mô hình dự báo hay quẻ này cho biết: bằng tấm lòng chí thành sẽ vượt qua được sự khó khăn, cảm hóa được mọi người.”
Đồ hình thực trạng kinh doanh sản phẩm năm 2012 ở ví dụ 1:
Bước thứ hai: dự báo sơ bộ:
Căn cứ vào lời của quẻ Trung Phu, ta bình giải như sau: Trong quá trình kinh doanh, nếu có kế hoạch và mục tiêu kinh doanh, có nỗ lực thực hiện nhưng phải nghiêm túc trong làm ăn thì sẽ vượt qua được sự khó khăn, tạo được các mối quan hệ, làm ăn sẽ thành công
Nếu chi tiết hóa từng sự việc, cho biết:
Tình thế: hiện mọi việc đang an ổn. Đề phòng sự mất yên ổn vì quan hệ nam nữ.
Hy vọng: phải gắng sức mới như ý. Làm ăn có chữ tín mới thành công.
Tài lộc: sẽ có thu nhập khá nhưng chưa lớn.
Bước thứ ba: xác định Chủ thể và Khách thể (Thể và Dụng)
Chủ thể đây chính là ý đồ, ý muốn, hành động có mục đích của đối tượng đem ra dự báo. Đây là khái niệm được người Tiền sử gọi là Thể. Khách thể là cái mà Chủ thể cần tác động tối, cần hướng tới, cần thỏa mãn ý đồ của chủ thể, người Tiền sử gọi Khách thể là Dụng. Ví dụ xem kết quả đi đòi nợ: nếu người đi đòi nhờ xem có đòi được không, thì người đi đòi nợ là Chủ thể (Thể), còn phía con nợ gọi là Khách thể (Dụng).
Nhưng ngược lại: người có nợ cần xem hôm nay chủ nợ đến mình kết quả sẽ ra sao (thực tế, con nợ thường muốn giãn nợ, chưa muốn trả nếu có thời cơ); thì lúc này con nợ lại là Chủ thể (Thể), còn chủ nợ lại là Khách thể (Dụng).
Ví dụ 2: một thí sinh muốn biết kết quả thi đại học của mình (đỗ hay trượt), thì kết quả thi là Dụng, là Khách thể, bản thân thí sinh đó là Thể (Chủ thể). Nếu phụ huynh thí sinh đó đi xem, thì họ vẫn là Chủ thể hay Thể.
Đi xem bệnh tật thì: bệnh là Dụng (Khách thể), người bệnh là Chủ thể (Thề)
Tóm lại, ai tự xem Kinh Dịch cho mình, hoặc ai nhờ người khác xem cho mình về một vấn đề nào đó, thì người đó là Chủ thể, là Thể; còn phía mà người đó cần biết họ sẽ ứng xử với mình ra sao, hoặc nếu là sự thì tình trạng tiếp theo đây sẽ thế nào, đó là Khách thể hay Dụng. Xem xét Thể và Dụng cũng là điều cần biết trong dự báo bằng Kinh Dịch.
Thể và Dụng (Chủ thể và Khách thể) được biểu hiện qua quẻ Dịch, Thể và Dụng cũng quan hệ đến phương hướng Không gian Trái đất.
Muốn xác định Thể hay Dụng, ta phải tìm hào động trong quẻ. Bạn đọc hãy chú ý một điều như sau:
Hào động là hào bị biến đổi, gọi tắt là hào biến: hào Dương biến thành hào Âm, hào Âm biến thành hào Dương. Trong một quẻ, nếu quái (hướng không gian Trái đất) nào có hào động, thi quái đó là Dụng (Khách thể), quái nào không có hào động thì quái đó (hướng không gian Trái đất) là Thể (Chủ thể).
Vậy cách tìm hào biến trong quẻ Dịch như thế nào?
Công thức tìm hào biến hay động:
(Trị số Năm+Trị số Tháng+Trị số Ngày+Trị số giờ) : 6 = X
Kết quả có thể xảy ra như sau: nếu phép chia hết không dư thì hào 6 (trên cùng) của quẻ động. Nếu phép chia còn dư 1 thì hào dưới cùng của quẻ động; dư 2 thì hào 2 động, dư 3 thì hào 3 động, dư 4 thì hào 4 động; dư 5 thì hào 5 động. Ví dụ sau cho quẻ Phong Trạch Trung Phu:
Thứ tự vị trí các hào trong một quẻ có thể động.
Quẻ Trung Phu =========> Quẻ Tiểu Súc
Tiếp ví dụ 1 trên, ta tìm hào động của quẻ để tìm quẻ Thể và Dụng. Theo công thức trên ta có:
5+5+18+11= 39; đem 39: 6 = 6 dư 3. Vậy hào 3 của quẻ Trung Phu động, hào này Âm, biến thành hào Dương, như vậy ta có quẻ mới (xem quẻ trên và đồ hình dưới) là Tốn/Càn: Phong Thiên Tiểu Súc. Trong quẻ này, quẻ Thể là quái Tốn Mộc, quái Càn Kim là Dụng vì có hào động. Quẻ có Thể và Dụng cũng chính là kết quả của sự việc, ở đây là kết quả công việc kinh doanh sản phẩm mới đưa vào cuối năm 2012.
Đồ hình hướng không gian Trái đất hay Bát quái kết quả sự việc kinh doanh sản phẩm mới cuối năm 2012:
Bước thứ tư: dự báo kết quả qua Thể và Dụng
Dự báo chi tiết qua Thể và Dụng hay nói cách khác là đưa ra kết luận cuối cùng về sự việc. Phương pháp dự báo là xem mối quan hệ Ngũ hành giữa Thể và Dụng. Nhìn vào đồ hình hướng không gian Trái đất hay Bát quái trên của ví dụ 1 đang xét, ta thấy Dụng khắc Thể (Kim khắc Mộc): báo công việc kinh doanh sản phẩm này chưa theo ý muốn như đã vạch ra ban đầu. Dụng ở đây là Càn, thể là Mộc Tốn, nên cho biết thêm: trong làm ăn có sự lo lắng, sẽ mất mát về tiền của, mình chưa đối xử tốt với người giúp mình
Nguồn: Quang Tuệ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Từ xa xưa đến nay việc dùng các từ học hàm, học vị, tước vị kèm theo Tên Họ và Tên là có. Cách viết các trường hợp trên cùng giống như Hiệu. Người ta viết trước Họ và Tên, ví dụ: Giáo sư Trần Hữu Tước, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiến sỹ Nguyễn S
Từ xa xưa đến nay việc dùng các từ học hàm, học vị, tước vị kèm theo Tên Họ và Tên là có.
Cách viết các trường hợp trên cùng giống như Hiệu. Người ta viết trước Họ và Tên, ví dụ: Giáo sư Trần Hữu Tước, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tiến sỹ Nguyễn Sơn, Thạc sỹ Lê Đức Thảo…
Thời phong kiến với những phẩm tước bé thì người ta thường gọi phẩm vị cùng tên thường gọi mà không gọi trước Họ và Tên, ví dụ: Lý Nhu (chức lý trưởng chứ không phải là Họ Lý), ông Cửu Lợi (chức cửu phẩm chứ không phải Tên Họ là Cửu) hay ông Kiểm Hợp (chức hương kiểm ở thôn), ông Tống Cát, ông Cai Câu v.v… Tống, Cai người dân gọi Cai hay Tổng và hợp âm điệu với tên. Cai còn có nghĩa cai đội (chức vị trong “nhà binh” cũ).
Song tất cả những loại học hàm, học vị, phẩm tước đều không số hóa trong “phương pháp số hóa dự đoán”. Nó không có giá trị số biểu lý.
10 điều tuổi trẻ thường lãng phí. Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.
Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.
Sức khoẻ: Lúc còn trẻ, người ta thường ỷ lại vào sức sống tràn trề đang có. Họ làm việc như điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ…. Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hoá nhanh. Khi về già, cố níu kéo sức khoẻ thì đã muộn.
Thời gian: Mỗi thời khắc “vàng ngọc” qua đi là không bao giờ lấy lại được. Vậy mà không hiếm kẻ ném 8 giờ làm việc qua cửa sổ. Mỗi ngày, hãy nhìn lại xem mình đã làm được điều gì. Nếu câu trả lời là “không”, hãy xem lại quỹ thời gian của bạn nhé!
Tiền bạc: Nhiều người hễ có tiền là mua sắm, tiêu xài hoang phí trong phút chốc. Đến khi cần một số tiền nhỏ, họ cũng phải đi vay mượn. Những ai không biết tiết kiệm tiền bạc, sẽ không bao giờ sở hữu được một gia tài lớn.
Tuổi trẻ: Là quãng thời gian mà con người có nhiều sức khoẻ và trí tuệ để làm những điều lớn lao. Vậy mà có người đã quên mất điều này. “Trẻ ăn chơi, già hối hận” là lời khuyên dành cho những ai phí hoài tuổi thanh xuân cho những trò vô bổ.
Không đọc sách: Không có sách, lịch sử im lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách, bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế giới. Thật phí “nửa cuộc đời” cho nhưng ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì!
Cơ hội: Cơ hội là điều không dễ dàng đến với chúng ta trong đời. Một cơ may có thể biến bạn thành giám đốc thành đạt hay một tỷ phú lắm tiền. Nếu thờ ơ để vận may vụt khỏi tầm tay, bạn khó có thể tiến về phía trước. Nhan sắc: Là vũ khí lợi hại nhất của phụ nữ. Có nhan sắc, bạn sẽ tự tin và chiếm được nhiều ưu thế hơn so với người khác. Tuy nhiên, “tuổi thọ” của nhan sắc có hạn. Thật hoang phí khi để sắc đẹp xuống dốc. Hãy chăm sóc mình ngay từ bây giờ.
Sống độc thân: Phụ nữ ngày nay theo trào lưu “chủ nghĩa độc thân”. Thực tế là khi sống một mình, bạn rất cô đơn và dễ cảm thấy thiếu vắng vòng tay yêu thương của chồng con. Bận bịu gia đình chính là một niềm vui. Sống độc thân, bạn đã lãng phí tình cảm đẹp đẽ ấy.
Không đi du lịch: Một vĩ nhân đã từng nói: “Khi đi du lịch về, con người ta lớn thêm và chắc chắn một điều là trái đất phải nhỏ lại”. Vì thế, nếu cho rằng đi du lịch chỉ làm hoang phí thời gian và tiền bạc, bạn hãy nghĩ lại nhé!
Không học tập: Một người luôn biết trau dồi kiến thức sẽ dễ thành công hơn người chỉ biết tự mãn với những gì mình biết. Nếu không học hành, bạn đang lãng phí bộ óc đấy!
Thông thường bộ máy tiêu hóa do 5 sao chỉ định: đó là Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao. Thiên Riêu, Hỷ Thần. Chỉ riêng hai sao Thiên Riêu chỉ ruột và Hỷ Thần chỉ hậu môn, kỳ dù ba sao còn lại không chi đích danh bộ phận nào trong bộ máy tiêu hóa, từ dạ dày, gan mật, lá lách cho đến ruột non, ruột già.
Các bệnh tiêu hóa có khi lại không dùng đến 5 sao. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, hễ sao chỉ bộ máy tiêu hóa mà đi chung với Sát Tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh thì tất bị bệnh.
- Địa Không, Địa Kiếp Đây là hai sao chỉ bệnh nặng nói chung, trong có bệnh về bộ máy tiêu hóa nếu đi chung với một trong 5 sao chỉ bộ máy tiêu hóa. Về hình thái của bệnh, có thể là loét dạ dày, rách ruột, sỏi mật, gan hư, hay có ung thư trong một hay nhiều bộ phận của bộ máy. Vì Kiếp Không chỉ ung nhọt, lở loét cho nên bộ máy tiêu hóa có thể bị rách, chảy máu như trường hợp ung thư, kiết lị ra máu. Về cường độ, vì Kiếp Không là Sát Tinh hạng nặng cho nên bệnh sẽ nặng, nhất là khi hãm địa. Vốn là sao Hỏa, nên bệnh bột phát bất ngờ.
- Thiên Hình, Kiếp Sát: Một trong hai sao này chỉ về mồ xẻ. Bộ máy tiêu hóa có thể bị giải phẫu. Bệnh sẽ tương đối nặng, nhất là khi gặp cả hai sao.
- Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh Bốn sao này chỉ bệnh, nhưng không rõ tính chất và cường độ, nhưng chắc chắn không nặng bằng Kiếp Không.
- Đại hao, Tiểu hao Đúng ra Song Hao không chỉ bộ máy tiêu hóa, mà chỉ bệnh đau bụng tiêu chảy. Ở Mệnh hay ở Tật, Song Hao chỉ tạng của người hay đi tiêu chảy: tái đi tái lại hầu như kinh niên. Cũng có thể đây là bệnh ăn không tiêu, kém ăn, trúng thực, thượng thổ hạ tả.
- Hóa Kỵ Chỉ trục trặc nhỏ trong bộ máy tiêu hóa, do dùng thuốc quá liều hay ăn trúng phải chất có hại cho tiêu hóa (Hóa Kỵ là hóa chất) .
- Thiên Khốc, Thiên Hư Chỉ sự lục **c, hao hại ngấm ngầm của bộ máy không hẳn là bệnh, nhưng gây khó chịu như ăn không tiêu, trục trặc không rõ căn nguyên. Một nguyên do khả hữu là vì bộ răng không tốt, nhai thức ăn không kỹ. Đây cũng là một bệnh kinh niên. Tất cả sao kể trên hội tụ hoặc riêng lẻ đều gây bệnh. Càng hội tụ nhiều, bệnh càng nặng và lâu khỏi. Ngoài ra các sách đã có cũng kể các bộ sao dưới đây liên quan đến bệnh tiêu hóa nói chung: - Thái âm hãm địa - Vũ Khúc, Thất Sát - Thiên Đồng, Hoá Ky - Thiên Trù, Đại, tiểu hao Bệnh này do ăn uống quá độ hoặc ăn món lạ bị ngộ độc. Đây là bệnh của người ăn nhiều cao lương mỹ vị, trà dư tửu lậu thường thấy trong giới ngoại giao, bợm nhậu.
Có những sao chỉ rõ bộ phận bị bệnh như: - Riêu, Đà, Ky: Đau dạ dày, đau ruột. - Không, Kiếp, Bệnh, Cơ: bệnh mật - Không, Kiếp, Hỷ, Thần: bệnh trĩ - Tham Đà: bệnh do ăn uống quá độ, bội thực. - Bệnh Phù: hay đau dạ dầy, đầy hơi, kiết lỵ, hoặc thiếu dinh dưỡng sinh ra phù thũng. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
5 lỗi phong thủy dưới đây vô cùng điển hình trong cách bố trí nội thất phòng ngủ mà bạn ít khi nghĩ đến. Nếu bạn đang mắc một trong những lỗi phong thủy dưới đây, hãy ngay lập tức thay đổi để hợp phong thủy, giúp giấc ngủ được đảm bảo hơn và tránh tai họa.
Giường ngủ đối diện cửa phòngTheo quan niệm phong thủy, giường ngủ đối diện cửa phòng sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của các thành viên sử dụng căn phòng đó. Tùy thuộc vào vị trí cửa đối diện với phần cơ thể nào mà bạn sẽ bị đau ở đó. Ví dụ cửa đối diện đầu giường sẽ gây ra chứng đau đầu, đối diện với phần chân sẽ gây ra các bệnh liên quan đến chân...
Theo giải thích của các chuyên gia phong thủy thì việc đặt đối diện giường ngủ với cửa ra vào như vậy sẽ khiến những luồng khí xấu xâm nhập trực tiếp vào cơ thể bạn, gây ra các vấn đề về sức khỏe.
Cửa phòng tắm/nhà vệ sinh đối diện giường ngủNếu nhà bạn có phòng ngủ đối diện cửa phòng tắm và nhà vệ sinh thì còn có phong thủy xấu hơn cả đối diện cửa ra vào. Bởi phòng tắm hay nhà vệ sinh là nơi có nhiều uế khí, khi đặt giường ngủ đối diện như vậy dễ sinh bệnh tật nghiêm trọng, làm giảm sự minh mẫn của chủ nhân căn phòng.
Do đó, nếu bạn cảm thấy sức khỏe suy yếu trong thời gian dài mặc dù vẫn ăn ngủ điều độ, cần lập tức thay đổi vị trí giường ngủ càng sớm càng tốt.
Đặt gương đối diện giường ngủTheo một số nhận định của các chuyên gia phong thủy, giường ngủ có treo gương ở phía đối diện sẽ khiến bạn rơi vào trạng thái mê man, giấc ngủ chập chờn và dễ khiến người thứ 3 có thể chen chân vào mối quan hệ của bạn với bạn đời. Cách tốt nhất là không nên có gương trong phòng ngủ.
Giường ngủ đối diện với góc nhọnCăn phòng của bạn không được vuông góc và chẳng may giường ngủ lại đặt đối diện với góc nhọn ấy. Điều này là không hề tốt trong phong thủy. Nó sẽ khiến bạn thường xuyên gặp ác mộng, giật mình và hồi hộp tỉnh dậy giữa đêm. Để khắc phục, tốt nhất bạn nên dùng mành che hoặc vật trang trí để che đi góc nhọn ấy hoặc đặt giường ở vị trí khác.
Giường ngủ cách bồn cầu, bếp nấu hoặc bàn thờ một bức tườngBồn cầu, bếp nấu, bàn thờ là những nơi đại kị không nên đặt giường ngủ ở gần, kể cả là đã ngăn cách bằng một bức tường. Giường đặt cạnh bồn cầu sẽ khiến bạn dễ sinh bệnh tật, đặt gần bếp nấu sẽ khiến bạn thường xuyên lo lắng, chức năng gan bị ảnh hưởng do yếu tố lửa phát ra từ bếp. Còn nếu đặt cạnh bàn thờ, việc sinh hoạt vợ chồng sẽ gặp rắc rối.
Theo Emdep Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Doanh nghiệp tuổi Mùi tức là doanh nghiệp được thành lập vào năm Mùi (1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991...) như Công ty Pepsi Cola, Công ty cổ phần Siemens,
Doanh nghiệp tuổi Mùi tức là doanh nghiệp được thành lập vào năm Mùi (1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991...) như Công ty Pepsi Cola, Công ty cổ phần Siemens, Công ty Coca Cola... Đây đều là những công ty nổi tiếng thế giới và làm ăn phát đạt.
Hãng Coca Cola thành lập năm Kỷ Mùi (1919)
Công ty Pepsi Cola được thành lập năm 1919 (Kỷ Mùi) với tên gọi ban đầu là Lofte. Năm 1991, Pepsi Cola có số vốn là 17 tỷ 143 triệu USD, doanh thu đạt 17 tỷ 803 triệu USD, lãi ròng 1 tỷ 90 triệu USD. Năm 2004, doanh thu của Pepsi Cola đạt 29 tỷ 261 triệu USD, lãi ròng 4 tỷ 261 triệu USD.
Công ty cổ phần Siemens được thành lập năm 1847 (Đinh Mùi). Năm 1991, Siemens có số vốn là 37 tỷ 308 triệu USD, doanh thu đạt 6 tỷ 576 triệu USD, lãi ròng thu được là 896 tiệu USD. Năm 2005, Siemens đạt doanh thu đạt 75 tỷ 445 triệu EUR, lãi ròng đạt 2 tỷ 248 triệu EUR.
Công ty Coca Cola thành lập năm 1919 (Kỷ Mùi), là công ty sản xuất đồ uống lớn nhất thế giới. Năm 1991, Coca Cola đạt doanh thu 4 tỷ 36 triệu USD, lãi ròng là 93 triệu USD. Năm 2004, Coca Cola đạt doanh thu 21 tỷ 962 triệu USD, lãi ròng đạt 4 tỷ 847 triệu USD.
Hạnh phúc chính là buông xả, xả ly, mọi sự tranh chấp buồn phiền do ta phần nhiều đổ lỗi cho người khác hoặc gánh hết tội lỗi vào bản thân và tự trách móc
Người tu là người đi tìm hạnh phúc chân thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm khát mọi sự vật trên đời này. Như vậy hạnh phúc chính là sự giải thoát của tâm ý. Và muốn có giải thoát thì phải tập buông xả.
Chất chứa có người nọ nghe nói về một đạo sư nổi tiếng nên tìm đến hỏi đạo. Đến nơi, anh thấy trong nhà của vị đạo sư trống trơn, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cuốn sách.
Anh ngạc nhiên hỏi: “Sao nhà đạo sư trống trơn, không có đồ đạc gì cả?” Đạo sư hỏi lại: “Thế anh có hành lý gì không?” Anh đáp: “Dạ có một va li”. Đạo sư hỏi: “Sao anh có ít đồ vậy?” Anh đáp: “Vì đi du lịch nên đem ít đồ”. Đạo sư nói: “Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều”.
Chúng ta thường quên mất mình chỉ là khách du lịch qua cuộc đời này, lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà thì chất chứa quần áo, vòng vàng, nữ trang. Đàn ông thì máy móc, xe hơi, ti vi, máy điện tử.
Tranh chấp
Mỗi khi có sự tranh chấp, buồn phiền, chúng ta thường có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác. Sau đây là ba trường hợp:
Người chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng và người kia lỗi 100%.
Người bắt đầu học đạo, biết tu thì thấy cả hai bên đều có lỗi 50%.
Người hiểu đạo thì thấy mình lỗi 100%.
1/ Người chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng 100%.
Do vô minh và chấp ngã quá lớn, cho mình là người quan trọng nhất, nghĩ cái gì cũng phải, cũng đúng, nên xảy ra chuyện gì trái ý cái ngã (cái ta) thì tức giận bắt lỗi người khác.
Thí dụ một chuyện thật xảy ra ở Hoa Kỳ, có một bà già vào mua cà phê tại tiệm Starbucks, không biết vì lý do gì, bà uống ly cà phê bị phỏng miệng. Thế là bà nổi giận làm đơn kiện tiệm này đã bán cho bà ly cà phê quá nóng khiến bà bị phỏng miệng và đòi bồi thường hai triệu đô la. Bà ta không thấy lỗi mình là khi cầm ly cà phê lên, nếu thấy nóng thì phải biết thổi cho nó nguội rồi mới uống, đàng này có thể vì tham ăn, tham uống, thấy ly cà phê bốc mùi thơm phức, mờ mắt húp cái ực nên bị phỏng miệng. Trong khi đó biết bao nhiêu người khác uống đâu có bị phỏng? Không những không biết lỗi mình mà còn đi kiện người ta!
Một chuyện khác có thật cũng xảy ra tại Hoa Kỳ. Một ông nọ đưa bộ đồ vét (veste, suit) đến một tiệm giặt ủi. Khi lấy bộ đồ về thì nhận ra cái quần không phải của mình. Ông đem trả lại tiệm và khiếu nại. Khoảng một tuần sau, chủ tiệm đưa cho ông một quần khác, nhưng ông vẫn không công nhận là quần của ông. Thế rồi ông làm đơn kiện tiệm giặt ủi. Chủ tiệm đề nghị bồi thường ông 12.000 đô la nhưng ông không chịu mà đòi 54 triệu. Đương nhiên là quan tòa đã bác đơn của ông ta.
2/ Người bắt đầu học đạo và biết tu thì thấy cả hai bên đều có lỗi 50%.
Ở đây nói 50% là nói tượng trưng, vì có thể là 40% và 60%, hoặc 30% và 70%, hoặc 20% và 80%, v.v… Khi xảy ra một sự tranh chấp, cãi nhau thì đương nhiên phải có một người bắt đầu.
Thí dụ như ông A và bà B cãi nhau. Ông A là người bắt đầu, nhưng nếu bà B im lặng bỏ đi, không chửi lại thì ông A không thể đứng đó chửi mãi. Nhưng nếu ông A nói một câu và bà B nói lại hai câu thì ông A sẽ tức lên nói ba câu hoặc năm, sáu câu liên tiếp. Và nếu bà B không biết ngừng thì cuộc cãi nhau sẽ leo thang. Nếu bà B biết ngừng thì cuộc khẩu chiến sẽ chấm dứt. Nhưng sau đó cả hai bên đều mang vết thương lòng và hận nhau. Về nhà, nếu bà B là người hiểu đạo thì sẽ nhận ra mình cũng có lỗi trong chuyện cãi nhau, và nếu nhận ra mình có lỗi 40% thì cơn giận của bà sẽ giảm xuống 40%. Nếu bà B nhận ra mình có lỗi 60% thì cơn giận của bà sẽ hạ xuống 60%.
3/ Người hiểu đạo thì thấy mình lỗi 100%.
Trong một cuộc tranh chấp mà thấy mình lỗi 100% thì coi bộ lỗ quá. Nhưng nếu hiểu đạo, đạo ở đây là luật nhân quả và nhân duyên thì biết là không thể nào tự nhiên vô cớ mà người kia lại gây sự với mình. Có thể mình đã nói hoặc đã làm điều gì tổn thương người ta mà mình không nhớ. Và nếu xét cho kỹ mà vẫn không thấy mình làm gì sai quấy thì có thể đời trước, hay nhiều kiếp trước mình đã não hại người ta, nên bây giờ họ gặp lại mình thì gây sự, kiếm chuyện trả thù.
Thấy mình lỗi đã là quý, nhưng nếu biết xin lỗi thì càng quý hơn vì có thể giải tỏa ân oán và oan gia.
Hạnh phúc xả ly
Ở đời người ta thường cho hạnh phúc là có được cái này, cái kia: Có nhà lầu, xe hơi, có vợ đẹp, con ngoan, có tài sản, quyền thế, v.v… Khi chưa có thì muốn có, làm đủ mọi cách để cho có. Có rồi thì sợ mất hoặc xem thường rồi lại muốn có cái khác. Nếu không được thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở.
Người biết tu thì thấy “không có” là một hạnh phúc. Không có ở đây là do trí tuệ quán chiếu thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu không muốn có, nếu đã có rồi thì tập xả ly. Vì những thứ “có” trên thế gian này đều là ràng buộc.
Tuy nhiên đối với những người chưa có, chưa thỏa mãn được những mong ước, thèm khát, còn mải mê chạy theo vật chất thì xả ly là một việc thật khó làm, vì họ chưa có thì lấy gì mà xả bỏ.
Ðức Phật khi còn là thái tử đã có vợ con, vàng bạc, của cải, cung phi mỹ nữ, đầy đủ vật chất mà trong lòng vẫn nặng trĩu âu lo, không cảm thấy hạnh phúc. Do đó Ngài mới xả bỏ ra đi tìm chân lý, tìm hạnh phúc chân thật. Trong khi đó có những người tu lại chạy theo vật chất, của cải, tài sản, danh lợi bởi vì trong đời họ chưa được thỏa mãn, chưa cảm thấy có đầy đủ. Chỉ khi nào có được rồi và trải qua kinh nghiệm thấy những thứ mà họ đã nhọc công tìm kiếm chỉ đem lại phiền toái và khổ đau thì lúc đó ý nghĩ xả ly mới xuất hiện.
Trước hết có thân thì phải lo cho thân ăn, mặc, ở, sống. Phải đi làm kiếm ăn, phải mua quần áo mặc, phải thuê nhà ở tránh mưa nắng. Khi thân đau ốm phải lo thuốc men, chạy chữa. Nếu có gia đình thì phải lo làm ăn buôn bán kiếm tiền nuôi vợ con. Suốt ngày chỉ lo suy nghĩ và làm đủ mọi chuyện cho cái ta và những thứ của ta.
Hạnh phúc xả ly tương đương với thiểu dục tri túc, có nghĩa là tâm không ham muốn, và luôn cảm thấy đầy đủ dù trong tay không có gì hết. Với người tu, không có sở hữu gì thật là một hạnh phúc. Nói như vậy có vẻ ngược đời, nhưng người tu là kẻ đi ngược dòng đời kia mà!
Xả ly giống như người đang mang gánh nặng trên vai mà đi, nay bỏ được gánh nặng xuống thì cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng vô cùng. Người tu cần tập xả ly, vì xả nhiều chừng nào thì nhẹ chừng nấy. Xả ly không có nghĩa là phải vứt bỏ hết tài sản, của cải đang có.
Xả ly trước hết là xả bỏ sự ham muốn và buồn giận trong tâm, kế đến là xả bỏ sự bám víu vật chất bên ngoài. Tuy sống giữa tài sản, vật chất, nhưng tâm không còn nhớ nghĩ những thứ đó là của ta, nếu có ai xin hoặc mất thì xem như nhẹ gánh nặng.
Tập xả ly tới mức cùng cực thì khi chết, ta xem như trút hết gánh nặng, nhất là cái thân tứ đại già yếu, bệnh hoạn. Ta đã phải mang nó trên vai suốt cả cuộc đời, nay bỏ được nó, há không phải là sung sướng lắm sao? Vì thế các thiền sư đắc đạo, khi chết đều vui vẻ an nhiên tự tại ra đi.
Khi đói thì ta thèm ăn, nhưng khi ăn thì đòi thứ này thứ kia rồi ăn cho cố, đau bụng, nặng bụng, khó thở. Khi khát thì thèm uống, nhưng khi uống thì thích những thứ độc hại như rượu bia, rồi say mèm, ói mửa. Nhiều khi sinh ra ung thư hay sưng gan.
Theo Phật giáo, người tu là người đi tìm hạnh phúc chân thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm khát mọi sự vật trên đời này. Như vậy hạnh phúc chính là sự giải thoát của tâm ý. Và muốn có giải thoát thì phải tập xả ly. Hãy nhìn vào tự tâm, xem mình còn bám víu, dính mắc, ưa ghét cái gì không? Có người xả bỏ được vợ con nhưng lại dính mắc vào chùa chiền, xả bỏ được tài sản nhưng lại dính mắc vào danh lợi, địa vị. Xả bỏ được cái này nhưng rồi lại dính mắc vào cái khác!
Tác giả Thích Trí Siêu Nguồn: Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay số 11 Tiêu đề cũ “Hạnh phúc nhờ buông xả”, tiêu đề “Hạnh phúc là buông xả” do www.phatgiao.org.vn đặt lại.
TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Trở về trang nhà
IX.- Kết luận Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng. Khoa Tử-vi truyền vào Đại-Việt thời Lý do Trần Tự Mai, hay Hoàng Bính mang vào không cần thiết. Dù Tự Mai hay Hoàng Bính thì Tử-vi đó cũng thuộc chính phái. Nhưng bí truyền trong dân gian. Đợi mãi đến khi ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung-hoa về mang theo bộ Tử-vi của Nam phái, bấy giờ khoa Tử-vi mới được đại chúng hóa. Nhưng cũng chính vì vậy khoa Tử-vi ở Việt-nam có hai trường phái: Một trường chính phái, học rất mau, theo sát Hy-Di tiên sinh. Một trường phái nữa ảnh hưởng Nam phái, vì thất truyền thành ra không có hệ thống nào cả. Những người nghiên cứu Tử-vi cần phân biệt rõ hai hệ thống, để lúc học mới khỏi bị bỡ ngỡ. Tuy nhiên không phải những sách vở nào của Nam phái cũng hỗn tạp, không phải những vị nào của Nam phái đều đoán liều cả. Tử-vi cũng như y học cần đi đến đối tượng là kết quả, ai đoán trúng, người đó đạt được học thuật. Cũng như y học, nói, viết không phải là cứu cánh, mà ai trị khỏi bệnh, người đó có lý. Một vấn đề trước mắt của chúng ta là, làm sao có đủ sách cho các vị nghiên cứu tìm hiểu.
Sách vở của cổ nhân chỉ là nền móng lúc đầu. Tại sao xưa kia Hy-Di tiên sinh đã tìm ra được nhiều nguyên lý Tử-vi, ngày nay chúng ta không thể đi sâu hơn tìm ra những nguyên lý khác. Cái xe hơi thế kỷ thứ 18 thô sơ, người sau cải tiến dần, nay trở thành những xe tối tân. Tử-vi là khoa học, chúng ta có thể tìm thêm, nghiên cứu rộng, để đưa ra những phát hiện mới. Bấy giờ mới đi tìm vận số con người, lại có thể đi xa hơn, phát triển phá cách, trợ cách, một lối phát huy độc đáo đời Trần, cần được đào sâu để đạt được tuyệt đích khoa học vậy.
Viết tại Bruxelles, mùa Đông, Tân-dậu (1981) Trần Đại Sỹ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Hầu hết bằng Hoa-văn, và vài bộ bằng Việt-ngữ, gồm những bộ ghi trên.
Những người có mắt to, mắt nhỏ, mắt là khoai hay mắt buồn,... là như thế nào? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa là đặc điểm của hình dáng đôi mắt.
“ Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Với mỗi người có một đôi mắt khác nhau, biểu hiện một phần nào đó tính cách, bản tính của họ thông qua ánh mắt. Những người có mắt to, mắt nhỏ, mắt là khoai hay mắt buồn,... là như thế nào? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn ý nghĩa là đặc điểm của hình dáng đôi mắt.
Mắt to mắt nhỏ là gì?
Thông thường mỗi con mắt đều có 3 phần là đồng tử, tròng đen và tròng trắng. Vậy mắt lớn mắt nhỏ là gì? Mắt lớn không có nghĩa là cả 3 bộ phận chính của mắt đều lớn mà thực ra người ta căn cứ vào phần mắt so với khuôn mắt được bao bọc bởi 2 mí mắt mà xác định lớn nhỏ.
Nếu hai mí mắt che lấp phần nhãn cầu thì được gọi là mắt to.
Mắt nhỏ là hai mí mắt vừa được tiếp xúc với nhãn cầu, vừa nhìn vào đã thấy nhãn cầu của mắt.
Mắt to thường là người đa tài đa nghệ (nguyệt bà động trung kính). Với những người có mắt lớn, ánh mắt ngay thẳng, trầm ổn, không nổi, không lộ, trong đen tròng trắng phân minh là kẻ có khả năng thiên bẩm, làm việc gì cũng xuất sắc hơn người.
Mắt cười là như thế nào?
Mắt cười là những đôi mắt có những đặc điểm đuôi mắt sau đây:
Có phần bọng mắt nhỏ ở dưới mí mắt, những sáng và không thâm quầng.
Mắt cười là khi bạn cười thì đôi mắt hơi híp lại, lông mày dãn ra.
Khi nhìn vào đôi mắt, đối với những người có mắt cười sẽ luôn thấy vui vẻ và đầy sức sống
Mắt cười còn là đôi mắt to với hai mĩ rõ ràng và phần lông mày cao.
Mắt sâu là mắt như thế nào?
Mắt sâu là tướng mắt có phần mí mắt xung quanh hõm xuống, cùng với đó là hốc mắt sâu. Nếu bạn muốn biết mắt sâu là mắt như thế nào thì hãy nhìn vào đôi mắt của những người phương Tây, đôi mắt của họ luôn to và sâu. Tuy nhiên, đặc điểm đôi mắt của người phương Đông lại không phải là mắt sâu. Số ít những người có hốc mắt sâu thường là những người hay căng thẳng, phải lo nghĩ nhiều. Cuộc sống của họ khá khó khăn và phiền muộn, thường dễ bị những cảm xúc tiêu cực chi phối.
Mắt buồn là mắt như thế nào?
Mắt buồn là những người có dáng mắt mà khi nhìn vào đều cảm thấy có nét buồn, đôi mắt buồn toát lên vẻ u sầu. Đuôi mắt hơi cong xuống, chưa vẻ u uất, dáng mắt lúc nào cũng ướt và có cảm giác như nước mắt chực trào ra. Dù họ cười thì vẫn cảm nhận được vẻ u sầu và buồn bã của họ.
Đôi mắt buồn nói lên điều gì? Những người có đôi mắt buồn thường có cuộc sống khá vất vả, nhiều sóng gió, họ không phải vất vả việc chân tay thì cũng vất vả, khó khăn về đường tình cảm. Không những thế, những người có đôi mắt buồn thường là người chung thủy, làm việc thiên nhiều về tình cảm nên dễ bị người khác lừa gạt, đường tình duyên nhiều sóng gió, không suôn sẻ.
Mắt xếch nói lên điều gì?
Bạn muốn biết mắt xếch là mắt như thế nào, phụ nữ mắt xếch nói lên điều gì?
Mắt xếch là kiểu dáng mắt có phần đuôi mắt hơi xếch ngược lên trên. Khiến cho người đối diện nhìn vào đôi mắt có cảm giác dữ dằn và hoảng sợ. Những người có mắt xếch, nhất là phụ nữ mắt xếch thường là người không thật thà, và khá đào hoa có thể nói là lẳng lơ. Những người có mắt xếch thường mang tướng đa dâm, họ thường là người thích thú với chuyện tình dục, dễ thay đổi tính cách. Với những nhà nhân tướng học thì người có đôi mắt xếch thường khiến người khác nảy sinh ác cảm.
Mắt là khoai là gì?
Những người có mắt lá khoai có đặc điểm là phần đuôi mắt dài, hơi xếch lên giống như đuôi của lá khoai lang, dài nhọn à hơi cong lên nhìn sắc sảo và gợi tình. Dân gian có câu ca dao nói về những người có mắt là khoai là: “Những người có mắt là khoai, liếc chồng, chồng chết ; liếc trai, trai mù”. Câu nói này mang ý nghĩa là loại phụ nữ có mắt lá khoai thường không đoan chính, là mẫu người đa dâm, thường sẽ ngoại tình.
Mắt là răm là gì?
Khác với mắt lá khoai, ông cha ta lại có câu ca dao khen ngợi những người có mắt là khoai như sau: “ Những người có mắt là khoai, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền” Đặc điểm của mắt lá răm là đôi mắt một mí, nhưng to và có đuôi mắt dài, sắc nhìn giống như lá rau răm. Những người có mắt lá răm thường khá buồn và sầu lắng.
Mắt lươn là mắt như thế nào?
Nhiều người thắc mắc đặc điểm của mắt lươn là mắt như thế nào? Những người có mắt lươn thì tính cách ra làm sao. Nói về mắt lươn, ông bà ta cũng có câu ca dao: “mắt mà ti hí mắt lươn, trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người”. Những người có mắt lươn, hay còn gọi là mắt rắn thường là những người có khuôn mắt nhỏ, tròn, hơi lộ, tròn đen nhiều hơn tròng trắng, lòng trắng có pha hồng. Mí trên thường là mắt một mí, nhỏ và kéo dài. Những người có mắt lươn thường bị cho rằng những người có đôi mắt gian, sông xảo trá và không thật lòng. Với phụ nữ có mắt lươn thường là những người đa tình, lúng liếng.
Đuôi mắt dài có nghĩa là gì?
Mắt dài hay người có đuôi mắt dài thường là những người có đuôi mắt dài quá 1 tác ( tắc tương đương với 3cm đến 3,2cm) có nghĩa là chủ nhân có quý cách. Muốn biết người này là đại trung hay tiểu quý thì cần phải xem xét sự phối hợp giữa đuôi mắt dài với các bộ vị khác, phải có sự phối hợp đúng cách thì là người có tướng vừa quý vừa hiển đạt và thọ tường.
Người có đuôi mắt dài mà thanh tú: Là người có tướng quý. Nói rõ hơn thì ranh giới lòng đen và lòng trắng phải rõ ràng, phân minh. Đồng tử ở ngay chính giữa nhãn cầu.
Con trai có đuôi mắt dài thì những người có tướng mắt này cộng với tai và lông mày hợp cách và tương phối là đại quý nhân, lông mày dài mà thanh vừa biểu tượng cho người có quý vừa có phúc vì giữ được tiền bạc.
Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại:
+ Xem bói nốt ruồi ảnh hưởng đến tướng mệnh của bạn
+ Xem bói chỉ tay đoán vận mệnh
Tìm kiếm liên quan:mắt cười là như thế nào, mắt sâu là mắt như thế nào, mắt buồn là mắt như thế nào, mắt xếch nói lên điều gì, người có hốc mắt sâu, phụ nữ mắt xếch, mắt to mắt nhỏ gọi là gì, mắt lá khoai là gì, đuôi mắt dài có ý nghĩa gì, người có đuôi mắt dài, con trai có đuôi mắt dài, mắt màu nâu có ý nghĩa gì, mắt lươn là mắt như thế nào, mắt lá răm là gì,đôi mắt biết nói là gì, người có đôi mắt buồn, đôi mắt buồn nói lên điều gì, đôi mắt buồn
Muội Hỉ - triều Hạ. Truyền thuyết kể rằng nàng là phi tử của thiên tử cuối cùng triều Hạ. Sau khi lấy vua Kiệt, hưởng thụ xa xỉ, suốt ngày chìm đắm trong ca múa khỏa thân, rượu thịt tràn lan. Tương truyền, nàng thích nghe tiếng “xé vải” nên vua Kiệt đã hạ lệnh hàng ngày phải tiến cung 100 súc vải lụa để xé mua vui, đổi lấy tiếng cười của nàng. Cũng vì hoàng đế mải mê chìm đắm trong tửu sắc, bỏ bê triều chính, nên muôn dân sống cảnh lầm than, ai oán thấu tận thanh thiên. Cuối cùng, vua Kiệt đã bị bộ lạc Thương tiêu diệt.
Đát Kỉ - triều Thương: Tương truyền nàng là một mỹ nhân bò cạp, là mối họa lớn về tội dâm dục lưu danh thiên cổ. Nghe nói nàng cũng không khác gì Muội Hỉ, đều là mỹ nhân đệ nhất thiên hạ. Khi vào cung được Trụ vương vô cùng sủng ái nên suốt ngày chỉ chìm đắm trong hưởng lạc mà quên mất giang sơn và cuối cùng thiên hạ bị diệt vong.
Bao Tự - triều Chu: được mệnh danh là mỹ nhân không biết cười. Thân thế nàng được miêu tả vô cùng thần kỳ trong “Đông Chu liệt quốc chí”, nhưng trên thực tế cũng chỉ là một tiểu mỹ nhân của bộ lạc “Bao” tiến cống cho Chu U Vương. Vì nàng ít cười nên Chu U Vương tìm mọi cách để đổi lấy tiếng cười của nàng, kể cả việc thường xuyên đốt cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Đến khi quân Khuyển Nhung đánh úp Cảo Kinh, U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng đã không ai tới. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.
Tây Thi thời Xuân Thu. Đứng ở một góc độ nào đó mà nói thì nàng chính là một “anh hùng” của nước Việt. Nhưng từ góc độ của nước Ngô thì nàng lại là “hồng nhan chi họa”. Nàng chính là con bài chủ chốt trong “mỹ nhân kế” nhằm mê hoặc khiến vua Ngô ngày đêm vui thú, hưởng lạc bên nàng, dần dần mất hết ý chí. Chính vì thế nước Ngô ngày càng suy yếu và đã bị nước Việt phục thù.
Lã Trĩ - triều Tây Hán: là Lã hậu của hoàng đế Lưu Bang, tuy không trực tiếp hay gián tiếp khiến nước nhà bị diệt vong nhưng khi tại thế bà ta ra sức ức hiếp Lưu tộc, tìm cách phục dựng Lã tộc nhà mình. Thời cổ đại rất coi trọng việc “gia tộc thống trị” vì thế việc làm của Lã hậu cũng là một điển hình về "gieo mầm tai họa" cho thiên hạ. Hơn nữa, thủ đoạn của Lã hậu vô cùng tàn độc, đối đãi vô cùng thậm tệ với tiểu thiếp của chồng. Tương truyền, khi Lưu Bang chết, bà ta đã cho cắt hết tay chân, móc mắt, cắt hai vành tai, cắt đầu lưỡi của Thích phu nhân.
Điêu Thuyền của Tam Quốc: Nàng cũng gần giống như Tây Thi, cũng là những vật hi sinh cho những mưu toan chính trị trong lịch sử Trung Quốc. Nàng đã dùng nhan sắc của mình mê hoặc và cuối cùng đã đập tan được liên minh hai cha con Đổng Trác và Lã Bố bằng việc kích động cho Lã Bố giết chết Đổng Trác.
Dương quý phi - triều Đường: Cùng với Điêu Thuyền và Tây Thi, nàng cũng là một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Quốc. Lúc này Đường triều đang thinh vượng. Nhưng do Đường Huyền Tông vô cùng si mê và hết lòng chiều chuộng nàng mà bỏ bê triều chính. Ông ta cũng không tiếc ngân khố để hầu hạ mọi sở thích xa hoa của nàng. Kẻ hầu người hạ nàng lên đến hàng trăm. Các quan lại thì đút lót nàng để thăng quan tiến chức. Triều chính rối ren, thiên hạ loạn lạc, cuối cùng trên đường chạy loạn sang nước Thục để đổi lấy lòng ba quân Đường Huyền Tông phải đau xót ban cho nàng một dải lụa trắng, thắt cổ tự tử.
Giả Nam Phong - triều Tấn: theo ghi chép trong sử sách, Giả hậu là người vô cùng xấu xí. Dáng người nhỏ thó, sắc mặt xám đen, đuôi lông mày có nốt ruồi lớn. Nhan sắc đã xấu xí, tâm địa lại vô cùng ác độc. Tấn Huệ Đế là một ông vua có trí tuệ chậm phát triển, vì thế, bà ta đã lộng hành thao túng triều chính, khởi nguồn cho cuộc loạn bát vương kéo dài suốt 16 năm khiến nhà Tấn suy yếu trầm trọng và đi đến diệt vong.
Khách Thị - triều Minh. Bà vốn là vú nuôi của hoàng đế Minh Hy Tông Chu Do Hiệu. Đồng đảng với bà ta chính là Ngụy Trung Hiền một đại hoạn quan nổi tiếng trong lịch sử. Ngày nhỏ hoàng đế Minh Hy Tông vô cùng yêu quý và hợp với vú nuôi cho nên khi lên ngôi ông đã phong cho bà ta là Phụng thánh phu nhân. Ngụy Trung Hiền cũng được thơm lây nhờ được Khách thị nâng đỡ. Vốn mù chữ dốt nát lại cộng thêm tham lam độc ác, khi có cơ hội leo cao ông ta đã làm lũng đoạn triều chính, thâu tóm mọi quyền lực trong tay, đồng thời tiêu diệt tất cả những người không cùng phe cánh với mình một cách không khoan nhượng. Chính vì thế mà vương triều nhà Minh dưới thời Minh Hy Tông đã suy tàn, kiệt quệ.
Từ Hy thái hậu: Không ai có thể phủ nhận sự sắc sảo và tham vọng của Từ Hy khi một tay thao túng triều chinh trong suốt 47 năm. Nhưng chính bởi sự ích kỷ của mình, bà ta đã khiến Trung Quốc tụt hậu khá xa so với Phương Tây. Nhiều nhà sử học Trung Quốc và hải ngoại thường miêu tả bà như một bạo chúa và chính là người phải chịu trách nhiệm chính cho sự sụp đổ của nhà Thanh.
Theo Kiến Thức Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Tết Đoan Ngọ vào ngày mùng 5 tháng 5, còn gọi là tiết Đoan Dương hay Tết Đoan Ngũ. Đoan là mở đầu, ngọ là giữa trưa, là lúc khí dương đang thịnh.
(Hình minh họa)
Đây là lễ tiết đầu tiên và quan trọng nhất của mùa hè, thể hiện ý nguyện cân bằng thiên nhiên, xua đi bệnh tật, chết chóc, hướng tới một mùa gặt hái bội thu. Bởi lẽ theo quan niệm của người phương Đông, đầu mùa hè là thời kỳ giao thời, chuyển tiếp của sinh khí, thời gian luôn đổi âm - dương.
Ngày mùng 5 tháng 5 khí dương tràn ngập nên rất nóng, thời tiết trở nên oi bức, các bệnh dịch dễ phát sinh. Vì vậy các đền, miếu thường cúng vào mùa hè để trừ ôn dịch. Người dân thì đi hái thuốc lá về dùng dần và làm lễ giết sâu bọ trong ngày này.
Tết Đoan Ngọ có nguồn gốc từ câu chuyện về Khuất Nguyên:
Khuất Nguyên là vị quan dưới triều của vua Hoài Vương thời Thất Quốc (307-246 TCN), ông bị bọn nịnh thần ghen ghét. Đời Tương Vương kế nghiệp, vua bị bọn gian thần thao túng, bác bỏ những tấu trình ngay thẳng của ông Khuất Nguyên và còn bắt ông chịu tội đi đày. Khuất Nguyên làm bài thơ Hoài Sa để tỏ nỗi lòng rồi gieo mình xuống sông Mịch La vào ngày mùng 5 tháng 5.
Tương Vương được tin hối hận, cho làm cỗ cúng và đem cỗ xẻ xuống sông. Đêm về Khuất Nguyên báo mộng cho vua rằng: nếu xẻ cỗ xuống sông thì phải bọc lá bên ngoài và buộc bằng chỉ ngũ sắc thì cá tôm mới không ăn được.
Do vậy để tưởng niệm Khuất Nguyên, hàng năm dân gian lại gói cỗ bằng lá, buộc chỉ ngũ sắc thả xuống sông cho ông hưởng. Chỉ ngũ sắc sau này trở thành thứ “bùa tui, bùa túi” treo cho trẻ em trong ngày Tết Đoan Ngọ.
Chọn lựa thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân? –
Mấy năm gần đây, mọi người tự chủ sáng nghiệp ngày càng nhiều, loại hình và địa điểm của thương phố ngày càng đa dạng hoá. Như vậy, người đầu tư phải lựa chọn thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân? Thương phố siêu thị Siêu thị mô hình lớn
Mấy năm gần đây, mọi người tự chủ sáng nghiệp ngày càng nhiều, loại hình và địa điểm của thương phố ngày càng đa dạng hoá. Như vậy, người đầu tư phải lựa chọn thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân?
Thương phố siêu thị
Siêu thị mô hình lớn thường xây dựng bên khu dân sinh, nó có ưu thế tích tụ nhân khí. Các thương phô siêu thị mô hình lớn đa số là chia cát tách rời, các thương phố khá độc lập, kinh doanh linh hoạt, do đó nguy hiểm cũng khá thấp.
Chú ý: Các thương phố siêu thị dựa vào siêu thị mà sinh ra, cho nên sự kinh doanh tốt hay xấu của siêu thị trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình thắng lợi của thương phố siêu thị. Do vậy, lựa chọn các thương nhân kinh doanh siêu thị có thực lực hoặc siêu thị đã xây dựng được thương hiệu thì sẽ đạt được một nửa của sự thành công.
Thương phố xã khu
Thương phố xã khu là một trong loại hình thương phố có tiềm lực rất lớn. Thông thường, một xã khu mới chỉ cần định vị chuẩn xác, môi trường phát triển tốt, tùy theo sự thành thục của xã khu mà mang đến những giá trị thương phố cao.
Chú ý: Mở rộng kinh doanh thông qua việc tuyên truyền bao bì hạng mục, từ đó xúc tiến thành một thương phố xã khu giá cả tiêu thụ tốt, như vậy thương phố mới từng được giá trị không gian.
Thương phố phố thương nghiệp
“Kinh điển vượng phố” của phố thương nghiệp, không khí thương nghiệp ưu việt, lưu lượng khách hàng ổn định quyết định đến khả năng thu được lợi nhuận khá cao của loại hình thương phố này.Nhưng tiền thuê hoặc giá cả đơn vị diện tích cũng sẽ cao, trong các thành phố thương nghiệp khá phát đạt thậm chí xuất hiện cục diện nghìn vàng cũng không có được.
Chú ý: Chuyên gia đầu tư thương phố cho rằng: Vị trí, khoáng dđất loại này tốt được gọi là “Kinh điển vượng phố”, giá cả của những khu vực này cũng khá cao. Nêu như nhà đầu tư không để ý thì sẽ dễ gặp nguy hiểm lớn.
"Ông già" Lưu Bị có gì khiến Tôn Quyền chịu gả em gái mỹ nhân?
Là nước thắng trận ở đại chiến Xích Bích và thế lực hùng mạnh hơn Lưu Bị, lý do Tôn Quyền chấp nhận gả em gái Tôn Thượng Hương cho Bị vẫn là vấn đề được nhiều người tranh luận.
Tôn Quyền đích thực là bậc anh hùng, từng được Tào Tháo tán thưởng - "Sinh con phải như Tôn Trọng Mưu".
Dưới thời Tôn Quyền cai trị Đông Ngô, thế lực nước này được xem là hùng mạnh. Là quận chúa của Đông Ngô, Tôn Thượng Hương cũng được xem là "cành vàng lá ngọc".
Trong khi đó, Lưu Bị dù là lãnh đạo một thế lực quân phiệt, dù được tiếng "ngang vai" với Tôn Quyền, nhưng thực lực kém xa.
Hơn nữa, Bị được đánh giá là "quê mùa chất phác, phiêu bạt nửa đời người". Bất luận Bị và Tôn Thượng Hương "tương ngộ" ra sao đều bị coi là "một sai lầm".
Chính vì vậy, nguyên nhân thực sự khiến bá chủ Giang Đông chịu gả "kim chi ngọc diệp" Tôn Thượng Hương cho "ông già" Lưu Bị, đến nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Tôn Thượng Hương chỉ là quân cờ trong cục diện "tam phân thiên hạ", vốn đã nằm trong tính toán của Tôn Quyền?
Tôn Quyền có sợ Lưu Bị?
Thực tế, với thực lực quân sự của Đông Ngô, Tôn Quyền không hề e ngại thế lực của Bị.
Thứ nhất, dưới trướng Đông Ngô, nhân tài văn võ "như mây trên trời", Giang Đông nổi danh "địa linh nhân kiệt".
Văn thần có Trương Chiêu, Trương Hoành, Gia Cát Cẩn... Võ tướng có Cam Ninh, Trình Phổ, Hoàng Cái, Lăng Thống...
Các nhân vật như Chu Du, Lỗ Túc, Lục Tốn thậm chí được đánh giá là "dụng binh như thần", văn võ kiêm toàn.
Ngoại trừ quy mô tổng thể lực lượng và địa bàn Đông Ngô không bằng Tào Ngụy, Tôn Quyền thực chất hoàn toàn có khả năng "ngẩng cao đầu" làm bá chủ Giang Đông.
Thứ hai, Tôn Quyền đã là đời thứ 3 của Tôn gia cát cứ Giang Đông.
Trải qua 3 đời phát triển, dân giàu nước mạnh, hiền tài "tùy nghi sử dụng". Về điểm này, Gia Cát Lượng đã nói với Lưu Bị ngay từ ngày Lượng "xuất sơn".
Đông Ngô, không cần nghi ngờ gì, là lực lượng "binh hùng tướng mạnh", Lưu Bị không phải ngày một ngày hai có thể so bì được.
Thứ ba, Tôn Quyền cùng Chu Du sau khi đại thắng tại Xích Bích, tiếng tăm lừng lẫy vô cùng.
Bên cạnh đó, trong vai trò là phe cầm trịch trong liên minh quân sự với Lưu Bị, thực lực Đông Ngô cũng hoàn toàn áp đảo Lưu Bị - thời điểm đó lực lượng thiệt hại nghiêm trọng sau thất bại ở Kinh Châu trước Tào Tháo.
Lý do Lưu Bị lấy được mỹ nhân Tôn Thượng Hương
Nhận định rõ Tào Tháo là kẻ địch lớn nhất, chính Tôn Quyền chủ trương "liên Thục kháng Tào"?
Việc Tôn Quyền gả Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị, sử liệu Trung Quốc nói rằng không phải do mưu kế của Chu Du, mà thực chất là Tôn Quyền "cam tâm tình nguyện".
Trong "Tam Quốc Chí - Lưu Bị bản truyện", sử gia Trần Thọcho rằng, Tôn Quyền nhận thấy thế lực của Lưu Bị dần dần lớn mạnh, nên mới chủ động gả em gái cho Bị.
Hôn sự này được diễn ra vào năm 209 (năm Kiến An thứ 14, Hán Hiến Đế). Việc Lưu Bị rước dâu Giang Đông là một trong những sự kiện lịch sử trọng đại.
Các học giả hiện đại đã nêu ra một số luận điểm để lý giải tính toán của Tôn Quyền khi kết thông gia với Thục Hán.
Thứ nhất, Tôn Quyền xét đến toàn cục.
Ngay từ trước đại chiến Xích Bích, Lỗ Túc đã khuyên Tôn Quyền "nên qua lại" với Bị.
Thời điểm đó, Tào Tháo vừa đoạt Kinh Châu từ tay Lưu Bị. Với tài năng chính trị trác tuyệt của mình, Lỗ Túc đã không bỏ lỡ thời cơ "hội kiến" và lung lạc Bị, nhờ đó mới hình thành liên minh Tôn - Lưu, đem tới chiến thắng Xích Bích.
Đặc biệt hơn, đại chiến Xích Bích là chiến dịch quan trọng nhất trong lịch sử Tam Quốc, đóng vai trò quyết định trong việc hình thành cục diện "tam phân thiên hạ".
Lưu Bị đã nhanh tay chiếm giữ 4 quận Kinh Nam, đẩy mạnh bành trướng thế lực quân sự, khiến Tôn Quyền "phải nhìn mình bằng con mắt khác".
Thứ hai, Tôn Thượng Hương là con gái Tôn gia Giang Đông, quan điểm của Tôn Quyền đương nhiên cho rằng em gái mình có nghĩa vụ hy sinh cho đại nghiệp của Tôn gia.
Nếu nàng không hy sinh hạnh phúc cá nhân, liên minh Tôn - Lưu khó có khả năng củng cố sâu sắc mối quan hệ, cùng tiến công Tào Tháo.
Thứ ba, dù hoàn cảnh, vai vế khác nhau, nhưng có một điều không thể phủ nhận rằng, Lưu Bị và Tôn Quyền đều là những bậc anh hùng thời Hán mạt, "chí lớn gặp nhau" cũng không phải là điều khó hiểu.
"Tiên chủ (Lưu Bị) đến Kinh (Giang Tô Trấn Giang ngày nay) gặp Quyền, giống như tri kỷ".
Luận điểm này cho rằng, hoàn toàn không có chuyện Tôn Quyền "giả hứa hôn" để mưu hại Lưu Bị.
Chu Du nhận định Lưu Bị là đối thủ nguy hiểm, cần phải trừ khử. Nhưng Tôn Quyền đã chủ định cùng Thục, Ngụy hình thành cục diện "tam phân thiên hạ".
Thứ tư, Chu Du từng muốn "triệt" Lưu Bị để trừ hậu họa.
Sau khi Du biết tin Lưu Bị tới Đông Ngô thành hôn, đã vội gửi thư cho Tôn Quyền.
Trong thư, Chu Du viết - "Lưu Bị là bậc kiêu hùng, lại có hổ tướng như Quan Trương, tuyệt đối không phải kẻ chấp nhận đứng dưới người khác".
Chu Du can gián Tôn Quyền nên tìm cách giữ Lưu Bị, đồng thời thực hiện kế ly gián quan hệ giữa Bị và các tướng Quan Vũ, Trương Phi.
Tuy nhiên, bên cạnh quan điểm của Chu Du, nhân vật mưu lược như Tôn Quyền cũng có kiến giải của riêng mình.
Quyền hiểu rõ mặc dù Tào Ngụy là phe bại trận ở Xích Bích, nhưng vẫn là mối đe dọa lớn nhất đối với Giang Nam.
Việc mượn thế lực Lưu Bị trấn thủ Kinh Châu, đẩy Bị vào vị trí đối đầu trực diện với Tào Ngụy, để cho Đông Ngô có thêm nhiều sự lựa chọn chiến lược, chính là suy tính lớn nhất của Tôn Quyền khi tác hợp "mối lương duyên" của Bị và Tôn Thượng Hương.
Vì vậy, Quyền mới không nghe Chu Du, mà vẫn kết thân cùng Lưu Bị.
Tiếc rằng, nhiều chuyện về sau đã không theo đúng định hướng của Tôn Quyền, đặc biệt là mối quan hệ Lưu Bị - Quan Vũ - Tôn Quyền, dẫn đến liên minh quân sự tan rã.
Dù vậy, Đông Ngô vẫn "nuốt trọn" 9 quận Kinh Tương.
Các nhà nghiên cứu chỉ ra, hôn nhân Lưu Bị - Tôn Thượng Hương hoàn toàn không phải là "mỹ nhân kế", mà là một cuộc hôn nhân chính trị hoàn toàn bình thường vào thời đại đó.
Vấn đề cuộc sống vợ chồng Lưu Bị có hạnh phúc hay không, thực tế không phải là mối quan tâm của Tôn Quyền.
Điều quan trọng là, Tôn gia Giang Đông đã "có chân" ở ít nhất 2 thế lực quân phiệt trong cục diện "tam phân thiên hạ".
Trong vị thế một lãnh đạo quốc gia, hiển nhiên Tôn Trọng Mưu chỉ chú trọng tới đại nghiệp của Đông Ngô, tới việc ông có thể giữ vững địa bàn Giang Đông hay không.
Tôn Thượng Hương là một nhân vật đầy cá tính trong "Tam Quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung, nhưng thực tế có lẽ chỉ đóng vai trò "quân tốt" trên bàn cờ của người anh Tôn Quyền.
1. Người hay oán giận, phẫn nộNgười lúc nào cũng than thở và oán trách số phận, oán trách người khác, nhìn gì cũng không thuận mắt, làm gì cũng không vừa ý nên luôn luôn gặp phải khủng hoảng, dễ dàng phản đối mọi việc. Người này không nhìn thấy mặt tích cực và lạc quan của vấn đề, chỉ chăm chăm soi xét tới cái tiêu cực, cái xấu xa và những khổ đau, xui rủi.Gần người này lâu, bạn sẽ bị nhiễm năng lượng xấu, thói xấu và cách nhìn đời u ám của họ. Từ cái nhìn tiêu cực dẫn tới suy nghĩ tiêu cực, rồi hành động tiêu cực, lộ trình này không quá xa đâu. 2. Quá đề cao cái “tôi”Phật dạy, làm người phải tự chủ và có bản ngã, điều đó là tốt. Nhưng, biến mình trở thành trung tâm của vũ trụ, lúc nào cũng tự phụ và đề cao bản thân, coi thường những người xung quanh thì không ổn chút nào. Bất luận đề cập đến vấn đề gì họ cũng thao thao bất tuyệt phô diễn năng lực bản thân, áp đảo người khác, chen lấn với người khác để nói.Tự tin khác với tự kiêu, gần người tự tin bạn sẽ cảm thấy được khích lệ và có thêm mục tiêu, ở gần người tự kiêu, bạn chỉ thấy bản thân kém cỏi và nhỏ bé so với họ. Kẻ mạnh là kẻ biết nâng người khác lên bằng đôi vai của mình, chứ không phải người giẫm đạp lên người khác để tiến lên. 3. Người tính cách thâm hiểmKẻ nguy hiểm nhất không phải kẻ ác, mà là kẻ có dã tâm. Người tính cách thâm hiểm, luôn có tính toán trong lòng, luôn mưu đồ việc không đoan chính, là loại người không nên tiếp xúc. Vì sao? Vì ở gần biết đâu bị hãm hại lúc nào không hay. Vì biết đâu, họ lại lôi kéo, lừa lọc mình vào những chuyện bất chính. Sông tuy sâu nhưng còn nhìn thấy đáy, lòng người tuy nông mà khó lường. 4. Giả vờ trợ giúp nhưng lại mưu hại người khác
Người giả tạo, ngụy quân tử chính là kiểu người không nên kết giao. Vì sự dối trá đội lốt chính nghĩa, kẻ thủ đoạn toan tính bên ngoài sự lương thiện là nguy hiểm nhất. Cũng vì thế mà người dạng này ẩn nấp kĩ, khó nhìn ra lòng dạ thật.
Hãy sống thật tĩnh tâm và ngay thẳng, giản đơn, để kẻ xấu không thể lợi dụng, người tốt muốn kết giao thì tự khắc 4 kiểu người trên sẽ không thể hiện diện trong cuộc sống của bạn. Trình Trình Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Những kiêng kỵ đặt vị trí cầu thang trong cửa hàng –
Phong thủy nghiên cứu sự chuyển động của "khí" kỹ càng, tỉ mỉ nhất. Về ý nghĩa cụ thể, "khí" là không khí mới mẻ của căn hộ, về mặt ý nghĩa trừu tượng nó có nghĩa là "vận khí, "tài khí". Cầu thang lên gác trong một căn phòng không những có tác dụng đ
Phong thủy nghiên cứu sự chuyển động của “khí” kỹ càng, tỉ mỉ nhất. Về ý nghĩa cụ thể, “khí” là không khí mới mẻ của căn hộ, về mặt ý nghĩa trừu tượng nó có nghĩa là “vận khí, “tài khí”. Cầu thang lên gác trong một căn phòng không những có tác dụng đi lại, nó còn có thể vận chuyển “khí”, tăng cường “khí” chuyển động nội bộ.
Chúng ta biết rằng, cổng chính thưòng bị coi là điểm hút “khí” và nhả “khí”. Vậy điếm nạp “khí” lại đối diện với cầu thang thì có thỏa đáng không?
Bản thân cầu thang là ghép từng bậc từng bậc với nhau. Nếu “khí” vừa vào đến cửa liền đụng phải cầu thang trước tiên, cầu thang sẽ cắt “khí” thành từng đoạn. Vậy làm sao “khí” có thể thuận được, “khí” sẽ nhiễu loạn, môi trường trong phòng cũng theo thế mà loạn theo. Điều đó có thể thấy rằng, mờ cửa ra gặp ngay cầu thang, tuy lên xuống rất thuận tiện nhưng tài khí trong nhà tự nhiên bị ảnh hưởng không tốt.
Vì vậy khi thiết kế cầu thang, những kiến trúc sư giỏi đều cố gắng đặt cổng chính không nằm đối diện với cầu thang. Họ áp dụng ba biện pháp sau: Một là chuyển hướng cầu thang. Ví dụ như thay đổi hình dáng của cầu thang làm nó chuyển sang hướng khác, quay lưng lại với cửa chính. Hai là giấu cầu thang đi. Cách tốt nhất là giấu cầu thang sau bức tường ngăn cách. Điểu này không những xóa đi nỗi lo “khí” bị cắt đoạn mà còn tăng độ an toàn khi lên xuống cầu thang. Gầm cầu thang có thể còn được tận dụng làm phòng chứa đồ hoặc nhà vệ sinh. Ba là dùng bình phong ngăn cách cầu thang và cửa chính để khí có thể thuận theo bình phong mà vào nhà.
Ngoài việc không được để cầu thang đốỉ diện với cửa chính ra, trong phong thủy còn quy định không để cầu thang ờ giữa phòng. Bởi vì trung tâm căn phòng được gọi là “huyệt nhãn”, là nơi “khí ngưng tụ”. Người ta cho rằng linh hồn của căn phòng tụ tập nơi này, vì thế nó là nơi linh thiêng, tôn quý. Nếu đặt cầu thang ở giữa căn phòng, sẽ hiện rõ hiện tượng “tuyên binh đoạt chủ”. Người ta lên lên xuống xuống cầu thang, khiến cho “huyệt nhãn” bị náo động, ồn ào không yên tĩnh hơn nữa lại chà đạp lên nơi tôn quý. Tự nhiên sẽ không mang lại khí tốt cho căn nhà.
Cuối cùng, thiết kế cầu thang phải chú ý tổng thể không gian căn nhà cho hài hòa, thống nhất. Đây là nguyên tắc chủ yếu nhất trong lý luận phong thủy.
Tật xấu khiến người yêu phát hoảng của 12 chòm sao nữ
Tật xấu của 12 chòm sao nữ khi yêu khiến các chàng vô cùng đau đầu và đau lòng. Nhưng con gái mà, để yêu chứ không phải để hiể, hãy thông cảm cho họ nhé.
Tật xấu của 12 chòm sao nữ khi yêu khiến các chàng vô cùng đau đầu và đau lòng. Nhưng con gái mà, để yêu chứ không phải để hiểu, hãy thông cảm cho họ nhé.
Bạch Dương: trẻ con Cô nàng Bạch Dương tính trẻ con lắm nên động vút chuyện là hơn ngay, thậm chí còn nổi đóa lên cơ. Kim Ngưu: kiểm soát “Một bước không đi, một li không rời”, người yêu của Kim Ngưu cứ chuẩn bị tinh thần mà nói lời tạm biệt với tự do đi nhé. Song Tử: thất thường Tính “đồng bóng” của con gái Song Tử thì nổi tiếng rồi, nàng ấy thoắt vui thoắt giận, không cần lý do. Cự Giải: ghen tuông Nàng Cự Giải vừa nhạy cảm vừa muốn cảm giác an toàn, nên rất hay lo nghĩ xa xôi, thành ra hay ghen. Sư Tử: độc đoán Không bao giờ được trái ý “nữ vương” là điều nhất thiết phải nhớ khi yêu Sư Tử. Xử Nữ: khó tính Tật xấu của chòm sao Xử Nữ là quản lý người yêu không khác gì một bà mẹ. Tỉ mỉ, kĩ lưỡng đến phát mệt. Thiên Bình: đắn đo Cần thật nhiều, thật nhiều thời gian để Thiên Bình tin tưởng người yêu. Cô ấy quá do dự và đôi khi sợ hãi. Thiên Yết: suy diễn Chuyện bé xé ra to, chuyện nhỏ hóa thành lớn là thói xấu của nàng Thiên Yết khi yêu. Nhân Mã: vô tư Có người yêu rồi mà Nhân Mã vẫn hồn nhiên chơi đùa với các bạn nam khác khiến đối phương chẳng thoải mái chút nào. Ma Kết: đòi hỏi cao Nhất thiết phải là điều tốt nhất, Ma Kết gây áp lực lớn với đối phương, nhất là ở phương diện sự nghiệp. Thủy Bình: chủ quan Cô nàng Thủy Bình lại có cái tính “ngơ ngơ”, tưởng yêu rồi là ngó lơ bạn ấy khiến người ta buồn. Song Ngư: nhõng nhẽo Song Ngư là chòm sao nữ cực kì nhõng nhẽo, chuyện gì cũng cần người yêu ở bên an ủi, chia sẻ hoặc đôi khi chẳng để làm gì, nhưng nhất thiết phải bên cạnh.
Theo Mật ngữ 12 chòm sao Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
"Sự tương hợp hoàn hảo", cho biết: "Hơn bất cứ phụ trang nào, đôi giày tiết lộ nhiều điều thú vị về tính cách của phụ nữ".
Kiểu giày ba-lê đế phẳng
Nếu bạn thích kiểu giày này, bạn là người giỏi ngoại giao, biết quan tâm, chăm sóc người khác. Chính vì thế, khi bạn bè có bất đồng thường nhờ cậy đến bạn với tư cách là chuyên gia tư vấn. Với óc sáng tạo cùng với thái độ nghiêm túc, bạn luôn được mọi người tôn trọng.
Kiểu giày cao gót nhọn
Kiểu giày này là 1 sự kết hoàn hảo giữa truyền thống và hiện đại. Nếu yêu thích nó, bạn có đầy đủ tính cách của người phụ nữ thời đại mới: tự tin và quyến rũ.
(Ảnh minh họa)
Giày hở gót
Đi giày hở gót chứng tỏ bạn là một người năng nổ, xông xáo thực sự. Trong các bữa tiệc hoặc ở công sở, bạn thường xuyên thoăn thoắt đi lại. Dù hơi nghịch ngợm một chút, nhưng bạn luôn được mọi người đánh giá cao.
Giày vải
Với đôi giày vải giản dị, bạn tạo được vẻ quyến rũ và điềm đạm, nhưng vẫn là người dễ gần. Mọi người rất yêu mến bạn vì cách bạn trò chuyện thông minh với những quan sát nhanh nhẹn và am hiểu về âm nhạc, điện ảnh. Không những thế, bạn còn không ngừng trau dồi và phát triển bản thân qua thật nhiều hoạt động
Giày mọi
Bạn là người sống có tình có lý, không sợ đương đầu với những vấn đề ở gia đình hay công sở. Mọi người rất yêu quý vẻ bình dị, hài hước của bạn.
Phong thủy nên tránh trong trang trí và phôi ghép phòng sách –
Không phải bất cứ gia đình nào cũng đủ điều kiện có một phòng sách, phòng sách thường dùng chung với một phòng khác. Những thứ phòng sách cần có ngoài giá sách ra còn có tủ sách, tủ đựng văn bản giây tờ v.v... Trung tâm phòng sách là bàn để viết, kèm
Không phải bất cứ gia đình nào cũng đủ điều kiện có một phòng sách, phòng sách thường dùng chung với một phòng khác. Những thứ phòng sách cần có ngoài giá sách ra còn có tủ sách, tủ đựng văn bản giây tờ v.v… Trung tâm phòng sách là bàn để viết, kèm theo còn có điện thoại, máy vi tính, máy fax và các loại văn phòng phẩm. Vị trí phòng sách rất quan trọng và quan trọng hơn là kích cỡ của nó, sự phối hợp các khu chức năng khác của phòng sách cũng không phải là không quan trọng ,về phong thuỷ, khi trang trí và phối ghép phòng sách cần chú ý mấy vấn đề dưới đây:
– Bàn không được đặt đối diện thẳng với cửa phòng. – Ghế ngồi không đặt thẳng bên dưới xà nhà. – Bàn đọc sách không kê quá gần giường. – Chỗ ngồi không để người ngồi quay lưng ra cửa. – Rác bẩn phòng sách phải thu dọn sạch sẽ, tránh làm bẩn sách. – Đủ ánh sáng.
– Không bày đồ chơi, treo tranh ảnh các minh tinh điện ảnh. – Bàn phải giữ sạch sẽ gọn gàng, trên bàn mà lộn xộn trong lòng cũng rối. – Cửa phòng sách không được thẳng với nhà vệ sinh, nhà bếp.
Đối với Phật gia mà nói, cần thành tâm niệm Phật dâng hương mới có thể được thần tiên, bồ tát, Phật tổ phù hộ. Còn Đạo gia lại dùng hương để thờ cúng thần linh trên trời, dưới đất, và trần gian, không chỉ là sự tôn trọng đối với thần linh, mà còn là cầu nối với Tam giới Thiên, Địa, Nhân.
Tác dụng của dâng hương có thể được chia làm hai loại, một là cầu khấn thần phật, hai là cúng bái quỷ thần âm giới. Nhưng cho dù là loại nào, thường khi dâng hương, người ta thường thắp một, ba, năm, bảy, chín nén hương, bởi vì số lẻ là số dương, tỏ lòng tôn trọng.
1. Một nén hương
Thắp một nén hương, ngụ ý bình an.
Một nén hương còn được gọi là Bình An hương, thường là thờ cúng thần linh trong nhà. Chỉ cầu người nhà bình an, mọi việc thuận lợi, sáng tối mỗi ngày một nén hương là đủ.
2. Ba nén hương
Ba nén hương theo đạo Phật còn được gọi là Tam Bảo Hương. Cái gọi là Tam Bảo, chính là Phật, Pháp, Tăng, trong đó Pháp chính là kinh Phật, còn Tăng là người xuất gia.
Đạo giáo gọi ba nén hương là Tam Thanh Hương, trong đó Tam Thanh chính là Ngọc Thanh: Thiên tôn nguyên thủy, Thượng Thanh: Thiên tôn Linh Bảo, Thái Thanh: Thiên tôn Đạo Đức.
Ba nén hương có thể cắm nén hương ở giữa là hưởng chủ, gọi là hương Giáo chủ, hương bên trái gọi là hương Thanh Long, hương bên phải gọi là hương Bạch Hổ.
Ba nén hương có thể linh ứng báo tin, bảo vệ người trong nhà và đánh đuổi tai ương.
3. Năm nén hương
Năm nén hương được gọi là Thiên Địa Ngũ Hành hương, gọi tắt là Âm Dương Ngũ Hành Hương. Có 2 cách cắm 5 nén hương, thứ nhất là sắp xếp theo năm phương, ở giữa là hương Giáo chủ, trái là hương Thanh Long, phải là hương Bạch Hổ, trước là hương Chu Tước, sau là hương Huyền Vũ. Cách cắm thứ hai là xếp theo hình chữ nhất theo chiều ngang, nén thứ nhất là hương Thanh Long, thứ hai là Bạch Hổ, thứ ba là Quan Khẩu, thứ tư là Hộ Pháp, thứ năm là Báo Mã.
Năm nén hương là cách mà các thầy pháp dự báo hung cát cho người khác hoặc mời gọi thần linh.
4. Bảy nén hương
Bảy nén hương là Bắc Đẩu Thất Tinh hương, lần lượt gọi là Thiên Xu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Khai Dương, Ngọc Hoành, Dao Quang. Bảy nén hương dùng để mời gọi thiên thần, thiên binh thiên tướng, nếu không đến bất đắc dĩ không nên dùng hương này.
5. Chín nén hương
Chín nén hương được gọi là Cửu cửu liên hoàn hương, trên thông ba mươi ba Thiên, dưới đạt ba mươi ba Địa, trên mời Ngọc hoàng đại đế, dưới mời Thập điện Diêm vương. Đây là hương tín hiệu cầu cứu, nếu như bất đắc dĩ, không còn nơi nào cầu giúp đỡ, nhân lực không thể cứu vãn, hi vọng Ngọc Hoàng Đại Đế và Thập điện Diêm Vương cứu giúp muôn dân, cứu khổ cứu nạn. Chín nén hương thường được bày theo ba hàng ba cột.
Theo Leo St (toutiao) (Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Trên bước đường nghiên cứu và học hỏi về tử vi, tôi có thể nói rằng việc giải đoán vận hạn khó khăn, phức tạp nhất vì ta phải cân nhắc và phối hợp quá nhiều yếu tố, mặc dù trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ rang. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì đại hạn và tiểu hạn gặp sao này bị nạn, gặp sao kia phát tài, hoặc đại hạn nhiều sao tốt hơn là sao xấu là tốt, hoặc đại hạn xấu mà tiểu hạn tốt cũng không hay…v.v…..như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng quá giản dị, dễ dàng và thiếu linh động, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần tử vi
Vì vậy tôi cố gắng thử triển khai cách giải đoán đại tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập tới nguyệt và nhật hạn vì đi quá sâu vào chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng sẽ bỏ qua những nguyên tắc thường được các sách nêu ra cho khỏi rườm
1. Xem Đại Hạn
Nếu so sánh với tiểu hạn thì đại hạn dễ giải đoán hơn nhiều vì đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các đại hạn không bao giờ giống nhau vì ở đại hạn ở 1 cung không trùng nhau như tiểu hạn (tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đoán tổng quát Mệnh – Thân thì đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng. Nói chung, khi giải đoán đại hạn, quý bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự):
Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của đại hạn
Tương quan giữa ngũ hành của bản mạng (hoặc cục) và ngũ hành của cung nhập đại hạn
Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam đẩu hoặc Bắc đẩu
Phối hợp cung Phúc với đại hạn
Phối hợp cung liên hệ đến hoàn cảnh xảy ra trong đại hạn (nếu cần)
Lẽ tất nhiên quý bạn phải xem xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra vì các sách đã có bàn tới, ngoài những nguyên tắc nêu trên
Bây giờ xin đưa ra những ví dụ cụ thể để quý bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây:
1.Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập đại hạn, quý bạn cần xem sao hoặc nhóm sao của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc Thân (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập đại hạn không. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết tử vi thường hay bỏ qua. Thực thế, có khi cách hoặc sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của Mệnh Thân. Ví dụ như: Mệnh hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa với nhau được và do đó cuộc sống phải gặp nhiều khó khăn, trở ngại, mâu thuẫn, đối kháng dù cho Cơ Lương đắc địa Thìn Tuất chăng nữa. Còn như Mệnh Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp. Ngoài ra, còn cần phải xem ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy, nếu đại hạn có Tử Phủ Dần Thân thì vẫn xấu như thương vì Tử Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh Tham Lang
2. Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem xét ngũ hạnh của Mạng (nếu chưa quá 30t) hoặc của Cục (nếu quá 30t) có hợp với ngũ hành của chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản mạng hoặc Cục (tùy theo trường hợp). Hoặc nếu không, phải tương hòa, nghĩa là cùng 1 hành (có nhà tử vi lại cho rằng cùng 1 hành là thuận lợi nhất). Còn trường hợp sinh xuất, tức là mạng sinh sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc mạng, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả nhưng mình vẫn khắc phục được hoàn cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu. Ví dụ Mạng của mình là Thủy đi đến đại hạn có Cự Kị, Không Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua. Trong khi đó, nếu mình mạng Hỏa hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về họa nước. Hoặc là mạng mình Kim, đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc hội Song Lộc, Tử Phủ…thì làm gì không giàu có. Trong khi mạng Mộc thì có khi khổ vì tiền
3. Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc quý bạn đều biết là Nam Đẩu tinh ứng về 5 năm sau của Đại hạn, còn Bắc đẩu tinh ứng về 5 năm trước. Tuy vậy vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng giải đoán như thế nào. Tôi xin đơn cử 1 thí dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái, đại hạn có Tham Lang, Riêu Hồng, Kình, Hình thì gần như chắc chắn trong 5 năm đầu đương số sống 1 giai đoạn rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (Bắc đẩu) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải mạng Thủy, Mộc hoặc Kim mới ứng nghiệm nhiều, vì Tham Lang thuộc Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (Nam đẩu) thì các nhóm sao phụ đó lại phải hoạt động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng Tham Lang nhập hạn vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hoàng hơn (trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị, hợi mới xấu)
4. Nhiều khi phối hợp Mệnh Thân với đại hạn cũng chưa đủ. Quý bạn còn cần xét đến cung Phúc và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc chỉ biểu tượng đơn thuần về âm đức của ông cha để lại hoặc của chính mình tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả dòng nội của mình vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà tử vi chỉ xét riêng cung Phúc đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của mọi người, nhất là trong trường hợp mệnh, than không có đủ yếu tố nhận định rõ rang hoặc bị coi như là “nhược” khiến cho ta không thể bám víu mà đoán. Ví dụ như 1 người có tả Hữu, Đào hồng chiếu Thê và cung mệnh có Riêu Mộc Cái hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ, nhưng nếu cung Phúc có Vũ Khúc Cô Quả, Lộc Tồn thì dù có gặp đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống them với 1 người đàn bà nào khác 1 cách chính thứ, chỉ có thể giỡn chơi trong 1 thời gian ngắn là cùng
5. Điểm sau chót quý bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hoàn cảnh xảy ra hoặc cần giải đoán trong đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là nếu cần thì mới xét tới vì khi mình giải đoán chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần biết 1 điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ. Ví dụ như đương số đã có vợ hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong đại hạn đương diễn tiến thì ngoài các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung tử tức (tức là cung liên hệ đến hoàn cảnh) trước đại hạn. Nếu cung Tử tức quá hiếm hoi, như có Đẩu quân, Cô Quả, Kình Đà, Lộc Tồn, Vũ Khúc, Không Kiếp chẳng hạn thì dù cho đại hạn đó có đủ Đào hồng hỉ, Thai, Nhật Nguyệt đắc địa, Long Phượng cũng chưa chắc gì sẽ sinh con đẻ cái đầy đặn hoặc may mắn về công danh, tiền tài. Còn nếu gặp trường hợp cung Tử tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả Hữu chiếu thì đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm 1 không chừng
2. Xem Tiểu Hạn
Bàn về tiểu hạn (tức là vận hạn trong 1 năm) quý bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn đại hạn nhiều vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn. Tôi bất giác thương hại các thầy tử vi hành nghề cứ phải giải đoán cấp kỳ theo như yêu cầu của than chủ, vì dù cho các thầy có giỏi đến đâu cũng không thể kết hợp được đúng mức, sau có 1 vài phút đồng hồ, nhất là khi phải bấm trên tay (trường hợp thiếu thị giác) và như thế làm sao chính xác được. Ngay cả khi rảnh rang, cứ ngồi mà cân nhắc, kết hợp cũng chưa chắc đã giải đoán được chính xác vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố khác thì ta đi đến kết luận nào. Do đó, dù có được biết đủ các nguyên tắc để giải đoán tiểu hạn, việc đoán cao thấp tùy thuộc óc kết hợp, nhận định tinh vi của người giải đoán. Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì tiểu hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà 1 vài điểm theo quy tắc đã được các sách nêu ra):
Tương quan giữa đại hạn và tiểu hạn
Tương quan giữa ngũ hành bản mạng với các chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn
Tương quan giữa lưu đại hạn, địa bàn và thiên bàn
Tương quan giữa ngũ hành của năm nhập hạn với cung và sao nhập hạn
Các phi tinh (tức là các sao lưu) ngoài ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra
Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để các bạn hiểu rõ ràng:
a. Khi xét đến tương quan giữa đại hạn và tiểu hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ đại hạn theo các nguyên tắc đã nêu ra. Tôi có thể nói mối tương quan này rất quan trọng, cũng như mối tương quan giữa đại và tiểu hạn nên ta không bao giờ giải đoán 2 tiểu hạn giống nhau mặc dù 12 năm lại trở lại 1 cung, tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục này tôi xin đưa ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng:
- Ví dụ đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới hoạt động. Chẳng hạn như đại hạn có Thái Tuế, Bạch hổ, Quan phù, Không Kiếp, Khốc Hư thường chỉ đoán tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi tiểu hạn có Cô Quả, Kình Đà, hình, Linh Hỏa thì dễ bị tai họa….(không thể nhìn thấy chữ)… nếu không có không sao. Tiểu hạn đó vẫn chẳng tai hại gì, có thể chỉ bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình….
- Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu đại hạn có Vũ khúc, Thiên Phủ hợp mệnh mà tiểu hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng. Hoặc giả đại hạn có tử vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đứng ở đó) hợp Mệnh mà tiểu hạn có Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu, Long Phương, Đào hồng Hỉ, Xương Khúc… thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh quy mô
- Nếu thấy các sao nhập Đại và tiểu hạn họp thành bộ rồi, cần phải xét xem các chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của đại hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các chính tinh của tiểu hạn hay không. Nếu đại hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tiểu hạn cần có Cự Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Tham…Về điểm này, quý bạn nên xem phần tiểu luận trong sách Tử Vi đẩu số tân biên của VĐTTL cũng đầy đủ và dễ hiểu. Vì thế, tiểu hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy
- Nếu chú ý về cá nhân mình thì cần đại hạn tốt đi vào 1 trong những cung liên hệ trực tiếp đế mình thời tiểu hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc). Ví dụ mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà đại hạn còn ở cung phụ mẫu hoặc cung Tử tức thì dù cho tiểu hạn có tốt vẫn chưa phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại hạn chuyển sang cung tài bạch (nhưng nếu xui xẻo, gặp cung Tài xấu thì cũng như vô vọng) mới hanh thông được
- Sau hết tôi xin nêu ra 1 trường hợp rất khó đoán: đương số mạng Tham Lang cư Thì, tức là tổng quát là lả lướt và đào hoa, cung Thê có Đào hồng, Tả Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn, mai mối nhiều và đại hạn lại đi tới cung Thê, như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó các thầy tử vi đều đoán đương số lấy vợ ở các tiểu hạn có Đào hồng Hỉ, tả Hữu, Xương Khúc….nhưng ai ngờ đương số lại lập gia đình trong tiểu hạn có Cô Quả, Tang Hổ, Nhật Nguyệt hãm hội Hóa Kị và lại không ngó thấy đại ha5hn ở cung Thê (vì thông thường các nhà tử vi hay lựa tiểu hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cung Phối để đoán hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận 1 chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “tồn hữu dư, bổ bất túc” trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân quá nhiều (tức là dư) thì cần phải có sao tiết giảm như Cô Quả, tang hổ Kị thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không “trăm mối tối nằm không”, nhất là tiểu hạn lại vào cung Giải Ách, tức là tránh né, không nhìn thấy cung Phối là cung đại hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng quá mạnh của các sao Hỉ. Điều may là trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp nên quý bạn cũng đừng quá hoang mang, cứ đoán như thường lệ.
b. Thường thường, đoán tử vi ai cũng thích các chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hoàn toàn vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa mạng khắc 2 sao này hơn là được 2 sao này sinh (lẽ dĩ nhiên 2 sao này khắc mạng là điều tối kị) vì bộ CNĐL không ưa 2 chính tinh này nên tốt hơn hết là mời 2 sao đó đi chỗ khác, tức là trường hợp mình có mạng khắc 2 sao này. Ngay cả trường hợp mệnh mình có bộ sao chế ngự được Tham Phá (như bộ TPVTL chẳng hạn) cũng không nên liên hệt đến 2 sao này vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ khi đương số là loại người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn như chính tinh nhập hạn như Tử Phủ, Đồng Lương…..bao giờ cũng cần sinh bản mạng hoặc ít ra cùng 1 hành với mạng, dù cho đại hạn có bộ sao đối kháng với các sao tiểu hạn
Về tương quan giữa ngũ hành bản mạng với cung nhập hạn thì bao giờ cung sinh bản mạng cũng tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa thì vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản mạng, còn như mạng sinh cung hoặc khắc cung cũng có khi dung được tuy không phải là hay. Ví dụ như hạn đến cung Tử tức có các sao tốt nếu sinh được cung tức là mình lo được cho con cái thành công hoặc đầy đủ,chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả 1 chút vì con cái nhưng nếu cung Tử tức xấu thì đương nhiên là mình khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non, hay cao bồi, du đãng mình vẫn thương yêu chúng). Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà có khi dở, nếu gặp tiểu hạn đi tới cung Nô bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hoàn cảnh. Còn như tiểu hạn đi tới cung Phụ Mẫu thì mình hay bất hòa với cha mẹ (nếu cung phụ mẫu xấu quá có thể mình phải xa cách cha mẹ…Những điểm trên đây quý bạn có thể áp dụng cho cả đại hạn
c. Về vấn đề lưu đại hạn, Địa bàn (tức là tiểu hạn theo vị trí cố định của các cung, như năm nay Quý Sửu, xem địa bàn ở cung Sửu) và Thiên bàn (tức tiểu hạn theo hàng chi an ở ô giữa lá số), tôi thấy không quan trọng lắm vì thật ra chỉ xét kỹ cung Thiên bàn là đủ và đỡ rắc rối quá mức. Chỉ trừ khi nào ta thấy Thiên bàn quá xấu hoặc k rõ chút nào mới cần kết hợp them lưu đại hạn và Địa bàn để xem có yếu tố gì cứu giải hoặc soi sang them không. Về cách lưu đại hạn trong cuốn TVĐSTB có ghi rõ rồi
d. Về ngũ hành của hàng can năm nhập hạn ảnh hưởng tới tiểu hạn nhiều hay ít thì cụ Song An Đỗ Văn Lưu khi còn sinh tiền có cho tôi hay là rất quan trọng. Cụ có nêu 1 ví dụ cho dễ hiểu như sau : 1 người mạng Kim có Cự Kị thủ mệnh, đại hạn có Không Kiếp, tả Hữu, SPT (tức là hạn trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm Thân vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim lại sinh Thủy, cho nến nước quá nhiều, Kim phải chìm lỉm. Suy ra những trường hợp khác cũng dễ : ví dụ tiểu hạn đến cung Điền có Tang hỏa và nhiều sao Hỏa nếu gặp năm Nhâm hoặc Quý thì vẫn không đáng ngại về hỏa hoạn vì đã được thủy dập tắt rồi. Như vậy, mục (d) này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đoán tiểu hạn, và đây cũng là 1 điểm cho thấy là 2 tiểu hạn cùng 1 cung đã có sự khác biệt
e. Phần chót là về các phi tinh (sao lưu). Tôi thấy các phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định them 1 chút những yếu tố đã tìm rra. Ví dụ như biết hạn xấu rồi thì nếu có them lưu Kình Dương gặp KD cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu tiểu hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có nhà tử vi căn cứ vào vòng trường sinh (lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình (như cha, mẹ, vợ, con…) nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn bàn trong mục này
Qua những điều tôi trình bày trên đây, quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối, khó khăn, có thể làm ta chán nản vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra mới thấy rõ cái hay của tử vi, và vì thế tôi thấy học tử vi không gì hay bằng việc chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi. Chứ nếu chỉ cố học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đoán thì chẳng bao giờ có thể giải đoán được vững vàng.