Mơ thấy nội tạng: Gặp bất hạnh hoặc bị đả kích nghiêm trọng –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả |
![]() |
Mơ thấy bảo tàng nhắc bạn nhớ về quá khứ |
![]() |
Mơ thấy nhà tù - cuộc sống của bạn đang bị tù túng |
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
![]() |
Ảnh minh họa |
Tướng học đặt Tai vào bộ ngũ quan kêu bằng Thái Thính quan.
Tai bên trái thuộc hành Kim, tai bên phải thuộc hành Mộc. Vì thuộc Kim nên có màu trắng sáng, vì thuộc Mộc nên cần cứng cáp. Tai cũng ở trong bộ Tứ độc ví như con sông. Vì là sông nên cần có bờ thành, luân quách, vành tai phải cho phân minh.
Xem tướng Tai đòi hỏi cả Hình lẫn Sắc.
Quan kỳ hình trạng nhan sắc
Kiến hồ hưu cữu vinh nhục
– Về hình trạng tai đầy đặn, áp vào đầu tượng trưng cho giàu có. Luân quách phân minh, ẩn cốt bên dưới, tai vuông lớn tượng trưng cho sang trọng. Nếu luân quách quăn, lộn, tai ngắn và nhọn, sứt lệch, thấp, tướng nghèo hèn.
Thuỳ châu triều hải– Thuỳ châu là dái tai, hướng hơi chếch về phía miệng là triều hải. Như trên đã nói, tai thuộc vận thiếu niên. Có tai đẹp chủ vận thiếu niên tốt. Tai dầy mập dễ giàu. Đa số nhà doanh thương cự phú đều có tướng thuỳ châu triều hải.
Uyển nguyệt quán luân-Vành tai vòng như vầng trăng, bẩm chất thông minh, học hành được. Người có vành tai uyển nguyệt thường gặp may mắn trong sự nghiệp quan quyền.
Kỳ bạc như chỉ hề bần bảo tửNghĩa là: Tai mỏng như tờ giấy nghèo chết sớm
Tai cứng như gỗ ít gặp hoạ.
Tai mỏng bởi tại tiên thiên bất túc, báo hiệu hoàn cảnh về sau khốn cùng.
Tai cứng nhờ cái xương đằng sau tai tốt chứng tỏ khí lực tiên thiên khoẻ mạnh và để lúc già nua không mất sức, ốm đau bệnh tật.
Nhà văn Âu Dương Tu thường kể, thuở nhỏ có nhà sư xem tướng cho ông nói: “Nhĩ bạch ư diện danh mãn thiên hạ”.
Tai sáng tinh khiết, con người chân thực trung kiên.
Danh thần Ngụy Trưng đời Đường Thái Tôn, tuy diện mạo tầm thường, duy chỉ có hai tai trắng tinh khiết. Ông được vua Đường Thái Tôn nể nhất chỉ vì ông dám chính trực can ngăn vua.
Bạch Vân Tử nói: “Hàm quắt, tai nhọn ưa dùng quỉ kế” (Tiêm nhĩ, súc tư thiên ban quỷ kế).
Chọn bạn, định cộng tác làm việc chớ có gần kẻ tai khỉ.
Tai khỉ còn quỷ quyệt hơn những người tướng:
Hai tai mỏng vểnh về đằng trước, sách tướng gọi là Chiêu phong nhĩ (tai đón gió) chủ phá bại. Nếu nó lại mỏng lệch thì bán sạch nhà cửa ruộng vườn.
Tướng bạt nhĩ lộn ra phía sau (đảo hậu), suốt đời không mua nổi cái nhà. Dù con nhà gia thế, nếu có hai loại tai đó rồi cũng thất cơ lỡ vận.
Hôn ám nan nghị hồ đăng đệTai trông tối thui, triệu chứng của tinh thần suy nhược, tất nhiên học bất thành, không thể đỗ đạt.
Nếu tai vàng héo khô khốc, tính mạng sắp nguy.
Sách “Ma Y Thần Tướng” nói:
Nhĩ luân tiêu hắc, tử tại nhãn tiền (Vành tai khô đen, chết ở trước mắt).
Hình tai dài và lớn, bên trên cao hơn lông mày, bên dưới ngang với góc miệng là tướng thọ. Cả đời ít khi ốm đau dù gặp nghịch cảnh cũng chẳng bao giờ buồn phiền.
Hai tai ửng hồng như phun son đại quý cách. Hồng phải đi đôi với nhuận mơn mởn như cánh hoa hồng buổi sớm. Nếu đỏ mà lại khô thì là tên hung ác, đồ tể, côn đồ.
Tai màu ửng hồng minh nhuận biểu hiện tâm thần cường tráng. Nhĩ thông thường đi đôi với mục minh. Sách “Linh Sơn Bí quyết” có câu: “Nhĩ môn khoan đại nhuận trạch minh huỳnh châu viên quách hậu, tài trí siêu quần”(cửa tai rộng rãi, to, sắc trạch nhuận sáng, dái tai tròn vành tai dầy, tài giỏi hơn người).
Tai đầy áp sát vào đầu, đứng trước mặt không trông thấy tai, đại phú.
Vầng trán rộng chia làm nhiều tiểu khu. Mỗi tiểu khu có những giá trị thông tin khác nhau. “Trán quyết định sang, hèn, vinh, nhục của một người”. Như vậy ta có hai dạng trán đẹp và quý đó là:
1. Trán cao, rộng, vuông vắn, đầy đặn, sáng sủa.
2. Trán hẹp, rộng nhưng phẳng, vuông, sáng đẹp.
3. Hai dạng trán trên nếu có các vân ngang đều đặn nữa hay có các dọc thẳng sờ vào thấy các sóng thì rất sang và quý vô cùng. Vân tạo thành đường chữ khẩu vuông khuyết (Trung Quốc) cũng là tướng quý.
4. Các dạng trán xấu:
– Trán hẹp nhỏ đầu bằng.
– Trán cao hóp bé lại.
– Trán dô nhọn ở khu “thiên trung và thiên đình”.
– Trán vẹt, lõm.
– Trán có vân nhằng nhịt, rối loạn.
5. Tướng pháp chia trán thành năm tiểu khu: thiên trung, thiên đình, tú không, trung chính và ấn đường để cấu thành tướng trán.
– Thiên trung ở giữa trán sát mép tóc thuộc sao Hỏa.
+ Nếu thiên trung đầy đặn, sáng sủa thì tuổi trẻ đã may mắn rồi, học hành đỗ đạt, danh vọng sớm.
+ Nếu lồi (trán dô) thì sẽ gặp nhiều bất hạnh.
+ Nếu lõm, nhăn nheo thì vất vả khổ hạnh.
+ Nếu có nốt ruồi thì khắc cha (không hợp nhau).
– Thiên đình ở dưới thiên trung.
+ Nếu đầy, sáng sủa thì tôt.
+ Nếu lồi hoặc lõm thì xấu.
+ Nếu có nốt ruồi thì khắc mẹ và có thể bị tai họa binh đao.
– Hai tiểu khu này cần đầy, sáng bóng thì tốt. Đó là hai phần trên của cung quan lộc.
6. Ba khu vực không cân đối, sắc khí kém thì cuộc đời không toàn vẹn. Đó là nhỏ vất vả, trung niên vất vả hay hậu vận kém cỏi… Tùy theo độ dài, sắc khí của từng khu vực và ngược lại thời niên thiếu đầy đủ, hạnh phúc, học hành đỗ đạt, trí tuệ khoát đạt; trung vận hành phát, về chức quyền, bổng cao, lộc hậu. Hoặc hậu vận khá giàu có, chức cao, con hiền, cháu thảo, gia đình êm thấm, yên vui.
Ở các bộ phận phụ thuộc sẽ cho ta thêm những thông tin khác biệt.
7. Khu vực trên những thông tin chi tiết:
– Trán vuông, phẳng, quý tướng: Khanh, sỹ, chủ tịch, tổng thông, thủ tướng…
– Trán cao khum khum, bóng sáng: Trí tuệ uyên bác, thông thái, học cao hiểu rộng, ngôn ngữ siêu việt.
– Trán rộng, bóng sáng: Khanh tướng.
– Trán bóng dài, hẹp, vân đều tăm tắp: Khanh tướng v.v… các chi tiết thêm sẽ nêu ở phần ngũ nhạc sau. Vì cần cụ thể giúp xem xét tướng cho thấu đáo.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Người xưa cho rằng: mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Cùng một tuổi, cùng một năm đàn ông và đàn bà lại có sao chiếu mệnh khác nhau. Trong 9 ngôi sao có sao tốt, có sao xấu, năm nào sao xấu chiếu mệnh con người sẽ gặp phải chuyện không may, ốm đau, bệnh tật. . . gọi là vận hạn.
Để giảm nhẹ vận hạn người xưa thường làm lễ cúng dâng sao giải hạn vào đầu năm (là tốt nhất) hoặc hàng tháng tại chùa (là tốt nhất) hay tại nhà ở ngoài trời với mục đích cầu xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình đều được khoẻ mạnh, bình an, vạn sự tốt lành, may mắn, thành đạt và thịnh vượng.
Theo quan niệm dân gian thì 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các ngày như sau:
Sao Thái Dương: Ngày 27 hàng tháng
Sao Thái Âm: Ngày 26 hàng tháng
Sao Mộc Đức: Ngày 25 hàng tháng
Sao Vân Hán: Ngày 29 hàng tháng
Sao Thổ Tú: Ngày 19 hàng tháng
Sao Thái Bạch: Ngày 15 hàng tháng
Sao Thuỷ Diệu: Ngày 21 hàng tháng
Sao La Hầu: Ngày 8 hàng tháng
Sao Kế Đô: Ngày 18 hàng tháng
Lễ cúng dâng sao Thái Âm vào ngày 26 hàng tháng, thắp 7 ngọn nến.
Thái Âm là sao tốt cho nữ giới nhưng không tốt lắm đối với nam giới.
Lễ vật gồm có: Hương, hoa, quả, phẩm oản;Tiền vàng; Bài vị màu vàng; Mũ vàng; 36 đồng tiền;
Hướng về chính Tây làm lễ giải sao.
Nam mô a di Đà Phật (ba lần)
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Nam mô Hiệu Thiên chí tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Con kính lạy Đức Trung Thiện tinh chúa Bắc cực Tử Vi Tràng Sinh Đại đế.
- Con kính lạy ngài Tả Nam Tào Lục Ty Duyên Thọ Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Hữu Bắc Đẩu cửu hàm Giải ách Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Nguyệt cung Thái Âm Hoàng hậu Tinh quân.
- Con kính lạy Đức Thượng Thanh Bản mệnh Nguyên Thần Chân quân.
Tín chủ (chúng) con là:……………………………………….
Hôm nay là ngày…… tháng………năm….., tín chủ con thành tâm sắm lễ, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, thiên lập linh án tại (địa chỉ)………………………để làm lễ giải hạn sao Thái Âm chiếu mệnh.
Cúi mong chư vị chấp kỳ lễ bạc phù hộ độ trì giải trừ vận hạn; ban phúc,lộc, thọ cho con gặp mọi sự lành, tránh mọi sự dữ, gia nội bình yên, an khang thịnh vượng.
Tín chủ con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Phương Vị: Bắc Đẩu TinhHành: ThổLoại: Quý TinhĐặc Tính: Quyền Tước, Tài Lộc, Phúc Thọ
Ý Nghĩa Lộc Tồn Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người thông minh, học rộng, có tài tổ chức, sáng kiến, đứng đắn, tính nhân hậu, từ thiện.
Công Danh Tài Lộc
Lộc Tồn là sao phú, chủ sự dư về tiền bạc. Ý nghĩa công danh chỉ là thứ yếu. Sự giàu có thường do hai nguyên nhân:
Xem hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ 1953
Tuổi Quí Tỵ 1953
– Quẻ mệnh: Khôn Thổ
– Ngũ hành: Trường Lưu Thủy (Nước chảy mạnh)
– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);
– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);
Hướng phòng ngủ tuổi Qúi Tỵ:
Xem bói vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Thủy, theo phong thủy học Kim sinh Thủy, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Kim, là hướng Tây Bắc; Tây;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Trắng, Xám, đây là màu đại diện cho hành Kim, rất tốt cho người hành Thủy.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
Có lẽ trong cuộc đời của mỗi con người có thể yêu rất nhiều lần. Và trong tất thảy những mối tình ấy sẽ có một người khiến ta cười sảng khoái nhất, khóc đau đớn nhất, khiến ta suy nghĩ sâu sắc nhất, hay những lời nói yêu thương khiến ta đau thắt mỗi lần nhớ lại. Thậm chí khi ta bị phản bội cũng sẵn sàng chọn lựa sự im lặng, trái tim đang đau đớn tột cùng nhưng hình ảnh người mình yêu thương vẫn tồn tại trong mọi ngóc ngách những nghĩ suy.
Liệu trong những con giáp chọn cách im lặng khi bị phản bội có bạn hay không?
Người tuổi Sửu:
Những người tuổi Sửu được biết đến với tính nhẫn nại cực kỳ cao. Trong tình yêu họ luôn hi sinh nhiều hơn, dễ nghe theo sự áp đặt của đối phương. Trong cuộc sống hôn nhân, tuổi Sửu luôn là người bao dung với đối phương trong mọi tình huống. Họ không quá coi trọng chính bản thân mình mà ngược lại hi sinh hết mình cho gia đình và người mà họ yêu thương. Người yêu hay vợ/chồng có những mối quan hệ ngoài luồng khác thì họ sẵn sàng tha thứ cho đối phương.
Người tuổi Mùi:
Những người cầm tinh con Dê thì trái tim hay yếu đuối, rất dễ cảm động với một sự việc đáng thương nào đó. Trong tình yêu, khi bị đối phương phản bội, tuổi Mùi lại chẳng thể chịu nổi việc hai bên cùng đau đớn, hay tổn thương. Nếu người họ yêu làm điều có lỗi với họ thì họ lại nghĩ do bản thân không tốt. Nếu quả thực đối phương đã đi sai đường và miễn là biết nhận ra cái sai của mình thì tuổi Mùi sẵn lòng tha thứ và bỏ qua tất cả.
Người tuổi Hợi:
Tấm lòng bao dung của người tuổi Hợi cực kỳ đáng khâm phục. Họ luôn có cái nhìn lạc quan trước vấn đề bị đối phương phản bội và có những suy nghĩ tích cực hơn bao giờ hết. Nửa kia phản bội họ, phần lớn thì tuổi Hợi đều nhẫn nại và cho đối phương thêm cơ hội. Sự thức tỉnh trong tâm hồn của tuổi Hợi thực sự quá ngưỡng mộ. Vậy nhưng nếu đối phương cứ năm lần bảy lượt lừa gạt họ thì họ sẽ không bao giờ bỏ qua nữa.
Ý nghĩa và phong tục Xưa Tết Trung Thu ngoài cỗ cúng gia tiên còn có cỗ không cúng mà dành cho trẻ trong nhà, còn gọi đó là cỗ "trông trăng." Sản vật dùng trong cỗ Trung Thu ngày nay rất phong phú, đa dạng. Còn ngày xưa, cỗ Trung Thu đơn giản, có tính chất "cây nhà, lá vườn", vì hầu hết là sản phẩm của từng địa phương như bưởi, hồng, mãng cầu, chuối, mía... Có gia đình cho thêm kẹo bánh. Sang hơn thì có cả cốm Vòng, bánh nướng, bánh dẻo. Sau này, bánh nướng, bánh dẻo được dùng một cách rất phổ biến bới nó được mệnh danh là bánh Trung Thu. Hát trống quân xưa Tết Trung Thu ở miền bắc ngày xưa còn có tục hát trống quân. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Múa lân – múa rồng xưa Vào dịp Tết Trung Thu xưa ở nước ta có tục múa lân. Người ta thường múa lân vào hai đêm 14 và 15. Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Đám múa lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy. Trẻ em thì thường rủ nhau múa lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng).
Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn. Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu. Mua sắm và chuẩn bị Từ đầu tháng Tám, các hàng bán đồ Trung Thu trên thị trường đã bày bán la liệt, các bà, các chị rủ nhau đi chợ sắm Tết cho con em mình. Gặp thứ nào thì mua thức ấy, còn thiếu thì dành phiên chợ sau cho đến tận 13, 14 âm lịch. Mua cỗ Trung Thu nhưng các bà mẹ cũng không quên mua đồ chơi cho trẻ. Nào tiến sỹ giấy, nào đèn ông sao, trống bỏi, đầu lân, mặt nạ, con rối, tò he... Nếu không mua được đủ thì ít nhất cũng phải mua được ông tiến sĩ hoặc chiếc lồng đèn ông sao. Nhà giàu còn làm cả đèn kéo quân. Đồ chơi từ năm trước có thể đem sửa lại cho trẻ. Nhiều em tự sửa sang lại đồ chơi của mình. Không khí chuẩn bị tết Trung Thu nhộn nhịp, vui vẻ, cuốn hút cả n gười lớn, trẻ con trong xóm ngoài làng Thi cỗ và thi đèn Trung Thu Ngày Tết Trung Thu, từ sáng sớm, mọi nhà bắt đầu làm bánh tẻ, bánh đúc là chủ yếu, còn nếu gói bánh chưng, bánh gai, thì làm từ ngày 14 âm lịch. Các bà nội trợ đun nấu sửa soạn cúng gia tiên. Cỗ Trung Thu mới được bày biện. Địa điểm bày cỗ thường là ở sân nhà. Cũng có nơi đặt ở giữa vườn, miễn là có ánh trăng chiếu tới để con trẻ ngồi phá cỗ. Đầu mâm cỗ trông trăng thường là ông tiến sĩ giấy. Có nơi còn đặt 2 ông phỗng ngồi hầu 2 bên. Một quả bưởi tươi nguyên đặt chính giữa, xung quanh là các loại bánh kẹo và trái cây. Có khi mâm cỗ quá đầy phải đặt thêm ở bên ngoài mâm. Mỗi nhà đều có vài xâu hạt bưởi khô để trẻ thắp chơi trong lúc phá cỗ. Như có sự phân công tự nhiên, việc sắm cỗ cho trẻ thường là nữ giới. Còn việc bày cỗ thường là đàn ông. Có nhà cẩn thận hơn, cha mẹ tập cho con bày cỗ, hướng dẫn cách sắp xếp cho đẹp để năm sau trẻ có thể tự làm lấy. Tất cả còn nguyên đến lúc phá cỗ. Trăng lên dần, trẻ cầm đèn đội đầu sư tử, khoác mặt nạ, vác trống bỏi rủ nhau đi xem đội múa lân của làng đến tận khuya mới về nhà phá cỗ. Người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya. “Phá cỗ Trung Thu” Phá cỗ là chia bánh trái, hoa quả đã bày trong mâm cổ Tết Trung thu cho trẻ ăn. Phá cỗ không có giờ quy định. khi trăng đã lên cao, ánh trăng chiếu sáng khắp nơi, trẻ nhà nào đã về đông đủ thì nhà ấy cho trẻ phá cỗ. Không kể những nhà đông con mà ngay cả những nhà hiếm con hiếm cháu, đều được quan tâm đặc biệt. Không khí phá cỗ rất vui. Cả nhà cùng quây quần xung quanh mâm cỗ với lũ trẻ. Trước khi phá cỗ, người lớn thường hướng dẫn cho con cái chia các vật phẩm trong mâm cỗ để ăn như bổ bưởi, cắt bánh, róc mía... Tục phá cỗ trong Tết Trung Thu ở nông thôn ngày xưa chính là cơ hội chăm sóc trẻ em, giúp chúng được hưởng thụ các sản vật còn tươi nguyên, được chọn ăn tùy sở thích, được vui đùa phá cỗ trông trăng. Tục bày cỗ, phá cỗ trông trăng là thể hiện của sự quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ em, cả vật chất lẫn tinh thần một cách cụ thể, tinh tế, sinh động và độc đáo của người Việt Nam. Hình ảnh ông Tiến Sĩ Giấy, chiếc đèn ông sao, con rối múa gậy không chỉ là trò chơi đơn thuần, mà thông qua đó người nông dân còn gửi gắm những ước mơ và niềm tin, mong con cháu học giỏi, mai sau sớm đỗ đạt. Đó cũng là sự thể hiện tinh thần hiếu học, tinh thần thượng võ, ý thức khuyến học khuyến tài của nhân dân ta…
Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
Năm sinh | Mệnh | Ý nghĩa |
1948, 1949, 2008, 2009 | Tích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét |
1950, 1951, 2010, 2011 | Tùng Bách Mộc | Cây tùng bách |
1952, 1953, 2012, 2013 | Trường Lưu Thủy | Dòng nước lớn |
1954, 1955, 2014, 2015 | Sa Trung Kim | Vàng trong cát |
1956, 1957, 2016, 2017 | Sơn Hạ Hỏa | Lửa dưới chân núi |
1958, 1959, 2018, 2019 | Bình Địa Mộc | Cây ở đồng bằng |
1960, 1961, 2020, 2021 | Bích Thượng Thổ | Đất trên vách |
1962, 1963, 2022, 2023 | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạch kim |
1964, 1965, 2024, 2025 | Phú Đăng Hỏa | Lửa ngọn đèn |
1966, 1967, 2026, 2027 | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời |
1968, 1969, 2028, 2029 | Đại Dịch Thổ | Đất khu lớn |
1970, 1971, 2030, 2031 | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức |
1972, 1973, 2032, 2033 | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu |
1974, 1975, 2034, 2035 | Đại Khê Thủy | Nước dưới khe lớn |
1976, 1977, 2036, 2037 | Sa Trung Thổ | Đất lẫn trong cát |
1978, 1979, 2038, 2039 | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời |
1980, 1981, 2040, 2041 | Thạch Lựu Mộc | Cây thạch lựu |
1982, 1983, 2042, 2043 | Đại Hải Thủy | Nước đại dương |
1984, 1985, 2044, 2045 | Hải Trung Kim | Vàng dưới biển |
1986, 1987, 2046, 2047 | Lộ Trung Hỏa | Lửa trong lò |
1988, 1989, 2048, 2049 | Đại Lâm Mộc | Cây trong rừng |
1930, 1931,1990, 1991, 2050, 2051 | Lộ Bàng Thổ | Đất giữa đường |
1932, 1933, 1992, 1993, 2052, 2053 | Kiếm Phong Kim | Vàng đầu mũi kiếm |
1934, 1935, 1994, 1995, 2014, 2055 | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi |
1936, 1937,1996, 1997, 2056, 2057 | Giản Hạ Thủy | Nước dưới khe |
1938, 1939, 1998, 1999, 2058, 2059 | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành |
1940, 1941, 2000, 2001, 2060, 2061 | Bạch Lạp Kim | Vàng trong nến rắn |
1942, 1943, 2002, 2003, 2062, 2063 | Dương Liễu Mộc | Cây dương liễu |
1944, 1945, 2004, 2005, 2064, 2065 | Tuyền Trung Thủy | Nước giữa dòng suối |
1946, 1947, 2006, 2007, 2066, 2067 | Ốc Thượng Thổ | Đất trên nóc nhà |
Có thể người học Tử vi tìm rất nhiều mà không đạt. Đó là trường hợp mà chúng tôi gặp phải. Có những lá số mà Mệnh rất tầm thường, ấy thế mà đương số lại thành đạt lớn, không biết vì đâu, trong khi điểm mọi cách khá về Mệnh, Thân mà không thấy sao Thiên Mã có tại Mạng, phải chăng vì thế mà đương số được tốt? Nhưng lấy gì chứng thực? Có hai lá số tương trợ nhau, cùng có Thiên Mã nhưng lại chỉ có 1 đương số thành đạt.
Một là số khác có Thiên Mã tại mệnh, ở Hợi: thế là Mã cùng đường, theo tất cả các sách cổ. Thế nhưng đương số này cũng thành đạt nữa. Cho nên tất phải có một cái gì đặc biệt về sao Thiên Mã, một sao rất quan trọng trong việc giải đoán Mệnh Thân, nhưng những nguyên tắc chưa được nêu ra đầy đủ.
Chúng tôi xin trình bầy sau đây kinh nghiệm của cụ Thiên lương về sao Thiên Mã tại Mệnh, Thân. Kinh nghiệm này, chúng tôi đã kiểm chứng trong một số lá số có trong tay, thấy rằng đúng.
Cách an sao Thiên Mã
Chúng ta an sao Thiên Mã theo hàng chi của tuổi
Tuổi Dần Ngọ Tuất, Thiên Mã tại Thân
Tuổi Tị, Dậu, Sửu, Thiên Mã tại Hợi
Tuổi Thân Tý Thìn, Thiên Mã tại Dần
Tuổi Hợi, Mão, Mùi, Thiên Mã tại Tỵ
Nhưng vậy tùy từng bộ ba tam hợp tuổi mà an Thiên Mã. Để cho dễ nhớ, chúng ta có từng bộ ba tam hợp tuổi, mỗi bộ ba có một Chi đứng đầu, thì Thiên Mã ở cung đối diện của Chi ấy. Thí dụ: các tuổi Dần Ngọ Tuất (có Dần đứng đầu), vậy Thiên Mã ở cung đối diện với Dần, tức là cung Thân.
Những cách thông thường về Thiên Mã
Các sách cổ giải đoán về Mã thường ghi những điểm như sau:
1-Mã thuộc Hỏa, vạy là Mã tốt ở Tị, Dần và hãm ở Hợi (Thủy) Mã mà ở Hợi là hỏng, là Mã cùng đồ (ngựa hết đường chạy, ngựa ở biển thì liệt bại). Gặp Mã ở Hợi thì thất bại. Như thế chẳng lẽ cứ 3 tuổi Tị, Dậu, Sửu là đương nhiên mất sao Thiên Mã và chịu họa hại vì 3 tuổi này. Mã đóng tại Hợi. Không lẽ giản dị như vậy?
2-Mã tại Mệnh, ứng vào sự mau lẹ hay di chuyển, hay thay đổi.
Mã còn ứng vào công danh, tài lộc và phúc thọ. Thông minh và làm nên cũng là nhờ Thiên mã.
3-Tại Dần Thân, đồng cung với Tử Phủ, là Phù du Mã (ngựa vua chúa): tài giỏi, uy quyền, giầu sang, phúc thọ.
4-Thêm Nhật, Nguyệt sáng sủa là Thư hùng mã: tài ba, giầu sang, vinh hiển.
5- Gặp Lộc tồn đồng cung: công danh tốt, tài lộc tốt
6-Gặp Lộc tồn xung chiếu (Lộc Mã giao trì): công danh và tài lộc tốt đẹp.
7-Mã đồng cung Hỏa, hay Linh (chiến mã): Công danh tốt đẹp về binh nghiệp.
8-Mã khốc khách hội họp (ngựa có nhạc hay, có người cưỡi giỏi) người có tài năng, có công danh về binh nghiệp.
9-Mã Hình đồng cung: gặp tai họa
10- Mã Đà đồng cung: chiết túc mã, ngựa què. Công danh gãy đổ (kinh nghiệm của cụ Ba La: người tuổi Âm, Kình ở trước lộc tồn, Đà ở sau Lộc tồn, nhưng theo chiều nghịch).
11- Mã Tuyệt đồng cung là cùng đồ Mã. Mã tại Hợi cũng là cùng đồ Mã: hỏng, suy bại, gặp tai họa.
Đi tìm ảnh hưởng của Mã
Cũng như đối với mọi sao quan trọng, cụ Thiên lương đã luận về Thiên Mã bằng cách lấy hành của cung Mệnh, hành của sao Thiên Mã và hành Mệnh của đương số mà so sánh với nhau rồi quyết định sự hay dở. Đó là giai đoạn đầu để tìm kinh nghiệm. Giải đoạn sau là kiểm chứng, áp dụng các kết quả của những suy luận vào những lá số có Thiên mã tại Mệnh, Thân để tìm xem có đúng không.
Nhưng trước hết, xin ghi rằng Thiên Mã đây là tại Mệnh và Thân. Thiên mã ở Quan lộc hay Tài bạch cũng có ảnh hưởng vào mệnh (vì hai cung này chiếu mệnh), nhưng ảnh hưởng kém hơn Thiên Mã tại Mệnh. Nếu Thiên Mã ở cung Thiên Di, thì lại không kể vào mệnh là vì Mã tại Thiên Di là xung chiếu chứ không phải hợp chiếu.
Thiên Mã tại cung Dần
Thiên Mã hỏa, ở cung Dần Mộc là được Mộc sinh Hỏa, Thiên Mã mạnh và tốt. Nhưng cái mạnh và tốt này không phải cho bất cứ mạng nào.
Như người mạng Kim, thì càng bị Hỏa khắc, không lợi. Người mạng Thủy cũng không được lợi lộc gì, vì cái Thủy đó không thắng nổi cái Hỏa đương vượng của Mã. Mã hỏa ở đây có thể lợi cho người mạng Hỏa và càng hợp với người mạng Mộc. Người ta thường cho rằng mạng Mộc mà gặp Hỏa, thì bị hỏa đốt cháy, nhưng mạng là Mộc, cung Mạng lại ở Dần tức là tại Mộc thì không e ngại gì, tài năng nhờ chỗ Mã được nuôi dưỡng (do Mộc) mà càng vượng lên.
Vậy Mã tại Dần:
-Rất tốt cho người mạng Mộc
-Lợi cho người mạng Hỏa
-Không lợi gì cho người mạng Kim, Thổ và Thủy.
Thiên Mã tại cung Tị
Thiên Mã đứng đây cũng tốt vì là Hỏa ở cung Hỏa. Mã ở đây là con ngựa chiến. Mã là Hỏa, cung là Hỏa, thì người Mộc gặp Mã và cung Mạng tại đây, tuyệt nhiên là không tốt (hai cái Hỏa đốt cháy thân xác). Người mạng Kim, không được tốt, vì hai cái hỏa đều khắc Kim. Người mạng Thủy, cũng không được hưởng gì, vì Thủy yếu, không thể ngự được cái Hỏa của Mã (nếu kể như trường hợp Mã gây họa hại), còn bình thường, Mã không gây họa hại vì người Thủy cũng không được hưởng.
Chỉ có người Hỏa được hưởng cái tốt của Mã tại Tị.
Thiên Mã tại cung Thân
Thiên Mã là Hỏa, ở tại cung Thân là Kim, ấy là Thiên Mã đã kém. Thiên Mã không bị khắc là Thiên Mã mạnh, và tốt nhưng Thiên Mã lại khắc Kim.
Nếu là người mạng Mộc, thì mạng này vừa bị Hỏa đốt, vừa bị cung khắc, không được lợi lạc gì. Người mạng Thủy đỡ được chút đỉnh, nhờ cung Kim sinh Thủy, và cái mạng Thủy của mình còn khá mạnh để chế ngự lại Mã. Người mạng Kim là ăn nhất về con Mã tại cung Kim, nhưng vì Mã Hỏa khắc Kim mạng, cho nên mình tuy được hưởng Mã mà có tài năng, nghị lực, nhưng mình lại bị khắc, thì sức khỏe của mình cũng phải bị hao tổn.
Vậy Mã tại Thân:
-Tốt cho người Kim
-Khá cho người Thủy
-Không lợi gì cho người Mộc và Hỏa
Thiên Mã tại cung Hợi
Thiên Mã là Hỏa, ở cung Hợi Thủy, thì Hỏa phải bế khắc (ấy là Mã cùng đồ, Mã đến biển là hết đường chạy).
Người Hỏa mà gặp Mã ở cung hợi thì chẳng được lợi lạc chi. Người Kim gặp Mã ở cung Hợi cũng vậy, có khi còn mệt hơn, là vì mạng mình bị sinh xuất, còn bị hỏa của Mã khắc. Nhưng người Thủy lại khác: xét ra người Thủy lại có mạng ở Thủy, thì cái Thủy này rất mạnh, có thể chế ngự được những cái họa hại của Mã mà thắng được Mã, tức là có tài ba để thắng. Người Mộc nhờ có cung Thủy sinh Mộc, mà được lợi phần nào.
Vậy Mã tại Hợi:
-Tốt cho người Thủy
-Khá cho người Mộc
-Không lợi gì cho người Hỏa và Kim
Còn người mạng Thổ
Vậy tóm lại, Mã ở cung có hành nào, thì người nào mạng có hành đó là được hưởng.
Mã tại cung Mộc (Dần) người mạng Mộc hưởng
Mã tại cung Hỏa (Tị) người mạng Hỏa hưởng
Mã tại cung Kim (thân) người mạng Kim hưởng
Mã tại cung Thủy (Hợi) người mạng Thủy hưởng
Thế còn người mạng Thổ? Xin thưa rằng người mạng Thổ cũng hưởng được Thiên Mã ở cung Thủy (tại Hợi)
Một thí dụ
Lá số Khổng Minh, Mã ở Hợi Thủy (cung Quan). Khổng Minh mạng Mộc, cho nên không được hưởng trọn con Mã này. Nhưng Thủy dưỡng cho Mộc, nên Khổng Minh cũng chỉ được hưởng Mã một phần.
Mã ngộ Triệt và Mã ngộ Tuần
Mã gặp Triệt trấn ngay cung thì hỏng cả
Mã ngộ Tuần còn đỡ hơn.
Sau đây là kinh nghiệm đặc biệt về Mã ngộ Tuần. Sao Tuần ở những vị trí Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị, Ngọ Mùi, Thân Dậu, Tuất Hợi, và có thể được coi là sao đánh dấu một giai đoạn để chuyển sang giai đoạn khác.
Do đấy, nếu sao Thiên mã ngộ Tuần, chúng ta đoán thêm như sau:
1-Thiên Mã tại Hợi (Thủy) gặp Tuần ngay tại đó người mạng Mộc cũng được hưởng (thông mình, lanh lợi, học hành, công danh, tài lộc) nhưng hưởng chậm, phải gặp nhiều khó khăn lúc đầu và phải có tranh đấu cố gắng nhiều.
2-Thiên Mã tại Dần (Mộc) gặp Tuần tại đó: người mạng Hỏa cũng được hưởng nhưng chậm và có những khó khăn lúc đầu, phải cố gắng nhiều mới đạt được.
3-Thiên Mã tại Tị (Hỏa) gặp Tuần tại đó: người mạng Kim cũng được hưởng, nhưng chậm, gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được
4-Thiên Mã tại Thân (Kim) gặp Tuần tại đó: Người mạng Thủy và Thổ cũng được hưởng, nhưng chậm gặp khó lúc đầu và phải cố gắng nhiều mới đạt được.
Thí dụ tuổi Kỷ tị, mạng Mộc, Thiên Mã tị Hợi, gặp Tuần tại Tuất Hợi, cung Mạng cũng tại Hợi: người này cũng được hưởng Thiên Mã, nhưng hưởng chậm, lúc đầu gặp khó, phải cố gắng nhiều sau mới thành đạt.
trích (KHHB)
Đầu tiên là chúng ta cần lựa chọn vị trí tối ưu trong phòng làm việc của bạn. 1 vị trí tối ưu phải được tính toán theo trạch vận, theo luật âm dương – ngũ hành, thường chỉ có các chuyên gia về phong thuỷ mới thẩm định chính xác được cho chúng ta.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể lựa chọn được vị trí tốt cho riêng bản thân, theo những tiêu chí căn bản của thuật phong thủy văn phòng.
Bạn cũng nên sắp xếp đồ đạc thật gọn gàng trên bàn làm việc, việc để các vật dụng bừa bãi sẽ phát sinh âm khí làm giảm năng suất công việc. Ngoài ra, chúng ta nên dùng những pháp khí sau đây để bài trí trong văn phòng làm gia tăng hiệu quả trong công việc :
![]() |
![]() |
![]() |
g biết.
Những bộ phận quan trọng nhất và chủ yếu tạo thành hình dáng cho cầu thang gồm bậc cầu thang, lan can và tay vịn.
– Bậc cầu thang được làm bằng các loại vật liệu như: gỗ, đá hoa cương, kính.
+ Bậc cầu thang bằng gỗ có thể chống trơn nhưng chịu mài mòn kém, khó bảo dưỡng.
+ Bậc cầu thang bằng đá hoa cương dễ bảo dưỡng không bị mài mòn, làm cho căn nhà lộng lẫy hơn.
+ Nếu có điều kiện, bạn có thể chọn bậc cầu thang bằng kính pha sợi thép. Đây là loại bậc cầu thang có thể chịu lực và trọng lượng lớn, ngoài ra còn tăng thêm vẻ đẹp cho ngôi nhà nhờ tính trong suốt, lạnh và cứng của nó. Bạn có thể làm cầu thang hổng ở giữa, bên trong treo đèn, bậc thang làm bằng kính, tạo thành một cầu thang phát sáng rất đẹp.
– Lan can được thiết kế ở hai bên cầu thang, giữ cho người khỏi ngã ra ngoài, làm bằng chất liệu gỗ hoặc sắt. Khi lựa chọn, cần chú ý tới sự phôi hợp về chất liệu.
– Tay vịn là bộ phận để vịn tay khi lên xuống, để mang lại cảm giác dễ chịu, bạn nên chọn vật liệu bằng gỗ.
– Các kiểu cầu thang:
+ Dạng xoắn trôn ốc: Kiểu cầu thang này có dáng lượn quanh trông đẹp mắt, không gian chiếm dụng nhỏ. Thích hợp cho mọi loại không gian, kể cả nơi nhỏ hẹp hay rộng, bằng phẳng. Căn cứ vào góc xoắn, có những loại cầu thang xoắn khác nhau. Loại cầu thang xoắn 180° là loại có thể tiết kiệm được không gian nhất.
+ Dạng gấp khúc: Kiểu cầu thang này tạo hình dáng đẹp, tiết kiệm diện tíchệ Điểm gấp khúc thường ở cửa vào hay cửa ra, nơi giao nhau giữa cửa và cầu thang nên không gian thiết kế cầu thang không thể quá nhỏ.
+ Dạng xoắn: Được thiết kế với một trục ở giữa làm chuẩn rồi xoắn lượn nhẹ nhàng từ trên xuôlng dưới liên kết giữa các tầng. Tính thẩm mỹ cao tạo cảm giác thư thái cho người đi. Kiểu cầu thang này thích hợp cho nhà có không gian rộng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Thông thường vào mùa đông, nếu không biết cách sắp xếp hợp lý hay che chắn cẩn thận, luồng không khí lạnh ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của thành viên trong gia đình, nhất là với người già và trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai.
Ngoài ra, không khí lạnh buốt của mùa đông khiến sự trao đổi các luồng khí trong ngôi nhà bị ảnh hưởng. Không còn tia nắng ấm, các phòng ngủ, phòng tắm, nhà bếp… luôn trong tình trạng có mùi khó chịu, là điều kiện lý tưởng để vi khuẩn dễ dàng xâm nhập và gây bệnh nhất là cơ quan hô hấp, da dẻ bị khô, nứt nẻ…
Đây là quẻ Quan Âm thứ 80 được xây dựng trên điển cố: Trí Viễn đầu quân.
Quẻ thượng cát thuộc cung Mùi. Làm việc nên có trước có sau, đừng nên bất nhất thì sẽ có được sự tin tưởng mà không hỗn loạn. Những việc trong lòng dự tính cứ bình tĩnh mà thực hiện, sẽ có quý nhân đến trợ giúp.
Thử quái quý nhản tiềp dẫn chi tượng. Phàm sự hòa hợp đại cát dã.
Tương truyền vào thời kỳ Nam Bắc Triều, ở trang trại nhà họ Lý có một viên ngoại họ Lý, sinh được hai người con, người con trai tên là Lý Hòng Tín, người con gái tên lầ Lý Tam Nương. Lưu Trí Viễn (895 – 948), cũng gọi là Lưu Tri Viễn, là vị hoàng đế khai quốc của nhà Hậu Hán trong thời kỳ Ngũ Đại, sau khi lên ngôi hoàng đế đổi tên là Lưu Hạo) xuất thân nghèo khố, sau khi vào quân đội, đi chăn ngựa ở Tấn Dương, gặp Lý thị, vào làm rể trong Lý gia trang, thành hôn với Lý Tam Nương.
Không ngờ Lưu Trí Viễn vốn có mệnh làm thiên tử, sau khi lạy nhạc phụ nhạc mẫu, thì hai ông bà đều qua đời. Vợ chồng Lý Hồng Tín vốn đã oán giận Lưu Trí Viễn, thấy cha mẹ qua đời, sợ Lý Tam Nương sẽ phân chia gia sản với mình, liền đổ cho Lý Tam Nương tư tình mà đính hôn, làm bại hoại gia phong, muốn hại chết vợ chồng Lưu Trí Viễn và Lý Tam Nương. Vì vướng mắc quan hệ gia đình, sợ để lại tiếng xấu bất nhân bất nghĩa, hai người bèn đuổi Lý Tam Nương đến thôn Ma Oa gánh nước tưới gai, lại đẩy Lưu Trí Viễn đến khu vườn có con yêu tinh dưa tác quái để trồng dưa. Lý Tam Nương biết được mưu kế của họ, ra sức ngăn cản Lưu Trí Viễn đến vườn dưa, nhưng Lưu Trí Viễn cậy mình có võ nghệ, vẫn quyết đi một mình.
Khu đất mà Lưu Trí Viễn trồng dưa nằm ở vùng núi lớn tại Dương Địch xưa nối thông với hai đất Trịnh, Mật, tương truyền ở đó thường có một con quái thú màu đỏ ẩn hiện, không ai dám đi qua, mọi người gọi đó là “Bất Quá nhai” (núi không dám đi qua). Những thương nhân và tiểu thương của hai vùng Trinh, Mật qua đây đều phải đi đường vòng. Buổị tối ngày thứ ba sau khi Lưu Trí Viễn đến khu ruộng trồng dưa, thì yêu tinh dưa xuất hiện, chỉ thấy toàn thân màu đỏ, giống lao trông như một đám lửa lao đến. Lưu Trí Viễn vốn võ nghệ tài giỏi, ở nhà Lý Tam Nương cũng đã luyện được công phu luyện ngựa, bèn dậm đất nhảy bật lên, cưỡi lên lưng con quái thú, chạy qua chạy lại mười tám vòng, thì con quái thú đã thấm mệt, toàn thân toát mồ hôi, toàn là màu máu. Thì ra nó chính là con ngựa quý “Hãn huyết bảo mã” nổi tiếng.
Sau khi yêu tinh dưa bị Lưu Trí Viễn thuần phục, có vị tiên chỉ cho đào sâu ba thước tại mảnh đất trồng dưa, đào được ba báu vật là bộ áo giáp bằng vàng, cây thương bằng bạc và thanh kiếm bằng đồng, lại dặn dò anh hây đầu quân khởi nghiệp, chắc chắn sẽ có thành tựu.
Lưu Trí Viễn có được con ngựa quý và thanh kiếm báu, bèn từ biệt Tam Nương, đi đầu quân.
Sau khi Lưu Trí Viễn đi, Lý Tam Nương phải chịu sự dày vò của anh trai và chị dâu. Chị dâu bắt cô mỗi ngày phải gánh mười ba gánh nước, đêm đến phải đẩy cối xay đến sáng. Lúc này, Lý Tam Nương đã có thai. Một tối, anh trai của Tam Nương đưa cơm cho cô, thấy cô đi được một bước thì thở dốc đến ba lần, thực không đành lòng, liền bảo cô ăn cơm, còn mình thì đẩy giúp cối xay. Không ngờ chị dâu cũng đi theo đến đấy, thấy vậy thì giật phắt cái bát trong tay Lý Tam Nương, ném xúống đất. Lúc này Lý Tam Nương thấy đau bụng, rõ ràng là sắp chuyển dạ, nhưng chị dâu lại cho là giả vờ, cầm cái giằng cối xay định đánh. Sau thấy Tam Nương quả thực sắp sinh con, bèn kéo chồng chạy đi. Tam Nương đành phải tự mình sinh nở, dùng miệng để cắn dây rốn cho con, nên đặt tên con là “Giảo Tề Lang” (chàng cắn rốn). Tam Nương gọi người gia đinh già đến, ngay đêm đó đưa đến chỗ Lưu Trí Viễn để nuôi nấng.
Mười sáu năm sau, một hôm Lý Tam Nương đang múc nước ở giếng, có một con thỏ trắng mang mũi tên trên mình chạy đến, để lại mũi tên rồi đi. Sau đó có một vị tướng trẻ đuối đến, nói chuyện với Lý Tam Nương, mới nhận ra là mẹ đẻ của mình. Vị tướng trẻ đó chính là Giảo Tề Lang, nhưng cậu không dám nhận mẹ ngay tại đó, mà giả làm cháu. Sau đó về báo cho cha là Lưu Trí Viễn, mang quân về thôn Sa Đà, vợ chồng, mẹ con được đoàn viên.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
![]() |
![]() |
► ## cập nhật thông tin: Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc |
![]() |
![]() |
Ngoài ra tôi còn cung cấp một số ví dụ thực tế trích từ các tài liệu Dịch số có uy tín và thực tế dự đoán của tôi đề bạn đọc tiện tham khảo học tập cách phân tích lý quẻ nhằm tự đoán cát hung cho bản thân và bạn bè, gia đình,...rộng hơn có thể đoán những sự kiện quan trọng như:thể thao, chứng khoán, chính trị, quốc vận,...
-Hi vọng cuốn sách này sẽ đem lại cho bạn đọc cách nhìn mới hơn về dự đoán học và giá trị thiết thực qua Thần Số Học.Sở dĩ chữ số có thể dự đoán được tương lai, hướng dẫn quyết sách, nguyên nhân chính là vì suy lý logic phù hợp của nó, phủ định ý thức mê tín trong chủ nghĩa duy tâm thần học và trong xã hội phong kiến cổ đại .Trong quá trình biên soạn tôi xin lược bỏ phần dự đoán VẬN MỆNH và VẬN KHÍ SINH THẦN đề dành phân tích, lý luận quẻ THỜI KHÔNG.
-Rất mong bạn đọc yêu thích Dịch học đóng góp ý kiến để cuốn sách hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
Thời gian: tổ chức vào ngày 29 tháng 8 tới ngày 1 tháng 9 âm lịch (nếu tháng nào thiếu sẽ kéo dài tới ngày 2 tháng 9).
Địa điểm: Tại chùa, từng gia đình cộng đồng Khơmer thuộc huyện Tri Tôn hoặc Tịnh Biên, tỉnh An Giang.
Nội dung: Trường đua bò thường là một khu đất rộng khoảng 60m, dài chừng 170m xung quanh có bờ đất cao đồng thời là nơi dành cho khán giả. Đường đua trên mặt ruộng nước dài khoảng trên 100m, rộng khoảng 4m; hai đầu cắm mốc xuất phát và đích.
Mỗi giải đua ấn định 38 đôi bò được lựa chọn sau các lần đua ở vòng loại tại các xã. Nhiều con tham gia giải nhiều năm, chúng đều to khoẻ, dáng đẹp: đầu to, lưng thẳng, xương chắc, đuôi dài, tai ngắn và nhỏ, cổ tròn và cặp mắt hiền lành. Đối với những người có kinh nghiệm chọn bò lâu năm thì đôi bò tốt còn là tài sản theo đúng cả nghĩa đen và nghĩa bóng, vì đôi bò thắng trận sẽ có gần 20 triệu đồng. Tuy nhiên chủ bò không bao giờ bán đôi bò của mình nếu giành giải nhất, vì đó là niềm vinh dự của gia đình và cộng đồng.
Vào cuộc đua, đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp bao gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài 90cm, bên dưới là răng bừa. Lúc này các tài xế được phân thành cặp và làm thủ tục chọn cặp đua trước, đua sau. Không giống như đua xe, tất cả xuất phát cùng một lúc. Đua bò lại thi hai đôi một: đôi trước, đôi sau. Mỗi cặp bò đều phải kéo theo một giàn bừa đã được cưa ngắn bớt răng. Người điều khiển đứng trên giàn bừa vung roi như khi đang bừa trên ruộng, do vậy họ phải đứng để không bị ngã, nếu ngã hoặc rơi ra khỏi giàn bừa thì phạm luật và thua cuộc. Ngày nay thể thức đua bò đã được cải tiến hơn xưa rất nhiều: cuộc đua diễn ra trên mặt ruộng có nước chứ không phải trên mặt đường như trước đây, vì vậy tính mạng của người điều khiển bò an toàn hơn. Tuy có một số thay đổi nhưng lệ vẫn giữ nhiều quy ước cũ.
Cuộc đua chia làm hai vòng: vòng hu và vòng thả, hết vòng hu đến vòng thả. Có thể hiểu vòng hu là vòng loại của cuộc đua, còn vòng thả mới phản ánh đầy đủ sức mạnh của cặp bò cùng tay nghề, bản lĩnh của người điều khiển.
Vào vòng hu, mỗi đôi bò phải đi dạo hai vòng quanh trường đua để trình diễn và khởi động. Nếu đôi bò nào đạp vào bừa của đôi bò khác là bị loại.
Ngược lại, lệ quy định ở vòng thả khác với vòng hu, nếu đôi bò nào ở phía sau đạp vào bừa của đôi bò trước thì lại thắng cuộc.
Đua bò ở An Giang đã có từ hàng trăm năm nay. Sự kiện này là dịp những người đàn ông trong phum sóc trổ tài dũng cảm, sự khôn khéo của mình trước cộng đồng. Hàng ngày những tài xế, chủ bò là những nhà nông chân lấm tay bùn, nhưng lúc này họ được tôn vinh là nhân vật chính của ngày hội.
![]() |
Ảnh minh họa |
Để biết được loại hình La thành, nên xem hình thế. Nếu hình thế như các sao bao bọc chính gọi là viên cục.
Trong sách “Hám Long Kinh” viết: “Long mạch từ núi cao chạy xuống đồng bằng, sau khi thay đổi ở mấy đoạn sẽ có hiện tượng các nhánh hồi chuyển bao bọc lấy chân long được gọi là La thành. La thành sẽ sinh cản môn hay còn gọi là hãn môn. La thành có thế bao bọc như tường thành và long khí tụ ở trong. La thành như tường vây quanh huyệt mộ”. Ý chỉ long mạch lên xuống ở đất bằng, không lộ hình tích, chỉ cần tìm các núi bao bọc như đất có thành quách bao bọc, tức là nơi khí long ngừng tụ.
Câu nói: “Phàm đến vùng đất bằng, chớ hỏi tung tích long mạch ở đâu, chỉ cần quan sát gò bao quanh là biết được chân long nằm chỗ nào”. Gò núi bao quanh là chỉ la thành.
Các nhà phong thủy học cho rằng, đất kết huyệt, nếu có La thành bao bọc ngăn khí tản là đất đại quý. Trong cuốn “Tuyết Tâm Phú”, Bốc Tắc Nguy nói: “Lầu đài cổ giác là La thành”. Chú giải: “ Xúm xít cao mà tròn là núi lâu đài, xúm xít nhọn là gò cổ giác, đều là La thành, tất kết huyệt quý”.
Chú ý
Bên cạnh đó, núi sông bao quanh huyệt mộ phải bao bọc triều bái minh đường, không được có hình nghịch, khuyết, lở, lõm, méo. Nếu không đạt yêu cầu đó sinh khí sẽ bị tẩu tán và được coi là đất không tiện.
Theo Bí ẩn thời vận
![]() |
– Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn hại. Người tự cao tự đại, tự ngã ở trên cao, dù đi tới bất cứ đâu cũng không nhận được sự chào đón. Thế mới nói, thất bại lớn nhất của con người sinh ra trên nhân thế là tự mãn, kiêu ngạo.
11. Thất bại lớn nhất của đời người là tự mãn
Có câu: “Khiêm thụ ích, mãn chiêu tổn”, có nghĩa là: khiêm nhường sẽ nhận được lợi ích, được cho thêm, tự mãn thì bị mất đi, chuốc lấy tổn hại.
Người tự cao tự đại, tự ngã ở trên cao, dù đi tới bất cứ đâu cũng không nhận được sự chào đón. Thế mới nói, thất bại lớn nhất của con người sinh ra trên nhân thế là tự mãn, kiêu ngạo.
12. Sự kém hiểu biết lớn nhất của đời người là oán trách
Bản thân kém hiểu biết, không thấy được đạo lý, không thấu tình đạt lý, khi gặp điều không như ý bèn quay ra oán trời trách đất, oán than con người thế gian không giúp đỡ, oán trách cả xã hội, bạn bè, thân quyến.
Đó chính là sự kém hiểu biết nhất trong cuộc đời mỗi con người. Sao không tự soi trách mình trước mà còn oán than bạn bè, họ hàng thân thuộc, trút giận lên mọi thứ xung quanh.
![]() |
![]() |
=> Xem thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |