Mơ thấy cắt tóc –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
h mà bỏ quên việc tô điểm cho căn phòng mình ở; hay cho dù có coi trọng việc đó thì cũng không biết bắt đầu từ đâu.
Để khiến ngôi nhà là mái ấm đẹp, dễ chịu thì phải bỏ công sức quan tâm đến. Làm đẹp cho căn phòng có quy luật nhất định nhưng không phải là không thể thay đổi được. Bạn có thể căn cứ vào kinh nghiệm của mình cộng với tham khảo để tạo cho mình một khoảng không gian riêng như ý.
(1) Lấy ánh sáng, vệ sinh
Căn phòng ngoài ngăn nắp sạch sẽ, không bám bụi ra thì ánh sáng đầy đủ là điều vô cùng quan trọng. Nếu cửa sổ nhỏ, lấy ánh sáng không đủ nên sử dụng các đồ màu nhạt và bố trí đèn có ánh sáng mạnh.
(2) Kinh tế, hợp lý
Tất cả đồ đạc và việc sắp đặt chúng phải thuận tiện theo yêu cầu của cuộc sống; không gian phải sử dụng một cách kinh tế, có hiệu quả; cho dù là không gian nhỏ cũng không được biến thành góc chết.
(3) Bài trí đơn giản
Bài trí trong phòng phải có điểm nhấn, có trật tự, đồ đạc không nên quá nhiều, nếu không sẽ có cảm giác bừa bộn. Sự bài trí đồ đạc trong mỗi phòng phải thể hiện được phong cách của phòng đó chứ không được chất đồ lung tung, chẳng hạn phòng ăn không nên để dụng cụ làm vườn, phòng ngủ không nên để đồ làm bếp.
(4) Hài hòa, thống nhất
Đồ đạc lung tung chắc chắn là không đẹp, chất liệu và hình dáng của đồ dùng trong nhà và đồ trang trí dệt may tốt nhất nên thống nhất để thể hiện được cái đẹp của sự hài hòa.
(5) Phối hợp nhịp nhàng
Các loại đồ dùng phải có tỉ lệ thích hợp mói tạo cảm giác hài hòa.
(6) Đối xứng
Việc sắp xếp đồ đạc phải cân bằng, ví dụ hai bên phải đặt ghế sofa có kích cỡ giống nhau, cốc quanh ấm trà phải có kích cỡ thích hợp tạo cảm giác hài hòa, dễ chịu.
(7) Màu sắc hài hòa
Màu sắc trong và ngoài phòng phải hài hòa cân xứng, mỗi căn phòng lại có màu sắc vui mắt riêng nhưng nguyên tắc là mỗi phòng không nên sơn quá hai màu.
(8) Tạo cảm giác
Có 3 thứ có thế tạo cảm giác, đó là màu sắc, đèn và sự bài trí đồ đạc, trong đó đèn là công cụ tốt nhất để điều tiết tình cảm.
(9) Đan xen, thay đổi
Đồ dùng trong nhà tuy cố gắng làm sao cho đơn giản, thống nhất, nhưng cũng phải có sự thay đổi và phối hợp đan xen, ví như sự đan xen thú vị giữa các đồ dùng trong nhà, con người cố ý tạo ra sự cao thấp không giống nhau, màu sắc không giống nhau như vậy mới tạo được cảm giác đẹp mới lạ.
![]() |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
![]() |
![]() |
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát |
Khi xây tường rào cần chú ý tường rào không được quá cao hoặc quá thấp so với ngôi nhà, điều này không tốt cho phong thủy. Tường không nên quá cao so với nhà: trong kiến trúc học tường quá cao cũng là một điềm không tốt. Điều này được giải thích bởi hai lý do sau: Thứ nhất là trộm cắp dễ lọt vào nhà: nhiều người cho rằng làm hàng rào bao quanh cao mới khiến trộm khó vào nhà. Nhưng thực tế hoàn toàn không phải vậy vì trộm cắp vốn lén lút không gây tiếng động. Tường cao lại chắn hết tầm nhìn từ ngoài vào nhà và ngược lại, khiến cho hành vi của bọn trộm càng khó phát hiện. Thứ hai là về mặt mỹ quan: hàng rào cao quá không chỉ phá vỡ khung cảnh đẹp mà còn khiến con người cảm thấy đơn điệu. Nhưng cũng không nên quá thấp: sẽ không phát huy được chức năng chính là tránh tiếng ồn và ô nhiễm, đặc biệt là trong cuộc sống hiện đại. Ngoài ra theo lý thuyết phong thủy thì hàng rào bao quanh cao hơn nhà là điềm không may, sẽ mang đến sự nghèo khó cho gia chủ.Tốt nhất không nên xây hàng rào thấp quá 1,5m và cao hơn độ cao này quá nhiều.Ngoài ra bạn cũng có thể sử dụng hàng rào thép thay vì hàng rào bê tông sẽ khiến ngôi nhà trở nên thoáng đãng hơn.
Ngoài ra, tường rào cũng không nên xây quá gần nhà vì sẽ tạo cảm giác bức bối, vướng víu chân tay, hạn chế khả năng hứng ánh sáng và thông gió. Trong những trường hợp bất khả kháng mà phải xây hàng rào quá gần nhà thì bạn có thể cái thiện nhược điểm của nó bằng cách: Giữ một khoảng cách khoảng 20 cm giữa nhà và tường bao. Như thế vừa có thể cải thiện việc thông gió, hứng anh sáng, vừa có thể trồng những cây xanh để tạo một khoảng xanh cho ngôi nhà. Bảo Ngọc (Sưu tầm)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Coi bói qua ngón tay cái ? Ngón tay cái nói lên điều gì về bạn ? Nào hãy xòe bàn tay ra và quan sát thật kỹ ngón tay cái của mình như thế nào ?
Coi bói qua ngón tay cái
1) Độ dẻo:
– Khi coi bói quan sát thấy ngón cái : co lại không mở ra được luôn luôn sát với ngón trỏ là người thiển cận, vị kỷ cao, thường hay giấu diếm, che đậy hành vi của mình, thiếu sự công khai minh bạch.
– Còn ngón cái mà dẻo, cong ngược được kết quả coi bói cho rằng : là người hiền hậu có nhiều từ tâm, có khả năng chịu đựng mọi gian khổ. Nhưng nếu dẽo quá độ lại là người thiếu thủy chung.
– Ngón cái dịu là người nhiều dục vọng, dễ sa ngã, sẳn sàng chạy theo dục vọng của mình.
– Những ai mà ngón cái cứng đờ là người thường bướng bỉnh, nhưng rất thực tế thẳng thắn, thành thật và tốt bụng.
2) Dài ngắn
– Ngón cái dài tới lóng thứ nhì của ngón trỏ : người này có ý chí mạnh, cứng rắn, thủy chung, suy xét kỷ lưỡng trước khi quyết định mọi việc.
– Nếu quá dài qua khỏi lóng giữa của ngón trỏ là người quá tự kiêu, pha lẫn chút tàn nhẫn trong phương cách chiếm đoạt địa vị hay tình yêu cho chính mình.
– Còn ngón cái ngắn là người tâm tình bất định dễ đổi thay, và thường chạy theo dục vọng trước mắt, bất chấp hậu quả. Là người nhiều tham vọng.
– Ngón cái quá ngắn lại là người nhẹ dạ dễ tin người, dễ bị gạt.
– Ngón cái dài mà cứng thì dễ mù quáng trước đòi hỏi của mình.
– Khi coi bói quan sát thấy lóng trên mà ngắn thì là người khôn ngoan, và nhiều dục vọng
– Lóng trên dài là người thẳng thắn, tình lý phân minh.
3) Hình dáng:
– Ngón cái vuông là người sáng suốt, ham làm việc nhưng ưa lý luận và gây gổ.
– Ngón cái nhọn thích khoa trương, nóng nảy không bền .
– Ngón cái bè là người gan lì, buồn vui vô cớ, thích cô đơn.
– Ngón cái chù vù như đầu đạn là người dữ dằn nóng nảy, háo sắc .
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát theo tâm linh |
![]() |
Ảnh minh họa |
Mơ thấy tay cầm lá cọ là điềm may mắn. Nó dự báo, bạn sẽ dựng được nghiệp lớn, làm rạng danh tổ tiên.
Theo Giấc mơ và vận mệnh con người trong cuộc sống
![]() |
![]() |
► Mời các bạn xem Tử vi 2017, Lịch 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com |
2.Ngũ hành sinh khắc:
Tương sinh:Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy
Tương khắc:Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc Khắc Thổ, Thổ khắc Thủy
3.Chữ số và thứ bậc:
1 là trung nam, 2 là lưu nam, 3 là thiếu nam, 4 là trưởng nam, 5 là trưởng nữ, 6 là lưu nữ, 7 là trung nữ, 8 là thiếu phụ, 9 là lão phụ, 10 là thiếu nữ, 11 là lão nam, 12 là lão ông.
4.Lục xung 12 số:
Tương tự như trong Bốc Phệ, lục xung 12 số căn cứ vào địa chi làm chủ ta được như sau:
1 xung 7, 2 xung 8, 3 xung 9, 4 xung 10, 5 xung 11, 6 xung 12
Lưu ý:trong Thần Số Học không dùng dùng đến hình, hại và lục hợp mà chỉ dùng lục xung, tương tuyệt, tam hợp.Học giả nên chú ý!
5.Tương tuyệt:
Biểu hiện của tuyệt số là những sự việc xảy ra không cát lợi như tai nạn xe cộ, tai ương, bệnh tật, khẩu thiệt, hôn nhân không thuận,...
Trong quẻ Thời Không gặp các tổ số dưới đây đều phạm tương tuyệt:
5-3,3-5,1-8,1-9,8-1,9-1,2-6,6-2,7-11,11-7,12-7,7-12,10-4,4-10,11-9,12-8,6-1
6.Sao Văn Khúc-Văn Xương:
-Sao Văn Khúc đóng ở số 1,2,12
-Sao Văn Xương đóng ở 7,8,6
Hai sao này chủ về học vấn, thi cử, sự nghiệp học tập
7.Sao Huyền Vũ:3,9
Huyền Vũ chủ việc trộm cắp, lừa bịp, đen tối,...Khi phán đoán sự việc, trong quẻ Thời Không nếu có số 3 hoặc 9, thông thường thể hiện cho việc trộm cắp, lừa đảo.
8.Sao Dịch Mã:2,5,6,12
Trong tổ hợp có các số này có thể suy đoán có sự điều động công tác, di chuyển hoặc xuất ngoại
9.Số hư số thực:
Những số nằm trong trụ năm, tháng, ngày, giờ là những số thực.Lực tác động của số thực rất lớn có thể khắc hại số hư
Số hư là số không xuất hiện trong bản cung(bốn trụ).Lực tác động kém, không khắc được số thực, mang ý nghĩa như giả dối, phế bỏ,...
10.Số Động, số Tĩnh:
Số thực ở trụ ngày và giờ là số động, trong đó số giờ động mạnh hơn số ngày
Số thực ở trụ năm và tháng là số tĩnh, số tĩnh không khắc được số động
11.Một số sao khác:Mã, Tướng tinh, Kiếp Sát, Tai Sát, Đào hoa, Hoa cái,...(tham khảo sách Bốc Phệ để biết cách an)
12.Vòng Trường Sinh:
Thần số học có thể dùng tới vòng Trường Sinh.
VD:Số 7 là dương hỏa là can Bính, Bính lại Trường Sinh ở Dần, nên 7 sinh ở 3
Ngoài ra vận dụng tương tự như ví dụ trên để tìm Mộc Dục, Quan Đới,...
13.Tổ hợp cát hung:
Thần số học dùng 12 số để dự đoán cát hung nên có tới 12x12=144 cách hung, cát khác nhau vừa có khắc vừa có sinh, sinh là khắc, khắc là sinh, nó phản ánh quy luật tất yếu về sự phát triển, lớn lên, suy bại, diệt vong của vạn vật vạn sự.
Tổ hợp quẻ Thời Không có 12x12x30x12=51.840 cách cục riêng biệt.
14.Tứ chính và Bát tà:
Tứ chính gồm:1, 4, 7, 10 biểu thị sự chính phái, chính nghĩa, chính trực, chính khí, yên phận, tuân theo kỷ luật giử gìn phép tắc.
Bát tà gồm:2, 3, 5, 6, 8, 9, 11, 12 biểu thị sự bất chính, không chính đáng, không chính phái, không theo pháp luật.
15.Số trung gian:
Số trung gian là số có vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa sự khắc của hai số.
VD:Tổ số 11-5, kim khắc mộc, ta dùng Thủy điều hòa, số 1, 2 hoặc 12 là số trung gian.
Trong quẻ Sinh Thần, gặp những vận Quan, Sát đương lệnh thường chịu hung sát như bệnh tật, tai nạn, bãi chức,...nhưng một khi có chữ số trung gian xen vào thì năm đó là năm thăng quan tiến chức, thuận lợi cho học vụ, thi cử.
16.Đặc thù của 3, 8, 9:
Các chữ số 3-8-9 đều thuộc thổ, nhưng quan hệ giữa chúng là hổ tương, khắc chế.Số 3 và 9 có quan hệ tương xung và tương khắc, lúc này số 3 mang hành mộc, tương tự 3 và 8 cũng là quan hệ tương khắc, 3 là mộc khắc 8 thổ.
17.Số khả biến:
Số 6 là một số khả biến, khi tổ hợp với số dương thì nó mang tính âm, tổ hợp với số âm thì mang tính dương.
VD:6-2, lúc này số 6 là số âm
Khi ba số 5, 7, 9 tác động với số 8 và 10 thì nó chuyển thành tính dương.
18.Tam hợp phá cục:
Phá cục là chỉ tam hợp cục:Hợi-Mão-Mùi, Dần-Ngọ-Tuất, Tỵ-Dậu-Sửu, Thân-Tý-Thìn.Phá cục chính là trong tam hợp khiếm khuyết một nhánh không thể phát huy tác dụng.Chỉ cần là phá cục ắt gặp tai ương.
VD:Dần-Ngọ-Tuất(3-7-11), nếu như trong cục này thiếu Dần(3), chỉ ra cục này đã bị phá, chỉ còn lại Ngọ-Tuất(7-11) tất trở thành tổ số hung.
19.Giải thích tính Ngũ Hành 12 con số:
Nguồn gốc 12 con số và thuộc tính Ngũ Hành đều từ Bát Can, Tứ Duy mà ra, vậy Bát Can, Tứ Duy là gì?
Bát Can là tám thiên can:Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Tứ Duy là Càn, Cấn, Tốn, Khôn.
Quy Luật:
1:cung Khảm->âm thủy
2:cung Cấn thuộc Tứ Duy nên 2 nghiên về Khảm->dương(Cấn)thủy(Khảm)
3:cung Cấn -> thổ
4:cung Chấn->dương mộc
5:cung Tốn thuộc Tứ Duy nên nghiên về Chấn->âm(Tốn) mộc(Chấn)
6: cung Tốn thuộc Tứ Duy nên nghiên về Ly->âm(Tốn) hỏa(Ly)(lưỡng tính)
7:cung Ly->dương hỏa
8: cung Khôn đồng trung cung thuộc Tứ Duy->âm thổ
9: - cung Khôn>âm thổ
10: cung Đoài->âm kim
11:cung Càn thuộc Tứ Duy->dương kim
12: cung Càn thuộc Tứ Duy nghiên về Khảm->dương (Càn) thủy (Khảm)
20.Tượng loại vạn vật của 12 số:
Số 1:
Nghề nghiệp:khoa học, văn hóa, thủy sản, hóa học.
Nhân vật:bí thư, kế toán, trẻ nhỏ.
Cơ thể người:tĩnh mạch, máu, tử cung, trứng, niêm mạc, khí quản, thanh quản.
Động vật:chuột, các loài họ chuột, não động vật, tinh trùng, trứng.
Thực vật:hạt trong quả hạch, các loài xương rồng.
Giới tự nhiên:nước ngầm, mưa, sương mù, sóng âm, sóng thanh, sóng điện, tiếng chim hót, tiếng sấm, gió bão.
Thời lệnh:ứng vào năm Tý-tháng 1-ngày 1, 21-giờ Tý
Chòm sao:Kim Ngưu, sao Thủy, sao Bắc Đẩu.
Số 2:
Nghề nghiệp:Ngành vận tải, thương mại, thủy sản, thủy lợi, thủy điện.
Nhân vật:Nhân viên thương mại, kẻ trộm, lưu manh, người phong lưu, người thuộc phe bất chính.
Cơ thể người:Nước trong cơ thể, máu động mạch chủ, huyết quản động mạch, suy nghĩ, tinh thần, thần kinh đại não, máu trong tim, sẩy thai, gan bàn chân, khuôn mặt và mắt, thận.
Động vật:Động vật giỏi chạy, động vật hoạt động trên mặt nước(loài vịt, ngỗng), ấu trùng.
Thực vật:Rễ cây.
Vật thể:Xe 2 bánh, thuyền.
Giới tự nhiên:Gió Đông Bắc, tranh sơn thủy, nước chảy, sóng nước, sông, kênh thoát nước, rãnh ngầm, ống nước, sông ngầm, mây trôi trên trời.
Thời lệnh: ứng vào năm Sừu-tháng 2-ngày 2, 22-giờ sửu.
Chòm sao:Song Tử.
Số 3:
Nghề nghiệp:Các ngành khai khoáng, vật liệu, khai thác quặng, dây kim loại, đồ tể, bảo vệ.
Nhân vật:Nhân viên bảo vệ, anh hùng, hảo hán, hung nô, đạo tặng, đại thần khai quốc, vua bạo ngược.
Cơ thể người:Bộ xương, thận, lá lách, eo, chân, gan bàn chân, da thịt ở hạ bộ, thuộc mạch chủ, lá lách.
Động vật:Hổ, động vật họ mèo, cáo, thạch sùng, mọt, sâu ăn lá cây, chân sau của động vật
Vật thể:Roi tre dài, bít tất.
Đồ vật:Bánh sau của xe, tranh hổ, tranh mèo, tranh sơn thủy.
Giới tự nhiên:Núi lớn, tường đầu hồi nhà, đá xanh trên mặt đất.
Thời lệnh: ứng vào năm Dần-tháng 3-ngày 3, 23, 13-giờ Dần.
Chòm sao:Cự giải, Tam Sát, Bạch Hổ.
Số 4:
Nghề nghiệp:Ngành sửa chữa, chế tạo, chế biến gỗ.
Nhân vật:Thợ mộc, nghề mộc, bảo vệ, thuộc phe chính nghĩa.
Cơ thể người:Mật, chân tay, da, tóc, thuộc mạch chủ.
Động vật:Thỏ, sư tử.
Thực vật:Cây bông, cây rừng, hoa cỏ, thân thực vật, vỏ thực vật.
Vật thể:Dụng cụ bằng gỗ, giường, tủ, bàn ghế, dụng cụ đo lường hình vuông, vật phẩm dùng trên giường.
Giới tự nhiên:Rau, dược liệu làm thuốc, sấm, thuyền lênh đênh trên mặt nước.
Thời lệnh: ứng vào năm Mão-tháng 4-ngày 4, 24, 14-giờ Mão.
Chòm sao:Sư tử, Thiên Thố.
Số 5:
Nghề nghiệp:Nhà hàng, vật liệu, thuốc, trồng hoa, cây cảnh.
Nhân vật:Chị em, trưởng nữ.
Cơ thể người:Gan, dây thần kinh liên sườn, 5 ngón tay, 5 ngón chân, da, tóc, lông và tóc, hình thể phụ nữ mang thai, hệ thần kinh.
Động vật:Côn trùng có cánh, loài chim, con nhím.
Thực vật:Cây lương thực, hoa cỏ, hoa mai, lương thực, quả, cây cảnh, cây ăn quả, cây cho hoa, các loại quả táo, quýt, chuối.
Vật thể:Tay cầm công cụ bằng gỗ, hàng mỹ nghệ, quần lót.
Giới tự nhiên:Gió bão, lốc xoáy, phong cảnh.
Thời lệnh: ứng vào năm Thìn-tháng 5-ngày 5, 25, 15-giờ Thìn.
Chòm sao:Thất, Nữ, Thiên Long.
Số 6:
Nghề nghiệp:Ngành thủ công, nghề rèn, nghề liên quan đến lửa, văn nghệ.
Nhân vật:Giới văn nghệ, nữ giới sống phong lưu, phóng đãng, người đa tài nghệ, người có khả năng diễn thuyết, biện luận.
Cơ thể người:Ruột non, ruột non, kết tràng, phần bụng dưới, hệ thần kinh.
Động vật:Rắn, phượng hoàng, bồ câu, côn trùng có cánh gây độc cho người, côn trùng phát sáng, con lươn.
Vật thể:Váy, quần, váy màu hồng, đá mài màu hồng.
Giới tự nhiên:Vật thể phát sáng, gió nóng, đám cháy, đá màu đỏ, lửa, khói, lửa nhân tạo, lửa chiến tranh, thiên tai hỏa hoạn, sát thương.
Thời lệnh: ứng vào năm Tỵ-tháng 6-ngày 6, 26,16-giờ Tỵ
Chòm sao:Thiên bình, sao Hỏa, tinh thể phát nhiệt.
Số 7:
Nghề nghiệp:Công nghiệp luyện kim, điện lực, vũ khí đạn dược phục vụ quân đội.
Nhân vật:Phụ nữ không kết hôn hoặc kết hôn muộn, nhân viên phục vụ.
Cơ thể người:Huyết quản, ngực, tâm thất trái, tâm thất phải, trái tim, nhiệt cơ thể, máu nóng, hệ thần kinh màng tim.
Động vật:Họ ngựa.
Vật thể:Kim chỉ Nam, đạn dược, súng ống, pháo hoa, đèn điện, cáp điện, váy.
Giới tự nhiên:Chớp, sấm, hỏa hoạn do điện.
Thời lệnh: ứng vào năm Ngọ-tháng 7-ngày 7, 27,17-giờ Ngọ.
Chòm sao:Thiên hạt.
Số 8:
Nghề nghiệp:Đốt lò, khai thác quặng, đào giếng, xây dựng dân dụng, bất động sản.
Nhân vật:Nông dân, nghệ nhân làm gốm, thiếu phụ.
Cơ thể người:Bộ phận ngực, phần cuối dạ dày, ruột, vú, bạch huyết, hệ thần kinh dạ dày, cơ thể phát lạnh.
Động vật:Họ dê, lừa, la, cua, loài động vật ngủ đông trong tháng 6, động vật nuôi nhốt.
Vật thể:Cái túi, bao tải gai, vò nước, bình rượu, cót quây đồ, áo, áo khoác.
Giới tự nhiên:Hố, giếng, rãnh, sông, đất trũng, đầm lầy, hồ ao, nhà giam, ngõ hẻm, đường hầm, hang động.
Thời lệnh: ứng vào năm Mùi-tháng 8-ngày 8, 28,18-giờ Mùi
Chòm sao:Nhân mã.
Số 9:
Nghề nghiệp:Nghề đúc kim loại, lò nung, phế phẩm xi măng, sản xuất tại địa phương.
Nhân vật:Phụ nữ nhiều tuổi.
Cơ thể người:Đại tràng, ruột, yết hầu, thực đạo, bộ phận cổ, cường giáp, bạch huyết, phần lưng, xương bả vai, mạch máu, hệ thần kinh đại tràng.
Động vật:các loài khỉ.
Vật thể:Khăn quàng cổ, gối, mủ bảo hiểm, trang vẽ Tôn Ngộ Không và khỉ, các tòa nhà cao tầng.
Giới tự nhiên:Gò cát, đống đất, đống rác, nấm mộ, đường, cầu, khe núi, đoạn đất hiểm yếu khu núi.
Thời lệnh: ứng vào năm Thân-tháng 9-ngày 9, 29,19-giờ Thân.
Chòm sao:Ma kết.
Số 10:
Nghề nghiệp:Ngành kim loại, tài chính, chế tạo kim loại, gia công kim loại, khai thác quặng.
Nhân vật:Thiếu nữ, người bảo thủ, người giỏi tranh luận.
Cơ thể người:Động mạch chủ, bạch huyết, xương, thần kinh phổi, 12 đốt xương sống, miệng, đầu lưỡi, răng, thực đạo, phế.
Động vật:Gà, giống gà.
Vật thể:Khẩu trang, xe đạp, xe hơi, khung xe, chế phẩm thuộc Kim, nồi thủy tinh, đá xanh, con lăn bằng đá, ngọc thạch, đồ cổ, hàng mỹ nghệ, đồ kim loại dùng trong gia đình, chìa khóa.
Giới tự nhiên:Tiền, vàng dưới đất, kim loại.
Thời lệnh: ứng vào năm Dậu-tháng 10-ngày 10, 20, 30-giờ Dậu
Chòm sao:sao Kim, Bảo bình
Số 11:
Nghề nghiệp:Ngành hành chính, cơ quan pháp luật, kiểm tra, bảo vệ, quân sự, hệ thống tiền tệ, ngân hành, kim loại, gan thép, vật liệu xây dựng, công cụ.
Nhân vật:Công an, nhân viên vũ trang, lãnh đạo hành chính, người điên.
Cơ thể người:Thần kinh tam xoa, thực đạo, môn vị, thần kinh tam tiêu.
Động vật:các loài chó, diều hâu, chim nhạn.
Vật thể:bao gồm các loại xe, máy bay, súng, dao, rìu, bảo kiếm, linh kiện có đầu thép kim loại, bánh sau của xe 3 bánh, kiến trúc lớn, súng máy, nhà lầu.
Giới tự nhiên:Tiền của, ngọn núi cao, chớp trong không trung.
Thời lệnh: ứng vào năm Tuất-tháng 11-ngày 11-giờ Tuất.
Chòm sao:Song ngư, sao Tuệ.
Số 12:
Nghề nghiệp:Ngành khí tượng, ngành truyền hình, cơ quan chính phủ, đảng.
Nhân vật:Lãnh đạo đảng, cha già, tổ phụ, bá phụ.
Cơ thể người:Não, huyết quản,thần kinh, hệ thống thần kinh, đại não, màu thuộc bộ phận đại não, mắt, tinh thần, thần kinh bàng quang, sợ hãi.
Động vật:Lợn, cá kình, voi, con vật khổng lồ.
Vật thể:Mũ, tivi, kính, thủy tinh, đồ mỹ nghệ.
Giới tự nhiên:Mưa, tuyết, sương mù, mưa đá, hố, bờ ruộng, hồ.
-Tượng vạn vật trên đây chỉ liệt kê sơ lược, không thể nói hết vạn vật vạn sự trong thế giới được.Vì vậy khi đoán quẻ phải tuân thủ nguyên tắc thông biến, thông biến chính là suy đoán hợp lý, lý giải rõ hoàn cảnh sự vật sao cho hợp tình hợp lý, coi trọng sự linh hoạt, kỵ cứng nhắc, nhằm suy đoán quẽ nhanh chóng, chuẩn xác.
CHUNG: Theo Tử vi 2016, bản mệnh Dần bước vào năm 2016 cần chuẩn bị tâm lí đón tiếp một vận trình vất vả, khó khăn nhất vì rơi vào cục diện Dần Thân tương xung, trong đó vận Phạm Thái Tuế của bản mệnh ảnh hưởng cực lớn. Tuy vậy, vận mệnh tốt đẹp hay không phụ thuộc khá nhiều vào cá tính, sự quyết tâm của từng người bởi có lúc trong năm xung Thái Tuế lại thúc đẩy vận khí cho một số người. Bất luận vận trình của bản mệnh ra sao, có thể tận dụng hỉ sự để đuổi tà. Nếu trong năm nay bạn có 3 việc lớn như thành thân, thêm con cháu hoặc khởi nghiệp thì có thể giảm bớt hung vận từ Thái Tuế. Ngoài ra, trong năm nay có cát tinh đi vào cung mệnh, nếu cố gắng hết sức cũng gặt hái được thành công. Đây có thể coi là một năm lao động cật lực của bản mệnh.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
Thẩm mỹ để đổi đời
Xu thế phẫu thuật thẩm mỹ ngày càng nở rộ, không chỉ ở các thành phố lớn mà các tỉnh lẻ khác cũng bắt đầu có nhu cầu phẫu thuật thẩm mỹ. Đặc biệt là việc thẩm mỹ cho hợp phong thủy. Thẩm mỹ hợp phong thủy không chỉ xảy ra ở nữ giới mà ngay cả nam giới cũng rất thích thú.
Gương mặt bị coi là không hợp với tướng số chủ nhân, chị Vũ Thùy Linh trú tại Hải Phòng kiên quyết thẩm mỹ bởi vì từ khi ra trường đã 3 năm cô không thể tìm được công việc ưng ý. Lý do cô tin là do khuôn mặt không tương xứng với tướng số của mình. Mắt của Linh hai bên không cân, một bên mí lót, một bên hai mí. Còn mũi lại tẹt, nên Linh coi đó là gương mặt này “phản chủ”, khiến công việc của Linh luôn trắc trở.
Phẫu thuật thẩm mỹ cũng có thể gây tai biến bất cứ lúc nào |
Linh quyết định đi tạo mí và nâng mũi với mong muốn thay đổi phong thủy, tướng mạo, hòng có một công việc mong muốn. Tổng chi phí hết hơn 30 triệu đồng, Linh khá hài lòng với gương mặt của mình.
Còn trường hợp của Bùi Đức Hoàng trú tại Sơn Tây, Hà Nội thì khác. Hoàng cho biết cậu luôn tự ti với gương mặt không cân với cái mũi nhỏ, lỗ mũi như đầu tăm, mắt híp híp, rãnh tai phẳng. Điều này khiến Hoàng làm đến đâu đều thua lỗ đến đó.
Để đổi đời, Hoàng quyết định đi tái tạo lại gương mặt mình. Dù ý kiến của Hoàng bị mọi người phản đối bởi gương mặt cha mẹ sinh ra như nào không nên thay đổi nhưng Hoàng đã tìm hiểu rất kỹ và cậu quyết định phẫu thuật thu gọn cánh mũi, sửa đôi mắt híp và tạo dái tai dày và to để tạo ra một hình tướng vương giả.
Sau phẫu thuật, Hoàng tin rằng mọi thứ của mình đều ổn. Hoàng không ngần ngại mà chia sẻ bí mật của mình lên các trang mạng xã hội của nhóm thì thầm dao kéo.
Cẩn trọng tai biến
Phẫu thuật thay đổi tướng mạo thành công như Hoàng và Linh không phải hiếm nhưng cũng có nhiều người bị tai biến vì muốn có ca phẫu thuật như ý.
Trường hợp của chị Nguyễn T. H trú tại Hà Nội vừa phải vào bệnh viện Đại học Y cấp cứu vì má sưng, chảy dịch, nguy cơ nhiễm trùng máu rất cao.
Chị H. cho biết trước đó chị đi coi bói, thầy bảo nếu chị có một lúm đồng tiền bên trái chắc chắn chị sẽ rất giàu. Nghe thấy thế, chị về tìm hiểu và biết ở một số nơi phẫu thuật tạo lúm đồng tiền. Chị H. không ngần ngại chi tiền đi tạo lúm đồng tiền. Niềm hi vọng gương mặt tròn có thêm má lúm đồng tiền làm điểm nhấn sẽ giúp chị H thành công hơn trong cuộc sống. Nào ngờ, sau 1 tháng phẫu thuật chị bị viêm vết mổ má lúm khiến nửa mặt sưng vù lên.
TS.BS. Nguyễn Huy Thọ, Nguyên chủ nhiệm khoa Phẫu thuật hàm mặt và Tạo hình, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cho biết, trào lưu đi sửa tướng xuất phát từ quan niệm của người Á Đông. Bởi theo quan niệm này, chiếc mũi, nốt ruồi, khuôn mặt, khóe miệng là những yếu tố quan trọng trong việc đánh giá vận mệnh của mỗi người.
Nếu với đàn ông, đầu mũi to, miệng rộng biểu hiện dồi dào về tiền tài và sức khỏe thì với phụ nữ lại bị coi là “hao tán tiền của”, ảnh hưởng đến chồng con. “Không ít cô gái trẻ đến với chúng tôi vì muốn cải thiện đôi mắt một mí vì thiếu một cái rãnh sâu để hứng tài lộc; hoặc sửa lại hàng cung mày rậm, gò má cao vì mẹ chồng tương lai cho rằng đó là tướng không tốt. Cũng có khi chị em đến thẩm mỹ chỉ đơn giản vì muốn có chiếc rốn “hứng tiền” và cũng “đẹp mắt” khi đi tắm biển”.
TS Thọ cũng gặp không ít trường hợp bị tai biến phẫu thuật thẩm mỹ. Phẫu thuật thẩm mỹ dù là thẩm mỹ nhưng nó cũng phải tuân thủ các quy định của phẫu thuật nói chung và phải được phẫu thuật ở các cơ sở uy tín, không nên đến các cơ sở có điều kiện chật hẹp, phòng vô trùng không đảm bảo, tay nghề phẫu thuật viên cũng phải chú ý.
Theo TS Thọ phẫu thuật dù là “chỉnh tướng, đổi vận” hay vì mục đích gì thì “cái đẹp và an toàn vẫn phải được đặt lên hàng đầu. Có những bệnh nhân họ đòi hỏi phẫu thuật theo đúng tướng mạo và họ chấp nhận đánh đổi bằng mọi giá. Đây là quan niệm sai lầm nguy hiểm cho chính người muốn đổi đời nhờ phẫu thuật thẩm mỹ theo tướng số.
Khiếu thẩm mỹ của con người cũng tuỳ thuộc theo đặc điểm dân tộc và tuỳ thuộc theo thời đại mà thay đổi. Đối với các dân tộc ở châu Phi hay ấn Độ thì da càng đen càng đẹp. Nước ta ngày nay, chẳng ai nhuộm răng đen nữa, nhưng ngày xưa "bõ công trang điểm má hồng răng đen".
Đến như Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ đầu thế kỷ, chủ trương cải tạo phong tục còn có nhận xét: "Đàn ông răng trắng thì chẳng sao, chớ đàn bà nhà tử tế bây giờ mà răng trắng thì coi khi ngộ một đôi chút. Nhưng lâu dần cũng phải quen mắt, có lẽ quen mắt rồi thì trắng lại đẹp hơn đen nhiều".
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
Tục nhuộm răng đã lỗi thời, nhưng xin giới thiệu cách nhuộm răng cổ truyền của dân tộc ta, để các bạn trẻ được biết: (có thể vận dụng trong ngành mỹ nghệ, kẻ vẽ, nhuộm các chế phẩm bằng xương, bằng ngà voi và nhựa).
Trước hết dùng các cánh kiến tán nhỏ, vắt nước chanh để kín 7 ngày, chờ tối đi ngủ phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc mo cau rồi ấp vào hai hàm răng. Trong khi nhuộm răng thì phải kiêng nhai. Nhuộm như thế 5, 7 ngày cho răng đỏ già ra màu cánh gián thì bôi thuốc răng đen. Thuốc răng đen làm bằng phèn đen trộn với cánh kiến, nhuộm 1, 2 miếng là đen kịt lại, đoạn lấy cái sọ dừa để con dao mà đốt cho chảy nhựa ra, lấy nhựa ấy phết vào răng cho không phải ra được nữa.
(Trích Phong tục VN của Phan Kế Bính, tr 351)
Thế nhưng, việc chuẩn bị có khi bắt đầu từ những ngày đầu tháng Chạp và phải hoàn tất trước buổi trưa ngày 30. Đây cũng là cách con cháu thể hiện sự tưởng nhớ, lòng biết ơn đối với ông bà, tổ tiên của mình.
Tùy vào điều kiện mỗi gia đình mà sắp xếp chuẩn bị mâm cỗ lớn cúng đón rước ông bà vào buổi trưa hoặc buổi chiều 30, và mâm cỗ vào ngày mồng 3 hoặc mồng 4 Tết để tiễn ông bà đi gọi là cúng đưa.
Do điều kiện địa lý, thói quen trong ăn uống, phong tục của từng miền. Nên mỗi miền có mâm cỗ Tết khác nhau. Ở miền Bắc gọi là mâm cỗ, miền Trung gọi là mâm cộ, miền Nam gọi là mâm cơm cúng ông bà.
1. Mâm cỗ miền Bắc:
Mâm cỗ Tết miền Bắc theo đúng bài bản, thường thì 4 bát, 4 dĩa. Cỗ lớn thì 6 bát, 6 dĩa hoặc 8 bát, 8 dĩa…có khi mâm cỗ lớn phải xếp cao đến 2, 3 tầng. Trước khi dâng cúng tổ tiên thì dùng giấy trang kim đậy các bát, đĩa thức ăn lại cho vệ sinh, tinh khiết và đẹp mắt.Bốn bát, bốn dĩa gồm: bát giò heo hầm măng lưỡi lợn, bát bóng thả, bát miến, bát mọc. Bốn dĩa gồm: dĩa thịt gà, dĩa thịt heo, dĩa giò lụa, dĩa chả quế.
Rồi có thể thêm những dĩa như: dĩa thịt đông, dĩa giò thủ, dĩa xào hạnh nhân, dĩa lạp xưởng khô, dĩa trứng muối, dĩa cá kho riềng, dĩa nộm sứa hoặc nộm rau quả….
Bánh Tết ở miền Bắc phổ biến nhất là bánh chưng ăn kèm dưa hành.
Món tráng miệng đặc trưng thì có mứt sen, mứt quất, mứt gừng, hồng khô, ô mai mơ gừng….Đặc biệt món chè kho có tính giải độc và giả rượu.
Mâm cơm cúng ông bà ngày 30 Tết ở miền Nam, luôn luôn có thịt heo kho nước dừa với trứng hoặc cá lóc kèm dưa giá, canh khổ qua nhồi thịt (khổ qua là mướp đắng, nhưng người Nam bộ muốn chơi chữ đồng âm theo nghĩa Tiếng Việt).
Theo dân gian thì khổ qua là món ăn mong muốn sự khổ cực trong năm cũ qua đi, để tiếp đón điều tốt đẹp trong năm mới.
Các món nguội như gỏi ngó sen, tai heo ngâm dấm, tôm khô-củ kiệu, giò heo nhồi, lạp xưởng tươi,phá lấu,nem, chả.
Món tráng miệng: có các loại mứt trái cây như: mứt dừa, mứt me, mứt khoai, mứt ổi, mứt mảng cầu, mứt củ năng,bánh ít ngọt, kẹo thèo lèo và kẹo chuối,…
Ngoài ra còn có món tráng miệng rất đặc sắc là cơm rượu.
Mâm cộ Tết miền Trung thì có các món nước như: gà tiềm hạt sen, canh hoa Kim Châm với tôm thịt, giò heo hầm. Các món mặn như: tôm rim, thịt kho tàu, cuốn ram, thịt heo, gà rán, thịt phay, nem, chả, tré,thịt ngâm nước mắm…Rồi có thêm các món đồ mộc như: măng khô xào thịt, mít trộn, giá xào nham…
Món tráng miệng rất phong phú, có mứt cam quật, mứt sen, mứt gừng như miền Bắc,có mứt me, mứt dừa…như miền Nam. Ngoài ra có thêm mứt củ bình tinh, mứt củ khoai mài, mứt củ sen, mứt chanh, mứt khế. Bánh thì có bánh sen tán, bánh măng, bánh mận, bánh bó mứt, bánh thuẩn, bánh phục linh, bánh nổ, bánh tổ….
3. Mâm cỗ miền Trung:
Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và bánh tét. Nhưng mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không dùng làm vật phẩm để dâng cúng tổ tiên.Khác với mâm sinh soạn để cúng tế trời đất, thần thánh, vua chúa...Như vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu…Vật phẩm là bộ tam sinh (trâu, heo,dê) để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ thái lao. Hoặc ngoài dân gian khi cúng Đất thì bộ tam sinh là miếng thịt heo, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.
Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến, gồm đủ các thành phần : Thượng cầm: các loại gia cầm biết bay như chim, gà, vịt,…Hạ thú: các gia súc trên mặt đất như: heo, bò, gà..Rồi các loài thủy tộc dưới nước như: tôm, cua, cá… trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn
Trong cung đình mâm cỗ để tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.
Các món ăn như là: chim sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi cá nấu rối, món nấu bong bóng cá đường, món nấu cửu khổng, gân nai, nem công, chả phượng,…
Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay.Mứt cam sành còn nguyên trái, mứt các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng,…gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, qui, phụng…rim khô.
Bánh ngọt thường là loại bánh khô, làm từ bột ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình hoa mai, hoa đào, hoặc chữ phước, lộc , thọ…gói trong giấy ngũ sắc-như mang lời chúc tốt lành đầu năm.
Ngoài ra có loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa mai, hoa đào, các loại trái cây như trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm…đem sấy khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men lam để dâng cúng tổ tiên.
Bên cạnh những mâm hào soạn ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào những ngày đầu năm những gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mồng một gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.
Mâm cỗ miền Trung trong dân gian thì có cả bánh chưng và bánh tét. Nhưng mâm cỗ tiến cúng ở miếu điện trong cung đình thì chỉ dâng cúng bánh chưng chứ bánh tét thì không dùng làm vật phẩm để dâng cúng tổ tiên.
Khác với mâm sinh soạn để cúng tế trời đất, thần thánh, vua chúa...Như vào những dịp nhà vua tế Trời ở đàn Nam Giao hoặc tế các vị Tiên đế ở Thế miếu…Vật phẩm là bộ tam sinh (trâu, heo,dê) để nguyên con chưa qua chế biến, lễ vật này còn gọi là cỗ thái lao. Hoặc ngoài dân gian khi cúng Đất thì bộ tam sinh là miếng thịt heo, con cua, cái trứng chỉ luộc chín chứ không chế biến.
Còn mâm cơm để cúng ông bà trong 3 ngày Tết là mâm cỗ có nhiều món ăn được chế biến, gồm đủ các thành phần : Thượng cầm: các loại gia cầm biết bay như chim, gà, vịt,…Hạ thú: các gia súc trên mặt đất như: heo, bò, gà..Rồi các loài thủy tộc dưới nước như: tôm, cua, cá… trong dân gian mâm cơm như vậy được gọi là hào soạn
Trong cung đình mâm cỗ để tiến cúng ở miếu điện gọi là ngọc soạn, gồm các món ăn được chế biến từ các thành phần sơn hào hải vị quý hiếm trong cả nước, được chế biến công phu và trình bày kiểu cách tỉ mỉ.
Các món ăn như là: chim sâm cầm nhồi yến, hải sâm nấu độn, vi cá nấu rối, món nấu bong bóng cá đường, món nấu cửu khổng, gân nai, nem công, chả phượng,…
Món tráng miệng có các loại mứt như mứt nhân sâm, mứt bát bửu làm từ các loại mứt quý và thịt heo quay.Mứt cam sành còn nguyên trái, mứt các loại củ quả như bí đao, đu đủ, gừng,…gọt tỉa thành hình bát bửu hoặc các con vật trong tứ linh như long, lân, qui, phụng…rim khô.
Bánh ngọt thường là loại bánh khô, làm từ bột ngũ cốc đóng trong khuôn chữ nhật có in hình hoa mai, hoa đào, hoặc chữ phước, lộc , thọ…gói trong giấy ngũ sắc-như mang lời chúc tốt lành đầu năm.
Ngoài ra có loại bánh bắt hình các nhánh lộc, hoa mai, hoa đào, các loại trái cây như trái phật thủ, trái lựu, trái đào, nhân sâm…đem sấy khô được xếp thành hình tháp trên quả bồng sơn son thếp vàng, hoặc bằng sứ men lam để dâng cúng tổ tiên.
Bên cạnh những mâm hào soạn ở ngoài dân gian và ngọc soạn trong chốn cung đình, thì ở miền Trung vào những ngày đầu năm những gia đình theo Phật giáo có mâm cơm chay ngày mồng một gọi là mâm trai soạn để cúng tổ tiên.
Người Việt từ xa xưa đã có phong tục thờ cúng tổ tiên - đó là lòng thành kính và biết ơn của con cháu đốì vói cha mẹ, ông bà, cụ kị đã khuất. Người Việt có niềm tin rằng: chết chỉ là sự tiêu tan của thể xác, còn linh hồn vẫn còn và luôn trở về với gia đình. Chết chẳng qua chỉ là một cuộc trở về gặp ông bà, tổ tiên. Vong hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi họ trong công việc hàng ngày và giúp đỡ (phù hộ) họ trong những trường hợp cần thiết. Và người Việt còn tâm niệm: "trần sao âm vậy” - người sống cần gì, sống như thế nào thì người chết cũng như vậy. Bởi tin thế, nên việc lập bàn thờ để thờ cúng tổ tiên là điều không thể thiếu trong đời sống con người.
Ngôi nhà truyền thống của người Việt thường có ba hoặc năm gian, trong đó gian giữa được coi là chỗ trang trọng nhất, là trung tâm của ngôi nhà. Những việc quan trọng như: thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt... đều .diễn ra ở gian này. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn thấy trời đất lưu thông, âm dương hòa đồng để rồi cảm hoá lẽ đời. Bàn thờ là nơi thể hiện lòng thành kính của con cháu đối với tổ tiên nên bàn thờ thường được lập ở chính giữa gian giữa ngôi nhà, gia chủ không được kê giương ngủ đối diện vối bàn thờ. Tuỳ quy mô ngôi nhà và cũng tuỳ mức sông từng gia chủ mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau.
Những gia đình nghèo khó, với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ, thì bàn thờ có khi chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa, bên trong có bát hương nhỏ. Còn ỏ những gia đình thuộc loại "thường thưòng bậc trung" trở lên, thì bàn thờ cầu kỳ hơn. Có ngưòi còn dùng mặt tủ làm bàn thờ hoặc đóng cái giá gác làm lên tưòng. Cho dù bàn thờ có được thiết kế ra sao thì điều quan trọng nó luôn phải ỏ vị trí trang trọng, có độ cao thích hợp để khi cúng mọi ngưòi tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với tổ tiên.
Bàn thờ thiêng liêng nhưng vẫn gần gũi với cuộc sống sinh hoạt gia đình. Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay đặt bài vị được chạm khá cầu kỳ và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị có một hương án rất cao. Trên hương án này, tại chính giữa là một bát hương để cắm hương khi cúng lễ. Bát hương được chăm nom rất cẩn thận, chu đáo, và không được xê dịch. Đằng sau bát hương là một chiếc kỷ nhỏ, trên kỷ có ba chiếc đài có nắp và trên nắp có núm cầm. Ba đài này đựng ba chén rượu nhỏ lúc cúng lễ. Hàng ngày, đài được đậy nắp để tránh bụi bặm, chỉ mỏ ra trong những dịp lễ tết, ngày rằm, mồng một. Hai bên bát hương là hai cây đèn (hai ngọn đèn dầu) hoặc hai câý nến (ngày nay tại các đô thị, người ta thắp hai cây đèn điện). Gần hai bên bát hương, ngoài hai cây đèn có khi còn có hai con hạc chầu hai bên. ở mé ngoài hai cây đèn, gần hai đầu hương án là hai ống hương dùng để đựng hương.
Ngoài các đồ thờ trên, còn có một lọ lộc bình hoặc đôi song bình bày trên bàn thờ để cắm hoa trong những ngày giỗ chạp, ngày Tết. Tấm biển treo cao nằm ngang trên mé trước bàn thờ, trên có những chữ Hán thật lốn, nhiều nhà dùng chữ Nôm (thường là ba, bốn chữ) làm hoành phi. Hai bên cột hoặc hai bên tường nhà có treo những câu đối như:
"Tô công phụ đức thiên niên thịnh. Tử hiếu tôn hiên vạn đại vinh"
Hoặc:
"Phúc sinh phú quỷ gia đường thịnh. Lộc tiến vinh hoa tử tôn hưng"
Những chữ viết trên hoành phi, câu đối là tỏ lòng tôn kính của con cháu đốĩ với tổ tiên hoặc để ghi tụng công đức của tổ tiên. Những nhà khá giả, giàu có thì hoành phi, câu đốỉ được làm bằng gỗ sơn son thếp vàng hay sơn đen khảm xà cừ, còn nhà nghèo thì hoành phi thường là những tấm cót đóng nẹp, dán lên những tờ giấy đỏ có viết chữ lớn, đôi liễn hay những tờ giấy hồng có viết những câu đối.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, kiến trúc nhà ở nông thôn ít biến đổi, nên kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng, xong những ngôi nhà có kiến trúc hiện đại, nội thất hiện đại ở thành phố thì cách bố trí và các đồ thờ cũng có nhiều biến đổi sao cho phù hợp vối toàn cảnh ngôi nhà (chiếc hương án cầu kỳ, những bức hoành phi, câu đối không còn phù hợp với nội thất nhiều gia đình).
Bàn thờ là nơi thiêng liêng nên người ta không để các thứ lặt vặt, các vật dụng thường ngày trong sinh hoạt lên bàn thờ mà lúc nào cũng phải giữ bàn thờ và đồ thờ được sạch sẽ, uy nghiêm. Và bất cứ trong hoàn cảnh nào, dù túng thiếu đến mấy người ta cũng không đem cầm cố hay bán đồ thờ.
Trước mỗi biến cố xảy ra trong gia đình (chẳng hạn như: dựng vợ gả chồng cho con cháu; con cháu chuẩn bị đi thi; làm nhà mới; làm ăn; vợ sinh con; lập được công danh; tròng nhà có người đau ốm, có người chuẩn bị đi xa, làm việc lớn...), gia chủ đều khấn vái gia tiên, trưốc hết là để trình bày sự kiện, sau là để xin sự phù hộ.
Mỗi lần cúng tế, tùy theo các gia chủ nghèo, giàu và tùy những buổi lễ, đồ lễ có thể gồm:rượu, hoa quả, vàng hương, xôi chè, oản, chuối, cỗ mặn, có khi thêm đồ hàng mã... và nhất thiết không thể thiếu một chén nưóc tinh khiết (nước mưa) bởi nước mưa biểu hiện cho sự trong sạch tâm linh trưóc tổ tiên, thánh thần. Trong những trường hợp cần thiết, đồ lễ có thể chỉ cần một chén nước mưa một nén hương thắp lên bàn thờ là đủ. Bàn thờ khi làm lễ phải có thắp đèn hay thắp nến. Hương trên bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ (một hoặc ba nén...) và các nén hương phải được cắm ngay ngắn. Khi chân hương trong bát hương đã đầy, gia chủ thắp hương xin phép tổ tiên nhổ chân hương, đem hóa thành tro rồi đổ xuống ao hồ.
Bàn thờ tổ tiên là điểm hội tụ truyền thống tốt đẹp của gia đình, gợi lên một chiều sâu tâm linh "cây có gốc, nước có nguồn", biểu hiện nếp sống văn hóa biết vun trồng gốc để cây đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, và từ đó sẽ toả sáng giá trị văn hóa soi cho con cháu bước vào tương lai.
![]() |
![]() |
Nữ
Nữ Tị |
Ngọ |
Mùi |
Thân 1 hay 10 |
Thìn |
Rơi ô Tý, Ngọ, Mão, Dậu là Thiên ri Rơi ô Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là nhập mộ hết số Rơi ô Dần, Thân, Tị, Hợi là trùng tang |
Dậu |
|
Mão |
Tuất |
||
Dần 1 hay 10 |
Sửu |
Tý |
Hợi |
Nam
* Quy tắc tính tuổi âm lịch: Mỗi cung tương ứng với 1 năm tuổi, nam bắt đầu từ cung Dần, tính thuận chiều kim đồng hồ; nữ bắt đầu từ cung Thân, tính ngược chiều kim đồng hồ. Bắt đầu từ 1 tuổi… đến tuổi chết. Hoặc bắt đầu từ 10 tuổi ở ô Dần, 20 ở ô Mão, đếm tiếp 21, 22 hay 31, 32… 71, 72, hay 81, 82. Nếu tuổi chết mà rơi vào ô Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là người đó đã hết số trời, không sao. Nếu rơi vào ô Dần – Thân – Ti – Hơi là chết bị trùng tang phải làm phép trị trùng. Nếu rơi vào ô Tý – Ngọ – Mão – Dậu là người đó bị thiên ri, chưa hết số mà chết (với người chết trẻ) hoặc chết nhưng phải trả nợ những lỗi lầm khi sống.
Ví dụ: Người chết là nam, ở tuổi 72 (tuổi âm): Bắt đầu từ ô Dần 10 tuổi, Mão 20, Thìn 30, Tị 40, Ngọ 50, Mùi 60, Thân 70, từ Dậu ta tính tuổi lẻ 71 đến ô Tuất là 72. Vậy chết ở tuổi 72 rơi vào ô Tuất là nhập mộ, người này đã hết số nên không phạm gì, vì các ô Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là nhập mộ. Song nếu chết ở tuổi 73 rơi vào ô Hợi là chết trùng tang, vì các ô Dần – Thân – Tị – Hợi là chết trùng. Nếu chết ở tuổi 74 rơi vào ô Tý là thọ nhưng phải trả nợ những lỗi lầm khi sống. Nếu còn trẻ là chưa hết số, nhưng phải đoản kiếp vì nhiều lẽ.
Ví dụ 2: Người chết là nữ, ở tuổi 65 (tuổi âm): Tính 10 tuổi ở ô Thân, ngược chiều đồng hồ tức 20 ở ô Mùi, 30 ở ô Ngọ, 40 ở ô Tị, 50 ở ô Thìn, 60 ở ô Mão. Từ ô Dần tính tuổi lẻ 61, Sửu 62, Tý 63, Hợi 64, Tuất 65. Vậy người này được nhập mộ, nhưng nếu chết ở tuổi 67 thì bị trùng tang.
Năng lượng của năm Bính Thân mang đến những bước nhảy vọt trong cuộc sống. Năm nay là thởi điểm để tạo ra những sự thay đổi mới, thậm chí cả những kế hoạch tham vọng nhất cũng có thể thành công. Trong năm nay, mọi việc đều có thể khởi sắc, chỉ cần đừng cả tin và tin tưởng vào những người không xứng đáng. Con khỉ khôn ngoan sẽ dẫn lối cho bạn.
![]() |
Tính theo Ngũ hành, năm nay là Hỏa Hầu (con Khỉ lửa). Lửa đến là tài lộc đến. Lửa cháy mạnh thì bệnh tật, xui xẻo sẽ bị thiêu rụi. Năm nay, bạn chỉ cần lưu ý không hấp tấp, đặc biệt là những tháng mùa hạ. Trong Phật giáo có một câu chuyện về "ba con khỉ" răn dạy con người về tâm trí. Loài khỉ thường hay nhảy nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành này sang cành cây khác, lại hay phá phách, bắt chước. Tâm người ta cũng thế, không khi nào được yên, cứ lăng xăng, lộn xộn, suy nghĩ, nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác. Nghĩ quá nhiều khiến con người bị loạn, hành động rối bời. Hình ảnh ba con khỉ “bịt mắt để dùng tâm mà nhìn, bịt tai để dùng tâm mà nghe, bịt miệng để dùng tâm mà nói” giúp con người từng bước suy nghĩ kĩ và hành động.
Những em bé sinh ra trong năm nay sẽ mang mệnh Sơn Hạ Hỏa (Lửa chân núi). Mệnh Hỏa này cần có thêm Mộc (Mộc sinh Hỏa) để khiến lửa cháy to hơn, qua đó sẽ gặp nhiều thành công, may mắn.
Giờ may mắn
Trong năm con khỉ, nếu hành sự quan trọng thì nên tiến hành trong các khung giờ thuận lợi và may mắn.
- Giờ Tý: 23:00 giờ - 1 giờ
- Giờ Thìn: 7 giờ - 9 giờ
- Giờ Tỵ: 9 giờ - 11 giờ
- Giờ Thân: 15 giờ - 17 giờ
Theo Đông Đông Khampha.vn
Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình "Báng".
Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro!. ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).
Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới; có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yêú tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải chánh giờ nào...Đa số bà con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều khiêng đó không ảnh hưởng gì mâý tới công việc cũng như kinh tế...
Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Đã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiều thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu...Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?
Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan kế Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục"xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản thành phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương.
Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bảo: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao?
Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý. "Bắt mạch" đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.
Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngàyđêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn).
Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thườg lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc- ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.
Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ chí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ) thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.
Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ.
Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm hản 50%.
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể.
(Bác sĩ Vũ Định- Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)
Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.
Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rẳng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thội, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương".
Rốt cuộc vẫn cử hành lễ an táng.
Ngày 13 tháng giêng | Ngày 11 tháng hai |
Ngày 9 tháng ba | Ngày 7 tháng tư |
Ngày 5 tháng năm | Ngày 3 tháng 6 |
Ngày 8, 29 tháng bảy | Ngày 27 tháng tám |
Ngày 25 tháng chín | Ngày 23 tháng mười |
Ngày 21 tháng một | Ngày 19 tháng chạp |
Dần, thân gia tý; mão dậu dầnLại cần phải nhớ hai câu:
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân;
Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Đạo viễn kỷ thời thông đạtLúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo...
Lộ dao hà nhật hoàn trình.
Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kị ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.Trong bài có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp.
► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của 12 cung hoàng đạo được cập nhật mới nhất |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
![]() |
► Đổi ngày dương sang âm nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lịch ngày tốt |
![]() |
![]() |
![]() |
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo khoa học chuẩn xác |
Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm)
Đối với người cư sĩ tại gia nguyện giữ 5 giới căn bản, ca hát không là vấn đề. Đức Phật không ngăn cấm người cư sĩ ca hát, sử dụng âm nhạc. Điều quan trọng là gìn giữ tâm ý, không để lôi cuốn, loạn động bởi âm thanh qua bài ca, tiếng hát, nhạc điệu. Âm nhạc và ca hát – đối với hàng cư sĩ – nếu biết sử dụng khéo léo, đúng thời, đúng mục đích, là một phương tiện truyền thông tốt trong các sinh hoạt Phật giáo.
Tuy nhiên, nếu người cư sĩ nguyện giữ 8 giới (bát quan trai giới) – thông thường trong các khóa thiền hay những ngày bố tát tịnh tu – không ca hát là điều giới thứ 7 cần phải tuân giữ:
“Trong đêm nay và ngày nay, ta nguyện sống tránh xa không xem múa, hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang…” (Tăng chi bộ, chương Tám pháp).
Không ca hát là giới thứ 7 trong 10 giới căn bản của hàng sa-di, sa-di-ni:
– Ðệ tử thực hành giới tránh múa, hát, nhạc, kịch (Tiểu bộ, Tiểu tụng).
Riêng giới không múa hát, thổi kèn, đàn, xem múa hát, nghe đàn kèn tuy không ghi rõ trong giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa nhưng có ghi trong các điều liên quan đến tội Tác ác (dukkata) [*], thuộc Tiểu phẩm (Chương V), của Luật tạng. Duyên sự như sau (dựa theo bản Việt dịch của Tỳ-khưu Indacanda):
… Một lần nọ, tại thành Rājagaha (Vương xá) có lễ hội ở trên đỉnh núi. Các tỳ-khưu nhóm Lục sư (lục quần tỳ-khưu) đã đi xem lễ hội ở trên đỉnh núi. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Tại sao các sa-môn Thích tử lại đi xem vũ, ca, luôn cả tấu nhạc, giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỳ-khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm Lục sư ấy, rồi bảo các tỳ-khưu rằng:
– Này các tỳ-khưu, không nên đi xem vũ, ca, hoặc tấu nhạc; vị nào đi thì phạm tội dukkata (tác ác). [*]
[*] Theo Gs Rhys Davids (Vinaya Texts – bản dịch Anh ngữ Luật tạng), “dukkata” dịch là “wrong doing” (làm xấu, tác ác) là những lỗi nhẹ, chỉ cần tự sám hối là đủ.
Ngay cả đến việc ngâm nga các bài kệ, bài pháp với các âm điệu trầm bổng du dương cũng bị đức Phật khiển trách và ngăn cấm. Một lần nọ, các tỳ-khưu nhóm Lục sư ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
– Các sa-môn Thích tử này ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài giống y như chúng ta ca hát vậy.
Các tỳ-khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các tỳ-khưu ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, đến trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Ngài khiển trách nhóm Lục sư ấy, rồi bảo các tỳ-khưu rằng:
– Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài:
Bản thân vị ấy bị say đắm trong âm điệu,
Khiến cho những kẻ khác cũng bị ảnh hưởng say đắm trong âm điệu,
Hàng cư sĩ tại gia phàn nàn, chê cười vị ấy,
Trong khi ra sức thể hiện âm điệu, thiền định của vị ấy bị phân tán,
Điều cuối cùng là vị ấy khiến dân chúng thực hành theo đường lối sai trái.
Này các tỳ-khưu, đây là năm điều bất lợi khi ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài. Này các tỳ-khưu, không nên ngâm nga giáo pháp theo âm điệu ca hát với sự kéo dài; vị nào ngâm nga thì phạm tội dukkata (tác ác) – (Luật tạng, Tiểu phẩm).
Chợ Tết
Chợ Tết có không khí khác hẳn với những phiên chợ thường ngày trong năm. Mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết thường không phải để “có cái ăn” mà đó là thói quen, là dậy lên không khí ngày lễ hội. Chợ Tết được bố trí ở những bãi đất rộng, có thể chợ được thành lập ngay nơi chợ thường ngày vẫn diễn ra chuyện bán mua. Nhưng trong chợ Tết, gần như tất cả “món ngon vật lạ” đều được bày bán. Không khí Tết thấm đượm thật sự vào những ngày này bởi cảnh người mua hàng nặng trĩu giỏ.
Trong chợ Tết, người ta mới bày bán những thứ mà quanh năm không thấy bán. Ví dụ như lá dong, lá chuối để gói bánh chưng, củ kiệu, đu đủ làm dưa. Người ta bán những chiếc tháp làm bằng bánh in bao giấy màu, những chiếc bánh ly bằng bột nếp hoặc bánh ngũ sắc dùng để chưng lên bàn thờ. Chợ còn bán những thứ không ăn được, nhưng vô cùng cần thiết cho ngày Tết như phong bao lì xì, giấy dán và bây giờ phong trào viết chữ ngày Tết đang phục hồi trở lại. Nhưng cái thú mua sắm trong ngày Tết vẫn là chuyện đương nhiên, gần như không một nhà nào lại không “đi sắm Tết”.
Dẫu rằng cách ăn, cách chơi Tết trải qua bao năm đã thay đổi cho phù hợp với cuộc sống. Điều độc đáo ở chỗ là dù nhà giàu hay nghèo, nhu cầu mua sắm ngày Tết là điều không thế thiếu.
Cây nêu ngày Tết
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai… Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…
Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.
Câu đối tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ.
Hoa tết
Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ…; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thuỷ tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet…Còn cây quất thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn mởn, hoa trắng lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
Màu của ngày Tết
Màu chủ lực trong ngày Tết là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v… Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết “mồng” mới thôi!
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.
Lễ tổ tiên ngày tết
Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về sum họp dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước bàn thờ, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giếng nước, mảnh sân nhà. “Về quê ăn Tết” đã trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương.
Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…
Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng đáng với ”bề trên”. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn…
Dọn cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng gia truyền, dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp gạo nấu tinh khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, heo… Nấu nướng thơm ngon đặt lên cúng trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ gìn truyền thống ”dĩ nông vi bản” và đem sức lao động cần cù làm ra thành quả từ lòng đất quê hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn hóa truyền thống góp phần bảo tồn di sản tinh thần và đạo đức trong đời sống con người lưu truyền tự ngàn xưa.
Xuất hành và hái lộc ngày Tết : “Xuất hành” là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần… Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si… là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng , làng xóm những lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công…; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau “tai qua nạn khỏi” hay “của đi thay người” nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1 tuổi).
Lì xìTín ngưỡng Tết
Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điềm lành, việc lành trong ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất. Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy.
Việc mang ý nghĩa này có ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn… ta thường bắt gặp những gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người cho chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn là chữ Nho, lại có thêm cả chữ Ta nữa.
Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Chưa có ai bán chữ, chỉ có người mua giấy để xin chữ. Người cho chữ vẫn có lộc nhưng tinh tế hơn. Việc tưởng như không bình thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy đồ không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.
Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó đang trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người qua lại. Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Miếu Văn, khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn giao cắt với đường Trần Hưng Đạo… Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. .Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.
![]() |
![]() |
![]() |
Đặt tên cho con là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các cặp vợ chồng khi chào đón thiên thần bé bỏng của mình. Đối với những bé trai, bố mẹ nào cũng đặt nhiều kì vọng sau này con sẽ mạnh khỏe, giỏi giang, cuộc đời nhiều niềm vui và điều cực kì quan trọng là công danh, sự nghiệp tốt đẹp. Để chọn được cái tên hay cho bé trai, hỗ trợ đem đến nhiều thuận lợi, bình an, may mắn và thành đạt cho cuộc sống của bé sau này, mời các bậc cha mẹ tham khảo những tên đẹp, ý nghĩa cho bé trai năm 2016 Bính Thân dưới đây
Tên "Thiên Phú" là mong con được trời ban cho tài năng, tư chất đặc biệt.
Tên "Quang Khải" là những chàng trai thông minh, sáng láng, cuộc đời nhiều niềm vui
Tên "Duy Khôi" là chàng trai trí tuệ, thành đạt vẻ vang
Tên "Tuấn Kiệt" với mong ước con là người xuất chúng trong thiên hạ
Tên "Tuấn Khang" là người tài giỏi, xuất chúng, gặp nhiều phú quý, hưng vượng.
Tên "Tuấn Minh" với mong ước con sẽ là chàng trai thông minh, khôi ngô, tuấn tú.
Tên "Gia Khánh" là chàng trai niềm vui của gia đình.
Tên "Hoàng Bách" là mong muốn con luôn là cây bách mạnh mẽ, vững vàng, trường tồn.
Tên "Hữu Lộc" với mong muốn đường đời của con luôn suôn sẻ, nhiều tài lộc.
Tên "Thiện Tâm" là chàng trai luôn giữ tâm trong sạch, có tấm lòng nhân ái
Tên "Đại Dương" với hi vọng con sẽ là biển cả bao la, rộng lớn.
Tên "Anh Duy" là chàng trai thông minh, sáng láng.
Tên "Anh Hoàng" là chàng trai thông minh, luôn tỏa sáng.
Tên "Phúc Thịnh" với mong ước con sẽ có cuộc đời gặp nhiều phúc đức, hưng thịnh.
Tên "Xuân Trường" mang ý nghĩa mạnh mẽ, sôi nổi như mùa xuân, với sức sống trường tồn.
Tên "Nhật Minh" sẽ là mặt trời rạng rỡ, sáng láng.
Tên "Hạo Nhiên" là chàng trai luôn sống ngay thẳng, chính trực.
Tên "An Tường" với hi vọng con sẽ luôn sống bình an, vui sướng, gặp nhiều may mắn