Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sao Thiên Cơ trong tử vi - hình tượng Khương Tử Nha

Sao Thiên Cơ trong tử vi đẩu số lấy hình tượng từ Khương Tử Nha - nhà quân sự nổi tiếng và là công thần bậc nhất góp phần sáng lập nhà Tây Chu 800 năm lịch sử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khương Tử Nha vốn là đệ tử tài giỏi của Nguyên Thuỷ thiên tôn trên núi Côn Lôn, nhận mệnh thầy xuống núi giúp đỡ Tây Bá hầu Cơ Xương tiêu diệt Trụ sáng lập triều Tây Chu. Nhưng do thấy thời cơ chưa chín muồi, nên ông tạm thời đến ẩn cư bên khe Phàn Khê thuộc Tây Kỳ, chờ đợi cơ hội. Ông ngày ngày đọc kinh "Hoàng Đình", ngộ đạo tu chân.

Lúc nhàn rỗi thường ra ngồi buông câu bên bờ sông Vị Thuỷ. Một hôm, ông thầm nghĩ: "Thầy mệnh cho ta xuống núi, tính đến nay đã gần tám năm rồi, thực đúng với lời của thầy: Hai bốn năm đầu vận bĩ cực; Tám năm sau mới gặp thời cơ", trong lòng cảm thấy buồn rầu.

sao thiên cơ khương tử nha

Lúc đó, chợt có một người tiều phu tên là Vũ Cát đi đến, thấy Khương Tử Nha nhấc cần câu lên, đầu dây câu chỉ có một chiếc kim thẳng, lại không mắc mồi câu, thì cười mà nói với ông rằng: "Người có chí không kể tuổi tác, làm người mà không biết mưu tính, sống đến trăm tuổi cũng uổng phí. Ông câu cá mà không dùng lưỡi câu, cũng không mắc mồi có câu đến cả trăm năm cũng chẳng được nổi con cá nhép"

Khương Tử Nha bèn nói: "Già này tuy buông câu, nhưng chí không ở cá, chẳng qua là ngồi đây chờ lúc đường mây rộng mở, thoả chí bình sinh mà thôi!". Rồi ngâm rằng:

Ninh hướng trực trung thủ
Bất vi cẩm lân thiết
Bất hướng khúc trung cầu
Chỉ điếu vương dữ hầu

Nghĩa là

Thà rằng tìm bằng thẳng
Không phải là vì cá
Không muốn lấy bằng cong
Chỉ câu bặc hầu vương

Tây Bá hầu Cơ Xương sau khi từ Dữu Lý trở về Tây Kỳ, dốc lòng vào việc triều chính, khiến cho quốc thái dân an, nhân dân an cư lạc nghiệp, ngay cả dần từ thành Triều Ca tỵ nạn đến Tây Kỳ cũng được đối đãi tử tế, chăm lo chu đáo. Một hôm, Cơ Xương đang nghỉ ngơi dưới Linh Đài, qua canh ba, chợt mơ thấy một con hổ trắng có cánh, chồm lên người mình, bèn giật mình tỉnh dậy, sợ đến toát mồ hôi lạnh. Hôm sau, ông kể lại giấc mơ cho đại thần Tán Nghi Sinh (sao Tả Phụ) nghe, Tán Nghi Sinh bèn nói: "Chúc mừng hầu gia, đó chính là điềm tốt, mách bảo rằng hầu gia sắp gặp được nhân tài làm rường cột, để kiến lập triều Chu".

Cùng ngày hôm đó, Tán Nghi Sinh qua chợ, gặp được tiều phu Vũ Cát. Vũ Cát bèn thuật lại câu chuyện về ông già kỳ lạ bên sông Vị Thuỷ cho ông nghe. Tán Nghi Sinh suy ngẫm hồi lâu, ngờ rằng đây chính là nhân tài mà Tầy Bá hầu đang muốn tìm. Ngày hôm sau, Cơ Xương dẫn theo các quan tả hữu xuất du, nhân thể tìm kiếm người hiền, đi về hướng Phàn Khê. Dọc đường, họ gặp một người tiều phu đang quảy gánh củi, vừa đi vừa hát rằng:

Xuân thuỷ du du xuân thảo kỳ
Thế nhân bất thức cao hiền chí
Kim lân vị ngộ ẩn Phàn Khê
Chỉ tác khê biên lão điếu ky

Nghĩa là:

Nước xuân dìu dặt cỏ xuân lạ
Người đời không biết chí cả cao
Lân vàng chưa gặp ẩn Phàn Khê
Làm người câu cá ở bên khe

Cơ Xương nghe lời ca, đột nhiên tỉnh ngộ mà thốt rằng: "Cao nhân nhất định ở quanh đây". Thế nhưng tìm kiếm suốt ba ngày vẫn không thấy bóng dáng hiền sĩ. Đến ngày thứ tư Cơ Xương đem theo lễ vật, dẫn đầu bá quan, điều động đội binh mã mở đường, vua tôi rầm rộ tiến về Phàn Khê. Đến nơi, Cơ Xương một mình lặn lội vào trong rừng và bắt gặp Khương Tử Nha đang ngồi buông câu bên suối. Vốn dĩ Khương Tử Nha đã tiên đoán được rằng hôm nay Cơ Xương sẽ đến, nên làm như vô tình mà ca rằng:

Tây phong khởi hề bạch vân phi
Ngũ phượng minh hề chân chủ hiện
Tuế dĩ mộ hề tương yên vi
Thuỳ điếu ty hề ngã vi

Nghĩa là:

Gió tây nổi chừ mây trắng bay
Năm phượng hót chừ vua sáng hiện
Tuổi đã cao chừ làm chi đây?
Buông câu chừ hiểu ta ít thay!

Và vua sáng tôi hiền đã gặp nhau trong tình cảnh đó. Khương Tử Nha lúc này đã tám mươi tuổi, được phong làm Thừa tướng. Nhưng Chu Văn Vương qua đời khi sự nghiệp còn dang dở, trước lúc lâm chung, đã truyền ngôi lại cho Cơ Phát, và uỷ nhiệm Khương Tử Nha làm tướng phụ phò tá Chu Vũ Vương.

Tương truyền đài Phong Thần tại Tây Kỳ là do Khương Tử Nha vâng mệnh Nguyên Thuỷ thiên tôn kiến lập nên, mục đích chủ yếu là để phong thần cho những người xả thân vì nước hoặc tử chiến trong giai đoạn An Trụ sắp diệt vong và trong quá trình Vũ Vương phạt Trụ, nhằm an ủi người đã khuất, khiến vong hồn của họ có nơi nương tựa. Khi sự nghiệp diệt Trụ của Vũ Vương đã thành công, chính quyền mới đã được kiến lập, mọi người đều đã được thụ phong tại đài Phong Thần, chỉ còn Khương Tử Nha vẫn sống thọ, chưa đến lúc về trời. Để hoàn thành nhiệm vụ phong thần, ông đã tự phong mình là chủ nhân của sao Thiên Cơ.

Có thể coi Khương Tử Nha là một khai quốc công thần hàng đầu của triều Chu. Ông một đời coi việc hưng vong của quốc gia là trách nhiệm của mình, mà không màng đến chuyện sống chết của bản thân, dùng trí tuệ trác việt và mưu lược cao thâm của mình để hết lòng phò tá Vũ Vương hoàn thành đại nghiệp diệt Trụ. Ông còn sở hữu nhiều pháp thuật cao thâm (do là học trò của Nguyên Thuỷ thiên tôn) và sách lược cai trị, nên đã giúp ích rất nhiều cho chính quyền nhà Chu còn non trẻ. 

Tài văn thao vũ lược cùng sự nghiêp huy hoàng của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng rộng rãi. Bởi vậy không hề thái quá khi ông tự phong cho mình làm chủ quản sao Thien Cơ, chủ về "thiện lệnh" (gồm cả văn đức, vũ đức), trở thành nhân vật đại diện cho trí tuệ và "thiện thần" của cung huynh đệ trong Tử Vi.

Khương Tử Nha qua sử sách

Khương Tử Nha là một nhân vật truyền kỳ rất đỗi quen thuộc, là người thông minh xuất chúng, rất phù hợp với tính cách của sao Thiên Cơ cai quản "thiện lệnh" trong Tử Vi Đẩu số. Ông là người trù bị những mưu lược quan trọng, là thống soái quân sự tối cao trong sự nghiệp diệt Trụ của Chu Vũ Vương, là khai quốc công thần của triều Chu, đồng thời lầ ông tổ của nước Tề, người khai sáng nên văn hoá Tề. Khương Tử Nha còn là một nhà thao lược, nhà quân sự và chính trị gia kiệt xuất dể lại nhiều ảnh huởng sâu dậm trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. 

Khương Tử Nha vốn họ Lã, tên Vọng, tự Tử Nha, hiệu Phi Hùng, còn dược gọi là Lã Thượng. Thư tịch các đời đều xác nhận địa vị quan trọng của ông trong lịch sử. Các học phái Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Binh gia, Tung hoành gia đều truy nhận ông là nhân vật trong học phái của mình, nên ông được tôn là "Bách gia tông sư".


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Cơ trong tử vi - hình tượng Khương Tử Nha

Cách ghen tuông và các sao ghen trong tử vi

Tìm hiểu về cách ghen tuông trong khoa tử vi, thảo luận các sao ghen tuông, hãy cùng thảo luận xem tử vi của bạn có cách này không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách ghen tuông và các sao ghen trong tử vi

Cách ghen tuông và các sao ghen trong tử vi

Tìm hiểu về cách ghen tuông trong khoa tử vi, thảo luận các sao ghen tuông:

Cự Môn: chỉ sự nghi ngờ, thắc mắc, bất mãn đưa đến dò xét, giám sát, theo dõi cử chỉ, lời nói và hành động của người bị tình nghi. Nếu hãm địa, xu hướng quá khích sẽ rõ ràng hơn. Đối tượng bị bao vây chặt chẽ, bị theo bén gót, bị điều tra từng bước, bị hạch sách từng cử chỉ. 

 

Hóa Kỵ: ngụ ý nghi ngờ, thắc mắc như Cự Môn nhưng lại thêm tính đố kỵ, sợ người khác lấn lướt hoặc thay chân mình. Thường nông nổi và dục động, dễ bị xao xuyến vì những chỉ dấu nhỏ nhặt, nhưng cũng dễ nguôi, dễ quên để rồi dễ nhớ, dễ ghen trở lại. Hình thái điều tra của Hóa Kỵ là thẩm vấn, dò hỏi, gợi chuyện chặn đầu.

 

Quan Phù, Quan Phủ: chỉ sự cạnh tranh, thù vặt, thù dai thường bắt nguồn từ một chỉ dấu bị phản bội nào đó. Đến giai đoạn Quan Phù, sự hiềm khích xuất hiện, tác giả bắt đầu dấn thân đối phó với một tình địch đã được nhận dạng, với người chồng/vợ đã có bằng cớ hai lòng. 

 

Thiên Hình: là nết ghen sâu sắc của một người thông minh, biết dò xét, biết lý luận để khám phá những điểm lạ trong thái độ, cử chỉ, ngôn ngữ, nếp sống của người kia. Bắt mạch rất mau, hành động rất lẹ. Hình thái trả đũa của Thiên Hình thường có tính cách vũ phu, mạnh bạo. 

 

Thiên Cơ: cũng chỉ nết ghen của người có mưu trí, tinh quái, theo kiểu Hoạn Thư. Thông minh trong lúc điều tra, Cơ cũng khôn ngoan khi đối phó, thường là có kế hoạch tinh vi và ít khi thất bại. 

 

Liêm Trinh: chỉ sự khó tính, khắt khe trong tình yêu, trong cuộc sống gia đạo. Liêm ghen vì thấy vợ/chồng phạm vào các nguyên tắc căn bản của hạnh phúc, xáo trộn các tiêu chuẩn mà họ tự vạch ra để duy trì hạnh phúc. Liêm có thể bao dung những hành động bay bướm nhỏ nhặt, nhưng không tha thứ cái gì quá đáng phạm vào các nguyên tắc bất dịch của hạnh phúc. Do đó, hình thái trả đũa thường là gián đoạn khá dễ dàng như chấm dứt tình yêu chẳng hạn.

 

Tham Lang: nết ghen rất mạnh và thiếu suy nghĩ, có hình thái quá khích và vũ phu, bất chấp hậu quả. Nết ghen nông nổi và cuồng nhiệt, hành động theo bản năng nhất thời, nông cạn vì vậy sự đổ vỡ khó tránh. Càng hãm địa, tính chất cực đoan càng mạnh.

 

Phá Quân: ghen tuông có tính phá hoại, nhằm trả đũa gấp rút bằng hành động mau lẹ và mạnh mẽ, đôi khi tàn nhẫn, tương tự như Tham Lang. 

 

Thiên Tướng, Tướng Quân: ghen tuông rất dữ dội, vì không nhẫn nhịn được trước sự bất bình, phải ra tay can thiệp ngay. Cả hai cùng chỉ sự nóng tính như lửa, nhất là Tướng Quân, vừa nóng lại vừa liều, làm càn, làm bạo, dám đi đến những hành động quyết liệt ăn thua đủ, nhất là khi bị khiêu khích. Tự ái của hai sao này rất lớn.

 

Phục Binh, Thiên Không: trong việc đối phó, chỉ sự rắp tâm, có chuẩn bị kỹ lưỡng để ra tay bất ngờ, dùng nhiều thủ đoạn trá ngụy, gian hiểm như tổ chức theo dõi, bắt ghen tại trận chứ không chịu cản trở suông. Cách ghen đó chạm tự ái nạn nhân rất nặng nề, đi đến đổ vỡ dễ dàng. Nếu bị Tuần, Triệt có thể bắt ghen hụt.

 

Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân: có ý nghĩa cô đơn, cô độc, ít giao thiệp, tình cảm hướng nội và bị dồn ép, kén chọn bạn trăm năm vì thế không có lợi cho hôn nhân. Khi có gia đình, ba sao này có nghĩa ghen tuông một cách ích kỷ, nhỏ mọn, hay gắt gỏng vì những chuyện vặt, thường là thúc thủ đau khổ ngầm, không giãi bày được với ai. Sự dồn ép dày vò đương sự có khi đưa đến một phản ứng rất bất ngờ khó lường, tự mình hành động tay đôi với tình địch hoặc tự mình rút lui âm thầm.

 

Hóa Quyền: chỉ người tự ái lớn, thích chỉ huy, không chấp nhận lép vế trong địa vị độc tôn của mình. Hóa Quyền ghen phần lớn do tự ái nhiều hơn là do tình yêu. Chính vì vậy, phản ứng của Quyền khá mạnh bạo và kiên trì cho đến khi khuất phục được đối thủ mới thôi. Nếu xoa dịu và gãi trúng chỗ tự phụ của Quyền, nết ghen tuông sẽ giảm đi nhiều, khả dĩ chấp nhận tính bay bướm của bạn trăm năm, miễn là đương số vẫn giữ ưu thế đối với người bạn trăm năm và với tình địch. Phái nam mà có Quyền, bao giờ cũng phải dứt khoát, không chấp nhận thành phần thứ ba trong cuộc sống lứa đôi. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách ghen tuông và các sao ghen trong tử vi

Sao Thiên Tướng

Bài viết sưu tầm về sao Thiên Tướng. Mời các bạn cùng đọc và tham khảo.
Sao Thiên Tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên tướng - Lục Bân Triệu

Sao Thiên tướng trong thuyết ngũ hành thuộc dương thủy, ở trên trời thuộc chòm sao Nam Đẩu, hóa làm ấn tinh (sao ấn). Bản thân ấn có thể thiện mà cũng có thể ác. Thiện hay Ác là do người cầm ấn đi theo về bên nào. Ví như cái ấn trên pháp đường, có thể khiến cho người ta thăng quan phát tài, cốt nhục đoàn tụ, mà cũng có thể khiến cho người ta phải chịu hình phạt, gia phá nhà tan. Thiện ác khác nhau là do người cầm ấn dùng nó mà phân biệt.

Nói về sao Thiên tướng, ý nghĩa của sao Thiên tướng đúng là ý tứ "tương trợ", là địa vị tể tướng hoặc quân sư. Nghĩa vụ duy nhất của một vị tể tướng hoặc quân sư, là trung thành với chủ nhân, vì chủ nhân của mình mà tham mưu, lấy sự lợi hại của chủ nhân để tính toán mưu sự. Cho nên, chủ nhân thiện thì giúp cho chủ nhân làm thiện, chủ nhân ác thì giúp cho chủ nhân làm ác.

Do đó, tác phong của sao Thiên tướng là gặp tốt đẹp thì càng thêm tốt đẹp, gặp hung ác thì càng hung ác. Nó ở trong mệnh bàn 12 cung, chúng ta sẽ vô phương chỉ định nó, rốt cuộc, là sao cát tường hay là sao ác sát hay là sao hung. Nó là thiện hay là ác, đó là tùy theo các tinh diệu khác mà nó gặp, hoặc vây chiếu, và hoàn cảnh toàn thể mà thay đổi.

Cho nên, sao Thiên tướng đến Mệnh cung hay Thân cung, tả hữu có sao Hóa Lộc và sao Thiên lương giáp cung phù trì, sẽ là cách "Tài ấm giáp ấn", chủ về phú quý vinh hoa, hưởng thụ vui vẻ. Sao Thiên tướng hãm ở mệnh cung hoặc Thân cung, có sao Hóa Kị và sao Kình dương giáp cung, gọi là cách "Hình kị giáp ấn", chủ về người gặp phải tai họa lao ngục, kèm có sự tình "hình khắc thương tổn" phát sinh.

1. Thiên tướng ở cung Mệnh viên

Sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người sắc mặt xanh trắng hoặc hơi kèm sắc vàng. Khuôn mặt hình vuông hoặc kèm hơi tròn. Dáng vóc người trung bình, cũng có người béo mập.

Tính tình khoan hậu, thái độ rộng rãi, động tác ổn trọng, có lòng chính nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình có thể rút đao tương trợ. Sùng thượng tín ngưỡng tôn giáo, thích tu hành, tình cảm dễ xung động. Đối với bất cứ ai gặp cảnh ngộ khó khăn, hay không lành, đều sinh lòng cảm thông.Thiên tướng rất ưa các cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Tam thai, Bát tọa, Thiên quý, Ân quang, Thiên đức, Giải thần, Thiên vu hội chiếu. Nếu lại gặp tam cát hóa Quyền Lộc Khoa, và Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về có địa vị cực phẩm, làm tướng lĩnh, cột trụ quốc gia, lãnh đạo trong xã hội, vừa phú vừa quý. Nếu sao Thiên tướng đồng độ với sao Tử vi và Lộc tồn, thì chủ về người có thiên kiến, hoặc có chủ kiến cực mạnh, thích tranh quyền, đồng thời cũng dễ bị tiểu nhân khuynh đảo. Có các sao Vũ khúc, Liêm trinh và Tham lang, Thiên tài, Phượng các hội chiếu, chủ về người thông minh hiếu học, nhiều tài nghệ. Nếu lại có Kình dương, Đà la hội chiếu, ở hãm địa, thì chủ về người lấy kỹ thuật, hay nghệ thuật làm sinh kế. Có tam cát hóa Khoa Quyền Lộc và Lộc tồn thì lấy kỹ năng chuyên môn hay nghệ thuật để khởi nghiệp. Nếu có các sát tinh ác diệu Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình, Thiên nguyệt, Âm sát, Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về hình khắc hoặc bản thân tàn tật. Nếu có các tinh diệu Vũ khúc, Phá quân, Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Đà la, Thiên mã, Hóa Lộc vậy chiếu, chủ về người lúc thành lúc bại, chợt lên chợt xuống. Thành công thì tăng thêm nhà cửa ruộng đất, hiếm có trên đời. Thất bại thì tai họa lao ngục, tiểu nhân bao quanh, hình thương khắc hại. Đây là cách "trong cát có hung", "trong hung có cát", chợt tốt chợt xấu thay đổi bất thường.

Người nữ có sao Thiên tướng đến cung Mệnh, chủ về người thông minh, thận trọng, có chí khí trượng phu. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên mã hội chiếu, là mệnh phu nhân, vượng phu ích tử, phú quý song toàn. Nếu có Văn xương, Văn khúc, Hóa Kị, Kình dương hội chiếu, chủ về cô độc, nên xuất gia tu hành, hoặc làm kế thất, vợ lẻ, ở chung mà không cử hành nghi thức hôn lễ, nếu không sẽ hình khắc phân ly.

Sao Thiên tướng đến lưu niên, đại hạn, tam phương tứ chính có các Cát tinh Tả phụ, Hữu bật, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, và Lộc tồn, Thiên phủ hội chiếu, chủ về tài lộc dồi dào, quyền cao chức trọng, kết hôn sinh con trai, danh lợi đều có. Nếu có sao Phá quân, Vũ khúc, hoặc Thất sát, Kình dương, Đà la hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại cãi vã", kiện tụng, tiểu nhân ám hại, khuynh gia phá sản, nếu gặp thêm các Sát tinh Thiên hình, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Thiên hư hội chiếu, chủ về hình khắc trùng trùng, hơn nữa bản thân có lúc còn cảm nhận thấy trống rỗng, có ý đồ tự sát. Không có tinh diệu Cát tường hóa giải sẽ chủ về tai họa tử vong.

2. Thiên tướng ở cung Huynh đệ

Sao Thiên tướng đến cung Huynh đệ, thùa vượng nhập miếu, có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về có năm anh chị em trở lên. Có sao Tử vi đồng độ chủ về có ba anh chị em trở lên, anh em ưa tỏ ra cao cường. Có Vũ khúc hoặc Liêm trinh đồng độ, chủ về có hai anh chị em, chủ về ý kiến không hợp nhau. Có Vũ khúc, Phá quân vây chiếu, thêm Tả phụ, Hữu bật, thì anh em tuy nhiều, song có hình khắc thương tổn, hoặc anh chị em khác mẹ, và có em nhỏ cách xa nhau nhiều tuổi. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, lục thân không nhờ cậy được. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, cũng chủ về cô độc. Có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và Lộc tồn đồng độ, chủ về anh em phát đạt, có địa vị, có tiền tài.

3. Thiên tướng ở cung Thê (Phu)

Sao Thiên tướng đến cung Thê, chủ về được vợ thông minh hiền thục, giỏi chăm lo gia đình, dụng mạo mĩ lệ. Nên lấy vợ lớn tuổi, hoặc thân càng thêm thân. Có Tử vi cùng đến, chủ về vợ có chí cao, có kế hoạch, nên chậm lấy vợ. Có Vũ khúc đồng độ, chủ về có tai nạn thương tổn, hoặc khẩu qua lời lại, ý kiến bất hợp. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về hình khắc phân ly, hoặc trước khi kết hôn đã từng giải trừ hôn ước với người khác, hoặc gặp trở ngại rất nhiều trước khi kết hôn, dây dưa kéo dài mới khỏi hình khắc, nếu không sẽ chủ về hai ba vợ. Có Liêm trinh đồng độ, không hình khắc, thêm Hóa Lộc hoặc Lộc tồn đồng độ, là có kết quả hôn nhân mĩ mãn, hoặc nhờ vợ mà được tiền tài. Có Hóa Quyền, Hóa Khoa, Văn xương, Văn khúc, Thiên tài hội chiếu, chủ về "lời qua tiếng lại", bất hòa, hoặc nhiều bệnh nhiều lo. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về hình khắc phân ly cô độc.

4. Thiên tướng ở cung Tử nữ

Sao Thiên tướng đến cung Tử nữ, được tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, và sao Thiên phủ hội chiếu, chủ về có năm con trở lên. Có Tử vi đồng độ, chủ về con chí cao và tính khí quật cường, ba con trở lên. Có Liêm trinh đồng độ thì hai con. Có Vũ khúc đồng độ cũng hai con. Khi Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về hình khắc, nên chậm có con thì tốt hơn. Con trưởng hoặc thai đầu bị sinh non, hỏng thai hoặc tổn thương, nên có con gái trước con trai sau, hoặc cho làm con thừa tự của gia đình khác trước, nếu không đều là vợ kế, vợ lẻ sinh con. Có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp, Thiên hình hội chiếu, chủ về hình khắc, nếu đồng thời có Tả phụ, Hữu bật hội chiếu, chủ về hai ba thai trước có tổn thương, nên để vợ kế, vợ lẻ sinh con, nhưng thai đầu tiên của vợ kế, vợ lẻ vẫn xảy ra tình trạng bị tổn thương hoặc sinh non.

5. Thiên tướng ở cung Tài bạch

Sao Thiên tướng đến cung Tài bạch, thừa vượng hoặc nhập miếu, gặp sao Thiên phủ, có Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội chiếu, chủ về nguồn tiền tài dư dật, giữ gìn được. Đồng độ với sao Liêm trinh, theo thương nghiệp thì đúng với sở trường, tất nhiên có thể phát. Có Tử vi đồng độ, chủ về có tiền của bất ngờ, nhờ vậy mà đột nhiên giầu có. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về nhờ kỹ năng chuyên môn, hoặc nghệ thuật mà được tài lợi. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về tiền tài lúc được lúc mất, lúc thành lúc bại, hoặc phá gia bại sản của tổ tiên trước rồi sau mới có thành tựu. Gặp thêm Địa không, Địa kiếp, Đại hao, chủ về tài đến tài đi, hoặc giờ Dần ăn giờ Mão đong, ít có dành dụm. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về vì tiền tài mà gây tranh chấp, khuynh gia phá sản, hoặc dẫn đến tai họa lao ngục. Không có cát hóa chủ về nguy hiểm đến sinh mạng.

6. Thiên tướng ở cung Tật bệnh

Sao Thiên tướng đến cung Tật bệnh, có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về phá tướng hoặc trên mặt có sẹo. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về tức ngực khí trướng, da bị nhọt do thấp khí. Đồng độ với Liêm trinh, chủ về bị bệnh tiểu đường, bàng quang, hoặc sỏi thận. Nếu lại có Hồng loan, Hàm trì hội chiếu, chủ về bị bệnh giang mai, hoặc thủ dâm, di tinh. Cùng gặp các sao Địa không, Địa kiếp, Thiên hư, chủ về thân thể hư nhược suy tổn, con cái bị bệnh về kinh Tỳ. Có Kình dương, Đà la, Thiên hình hội chiếu, chủ về các chứng phong thấp, đau xương, hoặc phải động tới phẫu thuật, và chủ về tim loạn nhịp hoặc Tâm tạng suy ngược, chân tay vô lực cử động bất tiện. Có Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên nguyệt hội chiếu, chủ về cảm mạo nôn mửa, hoặc chứng thấp nhọt ngoài da.

7. Thiên tướng ở cung Thiên di

Sao Thiên tướng đến cung Thiên di, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc, và các sao Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, chủ về có quý nhân dìu dắt, có cơ hội đặc biệt, được nhiều người ủng hộ, địa vị đã cao mà còn có thể đại phát, chủ về được người ngoại quốc xem trọng. Đồng độ cung sao Tử vi, chủ về địa vị cao, được người kinh trọng ngưỡng mộ. Đồng độ cùng Vũ khúc, chủ về bên ngoài được tiền tài bất ngờ, hoặc danh lợi đều có. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về tính tình cương nghị, ra ngoài có thành có bại, thiếu duyên với người. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao, Kiếp sát hội chiếu, chủ về ra ngoài bị phá hao, một đời nhiều sóng gió, trắc trở. Có các sao Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Thiên hình hội chiếu, chủ về ra ngoài cô độc, ít được người giúp, hoặc dễ gặp tai họa, hay bị tiểu nhân hãm hại.

8. Thiên tướng ở cung Giao hữu

Sao Thiên tướng đến cung Giao hữu, hội chiếu tam cát hóa Khoa Quyền Lộc, hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, chủ về giao du rộng, hơn nữa còn có nhiều trợ lực, hoặc nhờ có bạn bè mà nên nhà nên cửa, và được thủ hạ trung thành. Đồng độ với Tử vi, chủ về được loại bạn đáng nể hoặc có lòng chính nghĩa. Đồng độ với Vũ khúc, chủ về quan hệ với loại người bất nghĩa mà nhiều tranh giành. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về chơi bời quan hệ với nhóm người làm ơn mắc oán, hoặc vì bạn bè mà phá tài. Có Địa không, Địa kiếp hội chiếu, chủ về bạn bè "có cũng như không", nhiều phá hao, hoặc bị chịu lỗi, bị mang tiếng, bị vạ lây thay cho bạn. Có Kình Đà Hỏa Linh và Thiên hình hội chiếu, chủ về giao du phần nhiều toàn ăn hại, nhiều tranh giành bất hòa, hoặc bị thủ hạ trộm cắp hoặc hãm hại.

9. Thiên tướng ở cung Sự nghiệp

Sao Thiên tướng đến cung Sự nghiệp, thừa vượng nhập miếu, có tam cát hóa Quyền, Lộc, Khoa, và Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, chủ về là người nhân vật quan trọng của quốc gia, người nổi tiếng trong xã hội, thương gia cự phách trong giới kinh doanh, đã phú còn quý, vừa văn vừa võ. Tam phương tứ chính mà không có Sát diệu, thì đều là người mưu tính phát triển ở trên vũ đài chính trị. Đồng độ với sao Tử vi, chủ về người tiến thân trong chính giới. Đồng độ cùng sao Vũ khúc, chủ về lập công ở biên cương. Đồng độ cùng sao Liêm trinh, chủ về người tham dự việc binh, rong ruổi trên chiến trường. Có Vũ khúc và Phá quân vậy chiếu, chủ về có thành có bại, lúc được lúc mất. Có Không Kiếp hội chiếu, thì nên khởi nghiệp từ kỹ năng nghệ thuật, hoặc sáng lập công xưởng sản xuất, nếu không sẽ chủ về thất bại phá hao, đầu cơ thì khuynh gia bại sản. Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về sự nghiệp nhiều tranh chấp rắc rối, nhiều thay đổi, trong thuận lợi sẽ gặp nhiều nghịch cảnh, hơn nữa còn chủ về quan tai thị phi. Trong chính giới, hay giới quân sự, có thể đột nhiên bị bãi chức, cách chức, ở trong thương giới đột nhiên bị tình huống phá sản, hay bị kiện tụng điên đảo.

10. Thiên tướng ở cung Điền trạch

Sao Thiên tướng đến cung Điền trạch, có tam cát hóa Khoa, Quyền, Lộc hội chiếu, hoặc có Lộc tồn đồng độ, chủ về sản nghiệp to lớn. Đồng độ cùng sao Tử vi, chủ về trung niên tăng thêm ruộng đất, nhà cửa. Có Địa không, Địa kiếp, Đại hao hội chiếu, chủ về gia tài bị phá hao. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về gia sản của Tổ tiên dần dần bị lụn bại. Có sao Hóa Kị chủ về gia trạch không yên ổn, nhiều bệnh tật, nhiều tai họa, nhiều "lời qua tiếng lại". Có Kình Đà Hỏa Linh hội chiếu, chủ về gia nghiệp phá tán (gia rồi đến nghiệp, nên nói gia nghiệp), hoặc vì sản nghiệp gây ra tai họa, tranh chấp, thị phi, kiện tụng.

11. Thiên tướng ở cung Phúc đức

Sao Thiên tướng đến cung Phúc đức, luôn có sao Thiên phủ hội chiếu, và gặp Hóa Lộc hoặc Lộc tồn, Tả phụ, Hữu bật ở tam phương tứ chính, chủ về hưởng thụ hạnh phúc, phú quý trường thọ. Gặp sao Hóa Kị chủ về nhiều tư lự, tinh thần bất an. Có Vũ khúc và Phá quân vây chiếu, chủ về bôn ba, tinh thần mệt mỏi. Có Không Kiếp đồng độ, chủ về nhiều ảo tưởng mà ít thực hiện, phúc bạc. Có tứ Sát hội chiếu thì vô phúc, không ổn định, nhiều việc không thể đạt tới mục đích, nhiều rắc rối.

12. Thiên tướng ở cung Phụ mẫu

Sao Thiên tướng đến cung Phụ mẫu, thừa vượng hoặc nhập miếu, chủ về không có hình khắc. Có Vũ khúc đồng độ chủ về có hình khắc. Có sao Hóa Kị thì nhiều bệnh tật, nhiều tai họa. Có Liêm trinh đồng độ cũng chủ về có hình khắc. Đồng độ với tứ Sát hoặc tứ Sát hội chiếu, chủ về thủa nhỏ bị hình khắc. Có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Giải thần, Thiên đức, Thiên vu thì không có hình khắc.

Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Tướng

SÁT TINH TRẠCH VẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP HÓA GIẢI SÁT TINH TRẠCH VẬN

Sát tinh trạch vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bên cạnh những sát khí về hình thể loan đầu tồn tại những dạng sát tinh thuộc dạng lý khí. Những sát tinh này chúng ta không thể nhìn thấy được, cầm nắm được, hay cảm nhận được. Như những luồng sóng điện từ, sóng truyền thanh, truyền hình, sóng viễn thông hay từ phổ của Trái đất, trường khí mà sát tinh lý khí này tạo ra gây những ảnh hưởng vô cùng bất lợi đối với cư nhân trong dương trạch.

Mặc dù không cầm nắm, đo đếm, nhìn thấy được nhưng trên cơ sở tính toán nghiên cứu về phong thủy và thực nghiệm nhiều lần trong thực tiễn cuộc sống, con người ta đã rút ra những quy luật về nó.

So với sát khí về hình thể thì sát tinh lý khí đơn giản hơn, chủ yếu có mấy dạng, nhưng uy lực gây họa của nó không hề nhẹ, nhất là khi nó cộng hưởng với sát khí hình thể càng tạo nên nhiều nguy cơ cho người ở trong căn nhà.

Thái tuế

Trong Thái dương hệ của chúng ta có một hành tinh là Mộc tinh. Mộc tinh là hành tinh thứ năm trong hệ Mặt trời tính từ Mặt trời trở ra, theo thuyết Nhật tâm của Bruno, cũng là một quan điểm khoa học hoàn toàn đúng đắn về vũ trụ, thiên văn.

Người xưa, đã quan sát kỹ lưỡng chu kỳ chuyển động của Mộc tinh, và ghi chép lại thành hệ thống những kiến thức khoa học thiên văn. Ta có thể dễ dàng tìm thấy các thông tin về hành tinh này trong Sử ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán hoặc trước đó nữa. Mộc tinh chuyển động quanh Trái đất theo một quỹ đạo có chu kỹ là 12 năm, hệ quả của nó tạo ra từ quá trình này là trường khí của nó tạo ra lực hút, sự tương tác mạnh yếu khác nhau tại các phương vị trên Trái đất, và quá trình tương tác này sẽ có những yếu tố may rủi họa phúc khác nhau. Người ta đã biểu diễn chu kỳ này bằng hệ thống 12 địa chi, 12 trực…Mộc tinh còn được gọi một cái tên rất quen thuộc đó là Thái tuế.

Các môn khoa học dự đoán như Tử vi đẩu số, Tứ trụ Tử bình đều đặt vấn đề nhập hạn Thái tuế rất quan trọng. Nhà đẩu số Thiệu Vĩ Hoa có nói: “Hợp Thái tuế thì may mắn cát lợi, xung Thái tuế tất có điều hung họa”. Trong Tử vi người ta hay có câu: “Gặp Thái tuế không có hỷ cũng có họa”.

Đối với Phong thủy, gặp Thái tuế thường mang lại những điều bất lợi, có thể gặp những điều xấu bất ngời, họa vô đơn chí, hao tiền tốn của, gia đạo lục đục, tai nạn bệnh tật… Người ta có câu: “Động thổ trên đầu Thái tuế”. Nghĩa là tại các phương vị khác nhau, mỗi khi Thái tuế nắm lệnh tại phương vị đó sẽ gặp nhiều bất lợi, ai làm nhà, xây dựng…cũng đều hết sức kiêng dè. Câu nói trên còn dùng để chỉ những người thiếu hiểu biết, vô minh, liều lĩnh, hồ đồ. Thái tuế được tính như sau.

Năm Tý – Thái tuế ở Chính Bắc

Năm Sửu, Dần – Thái tuế ở Đông Bắc

Năm Mão – Thái tuế ở Chính Đông

Năm Thìn, Tị - Thái tuế ở Đông Nam

Năm Ngọ - Thái tuế ở Chính Nam

Năm Mùi, Thân – Thái tuế ở Tây Nam

Năm Dậu – Thái tuế ở Chính Tây

Năm Tuất, Hợi – Thái tuế ở Tây Bắc.

Tại các phương vị Thái tuế, người ta kiêng kỵ động thổ, xây dựng. Nếu như căn nhà mà đã xây dựng trước đó, người ta cũng hạn chế hoạt động, để máy móc rung chuyển tại các phương vị đó. Thái tuế được coi là một là một một sát tinh có uy lực mạnh nhất, đứng đầu sát tinh về lý khí.

Đối với Thái tuế không có cách chế giải, người ta chỉ thường né tránh nó, tránh động thổ, khởi công, xây dựng, đào bới, san lấp, tu sửa ở các phương vị này.

                                    va phương pháp hóa giải tại phongthuyso.vn

Ngũ hoàng

Chòm sao Đại Hùng trong vũ trụ còn gọi là chòm sao Bắc Đẩu, chòm sao này có dạng hình cái gáo, được hợp thành bởi 9 vì sao trong đó có các sao Thiên Toàn, Thiên Khu, Thiên Lộc, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Dao Quang, Tả phù, Hữu Bật. Đó chính là hệ thống Cửu tinh trong Phong thủy Huyền không…Chòm sao này có chu kỳ chuyển động và tạo ra những trường khí và lực hấp dẫn khác nhau, con người sống trên Trái đất và đương nhiên cũng chịu những lực tác động vô hình đó

Sao Ngọc Hành còn gọi là sao Ngũ Hoàng, Liêm Trinh, là một trong những đại sát tinh của trạch vận, sao này mang hành Thổ, khi thất lệnh sẽ gây ra nhiều tai họa bệnh tật, người ta gọi là Ngũ hoàng sát, Liêm trinh sát, Mậu kỷ sát, Chính quan sát. Nếu Ngũ hoàng trùng lặp với Thái tuế thì sát khí lại càng mạnh

Khi Ngũ hoàng nhập trung cung là Hoàng cực đóng tại chính vị, ngôi vị tôn quý. Khi bay ra 8 cung còn lại thì sẽ tạo ra những ảnh hưởng hung họa. Cụ thể:

Phương Khảm: Phương vị chính Bắc, chủ về bệnh tiết niệu, tai, thận, bệnh đường huyết, phụ nữ gặp tai nạn thai sản

Phương Cấn: Phương vị Đông Bắc, chủ về bệnh đường ruột, dạ dày, chân trái bị thương, bệnh khớp, trẻ nhỏ suy nhược, đau đầu, chóng mặt

Phương Chấn: Phương vị chính Đông, đau đầu, đau lưng, tai nạn xe cộ, vì tiền mang họa

Phương Tốn: Phương vị Đông Nam, chủ về đốt sống cổ, bệnh thần kinh, bệnh ngoài da, con cái học kém

Phương Ly: Phương vị chính Nam, chủ về bệnh mắt, tim, não, huyết áp không ổn, chóng mặt, tai nạn đổ máu, cãi cọ, kiện tụng

Phương Khôn: Phương vị Tây Nam, chủ về người mẹ mắc bệnh tỳ vị, đau vai phải, tranh chấp ruộng đất, tai nạn đổ máu

Phương Đoài: Phương vị chính Tây, chủ về chịu hình phạt, mang tiếng xấu, đau thắt lưng trái, bị kim loại tổn thương, ngộ độc thực phẩm

Phương Càn: Phương vị Tây Bắc chủ về người cha mắc bệnh, đau đầu, kiện cáo, đau chân phải, đau tim, bệnh não

Trung cung: chủ bệnh tim, gia đình bất hòa, lở loét, gặp tai nạn bỏ mạng

Ngũ hoàng sát có một đặc tính là thích tĩnh, nên tại những phương vị này nên hạn chế các hoạt động, tránh đặt các máy móc rung động lớn. Nếu như căn nhà đã xây mà Ngũ hoàng tới hướng, có thể đặt các vật khí phong thủy bằng kim loại để hóa giải sát khí này vì Thổ sinh Kim, nên sát khí của hung tinh này bị chiết giảm và hóa giải.

Ngoài ra, nếu động thổ, khởi công tại phương vị có Ngũ hoàng lưu niên, Ngũ hoàng tháng, ngày có thể dùng những ngày Giáp, Ất thuộc Mộc, hoặc Canh, Tân thuộc Kim để hóa giải, đó là về thiên can, ngoài ra có thể sử dụng các ngày có địa chi Dần – Mão – Thìn (Tam hội Mộc cục), Hợi – Mão – Mùi (Tam hợp Mộc cục), Thân – Dậu – Tuất (Tam hội Kim cục), Tỵ - Dậu – Sửu (Tam hợp Kim cục) để hóa giải sát khí

                                  va phương pháp hóa giải tại phongthuyso.vn

Như hình vẽ trên năm 2006 Bính Tuất thì Ngũ hoàng lưu niên bay đến phương vị chính Tây, nếu khởi công tại đó thì sẽ phạm Ngũ hoàng

Tam sát

Tam sát chia ra làm hai loại bao gồm

  • Tam sát về thời gian: Tam hợp địa chi Thân – Tý – Thìn (Thủy cục)

Dần – Ngọ - Tuất  (Hỏa cục)

Tị - Dậu – Sửu (Kim cục)

Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục)

Nếu chọn ngày xây dựng hay khởi công động thổ và những năm, tháng, ngày, giờ tam hội cục đối nghịch là sẽ phạm tam sát về thời gian.

Ví dụ cụ thể: Năm Thân thuộc tam hợp Thân – Tý – Thìn (Thủy cục) mà lại tiến hành khởi công vào các tháng, hoặc ngày, hoặc giờ Tị - Ngọ - Mùi (Tam hội cục Hỏa), Thủy, Hỏa đối khắc nên phạm tam sát về thời gian. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy.

  • Tam sát về phương vị: Dựa vào bốn tam hợp cục trên, nếu động thổ, khởi công tại các phương vị tạo ra tam hội cục đối nghịch, như vậy là phạm tam sát về phương vị.

Ví dụ: Năm Mũi, thuộc tam hợp Hợi – Mão – Mùi (Mộc cục) mà động thổ tại phương vị chính Tây có các tam hội cục Thân – Dậu – Tuất (Kim cục) nên trường hợp này gọi là phạm tam sát về phương vị.

Để tránh tam sát về phương vị, kinh nghiệm dân gian ta thường nói rằng, năm dương bào gồm có các địa chi dương Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thì đại lợi theo hai hướng Tây – Đông

Các năm âm, gồm các địa chi âm Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thì đại lợi ở các phương vị Nam – Bắc.

Tam sát thường gây ra bốn hậu quả có thể xảy ra

+ Tai nạn bất ngờ, như tai nạn lao động, hoặc tai nạn giao thông

+ Kiện tụng

+ Hao tài

+ Sức khỏe bị ảnh hưởng: Bắc (Xương cốt, sức khỏe giới tính, đường tiết niệu, thận, tử cung, bàng quang), Nam (Tim, huyết quản, huyết áp, trúng gió), Đông (Kinh lạc, gan, mật), Tây (Đường hô hấp, miệng, mũi, da).

Hóa giải tam sát bằng những biện pháp sau:

  • Dùng một lượng nước tại phương vị khắc sát để kiềm chế hung tính
  • Dùng một cây gỗ lớn để hút hao sát khí tại phương vị khắc sát để hóa giải sát khí
  • Chọn ngày giờ tốt đẹp cát lợi để khắc chế tai họa, tránh họa tìm phúc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SÁT TINH TRẠCH VẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP HÓA GIẢI SÁT TINH TRẠCH VẬN

Nguyên tắc Tứ tượng chọn chỗ ngồi hợp phong thuỷ

Chọn chỗ ngồi hợp phong thủy là một mẹo giúp chủ nhân nhận được nhiều năng lượng tốt. Mách bạn cách áp dụng nguyên tắc Tứ tượng chọn chỗ ngồi rất hay.
Nguyên tắc Tứ tượng chọn chỗ ngồi hợp phong thuỷ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn chỗ ngồi hợp phong thủy là một mẹo giúp chủ nhân nhận được nhiều năng lượng tốt nhưng không phải ai cũng biết. Mách bạn cách áp dụng nguyên tắc Tứ tượng để chọn chỗ ngồi rất hay.


► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ xem tử vi, xem phong thủy chuẩn xác để đón lành tránh dữ

Chon cho ngoi  hop phong thuy theo nguyen tac Tu tuong hinh anh
 
Hãy quan sát hình vẽ sau, bắt đầu từ trung tâm rồi hướng ra ngoài. Chính giữa là vòng tròn nhỏ, trong đó có hình người. Đó chính là bạn. Mũi tên trước mặt mô tả hướng bạn nhìn thẳng về phía trước. Xung quanh có 4 vòng tròn nhỏ, tượng trưng cho Thanh Long (trái), Bạch Hổ (phải), Chu Tước (trước) và Huyền Vũ (sau). Mỗi thánh thú thuộc về một hành khác nhau và những mũi tên nhỏ màu trắng chỉ hướng di chuyển của năng lượng:
 
• Huyền Vũ (màu đen, xanh tím than) tượng trưng cho Thủy; các mũi tên trắng chỉ năng lượng di chuyển xuống dưới.
 
• Chu Tước (màu đỏ) thuộc hành Hỏa; năng lượng bốc lên trên.
 
• Bạch Hổ (màu trắng) tượng trưng cho hành Kim; năng lượng tụ vào trong.
 
• Thanh Long (màu xanh lá cây) tượng trưng cho hành Mộc; năng lượng tỏa ra ngoài. 
 
Xét về mặt tâm lý, hệ thần kinh luôn ý thức rằng chúng ta không có khả năng nhìn thấy các vật hoặc chuyển động ở phía sau. Khu vực này dễ bị tấn công, gây cảm giác bất an. Theo nguyên tắc Tứ tượng để chọn chỗ ngồi, chiếc mai vững chãi của Huyền Vũ sẽ là điểm tựa tin cậy, mang lại cảm giác an toàn, yên ổn.
 
Mặt khác, khi nhìn về phía trước, bạn muốn có tầm nhìn rộng lớn, không vướng víu. Nguồn cảm hứng lớn lao sẽ xuất hiện khi tầm mắt của bạn được phóng thật xa. Đó là nơi Chu Tước huyền bí sải cánh.
 
Phía bên phải bạn là Bạch Hổ, biểu tượng của sự dũng mãnh và bạo lực tiềm ẩn. Năng lượng này cần được khống chế thật tốt (bất kể bạn là người thuận tay trái hay tay phải). Điều này có nghĩa là nên bố trí đồ vật ở bên phải tương đối thấp so với mặt đất. Làm vậy bạn sẽ có bên mình một thú hoang thuần dưỡng. 
 
Phía bên trái của bạn là Thanh Long. Nổi bật bởi trí thông minh, tầm nhìn rộng lớn và sự vững chãi, Rồng xanh tượng trưng cho ước nguyện về một tương lai rộng mở, tâm hồn bình an và cái nhìn phóng khoáng. Theo nguyên tắc Tứ tượng chọn chỗ ngồi, ở phía này bạn nên đặt những đồ vật cao, vượt quá tầm mắt.
 
Bố trí hoặc chọn chỗ ngồi theo nguyên tắc Tứ tượng sẽ giúp bạn nhận được sự hỗ trợ năng lượng từ cả bốn linh vật. Chú ý là phải sắp xếp cho chuẩn, chỉ cần thay đổi một chút thì ý nghĩa phong thủy đã sai khác đi rất nhiều.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc Tứ tượng chọn chỗ ngồi hợp phong thuỷ

Chùa Trông - Hải Dương

Chùa Trông có tên chữ là Hưng Long Thiên Tự - Thánh tích Phật Giáo mang nhiều nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo được xếp hạng Di tích quốc gia
Chùa Trông - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Trông có tên chữ là Hưng Long Thiên Tự, một trong những Thánh tích Phật Giáo với những hạng mục mang nhiều nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo được Nhà nước xếp hạng “Di tích quốc gia” về kiến trúc nghệ thuật năm 2003. Chùa Trông tọa lạc tại xã Hưng Long, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Chùa Trông được xây dựng vào khoảng thế kỷ 11, dưới thời vua Lý Nhân Tông (1010-1225) và được trùng tu tôn tạo vào thời Hậu Lê (Thế kỷ 17-18). Ngôi chùa nằm trên khu đất rộng gần 8.000m2.

Chùa được xây dựng theo kiến trúc “Nội công, ngoại quốc” gồm nhiều hạng mục khác nhau: Ao rối, rộng hơn 800m2; cổng tam quan, cao 19m, được cấu tạo gồm 2 cổng lớn (cổng đông và cổng tây).

Nối giữa 2 cổng là một tắc môn, liền sau tam quan là một khoảng sân rộng; tiếp đến là Tuần Tranh, nhà mẫu, nhà tổ, nhà tăng và đền thờ Minh Không Thiền sư Nguyễn Chí Thành, một cao tăng thời Lý có công lớn trong việc chữa khỏi bệnh cho vua và được nhà vua phong tặng là “Lý triều Quốc Sư”. Do có công lao lớn với đất nước và Phật giáo, sau khi Minh Không Thiền Sư qua đời, triều đình đã xuống chiếu cho lập đền thờ gọi là chùa Trông ngày nay.

Trải qua những thăng trầm của thời gian và lịch sử, song đến nay chùa Trông vẫn giữ được đường nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo và tinh tế, từ cổng tam quan, nhà mẫu, nhà tăng đến đền thờ Minh Không Thiền sư, các bức tượng phật, các họa tiết, trang trí, bia ký đều do bàn tay những nghệ nhân tài giỏi qua nhiều thế hệ tạo dựng.

Trải qua nhiều thế kỷ, những hiện vật trong di tích vẫn rất sống động với nghệ thuật điêu khắc tinh tế. Với giá trị nghệ thuật và lịch sử, chùa Trông là một ngôi chùa lớn có ảnh hưởng tới tâm linh phật giáo trong vùng.

Chính điện Chùa Trông
Chính điện Chùa Trông

Tại Chùa Trông sau ngày giành được chính quyền tháng 8/1945, đã phát động phong trào ủng hộ kháng chiến trong giới nhà sư, tăng ni, Phật tử. Chùa Trông còn là nơi tổng bộ Việt Minh đóng trụ sở, nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng, hội họp của nhiều đoàn thể kháng chiến trong xã, trong huyện.

Hàng năm, nhân dân địa phương luôn quan tâm tu bổ. Vào ngày tuần, rằm, lễ tết, nhân dân địa phương và khách thập phương thường đến thắp hương cầu cho quốc thái dân an, cuộc sống người dân no ấm, hạnh phúc.

Đặc biệt, hàng năm vào các ngày từ 15 đến 30 tháng 3 âm lịch, địa phương tổ chức lễ hội truyền thống với nhiều khóa lễ khác nhau như: Lễ rước nước 15/3; Lễ xuất đông, nhập tây 20/3; Lễ tế thánh về trời 26/3. Trong phần lễ, ngoài việc tổ chức lễ rước thành hoang, lễ dâng hương, địa phương còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nhiều trò diễn dân gian như: Rối nước, đấu vật, hát chèo, múa hoa đăng, đu quay, cầu kiều, trọi gà, cờ tướng…

Lễ hội chùa Trông xã Hưng Long mang đậm nét văn hóa cổ truyền của làng quê Việt Nam, là dịp để cho mỗi người dân giao lưu học hỏi, đoàn kết cộng đồng cùng nhau xây dựng đời sống văn hóa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Trông - Hải Dương

cách 12 chòm sao giải quyết cãi vã

Hai người ở cùng nhau không tránh khỏi va chạm, cùng xem cách 12 chòm sao giải quyết cãi vã như thế nào nhé!
cách 12 chòm sao giải quyết cãi vã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hai người ở cùng nhau không tránh khỏi va chạm, hòa hợp tới mấy cũng có lúc mặt nặng mày nhẹ. Quan trọng không phải là không mâu thuẫn mà là có mâu thuẫn cùng nhau giải quyết. Cùng xem cách 12 chòm sao giải quyết cãi vã như thế nào nhé!

cach 12 chom sao giai quyet cai va
 

Bạch Dương: chủ động nhận sai

  Cãi nhau với Bạch Dương là chuyện thường ngày ở huyện bởi chòm sao này rất nóng tính, động chút chuyện là ầm ĩ ngay. Khả năng sau những trận phong ba như vậy họ sẽ choáng váng, không biết rốt cuộc bản thân bị làm sao mà lại làm quá đến mức như vậy, vốn cũng không phải chuyện to tát gì mà.    12 chòm sao giải quyết cãi vã, với tính cách thẳng thắn, nghĩ gì nói nấy, mắt thấy tình huống phát triển quá xa thì đương nhiên là cuống quýt ngay, chủ động tìm tới đối phương nhận lỗi. Nhanh giận nhưng cũng nhanh quên chính là ưu điểm của cừu trắng, họ không để bụng hay cố chấp gì đâu, cười xòa một cái là hết ngay.  

Kim Ngưu: chủ động tha thứ

  Tính cách của Ngưu chan rất quật cương nên cãi nhau là cãi lấy thắng luôn chứ không có chuyện nửa chừng. Cố chấp tới mức đánh không thông, có vừa mắng vừa chửi cũng nhất định bảo lưu ý kiến của mình chứ đừng nói là chủ động nhận sai. Sai bằng mười cũng cãi là đúng ấy chứ.   Nhưng Kim Ngưu là chòm sao không có thói xấu thù dai nhớ lâu, họ rất dễ tha thứ cho người khác. Khi cãi vã xong xuôi, họ chủ động nói với đối phương: tuy rằng anh sai rồi nhưng tôi tha thứ cho anh. Thật sự không biết nói gì hơn với họ nữa, phúc khí cũng quá lớn rồi, tự nhận mình rộng lượng vậy đấy.  
Xem thêm bài viết BỊ BỒ ĐÁ - 12 chòm sao nam vì đâu nên nỗi

Song Tử: đánh nhau chí tử

  Không đánh không thành bạn, một khi tức giận trong lòng mà không được phát tác thì sẽ không thể nguôi ngoai được nên Song Tử không chỉ võ mồm mà dùng hành động luôn, đánh một trận tưng bừng cho tới khi người mệt lả. Lúc đó, tự dưng buồn bực tan hết, hai người lại đâu vào đấy thôi.   Tính cách Tử nhi là thế, cơ bản không có chút nào tính toán, còn hơi trẻ con nữa. Họ chẳng lo xích mích với người khác bởi chuyện đã qua là qua, không cần bận tâm, cứ thẳng thắn bộc phát ra ngoài, đôi bên cùng thoả mãn, cớ gì cứ hầm hè trong bụng, tổn thọ mất.  

Cự Giải: viết thư xin lỗi

  Chòm sao này thực ra là vừa hiền vừa nhát, cãi nhau với người ta cũng có được mấy câu đâu nhưng trong lòng cứ áy náy không yên. Nói thẳng thì không dám nên đành viết thư, bày tỏ thái độ xin lỗi chân thành với đối phương, lấy dĩ hoà vi quý làm đầu, ai đúng ai sai cũng chẳng có gì quan trọng.   Hiện nay các ứng dụng chat phổ biến thì Cự Giải cũng chuyển qua phương thức hiện đại. Gửi một cái tin nhắn thật dài, thật mùi mẫn làm hoà. Chòm sao này đúng là dễ thương hết sức, độ lượng chẳng chấp nhặt nên ai cũng yêu mến, nhận được thư là đồng ý ngay không kì kèo.  

Sư Tử: uống rượu

 
12 chom sao giai quyet cai va
 
12 chòm sao giải quyết cãi vã, hảo hán có cách xử sự của hảo hán, cãi vã khẩu chiến xong nhất định phải cùng nhau uống rượu giải sầu. Sư Tử tính cách phóng khoáng, hành động hào sảng, muốn thông qua chén rượu chân chính nhìn nhận ra con người của nhau, trở thành bạn bè, như vậy có xích mích tơi bời cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi.
  Tính Sư Tử không thích để bụng lâu, cũng không dễ dàng xuống nước xin lỗi, mời uống rượu chính là cách chòm sao này thể hiện thái độ tích cực của mình. Gọn gàng, có chút phong cách bụi bụi, ai mà xởi lởi nhiệt tình giống họ thì chuyển thù thành bạn rất nhanh thôi.  
Xem thêm bài viết Nụ hôn của 12 chòm sao, ai là cao thủ?
 

Xử Nữ: giúp đỡ đối phương

  Thực ra ở cùng một chỗ với Xử Nữ khiến người ta rất dễ uất ức vì chòm sao này kĩ tính, độc đoán, thích chỉ huy. Bản thân họ cũng nhận thức mình rất có vấn đề nhưng lại không cải thiện được, từ đó bao nhiêu mâu thuẫn, cãi vã nảy sinh. Trước sau gì cũng vẫn còn gặp gỡ, thậm chí là chung sống, đâu có thể nói bỏ đi là bỏ được.   Vì vậy để dàn hoà, Xử Nữ chủ động giúp đỡ đối phương trong cuộc sống như không có chuyện gì xảy ra. Vẫn hàng ngày chăm lo tỉ mỉ, quan tâm săn sóc tới người mà mình cãi nhau một sống hai chết lúc trước. Tuy nói thì không hay nhưng làm thì cũng giỏi đấy chứ nhỉ.  

Thiên Bình: trước sau như một 

  Cãi nhau với Thiên Bình chỉ như trò trẻ con, gây sự xong rồi thôi, đã là bạn bè, là người thân, người yêu thì chẳng tránh được chuyện không vừa ý, càng làm cho đời sống phong phú, bớt nhàm chán tẻ nhạt. Thế thì sao phải để những chuyện đó trong đầu cho thêm căng thẳng, mệt nhọc cơ chứ.   Thiên Bình trước sau như một, không trách cứ, không nhắc lại, khôi phục tiết tấu của cuộc sống bình thường, làm tốt nhiệm vụ của mình và chăm lo cho đối phương. Điều này khiến người ta khâm phục, càng khiến người ta cảm thấy bất đắc dĩ, đúng là cao thủ trong cao thủ.   

Hổ Cáp: thời gian chính là sức mạnh

  Cãi nhau chán chê xong rồi làm sao đây? Tất nhiên là bắt đầu thời kì chiến tranh lạnh rồi, khoảng thời gian này chẳng ai nói với ai câu gì, cứ âm thầm chờ xem đối phương có phản ứng gì không, nếu không may phát sinh ra chuyện khác thì đúng là hoạ vô đơn chí, đổ dầu vào lửa, cuối cùng sụp đổ.   Hổ Cáp tất nhiên không hi vọng như vậy, nhưng họ lại không muốn nhận lỗi thế nên trong thời gian chiến tranh lạnh sẽ tránh gây thêm chiến sự, cố gắng đi công tác, đi chơi, đi đủ mọi nơi để không cần gặp mặt nhau. Tới khi mọi chuyện lắng lại, quay về duy trì quan hệ như xưa.

Nhân Mã: dùng tiền giải quyết

  Thích gì mua nấy, cần gì tiêu nấy, tiêu chí của Nhân Mã là chỉ cần hết giận, tiêu bao nhiều tiền cũng được. Chòm sao này không biết lấy lòng người khác, sợ chiến tranh lạnh, sợ phải xin lỗi nên cách tốt nhất chính là dùng tiền hoà giải, mong đối phương vui vẻ mà bỏ qua cho mình.   Hơn nữa, Nhân Mã cho rằng mình cãi nhau là mình sai rồi, có lý đến đâu cũng không nên để mất hòa khí, xuất chút tiền ra cũng là điều nên làm. Đều là người quen thuộc, mua quà cho cũng là chuyện hợp tình hợp lý, mấy món quà có sức nặng như vậy, đầu tư đúng chỗ rồi, tiếc làm gì.

Xem thêm bài viết Lừa vợ dối con, 12 chòm sao nam ai có tố chất ngoại tình cao nhất?

Ma Kết: nói đạo lý

  Hai người cãi nhau chuyện lớn chuyện nhỏ đều phải nói lý, ngày ngày tích lũy từ ít thành nhiều, nếu không nói ra thì đôi bên đều không biết sai đâu mà sửa. Chính vì vậy, không thể qua loa dùng lời xin lỗi hay chiêu trò gì để thoái thác, cần có một buổi trò chuyện thẳng thắn để thấu hiểu nhau hơn.

Tính Ma Kết vốn hiền hòa, điềm tĩnh, không thích lùm xùm nhưng rất thẳng thắn, đúng là đúng, sai là sai. Bản thân sai sẽ chủ động nhận lỗi, còn người kia sai họ cũng sẵn sàng chỉ ra lỗi lầm để sửa chữa cùng tiến bộ. Tài ăn nói, thuyết phục, phân tích, giảng giải của chòm sao này thì quá tuyệt rồi, không ai cãi lại được.
 

Bảo Bình: tặng quà

 
cach 12 chom sao lam lanh
 
12 chòm sao làm lành dùng nhiều cách, riêng Bảo Bình sẽ tặng quà để khơi dậy cảm giác thân thiết với đối phương. Sau mỗi lần cãi vã, tình cảm rạn nứt, hai người khó chịu với nhau, cần một cái cớ để gắn kết trở lại. Cái cớ ấy chính là một tặng phẩm, có thể nhỏ thôi nhưng nhất định phải ý nghĩa. 

B
ảo Bình không giỏi làm lành, để dịu bớt không khí căng thẳng họ cần một thứ thay lời muốn nói. Dụng công chọn lựa vật phù hợp với đối phương, có lòng tặng đến, nhất định người ta sẽ nhận thấy thành ý của Bảo Bảo, không nỡ từ chối, hai người đã hòa rồi.
 

Song Ngư: cun cút đi theo


Dễ thương lắm, lúc cãi nhau thì hăng vậy chứ xong xuôi hết rồi Song Ngư lại hối hận, sao mình lắm lời thế, sao mình hùng hổ thế, giờ biết tính sao đây? Thế là cứ cun cút đi theo người ta, xun xoe nịnh nọt, miệng không nói xin lỗi nhưng hành động thì hết sức thiện chí.

Điểm mạnh của chòm sao này là rất ngoan và đáng yêu, mong muốn dùng tính cách tốt của mình để đối phương cảm động mà xí xóa hết những điều không hay trước đó. Trong quá trình đi theo còn cố tình chăm sóc, làm chuyện này chuyện kia để người ta thấy tội nghiệp mình mà bỏ qua nữa cơ, lắm chiêu trò lắm.

Hé lộ cung hoàng đạo thông minh nhất trong 12 chòm sao 12 chòm sao ai có khả năng lãnh đạo ưu việt nhất? Vì sao 12 chòm sao không thể quên được người yêu cũ?
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: cách 12 chòm sao giải quyết cãi vã

Văn phòng của “chủ quản” nên lựa chọn như thế nào? –

Vì sao văn phòng phải tìm được môi trường tốt Phân tích từ góc độ phong thủy chuyên nghiệp, lựu chọn nơi chốn của văn phòng, nhất định cần khiến cho Ngũ hành nơi đó "sinh vượng" (có tác dụng trợ giúp con người) trong nghiệp chủ mệnh có "hỷ dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì sao văn phòng phải tìm được môi trường tốt

Phân tích từ góc độ phong thủy chuyên nghiệp, lựu chọn nơi chốn của văn phòng, nhất định cần khiến cho Ngũ hành nơi đó “sinh vượng” (có tác dụng trợ giúp con người) trong nghiệp chủ mệnh có “hỷ dụng thần” mới là sinh tài bảo địa lý tưởng nhất. Một môi trường tốt mà phong thủy sinh ra trường khí sẽ có tác dụng trợ giúp nhất định cho cơ thể và trí tuệ của con người, từ đó mà từng bước làm ăn hưng vượng, sự nghiệp thành công.

1329467198_318240843_2-cong-ty-noi-that-deN-BaO-chuyen-thiet-ke-van-phong-da-Nng

 Văn phòng của chủ quản nên lựa chọn như thế nào?

Văn phòng là nơi quan trọng sinh tài, muốn tài vận hưng thịnh, phong sinh thủy khơi thì phải tìm được môi trường tốt, phong thủy tốt. Chủ quản nắm chính sách quản lý công ty, cần có những khả năng phán đoán và khả năng quyết sách mạnh, thì mới có thế chớp được thời cơ. Nếu phong thủy không tốt ảnh hưởng đến khả năng quyết sách của chủ quản, quyết sách sai lầm tất sẽ đem lại tổn thất to lớn cho công ty, cho nên cần phải tạo ra phong thủy môi trường tốt đẹp, tạo ra khả năng quyết sách tốt nhất, vì công ty giành được những lợi ích lớn nhất.

Phân tích từ góc độ phong thủy chuyên nghiệp, lựa chọn một nơi văn phòng cho chủ quản nhất định cần khiến cho Ngũ hành nơi đó sinh vượng, đồng thời tổng mệnh ông chủ phải có “hỷ dụng thần”, tốt nhất có thể tỷ hợp hoặc cùng nhau sinh vượng của chủ quản mới là lý tưởng nhất.

Một công ty hoặc một đơn vị hưng vượng thì “mệnh cục” hoặc “hỷ dụng thần” giữa ông chủ và chủ quản đều là tương sinh tương vượng, một người chủ quản mà có thể trợ giúp cho ông chủ thì mệnh cục phần lớn là tương hợp với ông chủ hoặc có dụng thẩn Ngũ hành khỏi trợ vượng.

Nếu không phải như vậy, nhất định sẽ đem lại cho ông chủ và chủ quản đó những phiền muộn và tổn thất. Đối với ông chủ mà nói, lựa chon văn phòng cho chủ quản và chủ quản lựa chọn là bước đầu của sự thành công, nhất thiết không được coi nhẹ. Một môi trường phong thủy tốt thì trường khí sinh ra đều có lợi rất lớn đối với cơ thể, chiến lược, trí tuệ, tài vận của ông chủ và những thuộc hạ bên dưới, tiếp đó có thể làm hưng vượng công ty, sự nghiệp đi tới thành công.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn phòng của “chủ quản” nên lựa chọn như thế nào? –

Những loài cây nên có trong vườn nhà để dẫn dụ tài lộc

Trồng cây trong vườn giúp thanh lọc không khí mà còn có tác dụng phong thủy. Dưới đây là những loại cây phong thủy nên trồng trong vườn.
Những loài cây nên có trong vườn nhà để dẫn dụ tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trồng cây trong vườn không chỉ có giá trị thẩm mĩ, tạo bóng mát, giúp thanh lọc không khí mà còn có công hiệu rất tốt về việc điều hòa phong thủy. Dưới đây là những loại cây phong thủy nên trồng trong vườn nhà bạn.

  Cây lựu   Trong thế giới thực vật, cây lựu mang ý nghĩa về đông con nhiều cháu, phúc lộc dồi dào, mang tới vận khí cát lành, phú quý.  
Nhung loai cay nen co trong vuon nha de dan du tai loc hinh anh 2
 
Cây táo   Loài cây này mang lời chúc “Sớm sinh quý tử”, làm việc gì cũng thành công, sớm hơn người khác một bước. Đây cũng là một trong những loại cây phong thủy nên trồng trong vườn nhà bạn.   Hải đường   Hoa hải đường có màu sắc rực rỡ, mang ý tượng trưng phú quý mãn đường, vinh hoa phú quý, anh chị em trong gia đình hòa thuận, đoàn kết vui vẻ. Nghệ thuật bài trí cây cảnh trong phòng khách Những điều kiêng kỵ trong phong thủy cây cảnh
Trúc   Trúc là biểu tượng của sự thanh cao, tao nhã, thoát tục. Bất luận là ở hướng nào, trồng trúc trong vườn đều rất tốt về mặt phong thủy, giúp dẫn dụ tài lộc cho gia chủ.   Cây mai   Cây mai có khả năng thích ứng với môi trường rất tốt, hoa có 5 cánh cân xứng, tạo ra nét thanh cao, phú quý. “Hoa khai ngũ phúc”, ý chỉ khi hoa nở, 5 cánh tượng trưng cho 5 diễm phúc của người sẽ được thừa hưởng nó.  
Nhung loai cay nen co trong vuon nha de dan du tai loc hinh anh 2
 
Ngũ phúc bao gồm: khoái lạc, hạnh phúc, trường thọ, thuận lợi, hòa bình. Trong các câu chúc thọ thường có “mai khai ngũ phúc, trúc báo tam đa” (lá trúc có ba nhánh), ngụ ý cát tường. Trồng mai trong vườn nhà hoặc trong bồn đều có giá trị thẩm mỹ. Mai có bốn tiêu chí quý: “Quý hy bất quý mật, quý lão bất quý non, quý sấu bất quý phì, quý hàm bất quý khai” (quý hoa ít không quý nhiều, quý già không quý non, quý khẳng khiu không quý mập mạp, quý nụ không quý nở).    Cây nho   Đây là loài cây mang tính biểu trưng cho sự thân mật, đoàn kết. Trồng cây nho trong vườn cũng góp phần tăng thêm sinh khí, mang tới vận khí tốt cho gia chủ.   Một vài lưu ý trồng cây cảnh sân vườn hợp phong thủy Màu sắc cây cảnh và vấn đề phong thủy Bài trí cây cảnh cho phòng tắm
Cây cọ
  Xét về mặt phong thủy, cây cọ cũng có tác dụng chiêu tài, rất phù hợp để trồng trong vườn nhà.
Cây quất   Theo tiếng Hán, quất đồng âm với từ “cát”, tức là cát lành, cát lợi. Nó còn mang ý nghĩa niềm vui ngập tràn, gia đình sung túc, thành tựu quanh năm.    Ngoài ra, theo quan điểm dân gian, quất còn là biểu tượng sức khỏe, bình an, trường thọ và sự may mắn trong tình duyên. Người kinh doanh thường đặt hai chậu quất lớn nhiều quả trước cửa nhà với mong muốn mang lại sự phát đạt, tiền tài, nhất là vào dịp năm mới.   Ngân Hà
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loài cây nên có trong vườn nhà để dẫn dụ tài lộc

Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Chùa Tứ Kỳ còn có tên gọi khác là Linh Tiên tự thuộc thôn Tứ Kỳ, xã Hoàng Liệt (nay thuộc quận Hoàng Mai), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội
Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tứ Kỳ còn có tên khác là Linh Tiên tự. Chùa thuộc thôn Tứ Kỳ, xã Hoàng Liệt (nay thuộc quận Hoàng Mai), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 8km về phía Nam theo quốc lộ 1A.

Chùa được xây dựng vào năm 1687, trên một khu đất cao ráo về phía Đông Bắc làng, phía ngoài là tam quan, tiếp đến nhà bia, tiền đường, thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu và vườn tháp.

Tam quan xây 2 tầng nhìn ra quốc lộ 1A, qua khỏi tam quan đến 2 nhà bia kiểu phương đình chồng diêm, trong mỗi nhà có 1 tấm bia đá đặt trên lưng rùa. Tòa tiền đường 5 gian 2 dĩ đầu hồi bít đốc tay ngai, vì kèo kết cấu chồng rường giá chiêng, mái phân thượng tứ – hạ tứ. Thượng điện là ngôi nhà 1 gian, nối liền với toà tiền đường kết cấu hình chữ Đinh. Nhà Tổ được làm theo kiểu đầu hồi bít đốc, kiến trúc đơn giản bằng những vật liệu mới do tu sửa năm 1993. Nhà Mẫu gồm 5 gian. Việc bài trí tượng thờ so với các chùa khác đơn giản hơn vì thiếu bộ tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác, Thập điện Diêm vương và tòa Cửu Long.

Sát tường hậu tiền đường, bên phải đặt tượng Thánh Hiền, bên trái là tượng Đức Ông, gần tượng Thánh Hiền là 1 quả chuông khá lớn có khắc chữ “Linh Tiên tự” đúc năm Thiệu Trị 1 (1841). Dọc gian giữa thượng điện là hệ thống bệ thờ xây gạch, bày các bộ tượng: Quan Âm Nam Hải ở giữa, hai bên là 2 vị Bồ Tát, sau đó là bộ tượng A Di Đà tam tôn, trong cùng phía trên cao nhất là bộ tượng Tam thế. Tường hậu là nhà thờ Mẫu, trên tòa thạch đống có tượng mà người ta đoán là Chánh vương Phủ Thị Nội Cung Tần họ Nguyễn, tên Diệu Tâm và các pho tượng Ngũ vị tôn ông, Quan Hoàng, Đức Thánh Trần. Tượng trong nhà Tổ đều thể hiện tư thế ngồi, khuôn mặt từ bi.

Trước đây, Chùa là nơi hoạt động bí mật của cán bộ Đảng, chính quyền huyện xã trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Sư cụ Đàm Dần trụ trì chùa đã được chính phủ tặng thưởng huy chương kháng chiến.

Chùa Tứ Kỳ là một ngôi chùa có cảnh đẹp ở phía tây nam thành phố nằm trong hệ thống di tích của Thủ đô. Nơi đây còn là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của một cộng đồng dân cư và là nguồn sử liệu quý giá mang giá trị lịch sử về sự tồn tại của làng cổ Tứ Kỳ. Đây cũng là nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử phát triển của đạo Phật phái thiền tông trên vùng đất phía Nam Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVIII – XIX. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1995.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Ngũ bất táng - táng vào chỉ có hung huyệt

Ngũ bất táng còn gọi là ngũ hại, chỉ 5 loại núi không tụ khí, an táng sẽ bất lợi. Khi xem nơi đặt huyệt mộ cho người thân nên chú ý để tránh ra.
Ngũ bất táng - táng vào chỉ có hung huyệt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


5 loại núi không nên an táng gồm: đồng sơn, đoạn sơn, thạch sơn, độc sơn, quá sơn.
  1. Đồng sơn Màu đất khô cháy, cây cỏ không mọc được, núi trọc. Núi như vậy thì đất khô, mạch kiệt, không thể sinh khí, là loại núi nên tránh khi táng mộ.
 
2. Đoạn sơn Thế núi gãy ngang, sinh khí đi theo mạch đất; thế mạch gãy, sinh khí đứt đoạn, là loại núi không nên chôn cất.
 
3. Thạch sơn (núi đá) Đất kết huyệt không thể là vách núi cheo leo, hoặc núi đá nhô nổi. Đây là nơi oán khí trong núi đá sinh ra, đất nhiều sát khí, là nơi không nên an táng. Tuy nhiên, nếu chất đá mềm, vân đá ấm mượt, màu sắc tươi lại là cát địa.
 
4. Quá sơn Thế núi không dừng, giống như lao đi, khí cũng giống như là khách ra đi, do vậy mà sinh khí không còn. Đó là nơi không nên an táng.
 
5. Độc sơn  Mạch long cô độc, núi không có thế bao bọc huyệt mộ, các dòng nước không tụ, không có núi Thiếu Tổ, núi Thái Tổ, núi Phụ Mẫu. Nơi như thế thì chỉ nên xây đền chùa, miếu mạo và là thế núi không nên an táng.
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ bất táng - táng vào chỉ có hung huyệt

Tuổi Ất Mão hợp làm ăn với tuổi nào - Xem tuổi làm ăn

Những người sinh năm 1975 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết tuổi Ất Mão hợp làm ăn với tuổi nào?, nên chọn người hợp tuổi làm ăn trong năm 2017 với người tuổi Ất Mão để công việc được hanh thông, suôn sẻ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người sinh năm 1975 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết tuổi Ất Mão hợp làm ăn với tuổi nào?, nên chọn người hợp tuổi làm ăn trong năm 2017 với người tuổi Ất Mão để công việc được hanh thông, suôn sẻ. Bài viết dưới đây, Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn.

Tuổi Ất Mão hợp làm ăn với tuổi nào - Xem tuổi làm ăn

Vài nét về tuổi Ất Mão

Tuổi Ất Mão sinh năm 1975, năm con mèo, cung mệnh Ly, mạng cốt tinh Thủy.

Tính tình người tuổi Ất Mão: Là người có đầu óc thông minh. Có chí khí, khôn khéo, lòng dạ sâu sắc, yêu thích sự yên tĩnh thích ngồi một mình tĩnh lặng trầm tư. Tuy không phải làm người nhanh nhẹn, nhưng có sức dẻo dai, tận lực đi sâu vào giải quyết các vấn đề.

Xem thêm: Giới tâm linh giải mã hiện tượng hắt xì hơi như thế nào?

Tuổi Ất Mão hợp làm ăn với tuổi nào?

Nghề nghiệp thích hợp cho người tuổi Ất Mão: Nghề tốt nhất là các bộ môn luật học, ngành ngoại giao, ngân hàng và các vị trí khác có liên quan đến tiền bạc và tài sản. Trong lĩnh vực kinh doanh lại càng phát tài hơn.

Tuổi Ất Mão hợp làm ăn với những tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ( thuộc mệnh Kim) thì dễ có tài lộc, làm ăn phát đạt, gặp nhiều thuận lợi trong cuộc sống.

Tuổi Ất Mão kết hợp làm ăn với những người thuộc mệnh Mộc (Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu) thì người Ất Mão phải là cấp dưới hoặc trợ lí thì công việc mới được thuận buồn xuôi gió.

Người tuổi Ất Mão nếu làm ăn cùng với những người tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu ( thuộc mệnh Thủy) thì hai bên dựa vào nhau mà sống, lợi hại cùng chung, chung chịu và cùng nhau hưởng.

Người tuổi Ất Mão không nên kết hợp làm ăn với những người tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi ( thuộc mệnh Thổ) vì công việc làm ăn bị thua thiệt nhiều, nên tìm cách tránh thì tốt hơn.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Ất Mão:

Màu hợp với tuổi Ất Mão: Đen, xanh thẫm hoặc các gam màu sáng. Tránh màu vàng, nâu.

Hướng đặt bàn làm việc cho tuổi Ất Mão. Phương vị tài thần hợp với tuổi này là đặt bàn thờ nhìn hướng chính Nam.

Trên đây là tổng hợp những tuổi mà người sinh năm Ất Mão hợp làm ăn, những người sinh năm 1975 nên chọn những người thuộc mệnh Kim, Mộc, Thủy thì kết hợp làm ăn, không nên làm ăn với những người thuộc hành Hỏa, Thổ.

Xem tuổi làm ăn cho những tuổi khác tại đây: Xem tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Ất Mão hợp làm ăn với tuổi nào - Xem tuổi làm ăn

Ý nghĩa phong thủy hoa Mẫu Đơn –

Mẫu đơn là loài hoa thân gỗ thuộc họ Mao lương. Còn có tên là “hoa vương" hoặc "hoa phú quý". Trung Quốc đã coi Mẫu đơn là Quốc hoa. Mẫu đơn cũng chính là loài hoa có chủ yếu ờ Trung Quốc, trong Thần nông bản thảo của Trung Quốc cũng đã có ghi chép l

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mẫu đơn là loài hoa thân gỗ thuộc họ Mao lương. Còn có tên là “hoa vương” hoặc “hoa phú quý”. Trung Quốc đã coi Mẫu đơn là Quốc hoa. Mẫu đơn cũng chính là loài hoa có chủ yếu ờ Trung Quốc, trong Thần nông bản thảo của Trung Quốc cũng đã có ghi chép lại rằng Mẫu đơn đã có từ rất lâu đời.

Mẫu đơn có rất nhiều chủng loại, trong Quẩn phương phổ có ghi chép rằng có 180 loài, đời nhà Minh ở Trung Quốc trong “Hoa Châu mẫu đơn hiểu” có ghi lại hơn 269 loài, nhưng thường chia thành 6 loài chính đó là thần phẩm, danh phẩm, linh phẩm, thố phàm, năng phẩm. Theo truyền thuyết xưa, Đường Huyền Tông khi ngắm hoa Mẫu đơn đã hỏi ai có bài thơ hay ngâm để tán tụng hoa Mẫu đơn, có người tấu lên rằng; Có hai câu thơ rất hay của Lý Chính Phong; ‘Thiên hương dạ nhiễm y, Quốc sắc, triêu hàm tửu”. (Quốc sắc ban mai say ý rượu, Thiên hương vương ảo mãi đêm khuya), hậu thế sau này cố cách nói “quốc sắc thiên hương” vì lẽ đó. 

38018475

 

Trong Bản thảo cương mục có chép: “Quần hoa phẩm trung, mẫu đơn đệ nhất, thược được đệ nhị, có thế vị mẫu đơn vị hoa quốc (Trong các loài hoa, hoa Mẫu đơn là đệ nhất, thứ đến là hoa Thược dược, vì thế người đời phong hoa Mẫu đơn là Quốc hoa). Đến đời Tống, Mẫu đơn được trồng khắp thành Lạc Dương nên đã có tên gọi là “Lạc Dương hoa”. Bông hoa Mẫu đơn toát lên vẻ kiêu sa, Chu Đôn Di trong bài Ai liên thuyết cũng viết “Mẫu đơn, hoa chi phú quý giả giã” (Mẫu đơn là loài hoa phú quý).

Mẫu đơn tuy là loài hoa phú quý quốc sắc thiên hương, các nho sĩ đời này đời kia đã từng mệnh danh là thư tề, viên phổ. Như Chu Tất Đại ở đời nhà Tống là “thiên hương đường”, Chu Vương nhà Minh có “quốc sắc viên”… Mẫu đơn có vẻ đẹp kiều diễm lại thêm được nhiều tiếng khen, hàm nghĩa cát tường, chính vì vậy mà trong vườn, Mẫu đơn thường được trồng kết hợp với nhóm đá thọ thành trường thọ phú quý hoặc cùng với hoa tầm xuân tạo thành cảnh quan “phú quý trường xuân”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy hoa Mẫu Đơn –

Xem tính tình tướng mạo của một người thông qua tứ trụ

Nhà đoán mệnh, khi đoán mệnh cho người, có lúc miệng còn cao giọng tính tình người này như thế nào lúc hứng lên còn phán đến những điều liên quan đến tướng mạo của người ấy. Thế là như thế nào? Vốn là dùng ngũ hành đoán tính tình chỉ ở giờ sinh, ngày sinh, mà lấy ngày sinh của bản thân liên kết với ngũ hành làm chủ và không nói đến nạp âm. Vì thế sách đoán mệnh đã có cách nói rất thú vị.
Xem tính tình tướng mạo của một người thông qua tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mộc: Mộc thuộc đông phương chấn vị, Mộc hiện thanh long, tên là khúc trực, ngũ thường chủ nhân, sắc nó xanh, vị nó chua, tính nó thẳng, tình nó hoà. Vượng tướng (xem ngũ hành đích vượng tướng hưu tư tử và ký toạ bốc nhị cung) chủ có lòng bác ái trắc ẩn, người hiền lành nhường nhịn, giúp đỡ người khác, đỡ đần người cô đơn góa bụa, bộc trực thanh cao, tính tình khảng khái, tư thế đàng hoàng, cốt cách uy nghi, da mặt trắng trẻo, tay chân mượt mà, nói năng hiên ngang. Đó là mang ý nghĩa Mộc thịnh nhiều nhân đức, Hưu Tù chủ gầy gò ít phát, tính ngang tâm lệch, ghen ghét không nhân nghĩa, đó là mang ý nghĩa Mộc suy tình kém, Tử Tuyệt thì mặt mày không ngay thẳng, mắt la mày lém, cơ bắp khô ráo, cổ dài họng kết, đứng ngồi không yên, thân nhiều lõm khuyết. Gặp Hoả sắc thì đỏ, Thổ sắc thì vàng, gặp Kim sắc thì trắng, gặp thuỷ sắc thì đen.

Hoả: Hoả thuộc Nam phương, tên là viêm thượng, ngũ thường chủ lê, sắc nó đỏ, vị đắng, tỉnh nó cấp, tình nó cung kính. Vượng tướng, chủ có tác phong từ tốn nhường nhịn, đoan chính, cân thận, khiêm tốn, uy quyền lẫm liệt, thuần phác tôn nghiêm. Khuôn mặt trên nhọn dưới rộng, sống mũi cao mà tai nhỏ, tinh thần sáng lạn, nói năng liến láu, tính nóng mà không độc, thông minh được việc. Nếu thái quá thì tiếng rít mặt đỏ, chân tay hiếu động, nếu bất cập thì gầy gò, vàng vọt nhọn cằm, dối trá ghen ghét hãm hại, nói năng càn rợ, có trước mà không có sau.

Thổ: Thổ thuộc trung ương, tên là giá cào, ngũ thường chủ tín, sắc vàng, vị ngọt, tính nặng tình dày, vượng tướng, chủ lời nói đi đôi với việc làm, trung hiếu thành tâm, kính trọng thần Phật, lưng dài vai rộng, mũi rộng miệng vuông, mày xanh mắt đẹp, mặt béo sắc vàng, độ lượng khoan hậu, xử sự cân nhắc. Thái quá thì chấp nên nệ cổ, ngu tối không minh mẫn, Bất cập thì sắc mặt trì trệ, mặt lệch mũi thấp, tiếng nói nặng đục, giải quyết công việc không thông suốt, độc ác dối trá, không được lòng người, điên đảo thất tín, con cháu về sau làm càn.

Kim: Kim thuộc Tây phương, tên gọi là tòng cách ngũ thường chủ về nghĩa, sắc bạch vị cay mà tính cương tình cảm mãnh liệt. Vượng tướng, chủ anh dũng hào kiệt, trọng nghĩa khinh tài, biết liêm sỉ, biết xấu hổ, cốt nhục thuận hoà, thế kiện thần thanh, mặt vuông trắng trẻo, mày cao mắt sâu, mũi thẳng tai hồng, tiếng nói sảng, cương nghị quả quyết, thái quá thì hữu dũng vô mưu, tham lam bất nhân, bất cập thì ngô nghê tham tàn, việc làm thường nản chí, có suy nghĩ nhưng thiếu quyết đoán, đa dâm hiếu sắc, người gầy thấp nhỏ.

Thuỷ: Thuỷ thuộc Bắc phương, tên gọi là hạc hạ, ngũ thường chủ về trí, sắc đen, vị mặn, tính thông minh, người lương thiện. Vượng tướng, có tầm nhìn xa, túc trí đa mưu, học thức hơn người, vô cùng dối trá, mặt đen tươi tắn, ăn nói nhỏ nhẹ. Thái quá thì hiếu động, phiêu đãng dâm ô. Bất cập thì khổ người nhỏ bé, làm việc phản phúc, tình tình thất thường, nhát gan không mưu lược.

Về ngũ hành phối với tính tình diện mạo của người, nêu kiến sinh vượng thì tốt, gặp tử tuyệt thì kém, ngoài ra nêu có thái quá hoặc bất cập, đều mất đi phẩm chất trung hoà tốt đẹp của con người, không phải là người có nhân cách cao.

Do ngũ hành phối với tính tình tướng mạo của con người, nội dung tương đối phức tạp, để tiện ghi nhớ người xưa đã soạn thành bài theo hình thức bài phú trong Tề công yếu quyết nói: trí cao lượng viên nhờ có nguồn nước sâu xa; gửi tín giữ nhân chỉ do Thổ thành sơn nhạc, nhân từ mẫn hậu, Mộc thành ở phương giáp Ất, tính nhanh phân rõ, Hoả ở vị trí của Bính Đinh, danh cao nghĩa trọng, do Kim quy hợp Tân Kim, ở vào trung cung, tính cách không thay đổi. Hoặc thịnh hoặc suy, tính tình dễ đổi, thuỷ nhân suy bại, tính mờ không nơi nương tựa; Thổ lực thái vi, cố chấp ít được dùng; Mộc quy mộ địa, quá nhu nhược làm việc không quy tắc; số Hoả chưa hưng, làm nhỏ thương lớn, Kim tuy nông mỏng, có trước có sau”.

Tử Bỉnh phú nói: người tướng mạo tươi đẹp, Mộc sinh vào mùa xuân hạ, người không tri thức, thuỷ khôn ở ngày Sửu Mùi, người tính chất thông minh là nhờ thuỷ tượng đẹp, người gặp việc thì quả quyết đều nhờ Kim khí được cương, ngũ hành khí túc, cơ thể béo mập, tứ chi vô tình, tính thường ngoan cố”.

Chỉ tuyển phú cũng nói: “người văn chương minh mẫn, phải là Hoả thịnh, người uy vũ cứng rắn phải là Kim nhiều. Mộc thịnh thì có lòng trắc ẩn, thuỷ nhiều thì mưu trí khéo léo. Tính thuộc Thổ, rất trọng phú”. Nhưng khẩu quyết này dễ đọc dễ nhớ, ở từng góc độ khác nhau có thể bổ sung cho nhau, cho nên rất được hoàn nghênh.

Nhưng khi đoán mệnh chính thức, bát tự tứ trụ của một con người được ngũ hành trợ giúp lại thường không ăn khốp với tính tình tướng mạo ở đây miêu tả, có lúc còn sai lệch rất lớn, ngược nhau đến 108°. Cho nên Trần Tố Am trong Mệnh lý ước ngôn nói: xưa phân ngũ hành luận về tính tình con người, không thể cứng nhắc theo như thế được. Như Mộc chủ nhân - thọ - từ nhưng Mộc thành cách cục lại là người bất nhân, Kim chủ túc sát, nhưng lại có Kim được thời thừa thế lại không sát vậy”. Vì vậy ông Trần cho rằng: “Trước tiên phải xem thần tình khí thế trong trụ, hoặc là quang minh, chính đại, hoặc thuần hậu, hoặc anh tuấn, đều là người hiền cả, nếu lệch lạc, ám muội hoặc tắc lệ, hoặc ti tiện, đều không phải người hiền, lại xem cách cục, dụng thần, hoặc trung chính rõ ràng, không tham lam, hoặc khéo léo ẩn giấu thì phần lớn có thể nhìn thấy tính tình vậy. Sau đó dùng ngũ hành để luận đoán, sâu thì nhìn thấy ruột gan, nông thì nhìn thấy gai góc. Có người lúc đầu chính mà cuối tả, lúc đầu dỡ mà cuối hay, là do hành vận gây nên, còn như nhị đức thì đa thiện, quý nhân thì đa hiền, không vong thì đa hư, kiếp sát thì đa bạo, lý là như vậy, chỉ nhìn một mặt mà đoán, cũng không ứng nghiệp”.

Phần lớn người ta thường căn cứ tiếp xúc thường ngày coi con người có lòng từ tâm bác ái, cốt cách thanh cao, đĩnh đạ râu dài mà nói người ấy có khí chất của Mộc; coi con người có tác phong lễ nghĩa, cẩn thận, mực thước, tinh thần sáng lạn, thông minh tính nóng mà nói người ấy có khí chất tính Hoả, coi con người giữ chữ tín, nói đi đôi với làm, trung hiếu chí tình, lưng dài vai rộng, mặt đầy đặn sắc vàng thì nói người ấy có khí chất của Thổ; coi con người trọng nghĩa khinh tài, anh hùng hào kiệt, người khoẻ thần tinh, mặt vuông trắng trẻo thì nói người ấy có khí chất của Kim, coi con người mưu trí nhìn xa, trí trá, mặt đen bóng, nói năng nhỏ nhẹ thì nói người ấy có khí chất của thuỷ. Như vậy cách nói ép bát tự ngũ hành phối với nhau, sẽ đem lại kết quả ngược lại. Điều thú vị là, bộ sách y học kinh điển đầu tiên ở nước ta là Hoàng đế nội kinh sớm để thông qua nguyên lý âm dương ngũ hành đã chia con người thành 25 loại khác nhau và cũng đã thuật kỹ tình hình đại thể về tính tình diện mạo của mỗi loại người. Nhưng đó là cách nghiên cứu tính tình tật xấu của các loại người khác nhau dùng cho y học để điều trị bệnh tật cho từng loại người, cho nên không thể đánh đồng với cách phân chia của ngũ hành ở đây, dù thế nào đi nữa, nếu tiếp tục khảo sát một cách căn bản thì thấy, do nguyên lý triết học âm dương ngũ hành cổ đại ở Trung Quốc đã ăn sâu rộng rãi vào từng lĩnh vực học thuật, cho nên giữa hai cái xem ra có vẻ khác nhau lại có chỗ giống nhau vô cùng về bản chất.

Ngoài những điều nói trên ra, còn ra một phương pháp kết hợp với dụng thần để đoán cá tính, yếu lĩnh chính là:

Chính ấn: người lấy ấn làm dụng thần thì nhân từ, đoan chính, thông minh túc trí, hiền lành, nhuần nhã, có chí hướng, có nội tâm.

Ngược lại đế ấn gây bệnh, không khỏi chí hướng quá cao, thoát ly thực tế, sa vào vũng bùn.

Thiên ấn: người lấy thiên ấn làm dụng thần, anh minh giỏi việc, tư tưởng thuần thục, sức tiếp nhận cao, có lúc tạo dựng được sự nghiệp trong tình huống đặc biệt, ngược lại, thiên ấn là kỵ thần, không tránh khỏi tâm tư không ổn định, lo lắng suy nghĩ nhiều, buồn phiền mà tự chuốc lấy đau khổ.

Chính quan: người lấy chính quan là dụng thần thì quang minh chính đại, chú trọng lý trí, làm việc biết cân nhắc suy nghĩ nên được nhiều người tôn trọng, ngược lại chính quan là kỵ thần, không tránh khỏi nhu nhược, không dám quyết đoán, làm việc không say sưa và tích cực, trở thành người không có tài năng

Thiên quan: người lấy thiên quan là dụng thần tính tốt thích làm việc nghĩa, chí hướng cao xa, có chí tiến thủ vì vậy dễ trở thành người có quyền uy hiển hách, ngược lại thiên quan là kỵ thần, không tránh khỏi tính tình nóng nảy, thích phản nghịch, làm theo ý mình

Chính tài: người lấy chính tài làm dụng thần, tính tình ôn hoà, tư tưởng thuần chính, cần kiệm sinh sống, dám chịu trách nhiệm.

Ngược lại chính tài là kỵ thần, không tránh khỏi làm việc cứng nhắc, không biết tuỳ cơ ứng biến, hay coi trọng kinh tế, keo kiệt.

Thiên tài: người lấy thiên tài là dụng thần, thông minh khéo tay, làm việc nhanh nhạy, biết biến hoá, hào hiệp, cho nên tương đối thích hợp với nghề kinh doanh, nhân duyên cực tốt.

Ngược lại thiên tài là kỵ thần, không tránh khỏi chơi bời hiếu sắc, vì sở thích mà không tiếc tiền tài, có lúc lại nóng nảy vội vàng.

Thực thần: người lấy thực thần làm dụng thần, tính tình ôn hoà khiêm tôn, trung hậu, ngay thẳng, tư tưởng thoát tục, phẩm chất cao nhã, thường là người có học, tài hoa.

Ngược lại thực thần là kỵ thần, không tránh khỏi tư tưởng quá cao, cho mình là khác người, thích nghĩ lông bông mà trong ruột thì trông rỗng.

Thương quan: người lấy thương quan làm dụng thần, chí hướng cao xa, anh minh sắc bén, thông minh tuyệt đỉnh, lắm mưu mẹo, đa tài đa nghệ.

Ngược lại thương quan là kỵ thần, không tránh khỏi tính tình cứng rắn, cao ngạo, khắt khe.

Tỷ kiếp: người lấy tỷ kiếp làm dụng thần, tính tình cẩn trọng, rất tự tin, ý chí kiên cường, tự ý thức được mình. Ngược lại lấy tỷ kiếp là kỵ thần không tránh khỏi giữ ý kiến mình, khắt khe cô chấp, hay gây chuyện, lao đao suốt đời.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tính tình tướng mạo của một người thông qua tứ trụ

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Các lễ hội ngày 8 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Bà Tía

Vào ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch hàng năm có diễn ra các hội lễ Hội Đình Bà Tía, Hội Đình Thanh Liệt, Hội Đền Nghè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 8 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Bà Tía

Các lễ hội ngày 8 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Bà Tía

1. Hội Đình Bà Tía

Thời gian: tổ chức từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: thôn Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh vị Thánh hoàng làng là Bà Tía - một vị tướng của hai Bà Trưng thời đầu công nguyên.

Nội dung: Trong hội đình Bà Tía có lễ tế thành hoàng làng, và còn nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: thi đấu vật, đánh cờ, đi cầu đập nồi niêu.

2. Hội Đình Thanh Liệt

Thời gian: Tổ chức từ ngày 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn ở đình ngoại là Phạm Tu (một võ tướng, công thần ở thời nhà Lý. Ông còn là người có công lớn giúp vua Lý Nam Đế đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, thành lập nước Vạn Xuân); ở Đình nội thì tôn vinh Chu Văn An (một nhà giáo, thầy thuốc, một đại quan trong triều đại nhà Trần và được phong vinh Trình Công)

Nội dung: Trong hội đình, phần lễ có phần rước kiệu từ đình nội ra đình ngoại, còn phần hội thì có tiết mục diễn tuồng, chọi gà, đánh cờ bỏi.

3. Hội Đền Nghè

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 8 tới ngày 10 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn nữ tướng Lê Chân là một vị tướng giỏi của hai Bà Trưng được tấn phong làm Thánh chân công chúa hai Bà Trưng.

Nội dung: Bên cạnh các hoạt động tế lễ dâng hương thành lễ với cỗ tế chay, thì hội đền Nghè còn thu hút đông đảo du khách khắp nơi đến với lễ rước mũ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 8 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Bà Tía

Xem tướng qua bàn chân –

Trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen: Nếu trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen, bạn nên vui mừng vì đó là dấu hiệu đáng mừng. Trong nhân tướng học, nốt ruồi đen tượng trưng cho tài lộc, phú quý và món ngon. Nốt ruồi càng to càng bóng càng chứng tỏ khả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen: Nếu trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen, bạn nên vui mừng vì đó là dấu hiệu đáng mừng. Trong nhân tướng học, nốt ruồi đen tượng trưng cho tài lộc, phú quý và món ngon. Nốt ruồi càng to càng bóng càng chứng tỏ khả năng tài chính của chủ nhân rất ưu việt.

ktt_tuongchan4_kienthuc

Lòng bàn chân có vân hình xoắn ốc: Nếu trong lòng bàn chân có đường vân hình xoắn ốc, chứng tỏ bạn rất hợp với những công việc trong ngành truyền thông, phim ảnh và sẽ danh lợi song toàn. Tài lộc, phú quý cũng theo danh lợi mà tăng tiến không ngừng. Gót chân nổi rõ: Những người có gót chân nổi rõ thường có tài vận cực vượng. Thậm chí, họ hàng, bạn bè của bạn cũng may mắn không kém trong phương diện tiền tài. Nếu được người thân ủng hộ, giúp đỡ trong công việc, tài vận của bạn sẽ thêm phần sáng sủa.

Lòng bàn chân lõm sâu: Những người có lòng bàn chân lõm sâu thường hưởng phúc lớn. Không chỉ kinh tế của gia đình, ngay bản thân bạn cũng có tiềm lực tài chính mạnh tới mức không ai sánh bằng. Tóm lại, người sở hữu tướng chân này sẽ vượng phát cả tài lẫn phúc.

ktt_tuongchan1_kienthuc

Chân nhỏ mà đầy đặn: Những người sở hữu bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn, đặc biệt là phụ nữ, thường được xem là người có bàn chân quý nhân. Cơ hội đến với bạn quả rất tuyệt vời. Nhờ thường xuyên được quý nhân phù trợ, cuộc sống của những người sở hữu đôi chân xinh xắn này sẽ rất tốt đẹp: tiền tài dư dả, cơm ngon áo đẹp… Bàn chân có nốt ruồi son: Người có nốt ruồi son mọc ở bàn chân là người có tướng vượng nhân, mệnh phú quý. Tướng chân này không chỉ tốt cho bản thân, mà còn đem lại may mắn cho người thân của bạn.

Móng chân tròn, bóng nhẵn: Những người có móng chân hình tròn, trơn bóng là người có mệnh phu nhân. Không những được hưởng tiền bạc từ chồng, bạn còn có nhân công dưới quyền để sai khiến. Những người có móng chân mọc cụp xuống dưới lại càng có số hưởng tiền.

ktt_tuongchan2_kienthuc

Móng chân màu hồng: Màu sắc móng chân không chỉ biểu hiện tình trạng sức khỏe, mà còn dự báo vận mệnh của bạn. Những người có móng chân màu trắng sữa thường có vận mệnh ổn định, bình yên. Móng chân màu xám báo hiệu cuộc đời bạn sẽ gặp nhiều trắc trở, đau khổ. Riêng móng chân có sắc hồng hào là biểu hiện đáng mừng của mệnh phú quý. Ngón chân không có đường vân: Nếu mười ngón chân không có đường vân, chứng tỏ người này khá nghèo hèn, dễ bị tán tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua bàn chân –

6 kiếp nạn của 12 con giáp phải đối mặt trong xuân mới

Đường tới Xuân mới không còn xa, nhưng đường vượt qua xuân này còn rất dài. Bạn đã vượt qua kiếp nạn nào trong Xuân Bính Thân này?
6 kiếp nạn của 12 con giáp phải đối mặt trong xuân mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc
 
6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc 2
 
6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc 3
 
6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc 4
 
6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc 5
 
6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc 6
 
6 kiep nan cua 12 con giap phai doi mat trong xuan moi hinh anh goc 7
 
► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất
Bánh Bao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 kiếp nạn của 12 con giáp phải đối mặt trong xuân mới

Vân Pháp lệnh có nốt ruồi báo hiệu điềm gì?

Nếu trên đường Pháp lệnh có nốt ruồi, tùy vào từng vị trí nốt ruồi mà có thể đoán biết được phần nào sự nghiệp, tình duyên và tuổi thọ của mỗi người.
Vân Pháp lệnh có nốt ruồi báo hiệu điềm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– 


► Xem nốt ruồi trên mặt đoán tính cách chuẩn xác
  1. Vân Pháp lệnh là gì?   Pháp lệnh là đường vân chạy từ hai bên cánh mũi xuống tới cằm. Độ dài ngắn, nông sâu của đường Pháp lệnh khác nhau, từ đó cho biết mức độ sống thọ, năng lực chỉ huy, công danh sự nghiệp và địa vị của con người trong xã hội khác nhau.   Pháp lệnh rộng chứng tỏ chủ  nhân thuộc tuýp cá tính mạnh, tính tự lập cao. Dù là nam hay nữ, tất cả đều chủ động trong cuộc sống. Hơn thế, họ quan tâm đến người khác, có tấm lòng rộng lượng, sức khỏe tốt, tuổi thọ cao. Nhìn chung, cuộc đời hạnh phúc, ấm no.   Pháp lệnh hẹp thường thấy ở những người có đầu óc tư duy tốt. Tuy nhiên lại thiếu lòng độ lượng và bao dung, kém khoản giao tiếp, đời sống vật chất không mấy khá giả.   Pháp lệnh đứt đoạn là người thiếu trách nhiệm, làm việc tùy hứng, hay bỏ dở công việc giữa chừng.    Pháp lệnh bên dài, bên ngắn thì chủ nhân hay thay đổi, thiếu quyết đoán, đôi khi không thành thật. Công việc trục trặc, tình duyên trắc trở, đời sống vật chất nghèo nàn.
Van Phap lenh co not ruoi bao hieu diem gi hinh anh goc
 
2. Trên đường vân Pháp lệnh có nốt ruồi ám chỉ điềm gì?   - Nếu trên vân Pháp lệnh có nốt ruồi, tùy vào từng vị trí nốt ruồi mà có thể đoán biết được phần nào sự nghiệp và tuổi thọ của mỗi người.   Nếu chia đường vân Pháp lệnh thành 3 phần, nốt ruồi ở phần trên báo hiệu sự nghiệp ở tiền vận không thuận lợi; nốt ruồi ở phần dưới là điềm dữ, chủ nhân cần đề phòng dễ bị hao tài tốn của khi vào hậu vận; còn nốt ruồi ở giữa đường Pháp lệnh, đôi chân dễ bị đau nhức hoặc va chạm mạnh dẫn đến tổn thương.

Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt Xem tướng mặt là xem cái gì? Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm
  - Ngoài ra, đường Pháp lệnh có nốt ruồi còn báo hiệu tình duyên của chủ nhân bất thuận, có khởi đầu nhưng chưa chắc có kết thúc viên mãn.    Người có đặc điểm tướng cách này khi ra ngoài du lịch, công tác xa cần đặc biệt chú ý đến vấn đề an toàn tính mạng, nhất là bảo vệ đôi chân, tránh bị va chạm mạnh dẫn đến tổn thương nghiêm trọng.   - Đường Pháp lệnh còn đại diện cho công việc, sự nghiệp. Pháp lệnh càng dài thì vận trình sự nghiệp càng cát lợi, lâu dài, quy mô ngày càng phát triển sâu rộng. Tuy nhiên, nếu có nốt ruồi đen trên vân Pháp lệnh, chứng tỏ chủ nhân lập nghiệp vất vả, trên con đường làm giàu gặp không ít khó khăn, trở ngại, sự nghiệp khó phát triển ở tầm vĩ mô.   An Nhiên
Đàn ông có tướng mặt này, phúc mỏng vận xui
Đàn ông có đôi mắt mà ánh nhìn bất định, liếc ngang liếc dọc hoặc nhìn mà như không nhìn, vô thần thì phúc khí mỏng, vận khí cuộc đời ảm đạm. Người này thiếu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Pháp lệnh có nốt ruồi báo hiệu điềm gì?

Đặc tính sao Liêm Trinh - là sao đào hoa thứ hai

Sao Liêm Trinh miếu địa, vượng địa hay đắc địa thủ tại mệnh và thân được hiểu như sao đào hoa thứ 2, có đặc tính như sao Đào Hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Liêm Trinh - là sao đào hoa thứ hai

Đặc tính sao Liêm Trinh - là sao đào hoa thứ hai

Tìm hiểu về đặc tính của sao Liêm Trinh trong tử vi

tên sao Đẩu phận Âm dương Hóa Chủ Tứ hóa
Liêm trinh Bắc đẩu thứ 5 Âm hỏa Tù, sát Quan lộc, thứ đào hoa Giáp: Lộc, Bính: kị

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Liêm Trinh là âm hỏa, là sao đứng thứ năm trong chòm sao Bắc Đẩu, tại đẩu Đẩu tổng quản chức tước, tại số chưởng quản quan quyền. Sao Liêm Trinh chủ về tà, hóa khí là tù, sát (quyền uy), tại cung quan lộc chủ về quan lộc, tại cung thân, mệnh là thứ đào hoa. Như vậy sao Liêm trinh vừa được gọi là họa, lại vừa đucợ gọi là phúc, nhưng họa nhiều hơn phúc, thân phận khá phức tạp.

Sao Liêm Trinh là một sao nhiều biến hóa, mang tính chất đào hoa (là sao đào hoa thứ 2). Thích hợp với lãnh vực chính trị, công chức, trong 12 cung mệnh bàn đều có biểu hiện (đặc biệt biểu hiện kiệt suất trong cung quan lộc). Tính chất đào hoa của sao Liêm Trinh thường bộc lộ trong công việc hoặc hoàn cảnh phải tiếp xúc với người khác giới.

Sao Liêm Trinh không vào cung chiếu vượng, lại phạm quan phù, vì vậy hóa tù làm sát, gây tai ương, họa hại, gặp phải sẽ gặp tai vạ bất trắc không thể giải trừ. Chủ về tính tình hung hãn, cuồng ngạo không lễ nghĩa. Gặp sao Tử Vi là nắm quyền uy, gặp sao lộc tồn thì chỉ phú quý, gặp sao Văn Xương, Vũ Khúc thì chủ về âm nhạc, gặp sao Thất Sát chủ về nghiệp võ hiển vinh. Ở cung quan lộc thì có uy quyền; đóng tại cung thân, mệnh là thứ đào hoa chủ về lẳng lơ đa tình. Nếu rơi vào cung hãm dễ rơi vào kiện tụng bài bạc. Gặp sao Cự Môn rơi vào cung hãm thì chủ về kiện tụng thị phi. Gặp sao Quan Phù thì hao tài, chủ về phá sản nghiệp của cha ông. Gặp Hình, Kị thì khó tránh vạ đổ máu. Gặp Bạch Hổ thì khó tránh hình ngục tra khảo. Gặp sao Vũ Khúc mà cung bị khắc chế thì chủ về dễ bị gỗ đè hoặc rắn cắn mà bị thương. Gặp sao Hỏa tại cung hãm hoặc tuần không thì chủ về nhảy sông hoặc treo cổ. Gặp sao Phá Quân và Thái Dương, Thái Âm tại cung hãm thì dễ bị mắc bệnh tật về mắt, vận hạn gặp phải thì khó tránh tai ương. Chỉ hợp ở các cung quan lộc, thân, mệnh, nếu gặp các cát tinh sẽ có phúc, gặp phải hung tinh sẽ bất lợi. Nếu đóng tại các cung khác cần phân biệt rõ là họa hay phúc. Sao Liêm Trinh độc tọa, nếu đồng cung với sao Thiên Việt, e rằng có họa về rắn thêm chân. Sao Liêm Trinh sợ nhất gặp Hóa Kị, gặp phải sẽ gặp nhiều khốn khó. Nếu sao Liêm Trinh độc tọa gặp sao Địa Không, Địa Kiếp, phần nhiều là nhân viên công chức có chức vụ cao hoặc nhân tài trong lãnh vực khoa học công nghệ.

Hóa khí của sao liêm Trinh là tù, hàm nghĩa có tài mà không gặp thời, cũng như đại biểu cho sự vất vả khó nhọc, phần nhiều đều không phát triển được tài năng. Tù, cũng mang hàm nghĩa là thị phi, dễ có khunh hướng kiện tụng về hành chính, như bị phạt vì điều xe trái luật, bị kỉ luật vì vi phạm nội quy.

Về phương diện quan lộc, sao Liêm Trinh thêm cả tính thiện lẫn tính hung, tức "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", vì vậy mà sa vào thói đầu cơ, mạo hiểm cờ bạc.

Tính chất nhiều biến hóa của sao Liêm Trinh dễ khiến người ta thay đổi một cách cực đoan; như cá tính vẫn hướng nội, đột nhiên trở thành hướng ngoại.

Sao Liêm Trinh thủ mệnh tại cung Thân, Dần nhập miếu, có sao Tham Lang ở đối cung chiếu về, là cách cục "Hùng tú chiều nguyên" (sao mạnh hướng về nguồn), có tài giao tế, có thể đảm đương những chức vị quan trọng, sao Liêm Trinh ở cung mệnh, cung quan lộc tất sẽ có sao Vũ Khúc, nếu gặp sao Văn Xương, Văn Khúc tại cung tam vị tam hội chiếu, là cách cục "Liêm Trinh Văn Vũ", chủ về văn võ song toàn. Sao Liêm Trinh ở cung mệnh có sao Thất Sát đồng cung hoặc ở cung tam phương chính hội chiếu, lại thêm sao Hóa Kị, tứ sát tinh sao phá Quân là cách cục "Sát cũng Liêm Trinh" (sát tinh vây Liêm Trinh), chủ về phiêu bạt không yên, họa hoạn không dứt. Nếu sao Liêm Trinh thủ mệnh tại cung Mão, Dậu, có thêm sát tinh là cách cục "Trinh cư mão, dậu" (Liêm Trinh ở cung mão, dậu), thường làm việc ở các cơ quan hành chính, hoặc giúp việc. Sao Liêm Trinh (tù), Thiên Tướng (ấn) cùng thủ mệnh tại cung Tí hoặc Ngọ nếu có thêm sao Kình Dương, Thiên Hình đồng cung, là cách cục "Hình tù giáp ấn", tuy chỉ về vũ dũng, nhưng bị tổn thương tai họa nặng.

Ca quyết:

Liêm Trinh Tị Hợi cung; ngộ cát phúc danh phong

Ứng ngộ tam tuần hậu; tu phòng bất thiện chung

Nghĩa là:

Liêm Trinh cung Tỵ Hợi; gặp cát phúc tràn về

Sau ba mươi năm tuổi; nên đề phòng không được thiên chung


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Liêm Trinh - là sao đào hoa thứ hai

Chú ý phong thủy khi dọn nhà đón Tết

Truyền thống người Việt ta xưa nay đến dịp cuối năm cũ đầu năm mới nhà nhà đều nô nức đón tết, nhiều thì trang hoàng rực rỡ, ít thì cũng dọn dẹp tươm tất, bày biện tươi tắn. Nhiều gia đình còn vội vàng chuyển nhà mới trước khi đến tết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm đẹp cho nhà cửa cuối năm khá đa dạng và do đó cũng cần có một vài lưu ý để tránh làm sai lệch về không gian cũng như phong thủy, giảm tốn kém và gây mệt mỏi.

Lưu ý các khoảng trống và trung cung

Đa số mọi người hay chưng đồ trong tủ, đặt đồ đạc bám dọc tường nhà, đặt thành cặp, bố trí đối xứng trên các bức tường phòng khách mà quên phần trung cung, thường là những khu vực đi lại, khoảng trống giữa các phòng, giếng trời hay trục cầu thang. Chính những vùng không sinh hoạt thường xuyên này lại là điểm thu hút sinh khí và dẫn dắt tầm nhìn cho nội thất tươi mới.

Do đó, nên dọn sạch gầm thang, tăng cường chiếu sáng và có thể đặt thêm vật dụng trang trí như tượng đá, chậu hoa nhỏ cho các khu vực này. Đối với căn hộ chung cư, Trung Cung thường là phần giao điểm qua lại các phòng, tạo điểm nhấn như dùng thảm hoặc tranh ảnh, bình gốm (thuộc thổ, có tính trung hòa) chậu cây cảnh bề thế… cũng là biện pháp tốt tạo nên một Trung Cung sáng sủa và sinh động vào năm mới.

Lưu ý các vùng chuyển tiếp trong ngoài

Bậu cửa sổ, bậc thềm, sảnh vào cửa chính… vốn là nơi nạp khí và thoát khí thường ngày, khi chưng đồ mới nên tạo sắc thái mới bằng các thủ pháp trang trí hoặc tiểu cảnh.

 Các vật dụng ưu tiên cho khu vực chuyển tiếp thường là chậu cây bon sai hoặc cây kiểng đẹp chịu bóng râm, tỳ hưu bằng đá hay đồng, tranh ảnh câu đối, hình dán linh vật của năm, treo đèn lồng.

 Cần lưu ý yếu tố chiếu sáng và âm thanh tương ứng cho vật trưng bày, bằng cách dùng thêm đèn pha, đặt thác nước, lu nước phong thủy chảy róc rách, treo phong linh, ống sáo trúc để tăng sinh động và kích thích luân chuyển sinh khí trong nhà.

Cẩn trọng với bàn thờ

Đối với khu vực thờ tự, hãy dùng khăn giấy ướt lau sạch bụi bặm cho các tượng (thần tài, thổ địa) hoặc ảnh trên bàn thờ. Tuy nhiên, nên hạn chế di chuyển tượng, ảnh và không dùng giẻ lau. Tiếp theo, hãy kê gọn bàn thờ cho hợp lý theo nguyên tắc: Bát nhang lúc nào cũng đặt xa tượng/ảnh nhất, nghĩa là gần với người thắp nhang nhất, khoảng ở giữa dùng để bày nước, trà, rượu, bình hoa hoặc là mâm trái cây khi cúng. Đối với những nhà thắp nhang nhiều, khi cúng vào ngày 30 tháng Chạp nên đốt hết phần chân nhang của năm cũ, lưu ý là không được vứt vào sọt rác.

Theo phong thủy, quan điểm kỵ di chuyển bát nhang trên bàn thờ là không đúng. Thật ra, việc đánh bóng lư đồng, bát nhang vào dịp lễ, Tết vừa thể hiện sự trang trọng vừa giúp “tống cựu nghinh tân”.

Lưu ý các vị trí ăn uống, đãi khách

Đây cũng là nơi cần chỉnh trang vào dịp tết bởi khu vực này sẽ thường xuyên tập trung người trong dịp năm mới. Cần có chỗ ngồi ổn định của gia chủ để dễ dàng quán xuyến trong ngoài. Bổ sung các vật dụng vừa trang trí vừa sử dụng hiệu quả như hộp khăn giấy, giá để rượu, khay trà…

Tránh xếp đặt tùy tiện theo kiểu gặp đâu ngồi đấy, khi nhà có nhiều khách sẽ vướng víu và bất tiện. Cũng cần dự trù khoảng trống cho trẻ em vui đùa, do vậy có thể cất bớt đi một vài đồ đạc có góc cạnh sắc nhọn để giải phóng không gian và tránh nguy hiểm cho trẻ em vào dịp Tết.

(Theo Cafe Land)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú ý phong thủy khi dọn nhà đón Tết

Công thức tự xem biển số xe hợp phong thủy và mệnh

Xem bói biển số xe phong thủy từ lâu đã được dân kinh doanh đặc biệt coi trọng. Họ tin rằng, biển số xe hợp phong thủy mang tới nhiều may mắn.
Công thức tự xem biển số xe hợp phong thủy và mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói biển số xe phong thủy từ lâu đã được dân kinh doanh đặc biệt coi trọng. Họ tin rằng, biển số xe hợp phong thủy và hợp mệnh sẽ mang tới nhiều sự may mắn và phát đạt.

 

Những con số may mắn của mỗi người được tính toán dựa vào thuộc tính ngũ hành bản mệnh. Chính vì thế, người ta tin rằng, khi sở hữu biển số xe tốt thì việc đi lại, di chuyển sẽ bình an, từ đó thúc đẩy công việc, sự nghiệp phát triển thuận lợi.   
Cong thuc tu xem bien so xe hop phong thuy va menh hinh anh
 

1. Phương thức xem bói biển số xe hợp phong thủy và hợp tuổi

  Các chuyên gia phong thủy hàng đầu đã dành khá nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu cũng như chỉ ra công thức xem biển số xe hợp phong thủy hay hợp mệnh tường người hay không.   
Cong thuc tu xem bien so xe hop phong thuy va menh hinh anh 2
 
Cách thức như sau: Lấy 4 số cuối hoặc 5 số cuối của biển số xe chia cho 80. Sau đó trừ đi phần nguyên và lấy số còn lại nhân với 80, sẽ cho kết quả tương ứng với những con số sau: (Màu đỏ biểu thị cho cát, màu đen biểu thị hung).

CON SỐ

Ý NGHĨA
01 - Thiên địa thái bình 41 - Đức vọng cao thượng
02 - Không phân định 42 - Sự nghiệp bất thành
03 - Tấn tới như ý 43 -  Hoa trong mưa đêm
04 - Bị bệnh 44 - Buồn tủi, khổ đau
05 - Trường thọ 45 - Vận tốt
06 - Cuộc sống an nhàn, dư dả 46 - Gặp nhiều chuyển biến
07 - Cương nghị, quyết đoán 47 - Khai hoa nở nhụy
08 - Ý chí kiên cường 48 - Lập chí
09 - Lúc lên voi khi xuống chó 49 - Nhiều điều xấu
10 - Vạn sự kết thúc 50 - Một thành một bại
11 - Gia vận tốt lành 51 - Thịnh yếu xen kẽ
12 - Ý chí mềm yếu 52 - Biết trước được việc
13 - Tài chí hơn người 53 - Nội tâm ưu sầu
14 - Nước mắt khổ đau 54 - May rủi song hành
15 - Đạt được phước thọ 55 - Ngoài tốt trong khổ
16 - Quý nhân hỗ trợ 56 - Thảm thương
17 - Vượt qua mọi khó khăn 57 - Cây thông trong vườn tuyết
18 - Có chí thì nên 58 - Khổ trước sướng sau
19 - Đoàn tụ ông bà 59 - Mất phương hướng
20 - Sự nghiệp thất bại 60 - Tối tăm không ánh sáng
21 - Thời vận lên xuống, thăng trầm 61 - Danh lợi đầy đủ
22 - Tiền vào như nước, tiền ra như giọt sương mai 62 - Căn bản yếu kém
23 - Mặt trời mọc 63 - Đạt được vinh hoa phú quý
24 - Tài lộc đầy nhà 64 - Cốt nhục chia cắt
25 - Thông minh, nhạy bén 65 -  Phú quý trường thọ
26 - Biến hóa kỳ dị 66 - Trong ngoài không hòa nhã
27 - Dục vọng vô tận 67 - Đường danh lợi thông suốt
28 - Tâm lý bất an 68 - Lập nghiệp thương gia
29 - Dục vọng lớn nhưng khó thành 69 - Đứng ngồi không yên
30 - Chết đi sống lại 70 - Diệt vong thế hệ
31 - Tài dũng được chí 71 - Tinh thần khó chịu
32 - Cầu được uớc thấy 72 - Suối vàng chờ đợi
33 - Gia môn hưng thịnh 73 - Ý chí cao mà sức yếu
34 - Gia đình tan vỡ 74 - Hoàn cảnh gặp bất trắc
35 - Bình an ôn hòa 75 - Thủ được binh an
36 - Phong ba không ngừng 76 - Vĩnh biệt ngàn thu
37 - Hiển đạt uy quyền 77 - Vui sướng cực đỉnh
38 - Ý chí mềm yếu, thụ động 78 - Gia đình buồn tủi
39 - Vinh hoa phú quý 79 -  Hồi sức
40 - Cẩn thận được an 80 - Gặp nhiều xui xẻo

2. Ví dụ cụ thể

  Nếu xe có biển số 7777. Lấy 7777 / 80 = 97,2125 – 97 = 0,2125 x 80 = 17 với ý nghĩa Vượt qua mọi khó khăn.   Xe có biển số 5794 / 80 = 72,425 – 72 = 0,425 x 80 = 34 là Gia đình tan vỡ.   Xe có biển số tứ quý 2222 / 80 = 27,775 – 27 = 0,775 x 80 = 62 Căn bản yếu kém.   Xe có biển số ngũ quý 33333 / 80 = 416,6625 – 416 = 0,6625 x 80 = 53 Nội tâm u sầu.   Theo cách tính trên thì biển số xe tứ quý, ngũ quý cũng chưa hẳn đã tốt. Đây cũng là cách thức xem biển số xe hợp phong thủy chỉ mang tính chất tham khảo bạn nhé!

Bạn  nên xem thêm bài viết: 3 chú ý quan trọng để chọn biển số xe hợp phong thủy

 
Lichngaytot.com    Dựa theo phong thủy xác định điện thoại hung cát
Điện thoại là vật không thể thiếu đối với nhiều người trong cuộc sống hiện đại. Theo góc nhìn phong thủy, dựa theo nhiều yếu tố để xác định hung cát đối với

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Công thức tự xem biển số xe hợp phong thủy và mệnh

Bạn hiểu rõ đường tình cảm trên bàn tay bạn không?

Đường Tình cảm dài mà hướng thẳng lên trên, dài tới chân ngón trỏ cho thấy là người rất cố gắng khi đối mặt với chuyện tình cảm,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đường Tình cảm dài mà hướng thẳng lên trên, dài tới chân ngón trỏ cho thấy là người rất cố gắng khi đối mặt với chuyện tình cảm, hơn nữa còn có thể đón nhận khuyết điểm của đôi phương. Nếu ở phần cuối chia thành hai hoặc ba nhánh thì gọi là đường tình yêu hạnh phúc, hai đường biểu thị tình cảm của hai người rất đẹp, ba đường cho biết không chỉ là tình cảm đẹp mà cuộc sống cũng rất sung túc. Ngược lại, nếu đường Tình cảm hướng xuống, đứt nét đều cho thấy tình cảm không thể tiến triển thuận lợi, hơn nữa còn có người thứ ba xen vào, cho nên khó mà có được cuộc hôn nhân mỹ mãn.

y-nghia-duong-chi-tay

 Khi xem đưòng Hôn nhân nên chú ý, nếu đưòng Hôn nhân sâu dài mà có một hoặc hai đường song song cho thấy hôn nhân sẽ rất hạnh phúc. Nếu đường Hôn nhân bị đứt nét cho thấy sẽ phải ly hôn. Đường Hôn nhân là do nhiều đường nhỏ tố thành cho thấy trong cuộc đồi không có mối tình hoàn chỉnh, hôn nhân bị dao động liên tục, cho dù có kết hôn thì tình cảm cũng lạnh nhạt vô cùng, dẫn tới cuối cùng cũng phải ly hôn. Đường Hôn nhân nông, mò cho thấy đây là người không mong muôn đi đến hôn nhân, cho dù có miễn cưỡng kết hôn cũng không thể có hạnh phúc. 

Đường Hôn nhân có vân đảo cho thấy có trắc trở trong cuộc sống tình cảm, nếu vân đảo nằm ở đầu đường Hôn nhân cho thấy có thê phá được trở ngại, cuối cùng cũng có mối nhân duyên mỹ mãn, nếu vân đảo nằm ở cuối đường Hôn nhân thì khoảng cách không thê hóa giải được, cuối cùng cũng phải chia tay. Đưòng Hôn nhân phân nhánh cho biết quan hệ sau hôn nhân xuất hiện sự rạn nứt, hoặc hai người phải ở hai nơi khác nhau. Đường Hôn nhân hướng xuống cho biết tình cảm sau hôn nhân hoặc tình trạng sức khỏe đều không tốt.

Bàn tay cho thấy không nên quyết định kết hôn vào thời điểm tương ứng

Đường Tình cảm có chỗ khuyết lại đứt nét liên tiếp

Đường Tình cảm có chỗ khuyết lại đứt nét liên tiếp cho thấy chuyện tình cảm không ổn định, khi vừa mới bắt đầu rất thuận lợi, nhưng lại bị những nhân tố bên ngoài quấy rối mà dẫn tới kết cục tất phải chia tay. Về mặt hôn nhân cũng dễ bị ly hôn, ly thân, hoặc người bạn đời gặp biến cố, thậm chí còn sinh ly tử biệt, nhưng có thể được tái hôn.

Đường Hỗn nhân rõ nét hướng xuống giao chạc

Đường Hôn nhân rõ nét hướng xuống giao chạc chính là đường Hôn nhân không những hướng xuống mà còn xuyên ngang qua đường Tình cảm tạo hành hình chạc. Người có bàn tay này về mặt hôn nhân sẽ phải thất vọng vô cùng, đối tượng qua lại với họ về mọi mặt đều không hợp, dễ xảy ra tranh chấp, cãi vã, về mặt tình cảm càng ngày càng xa cách, thậm chí có thể sẽ ly hôn, ngoài ra còn cho biết ngươi bạn đời cũng có thế gặp bất trắc.

Đường Hôn nhân phức tạp mà rối

Đường Hôn nhân phức tạp mà rối cho thấy đời sống tình cảm rất rối ren, đồng thời cũng qua lại với rất nhiều người, hơn nữa đều có những mối quan hệ tình dục. Ngưòi này thường rơi vào những cuộc tình tay ba, sẽ có tình trạng thay đổi người bạn đời. Sau khi kết hôn người này sẽ không thể an phận thủ thường, thưòng chơi bời phóng túng bên ngoài, họ có thể kết hôn nhiều lần.

Phía cuối đường Trí tuệ có đường phân nhánh

Phía cuổì đường Trí tuệ có đường phân nhánh cho thấy cá tính quá mạnh, không thích bị ngưòi khác ràng buộc, về mặt tình cảm họ cũng thường muốn khống chế đối phương, vì vậy mà có nhiều chuyện không vui. Nếu sau khi kết hôn mà không kịp thời duy trì quan hệ hai bên để hiểu về nhau nhằm cải thiện mối quan hệ thì e rằng mâu thuẫn sẽ ngày một lớn, cuối cùng dẫn tới rạn nứt hôn nhân.

Đường Tình cảm xuất hiện vân đảo

Đưòng Tình cảm xuất hiện vân đảo cho biết đây là người quá cố chấp về chuyện tình cảm, nhưng do không biết cách chọn đôi tượng, rất có thể sẽ yêu nhầm người. Do hai bên có khoảng cách quá lớn nên không thể nhận được lời chúc phúc từ mọi người, tình yêu e rằng không thể đơm hoa kết quả dược, nếu có kết hôn cũng không dễ duy trì được lâu dài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn hiểu rõ đường tình cảm trên bàn tay bạn không?

Xem độ chênh giữa 2 đường tình duyên để đoán biết hôn nhân

Chủ nhân của tướng bàn tay mà hai đường tình duyên trên hai tay bằng nhau có tính tình hiền lành, điềm đạm, không dễ nổi cáu hoặc tỏ ra khó chịu trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Xòe hai bàn tay ở trạng thái tự nhiên, sao cho hai bàn tay đặt ngang bằng nhau. Sau đó bạn quan sát xem hai đường tình duyên ở hai tay thuộc kiểu nào dưới đây, bạn sẽ biết đời sống tình cảm, hôn nhân của mình ra sao.

Xem do chenh giua 2 duong tinh duyen tren tuong ban tay de biet hon nhan hinh anh
 
Kiểu 1: Đường tình duyên ở hai tay ngang bằng nhau

Theo kết quả khảo sát ở Nhật Bản, có tới 80% số người tham gia khảo sát có bàn tay kiểu này. Chủ nhân của tướng bàn tay này tính tình hiền lành, điềm đạm, không dễ nổi cáu hoặc tỏ ra khó chịu trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Thông thường, chủ nhân kiểu tay này có thiên hướng hướng nội, thích chăm sóc gia đình, con cái hơn là ra ngoài xã hội phấn đấu.

Chính vì hết mực quan tâm và chăm sóc gia đình, nên đời sống tinh thần phong phú, tình cảm tốt đẹp, hôn nhân êm ấm và an lành.

Xem do chenh giua 2 duong tinh duyen tren tuong ban tay de biet hon nhan hinh anh 2
 

Kiểu 2. Đường tình duyên bên tay phải cao hơn


Sở hữu tướng tay mà đường tình duyên bên tay phải cao hơn tay trái, chứng tỏ bạn được khá nhiều người lớn tuổi hơn để ý và yêu mến.

Thường thì trong các mối quan hệ yêu đương, khoảng cách về tuổi tác giữa bạn và người ấy khá lớn. Những người lớn tuổi hơn, chững chạc hơn mang lại cho bạn cảm giác an toàn, tin tưởng để nương tựa suốt cuộc đời.

Vì thế, tình cảm, hôn nhân của người này cũng khá êm đềm, không phải trải qua nhiều sóng gió nếu kết hôn với người lớn tuổi hơn mình.

Kiểu 3: Đường tình duyên bên tay trái cao hơn

Kiểu tay này cho thấy chủ nhân của nó có ý chí kiên cường, luôn cố gắng không ngừng, phấn đấu không mệt mỏi trong cuộc sống, đặc biệt là sự nghiệp.

Cuộc sống của bạn là phải chuyển động không ngừng. Bạn thích tự mình trải nghiệm nhiều cung bậc cảm xúc, thích tìm tòi, khám phá điều mới lạ, thậm chí khi chinh phục được điều đó, bạn mới có cảm giác thành công.

Trong tình yêu, bạn luôn mong muốn có được mối tình cuồng nhiệt, thà trải qua chút sóng gió để tăng hương vị tình yêu, còn hơn là lúc nào cũng bình lặng, không có bước đột phá mới.

Trong tương lai, nhiều khả năng bạn sẽ lấy chồng xa hoặc kết hôn với người nước ngoài và có đời sống hôn nhân phóng khoáng, thoải mái, tự do làm những điều mình thích.

Việt Hoàng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem độ chênh giữa 2 đường tình duyên để đoán biết hôn nhân

Nữ Nhân Mã và nam Bạch Dương - cặp đôi "quẩy" tưng bừng

Nữ Nhân Mã và nam Bạch Dương là cặp đôi hết sức nồng nhiệt và thú vị. Cặp chòm sao này kết hợp với nhau sẽ quẩy tưng bừng
Nữ Nhân Mã và nam Bạch Dương - cặp đôi "quẩy" tưng bừng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân Mã nữ Bạch Dương nam là cặp đôi hết sức nồng nhiệt và thú vị.


► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Co nang Nhan Ma chang trai Bach Duong - cap doi quay tung bung hinh anh
 
Hai bạn là hiện thân của niềm đam mê, sự trung thực và vui nhộn nên tình yêu của cặp đôi Nhân Mã nữ Bạch Dương nam hết sức vui vẻ và mang tiếng cười đến cho cả những người xung quanh.
 
Sao Mộc và sao Hỏa đưa hai bạn đến gần với nhau hơn. Cả hai đều là ngọn lửa cháy rừng rực nên không khó khăn gì để nhận ra cặp đôi thú vị này giữa đám đông. Nổi bật, chịu chơi và hết mình, không bao giờ thôi nồng nhiệt.
 
Hai bạn sẵn sàng trao nhau những nụ hôn ngọt ngào giữa phố đông, nắm tay nhau dạo quanh thành phố, phi xe đến những miền đất xa xôi hay cùng nhau quẩy hết mình trong một party ngoài trời. Những việc vừa điên rồ, vừa thú vị lại rất đỗi lãng mạn ấy khiến ai ai đều phải trầm trồ trước sự hợp cạ và say đắm của cặp đôi này.
 
Nhân Mã và Bạch Dương là hai chòm sao có tinh thần lạc quan vượt trội, không gì có thể đánh gục họ. Đặc biệt, cô nàng Nhân Mã lại có sự mạnh mẽ đáng kinh ngạc còn anh chàng Bạch Dương thực sự là điểm tựa vững chãi, nên càng ở gần nhau thì sức mạnh của họ lại càng gia tăng. Họ cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách một cách nhanh chóng nhất.
 
Tính phiêu lưu cũng góp phần tạo nên sự hài hòa của cặp đôi 10 điểm này. Không ngần ngại thử sức trong những lĩnh vực mới, kể cả tình cảm. Họ sẵn sàng thử nghiệm mối quan hệ của mình nếu nhận thấy nó đang xuống dốc. Một chuyến du lịch tự do của nàng Nhân Mã, một hoạt động ngoại khóa chỉ có chàng Bạch Dương tham gia. Và chẳng ai phiền lòng vì điều đó cả. Đôi bên đều cần không gian và sự tươi mới.
 
Nữ Nhân Mã và nam Bạch Dương sẽ tạo ra một tình yêu nhiều kích thích, nhiều xung đột nhưng rất dễ thương và khá bền vững. Tuy tính cách bốc đồng, trẻ con, vô tâm nhưng hai chòm sao này khi yêu đều chân thành, nhiệt tình và cởi mở. Họ thích những phẩm chất ở nhau và có thể thay đổi bản thân trong phạm vi cho phép để làm vui lòng đối phương. Đây là bước tiến lớn đối với hai kẻ cứng đầu này.
Ngọc Bích (Theo Horoscopecompatibility)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nữ Nhân Mã và nam Bạch Dương - cặp đôi "quẩy" tưng bừng

Những con giáp nữ trắc trở đường tình duyên

Vì cá tính quá mạnh hay do bận rộn với công việc mà những nàng giáp này gặp khá nhiều trở ngại về đường tình duyên.
Những con giáp nữ trắc trở đường tình duyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

1. Cô nàng tuổi Thìn

Không chỉ riêng nữ giới mà cả nam giới tuổi Thìn đều có chung cá tính mạnh mẽ, lúc nào cũng coi mình là trung tâm vũ trụ, thích chỉ huy người khác, thậm chí có phần áp đặt suy nghĩ của mình cho mọi người.

Nhung nang giap trac tro duong tinh duyen hinh anh
 
Nhưng nhược điểm mà cô nàng tuổi Thìn mắc phải chính là sự nóng vội, thiếu kiên trì, đồng thời không biết giải quyết vấn đề một cách toàn diện mà chỉ có thể xử lí một phương diện nào đó. Theo đó, đôi khi làm mất lòng người khác, các mối quan hệ thiếu sự hài hòa.

Đặc biệt là những nàng cầm tinh con Rồng mà sinh vào đúng năm bản mệnh tính khí lại càng nóng nảy, hiếu thắng. Do đó, họ không thể tiết chế cảm xúc, tình yêu hôn nhân dễ gặp trở ngại, hai bên nảy sinh mâu thuẫn triền miên, khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ.

2. Cô nàng tuổi Tuất

Trong công việc, con gái tuổi Tuất rất xông xáo, chăm chỉ, luôn cống hiến hết mình cho sự nghiệp. Với họ, công việc là trên hết, chuyện tình cảm chỉ là thứ yếu. Chỉ cần họ nhận trách nhiệm với việc gì đó, chắc chắn họ sẽ nỗ lực hết mình để đạt được thành quả xuất sắc nhất.

Nhung nang giap trac tro duong tinh duyen hinh anh 2
 
Chính vì quá chú tâm làm việc nên cô nàng tuổi Tuất không còn thời gian và tâm trí dành cho chuyện yêu đương. Họ thà hi sinh tình cảm cá nhân chứ không chịu bỏ lỡ cơ hội trong sự nghiệp của mình. Vì lẽ đó, đường tình duyên của con giáp này luôn gặp trở ngại, thậm chí phải tái hôn nhiều lần.

3. Cô nàng tuổi Sửu

Nhung nang giap trac tro duong tinh duyen hinh anh 3
 
Những cô nàng cầm tinh con Trâu tuy khá thành đạt trong công việc nhưng lại gặp không ít trở ngại về đường tình duyên. Nguyên nhân chính là do tính cách bộc trực, quá thẳng thắn tới mức cứng nhắc của họ, kể cả trong tình yêu cũng vậy.

Hiếm khi thấy con gái tuổi Sửu chủ động tạo sự hứng khởi, không khí lãng mạn trong tình yêu. Lối sống nguyên tắc và có phần lạnh lùng và hiếu thắng của họ khiến đối phương cảm thấy áp lực nên khó tránh những mâu thuẫn nảy sinh hoặc trắc trở về hôn nhân.

Linh Lan (Theo DYXZ)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp nữ trắc trở đường tình duyên

Phong thủy góc làm việc cho sự nghiệp "lên tiên"

Đơn giản chỉ bằng cách di chuyển một vài đồ vật trong văn phòng hay góc làm việc. Điều đó đồng nghĩa với việc thay đổi những nguồn năng lượng ở các khu vực này. Bạn sẽ đạt được những thành công mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự nghiệp của mỗi người thường khác nhau, có người thuận lợi, có người khó khăn, nhưng tất cả là đều phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi người. Bên cạnh đó, một số yếu tố thuộc về phong thủy cũng được xem là có ảnh hưởng quan trọng đến sự nghiệp của bạn.

 phong thuy goc lam viec cho su nghiep

Trước khi bắt đầu, bạn nên xác định nên tập trung vào đâu. Phòng làm việc chỉ cần một cửa đi, khi đặt bàn làm việc bạn nên chú ý đặt ở vị trí có thể dễ dàng nhìn thấy cánh cửa khi ngồi ở vị trí đặt bàn. Theo phong thuỷ, sẽ là sai lầm khi đặt bàn làm việc ở vị trí khi mà bạn ngồi vào bạn quay lưng lại với cửa đi. Trong trường hợp vì điều kiện phòng không cho phép mà bắt buộc phải kê bàn như vậy thì một tấm gương để bạn có thể quan sát những sau lưng mình sẽ là giải pháp tối ưu nhất.

Phòng làm việc quá tối đồng nghĩa với việc năng lượng trong phòng sẽ ở mức thấp. Bạn cần cung cấp ánh sáng cho phòng làm việc càng nhiều càng tốt bởi như thế sẽ có thể thu hút thêm thật nhiều năng lượng và may mắn cho sự nghiệp của bạn. Không những thế, ánh sáng còn có những kích thích nhất định lên các giác quan của bạn, giúp bạn giải quyết công việc được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Ánh sáng tốt nhất cho phòng làm việc chính là ánh sáng trời, nếu như ngồn sáng này không đáp ứng đủ thì một chiếc đèn bàn loại tốt sẽ bổ sung ánh sáng cần thiết cho bàn làm việc của bạn.

 phong thuy goc lam viec cho su nghiep

Phòng làm việc không nên quá cứng nhắc chỉ với máy tính, sách vở, tài liệu…Một chút năng lượng sống từ những cây xanh trồng trong nhà sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều. Chẳng những đem lại nguồn năng lượng hữu ích, cây xanh chính là một nhà máy hoàn hảo, sự hiện diện của nó trong phòng làm việc cũng sẽ mang đến thêm thành công cho công việc của bạn. Nhưng bạn hãy giành chút ít thời gian để chăm sóc cho cây được phát triển khoẻ mạnh bởi nếu trong phòng bạn có sự hiện diện của những cây xanh yếu, héo hon…sẽ thu hút những năng lượng xấu vào phòng.

Sự nghiệp của bạn cũng có thể được củng cố chỉ bằng những thứ rất đơn giản như một bát nước nhỏ được thả vào đó vài lá cây bạc hà, nó không chỉ mang lại hương thơm tinh khiết mà còn giúp mang mọi người đến với phòng làm việc của bạn và đó cũng giống như việc thu hút thêm nhiều thành công, may mắn đối với công việc của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy góc làm việc cho sự nghiệp "lên tiên"

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd