Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đặt bếp và chậu rửa hợp phong thủy

Phòng bếp trong ngôi nhà hiện đại ngày nay bao gồm hai yếu tố đối lập, xung khắc với nhau đó là bếp (thuộc hỏa) và bồn rửa (thuộc thủy). Do đó bếp và chậu rửa phải được bố trí hợp lý để tránh các yếu tố khắc nhau quá mạnh gây bất lợi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, bếp sinh ra hỏa khí, nước là thủy khí, bản chất hai yếu tố này xung khắc với nhau. Do đó, bồn rửa, vòi nước và tủ lạnh tuyệt đối không được đặt quá gần hoặc đối diện với bếp nấu. Nếu không gian chật hẹp hãy đặt thêm một chiếc bàn hoặc ngăn cách bếp nấu với bồn rửa bằng một khoảng bàn để chuẩn bị thực phẩm ở giữa. Khoảng cách giữa bếp và bồn rửa ít nhất phải được 60cm.

Bồn rửa thuộc Thủy, do đó hãy ưu tiên bố trí nó ở các khu vực như Bắc, Đông hoặc Đông Nam. Nếu không chọn được 3 phương vị này, có thể bố trí tạm ở góc phía Tây. Còn bếp nấu nên đặt tại góc phía Nam, hoặc Đông và Đông Nam. Để có căn bếp hợp phong thủy đương nhiên phải bố trí hợp lý vị trí của bồn rửa và bếp trên cơ sở hài hòa giưa hai yếu tố Thủy và Hỏa.

phong thủy phòng bếp
Bếp và bồn rửa nên đặt cách nhau tối thiểu khoảng 60cm

Ngoài ra, theo phong thủy bếp, vị trí đặt bếp phải "tọa hung" còn hướng bếp phải "hướng cát" mới giúp mang lại may mắn cho gia đình, đồng thời có thể hạn chế phần nào phong thủy xấu của ngôi nhà. Bếp đặt “tọa cát hướng cát” (đặt tại vị trí tốt, quay về hướng tốt) thực ra không tốt bằng “tọa hung hướng cát” (đặt tại vị trí tốt quay về hướng xấu). Điều này cũng dựa theo quan niệm trong “Kim quang đẩu lâm kinh”: “Cửa bếp (miệng bếp) là nơi đưa củi vào đáy nồi để đốt nên phải đặt nó quay về hướng lành, như vậy nhà sẽ nhanh có phúc”. Với bếp gas thì cửa bếp chính là phần có nút điều chính, bật tắt bếp, tức hướng bếp trùng với hướng phía sau lưng của người đứng nấu.

Trường hợp bếp nấu và bồn rửa sắp xếp thẳng hàng dọc theo vách tường phía Tây của căn bếp thì hãy đặt bồn rửa tại phía Bắc, bếp ở phía Nam. Ngược lại, nếu bếp và bồn rửa đặt thẳng hàng nhau dọc theo vách tường phía Đông của căn bếp thì hãy đặt bếp ở phía Bắc còn bồn rửa ở phía Nam. Trường hợp bếp và bồn rửa đặt thẳng hàng nhau dọc theo vách tường phía Bắc của căn bếp thì hãy đặt bếp ở phía Đông còn bồn rửa ở phía Tây. Ngược lại, nếu bếp và bồn rửa đặt thẳng hàng nhau sát dọc theo vách tường phía Nam của căn bếp thì hãy đặt bếp ở phía Tây còn bồn rửa ở phía Đông.

Xét cả trên phương diện phong thủy và kiến trúc, theo chuyên gia Phạm Cương, theo Ngũ hành, toàn bộ gian bếp có thuộc tính Hỏa. Chỉ riêng bồn rửa do chứa nước nên mang tính thủy. Theo thực tế trải nghiệm thì hai yếu tố này đặt cạnh nhau khó có thể tạo nên xung đột có hại cho gia chủ. Theo đó, tương tác xấu chỉ xuất hiện khi bếp nấu và bồn đặt ở vị trí đối diện với nhau, tức là căn bếp rơi vào thế hỏa môn đối với thủy khẩu.


Khi đó, phía mặt tiền của bếp nấu hoặc hướng bếp sẽ là nơi nhận được quá nhiều thủy khí khiến cho hỏa khí không được vượng. Phong thủy còn gọi kiểu bếp này là "thủy hỏa tương xung" khiến người trong nhà dễ mâu thuẫn nhau, từ đó khiến công việc làm ăn kém thuận lợi. Thực tế, phần lớn thiết kế bếp tại Việt Nam hiện nay có rất ít trường hợp bếp đối diện bồn rửa, chủ yếu là kiểu bếp thuận chiều hoặc vuông góc với bồn rửa.

Phòng biên tập có 10 nhân viên. Các nhân viên đến từ các tỉnh, thành phố khác nhau. Trong đó có Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An...Dù đến từ nhiều nơi khác nhau nhưng họ sống rất gần gũi, thân thiết, như anh chị em trong một gia đình. Hàng tháng họ đều tổ chức đi chơi, vui vẻ ăn uống cùng nhau...

(Theo VietQ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt bếp và chậu rửa hợp phong thủy

Biểu tượng gà trống phong thủy đem lại lợi ích gì?

Trong phong thủy, biểu tượng gà trống thường được sử dụng khá phổ biến, có thể là giải trừ các thế sát cho ngôi nhà hoặc giải trừ đào hoa sát.
Biểu tượng gà trống phong thủy đem lại lợi ích gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, biểu tượng gà trống thường được sử dụng khá phổ biến, có thể là giải trừ các thế sát cho ngôi nhà hoặc giải trừ đào hoa sát cho cá nhân hay tránh bị tiểu nhân nói xấu sau lưng. Ngoài ra, bài trí gà trống còn giúp mang lại hạnh phúc và may mắn cho gia chủ.


Bài trí gà trống trong nhà


Theo quan niệm ngũ hành, gà là con vật thuộc hành Kim, phù hợp khi bài trí ở hướng Tây của căn phòng. Ngoài ra, bạn có thể bài trí gà trống tại văn phòng hay phòng khách (hướng Nam) để thu hút may mắn cho gia chủ trong cuộc sống và công việc.
 
Người Trung Quốc tin rằng, gà trống sẽ ngăn cản được năng lượng xấu và những xung đột. Có thể bài trí gà trống trong phòng ăn để bảo vệ gia đình khỏi năng lượng không tốt từ ống thoát khí. Các ống thoát khí mang hình ảnh của con rắn nên được coi là điềm xấu.


Người ta cũng cho rằng, nếu đặt gà trống trước cửa nhà có thể ngăn chặn được sự không chung thủy của người bạn đời.


Xét về mặt chiêu tài, mặc dù không có được tác dụng lớn như biểu tượng cóc 3 chân nhưng bạn vẫn có thể bài trí biểu tượng gà trống trong nhà để thu hút tài lộc.

 
Gà trống gáy vào buổi sáng và vui mừng chào đón ngày mới mang hàm nghĩa nó có thể thoát khỏi những linh hồn xấu bằng cách thông báo sự xuất hiện của mặt trời.


Bài trí gà trống trong kinh doanh


Gà trống được sử dụng trong văn phòng và các doanh nghiệp vì nó có khả năng thúc đẩy sự nghiệp phát triển.

Trong kinh doanh, có thể bài trí gà trống ở khu vực đối diện với các dãy phòng để ngăn chặn sự bất đồng.

Bên cạnh đó, con gà trống, với tư thế vương giả của chúng, cũng được cho là rất tốt cho các nhà lãnh đạo.

 

Chất liệu gà trống


Chất liệu của con vật có vai trò quyết định đến hiệu quả sử dụng về mặt phong thủy. Với mục đích chấn hưng sự sống, thu hút sinh khí, nên bài trí gà trống bằng chất liệu đồng.
 
Trong khi đó, gà trống bằng sứ lại có công dụng là vật hóa sát. Nếu gà trống được làm bằng chất liệu cao su thì hoàn toàn không có tác dụng vì nó không có linh lực.

(Tổng hợp)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Biểu tượng gà trống phong thủy đem lại lợi ích gì?

Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Ngũ hành và con giáp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Cùng xem vận mệnh người tuổi Mão theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có sự khác biệt như thế nào nhé.
Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ hành và con giáp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Hãy cùng xem vận mệnh của người tuổi Mão theo ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ có sự khác biệt như thế nào nhé!  
Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Sửu mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tính cách, vận mệnh người tuổi Dần mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ


Người tuổi Mão tính tình hiền dịu, chu đáo, luôn quan tâm chăm sóc cho mọi người. Họ rất giỏi giao tiếp xã hội, có nhân duyên tốt đẹp, biết hưởng thụ và thưởng thức cái đẹp, biết lắng nghe và giữ bí mật cho người khác.

 

Vậy ngũ hành có ảnh hưởng gì tới con giáp này không? Theo tử vi thì vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ như thế nào? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu bí mật này nhé.

 

Ngũ hành theo năm sinh tương ứng của người tuổi Mão được chia ra như sau:

 

Người sinh năm Quý Mão ngũ hành thuộc Kim: 1963, 2023

Người sinh năm Tân Mão ngũ hành thuộc Mộc: 1951, 2011

Người sinh năm Ất Mão ngũ hành thuộc Thủy: 1915, 1975

Người sinh năm Đinh Mão ngũ hành thuộc Hỏa: 1927, 1987

Người sinh năm Kỷ Mão ngũ hành thuộc Thổ: 1939, 1999  

 

Bảng tra mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi trên ## cũng sẽ giúp bạn tra cứu mệnh ngũ hành của mình một cách nhanh chóng.

 

Để tìm nội dung cần xem nhanh hơn, mời bạn click vào Mục lục dưới đây.

 

MỤC LỤC

 

Tuổi Mão mệnh Kim

Tuổi Mão mệnh Mộc

Tuổi Mão mệnh Thủy

Tuổi Mão mệnh Hỏa

Tuổi Mão mệnh Thổ

 

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Kim

 

Người sinh năm Mão ngũ hành thuộc Kim tính cách hoạt bát, sôi nổi, vì thế mà cuộc sống của họ thường rất bận rộn và phong phú đủ sắc màu. Họ có nhiều niềm đam mê và sẵn sàng theo đuổi nó tới cùng, người này thường mải mê làm việc tới quên ăn quên ngủ.

 

Nhân duyên của người này rất tốt, họ có khiếu ăn nói, khiến cho người đối diện cảm thấy thoải mái như được uống một ngụm nước mát lành giữa trưa hè nóng bức. Nếu ngăn cách họ với xã hội, người tuổi Mão mệnh Kim sẽ cảm thấy cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, đó cũng chính là lý do thôi thúc họ tạo dựng mối quan hệ xã giao thật tốt.

 

Tính cách người này lương thiện và có phần bảo thủ, không thích cạnh tranh không lành mạnh. Họ thích thử thách, cạnh trang công bằng, thường hay kết bạn với những người có tham vọng và dã tâm lớn, dễ thành tri kỉ với người có chí tiến thủ, ham học hỏi.

 

Trong công việc, người tuổi Mão mệnh Kim khá lặng lẽ, họ toàn tâm toàn ý làm công việc của mình, không đòi hỏi mà rất có trách nhiệm với những việc được giao. Tuy nhiên, họ không thích hợp triển khai những kế hoạch lớn, có thời gian lâu dài.

 

Nếu bạn có ý định thôi việc hoặc nhảy việc, hãy kiên nhẫn, cho bản thân thêm thời gian suy nghĩ kĩ càng và lên kế hoạch thực tế cho mình. Trong khoảng thời gian này, áp lực và mệt mỏi khiến bạn muốn buông xuôi, vậy thì hãy dùng một phần số tiền tích lũy được cho bản thân, đi chơi một chuyến cho thư thái tinh thần, trở về bắt tay gây dựng cuộc sống mới.

 

Có trí tưởng tượng phong phú, người tuổi Mão mệnh Kim luôn khao khát trở thành người tài giỏi xuất chúng. Họ ghét sự tầm thường, nhàn chán của cuộc sống. Trong tình yêu, họ cũng tỏ rõ cá tính của mình.

 

Đây là người hết lòng vì tình yêu. Không yêu thì thôi, đã yêu thì họ nguyện chết đi sống lại với tình cảm của mình. Nhiệt tình như lửa, không cần biết đến cảm xúc của đối phương nên đôi khi họ trở nên mù quáng trong tình yêu.

 

Tuy nhiên, cũng chính nhờ sự nhiệt tình và chủ động mà đã nhắm tới ai thì đa phần họ đều theo đuổi được. Nam hay nữ đều như vậy, đây cũng được coi là điểm cuốn hút, hấp dẫn của họ đối với người khác giới.

Bạn có biết Tuổi Mão hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân không?

 

Vận mệnh người tuổi Mão theo ngũ hành Kim khá có duyên với tài lộc, thường hay có được vận may tài lộc đầy nhà. Song người này nên cực kì cẩn trọng, bởi tiền bạc có nhiều trong tay nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể có chuyện bất trắc xảy ra khiến phá tài hao của.

 

Nên hạn chế tiếp xúc với lĩnh vực đầu tư, tuyệt đối tránh xa cờ bạc, vay nặng lãi. Nên thắt chặt chi tiêu, tránh những cuộc vui chơi sa đọa không cần thiết.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Mộc

 

Người tuổi Mão mệnh Mộc thông minh lanh lợi, có nhiều ý tưởng độc đáo. Người khác thường có ấn tượng vì sự vui vẻ lạc quan của họ, song kì thực đây lại là người có nội tâm thâm trầm, thậm chí có phần thâm hiểm khi họ nhớ kĩ và ghi thù từng chuyện nhỏ.

 

Về đường tình duyên, tình cảm của người tuổi Mão mệnh này không mấy ổn định, trải qua khá nhiều sóng gió thăng trầm. Họ là người kiên định trong tình yêu, nếu lỡ duyên không thành thì phải mất một khoảng thời gian rất lâu mới vượt qua được bóng đen tâm lý.

 

Người này có khuynh hướng dễ trở nên ích kỉ, chỉ nghĩ cái lợi cho mình. Chính vì thế, trong mọi chuyện nên chú ý giữ công bằng. Nếu có thể chân thành đối xử, chu đáo lo nghĩ cho người khác thì chắc chắc gia đình và sự nghiệp sẽ càng thêm viên mãn.

 

Mão Mộc là người không thích nói thẳng ra suy nghĩ của mình, vì thế mà mọi người khó có thể biết được điều thực sự mà họ nghĩ là gì. Những người xung quanh chỉ có thể nhìn thấy bề ngoài hiền hòa của họ, hiếm có ai có thể thực sự lại gần và biết rõ con người Mão Mộc.

 

Vận mệnh của người tuổi Mão mệnh Mộc khá tốt. Họ có chuẩn bị cho tuổi già từ rất sớm. Họ luôn muốn làm rất nhiều việc, cũng may mắn khi hễ gặp khó khăn lại có quý nhân nâng đỡ, giúp họ giải quyết vấn đề hoặc chỉ cho con đường phát tài phát lộc, bù đắp lại những tổn thất trước đó.

 

Trong quan hệ xã hội, nên chú ý giữ gìn hòa khí với đồng nghiệp và cấp dưới, tốt nhất không nên gây tranh cãi, mâu thuẫn với người khác.

 

Với những bạn còn đang ngồi trên ghế nhà trường, trong khoảng thời gian này hãy tập trung vào chuyện học hành, đừng để những suy nghĩ về tiền bạc trong xã hội làm ảnh hưởng. Người tuổi Mão mệnh Mộc thích náo nhiệt nên có phần ham chơi, nên kiểm soát bản thân.

 

Người này cũng chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi cảm xúc. Họ dễ cảm thấy cô đơn, cảm xúc lên xuống thất thường, buồn vui bất chợt. Những lúc đó, hãy nói chuyện, tâm sự cùng bạn bè, người thân, người yêu để giải tỏa tâm trạng.

 

Bình thường Mão Mộc là người chi tiêu khá phóng tay, thường xuyên xuất hiện những khoản mua sắm giá trị lớn, mà thường thì là cho chuyện ăn uống là chủ yếu. Nên tiết kiệm hơn về tiền bạc. Bạn có thể thử bắt đầu từ những khoản đầu tư nho nhỏ hay mua cổ phiếu của công ty, cơ hội thành công khá cao.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Thủy

 

Người tuổi Mão mệnh Thủy tính cách ôn hòa, song cũng rất nhạy bén, linh hoạt, có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh khác nhau, có khả năng phát huy bản thân ở mức cao nhất. Khuyết điểm của người này là thiếu nguyên tắc, dễ chịu ảnh hưởng bởi người khác.

 

Người này tâm niệm mọi chuyện “tùy duyên”, cũng chính vì lý do này mà họ thường có cái nhìn khá bi quan và thụ động, thích ổn định an nhàn, theo đuổi sự sung sướng hạnh phúc. Họ làm việc không cố gắng hết mình, hiếm khi tạo áp lực cho bản thân, hết trách nhiệm là không để ý đến nữa.

 

Tuy nhiên, nếu có người bên cạnh quan sát, đốc thúc, không ngừng cổ vũ, tạo niềm tin thì người này sẽ có thêm động lực và thu được thành quả khá tốt đẹp. Mão Thủy là người dễ dựa dẫm vào người mà họ tin tưởng, nhưng hễ mất đi chỗ dựa này thì tinh thần họ sẽ rất dễ bị suy sụp. Đây là khuyết điểm cần khắc phục, bởi con người luôn phải học cách độc lập, không ai nắm tay nhau được cả ngày.

 

Tính cách có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp của người tuổi Mão. Khi tinh thần sa sút thì họ khó tập trung vào công việc, đặc biệt là những công việc đòi hỏi sự chuyên nghiệp và chính xác thì càng có khả năng mắc sai lầm. Nên điều chỉnh cảm xúc của bản thân, khống chế mình, không để cảm xúc ảnh hưởng đến công việc quá nhiều.

 

Khả năng giải quyết việc riêng tư của Mão Thủy không được tốt lắm. Họ dễ để cảm xúc dẫn dắt, vì những chuyện không đâu mà trút giận lên người khác, cũng rất dễ nảy sinh tranh cãi với cấp trên, cản trở tiền đồ phía trước. Nếu muốn sự nghiệp hanh thông, vạn sự như ý thì trước tiên phải học cách kiểm soát bản thân.

 

Vận thế tình cảm của người tuổi Mão mệnh Thủy không có nhiều sóng gió, mọi chuyện diễn ra bình bình, đôi lúc xuất hiện niềm vui bất ngờ nhưng thường rực rỡ quá mức chịu đựng. Họ khó tìm được người tâm đầu ý hợp, cũng khắt khe trong việc lựa chọn bạn đời. Nên thay đổi thái độ và tích cực hơn trong chuyện tình duyên.

 

Những người đã có đôi hay đã kết hôn gặp khá nhiều vấn đề rắc rối trong cuộc sống, chi phối tình cảm người này, do đó dễ nảy sinh tranh cãi với nửa kia. Nên học cách nhẫn nhịn, yêu thương người bên cạnh mình.

 

Sự dịu dàng cũng có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của người tuổi Mão mệnh Thủy. Họ dễ bị kẻ xấu lợi dụng, dễ bị lừa gạt, nên rèn luyện cho mình khả năng quan sát và phán đoán sự việc, nhất là trong chuyện tình cảm. Nếu gặp vấn đề về sức khỏe, nên lập tức đến bệnh viện kiểm tra, đừng sợ tốn tiền mà ảnh hưởng đến sức khỏe của bản thân.

 

Người này khá may mắn, cho dù gặp khó khăn về tiền bạc nhưng cũng nhờ sự trợ giúp của người khác mà vượt ải. Họ cũng khá khéo léo khi sử dụng nguồn vốn của người khác để đầu tư sinh lời cho bản thân.

 

Mão Thủy có bản lĩnh, có đủ tự tin để đối phó với trở ngại, đặc biệt là những chuyện xui rủi xảy tới bất ngờ. Họ nhanh chóng trấn tĩnh bản thân và tập trung vào hóa giải nguy cơ. Bạn bè, đồng nghiệp, người cùng hợp tác là những trợ thủ đắc lực cho người này. Nên cố gắng giữ mối quan hệ tốt đẹp, đừng vì chuyện vặt mà gây mất tình đoàn kết.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
 

 

Tuổi Mão mệnh Hỏa

 

Người tuổi Mão mệnh Hỏa sống phóng khoáng, độ lượng, khoan dung hiền hậu với người. Họ thông minh linh hoạt, làm việc nghiêm túc, có tố chất lãnh đạo. Người này có tư duy sáng tạo, cái nhìn độc đáo, biết dùng người tài, còn biết bồi dưỡng lớp người kế cận, là những người giáo viên bẩm sinh.

 

Tuy nhiên, do mang trong mình lý tưởng cao xa, tham vọng to lớn, lại luôn thích làm người chỉ huy nên Mão Hỏa khiến người khác có ấn tượng khá kiêu căng, tự đại. Ngoài ra, họ còn thích sử dụng sức ảnh hưởng của mình đối với số đông, dùng cách khơi gợi sự cổ vũ để giúp bản thân đạt được mục tiêu nên có thể khiến cho những người xung quanh cảm thấy áp lực nặng nề.

 
Mời bạn đọc thêm: Phong thủy tăng vận may tình cảm cho người tuổi Mão.
 

Khi làm việc, họ tỏ rõ mình là một người lý trí và bình tĩnh, tự rèn luyện cho mình khả năng học hỏi và ghi nhớ từ kinh nghiệm của người đi trước, rất nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, không có suy nghĩ lười biếng hay đi đường tắt.

 

Tính xấu đổ lỗi, trút giận lên người khác mỗi khi không rất có thể khiến cho các mối quan hệ xã giao của người này mất đi sự hài hòa. Nên giữ lời ăn tiếng nói, suy nghĩ kĩ trước khi hành động để tránh hối hận về sau.

 

Trong chuyện tình cảm, khi gặp chuyện không vui, họ thường xả ngay với người yêu, thậm chí có khi không khống chế được bản thân mà có những lời nói gây tổn thương, đau khổ cho đối phương. Vì thế, khi thấy buồn bã, Mão Hỏa hãy cố gắng suy nghĩ lý trí, đừng để người yêu trở thành “sọt rác” chứa mọi nỗi niềm của mình, nhất là những khi đi xa, đi du lịch cùng nhau.

 

Người này có thể gặp phải những vấn đề xấu về tiền bạc bất ngờ xảy đến. Nhất định phải nhớ kĩ, không được hoảng loạn, tốt nhất nên đầu tư vào bất động sản hoặc các vật dụng có giá trị cao.

 

Tinh cach, van menh nguoi tuoi Mao menh Kim, Moc, Thuy, Hoa, Tho hinh anh
mão ngũ hành

 

Tuổi Mão mệnh Thổ

 

Người tuổi Mão mệnh Thổ có khát vọng khá lớn, chí tại bốn phương. Họ mơ ước tự tay gây dựng cho mình một đế chế, tay trắng làm nên sự nghiệp. Cũng chính vì chí hướng như vậy nên người này thường xa gia đình từ rất sớm, tự mình lập nghiệp, phát triển ở bên ngoài, sau này thành đạt mới trở về vinh quy bái tổ.

 

Tính cách họ có phần cao ngạo, lại có tham vọng lớn, thấy cái lợi không biết điểm dừng, thậm chí có phần hơi tham lam. Nếu biết nghe lời khuyên bảo, góp ý của người khác, biết tìm cho mình điểm dừng thì số tài sản tích lũy được thời trẻ có thể bảo toàn.

 

Tính cách thẳng thắn, thoải mái vô tư, song lời nói và hành động của họ đôi khi hơi thái quá, đem lại cảm giác lỗ mãng, không hiểu lãng mạn là gì. Họ luôn yêu cầu rất cao trong công việc, cũng có khả năng biến hóa linh hoạt, năng lực xuất chúng hơn người.

 

Họ chú ý đến tiểu tiết, rất hợp làm những nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ kĩ càng. Tuy nhiên, họ rất nhanh chán nản, cần luôn tự tạo động lực làm việc cho bản thân thì mới có thể theo đuổi mục tiêu hết mình.

 

Sức khỏe của Mão Thổ không được tốt lắm. Với nam giới, ra ngoài họ là người hoạt bát, nhưng về tới nhà thường trở nên trầm lặng, suy tư. Nữ giới là người có sức hút rất lớn với người khác phái. Họ dịu dàng hiền thục, thân thiện dễ gần, không chê trách ai bao giờ, được rất nhiều người yêu mến, song cũng có không ít kẻ ganh đua ghen tị.

 

Vận mệnh người tuổi Mão mệnh Thổ về cơ bản khá tốt, nhưng người này không có tài quản lý tài chính, tiền vào nhiều mà không cẩn thận thì ra cũng nhiều. Đừng nên tùy tiện cho người khác vay tiền, cũng hạn chế vay tiền người khác, càng không được lại gần chốn cờ bạc kẻo dễ sa chân lỡ bước.


An An 

Tính cách người tuổi Mão nhóm máu O: Phóng khoáng, quảng giao Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Mão

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách, vận mệnh người tuổi Mão mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ

Xem cách bài trí bàn thờ thần tài (phần 2)

Sơ đồ bài trí bàn thờ Thần Tài gồm tượng Thần Tài, bài vị, tượng thần Thổ Địa, lọ đựng hương thắp, bát hương đặt chính giữa, lọ cắm hoa, đĩa gạo muối, nước và rượu, ngoài ra có ông Cóc ngậm tiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sơ đồ bài trí bàn thờ Thần Tài, bao gồm tượng Thần Tài, bài vị, tượng thần Thổ Địa, lọ đựng hương thắp, bát hương đặt chính giữa, lọ cắm hoa, địa gạo muối, nước và rượu, ngoài ra có ông Cóc ngậm tiền quay mặt vào trong nhà nữa:

THẦN TÀI

 

BÀI VỊ

 

THẦN THỔ ĐỊA

 

 

 

LỌ ĐỰNG HƯƠNG THẮP

 

BÁT HƯƠNG

 

LỌ CẮM HOA

 

 

 

ĐĨA ĐỰNG GẠO MUỐI, NƯỚC, RƯỢU

 

CÓC BA CHÂN

 

ĐĨA ĐỰNG ĐỒ CÚNG KHÁC

Lọ đựng hương thắp và lọ cắm hoa: Lọ để hương thắp và lọ cắm hoa thường làm bằng sứ, nhưng có gia đình làm bằng chất liệu đá xanh. Hoa dùng để thờ nên dùng hoa tươi, không nên dùng hoa khô. Trong lọ hương thắp, có thể cắm các cành lộc đi lễ chùa, đền.

Bát hương: Bát hương thường làm bằng ba chất liệu cơ bản, bằng sứ, kim loại, đá (ngọc). Khi bôc bát hương, phụ nữ phải sạch sẽ, không bị kinh nguyệt, nam giới không được uống rượu, ăn thịt chó, quan hệ với người khác giới, nếu không sẽ mất đi sự linh nghiệm nhất định. Cốt bát hương gồm có giấy bát hương ghi rõ địa chỉ, thần tài, bọc lấy phần cốt bên trong gồm vàng bạc, vụn đá đỏ. Tro phủ lên trên cốt phải được giữ sạch sẽ không được ẩm mốc, đế ở nơi khô thoáng. Sau khi bốc xong nên nhờ các bậc đức minh sư khai quang hoặc mang lên chùa để trên ban đức ông khoảng 1 tuần thì mới mang về nhà. Không được dùíig khăn ướt để lau bàn thờ, vì bàn thờ mệnh Hỏa, mà Thủy khắc Hỏa, không tốt.

Đĩa đựng ba chén gạo muối, nước rượu: Dùng để mới khi thắp hương khấn vái thần tài. Khi cúng xong hương đã tàn có thể dùng muối gạo vãi ra tứ phía có nghĩa phân phát cho chúng sinh, còn nước đổ đi, rượu có I thể tưới lên tiền vàng đã hóa xong. Chú ý không được đổ nước lên vàng mã đã hóa. Có nơi dùng ba lọ đựng gạo, muôi, nước chỉ đổ đi khi làm lễ tất niên, thức cúng thì thay bằng 5 chén đựng nước (rượu) tượng trưng cho Ngũ hành.

Đĩa đựng đồ cúng khác: Yêu cầu chuyên dụng làm đồ cúng, không vì tiện dụng nhất thời mà đem ra sử dụng trong khi ăn cơm, sau lại rửa sạch để làm đồ cúng. Điều đó khiến cho thức ăn cúng không còn trai tịnh. Không nên giết mổ các loài động vật vào mùng 1 và ngày rằm, nếu bất khả kháng thì ra chợ mua đồ đã mổ sẵn. Có thể dùng 5 hoặc 7 loại quả để thay thế. Hoa quả mua về phải rửa sạch, để khô nước mới bày lên bàn thờ.

Cóc ba chân: Theo truyền thuyết Trung Quốc, cóc ba chân còn có tên gọi là Thiềm Thừ, vốn là một con yêu tinh được tiên ông Lưu Hải thu phục. Sau đó, nó theo tiên ông tu hành không làm hại người, học được phép thuật hành thiện, thường nhả tiền giúp đỡ mọi người trong nhân gian. Vì vậy nó được mọi người tôn sùng, coi là một con vật phong thủy về tài lộc, cát tường.

Cóc ban chân ngậm đồng tiền cổ (tốt nhất là loại Càn Long thông bảo, hoặc ít nhất đồng tiền đó đã xuất hiện trên 100 năm) đang quay đầu vào nhà, khi nhìn kỹ hơn ta sẽ thấy trên đầu con cóc có hình lưõng nghi, tức là hình tròn, bên trong vòng tròn có hình tượng như hai con cá quay đầu lại với nhau, giống như hình ở trung tâm của gương Bát quái.

Trên lưng cóc có những nốt sần đặc biệt, người ta gọi là chòm sao Đại hùng, bên cạnh lưng cóc có mang theo hai xâu tiền cổ và 3 chân cóc đạp lên hai lớp tiền cổ, chỉ có 3 chân, chứ không phải là 4 chân như cóc bình thường, chân thứ ba của nó mọc từ hậu môn.

Cóc ba chân được làm từ rất nhiều chất liệu như đồng, đá, bằng ngọc. Bằng đá, ngọc là tốt nhất vì các chất liệu này thuộc hành Thổ mà ở Bát vận thì Thổ vượng tướng.

Cóc ba chân chỉ có thể đặt ở bàn thò thần tài, không nên đặt trong phòng tắm, phòng vệ sinh, điều đó dẫn đến hệ quả cóc hấp thụ khí xấu trở thành hung vật có hại đến phong thủy.

Cách sử dụng cóc ba chân theo thời gian. Buổi sáng trưóc giờ đi làm bạn có thể quay đầu cóc ra ngoài, sau giờ đi làm về nhà bạn quay đầu cóc vào trong bàn thờ vì nó chỉ ăn tiền nhưng không bài tiết. Tốì về đến nhá là nhả tiền đã nuốt ra cho thân chủ.

Những điều nên và không nên ở phương tài vị

- Phương tài vị tối kỵ nước. Vì nơi đây là cát thần tọa vị, nay ta đem nước đến là “cát thần lạc thủy”, tốt lại thành xấu.

- Phương tài vị nên sáng sủa, quang minh, không thể để tối ám. Sáng là năng lượng dương, thích hợp với dương khí. Sinh khí không ưa nơi tối tăm, nên phương này tuyệt đốì không nên để tối, nếu thiếu ánh sáng tự nhiên thì nên lắp thêm đèn.

- Phương tài vị phía sau nên có tường che chắn, không thê trổ cửa, trổ cửa sổ, có vậy mới hợp cách cục tàng phong tụ khí, tài vận mới tụ được.

- Phương tài vị tối kỵ bị các vật nhọn xung xạ đến như cạnh bàn, cạnh tủ... sẽ làm tổn hại tài khí nơi đó.

- Phương tài vị nên bày cây xanh là tốt, phải nhố là trồng loại cây luôn luôn xanh tươi, tốt nhất là các loại cây trồng bằng đất bùn, không thích hợp các loại cây trồng trong nước. Nên chọn các loại cây lá to, dày, lá xanh mãi như cây Vạn niên thanh.

- Phương tài vị tối kỵ đặt các vật nặng như tủ sách, kệ sắt, máy móc nặng sẽ làm tôn hại đến tài vận.

- Phương tài vị tốt nhất nên đặt bàn ngồi ở đấy, để cả nhà thường xuyên ngồi ở đó, hít thở không khí của tài vị hay nói cách khác lạ được thấm nhuần nguồn tài khí nơi đó, sẽ giúp ích cho tài vận người trong nhà.

- Phương tài vị không nên để tối tăm, vì u tối thì sinh khí không sinh sôi được, sẽ ảnh hưởng đến tài vận.

- Phương tài vị là nơi cát thần tọa vị nên kỵ ô uế, dơ bẩn. Vì vậy không thể để vật ô uế, bụi bặm nơi đây

- Phương tài vị nên đặt vật hay biểu tượng cát tường. Bởi phương này là nơi vượng khí ngưng tụ, nếu ta đặt thêm một biểu tượng cát khánh thì tốt càng thêm tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem cách bài trí bàn thờ thần tài (phần 2)

Nhận diện phụ nữ có tướng tốt –

Phụ nữ có “cửu thiên” hay “cửu mỹ tướng” là người phụ nữ có cát tướng, Kết hôn với những người phụ nữ này thì cuộc sống gia đình luôn luôn hạnh phúc. Phụ nữ có 1 số đặc điểm dưới đây được xem là tướng tốt. Các nhà nhân tướng học gọi đó là “cửu thiên”
Nhận diện phụ nữ có tướng tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện phụ nữ có tướng tốt –

Xem tuổi phạm kim lâu –

Kim Lâu gồm có: - Kim Lâu Thân kỵ bản thân mình. - Kim Lâu Thê kỵ vợ. - Kim Lâu Tử kỵ con. - Kim Lâu Súc kỵ chăn nuôi gia súc. (Nếu ai không chăn nuôi gia súc chuyên nghiệp, thì vẫn làm nhà được).   Các cung phạm Kim Lâu là Khôn, Càn, Cấn, Tốn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim Lâu gồm có:

– Kim Lâu Thân kỵ bản thân mình.
– Kim Lâu Thê kỵ vợ.
– Kim Lâu Tử kỵ con.
– Kim Lâu Súc kỵ chăn nuôi gia súc.
(Nếu ai không chăn nuôi gia súc chuyên nghiệp, thì vẫn làm nhà được).

ban-tay-kim-lau

 

Các cung phạm Kim Lâu là Khôn, Càn, Cấn, Tốn.
Các cung không phạm là Đoài, Khảm, Chấn , Ly, ngũ Trung.

Cách tính như sau:

– Theo quy luật chuyển cung bát quái, thuận kim đồng hồ, cứ cách một cung phạm Kim Lâu thì một cung không phạm Kim Lâu, nếu bạn nào sáng ý có thể điểm trên bàn tay cũng tính được Kim Lâu.

+ 10 tuổi khởi tại cung Khôn phạm Kim Lâu Thân.
– 11 tuổi tại cung Đoài Không phạm.
– 12 tuổi tại cung Càn phạm Kim Lâu Thê.
– 13 tuổi tại cung Khảm không phạm.
– 14 tuổi tại cung Cấn phạm Kim Lâu Tử.
– 15 tuổi tại cung Chấn không phạm.
– 16 tuổi tại cung Tốn phạm Kim Lâu Súc.
– 17 tuổi tại cung Ly không phạm.
– 18 tuổi tại cung Khôn phạm Kim Lâu Thân.
– 19 tuổi tại cung Đoài không phạm.

20 tuổi khởi tại cung Đoài không phạm Kim Lâu.
– 21 tuổi tại cung Càn phạm phạm Kim Lâu Thê.
– 22 tuổi tại cung Khảm Không phạm Kim Lâu.
– 23 tuổi tại cung Cấn phạm phạm Kim Lâu Tử.
– 24 tuổi tại cung Chấn không phạm Kim Lâu.
– 25 tuổi tại cung Tốn phạm Kim Lâu Súc.
– 26 tuổi tại cung Ly không phạm Kim Lâu.
– 27 tuổi tại cung Khôn phạm Kim Lâu Thân.
– 28 tuổi tại cung Đoài không phạm Kim Lâu.
– 29 tuổi tại cung Càn phạm Kim Lâu Thê.

30 tuổi, 40 tuổi, tiếp tục chuyển thuận kim đồng hồ như 10 tuổi và 20 tuổi

Riêng 50 tuổi khởi tại ngũ trung, không phạm Kim Lâu (Quy tắc: Ngũ thập nhập cung trung).
– 51 tuổi chuyển đến cung Cấn phạm Kim Lâu Thê.
– 52 tuổi cung Chấn không phạm, tiếp tục chuyển thuận kim đồng hồ.

60 tuổi, 70 tuổi cũng tính chuyển thuận kim đồng hồ trên bát quái như 10tuổi, 20 tuổi, 30 tuổi, 40 tuổi, nhưng đến 50 tuổi phải nhập cung trung (Quy tắc: Ngũ thập nhập cung trung).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi phạm kim lâu –

Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần.
Những con giáp dễ bị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Thìn

Nguyên nhân “đứt gánh giữa đường” trong tình yêu: Quá chú trọng đến bản thân mà không quan tâm đến cảm giác của đối phương.

Bản tính trời sinh của người tuổi Thìn là tự tin, thậm chí có đôi chút tự cao tự đại, dễ gây bất hòa với mọi người. Hơn thế họ còn khá nóng tính, không kiên trì và nhưng lại thích nắm quyền lực trong tay.

thin-6602-1399355378.jpg

Trong tình yêu, những tính cách này của người tuổi Thìn sẽ gây ra không ít phiền toái chẳng hạn như tranh cãi, gây mâu thuẫn hoặc gò ép đối phương phải nghe theo ý kiến của mình. Nếu không sửa đổi bản tính, tuổi Thìn chỉ có thể yêu nửa vời hoặc bị “đứt gánh giữa đường”.

Á quân: Tuổi Tuất

Nguyên nhân chủ yếu: Quá coi trọng sự nghiệp mà dành ít thời gian quan tâm tới nửa kia.

Tính cách kiên trì của người tuổi này sẽ khiến họ thực hiện tốt công việc được giao mà không có chuyện bỏ dở giữa chừng. Với họ, công việc là tất cả những gì tốt đẹp nhất trên cuộc đời này, nếu không làm việc, họ sẽ không thấy mình được sống.

tuat-1462-1399355379.jpg

Vì quá coi trọng sự nghiệp nên người tuổi Tuất có thể hy sinh cả tình yêu của mình nếu như phải chọn một trong hai điều này. Điều này khiến đối phương cảm thấy buồn tủi vì không dành được sự quan tâm nhiệt tình từ người yêu của mình. 

No3: Tuổi Sửu

Nguyên nhân chủ yếu: Tính cách bảo thủ, không biết cách tạo sự lãng mạn.

Tính cách cố chấp và có phần bảo thủ, không linh hoạt của người tuổi Sửu chính là rào cản khiến họ khó có được một tình yêu lãng mạn, tuyệt vời.

suu-5054-1399355379.jpg

Hơn thế, lòng tự trọng của người tuổi Sửu quá cao nên sẽ không có chuyện họ chủ động tỏ tình hay thổ lộ nỗi lòng, sự quan tâm của mình cho đối phương biết. Họ cứ âm thầm đợi chờ, không chủ động tạo sự lãng mạn nào cả, chờ cho đến khi đối phương tự gật đầu đồng ý là coi như xong. Thái độ nửa vời này của người tuổi Sửu sẽ khiến đối phương cảm thấy khó chịu và ức chế.

No4: Tuổi Ngọ

Nguyên nhân chủ yếu: Không quan tâm tới vẻ ngoài nên không biết cách làm đẹp.

Người tuổi này thường mong muốn có được cuộc sống bình yên và thoải mái. Tính tình thì cố chấp và không dễ thay đổi bản tính của tuổi Ngọ khiến họ khó tiếp thu những điều mới lạ mà cứ bảo thủ những gì mà mình cho là đúng.

ngo-1831-1399355379.jpg

Ngay trong chuyện ăn mặc cũng vậy. Họ cho rằng mặc sao cho thoải mái là được chứ không cần phải câu lệ chuyện xinh đẹp hay phô trương trước mặt người khác. Điều đó khiến họ “mất điểm” trong mắt đối phương. Đó cũng là một trong những lý do chủ yếu khiến mối tình của họ không đi đến tận đích cuối cùng.

No5: Tuổi Dần

Nguyên nhân chủ yếu: Tham vọng và tính chiếm hữu quá cao, khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt và khó nhẫn nhịn được.

Vốn ghen tuông vô đối, người tuổi Dần khó mà tin tưởng tuyệt đối vào người khác. Ngoài ra, vì quá yêu và yêu một cách chân thành, cuồng nhiệt đối phương nên tuổi Dần luôn muốn người ấy phải kè kè bên mình hoặc phải biết đích xác “tung tích” của nửa kia đang làm gì và ở đâu.

dan-4359-1399355379.jpg

Điều đó khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì bị gò ép và không tin tưởng. Đôi lúc nửa kia sẽ cảm giác như không thể nhẫn nhịn được nữa mà nghĩ tới chuyện chia tay. Tình duyên của tuổi Dần theo đó mà sẽ bị đặt dấu chấm hết vô cùng bi thương.

Mr.Bull

5-1398737936-362x0-9564-1399355379.jpg

Thói quen trò chuyện của 4 nhóm máu

Nhóm máu cũng ảnh hưởng đến cách nói chuyện và tính cách của mỗi người đấy nhé, chúng mình cùng tìm hiểu thui. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

Mẹo phong thủy phát tài phát lộc trong Tết Trung Thu

Tết Trung Thu sắp đến, nếu không có ý định du lịch thưởng trăng thì chắc chắn là sẽ ăn mừng cùng người thân bạn bè rồi. Và điều không thể không tính đến khi ăn chơi chính là chi phí. Dư dả thì tốt nhưng túng thiếu thì nên dè chừng. Đôi mẹo phong thủy vượng tài dưới đây sẽ giúp bạn vững tâm hơn khi tung tẩy dịp lễ này nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tết Trung Thu
là rằm tháng 8 âm lịch, tháng thuộc ngũ hành Kim, ta khắc người sinh tài, Kim khắc Mộc sinh lộc nên trong dịp lễ này, muốn có tiền tài chảy vào túi thì nên dùng màu xanh lá cây – màu sắc tượng trưng cho hành Mộc. Quần áo, trang sức, phụ kiện màu xanh lá sẽ mang đến nhiều may mắn về tài lộc cho chủ nhân trong Tết Trung Thu . 
  Bên cạnh đó, chất liệu gỗ cũng thuộc ngũ hành Mộc, nên dùng trang sức hoặc vật trang trí làm bằng gỗ để tăng thêm tài khí. Chọn điểm vui chơi nên ưu tiên những nơi có cây cối xanh tốt như rừng cây, công viên, có thể bất ngờ mang đến tài vận.   Trong lễ Trung Thu, khi mọi người quây quần tụ tập bên nhau thì rất có thể sẽ chơi một số trò thử vận may như tú lơ khơ, làm sao để mình thật đỏ đây? Có mẹo cả đấy! Chơi tú lơ khơ ngoài kĩ thuật còn cần đến vận số, kỹ thuật tốt mà số không may cũng sẽ thua ngay, kĩ thuật không tốt lắm nhưng gặp may mắn thì đâu sẽ vào đấy.

Meo phong thuy phat tai phat loc trong Tet Trung Thu hinh anh 2
 
Tết Trung Thu mỗi ngày đều có phương vị vượng tài, mỗi ngày có một tài thần vị riêng hoặc có phi tinh tài vị khác nhau. Ví dụ, năm nay Trung Thu vào ngày 15/9 dương lịch thì 13/9 tài thần ở chính Bắc, ngày đó bên trong có sắc tía Bạch Cửu tinh, phương vị vượng tài nhất ở đằng Tây, tiếp đến là Đông Bắc. Ngày 14/9 tài thần ở chính Bắc, ngày đó bên trong có sắc tía Bạch Cửu tinh, phương vị vượng tài nhất là Đông Bắc, tiếp đến là chính Nam. Ngày 15/9 tài thần ở chính Đông, ngày đó bên trong có sắc tía Bạch Cửu tinh, phương vị vượng tài nhất là chính Nam. Nếu cảm thấy khó nhớ, thì tựu chung lại, trong 3 ngày cận kề tết Trung Thu thì phương tài vị là Bắc và Đông Bắc.
 
Đây cũng là những hướng xuất hành rất tốt, đảm bảo ra đường là gặp may mắn, tốt lành, thu về nhiều tài nhiều lộc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo phong thủy phát tài phát lộc trong Tết Trung Thu

Tháng cô hồn: Nên sờ ngực, kị nhặt tiền rơi?

Nhiều người tin rằng, trong tháng cô hồn, các cô gái phải cho đàn ông sờ ngực để không bị linh hồn bắt đi làm vật tế...
Tháng cô hồn: Nên sờ ngực, kị nhặt tiền rơi?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nhiều người tin rằng, trong tháng cô hồn, các cô gái phải cho đàn ông sờ ngực để không bị linh hồn bắt đi làm vật tế hay kị nhặt tiền rơi vì sợ đó là bẫy của âm hồn... thực hư chuyện này thế nào, hãy cũng ## tìm hiểu.

► Bạn đã biết: Những điều kiêng kị trong tháng cô hồn?


1. Tháng cô hồn

  Tháng 7 Âm lịch còn được gọi là "tháng cô hồn" hay “tháng quỷ”, tháng "mở cửa mả". Dân gian quan niệm, đây là tháng của ma quỷ, đặc biệt ngày rằm trong tháng này là ngày xá tội vong nhân, ngày Diêm Vương cho mở Quỷ Môn Quan để cho ma quỷ tự do quay về dương thế, đồng thời đây cũng là ngày “âm khí xung thiên”.   Vì thời gian này kéo dài cả tháng nên nhiều người lo sợ nó sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống thường nhật, mang điềm xui xẻo tới. Nên một mặt sắm lễ cúng bái, mặt khác truyền tai nhau những điều kiêng kị để có thể bình an vượt qua tháng cô hồn. Đa phần trong số đó đều là những điều truyền miệng, chưa được khoa học chứng minh.
Thang co hon Nen so nguc, ki nhat tien roi hinh anh
 

2. Thực hư chuyện sờ ngực và kị nhặt tiền rơi trong tháng cô hồn

  Một số người cho rằng, để không bị các linh hồn bắt đi làm vật hiến tế, các cô gái phải cho đàn ông sờ ngực trong tháng cô hồn. Điều này hoàn toàn phản khoa học, là quan niệm mang tính cực đoan, lợi dụng, do một số kẻ xấu đồn thổi với mục đích vụ lợi.   Nên nhớ rằng, từ xa xưa quan niệm Nho giáo khá hà khắc, nam nữ thụ thụ bất thân, các cô gái phải giữ gìn gia giáo, công dung ngôn hạnh, chẳng có lý do gì để đàn ông sờ ngực, phá vỡ gia đạo mới không bị cô hồn bắt cóc.   Việc kiêng nhặc tiền rơi bắt nguồn từ quan niệm dân gian cho rằng những thứ đã cúng như tiền âm phủ, tiền thật… đều thuộc về thế giới tâm linh. Vì thế, nếu nhìn thấy cũng không nên nhặt mang về nhà.

Hóa giải xui xẻo dồn dập ập tới không chỉ trong tháng cô hồn Lí giải khoa học cho việc kiêng kị trong tháng “cô hồn Nghiệp báo và tinh thần vị tha của Phật giáo trong tục cúng cô hồn
 
Thang co hon Nen so nguc, ki nhat tien roi hinh anh
 

3. Hiểu thế nào cho đúng về tháng cô hồn?

  Dân gian coi tháng 7 âm lịchtháng cô hồn, là dịp để dân gian cúng thí cho những linh hồn không có nơi thờ cúng.   Cúng cô hồn là tín ngưỡng từ lâu đời theo thế giới tâm linh, được truyền từ đời này sang đời khác. Bởi chúng ta tin rằng, con người gồm phần xác và phần hồn. Khi cơ thể mất đi nhưng hồn vẫn tồn tại, được đầu thai vào kiếp khác hay bị đầy xuống địa ngục, làm quỷ đói quấy nhiễu dương gian. Vì thế, cần phải dành chút thời gian để “chăm lo” tới những vong hồn lang thang.   Người xưa tin vào ngày này, mọi tù nhân ở địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sinh về cảnh giới an lành. Vì tin là ngày mở cửa ngục ân xá cho vong linh nên dân gian sắm cỗ cúng các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa.   Tín ngưỡng tôn giáo này thể hiện triết lý nhân văn cao đẹp của tổ tiên, với mong muốn mọi linh hồn đều được cơ hội siêu thoát và mong muốn những ai từng lầm lỡ đều phục thiện.   Trong văn hóa Phật giáo, ngày rằm tháng 7 là ngày lễ Vu lan, dịp để con cháu báo hiếu cha mẹ, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn. Rằm tháng 7 là dịp để người còn sống cúng tế, hướng về người đã khuất, với quan niệm mọi vong linh đều được cầu siêu thoát, đều được cúng tế, quan tâm.
Ngọc Điệp
Danh sách những con giáp đại kị đi đêm trong tháng cô hồn
– Tương truyền, tháng 7 âm lịch là tháng quỷ. Từ mùng 1/7, quỷ môn quan bắt đầu mở, tới ngày 30/7 cửa địa ngục đóng lại. Trong ngày cổng địa

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng cô hồn: Nên sờ ngực, kị nhặt tiền rơi?

Quẻ Quan Âm: Hàn Văn Công Ngộ Tuyết

Quẻ Quan Âm thứ 85 Quẻ Quan Âm: Hàn Văn Công Ngộ Tuyết đoán rằng người cao tuồi rút được thẻ này, sẽ lại gặp được vận tốt.
Quẻ Quan Âm: Hàn Văn Công Ngộ Tuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 85 được xây dựng trên điển cố: Hàn Văn Công ngộ tuyết hay Hàn Văn Công gặp tuyết.

Quẻ trung bình thuộc cung Thân. Quẻ này tốt cho người cao tuổi, may mắn và vận thế tốt đẹp. Nếu người trẻ, hỏi về công danh lợi lộc, khi gặp quẻ này nghĩa là tiền tài sẽ có khi về già.

Thử quái xuân tận hoa khai chì tượng. Phảm sự chù hậu cải biến dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Hàn Văn Công Ngộ Tuyết

Hàn Văn Công tức Hàn Dũ (767 – 824), tự Thoái Chi, người huyện Hà Dương, tỉnh Hà Nam.

Năm Nguyên Hòa thứ 14 (năm 819), Đường Hiến Tông sai sứ giả đi Phượng Tường đón xá lị của Phật, kinh thành Trường An bỗng chốc dấy lên trào lưu sùng tín Phật pháp. Hàn Dũ không chú ý đến sự an nguy của bản thân, kiên quyết dâng “Luận Phật cốt biểu” (bài biểu bàn về xá lị Phật), cực lực bài xích đạo Phật lầ không thể tin theo, yêu cầu đem xá lị Phật “ném vào nước lửa, cắt đứt gốc rễ, chấm dứt nghi ngờ trong thiên hạ, phá bỏ mê hoặc của đời sau”. Hiến Tông nhận được tờ biểu, bừng bừng tức giận, muốn dùng cực hình xử tội. Nhờ Tể tướng Bùi Độ cùng các quan đại thần trong triều ra sức nói giúp, Hàn Dũ mới được miễn tội chết, nhưng bị giáng chức làm Thứ sử Triều Châu.

Hàn Dũ từ biệt vợ con, đi đến Triều Châu. Đi chưa được mấy ngày thì gió lạnh đổ về, tuyết lớn mù mịt. Hàn Dũ đi đến một nơi tuyết dày mấy thước, ngựa khó mà tiến lên được, gần đó cũng không có lấy một nếp nhà. Trong lúc tuyệt vọng, chợt thấy một người đội tuyết đi tới, thì ra là đứa cháu Hàn Tương Tử. Lúc này Hàn Tương Tử đã đắc đạo thành tiên. Tương Tử hỏi Hàn Dũ: “Chú còn nhớ câu thơ năm nọ không? Chính là nói đến sự việc ngày hôm nay đấy!”

Vốn dĩ anh trai của Hàn Dũ mất sớm, để lại một đứa con trai là Hàn Tương, Hàn Dũ nuôi dưỡng Hàn Tương thành người, lại dạy cháu đọc sách. Nhưng Hàn Tương không có hứng thú với việc đọc sách làm quan, chỉ thích tìm tiên tu đạo, mê muội không chịu tỉnh ngộ, khiến cho Hàn Dũ rất đau lòng. Một lần, Hàn Tương lại ra ngoài tìm tiên, Hàn Dũ tức cảnh viết một bài thơ:

Lưỡng giơ các sinh tử, Hài đề xảo tương như.

Thiếu trưởng tụ hi hý, Bất thù đồng đội ngư.

Niên chí thập nhị tam, Đâu giác sảo tương sơ.

Nhị thập tiệm quai trương, Thanh câu ánh hà cừ.

Tam thập cốt cách thành, Năi nhất long nhất trư.

Nhất vi công dữ tướng, Đàm đàm phủ trung cư;

Nhất vi mã tiền tốt, Tiên bối sinh trùng thư.

Vấn chi hà nhân nhỉ? Học dữ bất học dư?

(Hai nhà đều sinh con trai, lúc còn bé thì khéo léo như nhau. Lớn nhỏ tụ tập vui đùa, không khác gì cá cùng đàn. Đến mười hai mười ba tuổi, tài hoa có khác nhau một chút. Hai mươi tuổi thì dần có sự trái ngược, như khe trong và dòng kênh lớn. Ba mươi tuổi thì cốt cách hình thành, một là con rồng một như con lợn. Một lầ công là tướng, ung dung ờ trong phủ; một là tên tiểu tốt dắt ngựa, suốt ngày bị đánh đến rách lưng. Hỏi nguyên nhân là vì sao? Phải chăng là có học và không học.)

Sau khi Hàn Tương trở về nhà, đọc xong bài thơ của Hàn Dũ, cũng dùng thơ để nói lên ý mình:

Giải cấu thoan tuần tửu, Nâng khai khoảnh khắc hoa.

Hữu nhân năng học ngã, Đồng cộng khán tiên ba.

(Có thể ủ được rượu trong chốc lát, có thể làm cho hoa nở trong khoảnh khắc. Người nào có thể học theo ta, sẽ có thể cùng xem được hoa tiên.)

Hàn Dũ vẫn không tin.

Hàn Tương liền mang đến một chậu đất, nói: “Hoa đẫ nở ròi.” Chỉ thấy hai bông hoa xanh biếc nở trong chậu, lại có hai câu thơ ở trên cánh hoa: “Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại, tuyết ủng Lam Quan mã bất tiền” (Mây giăng Tần Lĩnh nhà đâu nhỉ, tuyết lấp Lam Quan ngựa chùn chân). Hàn Dũ hết sức kinh ngạc, đành phải cho Hàn Tương đi vân du khắp nơi. Sau này, Hàn Tương đắc đạo thành tiên, là một trong Bát tiên, chính là Hàn Tương Tử.

Lúc này Hàn Dũ mới biết đây là Lam Quan, liên tục thử dài, cuối cùng tin lời mà Hàn Tương Tử nói năm xưa là thật.

Đêm đó, hai người đến ngủ nhờ trong thôn Phó Xá ờ Lam Quan, cùng bàn luận về chuyện xưa nay, về đạo tu hành, Hàn Dũ thực lòng tin phục theo đạo mà Hàn Tương Tử nói đến. Ngày hôm sau, Hàn Tương Tử chào từ biệt ra đi, đưa ra một bầu thuốc tiên, nói với Hàn Dũ rằng: “Uống một viên có thể ngăn được nóng lạnh”, và còn dặn thêm: “Không lâu nữa chú sẽ trở về, không những không có bệnh tật, mà còn tiếp tục được triều đình trọng dụng.”


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Hàn Văn Công Ngộ Tuyết

Hai tuổi tương khắc chỉ dựa vào tứ hành xung liệu có chính xác?

Trong tử vi, tứ hành xung là một trong những cơ sở để luận đoán số mệnh, sự tương khắc giữa các con giáp. Tuy nhiên, những hiểu biết thông thường về tứ hành xung chưa chắc đã đầy đủ và chính xác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Tứ hành xung chỉ xung theo cặp   Dựa vào sự tương khắc ngũ hành, tử vi chia thành 3 nhóm con giáp tứ hành xung: Dần Thân Tị Hợi, Thìn Tuất Sửu Mùi, Tý Ngọ Mão Dậu. Dần và Mão ứng với hành Mộc; Thân và Dậu ứng với hành Kim, Hợi và Tí ứng với hành Thủy, Ngọ và Tị ứng với hành Hỏa; còn lại Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là hành Thổ.    Mà Kim Khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim nên thực chất chỉ là Dần xung với Thân, Mão xung với Dậu, Tị xung với Hợi, Tí xung với Ngọ chứ không phải là 4 con giáp cùng một nhóm thì xung lẫn nhau.   Thậm chí, có trường hợp cùng một nhóm tứ hành xung nhưng vẫn hợp nhau như nhị hợp Thân – Tỵ, Dần – Hợi.  
2. Xung khắc còn phải dựa vào mệnh
  Sự xung khắc giữa các con giáp không chỉ dựa vào các cặp trong tứ hành xung mà còn bị chi phối bởi mệnh. Tức là, ngoài yếu tố địa chi thì phải dựa vào thiên can. Không phải người tuổi Thân nào cũng khắc với người tuổi Dần và tương tự với các trường hợp khác.   Tự điển tử vi của Đắc Lộc phân chia tính chất âm dương như sau: Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thuộc dương; Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thuộc âm. Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm là dương; Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là âm.    Về mặt ngũ hành, Giáp, Ất là hành Mộc; Bính, Đinh là hành Hỏa; Mậu, Kỷ là Thổ; Canh, Tân là Kim và Nhâm, Quý là Thủy.   Lục Thập Hoa Giáp được cấu thành dựa trên nguyên tắc, can dương ghép với chi dương, can âm ghép với chi âm, nên mới có 60 năm, 60 hoa giáp. Khi kết hợp can và chi tạo thành một năm thì năm đó sẽ mang một hành khác với cả can và cả chi, gọi là nạp âm Lục Thập Hoa Giáp.   

Hai tuoi tuong khac chi dua vao tu hanh xung lieu co chinh xac hinh anh
 
Hai tuổi chỉ thực sự xung khắc với nhau nếu mệnh tương khắc. Ví dụ, Tỵ tương xung với Hợi, nhưng tuổi Kỷ Tỵ nạp âm Mộc lại không xung với Kỷ Hợi nạp âm Mộc, hay Quý Hợi nạp âm Thủy, Ất Hợi nạp âm Hỏa.   Như vậy, việc luận giải số mệnh và xem tương khắc giữa người này với người kia mà chỉ dựa vào hiểu biết thông thường về tứ hành xung thì sẽ thiếu chính xác và toàn diện. Khi muốn xem tử vi của hai người, tốt nhất là luận giải mệnh.   Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hai tuổi tương khắc chỉ dựa vào tứ hành xung liệu có chính xác?

Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Bát tự của một người có ảnh hưởng tới vận mệnh của người đó. Cùng xem, trong bát tự có thiên can và địa chi tương xung thì cuộc đời sẽ hung cát như thế nào
Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự của một người có ảnh hưởng tới vận mệnh của người đó. Cùng xem,  trong bát tự có thiên can và địa chi tương xung thì cuộc đời sẽ hung cát như thế nào nhé!


Luan giai la so tu vi co thien can dia chi tuong xung hinh anh
 
1. Thiên can và địa chi tương xung   Bát tự mà có thiên can và địa chi tương xung thì có cát có hung. Cát ở chỗ, lá số tử vi này biểu hiện cho biến chuyển, thoát khỏi ràng buộc, hạ quyết tâm thay đổi, bỏ thói quen xấu, là bước ngoặt của đời người. Người này sẽ có cơ hội được thăng chức, đi công tác, xuất ngoại, gây dựng sự nghiệp, thu hoạch, bỏ cũ đón mới, tu sửa bản thân.   Nhưng hung ở chỗ biểu hiện cho bước ngoặt, nghi kị hiểu lầm, tâm thần không yên, bất an, bị thương, chia rẽ, thị phi, xung đột, thù hận, va chạm, bị cướp bóc. 
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1) Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (phần 1) Kiến thức cơ bản về Thiên Can mà không nhiều người biết

2. Thiên can tương xung và địa chi tương xung
  Xung tức là ngũ hành của thiên can trong bát tự xung nhau và ngũ hành của địa chi trong bát tự xung nhau.    Thiên can xung gồm các trường hợp : Giáp Mộc – Canh Kim gây tổn hại vùng đầu, Ất Mộc – Tân Kim khiến tay chân đau đớn, gân cốt mỏi mệt, Nhâm Thủy – Bính Hỏa làm cho tim thận có vấn đề, Quý Thủy – Đinh Hỏa thì hôn nhân không thuận, tim và bàng quang yếu. Riêng Kỷ, Mậu Thổ là ở trung tâm ngũ hành nên không tương xung với thiên can nào cả.

Luan giai la so tu vi co thien can dia chi tuong xung hinh anh
 
Thiên can xung sẽ ảnh hưởng tới hoàn cảnh bên ngoài, địa vị xã hội và sức khỏe của lục thân (cha, mẹ, vợ/ chồng, anh, em, con) nên rất hung.
  Địa chi tương xung gồm các trường hợp: Tý Thủy – Ngọ Hỏa, Sửu Thổ – Mùi Thổ, Dần Hỏa – Thân Kim, Thìn Thổ – Tuất Thổ, Mão Mộc – Dậu Kim, Tỵ Hỏa - Hợi Thủy. Địa chi xung thưởng ảnh hưởng tới sự nghiệp, nơi ở và hôn nhân của bản mệnh. 
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 2 Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)
Trần Hồng


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Những điểm phong thủy cần lưu ý khi mua lại nhà cũ

Mua lại nhà cũ là một giải pháp hiệu quả với những gia đình có nhu cầu ở ngay mà kinh tế eo hẹp. Dưới đây là một số vấn đề phong thủy bạn cần quan tâm khi chọn mua nhà cũ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tìm hiểu lịch sử của ngôi nhà

Ngoài những vấn đề liên quan đến phong thủy như chọn hướng, vị trí...bạn cũng nên tìm hiểu lịch sử của ngôi nhà mình định mua. Vì điều này có thể ảnh hưởng tới cuộc sống lâu dài của bạn sau này. Chẳng hạn, nếu chủ ngôi nhà vừa mới được thăng chức, trúng xổ số, và chuyển đến một ngôi nhà mới khang trang hơn chứng tỏ ngôi nhà đó tốt về phong thủy và tạo ra những năng lượng tích cực, giúp mang lại vận may cho bạn.

Ngược lại, nếu ngôi nhà được bán từ một người mới ly hôn, bị tịch thu nhà, hoặc mắc một loại bệnh nguy hiểm, người trong nhà bị tù tội, đại nạn, phá sản v.v…thì bạn cần cân nhắc kỹ lưỡng, xem xét lại tổng thể các điều kiện khác trước khi quyết định mua.

Lựa chọn hướng nhà

mua lại nhà cũ
Nên xem xét các vấn đề phong thủy liên quan khi chọn mua lại nhà cũ. Ảnh minh họa

Lựa chọn hướng nhà và xem xét bố cục bài trí trong nhà có phù hợp với gia đình mình hay không cũng là bước quan trọng bạn cần làm.

Hai hướng quan trọng của ngôi nhà là hướng Tây Nam và Tây Bắc. Tây Nam là hướng của Trời, Tây Bắc là hướng của Mẹ. Có một số kiêng kỵ liên quan đến 2 hướng này mà bạn cần lưu ý đó là: hướng Tây Bắc không bao giờ được phép có ngọn lửa (bếp ga, lò sưởi) bởi dương khí ở những hướng này rất mạnh.

Nếu có, hãy chuyển vị trí của chúng bởi điều này cũng rất tối kị, gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho người cư ngụ trong nhà.

Còn Tây Nam là hướng của người phụ nữ, người mẹ trong gia đình. Nếu ở khu vực này có một cái kho, hay một phòng tắm sẽ khiến chủ nhà sẽ gặp khó khăn trong hôn nhân, hoặc bất hạnh về chuyện tình cảm.

Xem xét thế đất và hình dáng của khu đất

Không chỉ xem xét hình dáng ngôi nhà định mua, bạn hãy đi xung quanh nó và kiểm tra xem địa thế quanh ngôi nhà có tốt hay không? Ngôi nhà nằm bên cạnh một ngọn đồi là không tốt trong phong thủy, nhưng nếu ngọn đồi, hay tòa nhà cao tầng ở đằng sau ngôi nhà thì lại rất tốt.

Khu đất xây ngôi nhà nếu có hình vuông hoặc hình chữ nhật thì rất tốt. Thế đất đằng sau rộng và cao hơn đằng trước cũng là điều tốt lành. Ngược lại, nếu đằng sau hẹp và thấp hơn sẽ tạo ra sự mất mát, khó khăn.

Phía cửa trước cũng không nên trồng cây quá gần. Nếu có lối đi đâm thẳng vào phía trước cửa nhà, hãy trồng một số chậu cây hay đặt những bức tương dọc theo nó để phá vỡ thế xấu.

Một vài lưu ý khác

Ngoại cảnh xung quanh ngôi nhà cũng là vấn đề đáng để bạn lưu tâm. Một ngôi nhà tốt về năng lượng và phong thủy thì cây cối xung quanh sống khỏe mạnh. Tuy vậy, cũng không nên để cây cối phát triển quá cao. Trước nhà có cây lớn hoặc cây bụi sát nhà có thể chặn mọi cơ hội tốt đẹp đến với gia chủ. Vì thế bạn hãy di dời những cây này tới trồng ở vị trí khác.

Hãy để ý xem, những nhà hàng xóm bên cạnh có ngôi nhà mái nhọn, có một góc nhọn chĩa về ngôi nhà bạn định mua hay không, nếu có thì không nên mua.

Nếu ngôi nhà, hoặc mảnh đất bên trái cao hơn thì rất tốt, vì nó đang khai thác năng lượng của con Rồng (Thanh Long). Sẽ rất may mắn, nếu nhà bên trái ngôi nhà bạn định mua nhìn ra hướng Đông.

(Theo Vietnamnet)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điểm phong thủy cần lưu ý khi mua lại nhà cũ

Màu sắc và môi trường bên ngoài tường nên lựa chọn như thế nào? –

- Ngồi Bắc hướng Nam: Nên lựa chọn các tông màu trắng như: màu trắng ngà, các màu ấm áp làm chủ đạo: nếu một mặt là phía Nam thì có thể lựa chọn dùng màu xám nhạt hoặc màu đen nhạt. - Ngồi Nam hướng Bắc: Nên chọn các tông màu đỏ, màu xanh lá cây. - N

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ngồi Bắc hướng Nam: Nên lựa chọn các tông màu trắng như: màu trắng ngà, các màu ấm áp làm chủ đạo: nếu một mặt là phía Nam thì có thể lựa chọn dùng màu xám nhạt hoặc màu đen nhạt.

file.393247

– Ngồi Nam hướng Bắc: Nên chọn các tông màu đỏ, màu xanh lá cây.

– Ngồi Dông hướng Tây: Nên lựa chọn màu xanh lá cây, màu đen.

– Ngồi Tây hướng Đông: Nên chọn tông màu vàng, màu trắng.

– Ngồi Đông Bắc hướng Tây Nam: Nên chọn tông màu vàng, tông màu đỏ.

– Ngồi Tây Nam hướng Đông Bắc: Nên chọn tông màu vàng, tông màu đỏ, lấy tông màu ấm áp.

– Ngồi Tây Bắc hướng Đông Nam: Nên chọn tông màu trắng, tông màu vàng.

– Ngồi Đông Nam hướng Tây Bắc: Nên chọn tông màu xanh lá cây, tông màu đen, tông màu trắng đều cát lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc và môi trường bên ngoài tường nên lựa chọn như thế nào? –

Đền Giá - Thái Nguyên

Đền Giá tọa lạc tại địa phận thôn Cẩm La, xã Đông Cao (Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên. Mỗi năm, đền Giá có hai kỳ lễ hội: Kỳ thứ nhất và Lễ hội chính
Đền Giá - Thái Nguyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhắc tới hội Gióng, mọi người thường nhớ làng Phù Đổng, Gia Lâm (Hà Nội), nơi tương truyền chàng trai Phù Đổng đứng lên đánh giặc. Tuy nhiên, ngoài làng Phù Đổng, ở Việt Nam còn có 4 ngôi đền khác liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng, trong đó có một ngôi đền ở Thái Nguyên, đó là Đền Giá. Đền Giá tọa lạc tại địa phận thôn Cẩm La, xã Đông Cao (Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên.

Hàng năm vào ngày mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng Âm lịch tại đền sẽ diễn ra lễ hội truyền thống.

Tương truyền, thời Hùng Vương thứ 6, nước ta bị giặc Ân xâm lược. Cậu bé làng Phù Đổng bỗng lớn vụt dậy, cầm quân đi đánh giặc. Một lần, khi đang đuổi giặc qua vùng đất thuộc địa phận huyện Phổ Yên (Thái Nguyên), thì trời tối, rừng cây rậm rạp, không rõ lối đi mà cánh quân của Phù Đổng đã thấm mệt. Lúc đó, một người dân địa phương đi đến, chỉ đường rồi cùng đoàn quân đi đánh giặc. Giặc tan, đất nước trở lại thanh bình, nhà vua phong cho chàng trai làng Phù Đổng là Phù đổng Thiên Vương (nhân dân vẫn gọi là Thánh Gióng), người dân địa phương có công giúp Phù Đổng đánh giặc được phong là “Mạnh Điền Quốc Vương” và cho nhân dân địa phương được thờ cúng. Từ đó, nhân dân địa phương dựng lên một ngôi miếu nhỏ làm bằng gỗ, lợp mái tranh để thờ cúng.

Sang đến thời Lê, khi nền văn hoá dân tộc bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ, đền Giá được xây dựng với quy mô to, đẹp. Trải qua thăng trầm lịch sử, đền Giá đã được sửa chữa nhiều lần, nhưng vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. Ngôi đền không chỉ là nơi người dân địa phương cũng như khách thập phương thể hiện đời sống tâm linh mà nó còn thể hiện những tinh hoa trong kiến trúc của dân tộc. Khu đền có hai toà nhà: Nhà tiền tế ở phía trước rộng 5 gian và hậu cung rộng 3 gian đều có các phần kiến trúc bằng gỗ chạm trổ tinh vi, phong phú với các kiến trúc cuối Lê đầu Nguyễn. Phần tường xây ở hậu cung, đốc nhà…có đắp nổi các hình hoa lá và long, li, quy, phượng.

Mỗi năm, đền Giá có hai kỳ lễ hội. Kỳ thứ nhất – lễ hội chính, từ ngày mùng 4 đến mùng 6 tháng Giêng, có rước kiệu trên là những chiếc “dò” (làm bằng tre tươi bào mỏng, nhuộm màu đỏ, vàng) tượng trưng cho roi sắt của Thánh Gióng; dân chúng khắp trong làng ngoài xã mang lễ vật tới đền tế lễ. Xưa, trong những ngày lễ hội có đánh đu, vật, hát trống quân, hát ví nhưng nay đã mai một. Kỳ thứ hai, chỉ tổ chức trong ngày 9 tháng 4 âm lịch. Ngày lễ hội, dân chúng dâng xôi, gà tế lễ trong đền. Đặc biệt, đồ lễ còn có một mâm cơm, ba nong cà – những thức ăn mà theo truyền thuyết, chàng Gióng từng ăn rồi vươn vai đứng dậy lên đường đánh giặc Ân. Hiện nay, kỳ lễ hội này lại được tổ chức vào ngày 30/4 âm lịch hàng năm.

Đền Giá còn là nơi diễn ra một sự kiện lịch sử trọng đại của huyện Phổ Yên. Ngày 22/8/1945, tại ngôi đền này đã diễn ra hội nghị cán bộ chủ chốt để thành lập chính quyền cách mạng lâm thời đầu tiên của huyện, góp phần vào cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945 của tỉnh Thái Nguyên. Với giá trị kiến trúc và ý nghĩa lịch sử như vậy Đền Giá đã được xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Giá - Thái Nguyên

Tiết khí Đại Thử là gì?

Đại Thử là một trong 24 tiết khí hàng năm, khi Mặt Trời ở vào kinh độ 120 độ, bắt đầu từ 22 (hoặc 23) tháng 7 đến ngày 6 (hoặc 7) tháng 8. Cùng tìm hiểu về
Tiết khí Đại Thử là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đại Thử là một trong 24 tiết khí hàng năm, khi Mặt Trời ở vào kinh độ 120 độ, bắt đầu từ 22 (hoặc 23) tháng 7 đến ngày 6 (hoặc 7) tháng 8. Trong tiết Đại Thử thường có tục uống trà, phơi nắng, đốt hương.


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn sự nhanh chóng và chuẩn xác nhất

Tiet khi Dai Thu la gi hinh anh 2
 
Đại Thử là tiết khí rơi vào giữa tháng 6 âm lịch, ngay sau tiết Tiểu Thử. Thử tức là nhiệt, Đại Thử tức là nhiệt lớn. Vì thế khí hậu đặc thù trong thời gian này là nhiệt độ không khí cao, nắng nóng, oi bức, cây cối sinh trưởng nhanh, xuất hiện các loại thiên tai như hạn hán, lũ lụt, bão, giông tố.    Đại Thử là tiết khí nằm trong “Tam phục”, thời điểm có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, nhiệt độ cao nhất (trên 35 độ). Đây cũng là lúc xuất hiện nhiều trận mưa lớn. Dân gian có câu: “Tiểu Thử mưa như ngân, Đại Thử mưa như kim”. Nếu trong tiết Đại Thử mà mưa dầm thì năm đó mưa nhiều. Mưa đi kèm với sấm chớp, khá nguy hiểm.   Trong tiết Đại Thử thường có tục phơi nắng trừ ẩm, uống trà, đốt hương. Việc nhà nông đang lúc bận rộn nhất, cần gặt hái và gieo trồng vụ mới gấp, đồng thời chống hạn trừ úng. Đối với sức khỏe, trong tiết Đại Thử cần dưỡng sinh bổ tì, kiện vị do Thổ khí vượng, Hỏa khí bốc cao.
Tiet khi Dai Thu la gi hinh anh 2
 
Mùa này tốt nhất là nên ăn cháo nhẹ, vừa dễ ăn lại tốt cho hệ tiêu hóa. Nấu cháo cùng các loại thực vật mùa hè có tác dụng bồi bổ cơ thể, thanh nhiệt giải độc. Uống nhiều nước để giảm bớt khí khô nóng trong người, cung cấp đủ nước cho cơ thể do bị bốc hơi. Ngoài nước lọc, có thể uống nước đỗ xanh, nước trà xanh, trà hoa cúc, đều có nhiều khoáng chất và dinh dưỡng, bổ sung chất điện giải, tránh mất nước.
  Người bị nóng trong, phát nhiệt, uể oải, chán ăn trong tiết Đại Thử nên dùng nhiều đậu xanh, mướp đắng, bí xanh – những loại thực vật dưỡng gan bổ khí, tốt cho dạ dày, có lợi với bồi dưỡng cơ thể và cải thiện nguyên khí.   Đại Thử là lúc dương khí cực thịnh, vận động mạnh sẽ mất nước mà suy kiệt, nên hạn chế lao động hoặc luyện tập nặng nhọc ngoài trời. Người có việc cần thì phải tìm cách tránh nóng và giải nhiệt cho cơ thể, không làm việc liên tục trong thời gian dài. Infographic: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm Tìm hiểu tiết khí Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 1)
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết khí Đại Thử là gì?

Nháy mắt phải (Giật mắt phải) là điềm gì –

Bị nháy mắt phải (giật mắt phải) liên tục báo điềm gì Nháy mắt phải, nháy mắt trái là một hiện tượng rất bình thường của cơ thể. Song nếu nháy mắt phải liên tục thì bạn cần xem xét kỹ, có thể mắt bạn đang gặp vấn đề hoặc đây là điềm báo dự đoán về tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nội dung

  • 1 Bị nháy mắt phải (giật mắt phải) liên tục báo điềm gì
  • 2 Nháy mắt phải theo giờ:
    • 2.1 NHÁY MẮT PHẢI KHUNG GIỜ 23 GIỜ ĐẾN 1 GIỜ
    • 2.2 NHÁY MẮT PHẢI TỪ KHUNG GIỜ TỪ 1 GIỜ ĐẾN 3 GIỜ
    • 2.3 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 3 GIỜ ĐẾN 5 GIỜ
    • 2.4 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 5 GIỜ ĐẾN 7 GIỜ
    • 2.5 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 7 GIỜ ĐẾN 9 GIỜ
    • 2.6 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 9 GIỜ ĐẾN 11 GIỜ
    • 2.7 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 11 GIỜ ĐẾN 12 GIỜ
    • 2.8 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 13H-15 GIỜ
    • 2.9 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 15 GIỜ ĐẾN 17 GIỜ
    • 2.10 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 17 GIỜ ĐẾN 19 GIỜ
    • 2.11 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 19 GIỜ ĐẾN 21 GIỜ
    • 2.12 NHÁY MẮT PHẢI TỪ 21 GIỜ ĐẾN 23 GIỜ

Bị nháy mắt phải (giật mắt phải) liên tục báo điềm gì

Nháy mắt phải, nháy mắt trái là một hiện tượng rất bình thường của cơ thể. Song nếu nháy mắt phải liên tục thì bạn cần xem xét kỹ, có thể mắt bạn đang gặp vấn đề hoặc đây là điềm báo dự đoán về tương lại. Nếu như dự đoán về tương lai thì đó là cái gì? Hãy cùng nghiên cứu những dự đoán tâm linh về hiện tượng nháy mắt phải này nhé!

210213vanhoamidu13danviet

Nháy mắt phải theo giờ:

NHÁY MẮT PHẢI KHUNG GIỜ 23 GIỜ ĐẾN 1 GIỜ

Nháy mắt phải trong khoảng thời gian này dự đoán bạn sắp có rượu thịt, ăn uống. Vì vậy, hãy lên tinh thần cho những bữa tiệc ngon – vui vẻ nhé!

Điềm báo sắp có rượu thịt ăn uống
Điềm báo sắp có rượu thịt ăn uống

NHÁY MẮT PHẢI TỪ KHUNG GIỜ TỪ 1 GIỜ ĐẾN 3 GIỜ

Có thể khoảng thời gian này bạn đang có người thân nhắc nhở, trách móc bạn hoặc chỉ cho bạn những lời khuyên hữu ích. Do đó, hãy xem thời gian này bạn và người thân nào đã lâu không gặp, thì hãy lên lịch ngay để gắn kết tình cảm thêm nhé!

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 3 GIỜ ĐẾN 5 GIỜ

Nháy mắt phải trong khoảng thời gian này rất có thể sắp có tin tốt lành từ công việc, cuộc sống. Vì vậy, hãy vui vẻ và đón nhận tin tốt lành đó.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 5 GIỜ ĐẾN 7 GIỜ

Nếu bạn nháy mắt phải liên tục trong khung giờ này, thì xin chúc mừng tài lộc có thể sẽ đến với bạn trong hôm nay.

cay-da-quy-tai-loc-phong-thuy-cdq0002

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 7 GIỜ ĐẾN 9 GIỜ

Nháy mắt trong khoảng thời gian này hãy cẩn thận lời ăn tiếng nói, đề phòng có thể liên quan đến kiện tụng. Hãy tránh xa chúng để không tốn thời gian và kinh phí của mình nhé!

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 9 GIỜ ĐẾN 11 GIỜ

Nếu như nháy mắt trong khung giờ này đề phòng có kẻ gây chuyện dễ xảy ra xô xát. Bạn nên tránh xa những chuyện này nhé!

20160104-xo-xat-do-mau-tai-chung-cu-era-town-giua-sai-gon-1

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 11 GIỜ ĐẾN 12 GIỜ

Nháy mắt phải nhiều vào khung giờ này thì cần chú ý đi lại để tránh tai nạn hoặc mất của.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 13H-15 GIỜ

Có thể công việc gì đó cần bạn giải quyết khiến hao tài một chút nhưng không đáng kể.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 15 GIỜ ĐẾN 17 GIỜ

Nếu như bạn chưa có người yêu thì đây có thể là tin mừng dành cho bạn. Có người khác giới đang  nhớ đến bạn.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 17 GIỜ ĐẾN 19 GIỜ

Đây là tin tốt lành cho bạn, sẽ có bà con ở xa tới thăm và mang đến nhiều điều bất ngờ dành cho bạn.

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 19 GIỜ ĐẾN 21 GIỜ

Nếu như bạn cảm thấy mệt mỏi và muốn đi chơi một chuyến thì điềm báo nháy mắt này sẽ làm bạn hài lòng. Nó cho biết sắp có người rủ bạn đi du lịch.

download

NHÁY MẮT PHẢI TỪ 21 GIỜ ĐẾN 23 GIỜ

Đến giờ nghỉ ngơi rồi mà bạn vẫn bị nháy mắt phải liên tục thì hãy cẩn thận trong những ngày sắp tới, có thể chuyện rắc rối về lời ăn tiếng nói ập tới bạn.

Máy mắt phải thường có nhiều báo hiệu xấu hơn so với nháy mắt trái. Đây là những điềm báo khi giật mắt trái.
Trên đây là những kinh nghiệm dân gian đã được nhiều người cùng đúc rút lại và chỉ mang tính tham khảo, không hoàn toàn đúng.
Tuy nhiên, xưa nay chúng ta vẫn không bao giờ dám phủ nhận các điềm báo sẽ có thể trở thành sự thật. Do đó, các bạn cũng nên cẩn thận khi có các hiện tượng xảy ra. Đây là toàn bộ thông tin chi tiết về hiện tượng nháy mắt phải

Vì sao mắt bị giật?

Nếu nhìn dưới góc độ khoa học, các nhà khoa học cho rằng, nháy mắt – mắt giật giật liên tục và làm cho bạn cảm thấy khó chịu hoặc lạ, thường do các nguyên nhân sau:

  1. Căng thẳng
  2. Do dùng nhiều caffeine hoặc rượu
  3. Cơ thể thiếu hụt khoáng chất
  4. Mắt bị khô (điều này dễ tin hơn)
  5. Căng mắt
  6. Thiếu ngủ – mất ngủ
Một số nguyên nhân khác: Cũng có khi mắt bạn co giật là dấu hiệu cảnh báo của tình trạng hạ đường huyết, bệnh parkinson, hội chứng Tourette và rối loạn các chức năng thần kinh. Nếu kéo dài nhiều ngày thì phải đi khám mắt.Trên đây chỉ là những thông tin tham khảo về hiện tượng mắt phải giật liên tục. Vì chỉ là hiện tượng tâm linh nên có thể đúng hoặc không. Bạn cũng không cần phải quá lo lắng về những điềm báo xấu và chúc bạn tận hưởng trọn vẹn điềm báo vui nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nháy mắt phải (Giật mắt phải) là điềm gì –

Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc

Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc nên lưu ý chọn màu sắc phù hợp với cung mệnh của họ, vì vật này ảnh hưởng đến tài lộc của người đeo nó.
Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi quyết định mua món đồ trang sức có gắn đá cho mình hoặc người thân, chúng ta có thói quen chọn màu sắc phù hợp với cung mệnh của họ, điều này rất quan trọng và khó có thể bỏ qua.


Khi nhắc đến ngũ hành tương sinh tương khắc chúng ta thường quan tâm tới màu sắc phù hợp cho từng cung mệnh của mình. Đặc biệt là khi muốn mua đồ trang sức bằng đá quý, khi đeo trực tiếp vào người mọi người lại càng cân nhắc.

Theo phong thủy, nếu màu sắc ngũ hành không hợp với mệnh cung theo người đeo, sẽ đem lại những điều không may mắn cho họ. Ngược lại, nếu đeo trang sức đá quý có màu sắc phù hợp thì sẽ đem lại sức khỏe, may mắn, hưng vượng cho người đeo.
  Để chọn đá phong thủy hơp tuổi bạn phải biết tuổi mình thuộc mệnh gì trong các mệnh sau: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
   
 Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi


1. Người mệnh Kim nên đeo đá màu gì?

  Bạn là người mệnh Kim điều kiện tốt nhất có thể có được là được tương sinh. Thổ sinh Kim. Đất bao bọc và sinh ra, và nuôi dưỡng tất cả các Kim loại. Do vậy, người mệnh Kim nên chọn mua đá có các màu nâu đất, màu vàng hoàng Thổ.
 
Màu hợp với mệnh Kim hợp nhất là màu vàng, trắng: Người mệnh Kim nên lựa chọn những gam màu sáng và những sắc màu ánh Kim vì màu trắng là Màu sắc của người mệnh Kim. Ngoài ra nên kết hợp với đá các tông màu nâu, màu vàng vì đây là những màu sắc sinh vượng. Những màu này luôn đem lại niềm vui, sự may mắn đến cho người đeo nó.
 
Kim sẽ chế khắc được Mộc nên nếu thích bạn có thể mua đá có các gam màu xanh lá cây là những màu sắc thuộc hành Mộc
 
Những người thuộc mệnh này thì tốt nhất là nên tránh những màu như màu hồng, màu đỏ, vì những màu này ứng với hành Hỏa, mà Hỏa thì khắc Kim.
 

2. Người mệnh Mộc nên đeo đá màu gì?


Người mạng Mộc khi mua đá phong thủy hợp tuổi nên ưu tiên chọn mua đá màu đen hoặc xanh đen – tượng trưng cho hành Thủy – vì Thủy sinh Mộc.
 
Nếu bạn thuộc mệnh này này cũng có thể chọn các màu khác có tính đặc trưng của mệnh Mộc là: gỗ hóa thạch, xanh lá cây cũng rất phù hợp với người thuộc mệnh này. 
 
Để chế khắc được viên đá: Người mệnh Mộc chế được Thổ gồm các màu vàng sậm, nâu đất, gỗ hóa thạch. Như vậy đeo viên đá có màu Thổ, người mệnh Mộc được an toàn và không phải lo lắng. 
 
Người mạng Mộc nên kiêng màu trắng vì màu trắng tượng trưng cho hành Kim mà Kim thì khắc Mộc.. Nếu lỡ yêu thích màu trắng, Mộc hãy phối thêm với các phụ kiện có màu sắc khác để giảm bớt sự tương khắc.  
 

3. Người mệnh Thủy nên đeo đá màu gì?

  Theo thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc, Kim sinh Thủy (được hiểu là Kim hỗ trợ và nâng đỡ cho Thủy), nếu thuộc cung mạng này thì tốt nhất là trang sức màu bạc, trắng hoặc gắn đá màu trắng như kim cương theo ngũ hành là thuộc Kim. Khi đeo Bạc và đá màu trắng, người mệnh Thủy sẽ dược Tương sinh. đó, những loại trang sức phù hợp nhất với người mạng Thủy đó là: trang sức kim cương, saphire, topaz, ruby, amethyst, garnet…
 
Người mệnh Thủy cũng có thể chọn màu sắc viên đá đặc trưng cho mệnh của mình như màu xanh đen, xanh biển như Saphire,Topaz, aquamarin, tactit... 
 
Ngoài ra, những người thuộc mệnh Thủy có thể chọn các màu mà họ chế ngự được như đỏ cam, hồng, tím… các màu đặc trưng của Hỏa vì những người mạng Thủy chế ngự được Hỏa. Nước, lửa giao tranh thì phần thắng luôn thuộc về Thủy.    Người mệnh Thủy không nên dùng đá có màu đặc trưng thuộc hành Thổ. Thổ sẽ chế ngự được Thủy. Chính vì vậy, người mệnh Thủy nếu sử dụng đeo đá có các màu thuộc Thổ như màu vàng sậm hoặc màu nâu đất, sẽ không gặp may mắn, công việc dễ gặp trắc trở.
 

4. Người mệnh Hỏa nên đeo đá màu gì?
 

Với tính chất của mệnh Hỏa hầu như loại đá quý nào cũng tỏa ra nhiều năng lượng tốt cho người dùng. Vì thế, họ rất dễ lựa chọn đá phong thủy theo tuổi của mình.
 
Theo mối quan hệ tương sinh Mộc sinh Hỏa, nên người mệnh Hỏa nên dùng loại đá có màu sắc thuộc hành Mộc, tức là xanh lá cây. Màu xanh lá cây là màu người mệnh Hỏa nên ưu tiên để dùng nhưng ngoài ra có một số màu sắc khác họ cũng có thể chọn lựa. 
 
Ngoài màu xanh lá cây, người mệnh Hỏa cũng rất hợp khi sử dụng những loại đá có màu sức đặc trưng của của mệnh này đó là đỏ, hồng, cam và tím. Nếu sử dụng những màu sắc tương hợp này, người mệnh Hỏa sẽ rất tốt cho đường tài lộc. 
 
Hỏa chế ngự được Kim nên người mệnh Hỏa cũng có thể dùng đá phong Thủy có màu thuộc mệnh Kim như màu trắng, bạc.   Ngoài ra Hỏa yếu thế hơn Thủy vì nước dập tắt lửa nên người thuộc mệnh Hỏa sẽ gặp vận xui khi sử dụng đồ vật cũng như màu đá có màu đặc trưng của Thủy như màu đen, xanh nước biển.
 

5. Người mệnh Thổ nên đeo đá màu gì?


Hỏa sẽ sinh ra Thổ. Vì vậy, người mệnh Thổ hợp với  màu đỏ, màu hồng, màu cam, màu tím sẽ tạo ra sự tương sinh cho người mệnh Thổ. Tuy nhiên, theo quan điểm âm dương ngũ hành, màu đỏ là màu mang năng lượng dồi dào có thể coi là tính dương rất mạnh.
 
Những màu tương hợp với mệnh Thổ gồm vàng nâu và vàng nhạt. vì vàng nâu gắn liền với đất, nâu là sự ổn định. Còn màu vàng nhạt : Tăng tinh thần, mang đến một tinh thần thoải mái. Giống như mặt trời, màu vàng là trao ban sự sống và năng lượng. Bạn có thể sử dụng đá ruby, đá tourmaline hồng, đá granet, đá spinel, thạch anh hồng, thạch anh tím, mã não đỏ.
 
Đất đá chế ngự được nước vì thế, người mệnh Thổ sẽ chế ngự được viên đá có màu của hành Thủy là đen, xanh nước biển. Nên khi sử dụng những màu trên người mệnh Thổ khỏe mạnh, may mắn, tài lộc, phát đạt.
 
Cây sống trên đất, hút hết sự màu mỡ của đất, khiến đất suy kiệt. Người mệnh Thổ nếu dùng đá có màu xanh lá cây thì tài vận sẽ không được may mắn.
HaTra

Thế nào là ngũ hành tương sinh tương khắc? Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là gì? Xem tuổi xông đất năm 2017 cho người tuổi Mùi
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc

4 câu chuyện làm thay đổi nhân sinh quan của bạn

Từ bốn câu chuyện ngắn, bạn đã phần nào hiểu được sự tích cực mà mỗi cá nhân nên phấn đấu trong cuộc sống thường ngày. Qua đó, cảm thấy lạc quan yêu đời hơn
4 câu chuyện làm thay đổi nhân sinh quan của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bốn câu chuyện dưới đây tuy rất bình dị nhưng mang ý nghĩa sâu sắc giúp chúng ta có cái nhìn lạc quan, tích cực hơn về cuộc sống.

Ba cái đồng hồ

Một cái đồng hồ nhỏ mới lắp ráp được đặt cạnh hai cái đồng hồ cũ, hai cái đồng hồ cũ chạy kêu tích tắc, tích tắc. Một cái đồng hồ cũ nói với cái đồng hồ nhỏ: “Em cũng nên làm việc đi. Nhưng anh cũng thấy lo là sau khi em chạy hết 3200 vạn lần em có chịu nổi không”. “Trời ạ, 3200 vạn lần!” Cái đồng hồ nhỏ giật mình: “Muốn em làm việc nhiều thế à? Em không làm được, không làm được”.

Một cái đồng hồ cũ khác nói: “Em đừng nghe nó nói lung tung. Chỉ cần mỗi giây em kêu ‘tích tắc’ là được”. “Sao có chuyện đơn giản như thế?” Cái đồng hồ nhỏ tỏ rõ nghi ngờ: “Nếu thế em sẽ thử xem”. Thế rồi cái đồng hồ nhỏ mỗi giây kêu ‘tích tắc’ một lần rất đơn giản, chẳng mấy chốc một năm trôi qua, quả nhiên nó đã chạy được 3200 vạn lần.

Không có gì đẹp hơn là một cách đơn giản và tự nhiên để thực hiện nhiệm vụ thông thường của cá nhân. Từ cỏ cây trong đồng ruộng đến các vì sao trên bầu trời đều được an bài tồn tại phù hợp với hệ thống của mình, màu sắc và vẻ đẹp tự nhiên tinh tế ở đó.

Trong xã hội con người, mọi việc đều có trật tự, được “gió thuận mưa hòa” chính là nhờ hàng ngày chúng ta thực hiện những nhiệm vụ lặt vặt của mình chứ không phải những công tích vĩ đại và những bàn luận xa xôi.

Khi chúng ta không còn mơ mộng

Lúc cùng bạn bè nói chuyện phiếm, mọi người thường luôn chia sẻ cho rằng cuộc sống thật rất mệt, từ sáng đến tối lúc nào cũng bận rộn không ngừng, thế nhưng tối ngồi nghỉ ngơi ngẫm lại vẫn thấy mình không làm được việc gì ra hồn, ngược lại còn có nhiều việc đổ vỡ, cảm thấy bản thân mất phương hướng. Đa số trường hợp khi hỏi mọi người có hay mơ mộng gì hay không, câu trả lời thường là: “Tuổi chừng này rồi, còn mơ mộng gì nữa!”

Vậy tại sao mơ mộng hay biến mất khỏi thế giới của người lớn, ai đã ngăn cản chúng ta mơ mộng. Phải chăng mơ mộng là độc quyền trong thế giới của trẻ thơ? Phải do chuyện cơm áo gạo tiền thiết thực hàng ngày khiến người ta nghĩ mơ mộng là thứ lâu đài trên cá?

chim diều hâu
Nếu không biết phấn đấu, người ta cũng giống như con diều hâu trong chuồng gà, không thể phát huy bản năng của mình

Có câu chuyện như sau:

Một người lên đỉnh núi vào tổ diều hâu bắt được con diều hâu non và đem về nhà nuôi. Người chủ nhốt nuôi trong chuồng gà, cho con diều hâu sống chung với những con gà. Theo thời gian, con diều hâu dần lớn lên, sải cánh cũng đầy đủ, người chủ muốn huấn luyện nó thành con chim săn mồi, nhưng vì xưa nay con diều hâu luôn sống chung với gà nên nó đã hoàn toàn biến thành con gà, không có khát vọng được bay lượn. Người chủ thử rất nhiều cách nhưng đều vô vọng, cuối cùng nghĩ ra cách mang nó lên trên đỉnh núi rồi ném xuống. Ban đầu con diều hâu cứ rơi tự do xuống như hòn đá, tuy nhiên trong hoảng loạn nó cũng ra sức vùng vẫy đôi cánh, rồi sau một lúc nó đã bay được: bây giờ nó đã thành con diều hâu thực sự.

Tôi giật mình nghĩ, nếu không có mơ mộng người ta cũng giống như con diều hâu trong chuồng gà, sẽ đánh mất chính mình trong những thói quen thường ngày. Vì thế, cho dù cuộc sống có thế nào, dù nó không theo như những gì chúng ta dự tính, nhưng mơ mộng chính là vẻ đẹp mang đến sức mạnh cho tâm hồn, là nguồn động lực để chúng ta không bị lạc lõng mất phương hướng.

Không từ bỏ hy vọng trong cuộc sống

Có thí nghiệm như sau: Cho hai con chuột bạch vào trong thùng đựng nước, chúng sẽ ra sức vùng vẫy để tìm cách thoát thân, thời gian chúng duy trì khoảng 8 phút. Nhưng khi chúng vùng vẫy được 5 phút thì bỏ vào một cái ván để chúng trèo lên. Vài ngày sau người ta lại tiếp tục cho hai con chuột bạch vào thùng nước như lần trước, lần này kết quả thật kinh ngạc: hai con chuột có thể duy trì thời gian vùng vẫy 24 phút, gấp 3 lần so với mức trước đây.

Người ta kết luận: lần sau hai con chuột kéo dài thời gian được nhiều hơn lần đầu như thế là nhờ sức mạnh tinh thần, chúng tin rồi sẽ có tấm ván giúp chúng thoát thân. Loại sức mạnh tinh thần này chính là tâm lý tích cực, nói cách khác tâm lý hy vọng vào một kết quả tốt đẹp sẽ đến.

Vì vậy cho dù bản thân rơi vào hoàn cảnh thế nào cũng không bao giờ nên từ bỏ hy vọng của mình, hãy giữ niềm tin vào những gì tốt đẹp, tâm lý tích cực sẽ giúp cuộc sống của bạn có sức mạnh.

Con chuột bị điếc

Có một bầy chuột tổ chức một cuộc thi leo trèo, đích đến là đỉnh một tháp vô cùng cao. Cả bầy chuột xúm quanh cái tháp xem trận thi đấu và cổ động. Trận đấu bắt đầu.

Thực tế, cả bầy chuột không con nào tin những con chuột nhỏ bé có thể trèo được tới đỉnh cái tháp cao như thế, chúng xôn xao bàn tán: “Khó quá!! Chắc chắn không ai trèo tới đỉnh được!” “Tuyệt đối không thể thành công, tháp quá cao!”

Những lời này làm các con chuột bắt đầu nhụt chí, cuối cùng chỉ còn có mấy con vẫn cố gắng leo lên. Đám chuột cổ động tiếp tục la hét: “Khó lắm!! Không ai đủ sức leo lên được đâu!” Càng lúc càng thêm nhiều con chuột mỏi mệt và bỏ cuộc. Nhưng có một con vẫn tiếp tục không ngừng cố gắng leo lên, có vẻ như nó chưa bao giờ có ý từ bỏ.

Cuối cùng, khi tất cả những con chuột khác đều từ bỏ cuộc thi thì chỉ còn mình nó, sau bao công sức cuối cùng cũng lên đỉnh tháp và giành chiến thắng.

Đương nhiên câu chuyện sau đó là tất cả các con khác đều muốn biết bí quyết thành công của nó, một con chạy lên trước hỏi nó lấy sức đâu để hoàn thành được hành trình? Thế rồi bọn chuột phát hiện: thì ra con chuột chiến thắng bị điếc.

Đừng nghe và tin vào những người có thói quen nhìn vấn đề tiêu cực, vì họ chỉ làm tiêu tán ước mơ và hy vọng tốt đẹp của bạn! Hãy luôn ghi nhớ những lời nói mà bạn nghe giúp mình tràn đầy năng lượng, vì tất cả những gì bạn nghe được hoặc đọc được đều ảnh hưởng đến hành vi của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 câu chuyện làm thay đổi nhân sinh quan của bạn

Con giáp nào có vận thế đẹp nhất tháng 4?

Những người tuổi Thân gặp tháng tư sẽ có song hỉ lâm môn. Đây chính là con giáp có vận thế đẹp nhất trong tháng này.
Con giáp nào có vận thế đẹp nhất tháng 4?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người tuổi Thân gặp tháng tư sẽ có song hỉ lâm môn. Đây chính là con giáp có vận thế đẹp nhất trong tháng này. 


Tuổi Tý

Những người tuổi Tý tuy vận thế trong tháng 4 có chút yếu đi nhưng vận tài phú và đào hoa vẫn tốt. Bạn vẫn luôn hưởng những thời khắc vui vẻ.
  Tuổi Sửu

Con giap nao co van the dep nhat thang 4 hinh anh
 
Do ảnh hưởng của lưu nguyệt trong tháng 4 nên sẽ có sự điều chỉnh trong tài vận, tình cảm và hôn nhân. Có một số người sẽ buồn rầu, nhưng chỉ cần bạn điều chỉnh lại hướng của giường ngủ, bạn sẽ được hưởng trọn niềm vui cả tháng.
  Tuổi Dần

Bạn sẽ gặp phải một chút rắt rối trong tháng này là hao tài. Hôn nhân tình cảm của bạn cũng có đôi chút không như ý. Bạn chỉ cần nghỉ ngơi, lấy lại tinh thần, mọi việc sẽ suôn sẻ và bạn sẽ tìm được niềm vui cho mình.
  Tuổi Mão

Tháng này tài phú, nhân duyên của bạn đều vượng vì thế tuổi Mão luôn vui vẻ, tinh thần phấn chấn.
  Tuổi Thìn

Trong tháng này đào hoa của bạn tương đối vượng, điều may mắn là tài vận của bạn cùng đến vì thế cùng lúc, tuổi Thìn được hưởng hai niềm vui. Trong tháng này bạn cần phải chú ý đến sức khỏe và bình an.
  Tuổi Tỵ

Trong tháng tư, tình duyên và tài vận của bạn vẫn ổn định. Nhưng bạn cần phải có những điều chỉnh hợp lý trong cuộc sống để có thể gặt hái được những điều mong muốn.
  Tuổi Ngọ

Tuy tháng này vận thế của bạn có sa sút đôi chút nhưng vẫn ở vị trí rất cao. Vì thế bạn sẽ luôn hưởng niềm vui cả tháng. Nhưng tháng này bạn cần phải đề phòng họa tiểu nhân.
  Tuổi Mùi

Vận thế của bạn tốt hơn so với tháng trước. Đối với người tuổi Mùi gặp phải năm hạn thì đây là điều vô cùng đáng vui mừng.
  Tuổi Thân

Con giap nao co van the dep nhat thang 4 hinh anh 2
 
Tháng này sẽ có song hỉ lâm môn. Đây chính là con giáp có vận thế đẹp nhất trong tháng này
  Tuổi Dậu

Trong tháng này vận thế của bạn sẽ tăng tiến. Tài vận, đào hoa đều rất tốt. Vì thế bạn sẽ có tâm trạng vui vẻ thoải mái hơn. Nhưng trong tháng này bạn cần phải đề phòng hạn tiểu nhân.
  Tuổi Tuất

Vận thế của bạn trong tháng tương đối ổn định. Phương diện tình duyên, hôn nhân, sự nghiệp và tài vận đều khởi sắc. Bạn cần phải thừa thắng xông lên tiếp tục điều chỉnh hợp lý để đạt được nhiều thành công hơn.
  Tuổi Hợi

Có chút biến động trong tháng với bạn nhưng về tổng thể thì tình duyên, tài vận và sự nghiệp của bạn vẫn như ý. Vì thế bạn sẽ thấy luôn vui vẻ và thoải mái. Tháng này cần chú ý rèn luyện sức khỏe.

(Thông tin trong bài chỉ mang tính tham khảo).

Theo Kienthuc.net.vn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào có vận thế đẹp nhất tháng 4?

Người tuổi nào luôn 'gặp dữ hóa lành'?

Ý chí kiên định của người tuổi Dần, số phú quý của người tuổi Hợi luôn giúp họ gặp hung hóa cát .
Người tuổi nào luôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dần

Ý chí kiên định và lòng dũng cảm của người tuổi Dần giúp họ thuận lợi vượt qua mọi khó khăn. Người tuổi Dần bộc trực, thẳng thắn lại khôn khéo, biết nắm bắt cơ hội để có được thành công trong sự nghiệp và tình yêu.

Dan-4690-1411631568.jpg

Những ưu điểm vượt trội trong tính cách của người tuổi Dần giúp họ "biến hung thành cát", thay đổi cục diện theo cách có lợi nhất cho bản thân.

Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi số phú quý thiên bẩm, khi sinh ra đã không phải lo nghĩ chuyện tiền bạc. Hơn thế, họ giữ được thái độ điềm tĩnh và sáng suốt trong mọi tình huống, dù cấp bách hay nguy hiểm.

Hoi-3312-1411631568.jpg

Bên ngoài, người tuổi Hợi luôn tỏ ra vô lo vô nghĩ và có chút lười biếng, thật ra họ suy nghĩ rất chín chắn, thường lên kế hoạch rõ ràng cho những mục tiêu đã đề ra. Khi gặp điều kiện bất lợi hay xui xẻo, họ lạc quan vượt qua mọi chuyện.

Tuổi Ngọ

Không chỉ biết vun vén cho riêng mình, người tuổi Ngọ còn hay quan tâm tới mọi người. Họ vốn tốt tính, đôn hậu và biết cảm thông. Đồng thời, người tuổi Ngọ tính cách hòa đồng, không tính toán thiệt hơn nên dễ có được cảm tình của mọi người ngay từ lần đầu tiếp xúc.

Ngo-8961-1411631568.jpg

Do đó, nếu gặp sự cố hoặc khó khăn trong công việc và chuyện tình cảm, bạn bè xung quanh sẽ chủ động "tư vấn", làm chỗ dựa tinh thần cho người tuổi Ngọ. Bởi vậy, mọi vận xui của họ sẽ biến mất nhanh chóng, nhường chỗ cho điều tốt lành.

Tuổi Mão

Người tuổi Mão năng động, phóng khoáng nên kết giao nhiều bạn và có những mối quan hệ xã giao tốt đẹp. Họ đơn giản, coi trọng tình cảm và biết quan tâm tới những người xung quanh.

Mao-7749-1411631568.jpg

Bước đường thành công của người tuổi Mão vô cùng rộng mở bởi họ làm chuyện gì cũng "gặp hung hóa cát" vì được nhiều người hỗ trợ.

Tuổi Tỵ

Hào phóng, nghĩa khí, có biệt tài ăn nói là những ưu điểm nổi bật của người tuổi Tỵ. Đặc điểm này dễ giúp họ biến thách thức thành cơ hội tốt đẹp và đạt được mục đích thuận lợi.

Ty-3066-1411631569.jpg

Dường như may mắn lúc nào cũng mỉm cười với người tuổi Tỵ. Họ có quý nhân phù trợ, người sẵn sàng đưa tay giúp đỡ khi họ gặp khó khăn về tài chính.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi nào luôn 'gặp dữ hóa lành'?

Mâm cỗ tết gồm những món ăn đặc trưng gì?

Mâm cỗ Tết năm nay gia đình bạn dự tính sẽ làm những món ngon gì? Giới đây Phong thủy số gợi ý cho bạn cách làm một số món ăn vừa ngon lại thanh mát để đãi khách nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mâm cỗ ngày Tết của người Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Trên mâm cơm cúng ngày Tết không thể thiếu những món đặc trưng mang hương vị ngày tết như bánh chưng, bánh tét, gà luộc, dưa hành, … Mâm cỗ Tết năm nay gia đình bạn dự tính sẽ làm những món ngon gì? Giới đây Phong thủy số gợi ý cho bạn cách làm một số món ăn vừa ngon lại thanh mát để đãi khách nhé.

Những bài viết liên quan:

+ Cách bài trí mâm cỗ đêm giao thừa

+ Mâm cơm cúng tất niên gồm những món gì?

+ Mâm cơm cúng ông công, ông táo gồm những món gì?

Bắp bò ngâm mắm

Đây là một món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ tết của những gia đình miền Bắc. Ngoài những món ăn không thể thiếu trên mâm cơm cúng ngày tết như nem rán, canh măng, canh mọc, chả giò, … thì bắp bò ngâm mắn là món ăn được các ông chồng ưa thích.

Mâm cỗ tết gồm những món ăn đặc trưng gì?

Nguyên liệu cần có:
- 1 miếng bắp bò không quá to (1.3kg-1.5 kg thịt bắp bò)
- 500ml nước mắm
- 400gr đường
- 100ml nước lạnh
- 50ml giấm
- Vài nhánh sả đập dập
- Muối, 1 củ hành tây, hành hương, ớt, tỏi, tiêu hạt, sả thái nhỏ.
Cách làm: 
Thịt bò rửa qua nước lạnh, dùng dây cột tròn bắp bò rồi luộc sơ trong 3 phút, sau đó mang đi rửa lại lần nữa.
Nấu một nồi nước dùng gồm sả đập dập + hành tây +  lá chanh + nửa thìa muối, đun sôi sau đó cho bắp bò vào luộc trong khoảng 30 - 45 phút.
Khi thịt chín thì vớt ra, ngâm vào chậu nước đá lanh cộng thêm 1 thìa nước cốt chanh. Khoảng  2 - 3 phút thì vớt ra để nguội.
Pha nước dùng: Cho nước mắm, đường, giấm và nước lạnh vào nồi hòa tan. Sau đó bắc lên bếp nấu với lửa nhỏ khi nước mắm sôi khoảng 12-15 phút là tắt bếp, để thật nguội. Xếp thịt vào hũ, cho vào hũ vài miếng ớt thái lát/ hay để nguyên trái cùng vài củ hành khô, vài tép tỏi, sả và tiêu hạt, sau đó cho nước mắm vào đậy nắp lại. Để 4-5 ngày là ăn được rồi.
Khi ăn, vớt thịt ra, thái lát mỏng ăn kèm cùng rau sống hoặc đồ chua. Bảo quản thịt ở môi trường thoáng mát, hoặc để ở ngăn mát tủ lạnh nếu thời tiết quá nóng.

2. Làm dưa món giòn ngon cho ngày Tết.

Trên mâm cỗ tết không thể thiếu món này, vừa mang lại vị chua thanh, giòn ngọt kết hợp với những món như bánh tết, thịt đông thì thật là tuyệt vời. 
Chuẩn bị nguyên liệu:
Phần nước mắm: 300 ml nước mắm ngon; 50 ml nước; 180 gr đường; 1 muỗng cà phê muối. Cho vào nồi đun sôi để nguội.
Phần rau củ: 1 củ cải trắng (400 gr) 1 củ cà rốt, 1 củ su hào, 5 trái ớt nhỏ, 5 củ hành tím, 5 tép tỏi, 2 muỗng canh muối

Mâm cỗ tết gồm những món ăn đặc trưng gì?

Các loại rau cả thái miếng hơn dày. Sau đó cho muối vào bóp để 10 phút cho các loại rau củ mềm. Sau đó xả qua nước lạnh, vắt ráo. Phơ hoặc để cho héo là được.
Cho rau củ vào hũ, đổ phần nước mắn ngập rau củ. Bảo quản trong 2 ngày là có thể dùng được.
Trên đây là 2 món ăn đơn giản những không thể thiếu trong mâm cỗ ngày tết của mỗi gia đình. Nhất là trên mâm cơm cúng ngày Tết thì những món ăn truyền thống mang đậm hương vị góp phần cho những ngày tết của gia đình bạn được ấm cúng và hạnh phúc hơn.
Cùng chia sẻ với thư viện Phong thủy về mâm cỗ ngày tết gia đình bạn gồm những món gì?

: Tết 2017 Mâm cỗ cúng tất niên gồm những gì Mâm cỗ ngày tết ở miền Nam Mâm cỗ ngày tết ở miền Bắc Mâm cơm cúng ngày mùng 1 Tết
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mâm cỗ tết gồm những món ăn đặc trưng gì?

Cách sử dụng nến phong thủy để tăng vận may

Nến phong thủy không những được sử dụng để thắp sáng, trang trí mà dùng đúng cách có thể tăng vận may, đem đến cho bạn những điều tốt lành hạnh phúc
Cách sử dụng nến phong thủy để tăng vận may

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nến phong thủy không chỉ rất đẹp mà còn có thể tăng vận may cho bạn. Nếu nhà bạn sử dụng nến, hãy áp dụng mẹo phong thủy và lưu ý đến vị trí đặt theo sơ đồ Bát quái. Hãy để chúng phát huy tác dụng hỗ trợ bạn đạt mục tiêu hoặc điều chỉnh năng lượng của từng khu vực.

Tất cả phụ nữ đều trông tuyệt vời hơn dưới ánh sáng dịu hiền của ngọn nến. Nến phản chiếu lên tường và bóng của nó khêu gợi trí tưởng tượng, gợi mở các cuộc nói chuyện. Đặt 2 ngọn nến phong thủy ở cung Tình Duyên (Tây Nam) sẽ thắt chặt mối quan hệ hiện tại của bạn. Hãy dùng nến màu hồng – màu hỗ trợ cho mục đích của bạn. Bạn sẽ cảm thấy phòng ngủ của mình tuyệt diệu hơn dưới ánh nến.

Nến dùng trong phòng tắm

Thả nến vào 1 chiếc chậu trong phòng tắm. Ánh nến xoay nhẹ trên mặt nước tạo nên sức quyến rũ không thể chối từ. Mùi thơm sang trọng của nến giúp thư giãn, tạo hưng phấn.

Trong thành phần của nến có sử dụng dầu thơm là 1 cách làm rất phổ biến để ứng dụng vào phong thủy nội thất. Hãy kiểm tra nhãn hiệu của nến để biết loại dầu thơm nào được sử dụng. Nếu nó là dầu từ thiên nhiên, có thể dùng với mục đích thư giãn và tạo hưng phấn.

Màu sắc của nến và Bát quái sơ đồ

Nến rất đẹp và có đủ các màu sắc của cầu vồng. Hãy đặt chúng theo sơ đồ Bát quái để tăng cường năng lượng. Đặt màu đỏ ở cung Danh Vọng (hướng Nam) nhằm nâng cao uy thế doanh nghiệp của bạn trong cộng đồng. Đặt nến trắng ở nơi làm việc của bạn nhằm kích thích sự sáng tạo. Đặt nến vàng vào trung tâm căn nhà hoặc văn phòng nếu bạn muốn bảo vệ nơi này và cổ vũ 1 lối sống lành mạnh. Màu tím của nến phong thủy là màu của sự giàu sang, thích hợp đặt ở cung Tài Lộc (Đông Nam).

Nến làm sạch không khí

Khi đi du lịch, không khí trong khách sạn hoặc nhà nghỉ thường cũ kĩ, tù đọng. Thắp 1 ngọn nến nhỏ và để nó cháy trong 1 lúc. Mùi hương cũng như yếu tố Hỏa của nến sẽ trung hòa và làm sạch không khí.

Nến cổ vũ tinh thần

Nếu bạn đang tìm giải pháp cho 1 vấn đề, hãy thắp 1 ngọn nến ở khu vực Tây Bắc (cung Quý Nhân) để thu hút sự giúp đỡ. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy câu trả lời nhanh chóng đến với bạn. Nến còn giúp tạo ra sự thay đổi trong ngôi nhà và khiến bạn được hỗ trợ, có cảm hứng hơn trong cuộc sống.

Giữ nến an toàn

Nến cũng cần phải được đảm bảo an toàn. Khi nến đã cháy và hết bấc, hãy thay thế ngọn nến khác ngay lập tức. Nếu không, công việc sẽ không hoàn thiện, năng lực của bạn sẽ trở nên yếu kém. Không được để nến tùy tiện ở các vị trí trong phòng, cần giữ nó ở khoảng cách an toàn với các vật khác để không bị bắt lửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sử dụng nến phong thủy để tăng vận may

Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn Lương giữ kỷ cương)

Thiên Cơ, Văn Khúc cùng trấn mệnh tại cung Dần hoặc Ngọ, hoặc sao Thiên Lương trấn mệnh tại cung Ngọ, có sao Văn Khúc tại cung Tý cùng chiếu.
Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn Lương giữ kỷ cương)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm: Quyền cao chức trọng, phúc thọ song toàn, giỏi tính toán, dự đoán, theo nghiệp võ sẽ hiển đạt.

Văn Khúc hoặc Văn Xương và Thiên Lương trấn mệnh tại Vượng địa, tại cung tam phương có các sao Lộc tồn, Hóa Khoa, Hóa quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội là thuộc cách cục này. Nên theo nghiệp chính trị, nếu gặp nhiều cát tinh, chủ về cực hiển quý.

Ca quyết như sau:
Văn tinh cảnh trực ngộ Thiên Lương
Vị liệt hoàng môn điểu phủ hành
Cương kỷ triều trung công nghiệp kiến
Bức nhân thanh khí mãn càn khôn

Nghĩa là:
Sao văn chính trực gặp Thiên Lương
Quan tại triều đình chức đường đường
Chấn chỉnh kỷ cương sự nghiệp lớn
Thanh cao nức tiếng khắp xa gần

Kinh văn có câu: " Thiên lương, Văn Khúc nhập miếu vượng, làm quan lớn", "Thiên Lương miếu vượng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, gia hội chức trọng, quyền cao".

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn Lương giữ kỷ cương)

Doanh nhân tuổi Hợi chọn đối tác

Đối với doanh nhân tuổi Ất Hợi (1935, 1995), cả nam và nữ nên hợp tác với người tuổi Đinh Sửu (1937, 1997), Canh Thìn (1940, 2000), Quý Mùi (1943, 2003).
Doanh nhân tuổi Hợi chọn đối tác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Đối với doanh nhân tuổi Đinh Hợi (1947), nam giới nên hợp tác với người tuổi Canh Dần (1950), tuổi Nhâm Thân (1932, 1992). Nữ giới nên hợp tác với người tuổi Canh Dần, tuổi Nhâm Thân, tuổi Bính Tuất (1946).

Đối với doanh nhân tuổi Kỷ Hợi (1959), cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người tuổi Kỷ Hợi, tuổi Canh Tý (1960), tuổi Nhâm Dần (1962).

Đối với doanh nhân tuổi Tân Hợi (1971), nam giới nên hơp tác với người tuổi Tân Hợi, tuổi Nhâm Tý (1972), tuổi Ất Mão (1975). Nữ giới chọn người tuổi Tân Hợi, tuổi Nhâm Tý, tuổi Đinh Tỵ (1977).

Đối với doanh nhân tuổi Quý Hợi (1983), cả nam giới và nữ giới nên hợp tác với người tuổi Quý Hợi, tuổi Ất Sửu (1985), Đinh Mão (1987).

(Theo Diễn Đàn Doanh Nghiệp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nhân tuổi Hợi chọn đối tác

Tướng đường chỉ tay hôn nhân –

Là một trong năm đường cơ bản nhất của bàn tay. Nó xuất phát từ lòng bàn tay chạy về ngón út đến dưới ngón út. Đường này chỉ về trạng thái hôn nhân. Đồng thời kết hợp với ý nghĩa của đường tâm tính để hiểu thêm về hạnh phúc của cá nhân. Sự kết hợp na
Tướng đường chỉ tay hôn nhân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đường chỉ tay hôn nhân –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd