Hướng nhà nghênh cát tránh hung là điều rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới gia trạch. Vì vậy xem hướng nhà theo tuổi không thể lơ là, Lịch Ngày Tốt xin hướng dẫn nam giới tuổi Tuất xác định hướng tốt xấu của từng năm cụ thể.
Làm nhà xem tuổi, xem năm, xem hướng – ba yếu tố ấy không thể thiếu yếu tố nào. Khi đã xác định được năm tốt, tuổi tốt thì nhất định phải chọn được hướng tốt thì ngôi nhà mới đẹp phong thủy, người ở trong nhà mới được hưởng phúc khí. Ở bài viết này, xin gợi ý xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Tuất.
1. Tuổi Giáp Tuất 1994 – mệnh Càn
- Hướng tốt: Hướng Tây Nam – Diên niên: Căn cứ vào 4 tiêu chuẩn "vàng" xác định hướng nhà tốt, có thể thấy đây là hướng tốt nhất với tuổi Giáp Tuất, vừa vượng tài vượng lộc lại vượng nhân đinh, gia đình giàu có, con cháu thành đạt, sức khỏe dồi dào, hạnh phúc viên vãn.Hướng Đông Bắc – Thiên y: Nhà hướng này chủ về làm ăn phát triển, có cuộc sống vui vẻ ổn định, người trong nhà hiền lành, nhân hậu nhưng vì nhà thuần dương nên con gái trong nhà thường ốm đau.Hướng Tây Bắc – Phụ vị: Nhà hướng này thịnh vượng giàu có, con cháu đều thông mình thành đạt, nhất là con trưởng nhưng vì âm thịnh dương suy nên sức khỏe của phụ nữ trong nhà yếu, sinh con khó nuôi.- Hướng xấu:Hướng Tây – Sinh khí: Hướng Sinh khí hầu hết là hướng tốt nhưng trong trường hợp này sao Tham Lang thuộc ngũ hành Mộc bị cung Đoài thuộc ngũ hành Kim khắc nên dù ban đầu khấm khá tốt lành nhưng càng về sau càng lụi bại, không lâu dài.Hướng Nam – Tuyệt mệnh: Hướng nhà này rất xấu, nhờ có sao Kim Phá Quân nhập cung Hỏa, khắc hướng Ly Hỏa nên giảm bớt hung hiểm song vẫn không nên ở.Hướng Bắc – Lục sát: Hướng nhà này tưởng tốt vì ban đầu làm ăn vượng nhưng càng ở lâu sức khỏe người trong nhà càng sa sút, nhất là phụ nữ. Hơn nữa nhân đinh thoái lui, con cháu hư hỏng, không có định hướng.Hướng Đông Nam – Họa hại: Hướng nhà Tốn Mộc khắc sao Thổ giảm bớt điềm hung của sao thổ Lộc Tồn nhưng vẫn xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe, nhất là phụ nữ. Phụ nữ hay ốm đau, khó sinh, sinh con khó nuôi.Hướng Đông – Ngũ quỷ: Hướng nhà này chủ về hung tai, tổn thương, tiêu bại gia sản, dễ gặp họa thị phi, tranh giành, kiện tụng, ốm bệnh. Quẻ Chấn đại diện cho trưởng nam nên người này bị ảnh hưởng nhiều nhất.
2. Tuổi Nhâm Tuất 1982 – mệnh Ly
- Hướng tốt:Hướng Đông – Sinh khí: Hướng nhà này hưng vượng tài lộc và công danh, có nhiều người phát triển đường quan lộ, con cháu thông minh thành đạt, gia vận phát triển bền vững.Hướng Bắc – Diên niên: Hướng nhà này tốt về kinh doanh làm ăn, sức khỏe ổn định, con cháu ngoan ngoãn thành công. Nhưng có Thủy Hỏa tương xung, nên tìm cách hóa giải để toàn diện hơn.- Hướng xấu: Hướng Đông Nam – Thiên y: Hướng nhà này vốn không xấu, làm ăn tốt mà công danh sự nghiệp cũng hiển đạt, nữ giới phúc đức nhưng lại tổn hại nam giới, dễ ốm đau, chết trẻ. Nam tuổi Tuất không nên sống trong nhà này.Hướng Nam – Phục vị: Nhà này cũng có của ăn của để, làm việc thông thuận nhưng không phát triển lâu dài, âm thịnh dương suy nên nam giới trong nhà sức khỏe kém, thường chết sớm.Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Xem hướng làm nhà, nhà này có nhiều hung tai, hay gặp họa, người trong nhà chết trẻ, nhất là nam giới.Hướng Tây Nam – Lục sát: Hướng nhà âm thịnh dương suy, phụ nữ làm chủ, nam giới mất sớm. Hướng Đông Bắc – Họa hại: Hướng nhà chủ về túng thiếu khó khăn, luôn gặp họa thị phi.Hướng Tây – Ngũ quỷ: Hướng nhà âm thịnh dương suy nên nam giới hay bị bệnh tật, mất sớm; con gái thứ trong nhà thường vướng vào tai hung; gia vận càng ngày càng kém.
3. Canh Tuất 1970 – mệnh Chấn
- Hướng tốt:Hướng Nam – Sinh khí: Chọn hướng nhà này đảm bảo gia vận thịnh đạt, tài lộc dồi dào, con người hiền lành đức độ, nhất là phụ nữ trong nhà sống tình nghĩa, hiếu lễ.Hướng Đông Nam – Diên niên: Nhà này chủ yếu phát triển đường công danh, nhiều người gây dựng được sự nghiệp hiển hách, được xã hội trọng vọng, quyền cao chức trọng nhưng vẫn đức độ, sống nhân nghĩa.Hướng Bắc – Thiên y: Nhà này tốt về tài lộc, con người làm ăn chân chính nhưng dương khí thịnh nên sức khỏe phụ nữ trong nhà không tốt lắm.- Hướng xấu: Hướng Đông – Phục vị: Ban đầu hướng nhà này cũng tốt về kinh doanh nhưng dương khí quá mạnh nên gia vận không thuận, cha mẹ con cái thường xuyên cãi cọ, phụ nữ ốm đau, ít con cái.Hướng Tây – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn rất kém lại hay gặp họa. Cung Chấn đại diện cho trưởng nam, người này bị ảnh hưởng nhiều nhất, dễ mất sớm vì bệnh tật.Hướng Đông Bắc – Lục sát: Nhà này sa sút, kém cỏi, âm khí suy bại nên phụ nữ thường bị tổn thương, người con trai út sức khỏe kém.Hướng Tây Nam – Họa hại: Nhà này nghèo túng, ít người, cung Khôn đại diện cho người mẹ bị khắc chế nên người mẹ gặp nhiều tai ương.Hướng Tây Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này không phát triển về kinh tế, sức khỏe xấu, nhiều tai họa bất ngờ.
4. Tuổi Mậu Tuất 1958 – mệnh Càn
- Hướng tốt: Hướng Tây Nam – Diên niên: Hướng nhà này là hướng tốt nhất với tuổi Mậu Tuất, vừa vượng tài vượng lộc lại vượng nhân đinh, gia đình giàu có, con cháu thành đạt, sức khỏe dồi dào, hạnh phúc viên vãn.Hướng Đông Bắc – Thiên y: Nhà hướng này chủ về làm ăn phát triển, có cuộc sống vui vẻ ổn định, người trong nhà hiền lành, nhân hậu nhưng vì nhà thuần dương nên con gái trong nhà thường ốm đau.Hướng Tây Bắc – Phụ vị: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà hướng này thịnh vượng giàu có, con cháu đều thông mình thành đạt, nhất là con trưởng nhưng vì âm thịnh dương suy nên sức khỏe của phụ nữ trong nhà yếu, sinh con khó nuôi.- Hướng xấu:Hướng Tây – Sinh khí: Hướng Sinh khí hầu hết là hướng tốt nhưng trong trường hợp này sao Tham Lang thuộc ngũ hành Mộc bị cung Đoài thuộc ngũ hành Kim khắc nên dù ban đầu khấm khá tốt lành nhưng càng về sau càng lụi bại, không lâu dài.Tham khảo thêm Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy để hiểu rõ về vấn đề này.Hướng Nam – Tuyệt mệnh: Hướng nhà này rất xấu, nhờ có sao Kim Phá Quân nhập cung Hỏa, khắc hướng Ly Hỏa nên giảm bớt hung hiểm song vẫn không nên ở.Hướng Bắc – Lục sát: Hướng nhà này tưởng tốt vì ban đầu làm ăn vượng nhưng càng ở lâu sức khỏe người trong nhà càng sa sút, nhất là phụ nữ. Hơn nữa nhân đinh thoái lui, con cháu hư hỏng, không có định hướng.Hướng Đông Nam – Họa hại: Hướng nhà Tốn Mộc khắc sao Thổ giảm bớt điềm hung của sao thổ Lộc Tồn nhưng vẫn xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe, nhất là phụ nữ. Phụ nữ hay ốm đau, khó sinh, sinh con khó nuôi.Hướng Đông – Ngũ quỷ: Hướng nhà này chủ về hung tai, tổn thương, tiêu bại gia sản, dễ gặp họa thị phi, tranh giành, kiện tụng, ốm bệnh. Quẻ Chấn đại diện cho trưởng nam nên người này bị ảnh hưởng nhiều nhất.
5. Tuổi Bính Tuất 1946 – mệnh Ly
- Hướng tốt:Hướng Đông – Sinh khí: Hướng nhà này hưng vượng tài lộc và công danh, có nhiều người phát triển đường quan lộ, con cháu thông minh thành đạt, gia vận phát triển bền vững.Hướng Bắc – Diên niên: Hướng nhà này tốt về kinh doanh làm ăn, sức khỏe ổn định, con cháu ngoan ngoãn thành công. Nhưng có Thủy Hỏa tương xung, nên tìm cách hóa giải để toàn diện hơn.- Hướng xấu: Hướng Đông Nam – Thiên y: Hướng nhà này vốn không xấu, làm ăn tốt mà công danh sự nghiệp cũng hiển đạt, nữ giới phúc đức nhưng lại tổn hại nam giới, dễ ốm đau, chết trẻ. Nam tuổi Tuất không nên sống trong nhà này.Hướng Nam – Phục vị: Nhà này cũng có của ăn của để, làm việc thông thuận nhưng không phát triển lâu dài, âm thịnh dương suy nên nam giới trong nhà sức khỏe kém, thường chết sớm.Hướng Tây Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này có nhiều hung tai, hay gặp họa, người trong nhà chết trẻ, nhất là nam giới.Hướng Tây Nam – Lục sát: Xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Tuất, hướng nhà âm thịnh dương suy, phụ nữ làm chủ, nam giới mất sớm. Hướng Đông Bắc – Họa hại: Hướng nhà chủ về túng thiếu khó khăn, luôn gặp họa thị phi.Hướng Tây – Ngũ quỷ: Hướng nhà âm thịnh dương suy nên nam giới hay bị bệnh tật, mất sớm; con gái thứ trong nhà thường vướng vào tai hung; gia vận càng ngày càng kém.
6. Tuổi Giáp Tuất 1934 – mệnh Chấn
- Hướng tốt:Hướng Nam – Sinh khí: Chọn đúng hướng để phong thủy nhà ở cực đỉnh, hướng nhà này đảm bảo gia vận thịnh đạt, tài lộc dồi dào, con người hiền lành đức độ, nhất là phụ nữ trong nhà sống tình nghĩa, hiếu lễ.Hướng Đông Nam – Diên niên: Nhà này chủ yếu phát triển đường công danh, nhiều người gây dựng được sự nghiệp hiển hách, được xã hội trọng vọng, quyền cao chức trọng nhưng vẫn đức độ, sống nhân nghĩa.Hướng Bắc – Thiên y: Nhà này tốt về tài lộc, con người làm ăn chân chính nhưng dương khí thịnh nên sức khỏe phụ nữ trong nhà không tốt lắm.- Hướng xấu: Hướng Đông – Phục vị: Ban đầu hướng nhà này cũng tốt về kinh doanh nhưng dương khí quá mạnh nên gia vận không thuận, cha mẹ con cái thường xuyên cãi cọ, phụ nữ ốm đau, ít con cái.Hướng Tây – Tuyệt mệnh: Nhà này làm ăn rất kém lại hay gặp họa. Cung Chấn đại diện cho trưởng nam, người này bị ảnh hưởng nhiều nhất, dễ mất sớm vì bệnh tật.Hướng Đông Bắc – Lục sát: Nhà này sa sút, kém cỏi, âm khí suy bại nên phụ nữ thường bị tổn thương, người con trai út sức khỏe kém.Hướng Tây Nam – Họa hại: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này nghèo túng, ít người, cung Khôn đại diện cho người mẹ bị khắc chế nên người mẹ gặp nhiều tai ương.Hướng Tây Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này không phát triển về kinh tế, sức khỏe xấu, nhiều tai họa bất ngờ. “Bỏ túi” 9 bí quyết mua nhà chuẩn phong thuỷHướng dẫn chọn ngọc thạch phong thủy theo hướng nhàKị nhau về hướng trong phong thủy gây ra hậu quả khôn lường Trần Hồng
- Tranh luận về khoa Tử -Vi hiện nay, người ta có ba giả-thuyết về nguồn gốc của nó:
- Giả-thuyết thứ nhất: Nói rằng đời người có nhiều sự kiện. Các sự kiện khi giao huy với nhau thành ra sự kiện mới. Trong khoa Tử-Vi, mỗi sao biểu tượng cho một sự kiện đó.
- Giả-thuyết thứ hai: Khoa Tử-Vi là một số sự kiện. Nguyên lý của khoa Tử-Vi không giải-thích được. Các ngôi sao chỉ giao huy với nhau trên một tờ giấy.
- Giả-thuyết thứ ba: lại cho rằng nguyên lý của khoa Tử-Vi là Dịch lý. Hi-Di tiên-sinh đã căn cứ vào Dịch lý mà san định ra Tử-Vi. Như đã trình bày ở trên: Các nhà nghiên cứu Tử-Vi ít để ý đến lịch-sử nguồn gốc của nó. Nên diễn tiến lịch-sử bị bỏ quên. Người đời nay muốn tìm, rất khó khăn, nên mới có những giả-thuyết đặt ra theo trí thông minh sâu sắc mà suy diễn.
Trở lại với nguyên lý khoa Tử-Vi, ta hãy căn cứ vào đoạn đối đáp sau đây của Tống-Thái-Tổ với Hi-Di tiên-sinh:
“.. Quả nhân đã đọc Tử-Vi Tinh-Nghĩa kinh do tiên-sinh ban cho. Tiên-sinh là Thần Tiên khác phàm, trên cảm cùng trời, dưới thông cùng nhân gian. Tiên-sinh đã khải ngộ đặt ra từ bao giờ vậy?
Ðáp:
- Không phải bần đạo đâu. Không phải bần đạo đâu. Khoa Tử-Vi uyên-nguyên từ đời Ðông-Tấn. Qua đời Lục-Triều vẫn chưa có qui-tắc nhất định. Ðời Ðường thịnh trị mấy trăm năm, không ai để tâm đến. Vừa qua thiên-hạ đại loạn, thế sự thăng trầm, chết sống vô định, nên Tử-Vi được san định lại. Bần đạo nhân học 6 khoa Thiên-Văn, Lịch-Phổ, Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm và Hình-Tượng thấy cùng một gốc ở vũ-trụ biến dịch, nên tập lại vậy. Xưa kia các vị Chúc-Quan đã tốn nhiều tâm lực nghiên-cứu ra đây... (Triệu-thi Minh thuyết Tử-vi kinh, chương 1).
Như vậy, nguồn gốc khoa Tử-Vi rất xa, và nguyên-lý của nó ở 6 khoa và gốc ở vũ-trụ.
B– Sáu khoa tạo thành Tử-Vi
Uyên-nguyên khoa Tử-Vi là ở 6 khoa cổ trong thời kỳ văn-hóa sơ khai của Trung-Hoa. Thời đại thượng cổ Trung-Hoa: Hoàng-Ðế, Hạ-Vũ, Tây-Châu, Xuân-Thu, tính ra khoảng 2502 năm ( Từ 2752 đến 250 trước Tây-lịch) nói về tư tưởng rất kính sợ trời. Giữa trời và người có sự liên-hệ quan trọng, được biểu dương bằng câu:
Thiên nhân tượng dữ. Nghĩa là giữa trời và người có cùng mối liên quan với nhau.
Kinh-Thư nói: Thiên sinh chúng dân.
Kinh-Thư nói: Duy Thiên âm chất hạ dân.
Lễ-Ký nói: Vạn vật bản hồ Thiên - Trời có toàn quyền soi xét khắp nơi, trời có phép tắc trị muôn vật, làm khuôn phép cho mọi ngươì, tức là cái nền tảng đạo đức.
Kinh-Thi nói:
Thuợng đế lâm hạ hữu hách Giám quan tứ phương.
Lại nói:
Thiên giám tại hạ. Thiên sinh chúng dân. Hữu vật hữu tắc.
Kinh-Thư nói:
Thiên tự hữu điển. Thiên trật hữu lễ.
Ấy bởi cái tư-tưởng đó mới phát sinh ra học thuật. Mà giữ về cái quan hệ học thuật ấy có hai chức quan: Quan Chúc coi việc trời, quan Sử coi việc người. Quan Chúc tức là khởi thủy của khoa Tử-Vi vậy.
a) Quan Chúc coi việc trời
Thời cổ chính trị tôn giáo vẫn chưa phân ra hai đường. Cái chức quan coi việc Thần-quyền rất quan trọng. Như tại Ai-Cập có chức Pháp-Lão, Do-Thái có chức Tế-Tự-Trưởng. Ấn-Ðộ phân ra làm 4 tộc: Bà-la-môn, Sát-lị là giòng Ðế-vương. Bà-la-môn chính là giòng Quan-Chúc. Tây-Tạng có chức Lạt-Ma chuyên giữ đại chính trong nước. Xưa kia Giáo-Hoàng La-mã còn có quyền trên cả vua chúa.
Chúc quan Trung-Hoa có hai loại:
* Một là quan Chúc coi việc cúng tế. Ðại biểu tư-tưởng nhân dân mà tâu lên trời để cầu lấy phúc lành. Sách Châu Quan trong thiên Xuân Quan Ðầu có nói về giòng dõi chi lưu chức quan Chúc ấy. Trong sách Tả truyện có chép, khi Tào-Uế luận chiến sự với Lỗ-Hầu, có bàn về các lễ tế thần để thắng trận.
* Hai là Quan-Chúc coi việc làm lịch. Chuyên giữ việc suy xét việc trời để ứng vào người. Ðời Tam-Hoàng có sai quan Nam-Chính là Trọng coi việc trời để họp các thần. Quan Bắc-Chính là Lê coi việc đất để họp dân. Ðời vua Nghiêu có sai quan Hi-Hòa-Kính thuận việc Trời xét về trình độ Nhật-Nguyệt tinh thần mà làm ra lịch để bảo cho dân biết bốn mùa mà làm ăn. Lại xét máy toàn cơ ngọc hành để so sánh 7 chính, tức mặt trời, mặt trăng, ngũ hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Quan Chúc coi việc làm lịch có ba phần:
- Hiệp định ngày, tháng, 4 mùa làm ra lịch.
- Suy tính thủy chung năm đức để định mệnh trời. Như thiên Nghiêu-Ðiển có viết: Lịch số trời đã thuộc về mình vua. Ðời sau nói về các vua Tam Ðại chịu mệnh trời cũng gốc ở Lịch-Học. Thiên-Hồng-Phạm có nói về Ngũ-Hành và những lời sấm vĩ đều phát nguyên từ đó.
- Xem xét tinh tượng, bói toán, định cát hung. Ðến đời Xuân-Thu, bọn Tì-Táo, Tử-Thận đều là giòng Chúc Quan coi việc lịch.
b) Quan-Sử coi việc người
Quan Chúc, quan Sử quyền ngang nhau. Sách Châu Lễ có kể đến quan Ðại-Sử, Tiểu-Sử, Tả-Sử, Hữu-Sử, Nội-Sử, Ngoại-Sử.
- Kinh-Thi, do quan Thái-Sử đi nhặt về mà có các bài thơ Lão-Ðam (Lão Tử) cũng là quan Trụ-Hạ-Sử. Trong Hán-Thư, phần Nghệ-Văn-Chí, sử-gia Ban-Cố cũng cho rằng phái Ðạo-Gia là do Sử-Quan mà ra.
Tóm lại, tư-tưởng học thuật cổ Trung-Hoa, tư-tưởng “Thiên Nhân Tương Dữ” như sau:
Quan Chúc coi việc Trời (nguồn gốc Tử-Vi):
Quan Chúc coi việc tế tự. Quan Chúc coi việc làm lịch (Lịch tương gia tức Thiên-Văn học. Lịch số học, tức âm Dương. Chiêm-tinh-gia tức Phương-thuật).
Quan-Sử coi việc nguời:
Nhà Sử học về sự thực (Tổ Nho-gia). Nhà Sử học về suy lý (Tổ Ðạo-gia)
Tất cả Thuật số đều phát xuất từ Chúc-Quan làm lịch.
c) Thuật số cổ Trung-Hoa
Trong bộ Hán-thư của Ban-Cố, phần Nghệ-Văn-Chí có đoạn:
“Thuật số do các sử gia Thần-thoại là Hi-Hòa trong nhà Minh-Ðường đã sưu tầm và duyệt lại. Công việc ấy từ lâu bị hủy đi mà không dùng nữa. Sách vở đến nay không còn đủ. Tuy vậy, có phần sách thì còn, mà nguồn thì quá cố từ lâu. Kinh Dịch có câu: Nếu người chính đáng mà không có thì đạo không thể thi hành được đầy đủ. Ðời Xuân-Thu có Lỗ có Tân-Thuận, Trịnh có Lý Táo, Tần có Bốc Yểm, Tống có Tử-Vi. Thời Chiến-Quốc, Sở có Cam-Công, Vệ có Thạch-Thông-Phủ. Hán có Ðường-Ðô. Ðấy là những nhà thuật số giỏi”.
Các khoa thuật số Trung-Hoa là sáu khoa mà Hi-Di tiên-sinh bảo đó là các khoa có cùng nguyên-lý. Tiên-sinh nhân học, rồi hiệp tinh-hoa thành khoa Tử-Vi. Sách Tả truyện có nói nhiều đến các khoa này.
- Khoa Thiên-văn, trong bộ Sử-Ký 130 quyển của Tư-Mã-Thiên đã dành cả quyển 28 nói về Lịch, quyển 29 nói về Thiên-quan. Trong bộ Hán-Thư, Nghệ-Văn-Chí, Ban-Cố để một chương chép về khoa Thiên-văn. Theo Ban-Cố thì Thiên-Văn dùng để xếp đặt thứ tự, biến dịch của 28 sao 5 hành tinh Nhật, Nguyệt, nhờ đấy mà đoán ra tốt xấu. Khoa Tử-Vi đặt căn bản là vận hành tinh tú ảnh hưởng đến con người, nguồn gốc của nó là Thiên-Văn. Kinh Dịch rút từ nguyên-lý vũ-trụ tuần-hoàn, đồng nguồn gốc với Thiên-Văn, nên có câu:
Quan Thiên-Văn dĩ sát thời biến. Nghĩa là ngắm tượng trời để xét sự thay đổi thời tiết. (Chu Dịch, Quẻ Bí)
Nguyên-lý căn bản của Tử-Vi là Thiên-Văn. Thiên-Văn và Dịch đều có nguyên-lý là Vũ-Trụ. Chính vì vậy, có nhiều người lầm cho rằng nguyên-lý của Tử-Vi là Dịch lý cũng không lạ.
-Về Lịch-Phổ dùng vào việc đặt vị trí bốn mùa có thứ tự để tính thời tiết bốn mùa, đêm ngày, Hi-Di không mấy chú ý đến tính chất Ngũ-Hành của các sao tại 12 cung. Mà chỉ để ý đến các cách thường kết hợp lại với nhau thành một cường lực nào đó.
-Ngoài ra, khoa Ngũ-Hành, Ngũ-Sự, Tạp-Chiêm, Hình-Tượng cũng đều có nguyên-lý Vũ-Trụ mà Hi-Di tiên-sinh rút ra để đoán vận hạn, tính tình, sống chết, thành bại của con nguời.
Tóm lại, nguyên-lý khoa Tử-Vi có thể tóm lược như sau:
C- Khoa Tử-Vi và tiểu-thuyết thần thoại
Vì sự thiếu sót của Tử-Vi sử, nên hầu hết những nguời bình dân Việt-Nam đều lầm lẫn những nhân vật tiểu-thuyết Thần-kỳ chí-quái, ma trâu đầu rắn với các sao trong khoa Tử-Vi. Ðể rồi khi lo vận hạn, bầy ra cúng sao, coi như đó là những ông Thần có thể ban phước, ban ơn cho người ta. Thậm chí có nhiều nhà Tử-Vi thành danh mà cũng bị lầm lẫn, nguyên do chính vì không học sử Trung-Hoa và bị tiểu thuyết ảnh huởng đến độ tưởng thật (1)
a) Trần-Ðoàn không phải là Tiên-ông. Trần Hi-Di là một đạo-gia tu ở Hoa-Sơn, đời Tống-sơ. Tất cả sách vở đều chép như vậy. Nhưng đến đời Minh, phong trào chương hồi tiểu-thuyết ra đời. Nhiều tiểu-thuyết gia biến Tiên-sinh thành Trần-Ðoàn lão-tổ, có phép tắc vô cùng huyền bí, hô phong hoán vũ. Có tiểu-thuyết gia cho Tiên-sinh sống từ đời Bàn-Cổ. Ðời Ðông-Chu, Tùy, Ðường đều có xuất hiện đấu phép thu học trò. Tiên-sinh chỉ là Ðạo-gia, và trở thành Tiên trong sự tưởng tượng của người sau ông đến hơn 200 năm.
Các Sao trong Tử-Vi và nhân vật Thần-Thoại: Từ sự lầm lẫn Hi-Di tiên-sinh là một Tiên ông, người ta còn lầm lẫn trầm trọng thêm nữa là lầm các Sao trong Tử-Vi với các vị thần trong Tiểu-thuyết.
Rồi khẳng định rằng Hi-Di tiên-sinh căn cứ vào nhân vật Thần-thoại đời Thương-Chu chiến tranh mà đặt cho các ngôi sao. Sự lầm lẫn tai hại này chứng tỏ không hiểu tí gì về Văn-Học-Sử và Sử Trung-Hoa. Có ba điều chứng minh rằng Hi-Di tiên-sinh không hề căn cứ vào nhân vật đời Thương-Chu đặt tên cho các ngôi sao trong khoa Tử-Vi:
Thứ nhất: Các ngôi sao trong khoa Tử-Vi đều là những hành-tinh có thật trong Thiên-Văn. Ðọc bộ Tinh-Kinh của Cam-Hũu-Vu, hoặc của Lưu-Biểu sẽ thấy rõ tính chất tuần hành của Thiên-Hà. Tiểu-thuyết gia lấy các sao trong Thiên-Văn rồi đặt ra những nhân vật ấy là Thần của ngôi sao.
Ðáng buồn thay, có những nhà Tử-Vi khuyên người ta nên căn cứ vào nhân vật tiểu-thuyết để tìm hiểu tính chất các sao thì tránh sao khỏi sai lạc trầm trọng.
Thứ hai: Khoa Tử-Vi được phổ biến vào năm Càn-Ðức nguyên niên (963), vào đầu đời Tống. Còn nhân vật tiểu-thuyết mãi đời Minh mới xuất hiện. Không thể có việc người sống trước 2000 năm bắt chước người sau. Trong bộ
Trung-Quốc Văn-Học Sử của Dị-Quân-Tả Tự-Do thư xã ấn hành tại Hương-Cảng vào niên hiệu Trung-Hoa Dân-Quốc thứ 48, chương II, Minh Ðại văn-học, trang 397 có viết: “.. Minh-Sử, Nghệ-Văn-Chí chÉp có tới 127 bộ tiểu-thuyết được viết trong đời này, gồm 3307 cuốn.. Nhưng xứng đáng được gọi là tiểu-thuyết có Trung-Quốc tứ đạo kỳ thư.. Mà Tứ-Ðại kỳ-thư tiểu-thuyết đời Minh truyền đến nay còn thực nhiều. Tiến cử ra đây một bộ đó là bộ Phong-Thần Diễn-Nghĩa hay còn gọi là Phong-Thần Bảng (2).. “
Ðoạn trích dẫn trên đầy đủ chứng minh rằng nhân vật Phong-Thần được bịa đặt ra sau Hi-Di tiên-sinh đến 200 năm.
Thứ ba: Tra cứu các bộ chính sử như Kinh Xuân-Thu, Tả truyện, Chiến-Quốc sách không hề thấy nói đến tên nhân vật thần-thoại trong Phong-Thần. Bộ Sử-Ký của Tư-Mã-Thiên:
- Cuốn 4 nói về Thương Kỷ. - Cuốn 5 nói về Chu Kỷ. - Cuốn 33 nói về Lễ, Chu-Công thế-gia. - Cuốn 32 nói Tề, Thái-Công thế-gia.
Chỉ thấy nói đến các nhân vật lịch-sử như: Trụ-Vương, Võ-Vương, Khương-Thượng...vân. vân... Không hề thấy nói đến Dương-Tiễn, Lý-Tĩnh, Lý-Na-Tra, Long-Kiết công chúa, Nguyên-Soái Trương-Quế-Phương.v.v...
c) Kết luận. Tóm lại:
- Khoa Tử-Vi nguồn gốc ở chức Chúc quan đời cổ. Nguyên-lý của nó là vũ-trụ. Dịch lý cũng có nguyên lý từ vũ-trụ nên nhiều người lầm tưởng khoa Tử-Vi có nguyên lý là Dịch lý.
Tiểu-thuyết gia đời Minh tưởng tượng ra những nhân vật thần-thoại, rồi cho các nhân vật ấy thành thần, trấn mỗi người một tinh tú. Không có sự liên hệ khoa-học nào giữa các nhân vật đó và những sao trong Tử-Vi. Hi-Di tiên-sinh là một đạo-gia, không phải là Tiên ông.
Một giáo sư tốt nghiệp đại học, vì mê tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung, bị xe cán gẫy ống chân không đi nhà thương bó bột. Nằm ở nhà tập vận nội công như Trương Vô Kỵ mong xương lành. Rút cuộc chân thối phải cưa.
Người Nhật có một bản đề tên Trá trọng Tâm, in đời Minh, 120 hồi.
Tài liệu tham khảo:
SÁCH CHỮ HÁN:
Tử vi tinh nghĩa: Trần Đoàn bản của cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu.
Triệu thị minh thuyết Tử vi kinh: Triệu Thị bản của cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu
Trung quốc Văn học sử: Dị quân Tả
Ẩm băng Thất văn tập: Lương Khải Siêu
Trung quốc Triết học sử: Phùng Hữu Lang
Trung quốc cổ đại xã hội nghiên cứu: Quách mạt Nhược
Trong tháng cuối cùng của năm Ất Mùi, tài vận của người cầm tinh con Rồng khởi sắc mạnh, lại có Tài tinh chiếu mệnh nên liên tiếp gặp may tiền bạc, hứa hẹn một tháng “bội thu”.
1. Người tuổi Thìn
Trong tháng cuối cùng của năm Ất Mùi, tài vận của
người cầm tinh con Rồng khởi sắc mạnh, lại có Tài tinh chiếu mệnh nên liên tiếp gặp may tiền bạc, hứa hẹn một tháng “bội thu”.
Ngoài công việc chính, bạn có thể thử sức với lĩnh vực “tay trái” như đầu tư, kinh doanh... để nâng cao thu nhập, chuẩn bị đón Tết cổ truyền thật hoành tráng. Đây là một trong những con giáp tài vận hanh thông nhất trong tháng 1.
2. Người tuổi Dậu Gặp tháng có địa chi tam hợp (Tỵ Dậu Sửu), cộng thêm với sức mạnh hỗ trợ to lớn từ Nguyệt Đức quý nhân, nên mọi việc lớn nhỏ trong tháng của
người tuổi Dậu đều thuận lợi. Đặc biệt, công việc suôn sẻ, được lãnh đạo cất nhắc, đề bạt thăng tiến. Tất nhiên, kèm theo đó là cơ hội tăng lương.
Hơn thế, tài lộc dồi dào, bạn bắt tay làm việc gì, việc đó đều có kết quả mĩ mãn, ví tiền lúc nào cũng trong trạng thái “dày cộm”.
3. Người tuổi Tuất
Một năm phạm Thái Tuế của người tuổi Tuất sắp kết thúc, tháng cuối cùng năm con Dê này, vận trình của bạn khởi sắc, chuyển biến theo hướng tích cực.
Những dấu hiệu thành công trong sự nghiệp đã xuất hiện. Tài vận hanh thông, dù thu nhập chưa tăng đột biến, nhưng chí ít khoản tiền thưởng Tết không hề nhỏ đã nằm gọn trong tay bạn.
Lưu ý, trong tháng chính tài của bạn tốt nhưng thứ tài chỉ ở mức trung bình. Do đó, nên tránh xa những hạng mục đầu tư nhanh sinh lời nhưng có độ mạo hiểm cao hoặc các trò đỏ đen, tránh tiền mất tật mang.
Top 4 con giáp có thể quẳng mọi gánh lo trong tháng 1 Bước sang tháng đầu tiên của năm mới, những con giáp dưới đây có thể “quẳng gáng lo đi mà vui sống”, vì vận trình tháng suôn sẻ bất ngờ. 4. Người tuổi Thân
Sắp bước vào năm tuổi, những ai cầm tinh con Khỉ nên chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đón nhận những biến động lớn trong cuộc sống, đặc biệt là về sự nghiệp và tiền tài. Tuy nhiên, tháng cuối cùng của năm Ất Mùi, bạn vẫn có thể thở phào nhẹ nhõm khi mọi việc đều tiến triển thuận lợi.
Dù tài lộc khá vượng nhưng
người tuổi Thân cần lưu ý, làm việc gì cũng phải thận trọng, bình tĩnh để làm chủ mọi tình huống. Nên nhớ, nóng vội chỉ khiến bạn chịu thua thiệt cả về tiền bạc và tinh thần.
► Mời các bạn xem tử vi năm 2016 theo cung, mệnh bản thân chuẩn xác
Tháng Giêng kỵ ngày Dần Tháng Hai kỵ ngày Hợi Tháng Ba kỵ ngày Ngọ Tháng Tư kỵ ngày Mão Tháng Năm kỵ ngày Tý Tháng Sáu kỵ ngày Ngọ Tháng Bảy kỵ ngày Dậu Tháng Tám kỵ ngày Mão Tháng Chín kỵ ngày Mão Tháng Mười kỵ ngày Ngọ Tháng Mười một kỵ ngày Mão T
Những người có nốt ruồi ở mu bàn chân số thường vất vả, lận đận, hay phải nay đây mai đó, đôn đáo để lo chuyện.
Nốt ruồi ở ngón chân cái
Ngón chân cái tượng trưng cho sự quyền lực, vì thế nếu bạn có nốt ruồi mọc ở vị trí này bạn là người có tố chất lãnh đạo, có khả năng quán xuyến mọi việc tốt. Bạn có thể đảm nhận những vai trò cao trong tương lai, được nhiều người kính phục.
Nốt ruồi trên các ngón chân khác
Những người có nốt ruồi trên các ngón còn lại, trừ ngón cái thường có cuộc sống khá chật vật, xa quê hương đế kiếm sống.
Nốt ruồi ở gót chân
Đât là nốt ruồi phú quý, mang lại nhiều tài lộc, may mắn cho người sở hữu. Những người có nốt ruồi ở gót chân thường có tài lãnh đạo, đầu óc chiến lược, ứng xử tình huống nhanh nhạy, thông minh.
Nốt ruồi ở mắt cá chân, hai mép bàn chân
Những người này có số vất vả, làm đủ nghề, chạy khắp nơi mưu sinh.
Nốt ruồi trong lòng bàn chân
Những người có nốt ruồi ở vị này thường có cuộc sống sung túc, no đủ, không phải lo lắng quá nhiều về các vấn đề tài chính. Họ thường có số sướng từ khi mới sinh ra.
Voi là loài động vật mạnh mẽ của nơi hoang dã. Chiêm bao thấy voi là điềm lành, là điều may mắn đối với bạn. Hãy cùng nhau xem ý nghĩa của giấc mơ thấy voi. Chiêm bao thấy voi là điềm được bạn tốt, chấm dứt mọi phiền phức đang trải qua. Nằm mơ thấy v
7 bước phong thủy giúp rước lộc vào nhà trong năm mới
Bắt đầu một năm mới với nhiều điều tốt đẹp đang chờ đón, bạn hãy thực hiện ngay 7 bước phong thủy dưới đây để đưa lộc may mắn vào ngôi nhà của mình ngay từ đầu năm.
Nếu bạn đã rất cố gắng mà vẫn chưa đạt được mục đích như mong đợi, hoặc chưa có sức khỏe như ý, đã đến lúc bạn thử thay đổi 7 bước trong quan niệm của các chuyên gia phong thủy dưới đây để mang may mắn đến cho ngôi nhà và cuộc sống của mình.
Bước 1: Dọn sạch đồ không sử dụng để có phong thủy tốt
Đồ đạc và giấy tờ không cần thiết sẽ cản trở việc lưu thông của các luồng năng lượng tích cực.
Những ngày cuối năm bạn hãy dành ra vài ngày để dọn dẹp sạch sẽ tất cả những đồ bạn không còn dùng đến và vứt chúng ra khỏi nhà hoặc phòng làm việc. Những món đồ cũ kỹ, bụi bặm chất đống trong kho sẽ tạo ra năng lượng xấu cho ngôi nhà.
Dọn dẹp đồ bỏ đi đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức nhưng bù lại, việc này sẽ giúp nơi ở của bạn trở nên sáng sủa và sạch sẽ hơn, tạo không gian cho các luồng năng lượng tích cực trú ngụ. Vì vậy, đây là bước cơ bản đầu tiên giúp mang đến năng lượng hài hòa cho ngôi nhà cũng như phòng làm việc của bạn.
Bước 2. Tạo điều kiện cho ánh sáng và không khí vào nhà
Mở cửa thường xuyên hơn để đón ánh sáng tự nhiên.
Không chỉ giúp cho ngôi nhà thoáng đãng và dễ thở hơn, nguồn ánh sáng và không khí là hai yếu tố rất cần thiết để tạo ra năng lượng phong thủy tốt trong nhà. Bạn hãy tạo điều kiện cho ánh sáng và không khí vào nhà bằng cách mở cửa sổ thường xuyên hơn.
Trồng các cây phong thủy trong nhà, ngoài hiên và sử dụng máy lọc không khí là những cách đơn giản bạn có thể làm để bầu không khí trong sạch hơn. Cho phép càng nhiều ánh sáng tự nhiên vào nhà càng tốt, hoặc bạn có thể suy nghĩ đến việc sử dụng nguồn sáng của đèn thay thế nếu hướng nhà bạn không có điều kiện đón ánh sáng tự nhiên.
Bước 3. Xác định sơ đồ năng lượng Bát quái
Để tạo ra năng lượng tốt trong nhà hoặc văn phòng làm việc, bạn cần xác định phong thủy bát quái của 2 nơi này và cân bằng các năng lượng phong thủy của nó.
Bát quái là 8 quẻ đại diện cho các yếu tố cơ bản của vũ trụ có liên quan đến nhau. Sử dụng sơ đồ Bát quái để xác định khu vực nào trong nhà của bạn kết nối trực tiếp đến các yếu tố cuộc sống của bạn. Ví dụ, hướng Đông của nhà sẽ liên quan mật thiết đến sức khỏe, hướng Đông Nam liên quan đến tiền bạc, hướng Tây Nam liên quan đến hôn nhân, tình yêu còn hướng Bắc lại có ảnh hưởng đến nghề nghiệp của bạn.
Bước 4. Nắm bắt ngũ hành cơ bản
Lý thuyết về ngũ hành là một trong những khái niệm chính của phong thủy truyền thống.Việc nắm bắt nguyên lý ngũ hành sẽ giúp cân bằng năng lượng mọi hướng của ngôi nhà. Ví dụ, nếu bạn đang mong muốn thu hút nhiều hơn sự thịnh vượng, bạn sẽ cần chú ý đặt các món đồ liên quan đến gỗ và nước ở phía Đông Nam của nhà. Nếu bạn đang cầu mong sức khỏe, bạn cần đặt một cái cây hoặc một món đồ gỗ vào phía Đông của nhà.
Bước 5. Tìm hiểu các mệnh tương ứng với năm sinh
Năm sinh, tính theo âm lịch, sẽ cho bạn biết các yếu tố phong thủy nào mang đến may mắn cho bạn.
Việc này giúp sắp xếp ngôi nhà nhằm nuôi dưỡng và hỗ trợ năng của của bạn. Ví dụ, nếu bạn mệnh Hỏa, bạn cần tạo ra những yếu tố phong thủy liên quan đến lửa như màu của lửa (đỏ, cam, tím, hồng, vàng, hồng cánh sen), hình dáng của lửa (tam giác)… Bạn cũng sẽ cần tới sự hỗ trợ của các đồ gỗ đặt trong nhà vì gỗ tiếp thêm sức mạnh cho lửa.
Bước 6. Tìm ra quái số và hướng may mắn
Mỗi quái số sẽ tương ứng với các chỉ dẫn cụ thể về các hướng may mắn đối với công việc, sức khỏe, tiền bạc, gia đình.
Quái số và hướng may mắn sẽ giúp bạn nạp được năng lượng tốt nhất và tận hưởng được những yếu tố may mắn nhất. Khi đã xác định được quái số, bạn sẽ khám phá ra các hướng tốt nhất đối với mình.
Điều chỉnh hướng giường ngủ, bàn làm việc, bàn ghế phòng ăn để mang đến may mắn trong sự nghiệp, sức khỏe, quan hệ làm ăn. Ví dụ, nếu quái số của bạn là 1, thì hướng Đông Nam, Đông, Nam và Bắc sẽ là những hướng tốt nhất cho bạn.
Bước 7. Luôn lưu tâm đến chất lượng nguồn năng lượng trong nhà
Luôn chú ý quan sát để không làm mất năng lượng tích cực trong nhà.
Hãy luôn để tâm đến nguồn năng lượng lưu thông trong nhà của bạn và những năng lượng này ảnh hưởng đến bạn như thế nào. Tạo ra thói quen chú ý đến bộ ba phòng có liên quan trực tiếp đến sức khỏe của bạn, đó là phòng ngủ, phòng tắm và phòng bếp. Không có gì là 'tĩnh' trong thế giới của năng lượng, vì vậy hãy khôn ngoan và giữ cho căn nhà của mình luôn hạnh phúc, bình an.
Sao Liêm Trinh trong tử vi lấy hình tượng từ Phí Trọng, trọng thần của Trụ vương quỷ kế đa đoan nên liêm trinh là để nói làm người phải thanh liêm chính trực
Phí Trọng vốn là Thượng Đại phu của triều Thương. Sau khi Trụ Vương từ cung Nữ Oa trở về, ngày đêm tơ tưởng hình bóng nữ thần, Phí Trọng đón biết tâm sự của nhà vua, bèn nghĩ ra một kế, mách với Trụ Vương rằng: "Con gái của Ký Châu hầu Tô Hộ là Tô Đát Kỷ là bậc sắc nước hương trời, ôn nhu hiền thục, nức tiếng trong thiên hạ, bệ hạ hãy nạp làm phi tử. Như vậy, vừa không mất công tìm kiếm mỹ nữ trong thiên hạ, khiến dân chúng kinh động, đại thần bàn ra tán vào, lại vừa có thể vợi bớt nỗi khổ tương tư của hệ hạ!". Như vậy, việc Đát Kỷ nhập cung phá hoại triều chính, là bắt đầu từ sự xúi giục của Phí Trọng.
Do Phí Trọng và Đát Kỷ vốn cùng là một giuộc, nên sau khi hai người hợp mưu hãm hại Tể tướng Thương Dung, Á tướng Tỷ Can, Khương Hoàng hậu, Hoàng phi, thì chức vị Tể tướng nghiễm nhiên thuộc về Phí Trọng.
Quyền lực lớn rơi vào tay hắn, nên thế lực của hắn lên như diều gặp gió, khuynh đảo triều đình, trong triều chỉ còn Văn Thái sư có thể chế ngự được hắn, khiến hắn vẫn còn đôi phần kiêng dè.
Tây Bá hầu Cơ Xương bị giam tại Dữu Lý suốt 7 năm, cũng là vì độc kế của Phí Trọng. Trước hôm bị bắt giam, Cơ Xương có bói cho Phí Trọng một quẻ, rồi nhìn tượng quẻ đoán rằng: "Thừa tướng sẽ chết bất đắc kỳ tử, chắc hẳn là bị tuyết vùi mà chết cóng trong băng!"
Nhiều năm sau đó, khi chư tướng thống lĩnh các lộ chư hầu dồn dập tiến về thành Triều Ca, trong thành ngoài Văn Thái sư ra, hầu như không còn viên tướng nào. Văn Thái sư đề xuất với Trụ Vương cho Phí Trọng dẫn quân xuất thanh nghênh địch. Phí Trong sợ đến mất mật, nhưng hắn không còn cách nào kháng lệnh.
Ngày hè nóng nực, khiến cho quân sĩ mệt mỏi, tốc độ hành quân chậm chạp, thường xuyên phải đóng trại nghỉ ngơi. Đang lúc nắng chang chang, bỗng trời đất sa sầm gió lạnh đổ về, chẳng mấy chốc đã rét căm căm, thậm chí còn đổ mưa tuyết trong khi mấy vạn tướng sĩ không một ai mang áo rét. Tuyết rơi suốt một đêm, sáng hôm sau khi tướng sĩ Tây Kỳ tấn công vào trại địch, thấy quân sĩ, người ngựa bên địch đều đã chết cóng, chìm trong băng tuyết, cả Thừa tướng Phí Trọng cũng không ngoại lệ, thật đúng như lời tiên đoán của Tây Bá hầu Cơ Xương.
Hồn phách của Phí Trọng bay về đài Phong Thần, do hắn một đời gian ác, quỷ kế đa đoan, hãm hại trung thần, vơ vét tiền của làm giàu cá nhân, tội ác tày trời, nên được phong làm chủ nhân sao Liêm Trinh. Liêm Trinh vốn có nghĩa là liêm khiết và trung trinh, dùng tên gọi này để cảnh cáo người đời, làm người phải thanh liêm chính trực.
Sao Liêm Trinh là một trong 14 Chính Tinh trong tử vi, Là sao thứ 6 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh. Sao Liêm Trinh đắc địa thì hưởng ương sự được phú quý và thọ. Đặc biệt có tài kiêm nhiếp cả văn võ, rất thao lược và quyền biến. Nếu được thêm Xương Khúc đồng cung thì là bậc anh hùng.
Đặc Tính: Cha, quan lộc, uy quyền, tài lộc, địa vị, phúc thọ
Tên gọi tắt thường gặp: Nhật
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 3 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Vị Trí Ở Các Cung của sao Thái Dương:
Thái Dương vốn là mặt trời, đóng ở các cung ban ngày (từ Dần đến Ngọ) thì rất hợp vị, có môi trường để phát huy ánh sáng. Đóng ở cung ban đêm (từ Thân đến Tý) thì u tối, cần có Tuần, Triệt, Thiên Không, Thiên Tài mới sáng.
Riêng tại hai cung Sửu, Mùi, lúc giáp ngày giáp đêm, Nhật mất nhiều ánh sáng, cần có Tuần Triệt hay Hóa kỵ mới thêm rực rở. Ở Sửu, Thái Dương tốt hơn ở Mùi, vì mặt trời sắp mọc, hứa hẹn ánh sáng, trong khi ở Mùi, ác tà sắp lặn, Nhật không đẹp bằng.
Mặt khác, vốn là Dương tinh, nên Nhật chính vị ở các cung Dương, nhất là phù hợp với các tuổi Dương.
Nhật càng phù trợ mạnh hơn cho những người sanh ban ngày, đặc biệt và lúc bình minh đến chính ngọ, thời gian mặt trời còn thịnh quang. Nếu sinh vào giờ mặt trời lên thì phải tốt hơn vào giờ mặt trời sắp lặn.
Sau cùng, về mặt ngũ hành, Thái Dương thuộc Hỏa, thích hợp cho những người mệnh Hỏa, mệnh Thổ và mệnh Mộc vì các hành của ba loại Mệnh này tương hòa và tương sinh với hành Hỏa của Thái Dương. Nhật cũng hợp với trai hơn gái.
Vị trí Thái Dương được tóm lược như sau:
Miếu địa ở các cung Tỵ, Ngọ.
Vượng địa ở các cung Dần, Mão, Thìn.
Đắc địa ở các cung Sửu, Mùi.
Hãm địa ở các cung Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý.
Ý Nghĩa Thái Dương Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Thái Dương đắc địa, vượng và miếu địa là người có thân hình đẩy đà, cao vừa tầm, da hồng hào, mặt vuông vắn đầy đặn, có vẻ uy nghi (nếu sinh ban đêm thì mặt đỏ), mắt sáng, dáng điệu đường hoàng bệ vệ.
Cung Mệnh có sao Thái Dương hãm địa là người này có thân hình nhỏ nhắn, hơi gầy, cao vừa tầm, da xanh xám, mặt choắt, có vẻ buồn tẻ, má hóp, mắt lộ, thần sắc kém.
Tính Tình
Đắc địa, vượng địa và miếu địa là người thông minh, tính thẳng thắn, cương trực, hơi nóng nảy nhưng nhân hậu, từ thiện. Đối với phái nữ thì đoan chính, đức hạnh, trung trinh, khí tiết, hiền lương.
Hãm Địa là người kém thông minh, nhân hậu, từ thiện nhưng tánh ương gàn, khắc nghiệt. Không cương nghị, không bền chí, chóng chán, nhất là ở hai cung Thân, Mùi (mặt trời sắp lặn). Đối với phái nữ thì đa sầu, đa cảm.
Công Danh Tài Lộc
Thái Dương đóng ở cung Quan là tốt nhất đó là biểu tượng của quyền hành, của uy tín, của hậu thuẫn, nhờ ở tài năng.
Nếu đắc địa thì có uy quyền, địa vị lớn trong xã hội, có khoa bảng cao, hay ít ra rất lịch lãm, biết nhiều, có tài lộc vượng, giàu sang, phú quý.
Nếu hãm địa thì công danh trắc trở, khoa bảng dở dang, bất đắc chí, khó kiếm tiền.
Nếu Thái Dương hãm ở các cung Dương (Thân, Tuất, Tý) thì không đến nổi xấu xa, vẫn được no ấm, chỉ phải không giàu, không hiển đạt.
Tuy nhiên, dù hãm địa mà Thái Dương được nhiều trung tinh hội tụ sáng sủa thì cũng được gia tăng tài, quan. Như vậy, nói chung, Thái Dương hãm địa không đến nổi xấu như các sao hãm địa khác, có lẽ vì bản chất của Thái Dương là nguồn sáng của vạn vật, tuy có bị che lấp nhưng cũng còn cần, không lôi kéo sự suy sụp đổ vỡ, miễn là không bị sát tinh xâm phạm.
Trường hợp đặc biệt là Thái Dương ở Sửu Mùi gặp Tuần, Triệt án ngữ. Đây là cách đẹp của mặt trời hội tụ với mặt trăng được Tuần Triệt gia tăng ánh sáng. Người có cách này có phú quý như cách Thái Dương vượng hay miếu địa. Nếu được thêm Hóa Kỵ đồng cung thì càng rực rỡ hơn nữa.
Phúc Thọ Tai Họa
Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thái Dương hãm địa gặp các sao như Kình, Đà, Không, Kiếp, Riêu, Hình, Kỵ bị tật về mắt hay chân tay hay lên máu, gặp tai họa khủng khiếp, yểu tử, hoặc phải bỏ làng tha hương lập nghiệp mới sống lâu được.
Riêng phái nữ còn chịu thêm bất hạnh về gia đạo, như muộn lập gia đình, lấy lẽ, cô đơn, khắc chồng hại con. Lý do là Thái Dương còn biểu tượng cho chồng, cho nên nếu hãm địa và bị sát tinh thì gia đạo trắc trở vì tai họa đó có thể xảy ra cho chồng.
Nói chung, người nữ có Thái Dương sáng thì được hưởng phúc thọ cả cho chồng. Ngược lại, nếu sao này xấu thì cả chồng lẫn đương sự sẽ bị ảnh hưởng. Cái tốt xấu của Thái Dương bao giờ cũng đi đôi: tốt cả đôi, xấu cả cặp.
Có những đứa trẻ sinh ra đã mang trên mình những vết bớt và đốm tích kì lạ tưởng chừng như đơn giản nhưng đằng sau nó lại ẩn chứa câu chuyện về kiếp trước. Những vết bớt ấy được cho là dấu hiệu của kiếp trước theo nghiên cứu của một nhà khoa học.
Một bà lão ở Thái Lan lâm chung với ước nguyện cuối đời được đầu thai thành cậu bé. Cô con gái đã nhúng ngón tay vào hồ trắng đánh một dấu lên cổ bà. Không lâu sau cô hạ sinh được một cậu bé kháu khỉnh với một vết trắng sau cổ chính xác với vết hồ trắng cô đánh dấu lên cổ mẹ lúc chết.
Khi cậu bé biết nói, thật kỳ lạ cậu luôn miệng đòi chiếm hữu những thứ của bà ngoại trước kia khăng khăng như thể chúng là của cậu vậy.
Đây chỉ là một chuyện kể trong rất nhiều trường hợp được kể lại bởi tiến sỹ Jim Tucke tại Đại học Virginia trong đó ông cho rằng vết bớt khi sinh thường có liên quan đến kiếp sống trước đó của họ.
Vào cuối đời của tiến sỹ lan Stevenson, công việc mà tiến sỹ Tucker đang tiếp tục, là điều tra 210 trường hợp những đứa trẻ sinh ra với vết bớt hoặc khuyết tật có liên quan đến ký ức từ kiếp trước.
Stevenson đã thu thập được một báo cáo khám nghiệm tử thi 49 trường hợp. Trong đó có tới 43% các trường hợp vết thương tích và vết chàm trong khoảng 10 cm2 cách nhau trên cơ thể, một số người thì những vết đó không tản ra mà nối liền nhau trên cùng một vị trí.
Phong tục ở một số nơi khác, người ta thường làm dấu người chết với nhọ nồi hoặc hồ dán để có thể dễ dàng nhận ra khi họ đầu thai.
Dưới đây là một vài ví dụ vết bớt khi sinh có liên hệ tới ký ức từ kiếp trước được nghiên cứu bởi tiến sỹ Stevenson.
Một cậu bé sinh ra ở Ấn Độ với bàn tay phải cụt ngón đã có lần nhớ lại kiếp sống trước của mình nơi cậu từng bị dính tay vào máy nghiền thức ăn và bị cắt bỏ.
Một cậu bé nữa ở Thổ Nhỹ Kỳ với tai phải dị hình đã nhớ lại cậu từng bị bắn và giết chết ở cự ly gần vào một bên đầu.
Một cậu bé nữa ở Thổ Nhỹ Kỳ với tai phải dị hình đã nhớ lại cậu từng bị bắn và giết chết ở cự ly gần vào một bên đầu.
Một cậu bé khác có tên là Maha Ram ở Ấn Độ có thể nhớ mình bị giết trong một kiếp sống trước đó với một khẩu súng ngắn . Anh có thể nhớ một cách đầy đủ chi tiết về kiếp sống trước của mình và kể cho Stevenson với hi vọng tìm lại được kết quả khám nghiệm tử thi người được nghi là chuyển sinh đời này của cậu.
Và thật trùng hợp, kết quả cho thấy những vết bớt trên ngực Ram rất tương xứng với những vết đạn trong kiếp trước.
Và còn nhiều chuyện trùng hợp khác về vết bớt khi sinh và mối liên quan kiếp trước hiện vẫn chưa được xác minh hay chia sẽ trên các blog thảo luận trong quá khứ.
Bàn về trường hợp kỳ lạ khác về vết bớt, Karen Kubiko lúc còn học trung học cô đã đăng ảnh của mình với một vết bớt trên cổ và sau này cô đăng một hình khác nhưng không có vết bớt nữa. Cô cho biết vào năm 2011 cô bỗng nhiên nhớ lại được trong một kiếp sống trước cô từng là Helen một người phụ nữ bị trúng một viên đạn lạc bắn vào cổ và chết năm 1927.
Thế nên vết bớt để lại trên cổ cô chính là nơi viên đạn bắn vào cổ Helen trong kiếp trước. Sau khi cô nhớ lại được những điều này, vết bớt kia dần dần biến mất.
Hoa đào: Hoa đào là loại hoa nở khi mùa xuân về. Hoa đào tượng trưng cho cuộc sống, cho ước vọng hạnh phúc, cho niềm vui và sự yên ấm. Anh đào thường được sử dụng với ý nghĩa mang lại sự khởi đầu, sự tươi mới và trong trắng. Anh đào tượng trưng cho c
ung tình duyên, nhưng cũng vẫn được sử dụng như một phương thức hoá giải phong thuỷ đối với sức khoẻ.
Vị trí gợi ý:
Phòng khách của nhà riêng hay công ty đều có thể lựa chọn các loại tranh vẽ trúc phú quý, cây lan đuôi hổ, cây thủy tùng, sen nhiều lá, cây cọ, cây phát tài, cây lan quân tử, hoa cúc, cây lan cầu, hoa lan, hoa đào, tắc, cây dương xỉ, cây huyết dụ…, các hoa này là “vật may mắn” trong phong thủy học, hàm ý như ý cát tường, tụ tài phát phúc.
Hãy đem màu sắc của hoa vào căn nhà hay văn phòng của bạn, bạn sẽ giúp cho luồng khí trong ngôi nhà được điều hoà và trôi chảy.
Mệnh Mộc: Ngũ hành tương sinh: Mộc sinh Hỏa: Mộc có thể dùng để đốt lửa. Thủy sinh Mộc: Thủy là nguồn sinh trưởng của cây cối. Ngũ hành tương khắc: Mộc khắc Thổ: Cây cối phá đất mà ra, gốc của cây nằm trong bùn đất, có thể làm đất tơi xốp, vì vậy khắ
Mộc sinh Hỏa: Mộc có thể dùng để đốt lửa. Thủy sinh Mộc: Thủy là nguồn sinh trưởng của cây cối.
Ngũ hành tương khắc:
Mộc khắc Thổ: Cây cối phá đất mà ra, gốc của cây nằm trong bùn đất, có thể làm đất tơi xốp, vì vậy khắc Thổ. Kim khắc Mộc: Những công cụ kim loại có thể chặt gãy cây cối.
Người mệnh Mộc hợp với màu của mẹ Thủy, là màu đen, màu xám, màu xanh nước biển, màu nâu. Điển hình là màu nâu. Màu nâu là màu của gỗ, một yếu tố đại diện rõ ràng cho Mộc. Màu nâu tốt cho các cung: Cung Gia Đạo, Cung Tài Lộc và Cung Danh Vọng.
Tốt thứ nhì là được hòa hợp: Mộc với Mộc, nhiều cây sẽ là rừng xanh lá.
Màu xanh lá thể hiện sự tươi tắn, trong lành và mang lại cảm giác cho một điểm khởi đầu mới. Màu xanh lá có ảnh hưởng tốt đến sức khoẻ, giúp bạn đẩy lùi những hồi hộp và lấy lại cân bằng bằng những phương thức chữa trị của tự nhiên.
Khi dùng màu xanh lá, tốt hơn cả là kết hợp nhiều sắc thái màu khác nhau để đem đến được hiệu quả lớn nhất.
Màu sắc kỵ: Màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim, khắc phá mệnh cung hành Mộc, xấu.
Những chủ đề hình xăm bạn nữ nên chọn: Mai lan trúc cúc, thư pháp, tùng bách, thỏ, mèo…
Dưới đây mời bạn tham khảo một số mẫu hình xăm hợp với nữ mệnh Mộc:
Nhưng tại phòng khách chủ yếu bày biện sô pha để ngồi tựa nghỉ ngơi, còn tủ chỉ có tác dụng chứa các vật trang trí cho đẹp mắt như đặt bình lọ, ti vi, dàn âm thanh và các vật trang trí khác. Tủ ngoài chức năng chứa đồ gia dụng, thì nhìn từ góc độ phong thuỷ học, nó cũng bao hàm nhiều vấn đề quan trọng cần chú ý, để tránh phá hỏng phong thuỷ của phòng khách.
Trong phong thuỷ học chú trọng vật cao là sơn (núi), vật thấp là thuỷ (nước). Sự bài trí ở bất kỳ một môi trường nào, đều phải chú ý độ cao, thấp có “Sơn” có “Thuỷ” mới có thể sản sinh hiệu ứng phong thuỷ được.
Tủ trong nhà có cao thấp, lớn bé khác nhau. Nói chung, phòng khách lớn phải đặt tủ tương đối cao và tương đối to, còn trong phòng khách nhỏ thì ngược lại, tủ thường thấp và nhỏ. Như vậy mới đạt được hiệu quả cao thấp, to nhỏ vừa phải, thực dụng, mỹ quan. Nhưng trong môi trường nhà ở hiện đại, thì việc làm đẹp phòng khách hoặc xuất phát từ sở thích và nhu cầu của chủ nhà mà có khi trong phòng khách lớn lại đặt tủ hơi thấp và phòng khách nhỏ lại đặt tủ cao to để trang trí, ngăn cách.
Bài trí tủ trong phòng khách nên theo phong thủy.
Rất nhiều gia đình tại phòng khách đều kê tủ cao. Tủ cao phối trí cùng sô pha, một cao một thấp, một hư một thực, là sự phối hợp xen kẽ thật lý tưởng. Trên tủ cao có thể dặt ti vi, dàn âm thanh, đồ trang hoàng … vừa gọn gàng, đẹp mắt lai phối kết hợp thực dụng.
Trong phòng khách nếu đặt tủ tổng hợp thấp, trong khi sô pha cũng thấp, thì đã phạm phải điều đại kị trong phong thuỷ học là hữu “Thuỷ” vô “Sơn”, phải sửa ngay. Phương pháp hoá giải hay là trên nóc tủ nên đặt một bức hoạ dài suốt chiều ngang, về thị giác thì dường như thấy tủ cao hẳn lên so với sô pha, như vậy trong phòng khách hình thành thế “Sơn thuỷ hữu tình”.
Việc lựa chọn treo tranh cũng nên xem phòng khách trang hoàng của phòng khách mà quyết định, nhưng dù là tranh thuỷ mạc hay tranh sơn dầu, thì nội dung phong cảnh của tranh nên là cảnh thiên nhiên non xanh nước biếc hoặc cảnh rừng rậm hồ biển mênh mông.
Nếu không thích đặt bức tranh trên nóc tủ vốn thấp thì cũng có thể chọn phương thức phổ biến nhất là đặt bên trên nóc tủ một giá kệ nhiều tầng để bày biện những vật dụng trang trí như lục bình, tượng … vừa đẹp lại vừa làm cho tủ có vẻ cao hơn lên, làm cho đồ bày biện xen kẽ cao thấp hài hoà.
Nếu như trong phòng khách nhỏ lại đặt một tủ cao sẽ tạo nên cảm giác đè nén, bức xúc. Vậy nên đổi từng loại tủ có chiều cao vừa phải, sao cho nóc tủ cách trần nhà chừng 60 – 70 cm, khoảng cách này có ý nghĩa quan trọng về mặt phong thuỷ, bởi nó có tác dụng làm khoảng không gian hoãn xung, khiến sự lưu thông không khí trong phòng khách có đủ không gian lưu chuyển, thông thoáng tự nhiên, không bị ngưng trệ.
Nếu phòng khách nhỏ mà muốn thiết kế có khoảng không gian lợi dụng hữu hiệu mà cần tủ cao lên tới gần trần, thì phương pháp biến thông linh hoạt là dùng loại tủ cao nhưng rỗng giữa, như vậy phần lòng tủ chừa ra đủ không gian, để có lợi cho “khí” luồn qua. Đặc điểm của loại tủ này là dưới nặng trên nhẹ, cho ta cảm giác chắc chắn mà vẫn thanh thoát, thấu khí.
Loại tủ này tuy cao tới sát trần phòng khách, nhưng vì phần giữa tủ tuy cao có khoảng rỗng tương đối lớn, nên vẫn cảm thấy không chật chội, làm giảm được cảm giác bị chèn ép. Phần dưới tủ có thể dùng để chứa sách hoặc các thứ linh tinh khác, còn các ngăn trống phía trên bày biện các đồ quy giá như đồ cổ hoặc các loại vật phẩm sưu tầm khác, còn các ngăn trống phía dưới đặt ti vi, dàn âm thanh, đầu đĩa … là cân xứng, hài hoà nhất.
(Theo 100 câu hỏi về phong thủy nhà ở) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
– Mỗi người khéo tu nhân tích đức, những ý niệm xấu dần hồi giảm bớt, ý niệm tốt tăng trưởng theo thời gian, càng hoàn thiện chính mình và giúp ích cho cuộc đời.
9. Tích đức từ thái độ tôn trọng người khácĐặt lòng tự tôn của người khác ở vị trí cao hơn mình.Không ngừng cố gắng để người khác cảm nhận thấy sự tôn nghiêm của bản thân mình.Địa vị càng cao càng không thể khinh thường người khác.Tôn trọng người khác cũng chính là tôn trọng bản thân mình, tích đức tạo nghiệp lành, lưu cho đời con cháu.
10. Tích đức từ việc giúp đỡ người khácMuốn được người giúp đỡ, trước tiên hãy mở lòng giúp đỡ người.Khi đấu tranh vì người khác cũng là đấu tranh cho chính mình. Lòng tốt luôn được người khác khắc ghi trong lòng.Nhưng lưu ý, giúp đỡ sao cho đối phương vui vẻ chấp nhận mới là điều tốt. Đừng như kiểu gió thổi mây bay, hời hợt qua loa.11. Tích đức từ thái độ thành thật với người khácSống trên đời, không thành thật sẽ khó tồn tại, người giả dối sẽ không có bạn chân thành.Luôn lấy thành tín làm gốc, coi trọng thành tín trong mọi mối quan hệ thì mọi việc trôi chảy.Dùng thành tín thu phục người khác, sẽ dễ đạt được thành công.Khi đã mất đi sự thành thật thì làm việc gì cũng khó.Mọi lý do giải thích cho sự lừa dối của bản thân chỉ là ngụy biện, nên đừng mất công tìm cớ làm gì.12. Tích đức từ cách cảm ơn ngườiCảm ơn là một cách ngợi ca cuộc đời. Có việc tốt, người tốt ắt sẽ có lời cảm ơn. Trong cuộc sống, lời cảm ơn kịp thời sẽ khiến mọi người thân thiện với nhau hơn.Cảm ơn đối thủ là cách thể hiện của người có chí khí, của lòng quân tử.
13. Tích đức từ lòng nhân ái của chính mìnhLòng nhân ái luôn có sức mạnh lớn lao. Nó càng lớn hơn khi kết thành lòng nhân ái rộng lớn của cả nhân loại.Tích đức từ lòng nhân ái không tốn một xu, vậy tại sao mỗi người không tự tạo nghiệp lành cho mình ngay từ bây giờ?14. Tích đức từ hành động mỉm người với người khácNụ cười là phương thức kết nối đơn giản nhưng lại vô cùng hiệu quả giữa con người với con người.Không ai có thể cự tuyệt một nu cười rạng rỡ. Dùng nụ cười để ứng phó với sự “khiêu chiến” của đối thủ mới thực là cao nhân. Mỉm cười để thu phục lòng người mới là cao siêu đích thực.15. Tích đức từ lòng khoan dungKhông thể khoan dung người khác có thể là bởi vì lòng dạ của mình còn quá hẹp hòi.Lòng khoan dung có thể cải biến một con người lầm lỗi, trở về với thiện lương.Người có lòng khoan dung sẽ dễ dàng chiếm được trái tim, sự tin tưởng của người khác.Hãy học cách tha thứ khuyết điểm của người khác, nhẫn nhịn cơn bực dọc, ấy chính là lòng khoan dung. 16. Tích đức từ trái tim lương thiệnAi cũng muốn làm bạn, làm hàng xóm hay bắt tay hợp tác với người có tấm lòng lương thiện.Người lương thiện có thể thu phục người khác. Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, bởi việc thiện dù nhỏ cũng phát huy tác dụng lớn lao.17. Tích đức từ thái độ biết lắng ngheNgười biết lắng nghe thường được lòng và sự tin tưởng của người khác. Lắng nghe là một cách lấy lòng người khác tốt nhất mà lại chẳng tốn một xu nào.(Hết)
=> Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh
An Nhiên Cách tích đức tạo nghiệp lành lưu đời con cháu không tốn một xu (P1) – “Có đức mặc sức mà ăn”, sống phải coi trọng nhân đức, thường xuyên tích đức để tạo phước nghiệp, lưu cho đời con đời cháu. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Những bí quyết kinh doanh của người Trung Quốc xưa (Phần 2) –
Đẽo hồng khắc bích, níu kéo khách hàng "Yến kinh tạp chí" ghi chép: Các cửa hàng treo biển quảng cáo, buổi tối nhà nhà thắp đèn kết hoa rực rỡ khiến cho đường phố sáng trưng như ban ngày. Có cửa hàng treo tranh vẽ tên sản phẩm, văn phong nho nhã, làm
“Yến kinh tạp chí” ghi chép: Các cửa hàng treo biển quảng cáo, buổi tối nhà nhà thắp đèn kết hoa rực rỡ khiến cho đường phố sáng trưng như ban ngày. Có cửa hàng treo tranh vẽ tên sản phẩm, văn phong nho nhã, làm thăng hoa vị trí sản phẩm của cửa hàng và nâng cao tỷ lệ khách hàng quay trở lại. Còn có những cửa hàng như quán trà, quán rượu, quán cơm lại sắp xếp nhóm nhạc cụ diễn tấu hoặc bình văn thơ để tạo hứng khởi cho khách hàng.
Một quán ăn Hàng Châu đời Tống, chỉ cần khách hàng ngồi xuống ghế, tiểu nhị lập tức ra hỏi khách cần gì rồi phục vụ khách rất nhiệt tình, không dám sai sót. Người kinh doanh hiểu rõ giá trị sang trọng phản ánh thực lực của cửa hàng, vậy là họ trang hoàng cửa hàng thật lộng lẫy, chạm trổ cột, khắc hoa, thêm màu khoe sắc để nghênh đón quan lại, quý phu nhân có tâm lý ưa thích danh tiếng, sang trọng.
Khách vừa vào đến cửa được đón tiếp bởi nụ cười tươi của chủ nhà, mua hàng xong lại được đưa tiễn ra tận bên ngoài, thậm chí còn xách hộ hàng về đến tận nhà cho khách. Cách thể hiện coi khách như thượng đế đã làm tăng vẻ nho nhã, cao quý cho cửa hàng khiến cho khách hàng rất hài lòng, lần sau lại muốn đến nữa.
Lấy nghĩa làm lợi, trọng nghĩa hơn tài
Thời nhà Thanh có một thương nhân tên là Thư Tuân Cương, giỏi tính toán, ưa quyền hành, thích đọc “Tứ thư”, “Ngũ kinh”, và hay vận dụng nghĩa lý trong sách vào kinh doanh. Ông ta từng nói:
“Tiền, tuyền dã” (tiền như dòng suối mà thôi). Ông ta còn nói: “Đối với con người sinh tài có cách của nó, lấy nghĩa làm lợi, không nên lấy lợi làm lợi. Đất nước đã như vậy, huống hồ thân gia.”
Thương gia đất Huy Châu là Lý Đại Hạo luôn dạy con cái của mình rằng: “Tiển bạc nhờ đạo đức mà có, cái lợi làm tổn cái nghĩa, phải lấy đó mà tự răn mình. Giàu có mà bất nghĩa thì cùng chi là phù vân”.
Tử viết: Quân tử yêu tài là cách đúng đắn, lấy nghĩa đoạt lợi, đức tài hưng phát. Bỏ nghĩa đoạt lợi, mất nghĩa mà cũng chẳng được lợi. Đấy là lời khuyên dành cho những nhà kinh doanh. Những ai tích thiện, ắt sẽ dư thừa, những ai không tích thiện ắt sẽ bị phá. Nếu một nhà kinh doanh giỏi có trí tuệ muốn làm ăn lâu dài chắc chắn sẽ không dùng thủ đoạn độc ác, bỉ ổi để giành lợi. Dùng bất cứ thủ đoạn tàn ác nào để buôn bán làm ăn cuối cùng cũng sẽ mất đi lợi nhuận và bị người đời khinh ghét.
Tay dài múa khéo, tiền nhiều khéo buôn
Bỉ Nhan viết: “Trường tụ thiện vũ, đa tiền thiện cổ”. Ở đây nhấn mạnh đến chữ thiện. Tiền vốn không nhiều thì phải giỏi sử dụng, mục đích sử dụng để tạo nên lợi nhuận. Vốn và hàng hóa cùng lưu thông thì lợi nhuận sẽ cuồn cuộn đổ về. Phải làm đúng trách nhiệm về hàng hóa: cất giữ đóng gói cẩn thận, hàng nào hỏng không được giữ lại mà phải hủy đi, làm cho nguồn vốn quay vòng nhanh, không được trì trệ. Tiển hàng giống như nước chảy, tiền vốn và hàng hóa có lưu thông, buôn bán mới phát đạt.
Trầm Hoạt đời Tống đã đưa ra ví dụ: Mười vạn đồng tiền vốn không trung chuyển được thì một trăm năm sau nó vẫn chỉ là mười vạn đồng, thậm chí là đống giấy vụn. Còn nếu kinh doanh thuận lợi, vốn trung chuyển nhanh thì từ mười vạn đồng ấy sẽ trở thành hàng trăm vạn đồng.
Kỳ kế thắng binh, kỳ mưu sinh tài
Binh gia thường nói: “Tướng binh nhiều nhưng không có người giỏi thì chẳng thể tranh đấu với người. Người tham chiến phải tinh nhuệ mới giành được thắng lợi.” Tư Mã Thiên đã viết trong “Sử ký” rằng: “Trị sinh chi chính đạo dã, nhi phú giả tất dụng kỳ thắng.” (Chính trị đi theo đường chính đạo, người giàu có tất dùng điều kỳ lạ để thắng).
Trong sách còn liệt kê ra những thương nhân như Ung Bá bán quẩy, Trùng Thị bán thịt… Họ đều là những người nắm giữ một bí quyết kinh doanh những mặt hàng kỳ lạ mà giàu có nhanh chóng. Trương Tiểu Tuyển người đời sau mờ cửa hàng bán dao kéo cũng vậy.
Một thương nhân tên Tào Thị người huyện Thái Cốc – Sơn Tây đời Thanh cỏ một lần trông thấy thân cây cao lương mọc rất cao, bông to, trông vô cùng trĩu nặng. Ông thấy đây có điểu gì bất thường liền ngắt mấy cành xem thử, phát hiện ra trong thân cây có sâu hại. Thế là ông ta vội vàng sắp xếp thu mua một lượng lớn lương thực ngay. Khi ấy mọi người đều hy vọng được mùa bội thu nên bán ra lượng lớn cao lương dự trữ trong kho. Kết quả cây cao lương khi gần chín phần lớn bị sâu bọ cắn chết, cao lương mất mùa còn Tào Thị lại có kế hay nên trúng lớn.
Trong an nghĩ tới nguy
“Kinh thư” viết: Trong an nghĩ tới nguy, nghĩ xong phải chuẩn bị, có chuẩn bị sẽ không gặp khó khăn. “Hán thư” có nói rằng: Thiên hạ tuy bình an nhưng không quên nguy cơ chiến tranh. Cuối đời Tần có vị thương nhân tên là Nhâm Thị rất tiết kiệm, ông còn yêu cầu người nhà không được uống rượu, ăn thịt.
Trong đoạn ghi chép của người xưa về đạo lý kinh doanh có viết: Làm ăn buôn bán cần phải cần cù, nhanh chóng, không lười nhác ỷ lại, nếu lười nhác thì mọi việc đều trở thành vô ích. Dùng điều độ để tiết kiệm, tránh xa xỉ, nếu xa xỉ tiền tài tất sẽ cạn. Từ đó có thể thấy, người kinh doanh trong an phải nghĩ tới nguy, cần kiệm được chú trọng. Đang được bình an nhưng không quên khó khăn. Thiếu một chút an lạc là nhiều thêm một phần lo lắng.
Chọn người giao việc, thành thật cư xử với người
Tôn Tử nói: “Dùng lợi để bảo người, sai người làm việc, giúp đỡ ở bên ngoài. Công việc phải có lợi thì mới bắt người ta theo. Kẻ muốn kiếm tiền ắt phải tìm việc, làm việc hết mình, không chịu nợ người. Như vậy mới tìm được người làm việc cho mình”. Thời Xuân Thu chiến quốc có một vị thương nhân nước Tề tên là Đao Nhàn. Mọi thương nhân khi ấy thường không muốn thuê người có đầu óc nhanh nhẹn làm việc, duy chỉ có mỗi Đao Nhàn là chuyên thuê loại người này đồng thời ông ta trả công rất hậu hĩnh và vô cùng tín nhiệm, dám cả gan để cho họ tự do làm việc. Những nhân công này đã cố gắng làm việc và thể hiện rất xuất sắc.
Ở Tô Châu đời Minh có một cửa hàng tạp hóa tên là Tôn Xuân Dương, người ta chia làm các phòng như phòng bán đồ miền Nam, miền Bắc, phòng bán đồ biển, phòng bán tương, phòng bán nến… người bán hàng chỉ cần lấy một tấm phiếu một tấm phiếu ở quầy rồi tự đo đi các phòng phát hàng, còn người tổng quản chỉ quan sát và chỉ huy bao quát. Một ngày tổng kết nhỏ, cuối năm tổng kết lớn. Cửa hàng làm ăn cực kỳ phát đạt, trong khoảng thời gian hơn 200 năm, từ đời Minh đến đời Thanh Càn Long con cháu của cửa hàng này vẫn chưa ăn hết lãi.
Bí quyết thành công của cửa hàng này nằm ở chỗ tin tưởng dùng người, thành thật đối đãi người và quy định thưởng phạt nghiêm minh. Thương nhân Hồ Vinh Mệnh đời Thanh Đạo Quang kinh doanh ở Giang Tô hơn 50 năm, ông đối xử với người làm rất tốt, thành tâm thành ý với người ta, không ai có thể chê trách, tiếng thơm vang danh bốn bể. Cuối đời ông gác kiếm trở về quê hương, có người còn dùng hàng vạn lượng vàng để mua danh tiếng của ông, nhưng ông từ chối, nói rằng: “Tôi thành thật tin tưởng người không phải để mua bán!”. Điểu đó cũng chứng tỏ thành thật, tin tưởng là đạo đức truyền thống tốt đẹp trong kinh doanh của người Trung Quốc.
Bạn cần biết
Con chó là con vật tượng trưng cho vượng ích. Nỏ có bản lĩnh xua đuổi tà ác, bảo vệ nhà cửa người chủ, tiếp nạp tài phúc.
Trung Quốc cồ đại có câu: “Mèo vào nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”. “Nguyệt lai việt vượng” tượng trưng cho sự nghiệp của chủ nhân càng ngày càng thịnh vượng. Trong nhà có chủ canh giữ, chó vàng tiếp tài, đời đời phúc vượng, vận khí may mắn, chuyện vui liên tiếp.
Tu không cần đi chùa nhiều, làm công quả chuyên cần, nếu làm được thì tốt. Nhưng chính yếu của tu là thấu hiểu và làm điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày
Tu không cần đi chùa nhiều, đọc kinh nhiều, ăn chay giỏi, làm công quả chuyên cần, xây chùa cất miếu…nếu làm được những điều này thì tốt. Nhưng vấn đề chính yếu của tu là thấu hiểu và “quyết tâm” ứng dụng những điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày của mình.
Lâu không gặp tôi ở mấy đám tiệc tùng, nhảy nhót, ca hát bạn bè hỏi thăm tôi đi đâu mà vắng bóng lâu vậy? Tôi trả lời: “Đi chùa, bây giờ tôi tu rồi!”.
Nghe tôi trả lời như vậy bạn bè thất vọng kêu trời “Đời sống ba vạn sáu ngàn ngày có là mấy, sao đang làm ăn thành công như vậy mà lại bỏ ngang, lo tu?”. Mấy người trong bàn tiệc bắt đầu xoay qua đề tài “Tu và Đạo Phật”. Người thì bàn bây giờ còn trẻ để hưởng cho hết cuộc đời trước, khi nào già rồi hãy tu. Người thì lý luận sống là tranh đấu, tu là bi quan yếm thế. Có người tiếc rẻ cho mấy người tu, được sống ở Mỹ có nhiều thịt cá không ăn cho khoái khẩu mà ăn chay, kiếp sau sinh ra ở Ấn Độ hay Phi châu không có thịt cá để ăn, sẽ hối tiếc! Hồi trước nếu nghe người nào nói trái ý, xúc phạm đến tôn giáo của tôi là tôi nhào vô cãi lẫy, hùng biện, tranh luận, phải trái hơn thua, có khi nổi nóng tôi nói nặng làm mất bạn bè vì những chuyện không đâu. Nay nhờ đi chùa và nghiền ngẫm kinh sách tôi không phản ứng ngay, mà trầm tĩnh quan sát người ta thảo thuận. Tôi thấy người nào cũng giành phần đúng về mình, người nào không đồng ý với mình thì cho người đó dốt, không hiểu vấn đề… Thấy mấy ông bạn bàn về triết lý cao siêu của tôi nghĩ đến chuyện những người mù xem voi.
Không riêng gì những người không đi chùa nên không hiểu đạo, mà ngay cả người đi chùa thường xuyên cũng hiểu đạo sai lầm. Phần đông người đi chùa là ngững người đàn bà lớn tuổi, nhiều bà cầm nhang lạy tứ phương rất mềm dẻo, thiện nghệ. Nhưng họ đi chùa không mong gì hơn là để “được phước kiếp này và kiếp sau”. Kiếp này được Trời Phật phù hộ cho có được đời sống an lành, con cái ăn học nên người, gia đình yên vui hạnh phúc. Kiếp sau được sinh ra ở cõi Trời, hay có làm người thì được sinh ra trong gia đình khá giả hơn…
Rất nhiều người đi chùa, cúng dường nhiều chỉ để cầu xin Trời Phật phù hộ cho mình, cho gia đình mình (ngã) có đời sống tốt đẹp hơn (tham). Đi chùa với tâm ý trao đổi tiền bạc với phước đức như vậy thì chẳng khác nào bỏ tiền ra “hối lộ” Trời Phật, bỏ tiền ra “mua” phước đức. Đi chùa như vậy, có đi suốt đời cũng không giúp ích gì cho mình và cho người bao nhiêu. Có người nói ” Bữa nay tôi ăn chay, nếu không tôi cào nhà nó rồi”. Ca dao mình cũng có nhiều câu châm biếm mấy người đi chùa mà tâm không tu là “Miệng tụng Nam mô mà bụng chứa một bồ dao găm”.
Các bà chị của tôi rất thích đi hành hương, nhất cử mà lưỡng tiện, vừa du ngoạn cảnh lạ đường xa, vừa được thăm viếng, lễ bái nhiều chùa được nhiều phước đức. Có lúc các chị không thích đi hành hương nữa, tôi hỏi tại sao thì các chị cho biết, không thích đi từ hồi nghe thầy Thanh Từ giảng. Thầy nói các bà đi chùa cúng có mấy trái chuối, mấy trái cam mà cầu xin Phật cho nhiều thứ , xin cho mình, cho con mình rồi cho cháu mình nữa. Phật dạy tu thì không tu mà chỉ muốn cầu xin, nếu ai xin cũng được Phật cho như ý thì trên đời này đâu có ai khổ, ai nghèo? Các chị nghe thầy Thanh Từ nói Phật không phải là thần linh, có bùa phép ban cho Phật tử điều này điều nọ, các chị chán quá ở nhà luôn.
Không riêng gì người bình dân ít học mà đôi khi ngay cả người trí thức phụ trách việc giảng dạy Phật pháp cũng có người không hiểu đạo. Một cư sĩ kia có bằng cấp cao nên rất được quý trọng, trọng dụng trong hàng lãnh đạo Phật giáo. Ông được mời giảng dạy đạo pháp và hướng dẫn Phật tử trong các lớp tu học. Một bữa kia một Phật tử có ý kiến, theo tôi bài giảng của ông không đúng ở điểm này , điểm nọ. Ông cư sĩ có vẻ khó chịu và từ đó giữ trong lòng “ác cảm” lâu dài với Phật tử này.
Sự thật là vậy, là ít người chịu khó suy ngẫm để thấu hiểu được rằng Phật bỏ cung vàng điện ngọc, bỏ cả vợ con chỉ vì thấy “Đời Là Bể Khổ”. Phật vào rừng sâu, sống khổ hạnh chỉ để tìm cách Cứu Khổ. Và hầu hết kinh sách Phật được lưu truyền lại ngày nay là để dẫn dắt chúng ta con đường Thoát Khổ.
Đạo Phật không phải là một Tôn Giáo huyền bí.
Không đặt niềm tin ở Thượng Đế và Phật không tự cho mình là con của Ngọc Hoàng, là Đấng Tạo Hóa toàn năng tạo ra vạn vật, có khả năng ban phước hay giáng họa cho ai. Luật Nhân Quả không phải do Ngài đặt ra, và Niết Bàn cũng không phải là nơi do Ngài tạo nên, do Ngài kiểm soát cho phép ai ra, ai vào.
Đạo Phật Là Một Con Đường Giải Thoát, Giác Ngộ.
Phật là người đã tìm ra chân lý, tìm ra Con Đường đi đến sự giải thoát, an vui, tự tại (chấm dứt khổ đau). Con đường đó Phật giảng giải, chỉ vẽ dựa theo kinh nghiệm “Ngộ” mà Ngài đã chứng nghiệm được sau sáu năm khổ hạnh tu tập và 49 ngày nhập định dưới cây bồ đề. Sau thời gian tu tập này Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, đạt đến Niết Bàn và Phật đã bình đẳng tuyên bố “Ta là Phật đã thàønh, các người là Phật sẽ thành nếu các người tu theo con đường (đạo) ta chỉ dạy “.
Theo Phật con người khổ là vì Tham Sân Si, Chấp và Ngã…
Tham là muốn chiếm đoạt vật gì làm của riêng của mình, có một muốn hai, có hai muốn bốn. Lòng tham thúc đẩy con người hành động, tạo nghiệp ác, gây khổ cho mình và cho người khác.
Sân là thù hận, oán ghét. Nó cũng bao gồm trạng thái thụ động như hờn mát, bất mãn, ác cảm, buồn phiền ngấm ngầm trong lòng.
Si là u mê, tăm tối, chạy theo vạn vật hão huyền, là vô minh không nhận ra chân tướng, bản chất chân thật của vạn vật
Chấp là vướng mắc vào những cảm thọ, như khen chê, được mất, hơn thua…
Ngã là mình, những gì thuộc về mình, cái Tôi vị kỷ, kiêu mạn… Thôi thì có trăm ngàn nguyên nhân làm mình khổ. Muốn chấm dứt khổ đau, được an lạc, tự tại, kinh Phật dạy muôn ngàn pháp môn. Đểà cho bớt rườm rà khó hiểu, tôi đơn giản hóa vấn đề, muốn tu theo Phật cho thân tâm được an lạc, một là chuyển hóa Tham Sân Si, hai là gạt bỏ Chấp và Ngã.
Con đường tu của tôi ngắn và gọn như vậy. Khi có một điều bất đắc ý xảy ra làm tôi buồn phiền đau khổ, bình tĩnh suy xét tôi thấy đúng như lời Phật dạy, căn nguyên khổ đó là do tham, sân, si, chấp và ngã đã huân tập, tiềm ẩn trong tôi từ kiếp nào mà ra. Cái chủng tử hung dữ, nóng nảy do cha mẹ di truyền lại đã sống khỏe mạnh trong tôi bấy lâu nay. Nay biết tu tập, với thời gian tôi sẽ cố gắng “bứng gốc” các chủng tử xấu đi, rồi tôi sẽ tưới tẩm những “chủng tử tốt” (từ bi, hỷ xả, bao dung) bằng những trận mưa Pháp, những chủng tử tốt này sẽ nảy mầm vươn lên.
Làm việc gì muốn có kết quả nhanh chóng mình cũng phải có phương pháp, phân tích và có kế hoạch đàng hoàng. Sau khi phân tích thấy được nguyên nhân nguồn cội khổ đau là tham sân si, chấp và ngã, bây giờ làm sao diệt tham sân si, chấp và ngã?
Muốn diệt Tam Độc tham sân si, thì phải giữ Thân Khẩu ý thanh tịnh, trong sạch. Trên lý thuyết thì không khó, nhưng trên thực tế tiêu diệt ba con rắn độc này là cả một cuộc chiến gay go với nội tâm, mà chính Phật cũng phải nhìn nhận “thắng một vạn quân dễ hơn chiến thắng chính mình”.
Bản tính của người phàm phu là ăn miếng trả miếng, nhất định không thua ai. Người “biết tu” gặp nghịch cảnh phải nhịn nhục, nếu cứ chơi “xả láng” tới đâu hay tới đó, là tự biết mình đã “thua” trên mặt trận “tu tập”. Nếu nhịn nhục là thân không làm điều ác, miệng không nói lời ác thì tôi cố gắng làm được, nhưng giữ tâm ý thanh tịnh, không giận hờn, buồn phiền, bất mãn, điều này tôi thấy khó quá. Làm sao vui vẻ chấp nhận sự thiệt thòi về phần mình, làm sao chuyển hóa lấy khó khăn làm thú vị, lấy nghịch cảnh làm thắng duyên để đo lường sự tu tập của mình?
Kinh sách dạy, muốn tu chúng ta phải Học Kinh, và ứng dụng bát chính đạo. Có chính kiến (nhìn thấy đúng), có tư duy ( suy xét đúng), có tinh tấn (cố gắng trui luyện), nước chảy đá sẽ mòn, rồi có ngày tâm ta sẽ không còn vướng mắc, chướng ngại, phiền não.
Trong kinh , Phật dạy…vạn vật Vô Thường. Với thời gian vận vật đổi thay, không thường hằng bất biến, cho nên trong đời sống, chúng ta “nay lên voi, mai xuống chó”, nay được yêu chiều, mai bị ruồng rẫy nên coi là sự thường. Đã thấu đáo lý Vô Thường thì dù cuộc đời có lúc lên hương như “diều gặp gió” chúng ta cũng không nên hả hê vui mừng đắc thắng, vì gió không bền lâu, lúc gió ngừng diều sẽ đâm đầu xuống đất, càng cao danh vọng, càng dày gian nan. Khi thành công cũng như lúc thất bại chúng ta phải cố giữ tâm thăng bằng như người làm xiệc đi trên sợi dây nhỏ.
Dù đời nhiều cay đắng chúng ta cũng cố tự an ủi, đời người như một dòng sông, “sông có khúc, đời người có lúc”, không nên nao núng thất vọng trước cảnh vật đổi sao dời.
Vạn vật đều Vô Ngã. Khi chấp nhận vạn vật vô ngã, không có tự tính (sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắùc) thì ý thức ích kỷ, vị kỷ, chấp ngã kiêu mạn, ý niệm về “Cái Tôi” vô cùng quan trọng sẽ tan biến.
Phật cũng dạy lý Duyên Sinh. Vạn vật do duyên họp mà thành. Đủ duyên thì vạn vật tồn tại, mất duyên thì vạn vật tiêu tan. Do nhân duyên tác hợp nên vạn vật chỉ là hư ảo (huyễn). Khi thấu được lý nhân duyên thì tâm mình sẽ rộng mở, dễ cảm thông, tha thứ, chấp nhận thế giới muôn sai, nghìn khác. Từ “cảm thông” trong ta sẽ phát khởi lòng từ bi bao la, dễ hỷ xả, tha thứ những lỗi lầm của người khác.
Cho nên trong vấn đề tu tập, Thiền Định là một phương cách đưa con người đến giải thoát. Những giây phút yên lặng, suy nghĩ sâu sắc sẽ cho ta Thấy Được Cái Bản Chất Chân Thật Của Mọi Việc. Nhận thức được bản thể chân thật đó, con người mới có thể phát khởi đại trí, đại bi, trải rộng tình thương vô bờ tới muôn người và muôn loài. Trong đời sống hằng ngày chúng ta bận rộn làm ăn sinh sống, không có nhiều thì giờ để ngồi thiền như những người xuấàt gia, nên Sư cô Thanh Lương khuyên chúng ta cố gắng Dừng Lại, cố giữ phản ứng chậm lại. Chỉ cần chậm lại một chút để có thì giờ suy nghĩ kỹ chúng ta sẽ tránh được nhiều lỗi lầm đáng tiếc, gây phiền phức cho mình và những người chung quanh, nhờ đó cuộc sống của mình được tươi đẹp , thoải mái dễ chịu hơn. Đối với đàn bà chuyện thường xảy ra là bà này nói xấu bà kia. Phản ứng tự nhiên khi bị người khác đặt điều nói xấu là mình nổi giận. Người “biết tu” sẽ không trả thù nói xấu lại và người tu giỏi sẽ không giữ trong lòng ác cảm, phiền muộn ai .
TU ĐỂ LÀM GÌ mà xem ra người tu có vẻ thiệt thòi, chịu đựng nhiều quá vậy?
Mục đích tối thượng của người tu theo Phật là đạt đến Niết Bàn. Niết Bàn không phải là một nơi tốt đẹp như Thiên đàng của các tôn giáo khác, khi nào chết con người mới có thể tới Thiên đàng được. Niết Bàn trong đạo Phật không chiếm không gian, không là nơi chốn nào trong vũ trụ, mà là một đạo quả, một trạng thái bình yên tối thượng. Ở ngay trong kiếp sống này nếu chúng ta không bị tham sân si, chấp và ngã điều khiển, tâm ta sẽ có được thanh tịnh, an lạc, đạt đến Niết Bàn.
Những danh từ Duyên Sinh, Vô Thường, Vô Ngã hình như Phật tử nào cũng hiểu vì nó là nền tảng giải thoát của Đạo Phật. Nhưng hiểu là một chuyện mà có ứng dụng những điều hiểu biết này vô đời sống của mình để có được đời sống an lành yên vui hay không là chuyện khác.
Một bạn đạo của tôi luôn chạy theo Sư cô Thanh Lương, cô giảng ở đâu là có mặt chị ở đó. Chị đọc kinh nhiều đến nỗi thuộc làu cả “Chú Đại Bi”. Chị đang vận động với bạn bè mua cho Sư cô Thanh Lương một căn nhà làm chùa. Chị mê nghe Sư cô giảng lắm. Tôi hỏi thăm, chị A còn trong hội của chị không? Hỏi câu này là bắt trúng tần số. Tôi chỉ hỏi một câu ngắn như vậy mà chị trả lời tôi tới nửa đêm, tuông ra bao nỗi hằn học, oán hận, căm thù. Tôi an ủi, thôi chị đi chùa nhiều, nên “hỷ xả”. Chị ấy trả lời: “Cái hạng người đó không đáng cho tôi hỷ xả!”.
Một bà khác đi chùa, công quả chuyên cần từ ngày qua Mỹ đến nay là mấy chục năm, nên được giử chức Phó Hội trưởng trong Ban Chấp hành của một chùa trong vùng. Bà mẹ chồng của chị đang hấp hối ở VN, tha thiết mong mỏi tất cả con cháu , dâu rể điện thoạị về một lần chót trước khi nhắm mắt ra đi. Măïc cho em chồng khóc lóc năn nỉ, chị này nhật định không gọi về, nhất định trả thù bà mẹ chồng cho đến giờ phút chót cuộc đời bà.
Đi chùa mà giữ tâm địa ác như vầy thì đi để làm gì?
Tu không cần đi chùa nhiều, đọc kinh nhiều, ăn chay giỏi, làm công quả chuyên cần, xây chùa cất miếu…nếu làm được những điều này thì tốt. Nhưng vấn đề chính yếu của tu là thấu hiểu và “quyết tâm” ứng dụng những điều Phật dạy vô đời sống hằng ngày của mình.
Nên Từ Bi Hỷ Xả. Chỉ một chữ “xả” thôi , nếu thực hiện được là chúng ta cũng đến gần Niết Bàn rồi. Đi chùa, tham gia Phật sự là điều tốt, nhưng đó là bước đầu, nếu chúng ta bước xuống thuyền rồi đứng đó, không tự chèo thuyền đi , không ứng dụng những điều học hỏi ở kinh sách, ở chùa vô đời sống hằng ngày thì mãi mãi không bao giờ có thể đến được bến bờ giải thoát an lạc bên kia.
Thầy Thanh Từ giảng, căn phòng dù tăm tối đến đâu, bật đèn lên căn phòng cũng sáng. Chúng ta đứng ở cửa nhìn ra ngoài sẽ thấy đen tối, xoay đầu vô thì thấy sáng. Giữa tối và sáng chẳng cách nhau bao xa. Chỉ cần biết xoay đầu. Nhìn ra ngoài là bến mê, xoay đầu lại là bờ giác. Mê và giác chỉ có một cái xoay đầu. Tu dễ như vậy. Tu là hồi đầu, là xoay đầu lại. Từ bao lâu chúng ta mê nên đi trong đau khổ tử sanh, khi tỉnh chúng ta trở về sẽ hết khổ đau. Nếu chúng ta thả trôi theo giòng tăm tối thì tối mãi, biết xoay ngược lại tìm về ánh sáng thì sẽ được sáng. Một đứa con đi hoang, càng đi xa nhà càng khổ, khi biết lỗi lầm quay về với mẹ cha thì được sống trong gia đình hạnh phúc.
Hiểu như vậy thì tu không khó khăn gì cả, không cần ép xác khổ hạnh, tu luyện lâu dài hay học cao hiểu rộng, cũng không cần xuất gia. Phật tức tâm, tâm tức Phật, tu tại gia cũng được. Chỉ cần cố chuyển hóa tham sân si , chấp và ngã.
Vạn vật đồng nhất ở bản thể, khi chúng ta dẹp được cái Tôi vị kỷ, ranh giới giữa ta và người sẽ tan biến. Từ đó lòng Từ Bi Hỷ Xả sẽ bừng nở dâng tràn, đưa ta đến bến bờ giải thoát an lạc tự tại.
Tu là sửa đổi cho được tốt hơn, là dừng lại, là chuyển hóa cái tri thức sai lầm về thực tại. Vì tri thức sai lầm, chúng ta phát sinh tham, sân, si rồi hành động tạo nghiệp. Có chính kiến chúng ta sẽ thay đổi thái độ với vạn vật, nhờ đó thế giới trở nên an lành, vui tươi , hạnh phúc hơn.
Khi tâm ta không còn bị tham sân si điều khiển, khi tâm ta không còn vướng mắc với những cảm thọ chấp, ngã, chúng ta sẽ đạt đến Niết Bàn. Đó là một trạng thái yên bình tối thượng, thanh tịnh, tự tại, giải thoát ở kiếp này, nhờ đó Nghiệp Lực chấm dứt, không còn sức lôi dẫn chúng ta luân hồi trong lục đạo ở kiếp sau.
Đây là mục tiêu tối thượng của việc Tu Hành theo Phật.
Quá trình “tam sao thất bản” và biến đổi theo các yếu tố kinh tế – xã hội khiến có lúc Phong Thủy có vẻ rất phức tạp và bị một số yếu tố mê tín làm thiên lệch. Nước chảy có nguồn Thực ra Phong Thủy cũng như các ngành khoa học khác, đều xuất phát từ n
Quá trình “tam sao thất bản” và biến đổi theo các yếu tố kinh tế – xã hội khiến có lúc Phong Thủy có vẻ rất phức tạp và bị một số yếu tố mê tín làm thiên lệch.
Nước chảy có nguồn
Thực ra Phong Thủy cũng như các ngành khoa học khác, đều xuất phát từ những yếu tố rất cơ bản, đơn giản và thiết thực. Nếu không thiết thực cho đời sống người dân và vu vơ mê tín thì khoa phong thủy đã không tồn tại được cho đến ngày nay vì người ta chỉ tin và thực hành theo những gì có lợi cho mình, gia đình mình và cộng đồng.
Ví dụ, việc treo một tấm gương nhỏ trước cửa thực ra chỉ là động tác mang tính bình ổn tâm lý, còn ngôi nhà đó tốt hay xấu phải xét rất toàn diện. Những bài “thuốc an thần” như vậy cũng không hề có trong cội nguồn xuất phát của phong thủy, nhưng có lẽ… vô thưởng vô phạt nên người ta cứ treo gương!
Vì vậy, các gia chủ cần phân biệt đâu là giải pháp Phong Thủy, đâu là tín ngưỡng dân gian. Việc sắp xếp một ngôi nhà sao cho thoáng mát, thuận tiện sinh hoạt, hợp lý đối với các thành viên cư trú luôn là điều cần làm; nhưng việc cúng bái, dán bùa… lại thuộc về tín ngưỡng dân gian, tùy theo tập tục và đức tin của mỗi vùng, mỗi người. Chúng ta tôn trọng nhưng không lẫn lộn với các giải pháp Phong Thủy đích thực.
Có lẽ cũng nên lần về cội nguồn phát sinh ra Phong Thủy để hiểu rõ bản chất của khoa học này. Sự phát sinh của Phong Thủy liên quan đến nhiều nguyên nhân xã hội, trong đó tập trung vào ba vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất là sự xét đoán hình thế – một thái độ tự nhiên của con người trong quá trình vận động, giao tiếp với môi trường thiên nhiên và xã hội. Gặp một ai, sự vật gì người ta cũng thường xem xét để chọn lựa cái tốt nhất trong khả năng có thể.
Thứ nhì là đạo hiếu của người sống muốn tưởng niệm người chết, muốn cân bằng tâm lý và phần nào răn dạy người khác, cũng là một ước muốn cho bản thân mình mai sau. Do đó trong Phong Thủy cổ xưa có rất nhiều cách xem Thủy Khẩu, Long Mạch… cho mồ mả (âm phần) mà việc áp dụng cho thực tế hiện nay còn nhiều mơ hồ, nặng về cảm tính. Rồi những yếu tố này bị một số sách vở trộn lẫn với Phong Thủy Dương Trạch (nhà cửa cho người sống) làm tăng thêm tính kỳ bí, phức tạp.
Thứ ba là các truyền tụng và thuật số tính toán mang tính tập tục, được đúc kết qua nhiều thời kỳ, mong muốn gặp lành tránh dữ, mang tính dân tộc học và văn hóa địa phương. Vì vậy các nước Á Đông như Việt Nam, Hồng Kông, Nhật Bản đều có các nguyên tắc phong thủy riêng.
Những tiêu chí cơ bản
Để làm nhà theo một tiến trình Phong Thủy bài bản, đòi hỏi gia chủ phải có những kiến thức nhất định và sự chọn lựa các giải pháp sao cho phù hợp hoàn cảnh mỗi gia đình, mỗi ngôi nhà. Các giải pháp Phong Thủy luôn phải được tiến hành trên nền tảng 5 tiêu chí, cũng là 5 tính chất cơ bản của Phong Thủy:
– Tính Tổng hợp: Xem xét rất nhiều phương diện để tạo lập môi trường sống tốt nhất. Xét về chữ nghĩa: Phong là gió, tính Động, thuộc dương. Thủy là nước mang tính Tĩnh, thuộc âm. Gió – nước, âm – dương phải tương giao thì Thổ Trạch mới hài hòa.
– Tính Linh hoạt: Không có ngôi nhà hay cuộc đất nào là tốt hoặc xấu hoàn toàn mà phải tùy thuộc vào truờng hợp cụ thể, thậm chí có thể xấu với người này nhưng người khác lại thấy tốt, thấy phù hợp với mình. Khi gặp tình huống bất lợi, luôn có các giải pháp khắc phục sao cho ít tàn phá môi trường, dựa vào thiên nhiên, giảm thiểu công sức, chi phí.
– Tính Quân bình: Luôn giữ tỷ lệ hợp lý của các thành phần không gian, không quá thiên lệch, đảm bảo cân bằng âm dương, động tĩnh trong môi trường ở. Cần xác định cân bằng chứ không phải cào bằng, phải có chính phụ.
– Tính Ổn định: Phong Thủy vốn xuất phát từ đời sống định cư của dân làm nông nghiệp, do đó chọn đất cất nhà cha ông ta luôn nhắm đến tương lai xa, mong con cháu được phát triển vững bền. Sự ổn định trong Phong Thủy hiện đại cần hiểu là: giảm thiểu biến cố, phát triển lâu dài.
– Tính Tâm linh: Xem trọng yếu tố tín ngưỡng và đời sống tinh thần. Hướng nội và luôn tưởng nhớ tiền nhân (thờ cúng, giáo dục truyền thống). Phong Thủy cũng là một “liệu pháp” tâm lý hiệu quả nên vẫn có một số thủ pháp mang tính “ an thần “nhằm tạo tâm lý thoải mái cho người cư ngụ.
Theo nghiên cứu của nhiều học giả tướng mệnh học cổ đại, con người có tướng mệnh, tướng thanh, tướng hình. Theo một quy luật nào đó, những người có các đặc điểm tướng mệnh theo tổng kết thì mang một số phận, tính cách tương ứng. Về tướng đàn ông yểu
Bát long là 8 loại long mạch ở 8 hướng theo bát quái. Đối với người xưa, điều đặc biệt quan trọng khi đặt mộ là tầm long (tìm long mạch).
Bởi vậy mới có câu ca: Điểm huyệt lập hướng, lưỡng phân minh Âm cục, dương cục phân biệt tinh Dương long thuận hành, âm long nghịch Bát long đúng hướng mới trời sinh.
Sau đây là phương pháp sắp xếp các loại long mạch theo thuyết âm dương ngũ hành:
Bát long
- Dương Hỏa cục: Long mạch ở dưới hướng Bính (hướng số 12 - hướng Nam lệch Đông Nam) tụ khí kết huyệt, phải quay đầu về hướng Dần (hướng 5 - Đông Bắc lệch Đông). Dòng nước từ hướng Ất (hướng 8 - Đông lệch Đông Nam) bao bọc ngoài minh đường chảy đến hướng Tuất (hướng 21 - Tây bắc lệch Tây).
- Âm Hỏa cục: Long mạch ở hướng Ất (hướng 8) kết huyệt, phải quay đầu về hướng Ngọ (hướng 13 - chính Nam). Dòng nước từ hướng Bính bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Tuất thì chảy đi. Dòng nước từ hướng Đông Nam (hướng Tốn) phải hợp Thủy cục Thân, Tý, Thìn, tức Nhâm long hoặc Tân long.
- Dương Thủy cục: Long mạch ở hướng Nhâm (hướng 24) kết huyệt phải quay đầu về hướng Thân (hướng 17). Dòng nước từ hướng Tân (hướng 20) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.
- Âm Thủy cục: Long mạch ở hướng Tân kết huyệt phải quay đầu về hướng Tý (hướng 1 chính Bắc). Dòng nước từ hướng Nhâm (hướng 24) bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.
Dòng nước từ Tây Nam chảy đi: hướng Khôn phải hợp với Mộc cục Hợi, Mão, Mùi tức Giáp long, hoặc Quý long.
- Dương Mộc cục: Long mạch ở hướng Giáp (hướng 6) kết huyệt phải quay đầu về hướng Hợi (hướng 23). Dòng nước từ hướng Quý (hướng 2) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.
- Âm Mộc cục: Long mạch ở hướng Quý (hướng 2) kết huyệt phải quay đầu về hướng Mão (hướng 7). Dòng nước từ hướng Giáp (hướng 6) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.
- Dương Kim cục: Long mạch ở hướng Canh (hướng 18) kết huyệt phải quay đầu về hướng Tỵ (hướng 11), dòng nước từ hướng Đinh bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.
- Âm Kim cục: Long mạch ở hướng Đinh (hướng 14) kết huyệt phải quay đầu về hướng Dậu (hướng 19), dòng nước từ hướng Canh bao bọc minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.
Cổ nhân có câu: “Phi thương bất phú”. Ngày trước trong thời kỳ phong kiến vốn nặng nề tiết hạnh đạo đức nên đặc biệt đề cao đội ngũ trí thức: Sỹ, nông, công, thương. Tầng lớp kinh doanh thương mại không được coi trọng, vì làm nghề kiếm lợi “trên ngọn”. Ngày nay, trước sự phát triển không ngừng của xã hội, vai trò của thương mại ngày càng được khẳng định.
Bạn có thể trở thành một người kinh doanh giỏi và thu được nhiều lợi nhuận? Khi nào thì bạn có cơ hội phát tài? Nếu thực sự bạn không có tố chất kinh doanh thì nên đi tìm những lĩnh vực khác và đam mê khác để theo đuổi.
Trong môn Tử vi đẩu số, một xã hội chân thực gần gũi sinh động hiện ra, điểm qua một vài mệnh cách kinh doanh thành công để các bạn cùng tham khảo.
Theo cụ Nguyễn Phát Lộc: Thương mại quy tụ rất nhiều lĩnh vực từ buôn bán nhỏ lẻ đến vay tín dụng, ngân hàng, xuất nhập cảng, vận tải, môi giới…Tuy nhiên, hầu hết đều có đặc điểm chung là: Tham vọng về tài sản, óc tính toán và tài tháo vát.
Tử vi, Thiên phủ hội hợp sát tinh:
Tử vi là sao có tài lãnh đạo đạo, khi đã cư Mệnh, Thân, Quan, Tài thường có vai trò sứ mệnh lãnh đạo. Khi gặp được bối cảnh quân thần khánh hội, thì đương số có nhiều cơ hội theo sự nghiệp quan trường, lãnh đạo đất nước… Khi hội hợp sát tinh, như Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh. Khi ấy, Tử vi phải chiết giảm một phần sức mạnh để chế giải hung tinh, bởi vậy nên khí chất tôn quý giảm đi. Thêm nữa, mệnh có sát tinh, thường là người có tâm lý ham sáng tạo đột phá, muốn kiếm được nhiều lợi nhuận, và trong quá trình cạnh tranh trên thương trường, tất họ cũng sẽ bày ra những mánh khóe, thủ đoạn để có lợi cho mình. Ví dụ như Kình dương khi nằm trong mệnh, thân, quan, tài có uy lực như cầm thanh đao xông ra thương trường tùng hoành đột phá giành giật lợi nhuận và khách hàng vậy. Người Mệnh – Thân có Tử vi, Thiên phủ vốn sẵn có tác phong của một ông chủ, nếu hội hợp thêm Tả hữu thì càng có tài quán xuyến và đông nhân công, thuộc hạ.
Cả Tử vi và Thiên phủ đều rất ngại Tuần, Triệt, Địa không, Địa kiếp. Nếu gặp phải những cách đó là cách đế ngộ hung đồ, Phủ phùng không sứ, cuộc sống thành bại chìm nổi vô cùng bất thường. Phần lớn là thất bại. Một số câu phú văn của cổ nhân khi nói về mệnh cách này:
Tử phủ Kình dương tất cự thương (Tử vi Thiên phủ gặp Kình dương tất là người kinh doanh giàu có)
“Phủ phùng không xứ tài suy
Chung thân nan bảo tư cơ khôn truyền”.
Hình ảnh của sao Thiên phủ giỏi quản lý tài sản
Vũ khúc: Là một sao nặng về tài chính, nên cuộc đời, với những hoạt động nghề nghiệp gắn liền với cách hoạt động thương mại dịch vụ. Người có Vũ khúc thủ mệnh là người thông minh, lanh lợi, phản ứng rất mau lẹ trước mọi tình huống, cô độc lạnh lùng, quyết tâm, quả đoán. Khi lâm vào mệnh quan tài thân là biểu hiện của tố chất kinh doanh thành công. Cùng như Thiên phủ, Vũ khúc là kho tàng rất kỵ gặp Tuần, Triệt, Địa không, Địa kiếp, gặp trường hợp này là hình ảnh một cái kho tàng trống rỗng, không có tài sản trong đó, sự nghiệp chìm nổi, thành bại đa đoan, khi có rất nhiều tiền trong vận tốt, nhưng dễ bị phá sản trong vận xấu.
Các tổ hợp tinh hệ của Vũ khúc rất nhiều
Tại Tý – Ngọ, Vũ khúc Thiên Phủ đồng cung, xung chiếu có Thất sát, tam hợp có Tử vi, Thiên tướng và Liêm trinh.
Sửu – Mùi: là mệnh cách Tham vũ đồng hành
Dần – Thân : Vũ khúc, Thiên tướng.
Mão - Dậu: Vũ khúc, Thất sát
Thìn – Tuất: Vũ khúc đơn thủ
Tị - Hợi: Vũ khúc, Phá quân đồng cung.
Phú văn: Vũ khúc, Lộc mã an bài
Buôn xa hoạnh phát ít người dám đương.
Vũ khúc là một sao tài chính, cuộc đời gắn liền với tài sản, ngân sách, kinh doanh thương mại
Tinh hệ Thất sát, Phá quân, Tham lang:
Thất sát, Phá quân và Tham lang luôn luôn tam hợp chiếu với nhau, bộ sao võ cách này còn được gọi là Trúc la. Vì là bộ sao võ cách nên tính chất biến động của nó vô cùng lớn.
Phá quân: là sao biến động theo chiều hướng phá hao, phá vỡ những nền tảng cũ rồi mới xây dựng kiến thiết nên công trình mới. Tính chất của nó biến động mạnh mẽ. Triết học gọi là phủ định sạch trơn, giống như một cơn đại hồng thủy vậy. Người có Phá quân thủ mệnh, ham đột phá sáng tạo, sẵn sàng tạo ra những con đường mới, bất chất cả những chuyện mạo hiểm, thất bại, rủi ro. Theo cụ Thiên Lương: Phá quân có hai tay chân thân tín nhất đó là Địa không, Địa kiếp, nhất là khi hai sao này đắc địa, lại càng tạo nên những lần bạo phát, đột phá trong kinh doanh.
Thất sát: Có tính chất biến động kế thừa và phát huy. Sách Tử vi đẩu số có bức tranh lợp mái nhà, suy xét một cách tinh ý thì phải có ngôi nhà trước, rồi mới có chuyện lớp mái, như vậy tính chất biến động kế thừa và phát huy của Thất sát rất rõ rệt. Người có Thất sát thủ mệnh là người không thích bị quản thúc, trong công việc thì rất quyết tâm, rất đậm tính chất cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại kinh doanh. Thất sát rất hợp với Kình dương, Đà la
Tham lang: Là Thiện ác chi tinh, bản thân có nhiều ham muốn về tất cả các lĩnh vực, từ tình yêu, đến danh vọng, tiền bạc, người có Tham lang thủ mệnh thường có tâm lý đầu cơ, rất bén nhạy với chuyện kiếm tiền, đầu óc cũng đầy những mánh mung, thủ thuật, tiểu xảo. Tham lang có nhiều thế đứng, nhưng được hội hợp hoặc đồng cung với các sao Lộc, Linh tinh, Hỏa tinh đắc địa lại càng có cơ hội bạo phát.
Thái âm:
Thái âm là một sao mang nặng giá trị về tài sản. Phương thức tạo dựng tài sản của Thái âm hoàn toàn khác khác so với Sát, Phá, Tham (có thể làm giàu trong một thời gian ngắn). Thái âm là tinh thần siêng năng, chịu khó, thức khuya dậy sớm và tiết kiệm mới có được tài sản. Chủ yếu thông qua quá trình tích lũy, ổn định, nên vì thế dù rằng là Bắc đẩu tinh, nhưng càng về già càng giàu có là vì thế. Cách kinh doanh, buôn bán của người có Thái âm có tính chất ổn định, bớt sóng gió hơn, thu nhập không nhất thiết phải cao, nhưng có tính chất đều đặn, thường xuyên, tích tiểu thành đại, bớt được nhiều mạo hiểm và rủi ro.
Thái âm sáng từ cung Mùi tới các cung Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu,
Tại Sửu – Mùi: Âm dương đồng cung
Thân: Thiên cơ, Thái âm
Dậu, Tuất, Hợi: Thái âm đơn thủ
Tý: Thiên đồng, Thái âm đồng cung.
Bất kể Thái âm ở cung nào, cũng có những đặc điểm trên sắc thái nó sẽ nặng thêm khi đi kèm với các sao Lộc, như Lộc tồn, Hóa lộc. Nếu đi kèm các sao văn hóa, hay phúc đức thì ý nghĩa của nó sẽ ít nhiều thay đổi.
Thiên cơ, Cự môn: Bộ sao thể hiện rõ tính chất tính toán, mưu lược của Thiên cơ, và ngoại giao, quảng cáo, tư vấn tiếp thị của Cự môn. Nó sẽ càng rực rỡ hơn khi đi kèm với song hao và Hóa quyền. Phú văn có câu: “Cơ cự hạnh ngộ song hao tối hiềm hóa lộc”. Hay mệnh cách này là mệnh cách chúng thủy triều đông. Cự môn được ví như một viên ngọc thô, được sự mài dũa (song hao) lại càng trở nên rực rỡ.
Phân tích tâm lý của người có mệnh cách này thì họ có sự tính toán kỹ càng, phân tích tỷ mỉ, nhưng khi đã bắt tay vào hành động thì rất quyết tâm và sẵn sàng mạo hiểm, rủi ro, vừa có óc tính toán, vừa có tài ngoại giao, biện luận. Nếu gặp vận tốt kinh doanh mau phát.
Mệnh vô chính diệu: Thường, mệnh vô chính diệu là một cách cục thấp trong Tử vi, nhưng khi nó hội tụ yếu tố đặc biệt sẽ có cơ hội bạo phát trong kinh doanh. Cách cục đặc biết đó là gì: Đắc nhị không, tam không, Nhật Nguyệt tinh minh, hay hung tinh đắc địa hợp cách.
Luận về vận, thường đến các vận Sát, Phá, Tham những người mệnh vô chính diệu thường có cơ hội bạo phát đặc biệt.
Lộc mã giao trì: Thiên mã, hội hợp với Hóa Lộc, hoặc Lộc Tồn, là mệnh cách của phú thương, làm ăn kinh doanh ở phương xa, càng bôn ba, bận rộn càng giàu có. Thiên mã tại mệnh là người có quyết tâm, nghị lực, tháo vát, và rất siêng năng. Nghị lực cùng với sự tháo vát được đền đáp xứng đáng bằng thành quả (Lộc), người xưa còn nói mệnh cách này như thả ngựa ở giữa đồng cỏ bao la, để ngựa tha hồ ăn. Theo tôi thì mệnh cách này có được thành công không hề đơn giản dễ dàng, phải phấn đấu, bận rộn và bôn ba thì mới hưởng lộc, càng bỏ công sức thì thành quả lại càng lớn
Lộc mã giao trì, bôn ba mà phát tài. Hình ảnh của một thương gia thời trước
Cuộc sống với những biến cố không ngừng, con người cần linh hoạt thay đổi để ứng biến, thích nghi với hoàn cảnh song có những điều thuộc về quan điểm, trong hoàn cảnh nào cũng không thể cải biến. Ví dụ như nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao, dù vật đổi sao dời, thăng trầm sóng gió thế nào cũng bất di bất dịch.
Bạch Dương: không thích bị quản chế
Cung Bạch Dương là người theo đuổi tự do tuyệt đối, thích nhất là cách sống tự chủ, không có giới hạn. Ưa mạo hiểm, thích chuyện có tính khiêu khích, muốn là làm, ghét nhất là bị hạn chế, quản giáo và lên lớp. Dương Dương hiểu rất rõ bản thân theo đuổi cái gì, thích cái gì nên không ngần ngại dấn thân.Nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao, với cừu trắng chỉ có một: không quản chế. Chỉ cần đối phương tôn trọng nguyên tắc này thì bất cứ điều gì khác họ đều có thể thương lượng thỏa hiệp. Muốn trói buộc chòm sao này thì e rằng hai người sẽ không thể tồn tại tình yêu được.
Kim Ngưu: sử dụng tiền hợp lý
Thực sự thì Kim Ngưu là người ưa thích sung túc và rất có năng lực trong việc kiếm tiền cũng như hoạch định tài chính. Đảm bảo kinh tế là một trong những yêu cầu tiên quyết giúp họ cảm thấy an toàn, cùng là nguồn cảm hứng cho cuộc sống của chòm sao này.Khi yêu, Ngưu chan đối xử với người yêu tốt, chăm lo và quan tâm, tính cách cũng hài hòa, duy chỉ có một điểm họ yêu cầu rất nghiêm khắc là không tiêu xài hoang phí. Vật tốt, việc cần chi tiền không tiếc nhưng nếu không quá cần mà vung tay chắc chắn sẽ bị chòm sao này phê bình, thậm chí nếu lặp lại nhiều lần có thể hai bạn sẽ đường ai nấy đi. Xem thêm bài viết Chỉ số sợ hãi của 12 chòm sao khi yêu xa
Song Tử: cuộc sống thú vị
Muốn nói tới chòm sao có cuộc sống dồi dào năng lượng, biết tìm cách làm vui chính mình và những người xung quanh thì Song Tử đứng hàng đầu. Họ thích nhất là thay đổi, khát vọng trải qua những thường ngày ngập tràn kích thích, sôi nổi đầy hứng khởi. Ngày nào mà không có chuyện vui thì ngày đó chính là tận thế với Tử nhi.Khi yêu đương, chòm sao vui tính này thích nhất là trò chuyện, nói đùa cùng nhau, đưa ra những ý tưởng sáng tạo và thực hiện những chuyện điên rồ. Nếu nửa kia không hứng thú, thậm chí là từ chối tiếp nhận thì Song Tử sẽ cảm thấy rất buồn, nhàm chán và cuối cùng là đi tìm nguồn vui ở người khác.
Cự Giải: không tổn thương người nhà
Trong vòng tròn hoàng đạo, Cự Giải là người có tính cách ôn hòa, ít khi nổi nóng, nội tâm bao dung, người yêu thích gì chiều nấy, hầu như không lúc nào làm trái ý. Nhưng việc này không có nghĩa là họ không có nguyên tắc, tuy nhút nhát và hòa nhã song nguyên tắc vẫn rất kiên định.Cự Giải chú trọng gia đình, yêu mến người thân, không cho phép người thân của mình chịu bất kì sự thương tổn nào, chỉ một câu nói khó nghe cũng không được. Vì thế khi hai người yêu nhau, nhất định cần có sự tôn trọng gia đình, nếu phạm phải thì yêu nhau tới mấy cũng không thể tiếp tục.
Sư Tử: coi trọng sĩ diện
Chuyện muôn thưở nói mãi nhưng vẫn phải nhắc nhở rằng cấm kị khi yêu của chòm sao Sư Tử chính là làm họ mất thể diện. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ở trước đám đông họ phải là người nổi bật nhất, xuất sắc nhất, không có ngoại lệ. Hai người cãi nhau tới long trời lở đất nhưng ra ngoài nhất định phải là cặp đôi đẹp nhất.Sư Tử khá chiều chuộng người mình yêu nhưng không thể chấp nhận được người đó làm xấu mặt mình. Nếu nắm vững được nguyên tắc này thì tức là bạn đã thành công trong việc nắm giữ chòm sao cao ngạo này rồi đấy, khéo léo một chút có chuyện gì họ cũng bằng lòng nghe theo. Xem thêm bài viết 12 chòm sao quay về với người yêu cũ như thế nào?
Xử Nữ: chuyện gì cũng phải nghe theo
Chòm sao này tính cách soi mói và kĩ càng, làm chuyện gì cũng đòi thập toàn thập mĩ. Khi yêu đương, việc Xử Nữ thích nhất là uốn nắn, bổ sung những điểm sai sót của đối phương đồng thời muốn đối phương nhất nhất nghe lời mình. Yêu cầu cao, tính khí khắt khe, không thích bị trái lời là đặc điểm nổi bật nhất.Xuất phát từ mong muốn nửa kia hoàn thiện hơn đồng thời khẳng định năng lực của bản thân, Xử Nữ có nguyên tắc: nghe và hành động, áp dụng triệt để. Chính vì vậy mà khi ghép đôi với những chòm sao có tính cách mạnh như Nhân Mã, Sư Tử, Bạch Dương, Ma Kết sẽ tạo ra chiến tranh không chừng.
Thiên Bình: nói ngon nói ngọt
Chòm sao tao nhã nhất định khi yêu cũng uyển chuyển hài hòa, Thiên Bình có khuynh hướng lịch sự, thích được ca ngợi, ưa mềm không ưa cứng. Bản thân họ cũng là người thích cái đẹp, sự nhẹ nhàng nên đương nhiên cho rằng chính mình xứng đáng nhận được đãi ngộ tốt từ người yêu.Cho dù Thiên Bình làm sai, gặp chuyện xấu, ở vào hoàn cảnh bế tắc cũng không thể dành cho họ những lời lẽ nặng nề. Kể cả Bình nhi tự mình chế giễu thì người yêu cũng không thể nói hùa vào phụ họa. Nếu muốn yêu nhau lâu dài, chinh phục được một Thiên Bình hoàn mỹ thì nhớ kĩ lấy điểm này.
Hổ Cáp: duy trì chung thủy
Tuy bề ngoài lạnh lùng thâm trầm nhưng bên trong con người Hổ Cáp khá nhạy cảm và thiếu an toàn. Họ đa nghi, thâm trầm, có nhiều tính toán khiến người khác lo lắng. Yêu chòm sao này nhiều khi rất khấp khởi, nửa mừng nửa lo, được đối xử tốt song lúc nào cũng ngần ngại có đắc tội với họ hay không.Thực ra, chỉ cần tuần thu một nguyên tắc duy nhất và cao nhất là chung thủy mà thôi. 12 chòm sao khi yêu, Cáp Cáp có lạnh tới đâu thì khi đứng trước người yêu vẫn hết sức ấm áp, chu đáo, miễn sao bạn một lòng một dạ với chòm sao này, mọi chuyện khác cứ để họ lo. Xem thêm bài viết "Điểm chết" không được đụng tới khi yêu 12 chòm sao
Nhân Mã: không bị kiểm soát
Tôn trọng tự do, căm ghét cảm giác tù túng ràng buộc, dù là ai cũng không thể xâm phạm vào quyền được bay nhảy của Nhân Mã. Họ hi vọng bản thân là chim ưng sải cánh tung bay trên bầu trời rộng lớn, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm, lý tưởng cao nhất chính là kết bạn bốn phương sống đời du mục.Yêu ư? Đương nhiên là quá tốt, Mã Mã còn nổi danh là chòm sao đào hoa cơ mà. Nhưng yêu thì yêu, không thể trói buộc chòm sao này được. Nếu để lựa chọn giữa tình yêu và tự do, đảm bảo Nhân Mã sẽ không hề do dự mà cho người yêu leo cây, tìm về chân trời rộng mở.
Ma Kết: sống chân thật
Dẫu là chòm sao không biết cách thể hiện tình cảm nhưng trong lòng Ma Kết vừa có trách nhiệm lại vừa ấm áp bao dung, yêu đương với họ tuyệt đối không tồi. Hành động cụ thể, biểu đạt chân thực rõ ràng, quyết đoán mạnh mẽ, người yêu lúc nào cũng có cảm giác yên tâm và an toàn.Nguyên tắc tình yêu của 12 chòm sao có thế nào thì với Ma Kết cũng chỉ có một: chân thật. Không màu mè giả tạo, không hoa lá cành gì hết, thứ họ yêu cầu là sự thật đơn giản nhất, nếu nói dối mà bị Kết Kết phát hiện thì quả là đen đủi, họ sẽ rất khó lòng tha thứ đấy.
Bảo Bình: tôn trọng đối phương
Là nam hay nữ, Bảo Bình đều theo đuổi tinh thần bình đẳng, tôn trọng và tự tôn. Nguyên tắc thần thánh của chòm sao này là không can thiệp vào đời sống cá nhân, không bài xích thói quen của nửa kia. Họ cần người kia làm vậy và chính mình cũng sẽ làm vậy với nửa kia.Bảo Bình không cho phép ai xâm phạm thế giới riêng của mình, ví dụ như lý tưởng, ví dụ như thói quen, ví dụ như nhân sinh quan. Nếu không hiểu được, hãy im lặng; nếu không thể ủng hộ, hãy đừng phản đối. Tư duy rõ ràng, đơn giản và rất thẳng thắn, sẵn sàng để yêu một Bảo Bảo chưa. Xem thêm bài viết Mách 12 chòm sao bí quyết yêu là cưới, cưới là viên mãn
Song Ngư: không ép buộc
Ép uổng không thành chuyện tốt, nhất là trong chuyện tình yêu mà người này phải sống theo ý người kia thì thực sự là khổ không để đâu cho hết. Song Ngư không muốn đắm chìm trong một mối quan hệ ngột ngạt như vậy, họ thích được tôn trọng và có thể tự do làm những việc mình muốn. Mặc dù đa số thời điểm Ngư nhi không thích đưa ra quyết định, giao cho người yêu sắp xếp nhưng nếu họ đưa ra kiến nghị thì đối phương cần lắng nghe, trao đổi và tiếp thu, không nên bỏ lơ, càng không được buộc Song Ngư làm việc mà mình không thích. Bật mí lý do mối tình đầu của 12 chòm sao tan vỡHé lộ lý do khiến 12 chòm sao cương quyết trở về đời độc thân12 chòm sao ghét nhất bị nói gì?Trình Trình
Một trong những cách dễ nhất để thu hút năng lượng là bảo đảm rằng không gian trong nhà bạn thỉnh thoảng được tắm trong ánh nắng. Điều này là bởi mặt trời là biểu tượng mạnh nhất và là nguồn năng lượng dương.
Mặt trời cùng một lúc có thể thanh lọc và cung cấp năng lượng dương. Vì lý do này, ngôi nhà không có đủ ánh sáng mặt trời bị xem như thừa năng lượng âm. Và như vậy, nó rơi vào tình trạng có qua nhiều năng lượng kém may mắn. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do cây cối um tùm che khuất ánh sáng mặt trời. Cây trồng xung quanh nhà nên được tỉa cành thường xuyên để ánh sáng mặt trời có thể rọi qua. Có nhiều phương pháp sử dụng năng lượng dương quý báu của mặt trời để tăng cường toàn bộ điều kiện phong thủy cho ngôi nhà. Cụ thể như :
– Bạn có thể dùng nước được cung cấp năng lượng dương để bổ sung cho nước dùng tưới cây, nước trong ao, bể cá và nước đổ bình bông. Đặt một chậu nước trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời ít nhất trong ba giờ. Nắng ban mai là tốt nhất. Nên nhớ rằng nước được cung cấp năng lượng mặt trời thì đầy sức sống.
– Bạn có thể treo pha lê dọc theo cửa sổ để trực tiếp đón ánh mặt trời rọi qua các bức tường. Pha lê sẽ làm tan sắc ánh nắng và tạo nên nhiều cầu vồng rực rỡ trong nhà. Điều này sẽ khiến ngôi nhà bạn tràn ngập năng lượng dương quý báu tạo nên sự hòa thuận và không khí vui tươi trong nhà.
– Bạn cũng có thể làm tươi mới năng lượng của ánh nắng trong ngôi nhà bằng cách mở tất cả cửa ra vào, cửa sổ, màn cửa để ánh nắng tràn vào ngôi nhà. Điều này sẽ làm sạch tất cả năng lượng âm tù đọng tích lũy bấy lâu. Hãy làm điều này mỗi tháng một lần.
Chùa Phổ Nghiêm chọn thế đất đứng chân cho mình với phía sau là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa rồi hòa vào thiên nhiên xứ Nghệ
Chùa Phổ Nghiêm chọn thế đất đứng chân cho mình với phía sau là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa rồi hòa vào thiên nhiên nơi đây. Chùa Phổ Nghiêm có tên khác là Hoàng Lao hay Trung Kiên. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông.
Đây là một ngôi chùa nhỏ ở xứ Nghệ nhưng kiến trúc chùa lại chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử văn hóa cố đô Huế. Chùa tọa lạc ở làng Trung Kiên, xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chùa đã được Bộ VH – TT công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Chùa được dựng vào cuối thế kỷ XVII (1690). Chùa Phổ Nghiêm có lịch sử hình thành không lâu đời như chùa Đại Huệ, Cần Linh hày chùa Bà Bụt… nhưng chùa có một nét khác biệt rất tiêu biểu và độc đáo.
Chùa được xây dựng trên núi cao. Phía sau chùa là một sườn đồi kéo dài hai bên trái và phải của ngôi chùa. Phía trước tuy không có núi án ngữ nhưng chùa đã dựng một bức bình phong, xa xa là những cánh đồng của nhân dân trong làng.
Chùa Phổ Nghiêm được xây dựng có kết cấu kiến trúc của nhà 3 gian. Chùa gồm hai khu vực là chính điện (khu vực chính) dùng làm nơi thờ tự và một khu vực nhỏ hơn dùng làm nơi sinh hoạt và nghỉ ngơi của chư tăng. Chùa cũng có hình tiết diện vuông. Chính điện được xây theo dạng “Trùng thiềm điệp ốc”, các mái chồng lên nhau, nhà nối liền nhà. Đây là nét đặc trưng của kiến trúc Huế có ở chùa Phổ Nghiêm.
Xung quanh ngôi chùa có tường cao bao bọc, cổng đi vào chỉ có một cửa nhưng nếu quan sát ở cửa ra vào khu chính điện ta sẽ bắt gặp ngay phía trên nóc mái có những mái nhỏ có độ cong nhẹ nhấp nhô những cập lưỡng long tranh châu. Đó chính là mô thức của Tam quan.
Đặc biệt, ở chánh điện đã từ lâu có một phiến đá cao 107cm, có hình dáng giống một vị sư, dân gian quen gọi là tượng sư đá. Chùa còn bảo tồn một số tượng, bia cổ, giếng cổ.
Nghệ An là nơi có thiên nhiên khắc nghiệt nên phong cách người xứ Nghệ cũng mang theo sự khắc khổ trong sinh hoạt, thiết thực trong yêu cầu ăn ở, thận trọng trong xử thế, dè dặt trong quy mô xây dựng. Cuộc sống luôn gắn bó thân tộc, gần gũi tập quán. Tất cả đều có ảnh hưởng đến quan điểm hình thành nên phong cách kiến trúc của vùng là đơn giản không cầu kỳ, mộc mạc nhưng tinh tế, khiêm tốn giản dị nhưng kiêu hãnh. Đó là những gì mà thông qua chùa Phổ Nghiêm ta có thể bắt gặp tính cách con người xứ Nghệ trong đó.
Toàn cảnh ngôi chùa
Nhiều ngôi chùa mới khang trang bề thế được xây dựng lên những hình ảnh về những ngôi chùa cổ luôn tạo cho ta cảm giác bùi ngùi về quá khứ. Mỗi vùng, mỗi địa phương nên cố gắng giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống từ những ngôi chùa đừng để chúng rơi vào quên lãng.
Kiêng kị khi thiết kế cửa phòng Phòng ngủ cần nhất sự yên tĩnh, thoáng sạch vì có liên quan đến sụ lưu thông nguồn năng lượng tích cực trong phòng, nên việc bố trí không hợp lý sẽ ảnh hưởng tới vận may của mọi người trong gia đình. Vì vậy, cần tránh
Phòng ngủ cần nhất sự yên tĩnh, thoáng sạch vì có liên quan đến sụ lưu thông nguồn năng lượng tích cực trong phòng, nên việc bố trí không hợp lý sẽ ảnh hưởng tới vận may của mọi người trong gia đình. Vì vậy, cần tránh 4 điều kiêng kị dưói đây khi bố trí cửa phòng ngủ để có lợi cho sức khỏe, vận thế.
– Cửa phòng ngủ đối diện cửa lớn
Yêu cầu đầu tiên của phòng ngủ là phải yên tĩnh, kín đáo. Cửa lớn (cửa ra vào nhà) là nơi mọi người trong nhà, bạn bè, khách khứa muốn vào nhà đều phải đi qua, nên sẽ rất ồn ào. Cho nên, nếu cửa phòng ngủ đối diện cửa ra vào sẽ không thể đảm bảo được sự yên tĩnh, kín đáo riêng tư.
– Cửa phòng ngủ đối diện cửa bếp
Cửa phòng ngủ không được đối diện cửa bếp, vì phòng bếp là nơi dùng để nấu nướng, nếu cửa bếp đối diện với cửa phòng ngủ thì khói bếp, mùi dầu mỡ sẽ lao vào phòng ngủ, gây khó chịu, ảnh hưởng đến sức khỏe. Phòng bếp cũng không nên xây ngay cạnh phòng ngủ. Đặc biệt, kiêng kị kê giường ngủ sát với bức tường có đặt bếp nấu ăn.
– Cửa phòng ngủ đối diện cửa nhà vệ sinh
Nhà vệ sinh là nơi ô uế, hôi hám, “khó ưa” nhất trong nhà. Khi thứ mùi này bay thẳng vào phòng ngủ, dễ gây bệnh tật và ảnh hưởng trực tiếp đến vận khí của chủ nhân căn phòng đó.
Nếu không thể thay đổi vị trí cửa phòng thì phải đóng kín cửa nhà vệ sinh; khi ngủ cũng phải đóng cửa phòng; có thể đặt một tấm gương lồi bên ngoài nhà vệ sinh để nguồn năng lượng tích cực không bị hút vào đó.
– Cửa phòng ngủ đối diện cửa nhà kho
Nhà kho là chỗ “yên vị” của tất cả những thứ đồ đạc linh tinh không hay dùng đến của gia đình, lại ít được dọn dẹp sạch sẽ, rất mất vệ sinh, nhiều bụi bẩn, còn có cả gián, mối… Không khí ẩm thấp, thuộc yếu tố âm này sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Cửa nhà kho đối diện với cửa phòng ngủ càng gâỵ hại cho sức khỏe con người. Vì thế, không nên bố trí cửa nhà kho đối diện cửa phòng ngủ. Nên đóng kín cửa nhà kho và chú ý quét dọn, làm vệ sinh sạch sẽ.
Không nên thiết kế phòng ngủ hình tròn
Với một số căn nhà, vì lý do nào đó nên có thiết kế phòng ngủ hình tròn. Đi kèm vói đó, chủ nhà cũng sử dụng giường ngủ theo hình này với suy nghĩ đồng bộ nội thất. Tuy nhiên, các chuyên gia phong thủy cho hay, giường ngủ hình tròn sẽ không mang lại giấc ngủ ngon.
Phòng ngủ là không gian nghỉ ngơi mang tính tĩnh. Hình dạng căn phòng cũng như việc thiết kế nội thất phải hợp với tính chất và công năng sử dụng của nó. Phòng ngủ hoặc giường ngủ hình tròn sẽ rất khó ngủ vì hai lý do chính:
Thứ nhất, hình tròn mang tính Kim, tính chất là động, không thích hợp với phòng ngủ cần sự yên tĩnh, ổn định. Thứ hai, giường ngủ hình tròn sẽ rất chơi vơi, không có chỗ tựa vững chãi tạo cảm giác trằn trọc khi ngủ. Vì thế, trong trường hợp này, tốt nhất nên chỉnh sửa phòng vuông vức và thay bằng những chiếc giường hình chữ nhật.
Ngoài vị trí đặt phòng thì yếu tố hình dáng cũng ảnh hưởng đến các loại khí trong căn nhà. Hình dáng phòng ngủ tốt nhất là hình vuông hay hình chữ nhật – 2 hình tiêu biểu cho hành Thổ, tượng trưng cho tính ổn định bền vững.
Nên chọn phòng hình vuông để cách ly được các khí xấu. Phòng hình tròn, tam giác, hình thang hay hình nhiều góc nhọn không tạo được sự cân bằng về khí, bất lợi cho giấc ngủ và sức khỏe. Mặt khác, nếu mạch khí không được cân bằng, trong vòng một năm các sao xấu sẽ thâm nhập vào nhà, không tốt cho gia chủ.
Sau đây là một số hình dáng khác không nên thiết kế cho phòng ngủ:
– Phòng hình chữ T nhiều sát khí sinh ra từ các góc nhọn. – Phòng ngủ hình chữ L: mất cân bằng khí. – Phòng hình oval. – Phòng hình quả tạ. – Phòng hình thang: mạch khí không cân bằng. – Phòng có hình dáng bất thường.
Mỗi một nguyên tố của ngũ hành không tồn tại độc lập mà là nương tựa vào nhau và kiềm chế lẫn nhau. Đây chính là đạo lý tương sinh tương khắc ngũ hành, thứ tự tương sinh của nó là: hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh ho
Thứ tự tương khắc là: hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả. Khi chọn ở nhà tầng nên chú ý: ngũ hành của nhà có tác dụng tương sinh và tương trợ cho ngũ hành của mệnh người ở trong nhà là cát. Ngược lại, có tác dụng tương khắc thì là xung. Nếu như ngũ hành con số tầng nhà tương sinh và tương trợ cho mệnh của chủ nhà là cát, ngược lại là xung. Mà ngũ hành của mênh chủ khắc với ngũ hành của số tầng nhà là trung hoà.
Có thầy phong thủy cho rằng, bạn có thể căn cứ vào năm sinh của mình để xác định tầng số của nhà, nguyên tắc cụ thể như sau:
Phàm là những người sinh vào các năm thuộc lợn và chuột bao gồm 1923, 1924, 1935, 1936, 1947, 1948, 1959, 1960, 1971, 1972, 1983, 1984, 1995, 1996, 2007, 2008 chọn ở nhà tầng 1, 4, 6, 9 là khá thích hợp, bao gồm các tầng 11, 14, 16, 19, 21, 24, 26, 29 v.v… trên cơ sở này suy ra các số phù hợp khác.
Những người sinh vào các năm thuộc trâu, rồng, dê, chó, bao gồm 1925, 1928, 1931, 1934, 1937, 1940, 1943, 1946, 1949, 1952, 1955, 1958, 1961, 1964, 2067, 2070, 1973, 1976, 1979, 1982, 1985, 1988, 1991, 1994, 1997, 2000, 2003, 2006 chọn ở nhà tầng 2, 5, 7, 10 là khá thích hợp.
Những người sinh vào các năm thuộc hổ và mèo, bao gồm 1926, 1927, 1938, 1939, 1950, 1951, 1962, 1963, 1974, 1975, 1986, 1987, 1998, 1999 chọn ở nhà tầng 1, 3, 6, 8 là khá thích hợp.
Những người sinh vào các năm thuộc rắn và ngựa, bao gồm 1929, 1930, 1941, 1942, 1953, 1954, 1965, 1966, 1977, 1978, 1989, 1990, 2001, 2002 chọn ở nhà tầng 2, 3, 7, 8 là khá thích hợp;
Nhừng người sinh vào các năm thuộc khỉ và gà, bao gồm 1920, 1921, 1932, 1933, 1944, 1945, 1956, 1957, 1968, 1969, 1980, 1981, 1992,1993, 2004, 2005 chọn ở nhà tầng 4, 5, 9, 10 là khá thích hợp;
Nhưng nếu người trong cùng một nhà nhưng có tướng mệnh khác nhau thì nên lấy chủ hộ hoặc người nắm tay hòm chìa khoá làm chính.
Dâng hương lễ Phật là một trong những nghi thức quan trọng của nhà Phật, nhưng vì hiểu sai, dẫn tới hành động không đúng nên nhiều người phải chịu quả báo.
Dâng hương lễ Phật là một trong những nghi thức quan trọng của nhà Phật, nhưng vì hiểu sai nghi thức phong thủy, ngũ hành, dẫn tới hành động không đúng nên nhiều người phải chịu quả báo.
Hiện nay, có những người tự xưng là Phật tử, tín Phật, theo Phật, một ngày vài lần tới chùa miếu dâng hương lễ Phật để thể hiện lòng thành và cầu xin nguyện vọng. Và tin chắc rằng, sự cầu khẩn tha thiết của mình sẽ được Đức Phật chứng cho mà trở thành sự thật. Rồi khi không được như mong đợi thì trong lòng oán thán, hoài nghi, giận dữ.Hãy tự hỏi mình vì sao lại tin Phật? vì sao dù tin Phật mà vẫn không đạt thành tâm nguyện, không giàu có, hạnh phúc? Vì sao những người ít chùa chiền, lễ lạt hơn mình lại có cuộc sống sung túc hơn, vui vẻ hơn? Phải chăng, tất cả đều do Đức Phật?Vì sao đi chùa phải dâng hương để lễ Phật? Đi chùa chúng ta thường dâng hương lễ Phật, nhưng chỉ làm theo thói quen mà ít người biết ý nghĩa thực sự của việc này. Ấy là bởi vì tín Phật nhưng không hiểu Phật, lễ Phật nhưng không thành tâm với Phật. Dâng hương là để tưởng nhớ tới công đức của Phật và thành tâm học tập Phật pháp, noi theo gương tốt, điều hay của Phật chứ không phải là để cầu mong, xin xỏ. Thuyết nhân quả là nguyên lý cơ bản nhất của Phật giáo, gieo nhân lành thì dù ít lễ bái cũng gặt quả tốt, gieo nhân ác dù mâm cao cỗ đầy cũng vẫn chỉ nhận được những điều không hay.Không những không biết đường hướng ấy mà hành động cho phải đạo, khi không được như ý lại sinh tâm oán thán thì sao xứng là Phật tử? Như vậy, không những chẳng được chút công quả nào mà còn gánh thêm quả báo. Dâng hương lễ Phật như vậy chi bằng đừng lui tới cửa chùa.
Phật giáo không giúp con người ta giàu có lên về vật chất, nhưng lại mang tới sự giàu có về tinh thần, không thể không làm mà vẫn hưởng nhưng tin Phật thì hạnh phúc và tĩnh tâm hơn. Hiểu điều đó mới là hiểu Phật, tín điều đó mới là tín Phật. Việc giàu hay nghèo, sướng hay khổ đều là dựa vào sự nỗ lực, cố gắng của bản thân cùng những phúc báo mà người đó tích lũy từ trước, cầu cũng không được. Nếu chỉ vì muốn sướng lên trong nháy mắt mà tìm đến cửa Phật, thì hẳn là đã phí hương đèn.Tâm Lan Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thùy Dung (##)