Mũi sưng với giấc mơ về dòng suối cạn –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Những ngôi nhà có một bên thiếu 2/3 góc bên trong phần lõm vào càng lớn thì vận khí càng kém. Để khắc phục chúng ta hãy xây bổ sung thêm vào góc thiếu thì vận khí tốt sẽ hồi phục lại.
Ngôi nhà hình thành góc thiếu có thể do một số nguyên nhân như: ngoại cảnh tác động, cửa chính co về phía sau nên tự nhiên hình thành nên góc thiếu, do mua lại nhà của chủ trước mà miếng đất bị hạn chế…
Bạn có thể tham khảo các cách sửa chữa dưới đây:
– Nếu cửa chính co về phía sau, một mặt có thể giữ lại lối đi, một mặt có thể bịt lấp nó lại, xây thành một bức tường, nếu như cần ánh sáng có thể dùng lưới thép cuộn lại nhưng phần dưới của lưới thép phải có đế.
– Có thể dựa theo phương vị của góc thiếu để quyết định phương pháp sửa chữa tu bổ:
+ Góc thiếu ở hướng Đông Bắc và Tây Nam thì cắt bỏ vách tường xây thành góc vuông, xây thêm phòng ở hoặc kho chứa đồ để dùng.
+ Góc thiếu ở hướng Đông thì có thể xây thêm một ngôi nhà có ánh nắng mặt trời chiếu vào hoặc xây thêm một căn phòng khác cách nhà lm. Lưu ý: Gian nhà mới xây phải cùng với kích cỡ của góc thiếu thậm chí phải lớn hơn kích cỡ của góc thiếu. Nếu như không thể xây cách gian nhà chính trên lm, thì có thể xây sát cạnh gian nhà chính, trong trường hợp này cũng có thể xây to thêm một chút để có thể đem lại may mắn tốt lành.
+ Góc thiếu ở hướng Đông Nam: Cách xử lí giống với góc thiếu ở hướng Đông, song gian phòng bổ sung phải cách xa phòng chính lm. Kích cỡ của gian phòng mới phải lớn hơn góc thiếu một chút, đồng thời cho lồi ra bên ngoài.
+ Góc thiếu ở hướng Tây: Tốt nhất xây thêm một góc thiếu để bổ sung, sau đó san phẳng nó.
+ Góc thiếu ở hướng Tây Bắc: Xây một toà nhà khác hay ngôi nhà cũ lồi ra đều biểu hiện hướng cát.
– Nếu do mua lại nhà của chủ trước mà miếng đất bị hạn chế thì xây góc thiếu thành hình tam giác, để giảm bớt phần góc thiếu của nó.
Nếu như những cách thức trên không thể thực hiện được, thì đành phải trồng thêm cây côi ở phần góc thiếu, đây là cách làm bất đắc dĩ cuối cùng, hơn nữa hiệu quả đạt được ít, cho nên tốt nhất là chọn cách xây thêm ngôi nhà ở góc thiếu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
=> Xem thêm: Tử vi trọn đời chuẩn xác theo Lịch âm |
► Mời các bạn đọc: Danh ngôn cuộc sống cùng những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Tả Ao hay Tả Ao tiên sinh là thầy phong thủy địa lý cao tay nổi tiếng nhất nhì Việt Nam. Những giai thoại về Tả Ao được lưu truyền rộng rãi cho đến tận ngày nay, trở thành những câu chuyện hết sức li kì.
![]() |
Dạy dỗ kẻ tham lam
Một hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem cho rõ. Các vị chức sắc trong làng biết danh Tả Ao nên khẩn khoản nhờ ông đổi lại hướng đình làng để cả làng phát khoa bảng rầm rầm, nhằm đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay.
Tả Ao nghe xong chỉ cười, sau đó ra trước sân đình đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong cáo biệt đi thẳng. Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
![]() |
1.Kiêng đi dự đám ma
Người xưa quan niệm rằng phụ nữ mang thai có thể sẽ bị nhiễm âm khí khiến cho thai nhi có thể sẽ bị ma ám, dẫn đến việc kém minh mẫn và ốm yếu sau này. Do đó, các bà bầu thường kỵ việc đi tham dự đám ma.
Dưới cái nhìn của các nhà khoa học hiện nay, điều kiêng kỵ này là đúng. Giải thích về việc này, các nhà khoa học cho rằng âm khí chính là dấu hiệu nhiễm khuẩn do thân thể người chết phát tán ra ngay khi họ chết và còn tồn tại vài ngày sau đó. Ngoài ra việc tham dự một đám tang có thể làm ảnh hưởng tới tâm trạng của bà bầu, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của mẹ và bé.
2. Không nên ngồi xổm gội đầu khi bụng to
Theo BS Phạm Thị Thái, việc ngồi xổm có thể ảnh hưởng tới phần tử cung phía dưới của bà bầu. Ngoài ra, bà bầu cần lưu ý đến nhiệt độ nước gội đầu, tắm an toàn, không ảnh hưởng tới thân nhiệt thai nhi là 37 – 40ºC (tương đương với nhiệt độ cơ thể).
3. Không chụp ảnh
Việc kiêng kị chụp ảnh khi mang thai theo quan niệm của dân gian vì cho rằng chụp ảnh đứa trẻ sinh ra sẽ vô duyên là hoàn toàn không có căn cứ. Chưa có bất kì xác minh khoa học nào kết luận việc chụp ảnh có thể gây hại cho mẹ và bé, nhất là khi chụp ảnh thông thường. Đối với việc chụp ảnh siêu âm, các chuyên gia khuyên rằng bà bầu không nên lạm dụng nhiều trừ trường hợp phải theo dõi đặc biệt.
4. Không nên cắt tóc
Các bà các mẹ nói rằng nếu cắt tóc, cuộc đời của đứa trẻ sẽ bị rút ngắn. Thực ra điều kiêng kỵ này có lẽ xuất phát từ một quan niệm xưa cổ: Mái tóc dài thể hiện vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ. Người ta cũng coi mái tóc là biểu hiện của sức khỏe. Cắt tóc khi mang thai là hoàn toàn an toàn.
5. Không thông báo tin vui cho mọi người càng lâu càng tốt
Một điều cấm kỵ khác là không thông báo cho ai biết tin vui của bạn càng lâu càng tốt. Điều này có thể xuất phát từ việc ngày xưa trẻ sơ sinh và thai nhi tử vong khá nhiều. Việc thông báo sớm hay muộn tùy vào quyết định của chính người mẹ. Dù sao bạn cũng không nên loan báo ầm ĩ ngay ngày đầu có thai, nhưng cũng không nên âm thầm giấu diếm cho đến tận khi sinh nở.
![]() |
7. Không được sắm đồ trước tháng thứ 8
Các bà mẹ cho rằng, nếu sắm đồ quá sớm, em bé có thể rời bỏ bạn. Quan niệm này bắt nguồn từ việc ngày nay có rất nhiều trường hợp các bé bị thai lưu, sảy thai. Hiện nay cũng nhiều gia đình có điều kiện, hay sắm đồ sớm cho các bé người ta dựa vào sự trùng hợp này mà quy kết các việc. Tuy nhiên, có thờ có thiêng có kiêng có lành, nhiều phụ huynh vẫn tuân thủ đúng nguyên tắc trên.
8. Không được đến thăm, ngồi ăn cùng mâm với 1 bà bầu khác
Quan niệm này cho rằng, khi mang bầu ngồi cùng mâm với một người khác sẽ làm cho em bé ra sớm hơn dự định, không tốt. Trên thực tế thì điều này cũng không được kiểm chứng.
Chùa Ông có tên gốc tiếng Hán là Quảng Triệu Hội Quán. Đây là một ngôi chùa của người Việt gốc Hoa tại Cần Thơ, và là một di tích lịch sử cấp quốc gia kể từ năm 1993. Chùa nằm tại số 32 đường Hai Bà Trưng, thuộc phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.
Sở dĩ chùa có tên Quảng Triệu Hội Quán vì chùa vốn là hội quán của một nhóm người Hoa thuộc hai phủ Quảng Châu và Triệu Khánh (đều thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) theo dòng di dân sang lưu trú ở đất Trấn Giang (tức Cần Thơ xưa) vào thế kỷ 17-18. Người dân vẫn quen gọi là Chùa Ông, vì ở chính điện thờ Quan Thánh Đế quân – Quan Công.
Chùa được xây dựng vào năm Quang Tự thứ 20 (1894) và cho đến ngày nay diện mạo chùa được giữ khá nguyên vẹn từ hình dáng bên ngoài đến chạm trổ nội điện. Hầu hết vật liệu như cột gỗ, đá làm trụ chân cột, liễn đối, kèo, chuông đồng, lư hương,… đều được đưa từ Quảng Đông sang.
Chùa được trang trí bằng những hình nhân bằng sành sứ tái hiện những điển tích, truyền thuyết Trung Hoa trên bờ nóc và hai bên cổng tam quan. Hai cột đá chính của cổng tam quan được trang trí thêm đôi lân, mái ngói âm dương với các gờ bó ngói ống men xanh thẫm, bờ nóc trang trí những hình lưỡng long chầu nguyệt,… bằng gốm sứ đủ màu.
Kiến trúc chùa được xây dựng theo hình chữ “Quốc” với các dãy nhà khép kín vuông góc với nhau. Ở giữa chùa có một khoảng không gian trống gọi là sân thiên tỉnh (giếng trời). Trong sân đặt hai bộ bát bửu, chậu kiểng, bàn hương án. Bên trong “Tiền Điện” được bố trí theo thứ tự rõ ràng: bên trái thờ Mã Tiền tướng quân và bên phải thờ Phúc Đức Chính Thần và sân thiên tỉnh. Các tượng Quan Công, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Phật Bà Quan Âm được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, nét mặt, dáng điệu đều theo một quy ước.
Chùa có dáng vẻ uy nghiêm nhờ 6 hàng cột gỗ nâng đỡ vòm mái. Bên trên, hệ thống kèo được chạm trổ một cách công phu. Khắp nơi trong chùa trang trí nhiều bức phù điêu hoành tráng, màu sắc rực rỡ với nội dung phong phú được rút ra từ các huyền thoại, lịch sử Trung Quốc: Tam quốc chí, Bát Tiên, Đông Chu Liệt Quốc,… hoặc những đề tài quy ước mai, lan, cúc, trúc, lưỡng long chầu nguyệt, cá hóa tiên, chim phụng,… Đặc biệt, trong chùa có chiếc chuông đồng đúc từ năm 1892.
Lễ hội tiêu biểu nhất của chùa Ông là lễ đấu đèn được tổ chức 10 năm một lần vừa quyên góp tiền giúp các cơ sở từ thiện, xây nghĩa trang, trường học, giúp đỡ trẻ mồ côi trong thành phố. Mọi người đều có thể tham gia để được sở hữu chiếc đèn mình yêu thích. Theo quan niệm của người Hoa, sở hữu chiếc đèn lồng là tượng trưng cho sự may mắn, thành đạt, hạnh phúc.
, đây cũng là nơi thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước viếng thăm.
Tóm tắt:
Trong quyển một, những sự việc hiện tượng trong tự nhiên sẽ được diễn giải bằng ngôn ngữ Chu Dịch. Ngôn ngữ Chu Dịch được sử dụng là 64 thoán từ và 386 hào từ nguyên gốc. Ngôn từ nguyên gốc mang đậm nét cổ, trừu tượng và đầy tính ẩn dụ. Tôn trọng nguyên bản, tôi vẫn sử dụng những ngôn từ này.
Khi diễn giải, bên cạnh ngôn từ nguyên gốc tôi có sử dụng những cụm từ với nghĩa tương đương. Những cụm từ tương đương không thể dùng thay thế ngôn từ nguyên bản. Nó chỉ nhằm mục đích làm cho phần diễn giải dễ đọc và dễ hiểu hơn.
Ngoài những hiện tượng đã được khoa học công nhận, tôi dùng Chu Dịch đề cập đến những vấn đề, những điều mà khoa học ngày nay chưa có lời giải đáp…. Phương thức đề cập tuy khá lạ so với tri thức khoa học chính thống, nhưng với các bạn đọc đã từng học qua hoặc có nghiên cứu Đông Y, tôi nghĩ rằng sẽ dễ dàng tiếp cận phương pháp luận lạ lùng nhưng hoàn toàn hợp lý này.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN CỦA CHU DỊCH
Địa Điểm: Chùa Keo Hành Thiện tọa lạc ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Chùa Keo Hành Thiện có tên chữ là chùa Thần Quang, chùa không sư, nằm cách thành phố Nam Định trên 30 km về phía Đông Nam. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi. Có lẽ, đây là ngôi chùa duy nhất không có sư ở.
Trước kia, chùa nằm trên khu đất được triều nhà Lý cắt đất cho Đức Không Lộ, nên cả làng phải thay nhau cắt cử để trông coi, thờ cúng ngài. Đó là “cái lý” mà người dân thôn Hành Thiện làm công việc nhang khói, trông coi chùa thay sư sãi”.
Tương truyền, Chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng (1061) dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hải Thanh (nay là xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.
Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định). Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, về sau cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).
Ban đầu, chùa được xây dựng tạm trên nền đất của làng. Năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa được tu sửa hoàn chỉnh và có dáng dấp như ngày nay. Trong 400 năm tiếp theo, chùa nhiều lần được tu bổ lớn như vào các năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), Chính Hoà thứ 25 (1704), Thành Thái thứ 7 (1896) và đặc biệt từ năm 1962 chùa Keo đã được nhà nước công nhận là tích lịch sử văn hoá, nên đã được tôn tạo nhiều lần.
Kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng. Không gian chùa là là cả một khu kiến trúc cổ to lớn, bề thế với 13 tòa rộng gồm 121 gian nối tiếp nhau soi bóng xuống mặt hồ lung linh huyền diệu. Hai bên đường kiệu lát gạch, kề liền hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40 gian bề thế.
Gác chuông chùa Keo Hành Thiện là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50. Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở.
Chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo. Sau chùa là đền Thánh thờ Đức Thánh Tổ Đại pháp thiền sư Không Lộ, người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Nhân Tông.
Chùa Keo Hành Thiện là một trong những lễ hội độc đáo ở miền Bắc. Hàng năm, chùa mở hội hai lần. Đó là hội Xuân vào dịp Tết nguyên đán và hội tháng 9 mở vào ngày 13, 14, 15 để kỷ niệm ngày sinh của Thánh tổ Không Lộ. Hội tháng 9 còn là nơi hội tụ của những sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân nông nghiệp. Tổ chức bơi chải từ ngày 10-9 đến hết hội. Chính vì vậy, vào ngày hội, nhân dân không những trong vùng mà cả trong Nam ngoài Bắc đều nô nức kéo về dự.
Trong thời kỳ đô thị hóa nông thôn phát triển nhanh chóng như hiện nay, việc giữ gìn và phát huy được những giá trị văn hóa, những lễ hội truyền thống như lễ hội Chùa Keo ở làng Hành Thiện là điều hết sức quý báu. Cùng với một số lễ hội nổi tiếng ngoài miền Bắc như lễ hội Yên Tử, lễ hội Chùa Bái Đính, lễ hội Chùa Hương,… lễ hội Chùa Keo là lễ hội có quy mô và sức hút lớn đối với du khách thập phương.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Cửa sổ được xem là điểm chung chuyển của các dòng khí. Do đó, số lượng cửa sổ trong nhà không nên quá nhiều. Điều quan trọng là nó đủ để không khí có thể tự do lưu thông từ ngoài vào trong và ngược lại.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Hãy cẩn thận với loại cửa sổ pano 2 lớp cố định chỉ mở được 1 ô nhỏ bên trên. Loại cửa sổ này có thể gây nguy hiểm đến tính mạng khi xảy ra hỏa hoạn. Chúng thường được gắn bằng kính dày, chịu được lực mạnh nên sẽ rất khó khăn để đập vỡ cửa trong trường hợp thoát hiểm khẩn cấp. Tốt nhất là các cửa sổ đều có thể mở hết cả 2 cánh và hướng ra ngoài.
Điểm cao nhất của cửa sổ phải ngang tầm với thành viên cao nhất trong gia đình. Cửa sổ phải đảm bảo cho mọi thành viên đều có thể quan sát được khung cảnh bên ngoài. Nếu ban ngày mành cửa luôn che kín, người ở có nguy cơ trầm cảm.
Bạn có thể đặt chậu cây cảnh hoặc dùng kính màu hay dán đề-can phía bên trong cửa sổ. Bằng cách này, người trong nhà vẫn có thể quan sát phía ngoài dễ dàng.
Nhà quá nhiều cửa sổ sẽ khiến dương khí trong nhà thái quá. Ngược lại thì gia chủ thiếu hụt khí. Cửa sổ ở phòng khách và phòng ngủ quá nhiều, kích thước lớn dễ khiến cha con bất hòa.
Cửa sổ quá gần sàn ở tầng sát mái sẽ tạo cảm giác bất ổn. Do đó, cần đặt trước nó 1 vật vững chắc hoặc cái bàn thấp.
Không nên trổ nhiều cửa sổ trong phòng ăn. Vì phòng ăn đại diện cho sự sung túc của gia đình. Nếu có nhiều cửa sổ, vượng khí khó tụ.
(Theo Cấm kỵ phong thủy trong bài trí nhà ở hiện đại)
![]() |
“1+1=1” bạn có tin không?! Trên đời này chỉ có những người suy nghĩ không thông, chứ không có con đường đi không thông.
Nếu như nói: 1+1=1; 1+2=1; 3+4=1; 5+7=1; 6+18=1
Phản ứng đầu tiên của đại não có thể sẽ là: Không thể nào. Xin hãy đọc tiếp.
Nếu như thêm đơn vị danh xưng thích hợp bên trong những chữ số này, kết quả của nó có thể kiến lập được rồi!
1 nửa quả táo + 1 nửa quả táo = 1 quả táo
1 tháng + 2 tháng = 1 mùa
3 ngày + 4 ngày = 1 tuần
5 tháng + 7 tháng = 1 năm
6 giờ + 18 giờ = 1 ngày
Bây giờ xem ra, tư tưởng của bạn bỗng được đả thông mà cải biến có phải không?
Trên con đường của cuộc đời, lựa chọn lớn hơn so với nỗ lực, bố cục quyết định kết cục, tâm thái quyết định tất cả!
Có lẽ thay đổi tư duy một cái, bạn có thể nhìn thấy được nhiều hơn, tất cả đều sẽ không giống nhau!
1 + 1 = 1; 1 + 2 = 1; 3 + 4 = 1; 5 + 7 = 1; 6 +18 = 1
Khi nhìn thấy những phép toán này, mọi người thường quen dùng kiến thức toán học mình biết để suy luận, theo đó chúng thật sự không thể xảy ra.
Giải đáp của tác giả tin chắc rằng mọi người có thể đã hiểu được, chỉ cần thêm một đơn vị vào phía sau mỗi con số, thế thì câu hỏi và đáp án như vậy trở thành vô cùng hợp lý.
Đọc nhiều giúp tri thức của chúng ta phong phú hơn, nhưng sau khi học tập mà không thông, những kiến thức học được vốn sẽ trợ giúp chúng ta tìm được đáp án, lại biến thành lực cản cản trở chúng ta suy nghĩ tìm ra đáp án.
Chỉ có hiểu được biến thông, mới có thể sáng tạo nên cái mới, biến rất nhiều điều không thể thành có thể. Rất hợp lý phải không nào! Lúc vừa bắt đầu chính tôi cũng rất khó tin
Tư tưởng thay đổi một cái thì khác biệt thật to lớn! Cũng giống như cuộc đời của người ta vậy……
I - Học thuyết Âm Dương
Khái niệm Âm và Dương như mọi người hiểu đơn giản là hai trạng thái luôn đối lập nhau như có bên phải thì phải có bên trái, tốt với xấu, trắng với đen, giống đực với giống cái, cứng với mềm...
Họ đã xác định âm và dương cho các can và chi như sau:
Các thiên can có dấu dương là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.
Các địa chi ............................Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
Các thiên can có dấu âm là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.
Các địa chi .................... Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi.
Còn hiểu theo sách mệnh học cổ truyền của Phương Đông thì sự hình thành, biến hóa và phát triển của vạn vật đều do sự vận động của hai khí Âm và Dương. Vì mặc dù Âm và Dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng chúng lại có sự thống nhất với nhau. Chính sự thống nhất này sau đó mới có thể có sự biến hóa để thành vạn vật. Như âm đến cùng cực thì sinh dương, dương đến cùng cực thì sinh âm....
(Ðể hiểu rõ hơn về Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành xin độc giả xem phần III của Phụ Lục – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương).
Ví dụ : Trong thực tế có thể coi năng lượng và khối lượng là hai trạng thái âm và dương của vật chất (tương tự như nước dưới sự tác động của nhiệt độ nó ở 3 trạng thái là rắn, lỏng và hơi, trong đó trạng thái rắn và lỏng được xem là 1 trạng thái) mà ngày nay các nhà vật lý đã biến được khối lượng thành năng lượng và trong thời gian tới nhờ cỗ máy LHC ở Thụy Sĩ các nhà vật lý sẽ thành công trong việc biến năng lượng thành khối lượng theo đúng phương trình mà năng lượng và khối lượng chuyển hóa cho nhau của nhà bác học thiên tài Albert Einstein:
E = mc² ( trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng).
Chính có phương trình nổi tiếng này mà câu đầu tiên của Kinh Thánh “ Ban đầu Đức Chúa Trời đã (dùng sức mạnh vô biên của mình) dựng nên trời đất (vũ trụ trong đó có trái đất) “ (Sáng - thế Ký 1 : 1) đã đúng trên quan điểm khoa học. Vậy đã có cuốn sách nào cổ hơn cuốn Kinh Thánh nói đến sự hình thành vũ trụ và trái đất của chúng ta từ năng lượng như vậy.
II - Học thuyết Ngũ Hành
1 – Ngũ hành
Chúng ta thấy hầu như mọi hiện tượng đã và đang diễn ra xung quanh chúng ta đều tuân theo một quy luật của vòng tròn khép kín.
Ví dụ : Con người cũng như loài động vật cùng với loài thực vật tạo thành một quy trình khép kín như : Cây cung cấp ô xy, hoa quả rau xanh, củ, hạt …cho người và động vật , còn người và động vật cung cấp CO 2, phân…..cho loài thực vật. Ngay cả sự sống và cái chết của mọi sinh vật cũng tuân theo quy luật của vòng tròn khép kín này.
Ví dụ : Con người được đầu thai sau đó được sinh ra lớn lên, trưởng thành, già rồi chết, sau đó xác chết bị phân hủy thành các thành phần của đất nuôi cho cây phát triển. Một phần thực vật này được con người ăn tạo thành các thai nhi và các thai nhi này lại phát triển .…..
Để diễn tả các quy luật này cũng như mọi quy luật trong vũ trụ Họ đã đưa ra 5 hành, tức là 5 loại nguyên tố (vật chất) cơ bản đã cấu tạo nên mọi vật có trong trái đất và vũ trụ như sau :
1 - Kim đặc trưng cho kim loại.
2 - Thủy đặc trưng cho nước.
3 - Mộc đặc trưng cho loài thực vật.
4 - Hỏa đặc trưng cho lửa.
5 - Thổ đặc trưng cho đất .
2 – Tính chất tương sinh của ngũ hành
a - Tính chất tương sinh .
Theo sách cổ thì Kim sinh cho Thủy, Thủy sinh cho Mộc, Mộc sinh cho
Hỏa, Hỏa sinh cho Thổ, Thổ sinh cho Kim rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim sinh cho Thủy,......... . Ở đây chỉ có Kim sinh Thủy là có vẻ vô lý (bởi vì chúng ta đang sống trong môi trường nhiệt độ thấp nên không thấy khi Kim ở nhiệt độ cao cũng sẽ chẩy thành nước - chất lỏng (một dạng của nước, phải thừa nhận)).
Sơ đồ tương sinh của ngũ hành :
b – Tính chất phản sinh :
Như Kim sinh ra Thủy, nó nghĩa là Kim loại bị nung nóng sẽ chẩy thành nước, nhưng nước nhiều thì Kim không những không sinh được cho Thủy mà còn bị chìm xuống, vì vậy nó được gọi là phản sinh (phải thừa nhận).
Thủy sinh Mộc, nó nghĩa là không có nước thực vật làm sao mà sống để lớn lên được, nhưng nước nhiều quá cây bị úng lụt mà chết cũng gọi là phản sinh.
Mộc sinh Hỏa, nó nghĩa là gỗ làm cho lửa cháy to hơn, nhưng hỏa mạnh quá sẽ làm cho Mộc ra tro, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh.
Hỏa sinh Thổ, nó nghĩa là Hỏa cháy thành tro tàn là Thổ đất, nhưng Thổ nhiều sẽ làm cho Hỏa tắt; vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh.
Thổ sinh Kim, nó nghĩa là quặng trong đất khi bị nung sẽ chẩy ra kim loại, nhưng nếu có Kim quá nhiều thì Thổ bị đè ép không thể sinh cho Kim được, vì vậy nó cũng được gọi là phản sinh (phải thừa nhận).
3 – Tính chất tương khắc của ngũ hành
a – Tính chất tương khắc :
Như Kim khắc được Mộc, Mộc khắc được Thổ, Thổ khắc được Thủy, Thủy
khắc được Hỏa, Hỏa khắc được Kim, rồi lại nặp lại vòng tuần hoàn Kim khắc
Mộc,.....
Sơ đồ tương khắc của ngũ hành
Qua sơ đồ ta thấy tính chất tương khắc của ngũ hành là cách 1 ngôi so với tính chất tương sinh .
b – Tính chất phản khắc :
Như Kim khắc Mộc, kiếm, dao chặt đứt được cây, nếu kim loại mềm yếu mà cây cứng như Lim, Sến …thì dao, kiếm sẽ bị mẻ, gẫy tức là bị phản khắc.
Mộc khắc Thổ (Thổ là đất), cây mọc lên tất đất sẽ bị bạc mầu, nhưng đất cứng quá cây không đâm được rễ xuống đất tất dễ chết cũng gọi là phản khắc.
Thổ khắc Thủy, đất có thể đắp thành đê, đập để trặn được nước, nhưng nước nhiều quá đất sẽ bị trôi dạt (vỡ đê), tức là bị phản khắc.
Thủy khắc Hỏa, nước có thể dập tắt được lửa, nhưng lửa quá mạnh mà nước thì ít tất sẽ bị bốc hơi, cũng là bị phản khắc.
Hỏa khắc Kim, hỏa làm cho sắt nóng chẩy, nhưng sắt nhiều quá mà lửa nhỏ tất dễ bị tắt, cũng gọi là phản khắc.
III - Đại diện của ngũ hành và can chi
1 – Ngũ hành đại diện cho các mùa
a - Mộc đại diện cho mùa Xuân
b - Hỏa đại diện cho mùa Hạ
c – Kim đại diện cho mùa Thu
d - Thủy đại diện cho mùa Đông
2 – Can chi đại diện cho các hành
Giáp, Ât, Dần, Mão đại diện cho hành Mộc
Bính, Đinh, Tị, Ngọ đại diện cho hành Hỏa
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đại diện cho hành Thổ
Canh, Tân, Thân, Dậu đại diện cho hành Kim
Nhâm, Quý, Hợi, Tý đại diện cho hành Thủy
3 – Can chi đại diện cho mầu sắc
Giáp , Ât , Dần và Mão là Mộc đại diện cho mầu xanh.
Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho mầu đỏ.
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho mầu vàng.
Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho mầu trắng.
Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho mầu đen
4 – Can chi đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người
Giáp, Ât, Dần, Mão (Mộc) đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người là gan, mật, thần kinh, đầu, vai, tay, ngón tay …….
Bính, Đinh, Tị, Ngọ (Hỏa) đại diện cho các bộ phận tim, máu, ruột non, trán, răng, lưỡi, mặt, yết hầu, mắt ……
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (Thổ) đại diện cho dạ dầy, lá lách, ruột già, gan, bụng, ngực, tỳ vị, sườn ……
Canh, Tân, Thân, Dậu (Kim) đại diện cho phổi, máu, ruột già, gân, bắp, ngực, khí quản ……...
Nhâm, Quý, Hợi, Tý (Thủy) đại diện cho thận, bàng quang, đầu, bắp chân, bàn chân, tiểu liệu, âm hộ, tử cung, hệ thống tiêu hóa, ……..
5 - Can chi và ngũ hành đại diện cho các phương.
Sơ đồ của các can, chi và ngũ hành đại diện cho các phương như sau:
Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho phương Đông.
Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho phương Nam.
Mậu và Kỷ không ở phương nào cả mà đại diện cho trung tâm.
Thìn đại diện cho phương Đông Nam.
Tuất đại diện cho phương Tây Bắc.
Sửu đại diện cho phương Đông Bắc.
Mùi đại diện cho phương Tây Nam.
Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho phương Tây.
Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho phương Bắc.
6 – Can chi đại diện cho nghề nghiệp
Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho các nghề sơn lâm, chế biến gỗ, giấy, sách báo, làm vườn, trồng cây cảnh, phục trang, dệt, đóng thuyền ……
Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho các nghề thuốc súng, nhiệt năng, quang học, đèn chiếu sáng, xăng dầu, cao su (xăm lốp ,dây đai ,nhựa cây), các sản phẩm đồ điện, vật tư hóa học, luyện kim, nhựa đường …..
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho các nghề chăn nuôi , nông nghệp, khai khẩn đồi núi, giao dịch về đất đai, buôn bán địa ốc, phân bón, thức ăn gia súc, khoáng vật, đất đá, gạch ngói, xi măng, đồ gốm, đồ cổ, xây dựng, …..
Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho các nghề vàng bạc, châu báu, khoáng sản, kim loại, máy móc, thiết bị nghiên cứu hóa học, thủy tinh, các công cụ giao thông …… .
Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho các nghề nước giải khát, hoa quả, đồ trang sức mỹ nghệ, hóa phẩm mỹ dụng, giao thông vận tải, vận chuyển hàng hóa, chăn nuôi thủy sản, mậu dịch, du lịch, khách sạn, buôn bán ,….
Người Trung Quốc từ xa xưa đã dùng lịch Can Chi để xác định các mốc thời gian trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó tại thời điểm của mỗi người khi sinh ra được xác định bởi bốn thông tin của lịch Can Chi. Đó chính là bốn tổ hợp can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh mà chúng được gọi là Tứ Trụ hay mệnh của người đó. Ví như một cái nhà được xây dựng lên bởi bốn cái cột, nếu bốn cái cột này đều nhau và vững chắc, nghĩa là các hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ trong tứ trụ là tương đối bằng nhau thì người đó cả cuộc đời thường là thuận lợi, còn nếu bốn cột không điều nhau, tức ngũ hành quá thiên lệch, tất dễ đổ nhà - cuộc đời dễ gặp tai họa.
Cách đây ba bốn nghìn năm con người đã biết sử dụng lý thuyết này để phòng và chữa bệnh. Ví dụ những ai trong mệnh (tứ trụ) mà ngũ hành thiếu Mộc mà lại cần Mộc, thì đầu tiên cần đặt tên mang hành Mộc và nên sống ở về phía Đông so với nơi mình được sinh ra, vì đó là phương Mộc rất vượng (tức là Mộc nhiều). Sau khi trưởng thành cũng nên làm những nghề liên quan đến hành Mộc, thêm nữa nên mặc quần áo mang hành Mộc (xanh). Nếu làm như vậy thì sẽ có một phần Mộc được bổ xung cho tứ trụ. Còn khi bị bệnh do hành Mộc thiếu thì thầy thuốc sẽ căn cứ vào sự thiếu nhiều Mộc hay ít để bốc thuốc mang hành Mộc cho phù hợp với sự thiếu Mộc đó. Được như vậy cuộc đời người đó thường gặp thuận lợi rất nhiều hay dễ khỏi bệnh. Các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
![]() |
Giấc mơ của bà bầu ngầm dự báo giới tính thai nhi |
Chúng được chia thành 4 loại lớn: mơ về động vật, mơ về thực vật hoa quả, mơ về giới tự nhiên, mơ về vàng bạc châu báu và các đồ vật có giá. Mỗi loại giấc mơ đều ngầm dự đoán giới tính của thai nhi.
Theo Giadinhnho
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tết Đoan Ngọ đang đến gần, tháng 5 âm lịch được mệnh danh là tháng “cửu độc”, không cẩn thận sẽ mang họa vào mình. Vậy trước Tết Đoan Ngọ này, 12 con giáp nên đặc biệt chú ý những điều gì để tránh dữ cầu an?
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Hội Vân Lệ
Thời gian: tổ chức vào ngày 25 tháng 11 âm lịch.
Địa điểm: huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng là hoàng tử Lý Nhật Quang và vợ là Quỳnh Nương, có công đánh giặc, âm phù giúp Trần Nhân Tông đánh quân Nguyên.
Nội dung: Hội có lễ dâng hương, tế cúng thánh thành hoàng làng cầu tài lộc, cầu quốc thái dân an.
Chẳng hạn, chưa nói đến Khốc Hư tọa thủ tại Mệnh mà chỉ nói đến Khốc Hư tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng hiểu được công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được một lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm khổ lực hơn những người không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư ở Phu Thê thì việc hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng nhiều hơn là nụ cười. Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ, đến khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc Hư ở Nô Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn và chuyện tình cảm.
Thiên Khốc, Thiên Hư đều thuộc hành Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu, và Mùi. Là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, cho nên người có Khốc Hư thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng rất hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là mẫu người kín đáo và có phần cô đôc tựa như Vũ Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha mẹ, anh em. Khi có gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc không đến nổi trầm trọng. Người Khốc Hư nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính nhiều để rồi thất vọng. Muốn được xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về sau.
Tuy nhiên, nếu trên cương vị một người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu người Khốc Hư thủ Mệnh là một cấp thừa hành tốt vì họ là người có tinh thần trách nhiệm. Giao việc cho họ, chúng ta sẽ thấy họ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận trọng. Và khi đã làm thì làm đến nơi đến chốn.
Nhưng oái oăm thay, với tinh thần làm việc như thế mà ít khi người Khốc Hư đạt được kết qủa một cách dễ dàng ngay từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người Khốc Hư là “Tiền Trở Hậu Thành”. Có nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới thành công. Tuy nhiên đặc tính Tiền Trở Hậu Thành chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà thôi, rồi sau đó sự tác hại sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người Khốc Hư có phần nào giống người Vô Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả một đời người, chỉ được may mắn, hanh thông vào nửa đời sau mà thôi.
Có phải chăng vì vậy mà người Khốc Hư rất có ý chí, luôn luôn có gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt qua khỏi cái tiền vận gian nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi bật của người Khốc Hư là khả năng thuyết phục người khác, có tài hùng biện và rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu Khốc Hư đi chung với Cự Nhật hay Tang Hổ thì đây là những thầy giáo giỏi, những nhà ngoại giao hay chính khách có tài.
Khốc Hư có hai vị trí tốt đẹp là hai cung Tí và Ngọ mà chúng ta quen gọi là Khốc Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu phú. Nếu Mệnh an tại Tí/Ngọ có Khốc Hư đồng cung (ở Tí tốt hơn Ngọ) thì cuộc đời trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
Mộc là: “Khúc trực”. Khúc là cong gập; trực là thẳng, duỗi ra. Chính vì vậy mà Mộc có thể có đặc tính vươn ra và thò ra. Mộc nạp khí của Thủy Thổ, có thể sinh trưởng phát dục, do vậy, lại có thêm đặc tính sinh phát, điều đạt, hướng thượng, tu trưởng, mềm mại, nhân từ, Mộc chủ là Nhân.
Trong tứ trụ, Mộc vượng (vượng là chỉ thịnh vượng, nhưng không nên thái quá, nếu không lại là xấu. Phần sau cũng vậy, sẽ không giải thích thêm. Hai phạm trù bất cập và thái quá sẽ được giải thích rõ ràng ở phần sau) là tượng trưng cho nhân từ, hiền dịu, bác ái, có lòng trắc ẩn, vui vẻ giúp người, khảng khái; có tinh thần cầu tiến, khoáng đạt, đầu óc sáng lạn, hoạt bát, tích cực.
Trong tứ trụ, Mộc thái quá tức là cố chấp, kích động; bất cập thì yếu đuối, đố kỵ, vong ơn phụ nghĩa, lạnh lùng, vô tình.
Mộc chủ cho Nhân ái, tính tình ngay thẳng, hoà hợp, vị chua, màu xanh. Người mà hành Mộc vượng sẽ có dáng dấp phong thái đẹp, xương cốt cao dài, chân tay mềm mại, lưỡi dẻo nói hay, khuôn mặt thanh tú, có lòng trắc ẩn và thương yêu mọi người, có tấm lòng bác ái, cứu giúp người khác, thanh cao khảng khái, chất phác tốt bụng. Những người Mộc hàm thường là những người cao gầy, tóc lưa thưa, tính cách hẹp hòi, đố kỵ, bất nhân. Những người có Mộc khí từ tuyệt mắt và lông mày không ngay, cổ dài, bắp thịt khô khốc, là kẻ hạ nhân thô bỉ.