Xem tướng: Chọn người phụ nữ lý tưởng –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Đại Khê là dòng suối lớn, thác nước tung hoành trong rừng núi khác hẳn Giản Hạ Thủy là lạch nhỏ suối con. Bởi thế Đại Khê Thủy thủy khí lượng lớn, biến hóa đến mức gây sợ hãi, tuy không ngấm ngầm nhưng tâm cơ sâu rộng lan tràn ngập lụt.
Tuy nhiên lại không được xem như sông ngòi. Thác lũ khi gặp lòng sâu, hoặc hang hốc cũng chảy thành dòng, lấp đầy thành vũng. Bởi thế đôi khi bụng dạ hẹp hòi và tư tâm.
Người nạp âm Đại Khê Thủy nếu là một chiến lược gia tất có cái nhìn rộng rãi bao quát. Nếu Mệnh kém mà nạp âm Đại Khê Thủy lại trở nên con người mơ mộng ước vọng, hoài bão to tát mà thiếu khả năng hành động, vô dụng.
Giáp Dần Ất Mão hai chi đều thuộc Mộc, đều vững mạnh trước hung vận, nhưng Ất Mão ý nhị hơn, mềm dẻo hơn vì cả Ất lẫn Mão đều là âm Mộc.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Xem tướng phụ nữ giàu sang, phú qúy và phúc hậu. Nhiều phụ nữ khi mới nhìn qua thấy tướng cách tốt, cứ ngỡ gặp được tình duyên như ý nhưng.
Theo nhân tướng học, tướng ‘quý trung hữu tiện’, tức là trong tướng cách quý có cái tiện làm cho những nét tướng tốt bị giảm thiểu ít nhiều. Nhiều phụ nữ khi mới nhìn thoáng qua thấy tướng cách tốt, cứ ngỡ gặp được tình duyên như ý nhưng thật ra vẫn có thể gặp nhiều lận đận vất vả tình duyên
Những đặc điểm của “quý trung hữu tiện” được các nhà nhân tướng học liệt kê như sau:
– Ngũ quan (tai, mắt, mũi, miệng, chân mày) đều tốt nhưng da dẻ quá khô.
– Trán rộng và bằng phẳng nhưng khi đi hay ngoái cổ lại nhìn đằng sau.
– Mắt đẹp, chân mày dài nhưng tóc mai lại sâu vào má.
– Răng trắng như ngọc mà tiếng nói lại rè rè hoặc nhiều lời.
– Ấn Đường (khoảng cách giữa 2 đầu mày) cao vuông mà tính tình lại lả lơi.
– Dáng ngồi đoan chính nhưng lại có tật ưa cắn móng tay.
– Tiếng nói thanh, vang mà ánh mắt lại đam mê đắm đuối.
– Dung mạo xinh đẹp nhưng da dẻ lại xám ngắt.
– Mũi đầy đặn nhưng Sơn Lâm (2 bên góc trán) có vết phá cách.
– Tinh thần minh mẫn, ánh mắt đoan chính mà mũi lại nhỏ và thấp.
– Ấn Đường (khoảng cách giữa 2 đầu mày) vuông rộng nhưng trán dô và gò má cao.
– Mái tóc mềm mại nhưng môi cong, răng lộ.
– Địa Các (cằm) nở rộng nhưng mắt đục, tiếng nói khàn khàn.
– Tinh thần ổn định, thư thái nhưng chân mày lại quá nhạt.
– Chóp mũi nở rộng, chân mày thanh tú nhưng lỗ tai nhỏ, chân tóc mọc lấn xuống trán
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
![]() |
Ảnh minh họa |
Yêu nhau thì phải “chịu”, mà muốn chịu được thì cần có cái để “đựng”. Chịu rồi mà không có cái đựng, trước sau gì tình yêu ấy cũng biến mất, quan trọng là mỗi người đựng nó như thế nào. Nghe lời Phật dạy về tình yêu để có thể duy trì hạnh phúc lâu bền theo thời gian.
![]() |
![]() |
Không chỉ nhà mua mà nhà thuê cũng phải xem phong thuỷ. Với người thuê nhà, những điều cấm kị dưới đây không thể không biết.
(1) Không tham rẻ
Nhà không có lợi về phong thuỷ: nhà đã có người chết trong đó hoặc kết cấu có vấn đề v.v…
(2) Không ở nhà cũ
Nhà cũ trước đó đã thu nhận oan khí của quá nhiều người, ở lâu trong nhà như vậy dễ ảnh hưởng xấu.
(3) Không xem qua bản vẽ
Nếu thuê nhà ở chỉ xem qua bản vẽ minh hoạ mà không biết thực chất nhà đó ra sao thì không nên.
(4) Nhà có người ốm đau
Nếu trong nhà có người đau ốm, bệnh tật lâu ngày, bệnh trọng thì tốt nhất là nên tránh.
(5) Không gần nơi miếu thần
Trong nhà có đền thờ hoặc nhà ở sát với miếu tự, vì âm khí ở đây quá nặng, đều thuộc nơi âm sát, người bình thường tốt nhất không đến gần, nếu không nhẹ thì vận thế suy lạc, nặng thì mang bệnh vào thân.
(6) Không gần bãi tha ma
Nhà ở tốt nhất không gần bãi tha ma, có điều kiện nên cách xa trên lOO km, nếu nhân khí xung quanh nhà thịnh vượng thì không đến mức phạm sát khí; nếu nhà ở quá gần bãi tha ma, xung quanh vắng vẻ không có hơi người, nên tránh.
(7) Không ở nhà u tối
Nhà quá u tối dễ chiêu tà. Ban ngày mớ cửa sổ ra mà bên trong nhà vẫn tối, nhà như vậy âm khí quá thịnh, dương khí không đủ, người bình thường rất ít ở đó.
(8) Không sinh tà niệm
Người tà niệm chất chứa trong lòng, tâm thần rối loạn, dù có ở trong đền thì tà ma vẫn theo đến, vậy tại sao lại không nên ở trong nhà có lai lịch không rõ ràng? Thông thường, người thuê nhà bên ngoài khi không thoả mãn nhu cầu, hoang mang, sa sút tinh thần rất dễ gặp phiền phức. Vì vậy, giữ cho tinh thần minh mẫn mới tránh được tà, giữ được thân.
(9) Không ở nhà cô độc
Gọi là nhà cô độc ở đây là chỉ một ngôi nhà nào đó chỉ ở một mình, xung quanh không hề có một nhà nào khác. Ở nhà như vậy, người ít âm khí, không có lợi.
(10) Không tựa vào thâm sơn ác thuỷ
Nhà thuê tốt nhất không nên gần nơi núi cao nước sâu, ở những nơi như vậy dễ tụ âm khí, về địa thế, nhà ở như vậy âm khí luôn thắng nhân khí, trừ khi cả nhà cùng ở, nếu là một mình thì không nên
Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy.
Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả.
Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế.
Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.
Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi.
Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy.
Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách.
II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh
1. Nguyên lý của việc cải tạo
Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa.
Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều cực ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì?
Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư?
Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được?
Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy.
Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm thì thật không hợp đạo lý mà chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Số mệnh đã định thì chẳng phải phí công phí sức, dù cầu hay không, tự nhiên rồi sẽ có. Ngược lại số không có, lại không biết phương pháp hướng nội tâm cầu thì dù có trăm phương ngàn kế mưu đồ cũng không được gì cả, chỉ mất công vô ích mà thôi, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất.
2. Phương pháp cải tạo vận mệnh
a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh
Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru!
Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượi nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết.
Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là số mệnh đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói cũng là do quả báo định vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn.
b) Việc triệt để sửa lỗi
Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy.
Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao! Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được.
Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư?
Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu.
Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không?
Hướng kê giường Tuổi Kỷ Mùi 1979
Quẻ mệnh: Chấn Mộc:
– Năm sinh dương lịch: 1979
– Năm sinh âm lịch: Kỷ Mùi
– Quẻ mệnh: Chấn Mộc
– Ngũ hành: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
1. Cha mẹ tuổi Tuất
- Con tuổi Dần, Mão, Tỵ, Thân, Tuất, Hợi: Nhìn chung, gia đình yên ấm, con cái nghe lời cha mẹ, cha mẹ hết lòng yêu thương, nuôi dạy con nên người, quan tâm, chăm sóc cho con từ những chuyện nhỏ nhất.
- Con tuổi Tý, Sửu, Thìn, Ngọ, Dậu: Gia đình khó hòa thuận, con cái thường có xu hướng tự lập, ít quan tâm đến cha mẹ khiến họ phiền lòng. Cha mẹ cũng ít có thời gian hỏi han, chăm sóc cho con cái. Cuộc sống gia đình buồn chán, lặng lẽ.
2. Cha mẹ tuổi Hợi
![]() |
Cha mẹ tuổi Hợi hợp với con cái tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi |
- Con tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi: Gia đình êm ấm, hạnh phúc, sum vầy. Cuộc sống tràn ngập niềm vui và tiếng cười. Cha mẹ yêu thương, chăm sóc con cái; ngược lại, con cái cũng hết lòng vì cha mẹ, luôn mong cha mẹ được an nhàn. Họ trở thành những người con tài giỏi, thông minh và hiếu thuận.
- Con tuổi Tỵ, Ngọ: Con cái hay làm cha mẹ phiền lòng, thường có xu hướng thoát ly sớm để tách khỏi cha mẹ. Tuy hiểu được nỗi niềm của cha mẹ nhưng người con vẫn làm theo ý kiến của riêng mình. Thậm chí cái tôi của con quá cao khiến cha mẹ phải phiền lòng.
(Theo Đời người qua 12 con giáp)
![]() |
Cách nhìn nhận sự việc như vậy cũng giống như việc tạo dựng một cuộc hôn nhân tốt đẹp sẽ tạo ra sự thịnh vượng, sự hòa hợp và sức khỏe ảnh hưởng đến bạn một cách tích cực và hiệu quả. Sau khi đọc bài viết này bạn sẽ hiểu được “Khí” là gì? Và phong thủy và Bát tự mệnh lý,…là phương tiện giúp chúng ta có được nguồn khí tích cực, có lợi cho cuộc sống thuận theo tự nhiên, khoa học, mà không có sự thần bí, tôn giáo, mê tín dị đoan.
Khí theo quan niệm của Trung Quốc và các nước khác.
Cái chúng ta gọi là sức mạnh của tự nhiên là cái mà người Trung Quốc gọi là “Khí”. Khí có nhiều nghĩa. Nó là không khí mà chúng ta thở. Nó là từ trường trái đất, là bức xạ vũ trụ và ánh sáng mặt trời. Khí là linh hồn của chúng ta. Khí là vận may rủi. Như các bạn sẽ thấy, khí làm nền tảng cho vạn vật và còn hơn thế. Mặc dù khái niệm này có thể hơi trù tượng với người phương Tây, nhưng các nền văn hóa phương Đông cho rằng sức mạnh tổng thể này chi phối sức khỏe, của cải và hạnh phúc của chúng ta. Mục đích của phong thủy là làm chủ các mặt tích cực của khí để giúp cuộc sống của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn.
Ngày nay, rõ ràng là sự tồn tại chủa khí không thể được chứng minh đầy đủ về mặt khoa học. Thậm chí một số khía cạnh bí ẩn hơn của khí không bao giờ có thể được chứng minh bằng các phép đo định lượng. Ví dụ, bạn có thể chứng minh sự tồn tại của giác quan thứ sáu không? Bạn có thể chứng minh vận mệnh hay số phận không? Bạn có thể chứng minh được trực giác không? Chắc chắn là không. Tuy nhiên, phần lớn chúng ta đều tin những điều này tồn tại. Nói cách khác, các đặc tính siêu hình hay siêu nhiên của khí bất chấp các phép đo.
Nhưng chúng ta không nên quá vội vàng và bàn luận qua loa quan niệm về một sức mạnh, mà trong một chừng mực nào đó, không đo được này. Cách đây không lâu, Benjamin Franklin đã tìm ra “điện”, vốn được xem là sức mạnh bí ẩn của tự nhiên vào thời điểm đó. Chúng ta đã khai thác năng lượng này để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn rất nhiều. Thế còn việc phát hiện ra tia X, tia phóng xạ và hạt hạ nguyên tử thì sao? Tất cả đã dẫn tới một cuộc cách mạng sâu sắc về cách chúng ta nhìn nhận thế giới.
Bài viết này nói về “Khí”, nền tảng của nhiều phương pháp thực hành của phương Đông như phong thủy, bát tự mệnh lý, đông y, khí công,…. Vì vậy, hãy cởi mỡ đầu óc và thực hiện một cuộc hành trình tìm hiểu về sức mạnh hợp nhất tất cả chúng ta.
Khí là gì?
Đơn giản, khí là tinh túy, linh hồn và phần quan trọng nhất của vạn vật. Đó là năng lượng hợp nhất, bao gồm toàn bộ, lan tỏa và là phần cốt yếu của thiên, địa và nhân. Vừa mang tính vật chất, vừa mang tính siêu hình, khí là nguồn lực cơ bản, tối quan trọng, bồi bổ và đưa cuộc sống đi lên. Khí là trường thông tin kết nối tất cả chúng ta. Mặc dù không có từ tiếng Anh tương đương để dịch, nhưng có lẽ cách hiểu tốt nhất là thế này: khí là “hơi thở của cuộc sống”.
Định nghĩa này có thể khá mơ hồ và thậm chí trừu tượng. Nhưng trên thực tế, khái niệm khí rất giống với trường lượng tử trong vật lý hiện đại. Trong cuốc sách bán chạy nhất của mình là “Đạo của vật lý” (The Tao of Physics), Fritjof Capra đưa ra sự tương quan: “Giống như trường lượng tử, khí được hình dung là một dạng vật chất loãng và không thể nhận biết, tồn tại trong không gian và có thể tụ lại thành các vật thể rắn. Khí không chỉ là phần cốt yếu của mọi vật thể, mà còn chứa sự tương tác giữa các vật thể dưới dạng sóng”.
Định nghĩa một cách đơn giản hơn, khí là chất liệu của vạn vật và là cái ẩn giấu sau vạn vật. Chất liệu đó thổi sức sống cho thực vật, động vật, núi non, sông nước và con người chúng ta. Đó là chất liệu của ước mơ, trực giác, số phận và vận mệnh. Đó là chất liệu cốt lõi của những vật vô hồn như máy bay, nhà cửa và chiếc ghế chúng ta đang ngồi. Đó là thức mà các nhà châm cứu dùng kim châm để kích thích. Đó là chất liệu các võ sư sử dụng để đập vỡ các vật cứng. Và, đó là thứ mà những người thực hành phong thủy khai thác để cải thiện sức khỏe, của cải và các mối quan hệ của con người.
Khái niệm “Khí” của người Trung Quốc lần đầu tiên được ghi lại trong Thập dực (hay Dịch Truyện, chú thích Dịch Kinh, Chu Dịch) thời Chiến quốc (403-221 TCN) và được gộp vào Chu Dịch mà về sau được đổi tên thành Kinh Dịch. Khái niệm khí không chỉ của riêng người Trung Quốc. Các nên văn hóa khác cũng biết đến khái niệm này. Chẳng hạn:
![]() |
Ảnh minh họa |
► ## giải mã những giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Giữa trán | Mắt | Mũi | Môi | Cằm |
Kunie
Vào dịp mùng 1 tết đầu năm mới, theo truyền thống dân tộc thì mọi gia đình đều cúng Tết và là cầu bình an cho năm mới và tiễn biệt năm cũ vừa qua. Thông thường sẽ khấn cúng thần linh trước và cúng tổ tiên sau, hai nghi thức này đều được thực trên trên bàn thờ trong nhà.
Đồ lễ thường là những món ăn trong ngày Tết hoặc xôi trắng và gà trống, hoặc có thể cúng một mâm cỗ gồm một mâm cỗ đầy đủ cơm rau, thêm rượu, trả hương hoa.
Sau khi chuẩn bị xong các đồ lễ thì thực hiện thắp 3 nén hương và đọc bài văn khấn dưới đây:
Na mô A DI Đà Phật
Na mô A DI Đà Phật
Na mô A DI Đà Phật
Kính lạy:
+ Đức Đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
+ Phật Trời, Hoàng thiên Hậu Thổ
+ Chư vị Tôn thần
Hôm nay là ngày mồng 1 tháng Giêng, nhằm ngày Tết Nguyên Đán đầu xuân, giải trừ gió đông lạnh lẽo, hung nghiệt tiêu tan, đón mừng Nguyên Đán xuân thiên, mưa móc thấm nhuần, muôn vật tưng bừng đổi mới. Nơi nơi lễ tiết, chốn chốn tường trình.
Tín chủ con là ………………………………..
Ngụ tại …………………………………………..
Nhân tiết minh niên, sắm sửa hương hoa, cơm canh lễ vật bày ra trước án, dâng cúng Thiên Địa Tôn Thần. Thiết nghĩ Tôn Thần hào khí sáng lòa, ân đức rộng lớn. Ngôi cao vạn trượng uy nghi, vị chính mười phương biến hiện. Lòng thành vừa khởi, Tôn đức cảm thông. Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, hưởng thụ lễ vật. Nguyện cho chúng con mọi người hoan hỉ vinh xương, con cháu cát tường khang kiện. Mong ơn Đương cảnh Thành hoàng, đội đức tôn thần bản xứ. Hộ trì tín chủ, gia lộc gia ân, xá quá từ tai. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Na mô A DI Đà Phật
Na mô A DI Đà Phật
Na mô A DI Đà Phật
Kính lạy:
+ Đức Đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
+ Các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, bá thúc huynh đệ, đường thượng tiên linh và các hương hồn nôi tộc, ngoại tộc.
Nay theo tuế luật, âm dương vận hành tới tuần nguyên đán, mồng Môt đầu xuân, mưa móc thầm nhuần, đón mừng năm mới. Con cháu tượng niệm ân đức tổ tiên, như trời cao biển rộng, khôn đem tấc cỏ báo ba xuân. Do đó, chúng con cùng toàn thể con cháu trong nhà sửa sang lễ vật, oản quả hương hoa kính dâng lên trước án.
Kính mời các cụ Cao Tằng Tổ khải, Cao Tằng Tổ tỷ, Bá thúc huynh đệ, Cô di tỷ muội, nam nữ tử tôn nội, ngoại. Cúi xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng về linh sang, phù hộ độ trì con cháu năm mới an khang, mọi bề thuận lợi, sự nghiệp hanh thông. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết có điềm lành tiếp ứng. Tín chủ lại mời: các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong đất này về hâm hưởng.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo
![]() |
A Khoảng cách lớn |
B Khoảng cách nhỏ |
C Không có khoảng cách |
Mộc Trà (theo Quiz)
Kinh nghiệm cuộc sống cho ta biết, phàm là người có một ít thành đạt trong sự nghiệp đều là những người nghe lời cha mẹ, không quên công ơn dưỡng dục của cha mẹ. Ðó cũng là những người con có hiếu. Còn những người lười biếng, ích kỷ, không coi trọng chữ tín, làm những điều tai ác ngược đạo lý ở đời, ngược với lợi ích của xã hội và nhân dân thì đều là những người không có hiếu.
Hiếu kính cha mẹ là thiên đức làm người, cũng là cơ sở để thành công trong sự nghiệp. Ngày xưa các vua khi tuyển dụng người tài, đầu tiên xem người đó có phải là người con hiếu không. Vì người ta cho rằng, ngay đến cha mẹ là người sinh thành dưỡng dục mình mà mình cũng không có hiếu thì làm sao có thể tận trung với vua được. Cách nói đó rất có lý. Ngày nay không ít người khi kết bạn, tìm người yêu, có những Giám đốc khi tuyển dụng người giúp việc hoặc thư ký cũng đều lấy chữ hiếu làm điều kiện quan trọng. Vì người hiếu kính với cha mẹ phần nhiều trung thành với bạn bè, trung thực trong tình yêu, tận tâm với công việc và với lãnh đạo, tận tình trong chức trách và luôn có tinh thần phấn đấu vươn lên, không gây rối trong tập thể.
Cây có gốc, nước có nguồn. Chương này chuyên bàn về việc dự đoán thông tin có liên quan với cha mẹ, vì thế nhân đây bàn vài lời về ý nghĩa của lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Ðó cũng là điều mỗi người học dự đoán đầu tiên nên làm được và không cho điều đó là thừa.
Dùng Tứ trụ dự đoán học để dự đoán tiền đồ và vận khí của cuộc đời thì đầu tiên phải dự đoán điều cơ bản nhất của Tứ trụ là những thông tin về cha mẹ và những điều đó có liên quan với tổ nghiệp. Do đó đưa mục đoán về cha mẹ đặt lên vị trí hàng đầu.
Sáu hoà phối với lục thân là do Kinh Phòng, nhà Dịch học ứng dụng đời nhà Hán phát minh ra, sau đó nhân dân Trung Quốc trên cơ sở của Chu dịch lại phát minh ra Tứ trụ dự đoán thông tin của con người. Thực tiễn mấy nghìn năm qua chứng minh đưa lục thân trong Bát quái của Chu dịch vào Tứ trụ để dự đoán nhân thể là hòn ngọc quý trong lịch sử dự đoán thông tin của Trung Quốc.
Về cung phụ mẫu trong lục thân. Tứ trụ có 2 cách sắp xếp. Cách thứ nhất là : lấy trụ năm làm cung phụ mẫu; cách thứ hai là lấy trụ tháng làm cung phụ mẫu. Về vấn đề này tôi đã bàn đến trong sách Chu dịch dự đoán học. Ở đây không nhắc lại nữa.
Dự đoán những thông tin về cha mẹ, có người lấy can năm làm cha, có người lấy can tháng làm cha, có người lấy chi năm làm mẹ, cũng có người lấy chi tháng làm mẹ ; lại cũng có người lấy thiên tài là cha, chính ấn là mẹ. Ðể tiện cho việc nghiên cứu và dự đoán thông tin về mặt này thì kết hợp dùng cả 3 phương pháp trên để dự đoán là thích hợp nhất.
Thiên tài là cha, chính ấn là mẹ, trong dự đoán ứng nghiệm rất chuẩn. Vì sao thiên tài là cha, chính ấn là mẹ ? Vì sinh tôi là mẹ. Như người sinh ngày canh, lấy kỉ thổ là chính ấn, lấy giáp mộc làm thiên tài. Giáp là dương, kỉ là âm, giáp kỉ hợp với nhau đúng đạo vợ chồng. Giáp lấy kỉ làm vợ, kỉ lấy giáp làm chồng cho nên lấy thiên tài làm cha, chính ấn làm mẹ. Thiên ấn là mẹ kế hoặc mẹ nuôi, hoặc mẹ đỡ đầu.
DỰ ÐOÁN VỀ CHA MẸ
Trụ năm gặp đất trường sinh đế vượng, không bị xung khắc, lại được lệnh tháng sinh là chủ về cha mẹ tinh nhanh , tháo vát, dung nhan đẹp, người khoẻ trường thọ.
Can năm được lệnh tháng sinh là cha trường thọ, chi năm được lệnh tháng sinh là mẹ trường thọ. Can năm là dụng thần thì cha mẹ song toàn.
Can và chi năm tương sinh cho nhau là cha mẹ hòa thuận ; can sinh cho chi là cha yêu mẹ ; chi sinh cho can là mẹ yêu cha. Can chi ngang hòa nhau là cha mẹ yêu nhau nhưng cũng không tránh đôi lúc cãi vã.
Trụ năm hoặc trụ tháng gặp quý nhân là cha mẹ đẹp và nho nhã, thanh lịch. Trụ năm gặp sao trạch mã là ông cha hoặc cha mẹ đi buôn bán ở bên ngoài. Trụ năm gặp ấn hoặc tư quán học đường là cha mẹ hiền lành, ông bà hoặc cha mẹ theo nghề văn chương, mạch nhà thư thương.
Trụ năm gặp chính ấn hoặc chính ấn gặp thiên đức, nguyệt đức là cha mẹ hiền lành, hay là điều thiện.
Trụ năm gặp thực thần mà không có kiêu thần là cha mẹ người béo và khỏe, tính cách thành thực.
Can năm lâm trường sinh hoặc chính ấn lâm trường sinh là cha mẹ có phúc và thọ.
Trụ năm gặp quan tinh chính ấn thì cha mẹ làm quan cao sang.
Can năm gặp quan tinh, chi năm gặp tướng tinh là cha mẹ phú quý, trung hậu. Trụ năm gặp tài, quan, ấn lại còn gặp sinh vượng là cha mẹ không giàu thì sang.
Chi năm hoặc chính ấn gặp đào hoa là cha mẹ đẹp mà thông minh.
Trụ năm, trụ tháng gặp tài, quan vượng là cha mẹ vinh hiển.
Thiên tài quy lộc là cha cao sang tột bậc. Trụ ngày gặp tài, trụ giờ là kiếp thì đời cha vượng, đời con sa sút.
Trong Tứ trụ thiên tài gặp vượng địa là cha trường thọ.
Ấn gặp trường sinh thì mẹ hiền, trường thọ, nếu phùng sinh thì mẹ thông minh hiền quý.
Phụ mẫu đều vượng lại gặp trường sinh, ở đất quý nhân, lộc mã thì chủ về cha mẹ phú quý lâu dài vinh hiển.
Trụ năm sinh hợp với nhật nguyên thì được cha mẹ yêu. Nhật nguyên sinh trụ năm thì con hiếu kính cha mẹ.
Can năm hoặc chi năm, can tháng hoặc chi tháng là hỉ thần, hoặc dụng thần là được hưởng phúc tổ tiên hoặc được cha mẹ nuông chiều.
Chi ngày sinh cho chi năm là vợ có hiếu với cha mẹ chồng hoặc quan hệ mẹ chồng con dâu tốt.
Trụ ngày yếu nhưng được ấn tinh sinh phù thì được cha mẹ thương yêu.
Chính ấn đóng ở hoa cái là cha mẹ thông minh.
Chính ấn gặp trạch mã thì cha mẹ lập nghiệp ở phương xa.
Ðể giúp những người nghiên cứu dễ nắm vững kỹ thuật dự đoán, dưới đây cử ví dụ để nói rõ dự đoán theo sự việc.
Ví dụ 1. Khôn tạo ( nữ )Khôn tạo này của một người phụ nữ quan chức, vào một ngày tháng 2 năm 1985 đột nhiên đến thăm khu ở của tôi. Tôi rất kinh ngạc, chưa kịp hàn huyên thì bà đã nói : " Ông Thiệu ạ, ở bên ngoài đồn đại rất ghê, nói rằng ông nghiên cứu Tứ trụ tính mệnh rất giỏi có phải không? Ðó là thực hay là hư ?" Tôi tự hào thừa nhận rằng : "Ðúng đấy,họ đồn không sai. Tôi đã nghiên cứu mấy năm rồi và cũng biết được chút ít". Bà ta rất kinh ngạc và liền nói với tôi một cách thăm dò : " Cái đó có phải là phong kiến mê tín không?" Tôi thấy bà ta nghi ngờ đắn đo, liền nói : " Nếu bà không tin thì cứ nói rõ giờ sinh tháng đẻ của bà để tôi thử đoán xem, chắc bà sẽ biết được đó là khoa học hay mê tín".
Sau khi sắp xếp xong Tứ trụ của bà ta, tôi nói : " Tứ trụ của bà quá cứng, khắc cha, khắc mẹ lại còn khắc chồng. Cha bà khắc mẹ bà, khắc rất mạnh, mẹ bà đã mất rất sớm. Cha bà tối thiểu đã kết hôn hai lần. Bà tuy khắc cha nhưng mệnh cha bà vượng, nên khắc không nổi. Bà từ nhỏ lại sống xa cha nên lực khắc yếu. Cha bà hiện nay là người tinh thần sung túc, khoẻ, thọ". Mới nói qua như thế bà ấy đã mở to mắt kinh ngạc. Tôi tiếp tụ đoán những người trong nhà và quá khứ của bà ta. Nghe qua bà ta nói đều đúng. Cha bà năm nay đã 81 tuổi, người rất khoẻ và xin đoán xem còn sống bao lâu nữa. Tôi nói phải đề phòng năm 1991.
Trụ năm ất mộc thiên tài là cha, trong Tứ trụ 3 lần gặp tân kim khắc mạnh ất mộc đó là bằng chứng khắc cha. Nhưng tân kim ở tử địa, ất mộc ở vượng địa lại thông căn với ất mộc trong mão và còn được đất ướt của sửu nuôi dưỡng nên rễ của ất mộc thâm căn cố đế, nên tân kim tuy nhiều nhưng không làm gì được.
Ðại vận đinh hợi xung khắc cương lĩnh của lệnh tháng, trụ năm ất sửu và lưu niên tân mùi ( năm 1991) phạm vào thiên khắc, địa xung là xung khắc thái tuế. Sửu mùi vừa xung nhau thì kim kho đã mở, cả 3 tân vây khắc ất mộc, ất mộc bị khắc mà không có sinh cho nên cha cô ấy tháng 5 năm tân mùi mất, hưởng thọ 87 tuổi.
Ví dụ 2. Khôn tạo (nữ).Tháng 3 năm 1989 cô Phương nhờ tôi đoán cho cha. Tôi căn cứ can năm là giáp mộc gặp lệnh tháng, chi năm là ngọ hỏa trường sinh ở lệnh tháng, trong Tứ trụ có sinh không có khắc nên đoán cha mẹ song toàn, thông minh tháo vát, diện mạo đẹp đẽ mà thọ.
Ðúng là như thế, cha mẹ cô ấy đó đã gần 80 tuổi, cả hai đều khoẻ mạnh.
Ví dụ 3. Càn tạo (nam).
Tháng 4 năm 1989 tôi căn cứ Tứ trụ này nói với Trần Mưu : mẹ anh không những khoẻ mà người rất thanh lịch, nhất định sống lâu. Ðiều đó là căn cứ vào can năm quý thuỷ thiên tài là cha trường sinh ở chung tị lại được lệnh tháng sinh. Lại căn cứ : chính ấn lâm trạch mã cho nên đoán mẹ lập nghiệp ở phương xa là người có tài nghệ. Ông ta thừa nhận đúng, mẹ ông ta là công trình sư nổi tiếng trong và ngoài nước.
Ví dụ 4. Khôn tạo (nữ).
Tháng 5 năm 1988, căn cứ vào Tứ trụ của cô Khương : trụ tháng là đinh hỏa chính ấn được quan tinh mão mộc sinh, đúng là chính ấn phùng sinh. Tôi nói : cha mẹ cô song toàn, mẹ cô rất hiền lành, thông minh và đang là quan chức. Cô ta nói phần cha mẹ đúng như lời ông nói : cha là cán bộ hành chính, mẹ là viện trưởng bệnh viện, sắp ra nước ngoài dạy học.
Ví dụ 5. Càn tạo (nam).
Ðó là ví dụ tháng 6 năm 1990 ông Thường nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ này thủy sinh vào tháng thuỷ lạnh nên kim chìm xuống, là tượng thổ đóng băng, mộc bị hàn lạnh. Bính hỏa trên trụ năm và chính ấn trên trụ tháng ở vào tử địa là tượng khắc cha mẹ. Nhưng vì can năm được trụ giờ là giáp dần sinh mộc, là mộc hoả sáng có tác dụng giáng hàn, tức là trong Tứ trụ hiện ra điều may về sự sống. Tôi nói với ông Thường thời thanh niên bố mẹ anh tuy rất nghèo nhưng hai người đều tuổi thọ cao, bây giờ vẫn rất mạnh khoẻ. Ông ta nói : cha mẹ tôi trước kia nghèo khổ không thể nào tả hết. Bây giờ đều đã già hơn 80 tuổi, sức khỏe vẫn còn tốt.
Ví dụ này chính ứng : can năm là dụng thần, nên cha mẹ song toàn.
Ví dụ 6. Càn tạo (nam)
Tháng 7 năm 1990 ông Dương đưa Tứ trụ này của ông nhờ tôi đoán hậu vận. Tôi thấy trong Tứ trụ năm, tháng tài quan đều ở vượng địa nên nói : cha ông là người quan văn cao cấp, chi năm chi tháng tương xung là không lợi cho mẹ, cho nên mẹ có thể bị mất nếu không thì cũng xa cách nhau. Ông ta nói : đúng, mẹ tôi đã sớm là ngoại kiều ở ngoài, hiện vẫn còn khỏe mạnh. Cha ở trong nước và đã về hưu.
Ví dụ này là : cả năm và tháng tài quan vượng, cha vinh hiển.
Sinh khí là vô cùng quan trọng trong một căn nhà. Không có sinh khí tức là không có sức sống. Để giúp độc giả nắm rõ hơn về vấn đề này, thầy phong thuỷ Bùi Cao Thế sẽ bàn tới những con đường dẫn sinh khí bao gồm lối vào và cửa chính của ngôi nhà - nơi đón tiếp sinh khí, vị thần may mắn của phong thủy Dương trạch.
1. Lối vào nhà Lối vào căn nhà có thể là một con đường nhỏ, cũng có khi chỉ là những cấp bậc từ đường, cổng, hoặc từ sân vào nhà…Cho dù thế nào chúng ta cũng phải ghi nhớ những nguyên tắc cơ bản sau:
- Lối vào nhà không nên là một đường thẳng để tránh dù là tà khí, hay sinh khí dồn vào nhà quá mạnh đều gây sự bất ổn cho gia chủ. Tốt nhất tạo thế uốn cong nhẹ nhàng. Đối với nhà phố, đa phần lối vào nhà là một đường thẳng thì gia chủ có thể đặt một vài hòn đá hai bên theo hình zích zắc…cũng có thể bố trí chậu hoa cây cảnh…
- Lối vào nên rộng rãi, sáng sủa để hấp dẫn sinh khí, nên bằng phẳng. Nếu là bậc cấp không nên quá dốc. Nếu lối vào quá hẹp không nên trồng hoa, cây cảnh hai bên.
-Cây cối hai bên nên cắt tỉa gọn gang, tránh quá um tùm cản trở sinh khí vào nhà. Không bố trí những tảng đá quá dày…
-Lối vào nhà phải có bề ngang bằng nhau, nếu rộng trước cửa chính mà hẹp phía cổng thì sẽ ảnh hưởng đến sụ phát triển nghề nghiệp và giới hạn về tài chính.
-Lối vào nhà là những bậc cấp thì tốt hơn là trong cao, ngoài thấp. trong trường hợp nhà thấp hơn mặt đường người chủ sẽ vất vả, khó vươn lên như ý muốn…cần phải đặt ngọn đèn phía sau nhà để “nâng” ngôi nhà lên cao. Ngược lại nhà quá cao so với đường, lối lên quá dốc, thì phải trồng những chậu hoa hai bên để giữ sinh khí lại, hoặc đặt vài ngọn đèn phía ngoài đường để phản hồi sinh khí.
Như vậy lối vào của căn nhà là nơi dẫn khí ..như người đón khách. Người đón khách mà đẹp đẽ, tươi tắn… thì khách thấy vui vẻ, niềm nở, thoải mái. Khách sẽ thích hợp tác với gia chủ hơn.
Cửa chính là nơi đón nhận sinh khí, còn gọi là khí khẩu của căn nhà. Cần phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Cửa chính hướng phải phù hợp với cung mệnh của gia chủ.
- Cửa chính phải tạo được cảm giác hấp dẫn sinh khí vào nhà. Do đó từ hình dáng cánh cửa, màu sơn, tay vặn, màu sơn, ổ khoá… cũng phải tạo cảm giác thân thiện mời mọc.
- Cửa chính phải ở vị trí sáng sủa, có ánh sáng mặt trời là tốt nhất…nếu là hành lang thì nên thắp sáng bằng đèn điện
-Cửa chính phải tạo cảm giác an toàn cho sinh khí, tránh không bị “những mũi tên độc”…
- Kích thước cửa chính phải phù hợp với kích thước của căn nhà. Cửa nhỏ quá sẽ giới hạn sinh khí vào nhà, hạn chế may mắn, hạnh phúc, tài lộc đến với gia chủ, ngược lại …sinh khí vào quá nhiều sẽ gây mất quân bình, bất ổn cho gia chủ.
-Cửa chính không nên đối diện với cửa sau, nếu đối diện tiền tài khó giữ.
-Cửa chính không nên để nhiều nhửng vật cản như gạch, đá, đồ vật…cản sinh khí vào nhà. Cũng không nên đối diện với cửa nhà vệ sinh, cửa bếp, gầm cầu thang, bức tường chắn…
Như vây cửa chính ngôi nhà vô cùng quan trọng…được ví như gương mặt một con người phải luôn được sáng sủa, sạch sẽ, cởi mở…tạo cảm giác bình an, thân thiện hấp dẫn sinh khí.
Việc thường xuyên quan tâm và bảo vệ cửa chính là điều cần thiết, song với điều kiện kiến trúc đô thị hiện nay thì chúng ta không thể tránh khỏi những “mũi tên độc” do vậy chúng ta phải có những biện pháp hoá giải phù hơp.
- Gương bát quái treo phía ngoài cửa chính có tác dụng phản hồi những mũi tên độc.
- Súng đại bác để hoá giải những vật thể lớn như: cây cầu, cây thập tự giá, ăng ten khổng lồ, nhà cao tầng lớn…đặt đại bác trước cổng, cửa hướng về vật mà ta cần hoá giải.
- Mũi tên, cung, nỏ…có thể cheo cung nỏ hướng về phía vật cần hoá giải, hoặc gắn mũi tên lên mái nhà hướng về phía đó.
- Thú bảo vệ có thể dùng những biểu tượng thú dữ bằng đá như sư tử, kỳ lân, cọp, diều hâu…đặt ngoài cửa. Nhưng tốt nhất nên dùng biểu tượng chó đá vừa có ý nghĩa trấn tà, vừa bảo vệ tài sản cho gia chủ.
- Dùng cây để ngăn cản tốt nhất dùng cây xương rồng. Đặt hai chậu xương rồng, hoặc hai cây xương rồng đặt trên lưng hai con voi bằng sành sứ hai bên cửa chính.
- Nếu “mũi tên độc” từ bên trong thì chúng ta dùng những vật như chậu hoa, cây cảnh, phong linh, mành rèm, cầu thuỷ tinh, bóng đèn…để hoá giải.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong việc bố trí, sắp xếp, khắc phục... để đón tiếp sinh khí cho ngôi nhà của bạn mà thầy phong thuỷ đã sưu tầm qua kinh nghiệm của những người đi trước. Rất mong quí bạn độc giả nghiên cứu và vận dụng cho phù hợp với ngôi nhà của mình, để ngôi nhà bạn luôn tràn đầy sinh khí!
Trong tử vi, Lục Thập Hoa Giáp được biết tới như một trong những cách lý giải vận mệnh con người tương đối đơn giản, dễ xem nên khá phổ biến và được nhiều người sử dụng.
Số
|
Ngày tháng năm
|
Ngũ hành
|
Tuổi xung khắc
|
1
|
Giáp Tý
|
Vàng trong biển (Kim)
|
Mậu Ngọ, Nhâm Ngọ, Canh Dần, Canh Thân
|
2
|
Ất Sửu
|
-
|
Kỷ Mùi, Quí Mùi, Tân Mão, Tân Dậu
|
3
|
Bính Dần
|
Lửa trong lò (Hoả)
|
Giáp Thân, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn
|
4
|
Ðinh Mão
|
- |
Ất Dậu, Quí Dậu, Quí Tị, Quí Hợi
|
5
|
Mậu Thìn
|
Gỗ trong rừng (Mộc)
|
Canh Tuất, Bính Tuất
|
6
|
Kỷ Tị
|
-
|
Tân Hợi, Đinh Hợi
|
7
|
Canh Ngọ
|
Ðất ven đường (Thổ)
|
Nhâm Tý, Bính Tý, Giáp Thân, Giáp Dần
|
8
|
Tân Mùi
|
-
|
Quí sửu, Đinh Sửu, Ất Dậu, Ất Mão
|
9
|
Nhâm Thân
|
Sắt đầu kiếm (Kim)
|
Bính Dần, Canh Dần, Bính Thân
|
10
|
Quí Dậu
|
-
|
Ðinh Mão, Tân Mão, Đinh Dậu
|
11
|
Giáp Tuất
|
Lửa trên đỉnh núi (Hoả)
|
Nhâm Thìn, Canh Thìn, Canh Tuất
|
12
|
Ất Hợi
|
-
|
Quí Tị, Tân Tị, Tân Hợi
|
13
|
Bính Tý
|
Nước dưới lạch (Thuỷ)
|
Canh Ngọ, Mậu Ngọ
|
14
|
Ðinh Sửu
|
-
|
Tân Mùi, Kỷ Mùi
|
15
|
Mậu Dần
|
Ðất đầu thành (Thổ)
|
Canh Thân, Giáp Thân
|
16
|
Kỷ Mão
|
-
|
Tân Dậu, Ất Dậu
|
17
|
Canh Thìn
|
Kim bạch lạp (Kim)
|
Giáp Tuất, Mậu Tuất, Giáp Thìn
|
18
|
Tân Tị
|
-
|
Ất Hợi, Kỷ Hợi, Ất Tị
|
19
|
Nhâm Ngọ
|
Gỗ dương liễu (Mộc)
|
Giáp Tý, Canh Tý, Bính Tuất, Bính Thìn
|
20
|
Quí Mùi
|
-
|
Ất Sửu, Tân Sửu, Đinh Hợi, Đinh Tị
|
21
|
Giáp Thân
|
Nước trong khe (Thuỷ)
|
Mậu Dần, Bính Dần, Canh Ngọ, Canh Tý
|
22
|
Ất Dậu
|
-
|
Kỷ Mão, Đinh Mão, Tân Mùi, Tân Sửu
|
23
|
Bính Tuất
|
Ðất trên mái nhà (Thổ)
|
Mậu Thìn, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý
|
24
|
Ðinh Hợi
|
-
|
Kỷ Tị, Quí Tị, Quí Mùi, Quí Sửu
|
25
|
Mậu Tý
|
Lửa trong chớp (Hoả )
|
Bính Ngọ, Giáp Ngọ
|
26
|
Kỷ Sửu
|
-
|
Ðinh Mùi, Ất Mùi
|
27
|
Canh Dần
|
Gỗ tùng Bách (Mộc)
|
Nhâm Thân, Mậu Thân, Giáp Tý, Giáp Ngọ
|
28
|
Tân Mão
|
-
|
Quí Dậu, Kỷ Dậu, Ất Sửu, Ất Mùi
|
29
|
Nhâm Thìn
|
Nước giữa dòng (Thuỷ)
|
Bính Tuất, Giáp Tuất, Bính Dần
|
30
|
Quí Tị
|
-
|
Ðinh Hợi, Ất Hợi, Đinh Mão
|
31
|
Giáp Ngọ
|
Vàng trong cát (Kim)
|
Mậu Tý, Nhâm Tý, Canh Dần, Nhâm Dần
|
32
|
Ất Mùi
|
-
|
Kỷ Sửu, Quí Sửu, Tân Mão, Tân Dậu
|
33
|
Bính Thân
|
Lửa chân núi (Hoả)
|
Giáp Dần, Nhâm Thân, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn
|
34
|
Ðinh Dậu
|
-
|
Ất Mão, Quí Mão, Quí Tị, Quí Hợi
|
35
|
Mậu Tuất
|
Gỗ đồng bằng (Mộc)
|
Canh Thìn, Bính Thìn
|
36
|
Kỷ Hợi
|
-
|
Tân Tị, Đinh Tị.
|
37
|
Canh Tý
|
Ðất trên vách (Thổ)
|
Nhâm Ngọ, Bính Ngọ, Giáp Thân, Giáp Dần
|
38
|
Tân Sửu
|
-
|
Quí Mùi, Đinh Mùi, Ất Dậu, Ất Mão
|
39
|
Nhâm Dần
|
Bạch kim (Kim)
|
Canh Thân, Bính Thân, Bính Dần
|
40
|
Quí Mão
|
-
|
Tân Dậu, Đinh Dậu, Đinh Mão
|
41
|
Giáp Thìn
|
Lửa đèn (Hoả)
|
Nhâm Tuất, Canh Tuất, Canh Thìn
|
42
|
Ất Tị
|
-
|
Quí Hợi, Tân Hợi, Tân Tị
|
43
|
Bính Ngọ
|
Nước trên trời (thuỷ)
|
Mậu Tý, Canh Tý
|
44
|
Ðinh Mùi
|
-
|
Kỷ Sửu, Tân Sửu
|
45
|
Mậu Thân
|
Ðất vườn rộng (Thổ)
|
Canh Dần, Giáp Dần
|
46
|
Kỷ Dậu
|
-
|
Tân Mão, Ất Mão
|
47
|
Canh Tuất
|
Vàng trang sức (Kim)
|
Giáp Thìn, Mậu Thìn, Giáp Tuất
|
48
|
Tân Hợi
|
-
|
Ất Tị, Kỷ Tị, Ất Hợi
|
49
|
Nhâm Tý
|
Gỗ dâu (Mộc)
|
Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Bính Tuất, Bính Thìn
|
50
|
Quí Sửu
|
-
|
Ất Mùi, Tân Mùi, Đinh Hợi, Đinh Tỵ
|
51
|
Giáp Dần
|
Nước giữa khe lớn (Thuỷ)
|
Mậu Thân, Bính Thân, Canh Ngọ, Canh Tý
|
52
|
Ất Mão
|
-
|
Kỷ Dậu, Đinh Dậu, Tân Mùi, Tân Sửu
|
53
|
Bính Thìn
|
Ðất trong cát (Thổ)
|
Mậu Tuất, Nhâm Tuất, Nhâm Ngọ, Nhâm Tý
|
54
|
Ðinh Tị
|
-
|
Kỷ Hợi, Quí Hợi, Quí Sửu, Quí Mùi
|
55
|
Mậu Ngọ
|
Lửa trên trời (Hoả)
|
Bính Tý, Giáp Tý
|
56
|
Kỷ Mùi
|
-
|
Ðinh Sửu, Ất Sửu
|
57
|
Canh Thân
|
Gỗ thạch Lựu (Mộc)
|
Nhâm Dần, Mậu Dần, Giáp Tý, Giáp Ngọ
|
58
|
Tân Dậu
|
-
|
Quí Mão, Kỷ Mão, Ất Sửu, Ất Mùi
|
59
|
Nhâm Tuất
|
Nước giữa biển (Thuỷ)
|
Bính Thìn, Giáp Thìn, Bính Thân, Bính DDần
|
60
|
Quí Hợi
|
-
|
Ðinh Tị, Ất Tị, Đinh Mão, Đinh Dậu
|
► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác |
1. Cây phú quý thúc đẩy sự nghiệp
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Mơ nhặt được tiền giấy chứng tỏ tài vận của bạn gần đây đang có dấu hiệu sa sút, lụi bại. Nên làm gì để hóa giải vận xui?
Mơ bị trộm tiền: Có thể giải thích giấc mơ này theo hai hướng: nếu mơ bị trộm tiền trên người, có nghĩa “của đi thay người”; nếu mơ bị trộm tiền trong nhà có thể là dấu hiệu cho thấy gia đình bạn không được bình yên, êm ấm.
Cách hóa giải: Để hóa giải giấc mơ đầu tiên, bạn nên chủ động đối phó như đối phó với tiểu nhân. Với giấc mơ thứ hai, “khổ chủ” nên đặt trụ lục giác thạch anh tím vào vị trí của các sao phi tinh năm nay: Ngũ Hoàng, Nhị Hắc. Cụ thể, năm nay, Ngũ Hoàng (sao tai họa) bay vào Trung cung (giữa nhà), Nhị Hắc (sao bệnh tật) bay vào cung Tây Nam.
Mơ thấy cửa bị sụt, lún: Nếu người nằm mơ là đàn ông, e rằng gia tài sẽ bắt đầu lụi bại, tiền khó vào túi. Nếu là phụ nữ còn đơn thân, giấc mơ này có thể là dấu hiệu cho thấy bạn sắp phải đương đầu với những tháng ngày mệt mỏi, đau khổ kéo dài vì chuyện tình cảm. Với người nữ đã kết hôn thì tài vận của mình bắt đầu có dấu hiệu sa sút.
Cách hóa giải: Đàn ông nên thỉnh Tỳ Hưu về đặt ở vị trí tài lộc (tài vị) trong nhà. Phụ nữ cần thay đổi thân tâm và tốt nhất nên đeo dây chuyền thạch anh tím.
Đi bất cứ đền chùa nào, hỏi bất cứ người có lòng hướng Phật nào cũng đều thấy sự xuất hiện của Quan Thế Âm.
Mục lục
Bồ Tát theo phiên âm tiếng Phạn có nghĩa là Đại sĩ, một chức danh mang tính biểu trưng của Phật giáo. Yếu tố cơ bản nhất của Bồ Tát là từ bi và đại hệ. Từ bi biểu hiện cho tấm lòng, đại huệ biểu hiện cho trí tuệ. Bồ Tát là những người dùng tấm lòng và trí tuệ của mình để giáo hóa chúng sinh, hướng tới Phật pháp.
![]() |
Quan Thế Âm Bồ Tát được xếp vào hàng một trong những vị Bồ Tát có vị trí cao nhất của Phật giáo, là đời trước của Phật. Phật giáo Trung Hoa xếp Ngài là một trong tứ đại Bồ Tát cùng với Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát và Tạng Vương Bồ Tát.
Quan Thế Âm hay Quán Thế Âm, Quan Âm đều là danh xưng để chỉ vị Bồ Tát có vị trí quan trọng nhất trong Phật giáo. Danh xưng này xuất phát từ một truyền thuyết nhà Phật, tin rằng những người đã tu thành chính quả sẽ đạt tới cảnh giới ngũ giác đồng quy tức là cả năm giác quan hòa vào làm một. Dùng tai để “thấy” hình ảnh, dùng “mắt” để nghe âm thanh, dùng lưỡi để “ngửi” mùi hương,….
Quan Âm Bồ Tát có nghĩa là vị Đại sĩ luôn “nhìn” thấy “cảm” thấy, “nghe” thấy tiếng ai oán khổ đau thầm kín nhất của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp, độ pháp khi cần. Dùng sự thần thông quảng đại của mình để đưa chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt ngàn tai ách.
Sức mạnh lớn nhất của Quan Âm nằm ở lòng từ bi, với lòng từ bi của mình, Ngài nghe thấu tất cả những ai oán khổ đau của chúng sinh, bao dung những khốn khó bất hạnh của chúng sinh. Hình tượng của Quan Thế Âm thường là phụ nữ, giống như người mẹ hiền che chở và giúp đỡ những đứa con của mình.
Quan Âm Bồ Tát bảo trợ cho bà mẹ trẻ em, cho phụ nữ, người mang thai và tất thảy những ai gặp bất hạnh trên đời, nhất là khi lâm nạn nước, lửa, đao kiếm. Phụ nữ chậm duyên muộn chồng tới cầu Bồ Tát, phụ nữ không con tới cầu Bồ Tát, người đi biển cầu Bồ Tát phù hộ bình an. Xem thêm: Bài lễ cầu duyên ở cửa Quan Âm Bồ Tát cho cô gái chưa chồng
Trong Phật giáo, Quan Âm có thần lực chỉ đứng sau Phật Tổ, dùng sức mạnh của mình để độ hóa chúng sinh. Không chỉ nghe thấu tiếng lòng ai oán khổ đau mà Ngài còn dùng lòng từ bị, đại hùng đại lực của mình hướng dẫn chúng sinh đi theo con đường tốt đẹp, giải thoát bản thân, xa rời cái ác, gắn với thiện tâm.
Thông thường, tượng Quan Âm được tạo hình là một người phụ nữ có gương mặt hòa ái nhưng trên thực tế, Phật giáo không phân biệt nam nữ. Quan Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ? Chính xác là không có giới tính, Ngài đại diện cho sự từ tâm, xuất hiện để trợ giúp khổ nạn, khi thì có tạo hình là nam, khi thì có tạo hình là nữ.
Với mỗi tình huống, mỗi trường hợp Ngài sẽ hiện lên với tạo hình khác nhau để cho người được cứu giúp cảm thấy tin tưởng nhất, gần gũi nhất. Vì đối tượng phụ nữ, trẻ nhỏ thường yếu đuối và cần giúp đỡ nhiều hơn nên hình tượng Quan Âm theo đó cũng hướng về nữ giới – người mẹ hiền từ. Vì thế mà không ít người hiểu lầm Quan Âm Bồ Tát là phụ nữ,
Các tạo hình Quan Âm thường thấy là Quan Âm tống tử - Quan Âm trên tay bế một đứa bé, mang ý nghĩa cầu con; Quan Âm ngồi trên đài sen, tay cầm bình nước Cam Lồ, tay cầm cành liễu – dùng sự tinh khiết của đất trời cứu vớt, giác ngộ chúng sinh; Quan Âm nghìn mắt nghìn tay – thấu hiểu cõi trần, nghe thấy tiếng lòng của muôn vạn chúng sinh. Ngoài ra còn rất nhiều hình tượng khác như Quan Âm cưỡi mây, Quan Âm cưỡi rồng, Quan Âm cứu nạn trên biển,….
![]() |
Mỗi hình tượng là một cách thể hiện về một phương diện nhất định của Quan Âm trong cách phổ độ chúng sinh, biểu thị cho sức mạnh của lòng từ bi mà Ngài sở hữu. Sức mạnh này cũng là tinh thần cao nhất của Phật giáo: từ bi và giác ngộ. Từ bi với vạn vật và tìm cách giác ngộ vạn vật.
Quan Âm Bồ Tát là hình tượng, cũng là nơi gửi gắm tâm nguyện của con người. Vì sao Quan Âm lại được kính ngưỡng như vậy? Vì sâu thẳm trong bất kì ai đều cần một chỗ dựa, một nơi để cứu vợt sự khổ đau, mong muốn vào lúc tuyệt vọng nhất vẫn có người để bám víu và trợ giúp mình vượt qua cơn bĩ cực. Hình tượng Quan Âm pháp lực vô biên vừa cao xa, thần bí nhưng cũng hết sức chân thật và ấm á, tồn tại trong đời sống tâm linh của người Việt từ bao đời nay.
Theo kinh sách nhà Phật, có 3 ngày được gọi là ngày vía Quan Âm: ngày đản sinh, ngày xuất gia và ngày thành Phật. Ngày đản sinh của Quan Âm là 19/2 âm lịch. Ngày xuất gia là 19/6 âm lịch. Ngày thành Phật là 19/9 âm lịch.
Trong những ngày này, Phật tử và người hướng Phật thường tổ chức lễ cúng long trọng với nhiều nghi lễ để cầu mong bình an, may mắn, được Bồ Tát che chở. Đây cũng là dịp tốt để những gia đình hiếm muộn tới cửa Quan Âm cầu con, những cô gái chàng trai chậm duyện muộn chồng tới làm lễ xin duyên, cha mẹ làm lễ bán khoán con lên cửa chùa, người có khổ đau tới cửa xin thỉnh nguyện,…
Để biết cụ thể về cách tiến hành trong những ngày này, tham khảo bài viết: Hướng dẫn chi tiết nghi thức cúng ngày vía Quan Âm.
Chú đại bi là bài chú thường sử dụng trong những lễ cúng Quan Âm Bồ Tát hoặc bất cứ khi nào muốn thỉnh tới sự trợ giúp của Ngài. Mỗi khi có khó khăn hay trở ngại, hãy nghe hoặc niệm bài chú này, trong lòng sẽ thấy bình yên hơn, thanh thản hơn, hướng tới sự giác ngộ Phật pháp để vượt qua chướng ngại thực tại.
Theo Phật giáo, chú đại bi có các tác dụng như sau: Chúng sinh yên vui; Trừ mọi tai bệnh; Sống lâu khỏe mạnh; Giảm trừ tai nạn; Diệt trừ nghiệp ác; Xa rời chướng ngại; Tăng cường công đức; Củng cố thiện căn; Lánh xa uế tạp; Thỏa mãn mong mỏi. bài chú này gắn liền với pháp lực của Quan Âm, là cầu nối để chúng sinh bày tỏ thiện tâm với Bồ Tát đồng thời chứng cho tấm lòng hướng thiện, giác ngộ điều tốt của mình.
Xem thêm bài viết: Tụng Chú Đại Bi, diệt trừ ác nghiệp, được hưởng phúc lành
12 đại nguyện của Quan Âm Bồ Tát là 12 điều Ngài nguyện sẽ thực hiện, dùng pháp lực vô biên cùng lòng từ bi vô hạn của mình để cứu giúp chúng sinh, hoàn thành những trọng trách của mình đối với nhân sinh trên con đường giáo hóa, độ hóa và phân phát Phật tính, Phật pháp.
Cụ thể tham khảo bài viết: Khắc ghi 12 đại nguyện nhớ ngày Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia 19/9 âm lịch.
Các hình thức lễ nghi của Phật giáo đều hướng tới sự chân tâm. Đi chùa cầu khẩn Quan Âm, cung dưỡng cho Quan Âm, tụng chú đại bi và niệm 12 đại nguyện là những con đường để đưa chúng sinh thỉnh nguyện tới Bồ Tát, bày tỏ nỗi lòng của mình, tìm sự giải thoát và giúp đỡ trong đó.
Nhưng, ý nghĩa cơ bản nhất của Quan Thế Âm Bồ Tát không phải là giải quyết những rắc rối, khổ đau của con người mà là cứu vớt linh hồn, trợ giúp về tinh thần để con người tự vượt qua sóng gió. Một khi thực sự hướng tới Bồ Tát, nương theo những điều tốt đẹp mà Bồ Tát chỉ dạy, hóa độ bản thân theo con đường Bồ Tát hướng dẫn thì tự khắc sẽ yên bình, không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa.
![]() |
Chân chính nhất của việc thỉnh nguyện Quan Âm là chân thành, thực tâm, làm nhiều việc thiện, tích lũy phúc đức. Những việc nên làm là phóng sinh, giúp đỡ người khác, không phạm khẩu nghiệp, không sát sinh, không dối trá,… Người cầu Bồ Tát nhưng lòng không thiện, tâm không sáng thì cũng bằng không.
Cầu Bồ Tát chỉ để lợi mình hại người, mưu cầu công danh tiền tài thì chắc chắn không bao giờ có được. Đến cửa chùa, cửa Bồ Tát để trông chờ sự giúp đỡ vật chất, phàm tục thì quả là sai lầm, không hiểu về đạo lý và ý nghĩa. Đó là những kiểu bái Phật chỉ phí hương đèn.
Vì thế, đúng như câu nói “Phật tại tâm”, trong tâm có Quan Âm ắt Quan Âm xuất hiện, làm người trước hết tu thân, sau mới tu Phật. Noi gương Ngài để tu dưỡng những đức tính tốt đẹp, thể hiện cái nhìn từ bi với cuộc sống và lúc nào cũng lấy giúp người làm vui.
Bài lễ cầu duyên ở cửa Quan Âm Bồ Tát cho chàng trai độc thân Xem tử vi cho người sinh ngày vía Quan Âm
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Văn khấn lễ thần linh trong nhà ngày mùng một Tết âm lịch đầu năm.
Ngoài việc cúng Gia tiên trong ngày mùng 1 Tết, thì việc cúng Thần linh trong nhà của ngày này là điều không thể thiếu để cầu mong bình an những điều tốt lành trong năm mới.
Sắm lễ cúng thần linh mùng một tết
Lễ vạt dâng cúng thần linh năm mới gồm:
Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả).
Trầu cau;
Rượu;
Đèn, nến;
Lễ ngọt, bánh kẹo;
Mâm cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.
Văn khấn thần linh trong nhà ngày mùng một tết
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Kính lạy:
• Đức Đương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
• Hoàng Thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn Thần.
Hôm nay là ngày mồng 1 tháng Giêng, nhằm ngày Tết Nguyên Đán đầu xuân, giải trừ gió đông lạnh lẽo, hung nghiệt tiêu tan, đón mừng Nguyên Đán xuân thiên, mưa móc thấm nhuần, muôn vật tưng bừng đổi mới. Nơi nơi lễ tiết, chốn chốn tường trình.
Tín chủ con tên là ……………Tuổi:………
Ngụ tại ………………………………………
Nhân tiết minh niên sắm sửa hương hoa, cơm canh lễ vật bày ra trước án, dâng cúng Thiên Địa Tôn Thần. Thiết nghĩ Tôn Thần hào khí sáng lòa, ân đức rộng lớn.
Ngôi cao vạn trượng uy nghi, vị chính mười phương biến hiện. Lòng thành vừa khởi, Tôn Đức càn thông. Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Nguyện cho chúng con mọi người hoan hỷ vinh xương, con cháu cát tường khang kiện. Mong ơn Đương Cảnh Thành Hoàng, đội đức Tôn Thần Bản xứ hộ trì tín chủ, gia lộc gia ân, cứu khổ trừ tai. Đầu năm chí giữa, nửa năm chí cuối, sự nghiệp hanh thông, sở cầu như ý.
Dãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Theo triết lý Trung Hoa, phong thủy tạo ra sự cân bằng và hài hòa xung quanh những vật thể sống. Với thời đại này, chúng ta vẫn có thể áp dụng phong thuỷ để tạo để sống trong môi trường tốt hơn, và thân thiện với môi trường.
Phong thủy cổng nhà
Chiếc cổng là ấn tượng đầu tiên khi một người nhìn thấy ngôi nhà của bạn. Vì vậy phải khiến cho các vị khách cảm thấy thân thiện khi bước vào nhà.
Giữ cho cổng nhà luôn sạch đẹp và không có bất kỳ sự cản trở nào.
Cổng tốt nhất là kéo vào khi đi ra, cũng có nghĩa là khi về nhà bạn đẩy cổng vào bên trong nhà. Như thế cái cổng đó mang ý nghĩa chào đón.
Phong thuỷ nhà bếp
Bạn không nên đặt một tấm gương sau bếp, hoặc tấm inox sáng bóng sau lưng bếp như một số người đã hướng dẫn để làm rộng bếp, hay hoá giải bếp ở hướng xấu, để tiện việc lau dọn sạch sẽ,.v.v...Vì họ không am tường hoặc không biết rằng điều đó sẽ ảnh hưởng đến hôn nhân gia đình, bạn có muốn ba mình hay mình có tình nhân, hay có quan hệ ngoài hôn nhân hay không? Tuỳ bạn quyết định.
Nhà bếp không nên đối diện nhà vệ sinh. Nếu có, thì nên khép kín cửa và đóng nắp toilet lại.
Phong thuỷ Phòng tắm và nhà vệ sinh
Luôn luôn đóng nắp toilet khi không dùng đến, vì có thể thủy là kỵ thần của một hay vài thành viên trong gia đình.
Giữ toilet sạch sẽ, dùng thùng đựng rác có nắp đậy để giữ vệ sinh.
Sàn toilet luôn sạch và khô ráo.
Phong thủy Phòng khách
Làm cho năng lượng có sự di chuyển trong nhà bằng việc gắn thêm những quả cầu pha lê phía trên trần nhà. Chắc chắn chúng sẽ làm tăng tính thẩm mĩ của gian phòng hơn.
Thay vì để những khoảng “chết” trong phòng, bạn nên đặt một chậu cây cảnh, bức tranh nhiều màu sắc hay cảnh vật bắt mắt sẽ rất sống động.
Không bao giờ đặt đồ nội thất (ghế quay lại cửa).
Luôn luôn có đủ ghế trong phòng khách và phòng ăn. Không nên để lưng ghế quay mặt ra cửa. Và điều quan trọng là phải sắp xếp sao cho có đủ không gian để mọi người có thể di chuyển dễ dàng.
Không nên để hoa khô trong nhà. Vì chúng không sống được lâu, thậm chí có thể gây ra tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng cho nhà bạn. Bạn nên trang trí bằng hoa tươi hoặc hoa lụa sẽ mang lại sự tươi mới hơn cho ngôi nhà.
Đồ đạc theo quan niệm phong thuỷ
Giữ những cây chổi, giẻ lau sàn và thùng rác khuất tầm nhìn. Điều đó quan trọng cho sự tồn tại của gia đình và giữ những kẻ quấy rối ở bên ngoài, không cho chúng xâm nhập. Giống như là thần chổi giữ nhà giúp bạn vậy.
Suối nước, cây cối, tổ chim dọc theo con đường xuyên qua vườn sẽ mang lại sự cân bằng và xác định mức độ của năng lượng ngôi nhà. Nhưng tuyệt đối không làm cản trở hoặc áp chế lối đi vào nhà.
Một chiếc chuông gió gắn ở cửa sẽ làm xao lãng những năng lượng tiêu cực xâm nhập vào nhà.
Phong thuỷ Cửa và cầu thang
Nếu bạn có kế hoạch làm một ngôi nhà mới phải đảm bảo rằng cửa trước không đối diện cửa sau. Nếu điều đó không thể tránh khỏi, bạn nên có một bức mành giữa hai cửa để năng lượng không vào cửa trước và ra cửa sau.
Tránh đề cầu thang ngay trước cửa chính vì khi bạn mở cửa thì năng lượng theo cầu thang lên thẳng tầng trên, và năng lượng sẽ thoát ra ngoài nhanh hơn (không tụ khí được). Nếu đã ở tình thế đó, bạn có thể giải quyết bằng chiếc bình phong để thay đổi, điều tiết năng lượng.
Phong thuỷ Phòng ngủ
Phòng ngủ của bạn phải là một phòng riêng tư, ở đây sẽ không bị các vị khách và người viếng thăm nhìn thấy.
Không nên có quá nhiều cửa sổ trong phòng ngủ sẽ khiến cho năng lượng bị rối loạn.
Không nên có gương giáp mặt giường, để giải quyết vấn đề này là bạn chỉ cần một mảnh vải phủ gương mỗi tối trước khi đi ngủ.
Không nên có máy tập thể dục trong phòng ngủ, vì phòng ngủ lấy tịnh làm chủ, tránh động, ánh sáng chịu ấm.
Tránh có quá nhiều đồ điện tử trong phòng ngủ và không để bất cứ thứ gì dưới giường.
Nếu có một chút âm thanh nhẹ nhàng trong phòng ngủ thì thật tuyệt. Nó sẽ giữ cho bạn sự điềm tĩnh và thư giãn sau khi bạn dành quá nhiều thời gian cho công việc và các cộng sự.
Lưu ý phong thuỷ: Việc đặt gương hoặc bát quái trong nhà phải thật cẩn thận, bạn không nên tuỳ tiện sử dụng.
![]() |
Bể cá có ý nghĩa lớn trong phong thủy, nhưng số lượng và màu sắc cá cũng quan trọng không kém. Dưới đây là một vài điểm lưu ý khi chọn nuôi cá phong thủy để có thể đạt hiệu quả cao nhất.
Hãy cùng chúng tôi tham khảo các tiêu chí lựa chọn cá cảnh phù hợp nhất.
Số lượng và màu sắc cá
Thông thường, số cá nuôi thích hợp nhất là 4,7,9. Cả ba con số này đều được coi là những con số vàng. Màu sắc đa phần chọn màu may mắn như đỏ, trắng, đen. Chẳng hạn 6 con đỏ và 1 con đen, trong đó những con màu đỏ là kim, con màu đen là thủy, kim sinh thủy. Số 6 và số 1 kết hợp thì tạo thành số 7, ý nghĩa may mắn vô cùng lớn.
Xem mắt cá
Nếu là loại cá vàng bong bóng thì yêu cầu bong bóng phải mềm, hơi trong suốt, bên trái và bên phải đối xứng, không xiêu vẹo. Nếu là cá rồng xanh thì hốc mắt phải lộ rõ, hai bên mắt đối xứng. Đối với loại cá triều thiên thì mắt cá phải chuyển động hướng lên trên một góc 90 độ, hai bên mắt đối xứng.
Xem lưng cá
Với loại cá để trứng thì lưng phải trơn, nhẵn nhụi, không có sống lưng. Với loại cá làm cảnh thì vây lưng cá phải cao, to và vươn thẳng. Cá rồng xanh cũng phải có vây vươn thẳng.
Xem đuôi cá
Với loại cá đẻ trứng thì đuôi cá phải ngắn, nhưng rộng và bằng phẳng, đồng thời phải mỏng, mềm mại. Với loại cá để làm cảnh thì vây đuôi phải to, rộng và bằng phẳng. Với cá rồng xanh thì phải to, rộng và bằng phẳng. Ngoài ra vây đuôi cá vàng nên dài hơn chiều dài cơ thể chúng.
Xem hình thể cá
Một con cá vàng được cho là đẹp nếu có hình thể ngay ngắn, không quá béo cũng không quá gầy, không bị thương tích hay bệnh tật gì. Với loại cá làm cảnh thì mình cá phải ngắn. Với loại cá ngũ sắc thì màu sắc phải tươi sáng, hoa văn rõ nét và phân bố đều trên khắp mình cá.
Xem vảy cá
Vảy cá phải đều, rõ, không bị bong tróc.
Xem màu sắc cá
Với loại cá đơn sắc thì màu phải thuần khiết, không có cảm giác bị pha tạp. Cá hai màu thì các mảng màu phải tương đồng. Nếu là cá ngũ sắc, nên lấy màu xanh làm nền, các màu khác phải đầy đủ. Cũng nên chọn loại cá nhanh bị phai màu, nếu là cá đen nên chọn loại đen thẫm, nếu là cá đỏ, nên chọn loại màu rực lửa.
Xem tư thế bơi của cá
Lên xuống cẩn trọng và chắc chắn, đường bơi thẳng và ổn định, không thay đổi thất thường là loại cá tốt. Ngược lại, nếu con cá phản ứng chậm chạp, có thể tối màu, trên mình có các màng trắng hình đốm nhỏ hoặc hình miếng thì đó là loại cá bị bệnh.
Trong văn phòng làm việc nếu hai bên mé đều là những cánh cửa kính, ánh sáng quá mạnh, chiếu vào quá nhiều cũng không tốt.
Như vậy sẽ khiến mọi người trong phòng cảm thấy mệt mỏi và tinh thần yếu dần. Nên dùng những bức rèm cho đi những mặt cửa có những cảnh sắc không đẹp bên ngoài. Nếu phòng làm việc chỉ có một mặt cửa sổ, thì cửa hướng Đông, hướng Nam, hướng Tây đều được, chỉ không nên hướng Bắc. Bời vì hướng Bắc là cung Khản, chủ lao, âm khí nặng, dương khí khó có thể tiến phát, áp lực công việc rất lớn. Nếu đã có cửa sổ hướng phía Bắc, vậy thì bàn làm việc không thể gần cửa sổ đó quá. Khi bố trí tường treo hoặc ghế salon, giá sách trong phòng nên dùng những màu sắc êm dịu hoặc nhiều màu đỏ một chút để có thể bù lại dương khí.
1. Đảm bảo yếu tố “tàng phong tụ khí” Dù là chọn đất hay chọn nhà, nên lựa chọn nơi thoáng khí, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc gió thổi quá mạnh. Nơi gió thổi mạnh sẽ khiến tài lộc bị thổi bay, không thể tụ lại trong ngôi nhà.
![]() |
![]() |