Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? –

Rất nhiều người lo lắng khi không biết nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? Nhiều người còn nghĩ theo quan niệm của dân gian " mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang" nên họ lo sợ giấc mơ thấy mèo sẽ mang lại điều không tốt lành. Tuy nhiên bạn đã giải
Nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mèo có điềm báo gì? –

Nằm mơ với bệnh ứ máu –

Ứ máu là bệnh máu chảy không đều, không thông, giữa các mạch máu có trở ngại, huyết dịch trong nội tạng không thông suốt. Nguyên nhân dẫn đến ứ máu khá nhiều. Nguyên nhân thường thấy và quan trọng là ứ máu do các loại ngoại thương. Ngoại thương không
Nằm mơ với bệnh ứ máu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ với bệnh ứ máu –

Con giáp nào kết hợp với nhau sẽ gặp nhiều xui xẻo

Dần và Thân, Mão và Dậu, Thìn và Tuất là những cặp đôi mà không nên kết hợp hoặc se duyên vì chỉ mang lại xung đột mà thôi.
Con giáp nào kết hợp với nhau sẽ gặp nhiều xui xẻo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Dần và Thân 

ho-3300-1418828979.gif khi-9000-1418828979.gif

Người tuổi Dần và Thân nằm trong mối quan hệ tương khắc với nhau. Nếu là đối tác, việc kinh doanh sẽ gặp nhiều trở ngại. Nếu là người yêu hoặc vợ chồng, sẽ thường xuyên tranh cãi, dẫn tới chia tay. Có thể nói, cặp đôi này tốt nhất nên tránh xa nhau để hạn chế mức xui xẻo thấp nhất xảy đến với cả hai.

2. Mão và Dậu

Cũng tương tự cặp đôi con giáp phía trên, người tuổi Mão và Dậu ở cạnh nhau sẽ xảy ra nhiều xung đột, mâu thuẫn, thậm chí cãi vã không ngừng. Do đó, hai tuổi này không nên kết hợp với nhau, cả trong công việc và chuyện tình cảm. Người tuổi Dậu sẽ mang đến nhiều phiền phức và trở ngại cho người tuổi Mão.

tho-7026-1418829047.gif ga-3001-1418829048.gif

3. Thìn và Tuất

Người tuổi Tuất sẽ bị người tuổi Thìn ức chế, khiến họ thường xuyên nổi giận. Tốt nhất hai con giáp này không nên gần nhau để tránh phát sinh bất hòa không đáng có.

4. Tỵ và Hợi

Khi người tuổi Tỵ và Hợi bên nhau, ngoài những trận tranh cãi nảy lửa, sự tổn thương về tinh thần còn khiến cả hai cảm thấy mệt mỏi và áp lực. Hàng loạt những điều xui xẻo sẽ xảy ra nếu hai con giáp này hợp tác lâu dài với nhau.

ran-1746-1418828980.gif heo-9105-1418828980.gif

5. Tý và Ngọ

Một chú ngựa bất kham, háo thắng sẽ khiến chú chuột phải đau đầu, phiền muộn. Khi hai con giáp này ở cạnh nhau, những bất hòa về ý kiến, tâm tư tình cảm đều xảy ra. Tốt nhất người tuổi Ngọ nên tránh xa người tuổi Tý để mang lại sự bình yên cho cả hai.

6. Sửu và Mùi

Sự kết hợp giữa cặp đôi này sẽ mang lại không ít xui xẻo cho cả hai bên. Đặc biệt, với tính cách không ai chịu nhường nhịn ai, người tuổi Sửu và Mùi sẽ tranh cãi không biết mệt mỏi. Do đó, hai tuổi này không nên hợp tác với nhau trên phương diện công việc và tình cảm.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào kết hợp với nhau sẽ gặp nhiều xui xẻo

Mơ thấy mình khóc - cười là lành hay là dữ?

Khóc và cười là biểu hiện tâm lý buồn vui của con người. Trong giấc chiêm bao, con người cũng không ít lần mơ thấy mình khóc, mình cười. Giấc mơ khóc chưa hẳn
Mơ thấy mình khóc - cười là lành hay là dữ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đã là điềm dữ và giấc mơ cười cũng chưa hẳn là điềm lành.

Cười 

Mo thay minh khoc - cuoi la lanh hay la du hinh anh
Hãy cẩn thận trong tình yêu nếu bạn mơ thấy chính mình cười nhé

 Nếu trong mơ, ta nghe thấy tiếng cười. Đây là dấu hiệu báo rằng có thể ta sẽ gặp rắc rối với cấp trên.    Trong trường hợp là tiếng cười của trẻ nhỏ, nhiều khả năng ta sẽ được đón nhận sự may mắn về tiền bạc. Nhưng nếu là tiếng cười của người xa lạ, chúng ta có thể mất đi một tình bạn.    Còn nếu tiếng cười đó là của chính bản thân mình thì bạn nên cẩn thận trong chuyện tình yêu.

Nằm mơ thấy người khác gặp chuyện vui, cười nghiêng ngả là điềm báo bạn sẽ gặp chuyện buồn phiền.
 
Tuy nhiên, mơ thấy có người cười nói vui vẻ với mình lại là điềm báo tốt, bạn sẽ nhận được nhiều kết quả tốt trong công việc.

Nằm mơ thấy trong nhà tràn ngập tiếng cười là điềm thịnh vượng, phát tài, bạn gặp nhiều thuận lợi trong cuộc sống.
 
Khóc

Mo thay minh khoc - cuoi la lanh hay la du hinh anh 2
Nếu mơ thấy mình khóc thì sẽ gặp điềm lành
Chiêm bao thấy có người đang khóc là điềm lành, bạn gặp nhiều niềm vui và thành công trong công việc. Chiêm bao thấy người vừa khóc vừa cười là mộng tốt, nếu bạn mắc bệnh, bệnh sẽ nhanh chóng qua khỏi.   Bạn mơ thấy người đã khuất khóc lóc là điềm báo bạn có thể gặp chuyện tai tiếng. Tuy nhiên, mơ thấy có người khóc trong vòng tay mình, bạn sắp có tài lộc lớn.   Chiêm bao thấy người ở xa đến nhà mình khóc là điềm dữ, bạn nên cẩn thận khi làm bất cứ việc gì. Chiêm bao thấy có người mếu khóc, bạn nên đề phòng có thể gặp chuyện kiện tụng.
 
Nếu bạn mơ thấy mình đang khóc với người nào đó thường là điềm vui vẻ.   Mơ thấy khóc lớn tiếng cũng là một tin tốt lành, báo rằng bạn sẽ được sung sướng với thành công nào đó sắp tới của mình.   Trong giấc mơ bạn thấy mình khóc thầm trong lòng, điều này báo rằng bạn sắp có được tài lộc lớn.   Bạn mơ thấy mình hoặc ai đó vừa khóc, vừa cười thường là điềm bệnh lâu ngày sắp khỏi.   Thấy mình khóc trong mơ là điều ám chỉ rằng bạn đang gặp chuyện không vui và cần được ai đó an ủi.   Mơ thấy người thân hoặc bạn bè khóc là điềm báo những người được bạn mơ thấy đang có như cầu cần được sẻ chia, thông cảm.    Mơ thấy khóc mếu thường là điềm không tốt, có thể bạn sẽ bị ai đó kiện tụng.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mình khóc - cười là lành hay là dữ?

Sử dụng màu đỏ như thế nào cho hợp phong thủy ?

Màu đỏ trong phong thủy tượng trưng cho lửa và danh vọng. Trang trí nhà với màu đỏ sẽ giúp tăng cường năng lượng cho mỗi người trong gia đình và giúp không gian sống trở nên giàu sức sống hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu đỏ thuộc gam màu nóng. Màu đỏ luôn chiếm một vị trí quan trọng và là một trong những màu sắc được sử dụng thường xuyên nhất trong các biểu tượng.

Màu đỏ là màu được sử dụng nhiều trong trang trí nội thất, đây là màu đặc trưng nhất của gam màu nóng, cũng là màu của máu. Đây là màu sắc dễ thu hút được sự chú ý của con người, mang lại nguồn sinh lực dồi dào và kích thích cảm giác thèm ăn, vì thế nên rất nhiều cửa hàng thức ăn nhanh sử dụng màu đỏ trong thiết kế và logo của họ. Trong thiết kế phòng ăn, bạn nên áp dụng ý nghĩa này để khiến bữa ăn của bạn thêm ngon miệng.

Vì màu đỏ là màu mang lại năng lượng nên bất cứ điều gì liên quan đến màu đỏ đều có sự tăng cường về năng lượng, sức mạnh và ý chí. Đây cũng chính là lý do tại sao ngay cả trong không gian tĩnh lặng nhất, căn phòng vẫn cần một chút sắc đỏ để tránh sự mệt mỏi, chán nản.

Tuy nhiên, quá nhiều màu đỏ lại gây phản tác dụng. Thay vì một căn phòng đỏ chót, hãy thêm các yếu tố phong thủy may mắn khác liên quan đến số lượng và hình dạng. Thêm những vật may mắn vào góc phía nam của nhà ở, phòng khách hay văn phòng làm việc và xem vận mệnh của bạn thăng tiến như thế nào.

9 lời khuyên cho bạn về việc dùng màu đỏ trong phong thủy

1. Buộc một dải ruy băng màu đỏ xung quanh các đồ phong thủy hoặc các vật may mắn nhằm tăng thêm tính hiệu nghiệm của nó.

2. Ngăn chặn sự thất thoát năng lượng bằng màu đỏ: Nắp bồn cầu nhà vệ sinh nên sơn màu đỏ để tránh sự rò rỉ những năng lượng quan trọng (ngoại trừ trường hợp khi nhà vệ sinh của bạn là ở trung tâm, phía tây nam hoặc phía nam ngôi nhà).

3. Thêm màu đỏ hợp lý trong căn nhà. Mỗi phòng cần một ít màu đỏ tươi sáng lên màu sắc của nội thất, vật dụng. Nếu chưa có màu đỏ, bạn hãy thêm vào một vật nào đó màu đỏ, tốt nhất là ở các góc hướng nam, đông nam hoặc tây bắc. Phòng khách thrrm chút sắc đỏ sẽ làm cho không khí gia đình vui vẻ và ấm áp hơn.

4. Khởi động may mắn trong việc kinh doanh của bạn. Một tấm giấy màu đỏ dùng để kê điện thoại và máy fax sẽ khiến việc kinh doanh được thuận lợi hơn rất nhiều.

5. Hâm nóng tình yêu đôi lứa. Cắm một lọ hoa màu hồng đỏ ở góc Tây Nam của phòng khách sẽ khiến tình yêu của 2 bạn lãng mạn, ngọt ngào hơn. Nhưng tối kị đặt trong phòng ngủ vì có thể gây phản tác dụng.

6. Khiến căn nhà "hấp dẫn" hơn. Nếu bạn đang rao bán căn nhà, hãy khiến người mua chú ý hơn đến căn nhà bằng cách đặt một lọ hoa màu đỏ trong phòng khách hoặc trên bàn ăn. Ngoài ra, bạn nên thắp cả đèn ở phía sau ngôi nhà và phía Nam căn nhà phải là không gian mở.

7. Khiến công việc thăng tiến hơn. Đặt một ngọn đèn đỏ ở hướng nam văn phòng làm việc để khiến mọi người thán phục và ghi nhận những đóng góp và nỗ lực của bạn. Trang trí thêm một cây xanh trong văn phòng vì cây xanh tượng trưng cho gỗ và gỗ là yếu tố để duy trì ngọn lửa đỏ.

(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sử dụng màu đỏ như thế nào cho hợp phong thủy ?

Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Trong 12 con giáp, tuổi Dậu sớm gặp được tình yêu đích thực hơn cả. Đó có thể là khi 14 tuổi hoặc 28 tuổi, khi nông nổi hoặc khi đã chín chắn.
Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mãi tới năm 25 tuổi, người tuổi Sửu mới có thể gặp được ý chung nhân mà cả đời khó lòng quên được. Điều đặc biệt là, chính người này sẽ dạy bạn trưởng thành, để bạn thực sự thấu hiểu thế nào là yêu. 

  Tuổi Tý   Xem bói thời gian tìm thấy tình yêu đích thực của 12 con giáp, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy những người cầm tinh con Chuột có thể gặp được tình yêu đích thực của đời mình ở độ tuổi 20. Bởi vì tính cách họ phóng khoáng, đi đâu cũng trở thành tâm điểm chú ý, ắt có nhiều vệ tinh vây xung quanh.   Tuy nhiên, nếu quyết định kết hôn, hai bạn sẽ mâu thuẫn và tranh chấp khá nhiều vì vẫn còn khá trẻ, tính cách còn nhiều khiếm khuyết cần bổ sung. Nhưng nếu hai bạn dành thời gian hiểu nhau, đừng vội vàng hấp tấp, tình yêu ngày càng gắn bó bền chặt.  
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Sửu   Mãi tới năm 25 tuổi, người tuổi Sửu mới có thể gặp được ý chung nhân mà cả đời khó lòng quên được. Điều đặc biệt là, chính người này sẽ dạy bạn trưởng thành, để bạn thực sự thấu hiểu thế nào là yêu.    Tuổi Dần   Thời gian người tuổi Dần có thể gặp được tình yêu đích thực sẽ rơi vào khoảng từ 15 đến 35 tuổi. Điều trăn trở lớn nhất của con giáp này chính là tình yêu đến hoặc là quá sớm hoặc là quá muộn, cảm giác như không kịp nắm bắt, chưa đủ chín chắn để chủ động nắm giữ hạnh phúc trong tầm tay.   Tuổi Mão   Vốn sống hướng nội và coi trọng tình cảm, người tuổi Mão sẽ sớm tìm được nửa kia ưng ý từ độ tuổi 17 đến 27, thậm chí đây cũng là bến đỗ vô cùng yên ổn.   
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Thìn   Từ khoảng năm 18 đến 25 tuổi, người cầm tinh con Rồng có nhiều cơ hội gặp được đối tượng ưng ý, hơn thế bạn còn dành tình yêu cuồng nhiệt, si mê cho đối phương.   Tuổi trẻ đôi mươi tuổi Thìn còn khá mơ hồ với tình yêu, khi trưởng thành rồi sẽ biết khống chế cảm xúc để tình yêu đơm hoa kết trái, đôi lứa gắn bó với nhau hơn cả keo.   Tuổi Tỵ   Để gặp được người yêu mến chân thành, người tuổi Tỵ phải sống khoảng 19 năm trong cuộc đời. Độ tuổi từ 19 đến 38 là khoảng thời gian bạn rất dễ tìm được nửa kia đích thực.    Vốn thuộc tuýp nhạy cảm và tinh thế, con giáp này không dễ dàng tin tưởng yêu thương một ai đó. Bởi vậy, họ cần rất nhiều thời gian để bản thân chắc chắn trong tình yêu, hạnh phúc thường đến muộn.   Top 3 con giáp có cuộc sống ngày càng tốt đẹp Cặp đôi hoàn hảo trong 12 con giáp làm nên đại nghiệp Top 3 con giáp sau 1 đêm trở thành triệu phú
Tuổi Ngọ
  Vì tôn sùng chủ nghĩa tự do, ham theo đuổi những điều mới lạ, nên người tuổi Ngọ tìm được tình yêu đích thực khá muộn, khoảng từ 25 đến 42 tuổi.    Một phần do tuổi Ngọ đi quá nhiều, từng trải, yêu cầu càng cao, muốn có được một người xứng đáng nên phải mất khá nhiều thời gian kiếm tìm.   Tuổi Mùi   Tương tự tuổi Ngọ, những ai cầm tinh con Dê sẽ đón hạnh phúc hôn nhân khá muộn. Mãi cho tới tận 27 hoặc 33 tuổi bạn mới có thể tìm được đối tượng phù hợp.   Thời “trẻ trâu” nông nổi, tuổi Mùi rất dễ rung động, nhưng cảm xúc của họ chỉ thực sự sâu sắc khi bước vào độ tuổi lớn hơn, theo đó tình yêu cũng bền vững hơn nhiều.  
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Thân   Hoạt bát, hồn nhiên là thế, người tuổi Thân sẽ đón đầu tình yêu đích thực của mình vào độ tuổi 18 hoặc khi đã trưởng thành, 28 tuổi. Với con giáp này, hoặc là sẽ có tình yêu nông nổi của tuổi trẻ thanh xuân rực rỡ, hoặc là khi sự nghiệp đã có bước đi vững vàng, làm cơ sở bền chặt cho tình yêu.   Tuổi Dậu   Trong 12 con giáp, tuổi Dậu sớm gặp được tình yêu đích thực hơn cả. Đó có thể là khi 14 tuổi hoặc 28 tuổi.    Khi còn quá trẻ dễ rung động, con giáp hồn nhiên chân thật này dễ dàng tin tưởng, họ có lẽ sẽ rung động mà chẳng hề biết đó là yêu. Đến khi 28 tuổi, tình cảm lúc đó có lẽ sẽ ổn định hơn nhiều.   Tuổi Tuất   Khoảng 15 tuổi, người tuổi Tuất đã có những rung động tình yêu đầu đời. Nhưng có lẽ, tình yêu đích thực chỉ thực sự bền chặt và có thể tiến tới hôn nhân khi con giáp này bước sang tuổi 26, khi mà họ trưởng thành cả về tư tưởng lẫn sự nghiệp.   Tuổi Hợi   Người tuổi Hợi có thể tìm thấy nửa kia ưng ý trong khoảng từ 18 đến 35 tuổi. Một khi rơi vào lưới tình, con giáp này vô cùng trung thực và chân thành. Họ rất trân trọng đối phương, không cần lo nghĩ quá nhiều mà sẵn sàng hy sinh chính mình.  
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Ngọc Diệp
 
Những chàng trai ngọt ngào, ấm áp nhất trong 12 con giáp
Sở hữu trái tim ấm áp, cử chỉ ân cần, ngọt ngào, những chàng giáp dưới đây luôn là niềm khao khát phái đẹp.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Tâm linh dân gian cho rằng, không nên cắt móng tay vào ban đêm. Tưởng như đây chỉ là kiêng kị truyền miệng, nhưng thực chất lại xuất phát từ nguyên lý âm dương ngũ hành của phong thủy.
Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Tâm linh dân gian cho rằng, không nên cắt móng tay vào ban đêm. Tưởng như đây chỉ là kiêng kị truyền miệng, nhưng thực chất lại xuất phát từ nguyên lý âm dương ngũ hành của phong thủy

Theo quan niệm dân gian, không nên cắt móng tay vào ban đêm, đặc biệt với trẻ nhỏ còn không nên cắt vào lúc đang ngủ. Việc tưởng chừng như mang tính tâm linh này lại có cách lý giải theo phong thủy ngũ hành.

Theo khoa học, móng tay của con người là chất sừng, có tác dụng bảo vệ phần thịt mềm ở các đầu ngón tay, ngón chân phải tiếp xúc nhiều với các vật. Nó giống như tấm lá chắn, giữ gìn tính ổn định và an toàn cho các chi, tăng cường sự mẫn cảm cho các ngón tay trong khi tiếp xúc. Không những vậy, móng tay lại cần các dây thần kinh đầu ngón tay, có tác dụng điều tiết mạch máu và điều hòa nhiệt độ cơ thể. 

Vì thế mà nên cắt móng tay vào ban ngày, khi hệ thần kinh của con người khá mẫn cảm, buổi tối thần kinh mệt mỏi lại tác động đến nơi này thì không nên. 

Còn dân gian thì thường truyền nhau, nếu cắt móng tay vào ban đêm sẽ dễ bị nấm móng hoặc bị mất hồn. Nguyên nhân của điều này là những câu chuyện dân gian mang đậm tính chất tâm linh, huyền bí hoặc dựa trên nguyên lý phong thủy âm dương ngũ hành.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Về phong thủy, khi đứa trẻ chưa đủ 12 tuổi, tức là chưa hoàn tất một vòng cầm tinh thì chính là hồn xác chưa hoàn thiện. Nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì “điệu hồn” sẽ bay mất, khiến đứa trẻ ốm đau bệnh tật, thậm chí mất mạng. Kị nhất là sau 11 giờ đêm. Sau lan ra áp dụng cả với người trưởng thành.

Về mặt truyền thuyết, bắt nguồn từ câu chuyện một người phụ nữ xinh đẹp nhưng bị chồng mưu sát, trước khi chết người chồng cắt hết những chiếc móng xinh đẹp của nàng. Vì thế, nếu nửa đêm mà cắt móng tay thì oan hồn người phụ nữ với đôi bàn tay cụt móng sẽ xuất hiện đòi báo thù. Tất nhiên, đây chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng nhưng chúng ta hãy chú ý không nên cắt móng tay vào ban đêm.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao không nên cắt móng tay vào ban đêm?

5 vấn đề phong thủy cơ bản phải tính khi mua nhà

Mua nhà là đại sự, cần xem xét kĩ lưỡng về phong thủy để chọn được nơi ở tốt, vận khí cát. Dưới đây là 5 yếu tố phong thủy khi mua nhà cần phải hết sức lưu ý.
5 vấn đề phong thủy cơ bản phải tính khi mua nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mua nhà là đại sự, cần xem xét kĩ lưỡng về phong thủy để chọn được nơi ở tốt, vận khí cát, mang tới may mắn cho chủ nhân. Dưới đây là 5 yếu tố phong thủy khi mua nhà cần phải hết sức lưu ý.


Xem thêm video clip: Top 3 con giáp tiêu tiền không phải nghĩ trong tháng 7



► Lichngaytot.com gửi tới bạn đọc công cụ xem hướng nhà và tra cứu thước lỗ ban chuẩn xác

5 van de phong thuy co ban phai tinh khi mua nha hinh anh 2
 
1. Cấu tạo
  Một ngôi nhà được coi là có phong thủy cát khi mà có cấu tạo hợp lý, ngược lại sẽ là rất hung nếu ngôi nhà bố trí phạm phải các vấn đề cấm kị. Nhà khuyết góc thì vợ chồng bất lợi; nhà tọa Bắc hướng Nam thì phạm quỷ môn, bất lợi sức khỏe; nhà có phòng ngủ đối diện phòng vệ sinh hoặc phòng bếp thì quan hệ trong nhà không hòa hợp; trong nhà có xà ngang áp đỉnh thì sự nghiệp lụi tàn. Vì thế, yếu tố phong thủy khi mua nhà cần xem xét đầu tiên chính là cấu tạo.
Hiểu đúng câu Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài kẻo chọn phải nhà phong thủy xấu Phong thủy quanh ngôi nhà thế nào mới hút nhiều tài lộc? Mua nhà không xem phong thủy, tiền thì mất mà tật vẫn mang

2. Vị trí
  Phong thủy truyền thống tin rằng, vị trí ngôi là là yếu tố cực kì quan trọng quyết định đến vận thế. Vị trí nhà tốt thì trợ giúp quan hệ gia đình càng thêm hài hòa, sự nghiệp rạng rỡ, còn vị trí xấu thì mang tới thất vận. Lưu ý phong thủy khi mua nhà là tránh bên cạnh trạm xăng, cầu vượt, đường sắt, ngã tư đường vì đều phạm sát.   3. Hướng   Hướng nhà không thể không quan tâm, nhất định phải hợp với tuổi của gia chủ. Hướng nhà tọa Nam hướng Bắc hầu như thích hợp với tất cả mọi người, vừa sáng sủa lại thoáng đãng, đón nắng tránh gió, có lợi cho tài vận.
5 van de phong thuy co ban phai tinh khi mua nha hinh anh 2
 

4. Diện tích   Mua nhà ở không phải càng lớn thì càng tốt, phong thủy học chỉ ra nhà quá lớn hoặc quá nhỏ thì đều xấu. Nhà rộng người ít thì âm thịnh dương suy, chủ ám bệnh dây dưa, âm linh sống nhờ. Nhà hẹp người đông tất dương nhiều âm ít, chủ tính tình táo bạo, quan tai thị phi nhiều.   5. Số tầng   Người Việt kị số 4 vì là số tử, tượng trưng cho điềm xấu nên nhà không nên xây 4 tầng, cũng không nên ở tầng 4. Lựa chọn số tầng hay tầng nhà nên căn cứ vào ngũ hành bản mệnh, có thể chọn tầng tương ứng với ngũ hành của chính mình hoặc ngũ hành tương sinh với ngũ hành bản mệnh. 
Lỗi phong thủy phòng ngủ “tử hình” hôn nhân 3 nguyên tắc phong thủy phải nằm lòng năm 2016 Tip mua nhà chuẩn phong thuỷ 2016
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 vấn đề phong thủy cơ bản phải tính khi mua nhà

Chỉ ra 6 đặc điểm của kẻ bại tài, có tiền chưa chắc sướng

Dáng người cao mà thẳng mới là tướng phú quý. Còn người nào dáng cao nhưng lại cong vẹo, không thẳng, hay đến trung vận đã bị còng lưng lại là tướng bại tài, cuộc sống vất vả trăm bề, đặc biệt là nam giới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Dáng người cao nhưng không thẳng

Trong nhân tướng học, dáng người cao mà thắng mới là tướng phú quý. Còn người nào dáng cao nhưng lại cong vẹo, không thẳng, hay đến trung vận đã bị còng lưng lại là tướng phá tài, cuộc sống vất vả trăm bề, đặc biệt là nam giới.

2. Người gầy và ánh mắt vô thần


Có câu: “Người béo tốt 10 phần thì 9 phần phúc. Người gầy còm 10 phần thì 9 phần nghèo”, để so sánh về tướng người đầy đặn với người gày. Phúc phận của người mang thân hình gày guộc cũng mỏng hơn.

Nếu cộng thêm đặc điểm đôi mắt vô thần, nhìn như không nhìn, không thể hiện cảm xúc gì thì đích thị là tướng người phá tài. Tài lộc của người này kém sắc, dù được kế thừa di sản tổ tiên để lại đi chăng nữa cũng khó duy trì, phát huy được.
3. Râu quá cứng

Bất kể là nam hay nữ, nếu có râu và râu quá cứng đều không phải là dấu hiệu cát tường. Đa phần là đàn ông mới có nét tướng mạo này.

Người này tính tình khô cứng, thô bạo, tính cách cực đoan, hay gây sự, khắc vợ và khắc cả tài. Tiền vào túi rồi lại ra nhanh như chớp mắt. Cuộc sống hôn nhân cũng khó mà hòa hợp, hạnh phúc.

Tuong bai tai, co tien chua chac da suong hinh anh 2
 
4. Giọng nói không phân biệt được là nam hay nữ

Xét về mệnh lý, người có giọng nói mà không thể phân biệt được là nam hay nữ có số mệnh không tốt, cuộc sống thăng trầm bất ổn, khi lên voi, lúc xuống chó, không thể đoán biết được.

Ngoài ra, đàn ông có nét tướng cách này thường khắc vợ, sau này làm khổ vợ con, hôn nhân, tình duyên trắc trở.

5. Ánh mắt lờ đờ


Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, phản chiếu những nét đẹp từ trong sâu thẳm trái tim. Qua đôi mắt, người ta có thể cảm nhận được cá tính, bản chất của mỗi người.

Người có đôi mắt lờ đờ, lòng đen lòng trắng không rõ ràng thì tài vận cũng mờ nhạt, không tốt đẹp. Đây cũng là một trong những đặc điểm của tướng người bại tài, có tiền chưa chắc đã sướng, đã biết đường hưởng thụ.

6. Dáng đi uốn éo như rắn


Trong nhân tướng học gọi đây là dáng đi uốn khúc mình xà. Dù là nam hay nữ đều có tinh thần bất ổn, dễ thay đổi ý kiến, không có chính kiến, gió chiều nào xoay chiều đó và cũng là tướng bại tài, có tiền không biết giữ, ăn tiêu hoang phí.

Ngân Hà
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ ra 6 đặc điểm của kẻ bại tài, có tiền chưa chắc sướng

Ánh sáng cho phòng bếp nên thiết kế như thế nào? –

Đi kèm với một đĩa thức ăn hấp dẫn, ngon mắt, kích thích sự thèm ăn có rất nhiều yếu tô", trong đó đóng vai trò không nhỏ là ánh sáng trong phòng bếp. Để đạt được hiệu quả trên, bạn có thể dùng loại đèn trần toả nhiệt lắp chìm hay chìm một nửa trong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi kèm với một đĩa thức ăn hấp dẫn, ngon mắt, kích thích sự thèm ăn có rất nhiều yếu tô”, trong đó đóng vai trò không nhỏ là ánh sáng trong phòng bếp. Để đạt được hiệu quả trên, bạn có thể dùng loại đèn trần toả nhiệt lắp chìm hay chìm một nửa trong tường hoặc đèn chiếu sáng cục bộ cho bệ bếp. Ngoài ra có thể dùng loại đèn có thể nâng cao hạ thấp được hoặc đèn treo nhiều tầng. Màu của đèn nên chọn loại có màu ấm, không nên chọn đèn huỳnh quang ánh sáng trắng, lạnh.

1668-bep36

Nếu trong gian bếp mắc đèn ống, thì đèn bóng dây tóc nên có công suất cao hơn một chút, bởi độ sáng trong gian bếp đòi hỏi tương đối cao. Nhưng trong gian bếp không nên chiếu sáng bằng đèn ông, bởi tính phương hướng của loại đèn này rất mạnh, hiệu quả chiếu sáng kém.

Ngoài ra, cũng có thể dùng đèn hút đỉnh chiếm không gian không lớn, độ chiếu sáng rộng, thuộc loại đèn chiếu sáng trực tiếp, tiết kiệm điện, nhiều tiện ích.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng cho phòng bếp nên thiết kế như thế nào? –

Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ

Tục ngữ nói “đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó”, hoặc nói “Đàn ông đem vô, đàn bà cất giữ” v.v… đều là chỉ về sự tương quan trong cuộc lập nghiệp của đôi vợ chồng. Đăng lùa được cá, nhưng đó lủng rách thì cá chui lọt đi hết còn đâu. Vậy hình tướng của đàn bà trọng đại tới tương lai chồng con lắm.
Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau đây chúng tôi xin sưu tập và dịch rõ phần tổng quát về hình tướng phụ nữ để quí thân chủ và bạn đọc suy nghiệm.

- Lưng dài vai tròn là: Vượng phu ích tử.
- Lưỡng quyền cao mủi nhỏ là: Hại tử khắc phu.
- Tam đình bình đẳng là: Khởi gia hưng nghiệp.
- Mũi cao lỗ kín là: Có chồng giàu sang.
- Môi xứng với miệng là: Con làm nên danh vọng.
- Mặt chỗ lép chỗ nhọn là: Sạt nghiệp chồng con.
- Mặt sáng ngời như ngọc: Ắt đẻ con sang, con hiếu.
- Mũi nhỏ mặt bạnh là: Đa dâm đa loạn.
- Mình thơm mắt sáng là: Phu quí tử vinh.
- Miệng rộng mồm méo là: Phu cùng tử yểu.
- Trán thẳng mày thanh là: Đàn bà phước đức.
- Mặt lớn má lép là: Người vô phước.
- Mũi tròn da mịn là: Tướng phụ nữ hưng gia.
- Mũi tẹt mặt lớn là: Tướng đàn bà phá sản.
- Môi trắng mỏ nhọn là: Phường ăn không nói có.
- Má cao khắc lỏm là: Tướng khắc chồng con.
- Môi hường tươi: Ắt sanh con quí.
-Con ngươi đỏ như tia lửa là: Khắc sát chồng con.
- Dáng vóc nhàn tịnh khiêm cung là: Nghiêm tướng.
- Mặt đẹp con ngươi vàng là: Sát tướng.
- Tướng hình đoan chính trang nghiêm là: Uy tướng.
- Mặt lớn mồm nhỏ răng thô là: Sát tướng.
- Trên sóng mũi có nhiều lằn gạch là: Sát tướng.
- Ngồi ngay nói thẳng lòng khoan hoà là: Uy tướng.
- Tai lật không có thành quách là: Sát tướng.
- Vẻ mặt hoà dịu, mừng không lộ, sợ không khiếp là: Nghiêm tướng, quí tướng, có con quí chồng sang.

- Mặt đẹp nhưng trắng như vôi, lông mi đen rậm như lưỡi dao lớn, con ngươi như mắt cá đỏ, lông mày thô như chổi, đều là Sát tướng. Dù mặt – tướng diện – có đẹp đẻ đến đâu cũng hình phu khắc tử sát hại chồng con ghê lắm.

Trở lên là tướng hình tốt xấu lẫn lộn, xem rồi suy gẩm ắt thấy điều hay. Sau đây là tướng hình đàn bà hiền đức.

Trán bằng, đầu tròn, tóc mịn đen mướt.

Mặt như khuôn thiên, cằm nở dài mép có một vành. Đi đứng ngay thẳng, ngồi nằm khoan thai. Tóc nỏn nà nhuyễn mượt, mắt dày mày thanh môi hồng răng trắng ngà, da mịn xương nhỏ không lộ, mình trắng hơn mặt, thân mình sắc hoà dịu.

Lưng vai tròn, ngực rộng, vú to không xệ, rún sâu có vành. Bàn tay dài, ngón tay hơi nhọn, tiếng thanh, ít nói cười. Hơi mình thon, xương âm cao nhô ra, thịt dầy, âm đạo thẳng đều là tướng hiền, có phước đức.

Lại có những tướng hình tổng quát lẫn lộn thiện ác, tốt xấu như sau:

Người có tướng đi đứng khoan hoà hiền diệu, tinh thần nghiêm chỉnh, tiếng nói trắng thanh, ngồi nằm đoan chính là tướng đàn bà quí, lập danh cho chồng, để đức cho con, hưởng thọ tuổi cao, sanh toàn con trai.

Người có tướng mặt hơi vuông dài, ngực lớn, tiếng nói lớn mà thanh, tinh thần tươi sáng, cử chỉ đoan chính, chuyện trò êm thấm hoà dịu, vẻ người trang nghiêm chửng chạc, khiến kẻ đối diện nể trọng, ấy là đàn bà có phước đức trinh thuận, liêm chánh.

Người có tướng diện tươi thắm như hoa nở đầy hương nhụy, cười như hoa đào, mắt sáng như sao chớp, đi đứng phong lưu đài trang, làm cho người đối diện phải ao ước mơ tưởng và hình dung điều bất chánh, có khi kẻ đối diện có cảm tưởng như cởi bỏ y trang, để xoi mói vào bên trong thân thể, ấy là tướng tà dâm, rất dễ bị mềm lòng nhẹ dạ. Không tốt.

Tướng người mặt nhọn ngực lép mà bạnh ra, môi ướt răng hô, mắt tròn trắng dả, mũi nguỡng thiên, tiếng nói rè, đi như ma đuổi, đi lắc như phải gió, chưa nói mà ngoắc tay nghiêng mình kiễng chân như con lật đật. Tướng nghèo khó, hình phu, khắc tử.

Má thật cao, mắt lỏm, tóc xoắn, môi mép có lông rám như râu. Xương thịt thân thể cứng rắn, mình miệng và các chỗ kín có mùi hôi hám khó chịu đều là các hình tướng bần tiện, hạ đẳng, ngu độn chỉ làm nô tỳ chớ không thể làm nổi ca kỷ được nữa.

Tướng có gò má thật cao, lông mày xoáy hoặc hình chổi sề, hình lưỡi đao, tiếng nói nhọn bén như ong vò vẻ, mắt như mắt chó sói, như mắt cá đỏ, là tướng đàn bà cùng hung cực ác, khắc sát chồng con dữ lắm.

Lại có tướng người đi đứng không yên như gấp rút vội vàng như sợ sệt gì vậy. Người thì đong đưa nghiêng ngã, tưởng như sắp té đến nơi, giọng nói cợt nhả đỏng đảnh mời mọc, đó là tướng đàn bà ngồi lê đôi mách, bần tiện hạ lưu, chuyên đi nịnh bợ xoi móc hàng xóm.

Cũng có tướng người mặt ngang trán lớn má cao, tiếng nói khao khao, bước đi mông lắc như chim se sẻ, mắt lộ con ngươi đỏ như diều, như cá chép, như mắt rắn là người bạc ác, lòng một dạ hai, bất nghĩa bất tín mà ương ngạnh, ưa nói càng nói bướng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ

Chùa Hoằng Ân - Hà Nội

Chùa Hoằng Ân còn có tên thường gọi là chùa Quảng An, Chùa tọa lạc tại xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội. Đây là một trong số ít những ngôi chùa cổ ở Hà Nội
Chùa Hoằng Ân - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hoằng Ân còn có tên thường gọi là chùa Quảng An, Chùa tọa lạc tại xã Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội.

Đây là một trong số ít những ngôi chùa cổ ở Hà Nội đã nghìn năm tuổi, được xây dựng từ thời nhà Lê. Trải qua thời gian biến cố lịch sử, đến nay chùa vẫn giữ được những nét cổ kính. Mỗi ngày nơi đây đều có đông phật tử đến tham quan cúng bái.

Lịch Sử: Chùa Hoằng Ân (Quảng Bá) được Thiền sư Ngộ Ấn tạo dựng, ban đầu chỉ là một am thờ Phật, sau dựng thành chùa và có tên là Báo Ân tự (chùa Báo Ân). Trải qua thời gian dài Báo Ân Tự vừa là nơi thờ Phật cũng là nơi sinh hoạt văn hóa, tâm linh của cộng đồng dân cư.

Vào năm Vĩnh Tộ thứ 10 đời Lê Thần Tông (1628) chùa được xây dựng lớn bởi công chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú, con gái Hoàng đế Nguyễn Hoàng, vợ chúa Trịnh Tráng (1623 – 1657), sau đó chùa được đổi tên thành chùa Long Ân. Năm Minh Mạng thứ hai (1821), nhân chuyến tuần du ra Bắc, Vua đã đến thăm chùa, lúc này chùa được đổi tên thành Sùng Ân tự. Năm Tân Sửu (1841) Vua Thiệu Trị đến thăm chùa Sùng Ân cho tu sửa lại chùa và đổi thành chùa Hoằng Ân.

Ngay từ khi ra đời chùa đã là một danh lam của kinh thành Thăng Long, chùa cũng từng là nơi ngự giá, thăm viếng của các bậc đế vương. Dưới thời Trần Anh Tông, Tam Tổ Huyền Quang từ núi Yên Tử cũng chọn nơi đây để giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Triều Nguyễn vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị đều chọn chùa là nơi dừng chân vãn cảnh.

Kiến Trúc: Chính chùa gồm Tiền Đường và hậu cung: có 5 gian lợp ngói, bờ nóc và bờ dài chạy thẳng, chính giữa đắp hổ phù đội mặt trời. Phía trước hiên là hai cột trụ trên nóc đắp hình búp sen. Kiến trúc chùa chủ yếu làm theo lối bào trơn đóng bên với hình thức chồng giường, con nhị kèo ngồi xa nách. Gian giữa có hệ thống cửa bức bàn. Các mảng chạm kỹ lưỡng với những mảnh chạm điển hình nơi xứ Huế. Nền chùa và Hậu cung được lát gạch Bát Tràng. Hậu cung 3 gian xây liền với Tiền Đường tạo cho chùa chính có dạng chuôi vồ.

Ngôi chính điện này trước đây được xây trên gò tam cấp, đến nay vẫn còn nguyên vẹn, chưa có sửa chữa gì, gần đây vào năm 2002 được sự quan tâm của các cấp chính quyền chùa đã nâng cấp xung quanh như: xây tường bao khuôn viên, đường vào và xây kè hồ. Chùa trước đây nuôi dấu cán bộ, có hầm nằm trong khuôn viên nhà Tổ, mỗi khi có địch đến, nhà sư liền gõ mõ, đập gậy làm tín hiệu báo cho chiến sĩ ta.

Chùa Hoằng Ân hiện nay còn lưu giữ được rất nhiều hiện vật quý: gồm có 2 quả chuông đồng (Quả lớn được đúc thời vua Lê Hiển Tông (1743), cao 1,5m, đường kính 0,8m; vai chuông khắc nổi bốn chữ Hán “Long Ân Tự chung”, Quả chuông nhỏ được đúc vào thời Nguyễn); 33 tấm bia từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20; 30 Pho tượng có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Hệ thống tượng tròn của chùa còn khá đầy đủ với những pho tượng có giá trị nghệ thuật cao như tượng Quan âm Nam Hải, các Pho tượng Tam Thế, A Di Đà tạc vào thế kỷ 17- 18.

Tam bảo chùa
Tam bảo chùa

Với giá trị lịch sử – văn hóa và thế đắc địa mà thiên nhiên ban tặng, nhìn ra Hồ Tây mênh mông, chung quanh là những vườn quất trĩu quả, chùa Hoằng Ân là một trong những điểm văn hóa – du lịch của thành phố thu hút khách muôn nơi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hoằng Ân - Hà Nội

Ý nghĩa phong thủy của hoa Nguyệt Quý –

Nguyệt Quý thuộc họ với Tường Vi, do hơn 15 loại Tường Vi được lai ghép ra nhiều chủng loại khác nhau. Trung Quốc cũng có hơn 600 loài hoa Nguyệt Quý này, hoa nở rất lâu, nên còn có tên là nguyệt Nguyệt hồng. Trong "Quần phương phổ" có nói Nguyệt Quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyệt Quý thuộc họ với Tường Vi, do hơn 15 loại Tường Vi được lai ghép ra nhiều chủng loại khác nhau. Trung Quốc cũng có hơn 600 loài hoa Nguyệt Quý này, hoa nở rất lâu, nên còn có tên là nguyệt Nguyệt hồng.

tải xuống

Trong “Quần phương phổ” có nói Nguyệt Quý là “giục nguyệt nhất khai, tử thời bất tuyệt”. Trong bài thơ “Nguyệt tiết hoa” của Dương Vạn Lý có viết: “Chi đáo hoa vô thập nhật hổng, tử hoa vô nhật bất xuân phong”. Nguyệt Quý vốn được trồng ở Trung Quốc, theo kể rằng: Những năm 80 của thế kỷ 18, Nguyệt Quý đã qua Ấn Độ để đến châu Âu, khi đó có chiến tranh Anh – Pháp, để cho loài hoa Nguyệt Quý do Trung Quốc nhập vào Pháp an toàn do Anh chuyển, hai bên đã đàm phán hoà bình, để bảo vệ loài hoa này.

Người dân Anh đến ngày nay đã coi nó là Quốc hoa, ở các thành phố như Thiên Tân, Thường Châu của Trung Quốc cũng đã coi Nguyệt tiết hoa là bông hoa của thành phố. Bởi vì, Nguyệt hoa bốn mùa đều nở hoa cho nên ngiười dân coi nó như sự tường thuỵ (may mắn), có ý nghĩa “tứ tiết bình an”. Nguyệt Quý và thiên trúc kết hợp lại thành ý nghĩa “tứ tiết thường xuân”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của hoa Nguyệt Quý –

7 điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì mọi người đều nên biết

Dùng bao lì xì và tiền đã cũ để tặng cho người khác là những điều không nên trong dịp đầu năm mới. Xem những điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì đầu năm
7 điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì mọi người đều nên biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dùng bao lì xì và tiền đã cũ để tặng cho người khác là những điều không nên trong dịp đầu năm mới.


► Mời các bạn: Đổi ngày dương sang âm nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lịch ngày tốt

7 dieu dai ky khi tang va nhan bao li xi moi nguoi deu nen biet hinh anh
 
Từ lâu, ở nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam thường sử dụng những phong bao lì xì để tặng cho người thân nhân dịp năm mới với mong muốn mang lại nhiều may mắn, phúc lộc. Tuy nhiên, tặng bao lì xì không phải là chuyện đơn giản mà nó bao gồm nhiều yếu tố phong thủy nên tuân thủ:  

Nên dùng phong bao lì xì màu đỏ

  Ý nghĩa của việc tặng lì xì không nằm ở số tiền bên trong đó mà nằm ở chiếc phong bao màu đỏ. Những người nhận được phong bao lì xì màu đỏ đầu năm mới đồng nghĩa sẽ có một năm mới bình an, hạnh phúc. Bởi màu đỏ là màu tượng trưng cho năng lượng, hạnh phúc và may mắn. Tặng phong bao màu đỏ là một cách để gửi lời chúc tốt đẹp và may mắn trong dịp năm mới.  

Những người đã làm ra tiền nên lì xì cho người khác

  Theo truyền thống, nếu bạn là người đã bắt đầu làm ra tiền, đó là thời điểm bạn bắt đầu trải nghiệm việc sẽ lì xì cho người khác. Đây là cách bạn chia sẻ điều phước lành trong năm của mình cho người thân, bạn bè đồng thời đón nhận những may mắn trong năm mới từ người khác. Thực chất là quy luật cho và nhận mà ta nên tuân theo.   Thông thường, số tiền lì xì phụ thuộc vào thu nhập của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn là người chưa có gia đình thì cũng không nhất thiết phải lì xì cho người khác.
7 dieu dai ky khi tang va nhan bao li xi moi nguoi deu nen biet hinh anh 2
 

Nên dùng tiền mới để lì xì

  Tiền cũ được đặt trong bao lì xì mang lại âm khí xấu không phù hợp cho một năm mới. Chính vì thế, dịp cuối năm là khi nhiều người thường đi đổi tiền mới tại các ngân hàng để lì xì cho người khác.  

Số tiền trong phong bao tránh con số 4

  40 nghìn đồng hoặc 400 nghìn đồng là những con số không nên đặt trong phong bao lì xì. Trong phong thủy, số 4 liên quan đến chữ “tử” nghĩa là cái chết, được coi là không may mắn. Con số thích hợp nên đặt trong bao lì xì là 8.  

Luôn chuẩn bị sẵn phong bao lì xì

  Phong bao lì xì cần được chuẩn bị sẵn để tiện lì xì, tránh trường hợp gặp người bất chợt và muốn lì xì nhưng lại không có hoặc lúc đó mới bắt đầu đi kiếm phong bao lì xì.  

Nhận bao lì xì bằng 2 tay

  Luôn luôn nhận phong bao từ người khác bằng cả hai tay để bày tỏ lòng cảm ơn và trân trọng. Thật bất lịch sự khi dùng một tay để nhận phong bao từ người khác.

Không mở phong bao trước mặt người tặng

  Thật thiếu lịch sự nếu như bạn mở ngay chiếc phong bao lì xì trước mặt người tặng. Việc mở phong bao lì xì nên thật sự riêng tư.

Theo Eva

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều đại kỵ khi tặng và nhận bao lì xì mọi người đều nên biết

Tử vi Nhâm Dần Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Kim bạc Kim Nhâm Dần là con hổ tướng mạo uy nghi, có chí khí, Kim bạc kim mạ vàng mâm chén, tăng độ sáng cho cung thất, làm bóng Kim khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kim bạc Kim Nhâm Dần là con hổ từng trải qua khó khăn, là người dũng cảm, tướng mạo uy nghi, can đảm mạnh mẽ, học rộng biết nhiều, có chí khí. Phàm những người thành tựu lừng lẫy đại đa số là người sinh năm Nhâm Dần. Kim bạc kim là mạ vàng mâm chén, tăng độ sáng cho cung thất, làm bóng Kim khác. Kim này rất nhỏ, nếu không có Mộc tất không có chỗ nương tựa. Mộc lấy Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc làm thượng cát, có chúng không nên gặp Hỏa, gặp Hỏa cỉm về yểu thọ.

Với tuổi Giáp Tuất, Ất Hợi Sơn đầu Hỏa; Bính Thân, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa có Thủy trợ giúp cũng cát lợi. Duy kỵ Bính Dần, Đinh Mão Lư trung Hỏa, chủ về mệnh yểu vong.

Nhật trụ, thời trụ gặp Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, mệnh nữ chủ về xinh đẹp, mệnh nam chủ về anh tuấn, hơn nữa sự nghiệp có thành tựu. Nhưng nguyệt trụ có Mộc mớí luận. Các trụ khác gặp Giáp Dần, Ât Mão Đại khê Thủy, chủ về phiêu dạt. Gặp Nhâm Thìn, Quý Hợi Đại hải Thủy mà không có Mộc làm nền tảng chủ hung tai.

Kim gặp Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim; Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim có thể trang sức, trợ giúp tạo ra sự thay đổi.

Các Kim khác có Hỏa bổ cứu cũng cát lợi, không có Hỏa chủ về điềm hung.

Các trụ khác có Mậu Dần, Kỷ Mão Thành dầu Thổ, chủ về ăn nhờ ở đậu; gặp Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ còn có thể an thân.

Nếu như các trụ khác có Mộc, có thể phú quý; lại có Phúc đăng Hỏa càng thêm hiển hách, gọi là Côn sơn phiến ngọc cách.

Nhâm lộc tại Hợi, các Địa chi của trụ khác ưa Hợi. 

Nhâm quý tại Mão, các Địa chi của trụ khác ưa Mão.

Các Địa chi của trụ khác có Thân, phạm hình phạm xung, cả đời vất vả, bỏ mạng nơi đất khách.

Các Địa chi của trụ khác có Tỵ, đề phòng trúng gió, bệnh tiểu đưòng.

Mệnh này trời sinh nên học triết học, mệnh lý, thuật sô", giáo viên, nghệ thuật, có tài ăn nói, thông minh, tướng mạo thanh tú.

Tốt nhất không nên làm công việc liên quan đến tài chính như kế toán, nhân viên tài vụ...

Nên sớm xa quê hương, đi nơi khác sẽ càng có cơ hội phát triển, tương lai sẽ có 1 ngày áo gấm vinh quy.

Nguyệt can có Giáp, hoặc các can khác có Giáp, chủ về giàu có.

Nguyệt can có Quý, chức quan nhỏ, tiền ít, mệnh nữ lấy chồng nghèo khó. Nguyệt chi hoặc nhật chi tàng Kiếp tài, luận tương tự.

Gặp năm Dần, năm Thân, trong nhà không yên ổn. Nếu bản thân không bị thương hại thì ngưòi nhà cũng khó tránh điềm hung.

Nhâm Dần bạn đời không nên lấy người sinh năm Mậu, Kỷ. Nên tìm người sinh năm Bính, Đinh.

Nhâm Dần Không vong ỏ Thìn, Tỵ, các Địa chi của trụ khác không ưa gặp Thìn, Tỵ.

Người sinh năm Dần, Hợi là Kiếp sát. Nếu như tọa nhật chi, khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, con cháu nghèo khổ, không thể đứng tên để mua bất động sản.

Các Địa chi của trụ khác có Tuất, nếu như tọa nhật chi, khắc bạn đời. Nếu tọa thời chi, nên hiến thân cho tôn giáo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Nhâm Dần Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

34 chiêu thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời (P1)

Theo quan niệm nhân tướng học, tướng mạo của con người sẽ thay đổi theo tâm niệm thiện ác. Cùng tham khảo 34 chiêu thay đổi da thịt hoán đổi cuộc đời nhé !
34 chiêu thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có câu :"Hữu tâm vô tướng, tướng tuỳ tâm sinh, hữu tướng vô tâm, tướng tuỳ tâm diệt". Có nghĩa là tướng mạo của con người sẽ thay đổi theo tâm niệm thiện ác của họ. Ác tâm sinh ác tướng, thiện tâm hóa thiện tướng. Tâm chính là mấu chốt trong nhân tướng học. Xem tướng chi bằng xem tâm. Nhưng có những cách đơn giản khiến bạn thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời tốt đẹp hơn nhiều. Hãy cùng ## tham khảo nhé! 


Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 2
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 3
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 4
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 5
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 6
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 7
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 8
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 9
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 10
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 11
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 12
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 13
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 14
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 15
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 16
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 17
 

Infographic 34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P1 hinh anh goc 18
 
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem bói tử vi 2016 của bạn nhanh, chuẩn xác

Kiếm Phong
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 34 chiêu thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời (P1)

Kiến giải vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất

Để hiểu rõ hơn về lá số tử vi của người này, hãy xem vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất.
Kiến giải vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giờ Tuất là canh giờ thứ 11 trong 12 canh giờ, khoảng từ 19h đến 21h. Người sinh giờ Tuất tướng mạo không tồi, thông minh lanh lợi nhưng cuộc đời có điều trắc trở.

Kien giai van trinh tinh duyen cua nguoi sinh gio Tuat hinh anh 2
 

1. Tổng luận vận trình của người sinh giờ Tuất

  Người này thanh tú tươi đẹp, thông tuệ nhanh nhẹn, một đời có phúc nhưng vận trình có điều bất ổn, không thuận lợi hanh thông. Tuổi trẻ bình an may mắn, hậu vận có thể được thừa kế tài sản của ông bà tổ tiên hoặc được bề trên truyền lại nghề. Có thể nói, một đời người sinh giờ Tuất nói sướng thì không sướng hoàn toàn nhưng nói khổ thì cũng không khổ, là người phải bôn ba song có hỗ trợ, chưa bao giờ phải bơ vơ đầu đường xó chợ một mình. Muốn biết rõ hơn về số phận của mình, hãy xem thêm bài viết: Coi mệnh sướng khổ qua giờ sinh theo mùa.   Sinh đầu giờ Tuất thì khắc với mẹ, tính tình nóng vội, anh em không đắc lực, không giúp đỡ được gì cho nhau, áo cơm không thiệt thòi, không lo đói khổ nhưng giàu có thì còn xa. Hay hiềm khích căng thẳng với vợ, thiếu con nối dõi, tuổi trẻ cực khổ nhưng sau 37 tuổi thì có lộc.   Người sinh giữa giờ Tuất khắc cha, hầu như không có anh em ruột thịt hoặc có mà cũng như không, vô tình lạnh lẽo, kết hôn muộn. Tuổi trẻ tương đối hài hòa, công bằng liêm chính, được nhiều người ưu ái, làm việc đa tài; tiền vận và trung vận khá tốt.    Người sinh cuối giờ Tuất thì cha mẹ nhiều tai nạn, anh em vô tình, sinh con muộn, tính khí vội vàng, có báo trước làm thêm nghề phụ. Theo vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất thì vợ chồng sống với nhau tới già, rời xa quê hương thì đại cát, ở gần mảnh đất tổ tiên thì làm ăn không thuận lợi, không thể thay đổi số phận, kém tài phú.   Nam mệnh sinh vào giờ Tuất do ngũ hành thuộc Thổ nên ngoài mặt lạnh lùng mà nội tâm hừng hực, không quen biểu hiện ra bên ngoài nhưng với người mình thương yêu thì ngấm ngầm đối tốt ở phía sau. Người này ngoài lạnh trong nóng, tâm địa không xấu, thậm chí còn là người rất chân thành, nhiệt tâm, biết lặng lẽ quan tâm tới những người xung quanh mà không đòi hỏi báo đáp hay ghi ơn.   Nữ mệnh sinh giờ Tuất là người hài hòa, hoạt bát đáng yêu, khi ở chung sẽ không có cảm giác khô khan vô vị. Người này nhận được nhiều sự ưu ái, mến mộ, cuộc sống cũng tương đối dễ dàng, ít sóng gió. Dù cá tính dễ mến như vậy nhưng trong chuyện tình cảm người này lại không quá chung thủy, nên có những trường hợp bắt cá hai tay khiến vận trình rắc rối, tự mình gây họa, làm khổ bản thân.  

2. Hôn nhân của người sinh giờ Tuất


Việc sinh giờ nào có ảnh hưởng nhiều tới hôn nhân bởi mối quan hệ giữa tình yêu và giờ sinh theo tử vi là rất chặt chẽ. Cụ thể về tình duyên của người sinh giờ Tuất trong 12 tháng (tính theo âm lịch) như sau:
 

Người sinh tháng 1

  Người này vô tình gặp oan gia, chuyện nhỏ không có gì cũng thành ra tranh chấp xích mích. Khuyên bạn nên giữ hòa khí để sống nương tựa vào nhau, chê người thì rất khó để hài hòa được, trước khi trách đối phương cũng cần xem xét lại bản thân mình đã. Hôn nhân của người này tuy nhiều sóng gió ngăn trở nhưng tương lai sáng rỡ, đẹp đẽ, vợ chồng khắc khẩu nhưng không khắc tính, có thể ở với nhau lâu dài.
Kien giai van trinh tinh duyen cua nguoi sinh gio Tuat hinh anh 2
 

Người sinh tháng 2

  Tính tình kiêu ngạo, không chịu khuất phục ai, rất có ý chí, khi có chuyện thì chỉ giữ trong lòng, không chia sẻ cùng bạn đời nên khó giải quyết. Nếu muốn vợ chòng không hình khắc thì phải nhường nhịn, vun đắp cho gia đình. Kết hôn sớm, hoạn nạn mới thấy chân tình, bạn đời là người thông minh cơ trí, có thể chung sống với nhau tới cuối đời.  

Người sinh tháng 3

Dựa vào vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất, người này hôn nhân lâu dài, tình cảm ân ái rất tốt đẹp, khó chia cách nhưng có điềm phải sống xa nhau, đi làm ăn xa, ít gần gũi. Nếu giữ mình trong sạch thì đoàn tụ sẽ như thanh xuân, mặn nồng; phản bội vô tình ắt sinh tai họa. Vợ chồng không hình khắc, cả hai đều hiền lương, nên làm nhiều việc thiện cùng nhau.  

Người sinh tháng 4

  Số mệnh từ nhỏ không gặp thời nên hoa nở tuy nhiều mà vẫn chưa thực sự tốt, nếu thành tâm làm việc thiện thì vận trình sẽ được cải thiện đáng kể, hôn nhân viên mãn, con cháu đầy đàn, sinh được quý tử. Vợ chồng sống với nhau có lúc trục trặc nhưng không lớn, tu phúc tu nghiệp lành đầy đủ thì mọi chuyện sẽ hanh thông hơn, không quá đáng ngại. Có thể xem giờ sinh dự đoán tình cảm vợ chồng sau khi kết hôn để biết rõ hơn về tình hình, kịp thời có biện pháp điều chỉnh để đôi bên thuận hòa, thấu hiểu nhau nhiều hơn.
 

Người sinh tháng 5

  Hôn nhân của người này ly hợp khóc cười bất định, có nhiều sầu lo trong lòng, vợ chồng duyên cạn tựa như anh chị em cùng cha khác mẹ, tách ra rồi thì vô tình như người dưng. Họa đi thì phúc mới đến, chỉ cần chịu được vất vả, ý chí kiên định cuối cùng sẽ được đền đáp. Khuyên bạn nên có tâm tốt và nhiều hành động tích cực để vun vén cho hạnh phúc của mình, gặp ai cũng hãy đối xử tốt với người đó, thêm chút chân tình vào thì mới tốt cho bản thân.  

Người sinh tháng 6

  Nữ mệnh là hiền thê lương mẫu, một tay tề gia nội trợ đâu ra đó. Người này phúc thọ đầy đủ, nuôi dạy con cái thành người có tài, sau này vinh hiển về báo đáp cha mẹ. Vợ chồng chung sống đến bạc đầu, nếu đồng lòng mưu sự nghiệp thì phất cao và nhanh. Trong hôn nhân cần đề phòng tiểu nhân quấy nhiễu, bình tĩnh vững vàng, không phải lo nhiều vì cuối cùng đâu cũng trở lại đó thôi, không có biến cố lớn.  

Người sinh tháng 7

  Hôn nhân viên mãn song toàn, hòa hợp lương duyên, tích nhiều thiện đức. Con cháu thông minh, lòng ít ưu phiền. Xem vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất thì người sinh tháng 7 là tốt nhất, hầu như không có điều gì xấu cả, chỉ việc hưởng phúc lành, vợ chồng tốt đẹp. Tử vi của người sinh tháng 7 âm vốn nhiều điểm đặc biệt bởi tháng này là tháng cô hôn, âm dương thông mở như nếu sinh vào giờ Tuất thì hoàn toàn yên tâm, cuộc đời khá êm đẹp.  

Người sinh tháng 8

  Tình cảm vợ chồng thâm sâu, đáng ngưỡng mộ, tương kính như tân, khoan dung như bạn bè. Tình nghĩa sâu đậm, có chuyện gì cũng thương lượng cùng nhau, vượng phu ích tử, hung vượng gia tộc. Giữa vận trình có nhiều sóng gió ngăn trở nhưng trước khổ sau sướng, coi như là kiếp trước có nợ, kiếp này trả nhau. Đây là cuộc sống điển hình của mọi cặp vợ chồng, không phải lúc nào cũng ngọt ngào nhưng có lòng tôn trọng lẫn nhau, không gây ra tội lỗi nặng nề nên dễ dàng hóa giải, tha thứ, tiếp tục trọn nghĩa vợ chồng đến hết đời.

Người sinh tháng 9


Kien giai van trinh tinh duyen cua nguoi sinh gio Tuat hinh anh 2
 
Vợ chồng như đôi chim nhạn, yêu quý và hài lòng về nhau, tình cảm vô ưu, sớm chiều kề cận hưởng thụ, gia tộc có phúc nên không lo cơm áo. Người này có số nhờ bạn đời về mặt tình cảm, hai người ít quan tâm tới gia đình mà chỉ chú trọng tới việc ân ái riêng, có thể trung tuổi sẽ cùng nhau đi du lịch, ngao du sơn thủy, không phiền hà tới con cái.  

Người sinh tháng 10

  Ân đức xứng đôi, hòa thuận cùng nhau đồng cam cộng khổ. Người này có Thiên Hỉ giúp đỡ nên vận trình tình duyên tương đối tốt, kết hôn sớm và kết hôn cũng nhận được sự đồng thuận, chúc phúc của hai bên họ tộc. Hai người cần kiệm tích lũy thì gia sản tăng nhanh, giữa vận trình cũng có phong ba nhưng trước hung sau cát, gia tộc tốt đẹp.  

Người sinh tháng 11

  Do kiếp trước không tu nên thiếu nhân duyên, hai người không mấy hòa hợp, nên có một người nhường nhịn thì gia đình mới êm ấm nếu không có thể đứt gánh giữa đường. Hăng hái làm việc dễ phát tài, gia đình có tài sản tích lũy. Duyên tình không sâu, cần cố gắng nhiều trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày thì mới giữ được sự ổn định, cần học thêm đức tính nhẫn nhịn, khiêm nhường để vận trình xuôi lọt hơn.

Người sinh tháng 12

 

Vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất báo rằng người này khổ tâm cật lực kiếm tiền tài, kết hôn sớm thường vất vả nhưng vợ chồng không có tai hình, gắn bó với nhau, lấy tình cảm bù đắp cho nỗi khổ về thân thể, tư tưởng cũng bớt gánh nặng. Không được cha em anh chị giúp đỡ, tự thân lập nghiệp, gia đình hai bên không hỗ trợ nên mọi việc bắt đầu rất mệt mỏi, hai người nương tựa lẫn nhau. Khổ trước sướng sau, tiền vận bôn ba, trung vận nhiều tính toán nhưng hậu vận lại nhàn nhã, tận hưởng cuộc sống, chung vui tuổi già. Con cháu đầy đủ, có nhiều phúc lộc, không có gánh nặng.
Bạn có biết: 03h giờ 07 phút sáng chính là khung giờ bí ẩn của QUỶ? Xem phận sướng khổ cho người sinh giờ Tý Giải thích cách phân chia giờ Tý, giờ Sửu, giờ Dần,...
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến giải vận trình tình duyên của người sinh giờ Tuất

Chú ý 4 chòm sao có vận trình sự nghiệp nguy hại sau tết Thanh Minh

Sau tết Thanh Minh áp lực công việc hiển hiện rõ ràng hơn mà 4 chòm sao kém may mắn dưới đây lại không được ông trời ưu ái lắm.
Chú ý 4 chòm sao có vận trình sự nghiệp nguy hại sau tết Thanh Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Thanh Minh là dịp cả gia đình quây quần, tưởng nhớ tới người thân đã khuất nhưng nó cũng đánh dấu sự qua đi của 3 tháng đầu năm. Lúc này, áp lực công việc hiển hiện rõ ràng hơn, mọi chuyện phải đi vào guồng quay vốn có mà 4 chòm sao kém may mắn dưới đây lại không được ông trời ưu ái nên có vẻ khá bất lợi.

Chu y 4 chom sao co van trinh su nghiep nguy hai sau tet Thanh Minh hinh anh 2
 

Hạng 4: Ma Kết

  Vận khí của chòm sao Ma Kết trong tết Thanh Minh không quá tốt, Thiên Minh hình khắc, mối quan hệ nghịch chiều khiến áp lực công việc của Ma Kết cực kì lớn. Hầu hết các việc bạn làm đều mất nhiều thời gian, công sức nhưng lại vô dụng. Để tâm, nỗ lực bao nhiêu nhưng kết quả thu về lại không như mong đợi khiến Kết Kết có phần thất vọng, chán nản.   Bị người khác đoạt mất danh tiếng, trả giá nhưng không được hồi đáp, khoảng thời gian này tiểu nhân vận của Ma Kết cực kì lớn. Nhiệm vụ chính của chòm sao kém may mắn này là đối phó với những người có ý đồ xấu, muốn tranh quyền đoạt lợi của bạn. Dù năng lực tốt nhưng phải được cấp trên ghi nhận mới xem là thành công đấy nhé, cố gắng mạnh mẽ và biết tranh đấu hơn nhé.  

Hạng 3: Sư Tử

  Chòm sao Sư Tử chú ý tình trạng của mình sau tết Thanh Minh đi vì vận may kém lắm, đặc biệt tiểu nhân vận cũng rất cường thịnh, ảnh hưởng nhiều tới sự nghiệp. Quan hệ với đồng nghiệp không hòa thuận, bạn tỏ thái độ kiêu căng khó gần nên bị cô lập trong tập thể, người khác không nhiệt tình muốn hợp tác cùng bạn, hiệu quả công việc không cao. Dù cho trước đó đã có một số thành tích đáng khen nhưng nếu cứ kéo dài tình trạng này thì sẽ bị tuột dốc ngay đó Sư Tử, bạn không thể chủ quan được.   Sư Tử là người có năng lực nhưng lại chưa biết cách giao tiếp đúng mực, nhận được sự tín nhiệm của lãnh đạo nhưng không được lòng đồng sự và cấp dưới. Đặc biệt, mối quan hệ với đồng nghiệp khác giới lại còn tệ hơn. Sư Tử cần phải loại bỏ tính cố chấp, bảo thủ của mình, tiếp thu ý kiến của người khác để tự thân tăng cường may mắn đi nhé.  

Hạng 2 Song Ngư

 

Song Ngư rơi vào trạng thái mờ mịt, dễ làm ra những chuyện sai lầm do áp lực công việc quá lớn. Bạn chọn thái độ trốn tránh và bất hợp tác nên nếu làm việc nhóm thì sẽ xảy ra xích mích với đồng nghiệp. Sự mẫn cảm của Song Ngư khiến bạn nhanh chóng phát hiện ra những vấn đề trong quan hệ xã giao nhưng do lười biếng nên không mấy để tâm.
Chu y 4 chom sao co van trinh su nghiep nguy hai sau tet Thanh Minh hinh anh 2
 
Điều này khiến cho người khác cảm thấy tức giận, hơn nữa ảnh hưởng tiêu cực tới chính vị trí mà bạn đang có, Lúc muốn cứu vãn tình thế thì cũng đã muộn rồi. Song Ngư cũng cần chú ý tới vấn đề tài chính, cẩn thận kẻo bị mất trộm đồ hoặc hao hụt tài sản. Những món đồ có giá trị, những khoản tiền lớn cần được bảo quản kĩ càng, tránh phô trương, kích động lòng tham của kẻ xấu.  

Hạng 1: Nhân Mã

  Sau tết Thanh Minh, chòm sao có vận trình tệ nhất là Nhân Mã, bạn dường như vẫn còn rất mơ hồ trong khi mọi người đều đã tất bật với công việc. Sau 3 tháng đầu tiên, không còn thời gian để rong chơi hay tìm định hướng, thử thách bản thân nữa đâu mà phải nhanh chóng bắt tay vào hành động kẻo đến cuối năm vẫn chẳng thu được gì, lúc đó hối hận tự trách cũng chỉ mất công thôi.   Nhân Mã dễ đắc tội với lãnh đạo, cấp trên do tính cách vô tổ chức. Bạn cần chấn chỉnh thái độ làm việc và xác định tư tưởng của mình một cách chín chắn hơn. Vấn đề tiền bạc cũng là mối lo lớn của chòm sao này khi mà bạn không có thu nhập tốt, nhiều khoản phải chi tiêu lại có điềm hao tài, mất của, tốn kém vì những việc bất ngờ.   Để khai vận, Nhân Mã nên tích cực xin ra ngoài làm việc, nếu có cơ hội đi công tác, học tập, làm nghiệp vụ bên ngoài thì hãy xung phong ngay. Bạn xuất hành sẽ phát huy được năng lực và xua bớt không khí u ám trong vận trình sự nghiệp.
Tết Thanh Minh và tết Hàn Thực mùng 3 tháng 3 - vẹn tròn một chữ hiếu Nên chọn hoa gì đi tảo mộ trong tiết Thanh minh? 9 điều kiêng kỵ chớ làm trong tiết Thanh Minh
Trình Trình

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú ý 4 chòm sao có vận trình sự nghiệp nguy hại sau tết Thanh Minh

Kiến thức phong thủy. Sai lầm khiến công ty bị phá sản –

Một công ty phát triển không chỉ nhờ vào năng lực của nhân viên và khả năng của người lãnh đạo mà còn cần biết các kiến thức phong thuỷ sau: Kiến thức phong thủy. Thiết kế văn phòng cần phải tránh những điều sau đây để công việc kinh doanh được thuận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một công ty phát triển không chỉ nhờ vào năng lực của nhân viên và khả năng của người lãnh đạo mà còn cần biết các kiến thức phong thuỷ sau:

Kiến thức phong thủy. Thiết kế văn phòng cần phải tránh những điều sau đây để công việc kinh doanh được thuận lợi.

1. Không nên thuê văn phòng ở những nơi có nhiều công trình đang thi công

permalink-to-10-dieu-cam-ky-trong-phong-thuy-van-phong-1-VinaTro.com-1

Vị trí của văn phòng nên chọn ở những mảnh đất thông thoáng, không nên đặt cạnh những ngôi chùa đền, dưới cầu treo hoặc những nơi đang khởi công xây dựng hay đào đường…

Những tác động về địa hình ở xung quanh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm ăn kinh doanh của công ty.

2. Không nên dùng ghế rocking trong văn phòng

Ghế rocking (còn gọi là ghế bập bênh) được sử dụng phổ biển bởi mẫu mã đa dạng và trọng lượng nhẹ. Mẫu ghế bập bênh ngày nay được nhận ra qua nhiều biến đổi thiết kế và vật liệu đa dạng.
10 điều cấm kỵ trong phong thủy văn phòng, Không gian đẹp, phong thuy van phong, phong thuy cua van phong, phong thuy cho van phong, van phong, phong thuy

permalink-to-10-dieu-cam-ky-trong-phong-thuy-van-phong-2-VinaTro.com-1

Hiện nay có rất nhiều văn phòng, công ty sử dụng loại ghế này để làm việc. Ghế rocking rất tiện lợi cho phòng làm việc ở nhà bởi nó có thể dùng để thư giãn đầu óc bằng cách đung đưa ghế.

Tuy nhiên, ở văn phòng công ty, đặc biệt là đối với những người lãnh đạo thì không nên sử dụng loại ghế này. Theo phong thuỷ truyền thống quan niệm, sử dụng ghế rocking sẽ làm cho sự nghiệp của bạn cũng như công ty trở nên chông chênh và kém phát triển.

3. Không nên giữ những đồ vật sứt mẻ, han gỉ

Trong văn phòng, không nên giữ lại những chiếc cốc, lọ hoa đã quá cũ và bị sứt mẻ, không nên để lại những sản phẩm bằng kim loại đã bị han gỉ bởi theo quan niệm, nếu để đồ vật sứt mẻ hoặc han gỉ không chỉ làm thất thoát, rò rỉ tiền bạc mà còn cản trở sự giàu có và vươn lên của công ty.

4. Không nên trồng cây cảnh tuỳ theo sở thích của cá nhân

Không gian văn phòng có nhiều người sẽ làm cho không khí trong phòng trở nên ngột ngạt, cản trở luồng khí tốt lành lưu thông trong phòng. Chính vì thế cần phải trồng nhiều loại cây xanh để cải thiện môi trường và tạo không gian đẹp, thoáng đãng.

Điều đó sẽ hoàn toàn đúng nếu bạn trồng những loại cây lá rộng trong chậu để đem lại may mắn cho việc làm ăn của công ty và cải thiện mối quan hệ giữa mọi người.

Lưu ý, theo phong thuỷ truyền thống, bạn có thể trồng một số loại cây như: xương rồng, thiên thanh, kim phát tài, trúc nhật… sẽ giúp công ty tránh được những điềm xấu và gia tăng tài lộc.

5. Không nên đặt bàn của người lãnh đạo công ty một cách tuỳ tiện

Rất nhiều người quan niệm rằng, người lãnh đạo của công ty cần phải có một nơi làm việc ở vị trí trang trọng nhất. Tuy nhiên, không phải vị trí nào được coi là trang trọng trong văn phòng cũng hợp với phong thuỷ.

Người lãnh đạo cũng chính là người nắm giữ “vận mệnh” của công ty. Vì thế, đối với người lãnh đạo là nam thì nên đặt bàn ở phía Đông (Đông Nam), còn người lãnh đạo là nữ thì nên đặt bàn ở phía Tây (Tây Bắc, Tây Nam) của căn phòng làm việc.

6. Không nên để đồ đạc hư hỏng lâu ngày

Trong văn phòng hiện đại có rất nhiều các thiết bị điện tử như điều hoà, máy tính, máy in, máy phôtô… Mỗi công ty cần có những nhân viên kỹ thuật hoặc những người chuyên kiểm tra những thiết bị đó để có hướng sửa chữa kịp thời khi máy móc bị hư hỏng.

Không nên để máy móc, thiết bị trong công ty hư hỏng lâu ngày, điều đó sẽ rất dễ gây xung đột về tài chính trong công ty.

7. Không nên để cửa ra vào thông suốt với cửa sổ

Lưu ý về việc chọn lựa thiết kế văn phòng có sự hài hoà trong việc bố trí cửa chính và cửa ra vào. Cửa chính phải có khổ rộng nhất so với bất cứ một cửa nào trong công ty. Cũng có thể bố trí các cửa sổ so le với cửa chính để lưu thông không khí và lưu lại tài vận cho công ty.

8. Không nên để tình trạng nứt tường, rạn gạch

Một văn phòng do thuê lâu ngày nên có thể dẫn đến tình trạng rạn nứt tường, tường bị thấm dột hoặc gạch lát sàn bị sứt mẻ, vỡ… Những hiện tượng này có thể xuất hiện ở bất cứ không gian nào, ở bất cứ công ty nào.

Vì thế, cần phải kiểm tra thường xuyên (đặc biệt là ở những phòng quan trọng như phòng họp, phòng tổ chức hội nghị…) để có hướng khắc phục, sửa chữa kịp thời sẽ tránh được rạn nứt trong sự phát triển kinh doanh của công ty.

9. Không nên đặt bàn làm việc của nhân viên đối diện với phòng vệ sinh

Bàn làm việc của nhân viên hoặc các bộ phòng ban không nên đặt đối diện với phòng vệ sinh. Theo quan niệm của phong thuỷ, phòng vệ sinh cần được che chắn bởi một bức bình phong hay một bức tường và bố trí khuất với bàn làm việc để tránh khí ô uế, khiến cho nó không xâm nhập vào nơi nhân viên làm việc.

Ngoài ra, bàn làm việc nên làm bằng gỗ, nên tránh những loại bàn làm bằng kim loại. Không nên đặt bàn ở ngay cạnh cửa, kể cả cửa chính và cửa sổ vì sẽ gây mất tập trung, ảnh hưởng đến công việc của nhân viên trong công ty.

10. Không nên để cây to chặn cửa chính của văn phòng

Cửa chính của văn phòng luôn là nơi tràn ngập không khí và nguồn năng lượng từ ngoài vào văn phòng. Nếu đặt một cây bonsai hoặc cây có bóng to ngay cạnh cửa chính sẽ làm ảnh hưởng lớn đến tài vận của công ty. Không những thế, cây to chặn ngay cửa chính sẽ cản trở những luồng khí tốt đẹp vào công ty và rất dễ làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tâm trạng làm việc của các nhân viên.

Một lời khuyên hữu ích đó là ở các văn phòng, nên sử dụng ghế dựa hoặc cho nhân viên tựa lưng vào tường, tủ. Điều đó sẽ giúp nhân viên tập trung hơn trong công việc của mình. Đặc biệt, mỗi một văn phòng nên mua một tượng con vật linh thiêng nào đó để bảo vệ và che chở cho công ty như hổ, rùa, chim phượng…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Sai lầm khiến công ty bị phá sản –

Phong thủy bàn làm việc tuổi Kỷ Mùi –

Hướng bàn làm việc tuổi kỷ mùi 1979, phong thủy phòng làm việc và hướng bàn làm việc hợp tuổi kỷ mùi được tư vấn bởi các chuyên gia phong thủy có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề. A. Giới tính thân chủ: Nam - Năm sinh thân chủ: 1979 - Năm sinh âm lị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bàn làm việc tuổi kỷ mùi 1979, phong thủy phòng làm việc và hướng bàn làm việc  hợp tuổi kỷ mùi được tư vấn bởi các chuyên gia phong thủy có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề.

BA3-ban-lam-viec-theo-phong-thuy

A. Giới tính thân chủ: Nam – Năm sinh thân chủ: 1979 – Năm sinh âm lịch: Kỷ Mùi

Theo phong thuỷ học, việc bày đặt phòng làm việc đúng phương vị tốt lành sẽ giúp người sử dụng thêm đảm lược, trí tuệ, ảnh hưởng đến sự hưng suy trong quản lý, thành bại trong sự nghiệp.

1. Vị trí và hướng bàn làm việc

– Phương vị đặt bàn là Thần Tài của người sinh tiêu Kỷ Mùi là ở góc hướng Bắc của văn phòng.

– Bạn sinh năm 1979, thuộc Đông Tứ Mệnh, do đó bàn làm việc nên quay về một trong các hướng Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí); .

– Ngoài ra cần ghi nhớ các quy tắc:

+ Bàn phải hướng ra cửa, nhưng không đối diện thẳng với cửa phòng.

+ Sau lưng người ngồi phải có một điểm tựa (có thể là tường, tủ, …)

+ Không nên quay mặt vào tường hoặc quay lưng ra cửa phòng.

+ Không nên đặt bàn ở trung cung, tức chính giữa phòng.

+ Không đặt bàn nơi góc nhọn, góc khuất, cuối hành lang, lối đi.

+ Không đặt bàn ngay trước cột vuông hay dưới xà ngang.

+ Không đặt bàn hướng ra toilet hoặc cầu thang – Kết luận: Bạn nên đặt bàn làm việc ở góc hướng Bắc của văn phòng, và quay bàn làm việc nhìn về một trong các hướng Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí).

2. Hình dáng và màu sắc bàn làm việc:

– Bạn sinh năm 1979, có niên mệnh thuộc Hỏa, nên sử dụng bàn làm việc dạng hình thuôn, dài, với màu xanh lục, vì đây là kiểu bàn tượng trưng cho hành Mộc, theo quy luật tương sinh thì Mộc sinh Hỏa, rất tốt.

– Nên lưu ý kích thước bàn làm việc nên cân xứng với các vật dụng trên bàn, không nên quá chật làm giảm hưng phấn làm việc, cũng không nên quá rộng tạo cảm giác bất ổn.

3. Bày biện đồ đạc trên bàn làm việc:

– Nên đặt trên bàn làm việc một cột thuỷ tinh, có tác dụng ngưng tụ năng lượng trong không gian về một điểm, tăng khả năng tư duy.

– Chồng hồ sơ bên trái nên cao hơn bên phải.

– Nên đặt điện thoại ở các hướng tốt, là hướng Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Đặt một bình hoa tươi ở phía Đông bàn làm việc, giúp tạo năng lượng dương rất tốt, khuyến khích bạn hăng say làm việc.

– Đặt một cây nhỏ tươi tốt ở góc Đông Nam của bàn làm việc để thu hút tài lộc và sự thăng tiến. Tuy nhiên cần tránh cây xương rồng hoặc các cây có lá sắc nhọn. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và sum suê. Nếu cây chết, hãy bỏ ngay và thay bằng một cây khác.

– Đặt một miếng pha lê tròn ở góc Tây Nam của bàn làm việc để tạo sự hoà đồng giữa bạn với các đồng nghiệp

– Các loại đèn nên đặt ở hướng Nam của bàn làm việc, nhằm cung cấp năng lượng chủ về tên tuổi và danh tiếng cho bạn

– Tất cả các thiết bị văn phòng bằng kim loại (như máy tính) nên đặt ở hướng Tây hoặc Tây Bắc của bàn làm việc, nhớ rằng phải đặt vật thấp ở bên phải và vật cao ở bên trái.

– Đặt các tượng giả cổ màu đỏ hoặc màu tía ở góc Đông Nam của bàn tượng trưng cho sự giàu có.Cuối cùng, cần nhớ rằng, quan trọng hơn hết là bàn làm việc phải thật sự sạch sẽ, gọn gàng, thông thoáng, để sinh khí luân chuyển, tránh các dòng khí bị ngưng trệ. Bản thân điều đó thôi, đã tạo cho người sử dụng một cảm giác thật dễ chịu, một tinh thần thật sảng khoái. Và tinh thần phải sảng khoái thì mới làm việc tốt được. Âu đó cũng là ý nghĩa cao nhất của Phong Thuỷ

B. Giới tính thân chủ: Nữ – Năm sinh thân chủ: 1979 – Năm sinh âm lịch: Kỷ Mùi

Theo phong thuỷ học, việc bày đặt phòng làm việc đúng phương vị tốt lành sẽ giúp người sử dụng thêm đảm lược, trí tuệ, ảnh hưởng đến sự hưng suy trong quản lý, thành bại trong sự nghiệp

1. Vị trí và hướng bàn làm việc:

– Phương vị đặt bàn là Thần Tài của người sinh tiêu Kỷ Mùi là ở góc hướng Bắc của văn phòng.

– Bạn sinh năm 1979, thuộc Đông Tứ Mệnh, do đó bàn làm việc nên quay về một trong các hướng Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí); .

– Ngoài ra cần ghi nhớ các quy tắc:

+ Bàn phải hướng ra cửa, nhưng không đối diện thẳng với cửa phòng.

+ Sau lưng người ngồi phải có một điểm tựa (có thể là tường, tủ, …)

+ Không nên quay mặt vào tường hoặc quay lưng ra cửa phòng

+ Không nên đặt bàn ở trung cung, tức chính giữa phòng

+ Không đặt bàn nơi góc nhọn, góc khuất, cuối hành lang, lối đi

+ Không đặt bàn ngay trước cột vuông hay dưới xà ngang

+ Không đặt bàn hướng ra toilet hoặc cầu thang

– Kết luận: Bạn nên đặt bàn làm việc ở góc hướng Bắc của văn phòng, và quay bàn làm việc nhìn về một trong các hướng Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí).

2. Hình dáng và màu sắc bàn làm việc:

– Bạn sinh năm 1979, có niên mệnh thuộc Hỏa, nên sử dụng bàn làm việc dạng hình thuôn, dài, với màu xanh lục, vì đây là kiểu bàn tượng trưng cho hành Mộc, theo quy luật tương sinh thì Mộc sinh Hỏa, rất tốt.

– Nên lưu ý kích thước bàn làm việc nên cân xứng với các vật dụng trên bàn, không nên quá chật làm giảm hưng phấn làm việc, cũng không nên quá rộng tạo cảm giác bất ổn.

3. Bày biện đồ đạc trên bàn làm việc:

– Nên đặt trên bàn làm việc một cột thuỷ tinh, có tác dụng ngưng tụ năng lượng trong không gian về một điểm, tăng khả năng tư duy.

– Chồng hồ sơ bên trái nên cao hơn bên phải.

– Nên đặt điện thoại ở các hướng tốt, là hướng Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Đặt một bình hoa tươi ở phía Đông bàn làm việc, giúp tạo năng lượng dương rất tốt, khuyến khích bạn hăng say làm việc.

– Đặt một cây nhỏ tươi tốt ở góc Đông Nam của bàn làm việc để thu hút tài lộc và sự thăng tiến. Tuy nhiên cần tránh cây xương rồng hoặc các cây có lá sắc nhọn. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và sum suê. Nếu cây chết, hãy bỏ ngay và thay bằng một cây khác.

– Đặt một miếng pha lê tròn ở góc Tây Nam của bàn làm việc để tạo sự hoà đồng giữa bạn với các đồng nghiệp

– Các loại đèn nên đặt ở hướng Nam của bàn làm việc, nhằm cung cấp năng lượng chủ về tên tuổi và danh tiếng cho bạn

– Tất cả các thiết bị văn phòng bằng kim loại (như máy tính) nên đặt ở hướng Tây hoặc Tây Bắc của bàn làm việc, nhớ rằng phải đặt vật thấp ở bên phải và vật cao ở bên trái.

– Đặt các tượng giả cổ màu đỏ hoặc màu tía ở góc Đông Nam của bàn tượng trưng cho sự giàu có.Cuối cùng, cần nhớ rằng, quan trọng hơn hết là bàn làm việc phải thật sự sạch sẽ, gọn gàng, thông thoáng, để sinh khí luân chuyển, tránh các dòng khí bị ngưng trệ. Bản thân điều đó thôi, đã tạo cho người sử dụng một cảm giác thật dễ chịu, một tinh thần thật sảng khoái. Và tinh thần phải sảng khoái thì mới làm việc tốt được. Âu đó cũng là ý nghĩa cao nhất của Phong Thuỷ !

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy bàn làm việc tuổi Kỷ Mùi –

Dựa vào năm sinh chọn hướng phòng sách như thế nào? –

Có thầy phong thuỷ chỉ ra rằng, phòng sách nên chọn ở văn xương vị trong nhà. Văn xương vị được quyết định bởi hướng nhà: Văn xương vị Bắc vị Chính Nam vị Tây Bắc vị Tây Nam vị Trung cung vị Chính Đông vị Chính Tây vị Chính Bắc vị Cũng có thầy phong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có thầy phong thuỷ chỉ ra rằng, phòng sách nên chọn ở văn xương vị trong nhà. Văn xương vị được quyết định bởi hướng nhà:
Văn xương vị
Bắc vị
Chính Nam vị Tây Bắc vị Tây Nam vị Trung cung vị Chính Đông vị Chính Tây vị
Chính Bắc vị

77281_traditional_library-home
Cũng có thầy phong thuỷ khác cho rằng, có thể xác định vị trí phòng sách theo năm sinh của mình. Ví dụ:
Những người sinh năm có số tận cùng là 0 bao gồm các năm 1930, 1940, 1950, 1960, 1970, 1980, 1990, 2000, phòng sách nên đặt ở hướng Tây Bắc.
Những người sinh năm có số tận cùng là 1, bao gồm 1931, 1941, 1951, 1961, 1971,
1981, 1991, 2001 thì phòng sách nên đặt ở hướng chính Bắc.
Những người sinh năm có số tận cùng là 2, bao gồm 1932, 1942, 1952, 1962, 1972,
1982, 1992, 2002, phòng sách nên đặt ở hướng Đông Bắc.
Những người sinh năm có số tận cùng là 3, bao gồm các năm 1933, 1943, 1953,
1963, 1973, 1983, 1993, 2003 thì phòng sách nên đặt ở hướng chính Đông.
Những người sinh năm có số tận cùng là 4, bao gồm các năm 1934, 1944, 1954,
1964, 1974, 1984, 1994, 2004, phòng sách nên đặt ở hướng Đông Nam.
Những người sinh năm có số tận cùng là 5, bao gồm các năm 1935, 1945, 1955,
1965, 1975, 1985, 1995, 2005, phòng sách nên đặt ở hướng chính Nam.
Phàm những người sinh năm có số tận cùng là 6 và 8, bao gồm các năm 1936, 1938, 1946, 1948, 1956, 1958, 1966, 1968, 1976, 1978, 1986, 1988, 1996, 1998, 2006, 2008, phòng sách nên đặt hướng Tây Nam.
Những người sinh năm có số tận cùng là 7 và 9, bao gồm các năm 1937, 1939, 1947, 1949, 1957, 1959, 1967, 1969,1977,1979,1987, 1989, 1997,1999, 2007, 2009, phòng sách nên đặt hướng chính Tây.
Nếu như trong nhà bạn chọn không có nơi hợp với năm sinh của bản thân thì có thể xét rộng hơn, xét đến năm sinh của vợ hoặc chồng, của con trai hoặc con gái, tổng lại thế nào cũng có người hợp. Nếu như có một người hợp là đã có lợi cho cả nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dựa vào năm sinh chọn hướng phòng sách như thế nào? –

Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ

Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ. Cùng học tiếng Anh và giải trí với những câu hỏi hài hước về phụ nữ dưới đây.
Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ. Cùng học tiếng Anh và giải trí với những câu hỏi hài hước về phụ nữ dưới đây.

Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ

– Women: scientifically proven to be right even when they’re wrong. Phụ nữ được khoa học chứng minh là luôn đúng ngay cả khi họ sai.

– Here’s all you have to know about men and women: women are crazy, men are stupid. And the main reason women are crazy is that men are stupid. Tất cả những gì chúng ta biết về đàn ông và phụ nữ là: phụ nữ điên rồ, đàn ông ngốc nghếch. Và lý do phụ nữ phát điên là vì đàn ông ngốc nghếch.
A jealous woman does better research than the FBI.

– A jealous woman does better research than the FBI. Một người phụ nữ ghen tuông điều tra còn giỏi hơn FBI.

When a woman says “What?”, it’s not because she didn’t hear you. She’s giving you a chance to change what you said. Khi người phụ nữ nói “Cái gì”, không phải vì cô ấy không nghe rõ bạn nói gì. Cô ấy đang cho bạn cơ hội thay đổi điều vừa nói.

A woman gets the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument. Phụ nữ là người nói cuối cùng trong mọi cuộc tranh cãi. Bất cứ điều gì người đàn ông nói sau đó sẽ là khởi đầu cho một cuộc tranh cãi mới.

A woman gets the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument.

Women are like police, they can have all the evidence in the world but they still want a confession. Phụ nữ chẳng khác gì cảnh sát, họ có mọi bằng chứng trên đời nhưng vẫn mong muốn một lời thú tội.

I am the boss in this house, my wife told me so. Tôi là chủ của ngôi nhà, vợ tôi bảo vậy.

Women are like banks, they take every cent you got and give you very little interest. Phụ nữ giống như các ngân hàng, họ cầm đi từng cent bạn có và trả lại một tí lãi suất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ

Nhận biết tướng phụ nữ ngoại tình qua những đặc điểm trên nét mặt

Cùng xem tướng phụ nữ ngoại tình dễ dàng nhận ra. Nếu sở hữu một trong những đặc điểm dưới đây, bạn nên cẩn trọng khi kết thân với những đối tượng nữ giới này.
Nhận biết tướng phụ nữ ngoại tình qua những đặc điểm trên nét mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu sở hữu một trong những đặc điểm dưới đây, bạn nên cẩn trọng khi kết thân với những đối tượng tướng phụ nữ ngoại tìnhnày.


Xem nốt ruồi trên mặt phụ nữ đoán tính cách chuẩn xác
 
1. Mắt nhiều tròng trắng   Tướng phụ nữ ngoại tình trong Nhân diện học, mắt nhiều tròng trắng hay còn gọi là “mắt tam bạch”. Nếu nhiều tròng trắng ở phía trên là biểu hiện của có tâm địa bất chính, ngoan cố. Nếu nhiều tròng trắng ở phía dưới là người quỷ kế đa đoan, tâm địa gian xảo, hoang dâm, dễ ngoại tình sau khi kết hôn vì không cảm thấy thỏa mãn.   Nếu dấu hiệu mắt tam bạch đột nhiên xuất hiện trong thời gian ngắn, bạn nên cẩn thận trong các mối quan hệ và tiết chế cảm xúc. Tránh làm những việc sai trái, có lỗi với đối phương và sau này sẽ phải nói lời hối tiếc.
Dau hieu ngoai tinh tren khuon mat nu gioi hinh anh
Ảnh minh họa
  2. Nhân trung có đường vân thẳng và mảnh   Tướng lí học quan niệm rằng, Nhân trung trên khuôn mặt cũng tiết lộ phần nào dục vọng của nữ giới. Trong trường hợp ở giữa Nhân trung có đường vân thẳng và mảnh như sợi tơ nhện là dấu hiệu cho thấy người phụ nữ này có thói lẳng lơ, dễ “vượt rào” khi gặp biến cố trong cuộc sống gia đình.    3. Cung Phu thê biến sắc xanh hoặc đen   Tướng phụ nữ ngoại tình có vị trí cung Phu thê nằm ở hai đuôi mắt trên khuôn mặt. Thông thường, những người phụ nữ đoan chính, chung thủy trong tình yêu thì cung này sáng tương tự vùng da lân cận và không khuyết hãm. Tuy nhiên, ở những người có bản tính lẳng lơ, ham dục vọng thì cung này biến sắc xanh hoặc đen.    Nếu trên cung Phu thê bất ngờ xuất hiện dấu hiệu này, ngoài việc cẩn trọng trong các mối quan hệ, bạn cũng cần xem xét lại đời sống vợ chồng bởi phải có sự bất hòa hay trục trặc mới dẫn tới việc nảy sinh tâm lí bất ổn, muốn tìm đến những thứ mới lạ.   4. Sơn căn xuất hiện đường vân dọc màu đen   Đây là một trong những biểu hiện cho thấy mối quan hệ của người phụ nữ này và đối phương không hòa hợp, đang gặp trục trặc về vấn đề sinh lí. Nếu dấu hiệu kéo dài, người này sẽ dễ vướng vào các mối quan hệ phức tạp và bị cám dỗ về tình dục.   5.  Lệ đường chuyển sắc đen   Xem tướng mặt phần dưới mắt được gọi là Lệ đường. Nếu phần này nhô cao và có sắc đen là biểu hiện cho thấy người này có ham muốn tình dục mạnh mẽ và thường không hài lòng với những mối quan hệ hiện tại mà luôn muốn tìm kiếm, chinh phục những điều mới lạ. Với đặc điểm như trên về Lệ đường có thể dễ dàng nhận ra tướng phụ nữ ngoại tình hay không.   Hoàng Nam (Theo ZY)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết tướng phụ nữ ngoại tình qua những đặc điểm trên nét mặt

Top 5 chòm sao tiêu tiền như nước

Một số sao rất có tiềm năng kinh doanh, nhưng kiếm được thì cũng chi được. Họ có thói quen tiêu tiền mà không suy nghĩ, chỉ cần là món đồ họ thích thì họ sẵn
Top 5 chòm sao tiêu tiền như nước

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một số sao rất có tiềm năng kinh doanh, nhưng kiếm được thì cũng chi được. Họ có thói quen tiêu tiền mà không suy nghĩ, chỉ cần là món đồ họ thích thì họ sẵn sàng chi tiền để có thể sở hữu được chúng.

 

Top 1: Sư Tử

  Sư Tử thường hay độc đoán, họ luôn muốn họ là nhất. Trừ khi gặp phải rắc rối trong chuyện tiền bạc hoặc là rơi vào tình trạng “cháy túi” thì họ mới lên kế hoạch chi tiêu cho cá nhân mình. Còn nếu chưa phải “nếm mùi đau khổ” thì họ sẽ chẳng bao giờ quan tâm xem trong túi mình có bao nhiêu tiền. Ngoài ra, với tính cách phô trương, thích thể hiện thì họ sẽ chẳng ngần ngại gì chi những khoản lớn cho món đồ hàng hiệu.  

Top 2: Nhân Mã

  Nhân Mã không có kế hoạch trong việc chi tiêu. Chỉ cần đó là một món đồ họ thích thì họ sẽ dồn tiền để mua cho bằng được, cho dù có phải đi vay mượn. Trong một phút bốc đồng, họ có thể rút tiền thanh toán cực kỳ nhanh chóng, ngang với vận tốc của ánh sáng, mà sẽ chẳng nghĩ gì tới việc phải “kéo cày trả nợ” sau này.

Top 5 chom sao tieu tien nhu nuoc hinh anh
Ảnh minh họa
 

Top 3: Bạch Dương

Bạch Dương là người khá tiết kiệm, các món đồ cũ thường được cô nghĩ ra cách tái sử dụng rất hữu ích. Thế nhưng thói quen ấy lại dường như vô tác dụng trước các món ăn ngon. Chỉ cần là một nhà hàng sang trọng, những món ăn do những đầu bếp nổi tiếng làm, Bạch Dương sẽ chẳng ngại ngần rút hầu bao cho tới khi biết được cái giá của nó ở trên trời thì quá muộn rồi, thức ăn đã được dọn lên.   

Top 4: Ma Kết

Ma Kết sẽ làm mọi thứ để thỏa mãn sở thích của mình. Cô ấy chẳng cần quan tâm tới ngày mai sẽ ra sao, cuối tháng có thể sẽ phải ăn mỳ gói hoặc thậm chí tiền lương tháng tới không đủ để trả nợ. Chỉ cần cô ấy mình thấy một món đồ mà cô ấy thích thì tiền bạc với cô ấy … không thành vấn đề.  

Top 5: Hổ Cáp

Mua sắm là một sở thích của Hổ Cáp, và nó thực sự xa xỉ. Nếu một tháng mà Hổ Cáp không đi mua gì thì cô ấy sẽ cảm thấy vô cùng bứt rứt, khó chịu. Họ thường nói với mọi người là chỉ cần cho họ đi dạo phố, hoặc lê la hàng quán thôi cũng được, ấy thế nhưng cô ấy chẳng bao giờ chịu quay về nhà tay không. Họ không thể chiến thắng được sự cám dỗ trước một vài món đồ họ thích, nhất là đồ hàng hiệu. Thật là … thói quen chết người nhỉ?

Phản ứng của 12 chòm sao khi nhặt được tiền 4 chòm sao nữ nghiện mua sắm khét tiếng vòng tròn hoàng đạo Chỉ điểm cách 12 chòm sao tiêu tiền tiết lộ giàu nghèo 5 chòm sao nữ mê tiền hơn đàn ông tốt
 
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất

Phương Thùy (Theo Astro Sohu)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 chòm sao tiêu tiền như nước

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Tranh treo tường có cần phong thủy?

Một bức tranh đẹp nhưng không hợp phong thủy, hoặc treo không đúng chỗ cũng ảnh hưởng đến dòng chảy hạnh phúc và may mắn của gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bức tranh giúp thay đổi không gian phòng khách của bạn. Nhưng để đảm bảo hạnh phúc và may mắn, hãy chọn một bức tranh đúng theo lời khuyên của các chuyên gia phong thủy dưới đây:

1. Những điều 'nên' khi chọn treo tranh

- Chọn tranh theo năng lượng mà bạn cần. Ví dụ nhẹ nhàng và gợi cảm trong phòng ngủ, sôi động và tích cực trong phòng khách hoặc văn phòng. 

- Giữ cân bằng giữa tác phẩm nghệ thuật với không gian trống của phòng.

- Bức tường phía Bắc của nhà tương ứng với sự nghiệp và thành đạt nên hãy chọn tranh có yếu tố Thủy để cải thiện hai vấn đề này. Các bức tranh có thể về biển, đài phun nước, thác nước hay cá.

- Bức tường phía Tây tương ứng với sự sáng tạo. Với người yêu nghệ thuật, hãy treo tranh lập thể, trừu tượng là cách phá bỏ ranh giới của những điều bình thường để giải phóng sức sáng tạo vô biên của nghệ thuật.

.

Các bức ảnh của gia đình treo ở bức tường phía Đông của ngôi nhà để giúp cuộc sống luôn sinh động và tràn trề niềm vui.

- Bức tường phía Đông tương ứng với sức khỏe và cuộc sống nên nó dành cho các bức tranh gia đình để phản ánh niềm vui, hạnh phúc hoặc những cặp vợ chồng mới cưới có thể treo ảnh cưới của mình ở bức tường này.

- Bức tường đối diện với giường của bạn cần phải có những bức tranh truyền cảm hứng như những câu danh ngôn, những hình ảnh hoặc biểu tượng khiến bạn thấy tự tin hơn vào khả năng của mình.

2. Những điều 'không nên' khi chọn treo tranh

- Những bức tranh tối màu hoặc có hình ảnh liên quan đến sự lo lắng, buồn bã hay tuyệt vọng.

- 'Rác' theo định nghĩa trong phong thủy là những đồ vật bạn không dùng trong một thời gian dài hoặc bạn không thật sự cần đến chúng. Ngay cả khi bạn sắp xếp những vật này một cách ngăn nắp thì năng lượng tạo ra bởi những thứ này sẽ cản trở dòng chảy của năng lượng phong thủy. Vì thế thay vì treo nhiều mảng rời rạc của nhiều bức tranh cũ kỹ, hãy treo một tác phẩm nghệ thuật có kích thước lớn

Tranh treo tường phải có sự hài hòa của các yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

- Sau một ngày làm việc, phòng ngủ là nơi để thư giãn. Vì vậy, tránh tuyệt đối các bức tranh liên quan đến bạo lực, máu, chiến tranh... cảm giác bạo lực sẽ làm suy yếu thậm chí tiêu diệt toàn bộ năng lượng phong thủy cần thiết để bạn nghỉ ngơi.

- Bức tường phía Đông của phòng ngủ tương ứng với sức khỏe và gia đình. Bức tường này không nên để trống vì một sức khỏe yếu và mối quan hệ rời rạc trong gia đình sẽ tác động đến tất cả các mặt khác trong đời sống của bạn.

- Tốt nhất nên hạn chế các yếu tố 'Thủy' trong phòng ngủ bằng cách tránh đưa gương vào phòng, tránh các vật trang trí màu xanh nước biển là đại diện mạnh mẽ của nước. 

- Các tác phẩm nghệ thuật không nên tùy tiện lựa chọn mà phải hài hòa giữa năm yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ để cân bằng nguồn năng lượng trong nhà của bạn.

3. Một số gợi ý về chọn tranh

- Với người đã có gia đình: Tranh phong thủy mà hai vợ chồng nên chọn, quan trọng nhất, là phản ánh được cá tính của hai người, cùng với vài nguyên tắc phong thủy để tạo nên không gian riêng tư, thư giãn, thân mật và tình cảm. Đó nên là những bức tranh, khung ảnh về chủ đề hôn nhân, tình yêu, sự gần gũi, niềm đam mê.

tranh treo tường có cần phong thủy?

Những tác phẩm nghệ thuật về người khác giới có thể treo trong phòng ngủ của người độc thân để thu hút tình yêu.

- Với người độc thân: Trong khi có nhiều các lời khuyên dành cho cặp đôi thì gần như không có mấy thông tin về phong thủy dành cho người độc thân. Nếu bạn chưa lập gia đình, bạn nên tìm kiếm các bức tranh thúc đẩy hạnh phúc, sở thích cá nhân, sự yên tĩnh và ý muốn thu hút tình yêu và niềm đam mê trong cuộc sống. Hãy treo các bức tranh về tình yêu hay các hình ảnh về người khác giới phía Tây Bắc của phòng ngủ và loại những vật kỷ niệm liên quan đến người yêu cũ ra khỏi phòng.

- Với trẻ nhỏ: Trẻ nhỏ rất dễ thích nghi với môi trường xung quanh vì vậy cần cẩn thận khi lựa chọn tranh treo hoặc tranh vẽ tường cho phòng ngủ của trẻ. Đặc biệt, trẻ hoạt động rất nhiều trong phòng ngủ nên hãy tạo ra một không gian cần thiết cho chúng ngủ, mơ mộng, thư giãn, vui chơi, tưởng tượng và học tập. Thích hợp nhất là những hình ảnh mang đến cảm giác tươi sáng, hạnh phúc, màu sắc phong phú, tự nhiên như ảnh về gia đình, bạn bè, ảnh liên quan đến giáo dục như sách, địa cầu hay những bức tranh theo sở thích của trẻ. 

Hữu Nguyên Ảnh: Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tranh treo tường có cần phong thủy?

Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí

Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí, hãy cùng tham khảo nội dung bài viết dưới đây, bạn sẽ thấy câu trả lời.
Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong bát tự, giờ sinh có quan hệ trực tiếp đến vận thế của mỗi người. Vậy giờ sinh hưởng trọn phúc khí là lúc nào đối với 12 con giáp?


 

 

Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh
 

Tuổi Tý

Xem giờ sinh 12 con giáp. Người tuổi Tý có Ngũ hành thuộc Thủy, phương vị chính Bắc. Nếu được sinh ra vào khoảng thời gian đêm khuya, chính là 21 giờ - 23 giờ là thích hợp nhất, họ sẽ luôn vui vẻ hạnh phúc.  

Tuổi Sửu


Người tuổi Sửu có Ngũ hành thuộc Thổ, sinh ra vào giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ sáng) hoặc giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) thì năm sinh và giờ sinh sẽ tạo ra một phần của Tam hợp kim cục: Tỵ - Dậu - Sửu. Mệnh chủ có giờ sinh này khi nhỏ được trưởng bối yêu thương, về già có con cháu hiếu thuận.
 
  Bí pháp phong thuỷ vượng vận 2016
Cổ thư dạy: Đạo phong thủy, lấy căn gốc từ việc an thân, không thể không xem. Cửa chính là con đường nạp khí cho gia trạch, vì vậy nó có ảnh

Tuổi Dần


Người tuổi Dần có Ngũ hành thuộc Mộc, phương vị Đông Bắc (hay chính là Cấn trong Bát quái). Nếu mệnh chủ được sinh ra vào giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ), có ngụ ý Núi cao đón gió, sẽ là người có địa vị trong xã hội.

Tuổi Mão


Người tuổi Mão có giờ sinh là giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) thì đạt được nhiều phúc khí nhất, đó là bởi vì Mùi là Thái Âm, đại diện cho mặt trăng, thích hợp với mệnh chủ năm Mão.
 

Tuổi Thìn

 
Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh 2
 
Người tuổi Thìn có Ngũ hành thuộc Thổ. Đại trạch là nơi tập trung Thủy, Thìn là hồ chứa nước, nên nếu được sinh ra vào giờ Tý (23 giờ - 1 giờ), hình thành mệnh cục: Thìn quy đại hải, vận thế vô cùng tốt.
 

Tuổi Tỵ


Người tuổi Tỵ có Ngũ hành thuộc Hỏa. Khi được sinh ra vào giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) thì "rắn hóa rồng", nâng cao mệnh cục của người đó.
 

Tuổi Ngọ


Người tuổi Ngọ là con giáp có Ngũ hành thuộc Hỏa. Sinh vào giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) thì vận thế hanh thông, vào giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) sẽ nhận được phú quý.
 

Tuổi Mùi

 
Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh 3
 
Tuổi Mùi có Ngũ hành thuộc Thổ điền viên. Khi được sinh ra trong giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ), tính cách ôn hậu có đức, cương nhu phối hợp, có kiếu ngoại giap, điều này đặc biệt tốt đối với sự nghiệp.

 

Tuổi Thân


Người tuổi Thân có Ngũ hành thuộc Kim. Nếu được sinh ra vào giờ Tý (23 giờ - 1 giờ) hoặc giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ), tạo thành một phần của Tam hợp Thủy cục: Thân - Tý - Thìn, thì cả đời bình an, cát tường.
 

Tuổi Dậu


Người tuổi Dậu sinh vào giờ Dần (3 giờ - 5 giờ), thì theo mệnh lý đây là cách cục tốt nhất, cả cuộc đời thuận lợi, may mắn.
 

Tuổi Tuất

 
Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh 4
 
Người tuổi Tuất khi sinh vào giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ) hoặc giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) thì cả cuộc đời gặp phúc khí, ít gặp điều phiền phức.
 

Tuổi Hợi


Người tuổi Hợi có Ngũ hành thuộc Thủy, hơn nữa là Thủy thiên hà. Khi được sinh ra vào giờ Mão (5 giờ - 7 giờ) hoặc giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) thì cả đời phúc lộc không ngừng.
 
=> Xem ngày tốt, giờ hoàng đạo chuẩn nhất tại Lichngaytot.com


Chi Nguyễn

Xem Clip về Nhân duyên: Nghiệt duyên và chữ duyên  
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd