Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Lâu nay, nói đến mâm ngũ quả, người ta hay liên tưởng đến ý nghĩa đơn giản từ việc mượn tên các loại quả để nói lên khát vọng về “cầu vừa đủ xài sung…”. Thực ra, nó vẫn là hơi hám tàn dư của tín lý phồn thực.
Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là “mâm ngũ quả”. Ở Trung bộ gọi là mâm “quả tử” – nghe ra tuồng như lưu ý đến hạt/tử, hay nói rõ là “quả có hạt”, hơn là quả nói chung, tức có hơi hám của tàn dư tín lý phồn thực: cầu mong sự sinh sản, gieo một hạt được trăm hạt, nhất bản vạn lợi.


Một biến thể “mượn tên”

Hỏi kỹ ra gọi là ngũ quả nhưng không ai rõ quy định là những thứ quả gì mà dường như tuỳ địa phương, tuỳ sự được mùa quả từng năm mà người ta chọn mua hay hái để dâng cúng tổ tiên.
Tiêu chuẩn lý tưởng là quả tốt, có màu sắc đẹp và càng có giá trị là các loại quả quý hiếm. Điều kiêng kỵ là các loại quả có tên gọi đồng âm với từ có nghĩa xấu theo đó, cá biệt có nơi người ta kỵ cam (cam chụi), chuối (chúi: chúi đầu, chúi mũi; tức vất vả)… Ngược lại, cũng theo tên gọi, các loại trái ở Nam bộ, người ta thích thơm (thơm tho, thơm danh), sung (sung túc); đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); quá mức đầy đủ một bậc mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung)… Nói chung, mâm “ngũ quả” như vậy là một biến thái có thể coi là mới mẻ mà xu hướng chủ đạo là “tá âm”.

Ngũ - biểu hiện sự sống

Truy nguyên cội nguồn của mâm ngũ quả buộc chúng ta phải xem xét đến hai thành tố của tên gọi: ngũ (số 5) và quả (trái cây), rồi sau đó mới nói đến ngũ quả.

Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Người ta tìm thấy nó ở ngăn giữa Lạc thư. Tự dạng chữ “ngũ” nguyên thể có hình chữ thập của bốn nguyên tố, cộng với điểm trung tâm. Sau này, hai vạch song song được chêm vào đấy, tức trời và đất mà giữa chúng, âm và dương tạo nên năm nguyên tố tương tác sinh khắc của vạn vật, gọi là ngũ hành. Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, thường cho rằng các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5. Trong Đại từ điển, “ngũ” có đến mười hai nghĩa và một ngàn một trăm bốn mươi tám từ kép ghép với nó. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây “ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.

Đối với cư dân nông nghiệp ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo, thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ đạo và ngũ quả (trái cây nói chung) là thứ yếu. Do đó, theo Chiêm thư người ta thường quan sát sự tốt xấu của “ngũ quả” sau đây để dự đoán việc được mùa của ngũ cốc: 1) Mận chủ vào đậu; 2) Hạnh chủ về lúa mì; 3) Đào chủ vào tiểu mạch; 4) Lật (hạt dẻ) chủ vào nếp hương; 5) Tảo (táo) chủ vào lúa. Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ biến trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn” của năm thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc dâng lễ vật nào đều có thể là cách biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở đây, đối với người nông dân thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa ngũ cốc.

Quả - biểu tượng của sung túc

Trái cây là thứ lễ vật xuất hiện khá sớm trong việc cúng kiếng bên cạnh các loài thú hiến tế (heo, bò, dê: tam sinh; hoặc bình dân hơn: gà, vịt, tôm, cua, cá). Theo khoa nghi nhà Phật, trong danh mục lễ vật lục cúng hay thập cúng có hương (nhang), đăng (đèn), hoa, trà, quả, thực… Tuy nhiên, ở đây, nghi lễ nhà Phật cũng không quy định rõ là quả gì.

Quả/trái cây nói chung là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất tử-hiểu theo nghĩa là sự nối truyền dòng giống miên viễn. Theo chiều hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết; giữa cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế…

Trong văn hoá, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng- hoặc theo sự đồng âm của nó hoặc nó được xác định bởi các tình tiết văn học truyền kỳ, thần tiên…

Lựu được biểu trưng cho sinh con (lựu khai bách tử), dưa hấu nhiều hạt cũng có ý nghĩa tương tự như lựu. Mơ, đào, bầu, phật thủ… đều có ý nghĩa biểu trưng riêng, song đều hội ý chúc tụng cát tường, như ý.

Tóm lại, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết của chúng ta là một “sản phẩm văn hoá” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo” và bắt nguồn từ cái nhìn liên tưởng mang tính chất trải nghiệm từ thực tế sinh trụ dị diệt của thực vật.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tín lý phồn thực qua mâm ngũ quả

Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven

Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven. Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức
Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven. Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở Wien, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp nơi công nhận là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại và ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau.

Năm 1781, Beethoven 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn. Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, bản “Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler”. Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm.

Năm 1795, Beethoven bắt đầu nổi danh là một nghệ sĩ piano với bản Concerto cung do trưởng. Nhưng chẳng may từ năm 1780 ông bắt đầu bị lãng tai. Lúc đầu ông mất hết hy vọng nhưng rồi cố gắng thích nghi với điều kiện sống và bắt đầu tập trung tư tưởng tình cảm cao độ hơn bất cứ lúc nào hết trong sáng tác.

Những tác phẩm của Beethoven hoàn thành trong khoảng 1803-1805 vượt trổi hẳn những gì mà ông sáng tác trước đó. Đó là bản Sonate Kreutzar (1803) viết cho violon và piano. Bản Giao hưởng Số 3 Anh hùng ca (1804) có sức cuốn hút mạnh mẽ và gây xúc động sâu xa, lúc đầu ông đề tặng Napoléon nhưng khi Napoléon lên ngôi Hoàng đế thì ông đã xé đi lời đề tặng. Các Sonate cho piano, Bình minh (1804) và Appasionta (1805), Bản Giao hưởng Số 4 (1806), Bản Giao hưởng Số 5 Định mệnh (1808) đều có giá trị nghệ thuận lớn lao. Ông muốn lột tả trong âm thanh về một cuộc sống trong sự đấu tranh với cái chết bằng một sức mạnh khủng khiếp cuối cùng đã ca khúc khải hoàn, như nhân vật nữ trong vở Opera Fidelio (1805) ra sức bảo vệ người chồng của mình chống lại sự xấu xa bạo tàn, và trong khúc Missa Solemnis là lời cầu nguyện để giải thoát khỏi đau thương chiến tranh.

Trong số những tác phẩm lớn của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Eroica (giao hưởng Anh hùng ca), Giao hưởng Định mệnh, số 9, The Pastoral (Giao hưởng đồng quê), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Thống thiết (Pathétique) và Ánh trăng (Moonlight)…

Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven

Âm nhạc là nhà hòa giải giữa cuộc sống thể xác và cuộc sống tâm linh.

Music is mediator between spiritual and sensual life.

Âm nhạc là sự giác ngộ cao hơn cả triết học và tri thức.

Music is a higher revelation than all wisdom and philosophy.

Âm nhạc khơi ngọn lửa trong tim người đàn ông và dâng lệ lên mắt người phụ nữ.

Music should strike fire from the heart of man, and bring tears form the eyes of woman.

Hãy dạy cho con cái anh đức hạnh; bởi chỉ có nó chứ không phải tiền bạc là có thể đem lại cho con cái anh hạnh phúc. Tôi nói điều này từ trải nghiệm bản thân.

Recommend virtue to your children; it alone, not money, can make them happy. I speak from experience.

Người nào nói dối không có trái tim trong trắng, và không thể nấu súp ngon.

Anyone who tells a lie has not a pure heart, and cannot make a good soup.

Nghệ thuật! Ai hiểu được nàng? Ta có thể gặp ai để hỏi về vị nữ thần vĩ đại này?

Art! Who comprehends her? With whom can one consult concerning this great goddess?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay của Beethoven

Tư thế đứng hé lộ con người bạn

Bạn thường đứng trong tư thế hai tay chống hông, hay bắt chéo tay trước ngực? Nó phản ánh rất rõ tính cách của bạn đấy nhé!
Tư thế đứng hé lộ con người bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đáp án:

A. Hai tay chống hông.

B. Hai tay nắm hờ hoặc đan xen vào nhau trước bụng.

C. Một chân đứng thẳng, chân kia để ở tư thế thoải mái, hơi cong hoặc bắt chéo.

D. Hai tay đút trong túi quần.

E. Tư thế đứng không cố định, luôn thay đổi không ngừng.

ImageHandler-5367-1401641503.jpg bung-1-3003-1401641503.jpg 28987896-4629-1401641504.jpg images-3195-1401641504.jpg apr19100801-8222-1401641504.jpg
A B C D E

Mr.Bull

catinh-1401439804-362x0-7466-1401641504.

Đọc vị cá tính của bạn qua hình ảnh

Bạn nhìn thấy điều gì trong 3 hình ảnh dưới đây?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tư thế đứng hé lộ con người bạn

Những lưu ý khi trang trí nhà cho người mệnh Thổ

Người mệnh thổ hợp với các màu đỏ, vàng và các đồ dùng bằng gốm sứ hay đá. Căn cứ theo các đặc tính của thổ để trang trí nhà ở đúng cách sẽ giúp những người thuộc mệnh này gặp hanh thông trong cuộc sống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong mối quan hệ ngũ hành và màu sắc, Thổ có màu vàng. Theo nguyên lý tương sinh, màu sắc có lợi nhất cho người mệnh Thổ là màu đỏ và các màu phát sinh của nó như tím và hồng.

Những người mệnh Thổ nên lựa chọn các màu này làm gam màu chủ đạo trong nhà để tạo ra một môi trường sống có lợi cho mệnh của mình. Về lâu dài, cuộc sống và sự nghiệp người mệnh Thổ sẽ thuận lợi.
 

Màu đỏ là màu có lợi nhất cho người mệnh Thổ.



Mặt khác bạn cũng có thể sử dụng màu của hành thổ là vàng hay các màu phái sinh của nó là vàng nhạt, vàng cam cho các vật dụng trong nhà. Điều này cũng hỗ trợ tốt cho người mệnh Thổ.



Ngoài ra, do Thổ sinh Kim, người mệnh Thổ có thể sử dụng màu trắng, nhưng chỉ nên với số lượng vừa phải. Do Mộc khắc Thổ, màu kỵ nhất đối với người mệnh Thổ là xanh lá cây, màu phái sinh xanh lam và màu gỗ. Bởi vậy người mệnh Thổ không nên sử dụng những màu này để trang trí nhà.
 

Người mệnh thổ có thể dụng màu trắng.


Nhưng lại kị màu xanh.



Người mệnh Thổ nên sử dụng các đồ vật có nguồn gốc từ đất, điển hình nhất là chất liệu gốm sứ. Hiện nay đồ gốm sứ ngày càng phong phú, tiện dụng, tinh tế như các loại đồ đựng, bình cắm hoa và nhiều đồ trang trí khác.

Ngoài ra, các loại đá, đặc biệt là đá cẩm thạch cũng là những đồ dùng thuộc thổ, sẽ có tác dụng hỗ trợ cho người mệnh này. Bạn có thể sử dụng chúng để lát bề mặt tủ, bàn ăn, bàn uống nước...
 

Chất liệu đá cũng tốt cho người mệnh Thổ.


Những đồ dùng bằng gỗ có thể gây ra tổn hại cho người mệnh Thổ, vì vậy nên hạn chế hoặc tránh sử dụng.

Do Thổ sinh Kim, người mệnh Thổ có thể sử dụng các vật dụng kim loại, vừa thời thượng, lại thuận tiện và dễ sử dụng. Trên thị trường, các đồ dùng văn phòng, tủ quần áo, tủ bếp bằng kim loại ngày càng trở nên phổ biến, mang lại cho người dùng nhiều sự lựa chọn. Tuy nhiên, người mệnh Thổ chỉ nên dùng với số lượng vừa phải.
 

Người mệnh Thổ có thể sử dụng các vật dụng bằng kim loại


Loài động vật đại diện cho mệnh thổ là loài chó, người mệnh Thổ nên trang trí hình con vật này trong nhà.

Những người mệnh Thổ nên trồng 5 hoặc 10 chậu cây trong nhà, các loại cây nên trồng là hàm tiếu, mễ lan, quế hoa, lục thảo trổ cây vạn tuế, dứa dại.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý khi trang trí nhà cho người mệnh Thổ

Phòng khách hiện đại với những bộ sofa sang trọng

Thoạt đầu khó có thể nhận ra đây là phòng khách, có thể bạn cho rằng đấy là góc riêng của gia chủ trong một gian phòng nào đó, ví dụ như phòng ngủ, phòng làm việc …

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhưng khi nhìn lại một cách tỉ mỉ hơn bạn mới phát hiện rằng nơi đây là không gian để cho sự sáng tạo được thăng hoa, nâng niu từng cảm xúc với sáng tạo cuộc sống được tốt đẹp hơn.

Nếu như thế thì quả thật là không đúng, đây là thành quả của sự kết hợp giữa tính sáng tạo và nét hiện đại, phòng khách trở nên thật duyên dáng với không gian thật rộng lớn, đây là phong cách cho những ai có niềm đam mê sáng tạo và không thích sự cầu kỳ, phô trương.

bo-sofa-voi-hien-dai-voi-mau-cam-lam-noi-bat-can-phong

Khoác chiếc áo mới cho không gian thêm ấn tượng

bo-sofa-thiet-ke-ky-la-doc-dao

Hài hòa cùng vẻ đẹp duyên dáng của bộ sofa

Không gian căn phòng trở nên “vô tận” bởi vẻ đẹp đơn giản, hài hòa màu sắc của vách tường được phối hợp với bộ ghế sofa không quá cồng kềnh, bàn uống được lượt bỏ đi thay thế cho tấm thảm dệt bằng những chất liệu thiên nhiên.Trong khi đó, màu sắc của bộ ghế khó có thể lột tả hết được vẻ đẹp hiện đại và trẻ trung, kết hợp thật tao nhã với kiểu ghế duyên dáng và thanh lịch … tất cả đã tạo nên một giá trị hiện đại đầy sự sáng tạo của căn phòng.

bo-sofa-mau-xanh-trong-can-phong-phong-cach-zen
Thanh lịch hiện đại

bo-sofa-don-gian-nhung-an-tuong
Đơn giản nhưng ấn tượng

Cuộc sống luôn vận động và thay đổi, hãy biến tấu và sáng tạo cho từng khoảnh khắc cho không gian sống của mình càng ấn tượng hơn. Nhất là đối với phòng khách – vốn là căn phòng “trung tâm” của cả gia đình, để mọi thành viên sum họp vui vẻ; đây cũng là nơi để tiếp đón những vị khách quí. Hy vọng rằng với sự sáng tạo như thế sẽ mang lại cho bạn một sự hãnh diện đầy chất sống cho bạn.

bo-sofa-xanh-com

Phòng khách đơn giản với bộ sofa không có bàn mầu xanh cốm độc đáo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng khách hiện đại với những bộ sofa sang trọng

Màu sắc lòng bàn tay nói gì về bạn

Nếu bẩm sinh lòng bàn tay của bạn đã có một màu sắc nhất định, nó ít nhiều sẽ tiết lộ những nét tính cách thú vị của bạn.
Màu sắc lòng bàn tay nói gì về bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lòng bàn tay màu hồng

Cá tính thẳng thắn, trung trực và sảng khoái, có sức hấp dẫn đặc biệt, khiến người tiếp xúc có cảm giác dễ gần và vui vẻ. Vì vậy, bạn đi đến đâu cũng rất được hoan nghênh, sự nghiệp cũng dễ dàng phát triển lớn mạnh.

Lòng bàn tay màu đỏ

Tính tình nóng nảy và bộc phát, dễ xử sự theo tình cảm. Chỉ cần gặp phải chút trắc trở, bạn rất dễ bỏ cuộc và cũng thường có hành vi kích động.

mau-sac-long-ban-tay-noi-gi-ve-ban

Lòng bàn tay màu vàng

Thông thường bạn có thể chất hơi yếu đuối, tính tình hướng nội và cô độc, hay sợ sệt và thiếu quyết đoán. Thái độ tiêu cực nên khó làm nên việc lớn.

Lòng bàn tay xanh xao nhợt nhạt

Nội tâm của bạn vô cùng nhạy cảm, tâm trạng dễ dao động và rất hay để tâm đến lời nói, suy nghĩ của người khác. Bạn hay sầu não vì những chuyện nhỏ nhặt, cuộc sống khó vui vẻ.

Lòng bàn tay màu trắng

Bạn thiếu tinh thần và sức sống, thể lực kém, tâm trạng thiếu ổn định nên khó được người khác tín nhiệm. Tính tình hướng nội, không giỏi biểu đạt nên các mối quan hệ xã giao cũng không tốt.

Lòng bàn tay màu đen

Cơ thể yếu ớt, tâm trạng hướng nội và rất khó để giao tiếp với người khác. Bạn thường thu mình trong vỏ bọc tự tạo và có xu hướng sống cô lập.

Khang Ninh (theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc lòng bàn tay nói gì về bạn

Top 3 con giáp trong tình yêu luôn chung thủy - Tuổi mão - Xem Tử Vi

Top 3 con giáp trong tình yêu luôn chung thủy, Tuổi mão, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 3 con giáp trong tình yêu luôn chung thủy, tu vi Top 3 con giáp trong tình yêu luôn chung thủy, tu vi Tuổi mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 3 con giáp trong tình yêu luôn chung thủy

Cùng 12 con giáp điểm danh những con giáp luôn là người yêu lý tưởng và là chỗ dựa tinh thần bình an cho nửa kia của mình. Bạn có đang sở hữu một người yêu như thế ?

Tuổi Hợi

Theo Tử vi những người cầm tinh con lợn vô cùng thận trọng khi yêu, nhưng đã yêu lại rất mãnh liệt. Họ lãng mạn, tỉ mỉ và tinh tế, nên những người yêu tuổi Ngọ lúc nào cũng có cảm giác tình cảm rất nồng nàn,không muốn rời xa. Hơn nữa, con giáp này thường xác định chuyện tương lai lâu dài nên một mực kiên trì theo đuổi mục tiêu.
Cùng với đó trong tình yêu, tuổi Hợi rất mạnh mẽ, dứt khoát. Nếu như có chuyện hai người phải chia tay, thì đó là vì đối phương chưa đủ trân trọng con giáp này.

  top-3-con-giap-trong-tinhTop con giáp trong tình yêu luôn chung thủy

Tuổi Ngọ

Đối với người tuổi Ngọ nhan sắc có thể có hạn, nhưng tự tin thì có thừa. Họ chắc chắn về bất kỳ quyết định nào của mình. Hơn nữa, người cầm tinh con ngựa còn có suy nghĩ sâu sắc, chín chắn nên hiếm khi họ thay đổi hay hối hận. Nguồn năng lượng dồi dào này còn giúp người tuổi Ngọ luôn kiên định với mối tình của mình và đủ sức, đủ tâm đề vun đắp cho nó ngày càng lớn dần lên.
Ngoài ra con giáp này luôn tự tin khẳng định mình chính là một lựa chọn hoàn hảo cho nửa kia, nên chỉ có chuyện bạn nói chia tay trước, chứ không bao giờ có chuyện họ nghĩ tới chuyện sẽ rời xa người yêu của họ.

Tuổi Mão

Theo xem tuổi vợ chồng thì nếu bạn yêu một người tuổi Mão bạn sẽ hoàn toàn tin tưởng về lòng chung thủy và độ kiên định của con giáp này. Người tuổi Mão biết đâu là thế mạnh và điểm yếu của mình, nên sẽ cực kỳ chăm chút cho nửa kia để bù đắp cho những thiếu khuyết đó. Hơn nữa, người cầm tinh con mèo còn khó bị lung lay trong những quyết định, nhờ vậy mà người yêu của họ càng có cơ sở để tin tưởng vào tình yêu nhiều hơn.
Ngoài ra, người tuổi Mão quan niệm tình yêu phải dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, tình cảm chân thành nên trước khi quyết định sóng đôi với ai đó, họ nâng lên, đặt xuống rất kỹ lưỡng. Chính vì vậy họ không phải lo ngại về điều gì đó ảnh hưởng tới tình duyên của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp trong tình yêu luôn chung thủy - Tuổi mão - Xem Tử Vi

Chu dịch và Kinh dịch

Chu dịch và Kinh dịch hay nói đúng hơn là Chu dịch và Bói Dịch không hòan tòan giống nhau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng.
- Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng

Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.

Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng
Quẻ năm hào .Ví dụ: quẻ Giá sắc
Nội dung :                              Dịch nghĩa :
Thả thủ quân tử phận.             Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn.         Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn          Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên          Làm lành vậy mới yên

Quẻ sáu hào . Ví dụ : Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
Ý nghĩa : Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đóan : Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.


Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ

Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch : Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng : Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ :
- Sơ lục : Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch : Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị : Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam : Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ : Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch : Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ : Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch : Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu : Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch : Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.

Hai lọai dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.

1/ Thư yết Âm Dương- Ngũ Hành :
a- Sự hình thành Âm Dương :
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.



Cực Nam

 

Cực Bắc

Hình lưỡng nghi

Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng:. Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “ cầu lửa”.
Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.

Ví dụ : không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm –Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm

Hình tứ tượng

Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”

b- Ngũ Hành :
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.

Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.

3/ Thuyết Thiên Địa Nhân : Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên : Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí : Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa : Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái

2/ Hà Đồ – Lạc Thư :
Hà Đồ- Lạc Thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ-Lạc Thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà Đồ - Lạc Thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng .
a- Hà Đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau : 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.

Hình Hà đồ


b-Lạc Thư : Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5




Hình Lạc Thư

Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái :
1/ Thiên Bát quái : ( biểu đồ tiết khí)



Bốn Mùa

 

Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương , cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.


 

Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ : Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân ; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí :
- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6

Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như : thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau :
- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.

2/ Địa bát quái : ( biểu đồ địa lý phương hướng)
Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo

 


Ví dụ : Địa bát quái                                                         Hậu Thiên bát quái

 

Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy

So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy

Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :

- Cấn : Tiết lập xuân,
- Chấn : Tiết xuân phân
- Tốn : Tiết lập hạ
- Ly : tiết hạ chí
- Khôn : tiết lập thu.
- Đòai : tiết thu phân
- Kiền : tiết lập đông
- Khảm : tiết đông chí

Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết : “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn.”
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên : “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông . Gọn gàng ở Tốn , Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ . Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.


Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau :
- Đế xuất hồ Chấn : là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.

Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau :
Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.

Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....

Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.

Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu ?

Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.

Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :


Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.

Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.

Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren ( Tọai Nhân), sau đó họ You Chao ( Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa ( Nữ oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “ cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” ( chữ khoa đẩu ?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi ; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày” , mở chợ lập làng , tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.

Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào , tổ tiên của người Hàn quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví : bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng .

Ở Trung hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.

“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường xử dụng.

Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương ngũ hành , Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói : “ Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.

Để giải thích, Chu Hy viết : “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”

Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiế
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu dịch và Kinh dịch

Giải mã bí ẩn thứ tự sắp xếp 12 con giáp của người xưa

Không phải ngẫu nhiên thứ tự sắp xếp 12 con giáp lại là Tý, Sửu, Dần, Mão... người xưa đặt như vậy là có ẩn ý vô cùng sâu sắc.
Giải mã bí ẩn thứ tự sắp xếp 12 con giáp của người xưa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải ngẫu nhiên 12 con giáp lại có thứ tự sắp xếp Tý, Sửu, Dần, Mão... người xưa đặt như vậy là có ẩn ý vô cùng sâu sắc.

  Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, sự sắp xếp 12 con giáp mà chúng ta đã quá quen thuộc từ xưa đến nay nhưng lại rất ít người biết vì sao lại có một thứ tự như vậy. Đây không phải sự ngẫu nhiên mà người xưa đã chọn để đặt các con giáp cạnh nhau một cách có 'chủ ý' vô cùng đặc biệt.

 

1. Cặp số 1: Tý và Sửu


Giai ma bi an thu tu sap xep 12 con giap cua nguoi xua hinh anh 2
Tý và Sửu
Nếu như chuột tượng trưng cho một cá thể khôn ngoan, nhanh nhẹn, thông minh đến đáng ngạc nhiên thì trâu lại là hình tượng số 1 cho tính cách siêng năng, cần cù, chịu khó không quản khó khăn, vất vả.
 
Suy rộng ra, nếu như một người chỉ có thông minh, nhanh nhảu mà lười biếng, ngại khó thì chỉ mãi mãi là một kẻ khôn vặt. Nhưng một người chỉ biết chăm chỉ làm việc mà không suy nghĩ, thiếu đầu óc thì làm việc gì cũng không thành.
 
Chính vì vậy, cặp đôi chuột và trâu đại diện cho việc phải luôn rèn luyện đầu óc đồng thời đi đôi với sự chịu khó, chăm chỉ. Trí tuệ gắn liền với sự siêng năng thì mới có thể thành công được.
 

2. Cặp số 2: Dần và Mão

 

Giai ma bi an thu tu sap xep 12 con giap cua nguoi xua hinh anh 2
Dần và Mão
Hổ tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm. Mèo lại là con vật rất nhanh nhẹn và khôn ngoan. Có lẽ chính vì những đặc tính này mà cặp đôi này sẽ tốt hơn nếu đặt cạnh nhau.
 
Một người chỉ có sức mạnh những lại thiếu sự tính toán thì cũng chỉ trở thành 'hữu dũng vô mưu' mà thôi. Nhưng nếu một người khôn ngoan, hông minh nhưng lại không đủ sức mạnh, dũng cảm thì cũng chỉ dừng ở mức bình thường, không làm được nhiều việc lớn bằng chính sức mình.

 

3. Cặp số 3: Thìn và Tỵ 

 
Giai ma bi an thu tu sap xep 12 con giap cua nguoi xua hinh anh 2
Thìn và Tỵ
Rồng chính là hình tượng cho sự uy quyền, bền bỉ và vững chắc. Rắn lại là loài có sự nhanh nhảu, linh hoạt hàng đầu. Hai đức tính, hai tính chất này kết hợp lại với nhau chính là đặc thù hoàn hảo nhất dành cho một người có thể làm nên việc lớn, làm nên những đại sự trong đời.

 

4. Cặp số 4: Ngọ và Mùi 


Giai ma bi an thu tu sap xep 12 con giap cua nguoi xua hinh anh 2
Ngọ và Mùi

 
Ngựa là đại diện cho sự kiên quyết, kiên trì nhưng đôi khi lại bướng bỉnh không chịu nổi. Trong khi đó dê lại là một cá thể vô cùng chu đáo, cẩn trọng trong mọi thứ.
 
Một người có mục tiêu, có sự kiên quyết phấn đấu là vô cùng tốt. Tuy nhiên, đôi khi chính vì sự kiên quyết quá trớn dẫn đến cố chấp, khó thay đổi và tuột hậu lại phía sau so với người khác.
 
Ngược lại, một người luôn thận trọng trong mọi thứ sẽ rất khó tìm ra được chính kiến cho bản thân, khó bứt phá và tạo nên sự chuyển biến.
 
Chính vì vậy, trong cuộc sống, 2 tính cách này phải luôn đi song hành mới có thể thành công được. Một người vừa có sự kiên quyết, chủ động, có cá tính riêng đồng thời cũng luôn thận trọng và biết xem xét mọi thứ, chịu lắng nghe chắc chắn sẽ thành công.
 

5. Cặp số 5: Thân và Dậu 

 
Giai ma bi an thu tu sap xep 12 con giap cua nguoi xua hinh anh 2
Thân và Dậu
Khỉ thì linh hoạt, luôn thích bay nhảy tung tăng. Còn gà lại là đại diện của sự ổn định. Mỗi ngày gà đều được con người tin tưởng dùng đồng hồ báo thức để báo hiệu một ngày mới. Chính vì vậy, gà và khỉ khi kết hợp có ý nghĩa là sự linh hoạt nhưng vẫn phải có ổn định.
 
Nếu như bạn cứ sống một cuộc sống hay thay đổi, bạn nhanh nhạy nhưng thiếu sự ổn định cũng sẽ khiến mọi việc trở nên hấp tấp, kết quả không bền vững. Tuy nhiên, nếu bạn chọn sống ổn định mãi cũng sẽ trở thành trì trệ, kém linh hoạt, lại càng không tốt.
 
Sự kết hợp này là hoàn hảo nhất.
 

6. Cặp số 4: Tuất và Hợi 


Giai ma bi an thu tu sap xep 12 con giap cua nguoi xua hinh anh 2
Tuất và Hợi

 
Chó là một loài động vật trung thành, trong khi lợn là loài vật hiền hòa. Một người trung thành mà không niềm nở sẽ khó lòng hòa nhập với tổ chức và ngược lại, một người quá dễ tính mà không trung thành với một cái gì đó cố định họ sẽ dễ dàng đánh mất đi các nguyên tắc của họ.
 
Có thể nhận thấy không một ai trong chúng ta sinh ra đã hoàn hảo, quan trọng chính là nhận ra được điểm tốt của bản thân và phát huy cũng như liên tục thay đổi bản thân để có thể tốt hơn.

ST.

Điểm mặt 4 con giáp sự nghiệp thăng tiến ầm ầm trong năm Đinh Dậu 2017 Cảnh báo 3 con giáp đề phòng gặp đại hạn năm 2017 4 con giáp được Thần may mắn chở che trong năm 2017

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã bí ẩn thứ tự sắp xếp 12 con giáp của người xưa

Xem tướng chọn nhân viên (P.II)

11 – Tướng người gian tham độc hại. Tướng người có tính gian tham được biểu lộ ra ngoài đầu nhỏ nhọn, lông mày xoắn tít, mắt có sắc hơi vàng tia mắt nhìn xuống hoặc liếc xéo, mắt hình tam giác, mũi ngắn và thấp. Địa các nhỏ nhọn. Loại người này khá khôn khéo, Lương việc giỏi nhưng hay có gian kế và có lòng tham.
Xem tướng chọn nhân viên (P.II)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tâm tính độc hại được thể hiện qua mắt rắn hoặc có dạng tam giác , mi cốt cao mà lông mày thô đậm hoặc mọc ngược , hoặc vút cao như dao : Mũi dài , cao nhưng hẹp và chuẩn đầu trơ xương hoặc cong như mỏ chim , tai thuộc loại khai hoa nhĩ , da mặt lúc nào cũng tái xạm ( do thiên bẩm chứ không phải vì bệnh hoạn hay mất ngủ )

12 – Tướng người nhút nhát, sợ việc

Kẻ có tướng nhát gan, sơ việc là kẻ có nhãn cầu nhỏ và mắt có sắc vàng khà rõ rệt, lòng đen tròng trắng thiếu sáng sủa, thân hình cao rộng mà mũi lại nhỏ thấp, nói năng thiếu thành tín, tham lam tiểu lợi.
Nói chung, loại người này không hẳn là xấu nhưng không thể coi là đủ điều kiện để giao việc. Nếu vì ân tình mà kết nạp dưới trướng hay cho giúp việc trong nhà thì cần quan sát thêm một vài điểm sau đây:

Kẻ có tướng nhát gan nhưng đầu tròn không lệch lạc, mắt rùa , thân hình ngắn nhỏ , nói hay co đầu rụt cổ một cách tự nhiên là tướng rùa ( Quy cách ). Kẻ đó tuy làm việc không giỏi , nhưng tính nết hoà bình , đa phúc, đa thọ, không đem lại nguy hiểm cho người sử dụng.

13 – Tướng người điềm đạm, thâm trầm

Người có tính điềm đạm , thâm trầm được thể hiện ra ngoài qua một số đặc điểm sau đây
-Bất kể mũi cao hay thấp , miễn là ngay ngắn , phối hợp thích nghi với Lưỡng quyền
-Mắt bất kể loại gì , miễn là mục quang ẩn tàng , nhưng không mờ tối , ôn hoà nhưng không nhu nhuyễn , môi hồng và trên dưới cân xứng
-Thần khí thư thái , thanh thản khiến người sơ kiến cũng có thiện cảm muốn tiếp cận , vui buồn không lộ
Có những đặc điểm đó là người được trời phú cho tính điềm đạm tự chế được sự hỷ nộ , công phu hàm dưỡng cao siêu hơn đồng loại.

14 – Tướng người trung hậu

Nhãn quang ôn hoà nhưng không nhu nhược , diện mạo khả ái , thường ngồi an tĩnh , ngôn ngữ khiêm cung , đối đãi với kẻ dưới có lòng khoan thứ , không hách xằng , hành sự chu toàn , không khinh bần tiện , không trọng sang giàu quý hiển , trong gia đình xử sự có điều lý , gia đạo an lạc . Bất cứ trong trường hợp bất bình với kẻ dưới ra sao đều không ỷ quyền thoá mạ

15 – Tướng người hung ác

Nói đến hung ác , ta phân biệt đại ác và tiểu ác . Hơn nữa , có khi hung chưa hẳn là ác , có khía vừa hung vừa ác
Kẻ có hoả sắc ám tình ( mắt đỏ ) còn gọi là nhãn đới sát , được coi là nhãn hung , chủ về hung điểm cho chính bản thân , kẻ sắc mặt lúc nào cũng như dại hay ngái ngủ gọi là tầhn hung hay đới sát ….Tất cả các điều đó đều chủ về hung chứ không phải ác
Kẻ có thân thể lệch lạc , mặt có các thớ thịt phát triển theo chiều ngang , mày sắc như dao , mắt như rắn là kẻ tính ác và tham lam đê tiện.

Trái lại , kẻ tóc cứng và thô như rễ tre . Trán gồ và phá hãm , mắt lồi và lộ hung quang kiêm nhãn thần vượng , lưỡng quyền có lông tơ rõ rệt , mũi lõm mà quyền cáo , mắt rắn và hay liếc xéo ánh mắt đảo điên , mũi chim ưng , mắt sói tiếng nói như chó sói tru , nhìn người hay cười lạnh là tướng người vừa hung vừa ác

16 – Tướng người nhu nhược

Loại người nhu nhược , biểu hiện ra ngoài qua ánh mắt kinh nghi ( bất kể loại mắt nào ) chỉ thích nói chuyện nhàn hạ , không dám quyết đoán việc thuộc thẩm quyền của mình , nói năng khinh xuất

17 – Tướng người vô tình bạc nghĩa

Kẻ có tướng trên thì mang tai nở rộng quá đáng. Mắt nhỏ mà thiếu bề dài con người hơi vàng , môi mỏng như giấy, khi yếu thế hoặc chưa đắc thời thì đối đãi với người thân mật khắng khít, đến lúc đắc thế thì coi thiên hạ như cỏ rác hoặc thấy lợi thì quên hết mọi việc, lấy oán làm ân.

18 – Tướng người bất cận nhân tình

Đặc điểm dễ nhận thấy nhất là tướng người thô trọc. Quyền thấp mũi cao, tính thích nịnh hót, dốt mà tự chuyên, nói năng tự tiện, lỗ mãng, hỷ nộ vô thường, đi đứng lao đầu uốn khúc tự cho là mạnh mẽ hiên ngang, không biết nhân tình thế cố mà tự cho là thông thái buộc người khác phải hiểu mình.

19 – Tướng người giảo hoạt

Loại tướng này được thể hiện ra ngoài qua cặp mắt và mũi. Kẻ có mũi chim ưng bất kể nghiêng lệch hay không , mũi cao và lưỡng quyền cao thấp ra sao cộng thêm với cặp mắt không bao giờ nhìn thẳng ( luôn luôn liếc xéo, nhìn lên, nhìn xuống). Miệng nói với người mà ánh mắt sáng láng giảo hoạt lại hướng về phía khác hoặc nhìn lén đều là tướng giảo hoạt.

20 – Tướng người tinh tế

Tính tình tinh minh tế nhị được thể hiện ra ngoài bằng cặp lông mày thanh tú, nhỏ bề ngang mà mọc cao, mắt đẹp và mục quang thuộc loại Đinh nhi xuất (nhãn thần sáng rực, lúc ẩn lúc hiện) lòng đen trắng phân minh và sáng sủa hữu tình, ngôn ngữ ôn tồn, giọng nói không nhanh không chậm, cử chỉ ngay thẳng đàng hoàng, bề ngoài tuy có vẻ ôn nhu thuận hảo nhưng nội tâm cương trực không bị người chi phối.

21 – Tướng người khó có thể bị dối gạt

Đa số những người có óc phân biệt bén nhạy và khó dối gạt được có mày cao mắt đẹp, thần khí sung mãn, đồng tử sáng sủa, lòng đen, tròng trắng phân minh, âm thanh cao và trong trẻo, ngữ điệu vừa phải, thích nghi, toàn thân như tỏa ra một vẻ oai nghiêm khiến người trông thấy phát sinh sợ hãi ngầm không dám đặt điều nói gạt .

Về cá tính, kẻ đó không thể lấy tình cảm để đã thông, không để lợi danh làm mờ mắt, gặp việc đáng làm thì trầm ngâm mặc suy tư cẩn thận, ít ba hoa biện giải, khi cùng người giao tiếp, không trọng hình thức, có lỗi thì vạch rõ, có công thì khen thưởng, không tư vị, dù cho kẻ đó là người xa lạ hay quen mình cũng vậy.

Nguồn: Tong Hop


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng chọn nhân viên (P.II)

Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Bạch Lạp Kim (Tuổi canh Thìn và Tân Tỵ), Bạch Lạp Kim được hiểu như là kim loại trong lò nung rất thích hợp với Lô Trung Hỏa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Bạch Lạp Kim có ý nghĩa như thế nào?

Bạch Lạp Kim (Tuổi canh Thìn và Tân Tỵ), Bạch Lạp Kim được hiểu như là kim loại trong lò nung rất thích hợp với Lô Trung Hỏa tức lửa trong lò dùng để luyện kim loại. Tuy nhiên tuổi Canh Thìn gặp nó mà không có thủy trợ giúp thì gia chủ nghèo và chết yểu. Tuổi Tân Tỵ gặp lại là một điều Qúy. Bạch Lạp Kim thích gặp Tuyền Trung thủy và Đại Khê Thủy thì đều là cách quý. Nếu gặp Giản Hạ Thủy, quan quý đều có. Nếu gặp trường lưu thủy không quý thì cũng giàu. Trong lá số tử vi cung mệnh không nên gặp nhiều Mộc, vì kim này là kim khí yếu, không thể khắc chế được Mộc. Nhưng nếu trong lá số tứ trụ mà gặp Hỏa vô khí, lại cần phải có Mộc để tương sinh như thế mới có thể Lộc mã quý nhân xuất hiện. Nếu bản mệnh là Bạch Lạp Kim ngày sinh và giờ sinh gặp Tân Tỵ, Ất Tỵ đây gọi là cách Hổ Gầm Gió.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạch Lạp Kim - Một loại kim loại trong lò nung

Thập Ác Đại Bại là gì, phạm phải mệnh xấu khôn lường

Theo Tam Mệnh Thông Hội: Thập Ác Đại Bại là phạm vào 10 tội lớn, không thể xá miễn ví như trong binh pháp, khi giao chiến với địch, đại bại là không sống sót.
Thập Ác Đại Bại là gì, phạm phải mệnh xấu khôn lường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo sách Tam Mệnh Thông Hội: "Thập Ác Đại Bại là phạm vào 10 tội lớn, không thể xá miễn; giống như trong binh pháp, khi giao chiến với địch, đại bại là không ai sống sót, ví với điều rất xấu".


Tranh cát tường


Cách xem Thập Ác Đại Bại là lấy năm sinh kết hợp với ngày sinh để định. Ví dụ, sinh vào ngày Giáp Thìn của năm Canh Tuất, chủ nhân sẽ phạm vào Thập Ác Đại Bại.

Cụ thể như sau:

1. Năm Canh Tuất gặp ngày Giáp Thìn

2. Năm Tân Hợi gặp ngày Ất Tỵ

3. Năm Nhâm Dần gặp ngày Bính Thân

4. Năm Quý Tỵ gặp ngày Đinh Hợi

5. Năm Giáp Tuất gặp ngày Canh Thìn

6. Năm Giáp Thìn gặp ngày Mậu Tuất

7. Năm Ất Hợi gặp ngày Tân Tỵ

8. Năm Ất Mùi gặp ngày Kỷ Sửu

9. Năm Bính Dần gặp ngày Nhâm Thân

10. Năm Đinh Tỵ gặp ngày Quý Hợi

Trong 10 trường hợp trên, bất kể là tháng sinh, giờ sinh như thế nào thì đều là mệnh xấu.

(Theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thập Ác Đại Bại là gì, phạm phải mệnh xấu khôn lường

Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016

Màu sắc may mắn trong năm 2016 của người tuổi Tý là đen, trắng, xám; tuổi Tuất là vàng, kem, đỏ.
Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-1
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-2
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-3
Sửu Dần Mão
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-4
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-5
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-6
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-8
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-9
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-10
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Maruko (theo d1xz) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016

Thuyết ngũ hành –

Quan niệm Ngũ Hành trong y lý Chữa bệnh có y lý (lý luận đông y) không chỉ đang còn thịnh hành ở Trung Quốc mà hầu hết các Lương y, ngay cả một số bác sỹ (tây y) ở nhiều nước trên thế giới cũng đều coi hai thuyết này là cơ sở nhận thức bệnh học hữu í

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quan niệm Ngũ Hành trong y lý

Chữa bệnh có y lý (lý luận đông y) không chỉ đang còn thịnh hành ở Trung Quốc mà hầu hết các Lương y, ngay cả một số bác sỹ (tây y) ở nhiều nước trên thế giới cũng đều coi hai thuyết này là cơ sở nhận thức bệnh học hữu ích. Nó soi sáng phần nào mọi khía cạnh của bệnh lý của con người; làm cơ sở cho phương thuốc điều trị.

Thuan-Thien-Kiem-he-thong-Ngu-Hanh-tuong-sinh-tuong-khac-1

Quan niệm Ngũ Hành trong y mệnh.

Để phòng chữa họa tai, người ta có y mệnh. Đó là sự tìm đến các môn dự báo, dự đoán như: dự báo khí tượng, dự đoán vận hạn đất nước, xã hội, con người trong các thời vận bằng dự đoán học mà hai thuyết Âm Dương và Ngũ Hành đều có mặt trong Dịch, Lý, số v.v… Tất cả các môn đó nhằm phần nào biết trước vận hạn: lành, dữ để phòng tránh hay khắc trừ đem lại sự an bình cho con người.

Quy tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc đã chế hóa vạn vật trong nguyên lý Âm Dương biến hóa, đối lập mà thống nhất. Các môn dự đoán đều dựa trên hiện tượng và thực thể cụ thể cho trước, có trước rồi trên cơ sở của nguyên lý Âm Dương và quy tắc của Ngũ Hành mà suy luận dự đoán cho điều sắp xảy tới. Việc giải một “phương trình” để tìm ẩn số “mệnh” ở đây không khác gì giải phương trình để tìm ẩn số trong toán học. Cũng có những dữ kiện đã cho, đã có, đã biết mà đi tìm kết quả nhờ quan hệ giữa chúng. Nhưng để mang tính khoa học thì kết quả của các môn thuật số chỉ là dự đoán. Dự đoán y mệnh càng có cơ sở vững chắc ngoài nguyên lý Âm Dương còn phải cần đến quy tắc của Ngũ Hành. Vì vậy quy tắc Ngũ Hành được thịnh hành là thế.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thuyết ngũ hành –

Mua nhà nên lưu ý đến cổng hoa

Khi mua nhà cũng cần xem xét đến cổng. Khí nạp vào ở cổng cửa chia làm hai loại cát hung chủ quản vấn đề hoạ phúc của cả một gia trạch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Cổng cửa quan trọng bởi lẽ nó quyết định đầu vào của khí, giống như sự hít thở hô hấp rất quan trọng của con người thông qua mũi miệng.


Phương pháp xem xét phải lấy phi tinh Huyền Không làm cơ bản cốt yếu, lấy khí sinh vượng của đương vận.

Ví dụ như vận 8 sao Bát Bạch vượng tinh, lấy khí của sao Bát Bạch hoặc Cửu Tử, Nhất Bạch thì khí được sinh vượng. Tránh khí suy tử, khí Ngũ Hoàng, Bệnh Phù Nhị Hắc tối độc.

Kết hợp phi tinh Huyền Không với Bát Trạch làm yếu tố bổ trợ. Cổng cửa ở  phương vị cát lành, tránh phương xấu như Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ, Lục Sát, Hoạ Hại.

Nếu kết hợp một yếu tố xấu với một yếu tố tốt thì có thể bổ trợ tránh được phần nào hung hoạ. “Bảo chiếu kinh” nói :

“Thiên cơ diệu quyết bổn bất đồng, bát quái chích hữu nhất quái thông, kiền khôn cấn tốn triền hà vị, ất tân đinh quý lạc hà cung, giáp canh nhâm bính lai hà địa, tinh thần lưu chuyển yếu tương phùng, mạc bả thiên cương xưng diệu quyết, thác tương bát quái tác tiên tông”.

Cổng cửa ví như xương sống, đường đi ví như gân cốt, nếu xương tốt nhưng gân cốt không tốt thì không thể đem lại sự tốt lành cho ngôi nhà.


Đường đi dẫn khí phải tính toán sao cho việc dẫn khí đảm bảo tối đa hiệu quả, tránh những xung sát như cách xuyên tâm sát, liêm đao sát, thiên trảm sát.

Xét cổng cửa, đường đi theo cửu cung bát quái, lấy phương suy vượng, tránh phương suy tử, lấy việc bài trí Phong Thuỷ xem như việc dưỡng sinh cho một cơ thể khoẻ mạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mua nhà nên lưu ý đến cổng hoa

Thất sát tinh quyết

Một bài viết rất hay về sao Thất Sát. Mời các bạn cùng đọc tham khảo.
Thất sát tinh quyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng luận

Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.

Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.

Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.

Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.

Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).

Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền” (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).

Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.

Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp.

Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.

Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.

Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.

Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.

Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.

Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.

Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên phủ”.

Biệt cách

Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.

Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:

- Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ khúc Thiên phủ”

- Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh

- Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”

- Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc

- Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm trinh Thiên phủ”

- Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi

Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.

Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.

Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm trinh Thiên phủ”, là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, thường khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.

“Thất sát Vũ khúc” đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc tài, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.

Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực

Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu tính toán phối hợp hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.

Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”. Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.

Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn khí. Ngày nay Y học đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.

Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức

Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chủ về không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm trinh Thiên tướng” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kĩ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kĩ, tỳ thiếp” thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ khúc là sao cô quả” nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”, đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn”?

Thất sát độc tọa Tý Ngọ

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.

Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại “khắc kị”.

Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính chất của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.

Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có tính chất “quyền uy”.

Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.

Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.

Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.

Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “quyền uy”.

Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.

Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).

Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.

Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể… để giảm thiểu tính “khắc kị”.

Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này là vận hung hiểm.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát “quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.

Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị” phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định hình sự nghiệp.

Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị “hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.

Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.

Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.

Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.

Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.

Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.

Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.

Thất sát và Liêm trinh đồng cung

Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “Tử vi Tham lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.

Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.

“Liêm trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với “Liêm trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.

Gọi là “cương bạo”, là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.

“Liêm trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện cơ bản.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo” nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.

“Liêm trinh Thất sát” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất “phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “phấn chấn”.

Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham lang”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm trinh Thất sát” có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm trinh Thất sát”. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” thành mệnh cách “phấn chấn”.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.

Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.

Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm trinh Thất sát”, bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm trinh Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.

Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.

Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.

Cung hạn “Tử vi Tham lang” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.

Thông thường “Liêm trinh Thất sát” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm trinh Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.

Ở lưu niên, nếu “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.

Nữ mệnh “Liêm trinh Thất sát” không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn” hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.

Thất sát độc tọa Dần Thân

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.

Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp “uy quyền”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.

Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao “uy quyền”, tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn bạn rất nghiêm khắc”.

Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại “cô độc cao ngạo”.

Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính “cô độc cao ngạo”.

Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không thành tính “quyền uy”.

“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “uy quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “cô độc cao ngạo”.

Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo” chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.

Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:

Thất sát nặng tính “uy quyền” mà nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:

- Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.

- Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.

- Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.

- Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.

- Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.

- Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.

- “Tử vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.

- Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.

- Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.

- Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.

Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.

Nếu bản chất Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.

Thất sát có bản chất “uy quyền” không nên đến những cung hạn sau đây:

- Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị

- Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.

- Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.

- Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.

- Thiên cơ Hóa Kị

- Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị

- Thái âm lạc hãm Hóa Kị

- Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị

- Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu

- Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.

- “Liêm trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình kị giáp ấn”.

- Thiên lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.

Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.

Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế.

Thất sát và Vũ khúc đồng cung

Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi Phá quân” và “Liêm trinh Tham lang”.

Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc loại “nông cạn”.

Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.

“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.

Luận giải tính chất của “Vũ khúc Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.

Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán sáng suốt”.

Hệ “Liêm trinh Tham lang” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm quan trọng.

Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.

Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.

Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.

Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.

Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.

Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.

Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.

Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.

Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.

Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.

Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên lương” tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên lương” hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.

Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm trinh Tham lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa mệnh.

Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì bất lợi.

Thất sát độc tọa Thìn Tuất

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.

Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.

Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện được mà thôi.

Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.

Ngoại trừ hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.

Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.

Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.

Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị Hình,, thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.

Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành “lý tưởng”.

Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.

Hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất thì có lợi hơn.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.

Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.

Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo tưởng” rất nặng.

Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa đến cung hạn “Thái dương Thiên lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại “ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.

Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”. Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.

Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi!

Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.

Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.

Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.

Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất quan trọng.

Tử vi và Thất sát đồng cung

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là “Vũ khúc Tham lang” và “Liêm trinh Phá quân” hội hợp.

Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh.

Muốn luận giải bản chất của hệ “Tử vi Thất sát” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan của chúng, là thuộc vào loại “quyền uy” hay thuộc vào loại “hoành hành bá đạo”.

Mệnh cách thuộc loại “quyền uy”, phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách “hoành hành bá đạo” dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ “Tử vi Thất sát” thủ mệnh, không có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong tính chất mà thôi.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” đã có tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “hoành hành bá đạo”. Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí “hoành hành bá đạo”, lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại “quyền uy”.

Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành tính chất “hoành hành bá đạo”, mà mệnh cách chủ về “quyền uy”.

Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “Hỏa tinh Đà la”, hoặc gặp hệ “Kình dương Linh tinh” đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ “Tử vi Thất sát” biến thành “hoành hành bá đạo”, đời người sẽ gặp nhiều trắc trở.

Cung đối diện là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể giải được tính chất “hoành hành bá đạo” của hệ “Tử vi Thất sát”. Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “quyền uy”, nhưng ít nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận lợi hơn.

Cung tam phương tương hội là hệ “Vũ khúc Tham lang”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “Tử vi Thất sát” nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được hưởng thụ.

Cùng một lý, hệ “Liêm trinh Phá quân” cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” dù không có tính chất “hoành hành bá đạo”, cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng khiến hệ “Tử vi Thất sát” thành “hoành hành bá đạo”, cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.

Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “quyền uy”, mà không phải thuộc loại mệnh cách “hoành hành bá đạo”. Khi có các sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “tương hòa”, khiến mệnh cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá.

Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách “hoành hành bá đạo”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều.

Cung hạn “Liêm trinh Phá quân”, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà không thích hợp với hệ “Tử vi Thát sát” loại “hoành hành bá đạo”, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.

Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “Hình kị giáp ấn” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “kho lộ”, “kho trống”, thì bất kể hệ “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.

Thiên phủ là “kho đầy”, lại không có Sát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình.

Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt.

Do tính chất không tương thích, vì vậy khi hệ “Tử vi Thất sát” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.

Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng độ, thông thường hệ “Tử vi Thất sát” ưa đến. Do hệ “Tử vi Thất sát” chủ về vất vả, khi đến cung hạn “Thiên đồng Thái âm” thì có thể được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ “Tử vi Thất sát” thuoock loại “quyền uy”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.

Hệ “tử vi Thất sát” đến cung đại vận “Thiên đồng Thái âm”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.

Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “Tử vi Thất sát” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.

Cung hạn “Vũ khúc Tham lang” đồng độ, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà không thích hợp với loại “hoành hành bá đạo”. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị phi, nếu thành cách “Hỏa Tham” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền.

Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.

Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh.

Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi.

Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng độ, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” không ưa Thái dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ “Thái dương Cự môn” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách “quyền uy” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn.

Nếu cung hạn “Thái dương Cự môn” có các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên chú ý.

Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “hiệu lệnh”, mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách “Hình kị giáp ấn”, đây là vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà gặp hạn “Hình kị giáp ấn” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi.

Gặp hạn “Tài ấn giáp ấn”, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại.

Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “Tử vi Thất sát” đến cung hạn này, đều nên “tĩnh” mà không nên “động”, nếu “động” sẽ gây tồn thất.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, cũng có lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà bất lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo”, thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” được cát hóa và có Cát tinh, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “bá đạo” càng dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân, bạn bè.

Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối với người có mệnh cách “bá đạo”, chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách “quyền uy” thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.

Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách “quyền uy” hay loại người mệnh cách “bá đạo”, đều không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách “quyền uy”, có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có mệnh cách “bá đạo”, vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa.

Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thất sát tinh quyết

Xem tướng môi đoán phúc họa cuộc đời - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Xem tướng môi đoán phúc họa cuộc đời, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem tướng môi đoán phúc họa cuộc đời, tu vi Xem tướng môi đoán phúc họa cuộc đời, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng môi đoán phúc họa cuộc đời

Miệng là cơ quan tiếp nhận vật chất nuôi cơ thể, chuyện thị phi cũng từ đây mà ra. Hình dạng của môi sẽ tiết lộ tính cách hay dở của con người.
Xem tuong moi doan phuc hoa cuoc doi hinh anh
Ảnh minh họa 

 
  Môi rộng: Phụ nữ thì xinh đẹp, đàn ông thì có ham muốn tình dục.   Môi rộng và dày: Là người phụ nữ có ham muốn cao nhưng hay làm biếng.   Môi mỏng: Rất thông minh, nhưng hay lừa lọc.   Môi rất mỏng: Hay ghen tuông.

Xem tuong moi doan phuc hoa cuoc doi hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Môi trên dày hơn môi dưới: Kiên nhẫn, hào phóng nhưng không có thiện chí.   Môi dưới dày hơn môi trên: Người này có ham muốn tình dục cao và có các sở thích về ăn uống.   Môi mỏng nhưng trông như bị sưng: Cũng có ham muốn về tình dục và có sở thích với ăn uống.   Nếu môi trên hơi thụt vào trong hơn (môi dưới trề): Thiếu kiên nhẫn và hay công kích.   Môi dưới thụt vào, môi trên trề ra: Tính cách tốt.   Môi trên chẻ: Tính cách tốt.   Môi mỏng và nhỏ: Bướng bỉnh, không tốt. Môi mỏng, miệng lớn: Cực kỳ xấu tính.   Môi rất nhỏ: Trong tương lai sẽ là một ông bầu.   Môi vều: Ngốc nghếch.   Môi dưới chẻ: Lễ phép.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng môi đoán phúc họa cuộc đời - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Hình dạng ngón chân nhìn thấu con người bạn

Theo một số nghiên cứu, độ dài và hình dạng của ngón chân có thể nêu đặc điểm nổi trội về con người bạn.
Hình dạng ngón chân nhìn thấu con người bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban
hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban-1
hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban-2
hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban-3

Mộc Trà (theo Avenue)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dạng ngón chân nhìn thấu con người bạn

Sự tích, ý nghĩa và nguồn gốc của Tết Trung thu, Rằm tháng 8

Trung thu là giữa mùa thu, Tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu tức là vào rằm (ngày 15) tháng Tám âm lịch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu tại Việt Nam không biết có tự bao giờ, không có sử liệu nào nói rõ về gốc tích của ngày lễ rằm tháng Tám. Nhiều người cho rằng đây là một nét văn hóa du nhập từ Trung Quốc trong thời gian Việt Nam bị phương Bắc đô hộ. Nhà văn Toan Ánh trong quyển "Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam Quyển Hạ" cho rằng: Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà Ðường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh.

Năm ấy vào đêm khuya rằm tháng tám, gió mát, trăng tròn thật đẹp, trong khi ngự chơi ngoài thành, nhà vua gặp một vị tiên giáng thế trong lốt một ông lão đầu bạc phơ như tuyết. Vị tiên hóa phép tạo một chiếc cầu vồng, một đầu giáp cung trăng, một đầu chám mặt đất, và nhà vua trèo lên cầu vồng đi đến cung trăng và dạo chơi nơi cung Quảng. Trở về trần thế, vua luyến tiếc cảnh cung trăng đầy thơ mộng, nhà vua đặt ra tết Trung Thu. Trong ngày tết này, lúc đầu chỉ uống rượu trông trăng nên còn gọi là Tết Trông Trăng. 

 

Cúng trăng (Tế nguyệt) 

Trong đêm 15 tháng 8 âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà. 

Ngắm trăng (Thưởng nguyệt) 

Còn thưởng trăng vốn bắt nguồn từ việc cúng trăng. Đến đời Đường, thú ngắm trăng dịp Trung thu trở nên thịnh hành, thể hiện nhiều trong thơ ca thời này. Nhưng đến đời Tống, lễ hội ngắm trăng mới chính thức trở thành Tết Trung thu. Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng (bánh nướng, bánh dẻo) trong dịp Tết Trung thu cũng bắt đầu từ thời này. 

Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy. 

Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em. 

Thi cỗ và thi đèn 

Trong ngày Tết Trung Thu người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh của các bà các cô. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya. 

Hát Trống quân 

Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này. 

Múa Sư tử (múa lân) 

Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.

Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v. Người Trung Hoa không có phong tục này.  

Ngọc Linh tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích, ý nghĩa và nguồn gốc của Tết Trung thu, Rằm tháng 8

Tứ linh sơn quyết là gì? ứng dụng thế nào? –

Phong thuỷ học có một câu quyết rất quan trọng, người mới học phong thuỷ rất thích dùng câu quyết này. Đó là “Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ”. Đây là bài học nguyên thuỷ nhất, được gọi là “Tứ linh sơn quyết”. Câu quyết này là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đạo lý xuất phát từ 28 vì tinh tú trên trời, là một cách bố cục thiên tượng.

p31

Tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ là khi từ hướng toạ sơn nhìn ra ngoài, bên phải bên trái đều xuất hiện núi dựa như một người giơ hai tay ra ôm trọn không gian trước mặt. Thanh Long bên trái đại diện cho cương dương, nam tính. Vị trí Thanh Long vượng thì chứng tỏ có quý nhân phù trợ và sức mạnh trấn áp. Bạch Hổ bên phải đại diện cho âm nhu, nữ tính. Vị trí Bạch Hổ vượng chứng tỏ sức mạnh âm nhu cực lớn. Nếu căn nhà chếch trái hoặc chếch phải gây ra hiện tượng Thanh Long ngắn, Bạch Hổ dài hoặc Bạch Hổ ngắn, Thanh Long dài. Điều đó chứng tỏ sức mạnh âm dương không cân bằng.

Bạch Hổ quá vượng đại diện cho hoạ thị phi, cho nên Thanh Long và Bạch Hổ cần phải cân bằng thì mới có phong thuỷ tốt. Không gian ôm đằng trước căn nhà là Chu Tước, còn gọi là Minh đường. Minh đường tốt nhất có thể nhìn thấy căn nhà và Thuỷ. Nếu toàn là Thuỷ sẽ khiến con người sản sinh ra ý niệm chùn bước. Nếu chỉ nhìn thấy căn nhà không thôi thì người ta lại làm việc như điên. Đoạn phía trước của căn nhà nhất định phải có hàng rào. Đây là bố cục tàng phong tụ khí. Không có hàng rào, khí trường chuyển động không thể nào ngưng tụ lại ở minh đường.

Điều đó cũng có nghĩa tài phúc không đi lại trong minh đường, cho nên cần phải làm tàng phong tụ khí để ngăn chặn. Vị trí có thể dựa được ở đằng sau căn nhà gọi là Huyền Vũ. Bất cứ bố cục phong thuỷ nào cũng phải có những tính chất trên thì mới gọi là phong thuỷ tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ linh sơn quyết là gì? ứng dụng thế nào? –

Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Bài viết của tác giả Ân Quang về vấn đề chế hóa và chiết tự trong tử vi. Đây là một bài phân thích rất hay!
Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của Ân Quang

“Xem Tử Vi thì phải biết Sinh Khắc Chế Hóa, và phải là người thâm nho mới thấu triệt ý nghĩa”.

Ngày tôi còn bé thường nghe các cụ nói thế. Nghe vậy thì biết vậy, chứ thực ra tôi chẳng hiểu mấy về câu nói này.

Khi vừa biết viết gọn quốc ngữ, tôi liền được cụ tôi hướng dẫn lập thành lá số Tử Vi cho những người đến nhờ cụ xem giùm. Lúc ấy, tôi sung sướng nghĩ rằng lấy một lá số Tử Vi là việc làm không mấy khó khăn.

Tôi thầm nghĩ rằng, có lẽ ngày xưa cần người thâm nho chỉ để đọc các sách chữ Hán dạy về cách lập thành, và cách đoán số Tử Vi. Nếu nay, cứ tìm được các bộ sách chân truyền từ xưa, rồi dịch ra Việt ngữ thì Tử Vi không còn gì là bí hiểm, không còn là độc quyền của các cụ già thâm nho. Chỉ việc giở sách ra là có thể lập thành một lá số Tử Vi, rồi quy nạp, dựa vào các bộ sao, suy đoán các cách phú quý, bần tiện, thọ yểu, hạn rủi, vận may v.v…

Thời gian trôi qua, càng nghiên cứu Tử Vi, tôi càng cảm thấy rằng đó không phải là một việc làm giản dị như trước kia tôi lầm tưởng.

Ngoài việc phân định sự Miếu, Vượng, Hãm địa của các sao, ngoài sự Sinh Khắc Ngũ Hành, ngoài việc phối hợp Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái, ngoài việc quy nạp độ 500, 700 cách đoán số, (cho nhiều nhất là 1000 cách, trong các bài phú) lại còn phải hiểu hình tính, ý nghĩa các vị sao mà Chế Hóa, vì có những sao gặp nhau mà không thuộc về cách nào ghi trong các sách Tử Vi. Thí dụ như Hỏa Tinh cư Ngọ thì đắc địa, gặp Kình Dương cư Ngọ hãm địa thì sao? Thái Dương cư Tuất hãm địa gặp Kình Dương cư Tuất nhập miếu thì sao? Không thể áp dụng tinh thần máy móc, cộng hai vị sao lại rồi chia hai, lấy trung bình. Tốt vừa vừa hay xấu in ít?

Trong những trường hợp này, sự Chế Hóa, tinh thần diễn dịch đóng một vai trò rất quan trọng.

Nếu chỉ áp dụng tinh thần công thức một cách máy móc, thì sẽ gặp rất nhiều công thức này chống ngược lại công thức khác.

Sách ghi là: “Tử Phá mộ cung, bất trung, bất hiếu”, sách lại cũng nói là “Khôi Việt, Quan Phúc” chủ thông minh, thanh cao, nhân hậu, v.v… Vậy thì Tử Phá cư Mùi gặp Khôi Việt, Quan Phúc là thế nào? Bất trung bất hiếu vừa vừa hay là thanh cao nhân hậu in ít??

Một vị chính tinh dù là hung ác mà được quần thần, cố vấn, tham mưu đều thanh cao, nhân hậu thì có thể trở thành nhà cải cách, cách mạng tuy hành động có hơi cứng rắn, đi khác với thông lệ, vượt qua dư luận. Nhưng vị chính tinh ấy vẫn được bộ tham mưu đưa về những chiều hướng xây dựng.

Nói đến “Liêm Tham Tỵ Hợi” thì người nghiên cứu Tử Vi, có thể nghĩ đến công thức Liêm Trinh cộng với Tham Lang ở Tý, Hợi ra quan môn, hình ngục. Thế nhưng, Liêm Tham Tỵ Hợi cung Quan Lộc ở đó Mệnh, Quan, Tài, Di, được các quyền tinh, quý tinh, phúc tinh giao hội đủ bộ, thì ảnh hưởng sẽ chuyển ngược lại, không phải là người ta xử phạt mình mà lại là mình xử phạt, cầm cân nảy mực xét xử người khác (Đây là ngày giờ sinh của một ông Biện Lý trẻ tuổi, trong thân quyến của tôi, để quý vị chiêm nghiệm. Tuổi Đinh Sửu, tháng chạp ngày 28, cuối giờ Tý, đêm 27 rạng 28, giờ Tý tính vào ngày 28).

Không thể căn cứ vào bộ sao tốt rồi đoán rằng mọi sự phải tốt, không thể căn cứ vào một bộ sao xấu rồi đoán rằng việc gì cũng phải xấu. Cũng không thể quan niệm rằng lấy cái tốt, cộng với cái xấu, hòa lẫn, chia hai, ra cái trung bình.

Sinh Khắc, Chế Hóa là lời nhắc nhở từ căn bản vỡ lòng của những người nghiên cứu Tử Vi, mà các sách Tử Vi chỉ trình bày được phần Sinh Khắc Ngũ Hành, và bỏ lơ đi cái phần Chế Hóa, chỉ trình bày các công thức dưới những hình thức có vẻ Khoa học. Đến khi áp dụng công thức thì người nghiên cứu vô cùng hoang mang trước những công thức này chống công thức kia.

“Mệnh Đào mà ngộ Thiên Diêu
Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào”

Phú đoán chỉ nói lên một khía cạnh có thể có, chứ không phải là một công thức máy móc.

Mệnh tại Mão được Thái Dương, Thiên Lương, Quan Phúc, nữ Mệnh được như vậy thì sách lại nói đến không biết bao nhiêu đức tính tốt như là thanh cao, phúc hậu, thủy chung, nhân từ v.v… lại có Đào Diêu ở đấy thì công thức lại nói là ngoại tình. Vậy thì là thế nào? Thủy chung nửa vời hay là ngoại tình in ít?

Chính tinh đã thủy chung lại được củng cố thêm bởi các phúc tinh, quý tinh, thì một vài sao Đào Diêu không thể tạo ảnh hưởng ngược lại được. Đó chỉ là dấu hiệu của một vài mối tính do người ngoài đem đến, ngỏ ý, v.v… nhưng đương số vẫn vững lòng trung trinh.

Mục đích của bài này không phải là thảo luận hay trình bày tất cả những trường hợp Chế Hóa. Chúng tôi chỉ muốn trình bày rằng, nếu hoàn toàn Việt ngữ hóa Tử Vi nếu vứt bỏ hai chữ Chế Hóa thì Tử Vi chỉ còn là một mớ công thức lộn xộn.

Sinh Khắc, Chế Hóa, bốn chữ “đầu môi chót lưỡi” thường được giới Tử Vi Dịch Lý xưa kia nhắc nhở. Thiết tưởng, cũng không nên vì một lý do gì mà bỏ đi chữ Chế Hóa, hoặc thay thế bằng một chữ nào khác mà mất đi cái thâm thúy của cổ nhân, và người hậu học có thể bị đi lạc đường.

Muốn Chế Hóa thì phải suy diễn. Mà muốn suy diễn theo Tử Vi, thì phải trở về với quan niệm Sinh Khắc, Ngũ Hành, Âm Dương, Bát Quái về vũ trụ, về nhân sinh, của người xưa. Gần hơn hết là phải hiểu ý nghĩa các vị sao.
Tên các vị sao không phải đặt theo hứng khởi, ngẫu nhiên. Có thể nói là tên mỗi vị sao kéo theo cả một vũ trụ quan, một nhân sinh quan. Tên mỗi vị sao lại có nhiều nghĩa khác nhau, liên hệ đến cách phát âm đó. Thí dụ như Thiên Việt là văn tinh, quý tinh, thế mà: “Hỏa Linh Hình Việt” lại là kiếm đao búa Trời, ngụ ý sét đánh, thì chữ Việt đây còn có nghĩa là cái gì rơi đổ xuống, chữ Việt (với bộ Kim bên cạnh) lại có nghĩa là cái búa lớn.

Như chữ Mộ là cái mồ, ngụ ý chôn vùi, lấp, bế tắc, trở ngại. Thế mà:

Mộ phùng Hóa Lộc mấy ai
Thực người có của tận tay chào mời”

Thì chữ Mộ này lại là mến.

Lại như sao Thiên Y là thuốc men mà lại cũng là biểu tượng của y là áo (ngụ ý chức tước y lộc).

Như sao Hóa Quyền ngụ ý về quyền uy, mà lại là biểu tượng của gò má (lưỡng quyền) lại có khi là quyền biến, thay đổi.

“Lưỡng Hao, Cự, Vũ, Hóa, Quyền
Chiếu sao trấn thủ một biên phương ngoài”

Cự là cách xa. Vũ viết như chữ Vũ là Võ, lại còn có nghĩa là vết chân, nối gót, như bộ vũ là làm nốt công việc của người trước.

Đó là một vài khía cạnh Chiết Tự trong Tử Vi, mà xưa kia các cụ thường áp dụng để có một cái nhìn sâu xa hơn.

Có Cự Môn, hoặc là có Vũ Khúc cũng có thể đi xa, được đi theo sự tự chọn hoặc là bị đổi đi, tùy theo ý nghĩa các sao kết hợp thành bộ. Chứ nào phải riệng một Lưu Thiên Mã gặp Thiên Mã cố định mới là đi. Đâu phải chỉ có con ngựa mới đi. Rồng (Long) cũng có thể bay lên hoặc bay đi vùng vẫy. Hổ cũng có thể đi tung hoành.

Trong Tử Vi có những tên gọi không phải là Sao. Chúng tôi sẽ có một bài khác nói về điểm này.

Thiên Mã là Khí Dịch Mã, tạo nên sự biến chuyển. Còn tùy các sao khác mà luận. Có khi chỉ là sự biến chuyển tốt hơn, xấu hơn, nhưng thay đổi tại chỗ mà thôi.

Như Linh Tinh, trong trường hợp tốt thì Linh là quyền lệnh (Hỏa Linh tương ngộ, đa trấn chư bang). Khi xấu thì Linh lại là rụng rơi, hoặc cô đơn, cô khổ (Hỏa Linh hãm ư tử tức, đáo lão vô như khốc). Hỏa Tinh, Linh Tinh trong một số trường hợp còn là tinh ma, yêu quái, linh hồn v.v… dĩ nhiên là còn phải xét thêm các sao khác mà luận.

Thí dụ như:

“Tử cung Thai ngộ Hỏa Linh
Bào thai những giống yêu tinh quỷ sầu”

Hoặc là ở Điền Trạch:

“Hồng, Diêu, Hoa Cái tốt sao
Khốc Hư, Linh Hỏa, có yêu quái gì”

Lại còn cách:

Tuế-Kỵ-Diêu-Linh-Khốc” là có oan hồn theo quấy phá, nếu được chính tinh tốt, phúc tinh phò trợ thì cũng có khi là mình được một vong linh nào đó theo phò hộ.

Trên đây không phải là những công thức Toán học Tử Vi, mà chỉ là những tinh lực, những khí vận, có thể biến chuyển như vậy. Người nghiên cứu không thể câu chấp, mà cần có cái nhìn rộng thêm về ảnh hưởng tương quan của các vị sao khác mà trình bày hết.

Có khoa học nào gom lại trong một hai cuốn sách mà được đầy đủ?

Chúng tôi chỉ xin trình bày để quý bạn mới làm quen với Tử Vi có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Khoa này, cũng là có thêm một khái niệm về sự Chế Hóa, Chiết Tự.

Người xưa chiết tự Tử Vi là như vậy. Chứ không phải chiết tự để đoán tên người như câu chuyện “Ông Thầy Tử Vi Ba Trợn” mà cụ Hoàng Hạc đã có lần kể trong mục “1001 chuyện Tử Vi”.

Đến đây chắc có bạn đọc thắc mắc, một Linh Tinh nhiều nghĩa như vậy thì người xưa viết chứ Linh như thế nào?

Chúng tôi đã sưu tầm nhiều lá số Tử Vi bằng chữ Hán xưa kia, viết cũng như luận, rất sâu sắc, đứng đắn. Chúng tôi cũng sưu tầm một số sách Tử Vi từ Đài Loan thì chữ Linh ấy được viết với bộ Hào, với bộ Nữ và với bộ Kim một bên. Nhất là một số sách Tử Vi Đài Loan thì hiện nay dùng bộ Kim để viết chữ Linh.

Tại sao lại có tình trạng lạ như vậy?

Xin thưa, đó không phải là một sự rắc rối, lộn xộn.

Ngôn ngữ là do sự cảm xúc, giao cảm giữa con người và vũ trụ, vạn vật xung quanh mà tạo thành.

Văn tự chỉ là một cách để đánh dấu, ghi lại ngôn ngữ.

Khi đã có quá nhiều điểm tế nhị trong cùng một mối giao cảm thì dùng cách đánh dấu ghi dấu tượng trưng, rồi suy diễn sau. Do đó, viết chữ Linh nào cũng được, miến là hiểu hết những khía cạnh tế nhị liên quan đến cái cách phát âm ấy. Vì thế mà giới Tử Vi Trung Hoa (Đài Loan hiện nay) viết chữ Linh với bộ Kim bên cạnh, chỉ có nghĩa là cái chuông nhỏ, không xấu, không tốt, vô thưởng vô phạt, rồi người nghiên cứu sẽ vô tư kết hợp các sao khác mà suy diễn ý nghĩa tốt xấu, không thiên vị, cứu xét cả những điểm tế nhị có liên quan đến âm thanh Linh.

Mỗi khoa học đều xuất phát từ một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Khi nghiên cứu Tử Vi, chúng ta cần trở lại với cái nhân sinh quan vào thời phát sinh ra Tử Vi. Chúng ta cần hiểu cái quan niệm của thời đó mà Chiết Tự, Chế Hóa.

Không thể nào đem cái nhân sinh quan này áp dụng vào khoa học nọ. Cũng như không thể cầm một chai thuốc Tây, và nói rằng thuốc này trị về Hỏa vượng.

Khi Chiết Tự, khi Chế Hóa thì cần theo cái nhân sinh quan của thời đại phát sinh ra Tử Vi.

Thí dụ: Sao Bác Sĩ, nghĩa đen là kẻ sĩ học rộng, ngụ ý là thông minh và được trọng vọng (Thời đó chữ Sĩ, kẻ Sĩ được trọng vọng nhiều). Chứ nào có phải nói về tâm hồn nghệ sĩ, hay là ông Bác Sĩ. Do đó, không thể nào luận rằng các sao Thiên Y, Hóa Khoa, Bác Sĩ, họp lại thành ra bộ sao “Y Khoa Bác Sĩ”

Và cũng không thể áp dụng công thức sao Tuế Phá đi với Kình Dương là răng yểu, răng hô, lại thấy có Thiên Y, Hóa Khoa rồi luận ra đó là vị Nho Sĩ chuyên chữa răng vẩu, răng hô!

Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Việc chế hóa và chiết tự trong Tử Vi

3 cao thủ sát gái của vòng tròn hoàng đạo

3 chòm sao nam giỏi tán gái dưới đây có bí quyết tán đâu đổ đấy cực kì hiệu nghiệm, hãy cùng tham khảo nhé.
3 cao thủ sát gái của vòng tròn hoàng đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối mặt với cô gái mình ngưỡng mộ trong lòng, mỗi chòm sao nam có cách biểu hiện không giống nhau. Có nhút nhát, e ngại nhưng cũng có chủ động, mạnh mẽ. 3 chòm sao nam giỏi tán gái dưới đây có bí quyết tán đâu đổ đấy cực kì hiệu nghiệm, hãy cùng tham khảo nhé.



3 cao thu sat gai cua vong tron hoang dao hinh anh
 
Xử Nữ
  Nam Xử Nữ lý tính lại khôn khéo, trên phương diện theo đuổi nữ sinh thập phần cẩn thận. Chòm sao nam giỏi tán gái này đề ra kế hoạch rất hoàn hảo, thời điểm theo đuổi chính xác, phương án hợp lý. Nếu đối phương kiêu kì, Xử Nữ sẽ chủ động theo đuổi, nếu đối phương bắt đầu có biểu hiện thích hắn, ngược lại, Xử Nữ sẽ làm bộ phớt lờ. Xử Nữ giỏi tính toán nên đã nắm trước các tình huống có thể xảy ra trong lòng bàn tay, tự mình điều chỉnh cục diện. Cái bí quyết này tuyệt đối là thành công, nhưng cần biết chừng mực đấy nhé. 
3 chòm sao nam khiến một nửa vỡ mộng Những câu nói khiến 12 chàng trai hoàng đạo phát điên 3 chòm sao nam thét ra lửa với người yêu

Song Tử
  Chòm sao nam chủ động Song Tử có khả năng quan sát cùng nắm bắt lòng người cực kì khôn khéo, linh hoạt lại giỏi ăn nói nên ở thời điểm theo đuổi con gái, làm bộ làm dáng, đưa đẩy. Đuổi tình tình chạy, trốn tình tình theo, chỉ cần đối phương có tình cảm, vội vàng thể hiện lưu luyến là Song Tử liền như gió biến mất tăm mất tích. Thực ra đây là chiêu trò của chàng ta thôi, chỉ cần lạnh lùng đôi ba hôm là lại tò tò xuất hiện ngay ấy mà. Chàng này cũng biết chơi chiến thuật tâm lý lắm, cẩn thận kẻo mắc lừa.   
3 cao thu sat gai cua vong tron hoang dao hinh anh
 
Thiên Bình
  Chòm sao nam nho nhã Thiên Bình có cách theo đuổi người khác hết sức thanh lịch, khí chất tỏa ra rạng ngời. Thiên Bình am hiểu giao tiếp, với người khác tán gẫu đủ các đề tài. Kiến thức uyên bác nên rất dễ thu hút người khác phái. Họ còn có thể khiến những cô gái vui vẻ, biết khích lệ người khác, đúng là cao thủ tình trường. Nhưng Thiên Bình cũng là chàng công tử đào hoa, không chịu hướng về một người duy nhất, tinh ý có thể nhận ra, với cô gái nào chàng ấy cũng thể hiện phong độ như nhau, nụ cười như nhau, quan tâm như nhau đấy.   4 chàng trai hoàng đạo thích đánh đồn có địch Liệt kê tất tần tật tính xấu của 12 sao nữ khiến sao nam “chạy mất dép” 4 chàng trai hoàng đạo mê mẩn gái ngoan Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 cao thủ sát gái của vòng tròn hoàng đạo

Con giáp 'đáng sợ' nhất hậu chia tay

Bạn khó có được một cái kết êm đẹp với những con giáp này nếu lý do chia tay là phản bội.
Con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1 Tuổi Dần

Khi yêu, người tuổi Dần sẽ yêu cuồng dại hết mình. Họ hiến dâng trái tim cho đối phương không chút lo toan, vụ lợi. Đổi lại, con giáp này không đòi hỏi cao sang hay quá nhiều ở người ấy, mà chỉ cần sự quan tâm nhẹ nhàng. Đặc biệt là sự chung thủy. Mọi suy nghĩ, hành động của nửa kia phải hướng về con giáp này.

Dan-6263-1429235918.jpg

Do vậy, việc người ấy dao động trước các "vệ tinh" xinh đẹp xung quanh khiến con giáp này bắt đầu nung nấu ý định gạt phăng tất cả. Nếu chàng phản bội, người tuổi Dần sẵn sàng trả đũa người ấy với những kế hoạch vô cùng tỉ mỉ.

No.2 Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi rất lý trí, khôn khéo và có sức chịu đựng vô cùng giỏi. Bạn khó mà đoán được tình cảm yêu, ghét của họ chỉ qua cử chỉ, cách giao tiếp trong xã hội. Đó chính là điểm lợi hại của con giáp này sau khi chia tay và họ sẽ “tung đòn hiểm” về mặt tâm lý khiến kẻ phản bội phải run sợ. 

Hoi-8625-1429235920.jpg

Thường thì những bài tâm lý của con giáp này rất cao siêu, được tính toán kỹ lưỡng, phòng tránh mọi trường hợp có thể xảy ra. Mục đích chính của họ sẽ là lật tẩy bộ mặt thật của người yêu lăng nhăng. Do vậy, việc người tuổi Hợi ra tay không chỉ khiến tình yêu hiện tại của nửa kia đổ vỡ, mà chàng sẽ gặp nhiều rắc rối sau này trong tình duyên khi luôn bị gắn mác Sở Khanh.

No.3 Tuổi Tỵ

Người tuổi Tỵ khôn khéo trong bất kỳ mối quan hệ nào. Đồng thời, con giáp này cũng thẳng thắn, bộc trực và rất tham vọng. Vậy nên, khi gặp kẻ phản bội trong tình yêu, họ cũng không bỏ qua dễ dàng. Người tuổi Tỵ suy nghĩ, nếu để mọi chuyện êm thấm qua đi, có nghĩa là người ấy sẽ làm tổn thương nhiều cô gái khác nữa, nên sẽ ra tay hành hiệp trượng nghĩa.

Ty-2615-1429235922.jpg

Khác với người tuổi Dần, tuổi Hợi, con giáp này sẽ trực tiếp xuất đầu lộ diện và đề cập thẳng thắn vấn đề. Họ sẽ đưa ra cái được và cái mất khi chàng dám phản bội tình yêu chân thành. Hoặc thậm chí con giáp này sẽ đánh vào kinh tế của người kia khiến họ gặp không ít khó khăn trong cuộc sống.

Mr.Bull (theo Dzyx)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp 'đáng sợ' nhất hậu chia tay

10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Bên cạnh ý nghĩa tôn giáo, 10 nghiệp lành của đạo Phật còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn.
10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

10 nghiệp lành của đạo Phật bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc và thực tế. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, tự tại hơn.

Song hanh phuc hon voi 10 nghiep lanh cua dao Phat (phan 2) hinh anh
 

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo


Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều. Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã mạnh mẽ hơn nhiều. Lý trí mù quáng, đẩy người khác vào tội đáng ra không phải gánh là tạo nghiệt, con người tự đầy đọa nhau.Nghiệp lành của đạo Phật khuyên con người từ bỏ những lời có hại ấy mà sống khona hòa với nhau.
 

6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng cách nói trên nhưng cũng không tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại. Lời ấy biểu hiện cái tâm còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong. Không chỉ làm người khác đau lòng, dẫn tới sự xô xát mà còn tự hủy hoại đạo đức bản thân.
 

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm

Thời gian là bạc là vàng, nói lời vô ích, phù phiếm chỉ tốn thời gian, lãng phí công sức mà lại gây hậu quả khôn lường. Nói nhiều thành quen, lời bỡn cợt trở thành hiềm khích, lời nhảm nhí trở thành tai họa. Vừa làm lây nhiễm thói hư tật xấu, gây phiền phức người xung quanh lại tha hóa bản thân, không làm được gì cho đời.
 

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam

Tham lam là không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có; không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia; luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác; muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người. Có lòng tham nên con người làm đủ mọi cách, không từ thủ đoạn để đạt được, mới nảy sinh ra tội ác. Không có lòng tham thì không có tội ác.  

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)

Thù oán, ác ý là hình thái cảm xúc cực đoan khi con người gặp phải điều không vừa ý. Đường đời không bằng phẳng, có lòng sân hận thì gặp đâu cũng thấy khó chịu, nảy sinh tư thù, làm ra chuyện đại nghịch, tội ác tày trời để thỏa mãn lòng hận của mình. Điều chỉ vậy còn khiến con người luẩn quẩn trong những ssuy nghĩ tăm tối, nóng giận, không khi nào bình yên, thanh thản.
 

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)

Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chân, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến. cái nhìn sai lệch ấy khiến con người sống sai lệch, làm sai lệch và truyền sự sai lệch ấy tới mọi người xung quanh. Nghiệp lành thứ 10 khuyên con người phải sửa mình cho cái tà thành chánh, cái sai thành đúng.

ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 nghiệp lành của đạo Phật giúp bạn sống hạnh phúc hơn (P2)

Ý nghĩa sao Trực Phù

Sao Trực Phù ở Mệnh là người trực tính, ăn ngay nói thẳng, cho nên dễ bị đụng chạm, mếch lòng, hay bị rắc rối, bị ngăn trở mọi việc, sức khỏe kém, hay bị bệnh tật, lúc nhỏ èo uột, khó nuôi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Trực Phù

Ý nghĩa sao Trực Phù

Hành: Kim

Loại: Ác Tinh

Đặc Tính: Tật bệnh.

Là một phụ tinh. Sao thứ 12 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Ý Nghĩa Sao Trực Phù Ở Cung Mệnh:

Sao Trực Phù ở Mệnh là người trực tính, ăn ngay nói thẳng, cho nên dễ bị đụng chạm, mếch lòng, hay bị rắc rối, bị ngăn trở mọi việc, sức khỏe kém, hay bị bệnh tật, lúc nhỏ èo uột, khó nuôi.

Ý nghĩa của sao Trực Phù:

Trực tính, ăn ngay nói thẳng, không sợ mếch lòng hay động chạm do đó có nghĩa như không cẩn ngôn, vụng về trong lời nói. Nếu Thái Tuế đi liền với Trực Phù thì người đó vừa nói nhiều, vừa nói thẳng. - nhỏ mọn, hay câu chấp những tiểu tiết do đó có tính gian của kẻ tiểu nhân, nhỏ mọn, gian vặt, dùng mẹo nhỏ để hại người, nói xấu người.

 

Ý nghĩa của sao trực phù và một số sao khác:

Trực Phù, Thái Tuế: nói nhiều, nói thẳng và nói xấu

Trực Phù, Đế Vượng: ngụy quân tử, bề ngoài quân tử, bề trong tiểu nhân; có lời nói quân tử mà lòng dạ tiểu nhân

Trực Phù, Tử Vi: nghĩa tương tự như trên nhưng Tử Vi nặng về trung hậu nên giảm chế tính cách tiểu nhân của Trực Phù rất nhiều và mạnh hơn Đế Vượng. Nếu thêm Thiên Tướng hội họp thì cái dở giảm nhiều hơn nữa.

Trực Phù, Thái Tuế, Tang Môn: bất hòa, gây thù chuốc oán.

Trực Phù, Đào, Hồng, Cái, Phục, Tướng, Phá: dâm đãng

Các bộ sao trên nằm ở cung nào sẽ có ý nghĩa tùy theo cung đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Trực Phù

Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý có Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành
Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tháng hai âm lịch, tháng 2/2016 của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.



Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc
 
Theo tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý, tháng của tiết Xuân đang tới, Mão Mộc âm khí hưng thịnh nuôi dưỡng Tý Thủy, tức Thủy Mộc điều hòa. Đây có thể coi là tháng có thời vận hiếm có dành cho người tuổi Tý. Tuy nhiên, vì vận khí xấu từ hai năm phạm Thái Tuế vẫn còn vướng vía nên hãy cứ bình tĩnh thì hơn.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Tháng này cũng thích hợp để bạn tiến hành các hoạt động thể chất nhằm bảo vệ sức khỏe, nâng cao sức đề kháng cho cơ thể.


BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 2
 

CÔNG VIỆC


Trong công việc, lúc đầu gặp nhiều khó khăn, hầu như không đạt được thành tích nào, xuất hiện dấu hiệu khiến chức vụ lung lay. Vì bản mệnh Tý tương hình với Nguyệt Lệnh lại thêm đặc trưng tháng có âm khí quá mạnh nên mọi việc khó đoán trước. Trở ngại có mà thời cơ chuyển vận cũng có, mọi chuyện trông chờ vào chính bạn. Công việc gặp nhiều chọn lựa vô hình, bạn cần quyết đoán, đưa ra quyết định nhanh chóng, tránh do dự, nếu không sẽ nhận lấy sự thất bại nặng nề.

Khi giao tiếp với lãnh đạo nên lưu ý lễ nghĩa, lời ăn tiếng nói vì tháng này dễ xảy ra vận trình Phi Liêm bại vận nhất. Giữa tháng, bạn gặp trục trặc trong mối quan hệ xã giao với đồng nghiệp lớn tuổi hoặc lãnh đạo trong công ty, đoàn thể. Dù người tuổi Tý có mong muốn hòa giải nhưng vì lợi ích cá nhân mà không thể nói nên lời.

TÀI LỘC


Có sự xuất hiện của Thiên Tài Tinh, vận trình tài lộc của người tuổi Tý có thể coi là ổn định nhất tháng. Nhưng cần phải xem xét kế hoạch tiêu tiền thật cẩn thận, tránh vì cả nể mà vung tay quá trán, tiêu xài hoang phí, không tính toán.

Tháng này, bạn nên dành nhiều thời gian suy tính kế hoạch công việc cho cả năm hơn là mạnh tay đầu tư “xương máu” vào những hạng mục chưa chắc chắn. Tháng Tân Mão nên tĩnh không nên động, mưu sự kỹ càng không được quá gấp gáp.
 
Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh goc 3
 

TÌNH CẢM


Theo luận giải tử vi trọn đời của người tuổi Tý, bạn cần điều chỉnh tốt chuyện tình cảm, đặc biệt với những người đã kết hôn, không nên đứng núi này trông núi nọ dễ làm gia đình tan vỡ. Do ảnh hưởng công việc bất ổn từ đầu tháng, nên tinh thần bạn có phần đi xuống. Lo nghĩ quá nhiều khiến người độc thân khó tập trung phát triển công việc, thậm chí còn khiến cho mọi người xung quanh lo lắng. Người đã kết hôn thì còn trút cơn bực dọc cho nửa kia, khiến không khí gia đình bất hòa, căng thẳng. Nguyên nhân chủ yếu do hai người vẫn chưa dành trọn vẹn tình cảm cho tổ ấm gia đình.

SỨC KHỎE


Sức khỏe hoàn toàn tốt, cần chú ý mặc ấm đề phòng gió máy, cảm cúm bất ngờ. Giữa tháng có dấu hiệu xuất hiện sự cố liên quan tới ngũ hành Thủy, người tuổi Tý nên hạn chế tới những nơi có nước như hồ ao, sông suối, biển... Khi ra đường cần chú ý nhìn trước ngó sau, tránh bị va chạm chỗ nọ chỗ kia, đặc biệt trẻ con. Ngoài ra, vì thiếu nguyên khí nên bạn cần tránh tiêu hao quá nhiều sức lực vào những thú vui như du lịch, leo trèo, trò cảm giác mạnh.

Nhìn chung, tháng 2 âm lịch này vận trình người tuổi Tý lên xuống khá thất thường, thời cơ chưa tới và có dấu hiệu chức vụ lung lay. Mặc dù trong bạn luôn sục sôi sức mạnh vượt khó nhưng luôn có cảm giác lực bất tòng tâm, công việc thực hiện vội vàng, tình cảm nửa vời. Nửa cuối tháng, bản mệnh sớm thay đổi và chủ động điều chỉnh thì vận trình sẽ được cải thiện.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Ty hinh anh
 

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng 2/2016 của người tuổi Tý

May mắn với tiền xu Mai Hoa

Ngày xưa, người ta dùng tiền xu đục lỗ hình tròn tượng trưng cho trời, giữa là lỗ hình vuông tượng trưng cho đất. Trời ngoài đất trong tượng trưng
May mắn với tiền xu Mai Hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, tiền xu là một trong những pháp khí quan trọng. cho quẻ Thái tức sự thịnh vượng.

Tùy theo niên hiệu các đời vua mà trên tiền xu có khắc chữ khác nhau. Những đồng tiền xu là biểu tượng của nguồn tài lộc và của cải. Cát khí của nó không những làm gia tăng tài lộc mà con đem lại nhiều may mắn về công danh, sự nghiệp và giải trừ tai họa.

Tiền xu Mai Hoa

Trong số các loại tiền xu dùng trong phong thủy, tiền Mai Hoa có 5 cánh tượng trưng cho ngũ hành, là vật chuyên dùng để trấn yểm hung khí, đem lại sự thịnh vượng về tài lộc.

Bạn có thể bày tiền Mai Hoa trên bàn, trong phòng khách, văn phòng, cửa hàng. Cũng có thể bày tiền Mai Hoa trên bàn thờ, trên két bạc, treo ở cửa ra vào... nơi các cát tinh Lục Bạch, Diên Niên, Sinh Khí phối chiếu để gia tăng tiền bạc.

Chú ý, tránh đặt tiền Mai Hoa trong nhà vệ sinh, nơi ẩm thấp, trong phòng ngủ... nơi các hung tinh Thất Xích, Lục Sát, Tuyệt Mệnh phối chiếu.

(Theo Phapkhiphongthuy)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: May mắn với tiền xu Mai Hoa

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd