Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch

Bạn nghe nhiều nhưng đã hiểu đúng về Tứ hành xung chưa? Tứ hành xung là gì? Có phải tất cả các con giáp thuộc Tứ hành xung thì sẽ xung khắc với nhau không?
Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hãy cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này nhé.   Là người Việt Nam, chắc hiếm ai chưa từng nghe thấy cụm từ “Tứ hành xung”. Điều này được áp dụng với nhiều mối quan hệ trong cuộc sống, từ xã giao bạn bè, cấp trên cấp dưới tới hợp tác làm ăn. Với nhiều cặp đôi, đây chính là lý do khiến họ không đến được với nhau, để rồi đôi lứa chia lìa, những con tim cùng chung nhịp đập mà lại chẳng thể thuộc về nhau.   Vậy bạn đã hiểu chính xác về khái niệm này hay chưa? Trong tử vi thì tứ hành xung là gì? Tại sao người ta lại kiêng kị sự kết hợp của những con giáp thuộc cục diện Tứ hành xung? Những câu hỏi này hôm nay sẽ được Lịch ngày tốt giải đáp nhé.

 

Tứ hành xung là gì?

  Trong số 12 con giáp, quan niệm dân gian cho rằng có 3 nhóm con giáp xung khắc với nhau, mỗi nhóm gồm có 4 con giáp như sau:   1. Tý, Ngọ, Mão, Dậu   2. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi   3. Dần, Thân, Tị, Hợi

Mời bạn đọc thêm: Tam hợp là gì, Lục hợp là gì, nên hiểu sao cho đúng?

 

Tại sao có quan niệm Tứ hành xung?

 

12 con giáp được lập ra dựa theo các con vật gần gũi với nhà nông, có tập quán sinh hoạt tương ứng với các giờ trong ngày, từ đó đặt ra địa chi. Trong 3 nhóm Tứ hành xung ở trên, các con vật thuộc nhóm đó được cho là khắc nhau, hay ăn thịt hoặc làm hại nhau, từ đó quy ra những người sinh vào những năm đó cũng sẽ không hợp nhau, khắc khẩu hoặc áp chế nhau về nhiều phương diện trong cuộc sống.


Tu hanh xung la gi Hieu dung de khong con bi kich hinh anh
 
 

Các con giáp thuộc nhóm Tứ hành xung đều xung khắc với nhau?

  Đa số người Việt đều hiểu rằng, tất cả những con giáp thuộc nhóm Tứ hành xung đều xung khắc với nhau. Nhưng thực tế thì đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Hai tuổi tương khắc chỉ dựa vào Tứ hành xung liệu có chính xác? Không phải cứ Dần Thân Tị Hợi thì người tuổi Dần sẽ khắc với người tuổi Hợi mà ngược lại, Dần Hợi còn Nhị hợp nữa.   Theo quan niệm âm dương ngũ hành, ta có quy ước ngũ hành ứng với 12 chi như sau:   Tý – Hợi thuộc hành Thủy  Sửu – Thìn – Mùi – Tuất thuộc hành Thổ Dần – Mão thuộc hành Mộc Tị - Ngọ thuộc hành Hỏa Thân – Dậu thuộc hành Kim   Trong 3 nhóm Tứ hành xung, vẫn tồn tại các cặp con giáp Nhị hợp. Các con giáp trong Tứ hành xung chỉ xung khắc theo cặp, tạo thành Lục xung.   Tý – Ngọ tương xung. Mão – Dậu tương xung. Dần – Thân tương xung. Tị - Hợi tương xung. Thìn – Tuất tương xung. Sửu – Mùi tương xung.   Trong tử vi về thuyết ngũ hành tương khắc thì Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy lại khắc Hỏa. Các cặp xung khắc này được tính theo nguyên tắc Ngũ hành, tức là Hợi Thủy và Tị Hỏa xung khắc, Dần Mộc và Thân Kim xung khắc. Còn Dần Mộc lại được Hợi Thủy dưỡng, không có gì xung khắc.

Tu hanh xung la gi Hieu dung de khong con bi kich hinh anh
 

Xung khắc còn phải dựa theo mệnh

  Sự xung khắc giữa các con giáp không đơn giản xác định dựa vào địa chi mà còn bị chi phối bởi thiên can, tức chịu sự ảnh hưởng của mệnh nữa. Không phải người tuổi Tị nào cũng khắc với người tuổi Hợi.   Từ xa xưa, tổ tiên chúng ta đã sử dụng hệ can chi gồm có 12 địa chi (hay 12 con giáp) và 10 thiên can. Mỗi can chi lại thuộc các hành riêng trong ngũ hành. 12 thiên can cũng được chia thành các yếu tố ngũ hành như sau:   Giáp, Ất thuộc hành Mộc. Bính Đinh thuộc hành Hỏa. Mậu Kỷ thuộc hành Thổ. Canh Tân thuộc hành Kim. Nhâm Quý thuộc hành Thổ.   Về tính chất âm dương, 12 thiên can và 10 địa chi cũng được chia thành 2 nhóm âm và dương.   Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất thuộc Dương. Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi thuộc Âm. Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm thuộc Dương. Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý là Âm.   Lục Thập Hoa Giáp được tạo nên căn cứ vào nguyên tắc can dương ghép với chi dương, can âm ghép với chi âm, từ đó có 60 năm ứng với 60 hoa giáp. Khi kết hợp thiên can và địa chi với nhau tạo thành một năm thì năm đó sẽ có hành khác với cả can và chi, hay còn gọi là nạp âm Lục Thập Hoa Giáp.   Hai con giáp sẽ chỉ thực sự xung khắc với nhau nếu mệnh tương khắc. Chẳng hạn, ta có Tị và Hợi tương xung, nhưng tuổi Kỷ Tị lại là nạp Âm Mộc, không xung khắc với Kỷ Hợi nạp Âm Mộc hay Quý Hợi nạp Âm Thủy. Kỷ Tị và Kỷ Hợi là tương hòa vì cùng là Âm Mộc, còn Kỷ Tị với Quý Hợi là tương sinh bởi Mộc của Kỷ Tị sẽ được Thủy của Quý Hợi dưỡng.    Thực ra việc tương hợp hay xung khắc giữa người với người dựa trên rất nhiều yếu tố. Phải xét trên nhiều phương diện để đưa ra phán đoán chính xác. Nên hiểu rõ Tứ hành xung là gì, không có chuyện cứ không hợp tuổi là vạn sự sẽ trắc trở. Trong cuộc sống gia đình cũng như các mối quan hệ trong xã hội, dù hợp hay xung thì cũng nên nhường nhịn và thông cảm cho nhau, có thể mới có được cuộc sống vui tươi, hạnh phúc.    An An   Tam tai là gì, vì sao Tam hợp hóa Tam tai? Hướng dẫn cách hóa giải mệnh xung khắc, giảm bớt phần hung hiểm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch

Chân khẩu quyết của Hi Di

Một bài dịch về khẩu quyết của Hi Di khán mệnh từ cuốn Tử Vi Đẩu Số Tiệp Lãm. Mời các bạn cùng tham khảo.
Chân khẩu quyết của Hi Di

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hy Di ngưỡng quan thiên thượng tinh

Tác vi đẩu số đoán nhân mệnh

Bất y ngũ tinh phải qua tiết

Chỉ luận năm tháng ngày giờ sinh

Tiên an thân mệnh thứ định cục

Tử vi thiên Phủ bố các sao

Kiếp không thương sứ thiên khôi việt

Thiên mã thiên lộc đới sát thần

Tiền Dương hậu đà thêm Tứ hóa

Hồng loan Thiên hỉ hỏa Linh Hình (thiên hình)

Nhị chủ đại hạn và tiểu hạn

Lưu niên sau đó an đẩu quân

Thập nhị cung phân tường miếu hãm

Lưu niên họa phúc phân trong đây (miếu hãm)

Lộc Quyền Khoa kị vi tứ hóa

Duy có Kị tinh đáng sợ nhất

Đại tiểu nhị hạn nếu phùng Kị

Vi miễn người đó gặp tai ương

Khoa danh khoa giáp xem khôi việt

Văn xương văn khúc chủ công danh

Tử phủ nhật nguyệt chư tinh tụ

Phú quý đều từ trên trời sinh

Dương đà hỏa linh vi tứ sát

Xung mệnh xung hạn đều không vinh

Sát phá Liêm tham đều tác ác

Miếu mà không hãm nắm tam quân

Khôi việt xương thêm vào không ai không ứng

Nếu hoàn mệnh hạn hãm ưu sân

Còn có lưu dương đà các sao

Cái này từ thái tuế mà lưu hành

Cho thêm tang điếu bạch hổ tấu

Thương sứ có thể đoán sinh tử

Nếu có người sinh đồng năm đồng tháng

Họa phúc có thể không chuẩn bình

Không chuẩn nhưng y tam thời đoán

Giờ có sai cũng không …

Đây là chân khẩu quyết của Hi Di

Học giả phải xem xét tỉ mỉ cho tinh

Sau đó y theo tinh đồ mà luận đoán

Kì trong phối quyết thì rất rõ ràng

Nếu có thể y đây mà luận nhân mệnh

Có thể dùng cây đàn mà giảng Ngũ tinh

Bắc đẩu tinh chủ

Tử vi

Tử vi là

Trung thiên tinh

Chủ vi tụ

Tinh chi khu (nơi của các sao)

Kéo nhân mệnh (điều khiển nhân mệnh)

Chi chủ tải

Cư thân mệnh

Quan lộc cung

Kiết có Tướng (Thiên tướng có thêm thì tốt)

Vi hữu dụng

Vô Tướng vi (không có tướng)

Cô quân

Tử vi (thổ)

Đế tọa chư cung

Là sao giáng phúc

Ngộ kiết tăng kiết

Ngộ hung bất hung

Vũ khúc

Kim số 6

Tư tài chi tinh (sao của tài bạch)

Văn khúc

Thủy số 4

Khoa giáp chi tinh (sao của khoa giáp)

Cự môn

Thổ số 2

Âm tinh chi tinh (sao của Tinh khí cõi âm)

Tham lang

Mộc số 1

Dương minh chi tinh (sao của sự vương tới ánh sáng)

Lộc tồn

Thổ số 3

Trưởng lộc chi tinh (nắm giữ tài sản)

Liêm trinh

Hỏa số 5

Đan nguyên chi tinh (đan là màu đỏ, nguyên là nguyên khí)

Phá quân

Thủy số 7

Thiên quan chi tinh (sao của cổng nhà trời)

Sao trợ giúp

Kình dương

Hỏa

Đẩu tiền tư dẫn tấu chi tinh

Sao dẫn đầu, kéo đầu tàu

Tả phụ

Thổ

Đế cực giúp đỡ chi tinh

Hữu bật

Mộc

Đế cực nắm bắt chi tinh

Đà la

Kim

Đẩu tiền tư dẫn tấu chi tinh

Nam đẩu tinh

Thiên phủ

Thiên phủ là

Nam đẩu sinh

Tăng thọ giải ách

Tại sao là chủ quyền (tư quyền)

Vi đế chi tả phú (người trợ lý của vua)

Có Tương là có dụng

Không có Tương là cô lập

Chính tinh

Tăng thọ chi tinh

Giải ách chi thần

Thất sát

Kim số 5

Thượng tướng chi tinh

Nâm đẩu chính diệu

Thiên lương

Thổ số 3

Tư thọ chi tinh

Sinh ra cát tinh

Thiên cơ

Thủy số 1

Ích thọ chi tinh

Nam phương ích toán chi tinh

Thiên Tướng

Thủy số 2

Tư lộc chi tinh

Nâm đậu chính diệu còn gọi là Ấn tinh

Thiên đồng

Thủy số 4

Ích toán chi tinh

Văn xương

Kim số 6

Khôi danh chi tinh

Sao phụ giúp

Hỏa tinh

Hỏa

Đẩu trung đại sát tướng thần

Hỏa linh thích sao đông nam không thích tây bắc, thích Tham Tử Phủ Sát Quyền lộc sợ Dương nhận phải tọa vượng địa

Thiên khôi

Hỏa

Đẩu trung tư khoa chi tinh

Khôi việt thiên ất quý nhân

Thiên việt

Hỏa

Đẩu trung tư khoa chi tinh (chủ khoa giáp)

Linh tinh

Hỏa

Đẩu trung đại sát tướng tinh

Thiên trung chư cát tinh diệu

Thái dương nhật

Thái dương hóa quý vi hỏa chi tinh (tinh chất của lửa)

Thái âm nguyệt

Thái âm hóa lộc vi thủy chi tinh (tinh chất của nước)

Thiên mã

Thượng giới dịch mã chi tinh

Hóa lộc

Thượng giới chủ phúc đức chi thần

Sợ nhập mộ

Hóa quyền

Thượng giới chủ phán sinh sát chi thần

Hóa khoa

Thượng giới ứng thí chủ văn chi tinh

Sợ dương đà kiếp không

Thiên hỉ

Thượng giới cát diệu

Thiên tài

Chỉ tài năng

Thiên thọ

Là sao thọ

Thai phù

Chủ đài các chi tinh

Phong cáo

Phong trạng chi tinh

Ân quang

Chủ đắc thánh ân

Thiên quý

Chủ đại quý

Thiên quan

Chủ quý hiển

Thiên phúc

Chủ lộc

Tam thai

Chủ quý

Bát tọa

Chủ quý

Long trì

Chủ khoa giáp

Phượng các

Chủ khoa giáp

Trung thiên chi hung tinh diệu

Thiên thương

Hỏa thượng thiên, hư hao chi thần

Thiên sứ

Hỏa thượng thiên dịch sứ chi thần

Địa không

Hỏa thượng thiên (lửa trên trời) không vong chi thần

Địa kiếp

Hỏa thượng thiên kiếp sát chi thần

Thiên Hình

Hỏa cô khắc chi tinh

Thiên diêu

Thủy dâm

Hóa kị

Tên là vì có sao Hóa mà ra, đa quản chi thần

Ngộ kiết thì kiết, ngộ hung tắc hung

Thiên hư

Không vong chi thần

Thiên khốc

Kim hình khắc chi tinh

Cô thần

Chủ cô

Quả tú

Chủ cô

Kiếp sát

Bạo bại chi tinh

Hoa cái

Phá hao chi tinh

Không vong

Tuần trung không vong

Triệt lộ không vong 

Khám mệnh tổng quát

Con người có sao hợp chiếu, có sao chính chiếu, có sao củng chiếu giáp chiếu, Chính không bằng củng, hợp không bằng giáp, chính chiếu biên chiếu là họa phúc khó, Hợp chiếu và giáp chiếu là họa phúc dễ (dễ ảnh hưởng?). Chính nghĩa là gì? tức là đối cung, hợp nghĩa là sao? Nghĩa là tam hợp, Củng nghĩa là sao? Nghĩa là 4 chính, giáp nghĩa là sao? Nghĩa là tiền hậu, vì thế nên giáp cung tuy hung, nhưng bản cung gặp kiết chính tọa, thì cũng gọi là phúc, sao giáp tuy tốt, nhưng bản cung gặp ác diệu ám lâm, thì cũng là hung luận, phàm thân cung thì nên có sao thanh quý, còn cung mệnh thì nên có sao phúc thọ

Sao dương chủ văn, ở cung dương nữa, thì là văn thao thanh hoa chi sĩ, âm tinh chủ võ, tại miếu vượng, tại âm cung nữa, tắc sẽ là võ dũng cương mãnh chi nhân, phàm sao dương ở cung dương, sao âm ở cung âm, sao nào theo chỗ ấy, thì là đắc địa, nếu tương phản, âm dương thác loạn, trong 1 ngày, từ mão đến thân là dương, từ dậu đến dần là âm, cũng có âm dương phản bối, mà cũng đa phú quý, do khán củng chiếu như thế nào, nên nói, số trung nghĩa luận rất tinh vi, đoán pháp là có thể do người hoạt biến

Khám mệnh tiệp pháp

Có 9 điều:

  • Khám mệnh không ngoài việc biết sinh khắc chế hóa, thời số là chủ yếu. Thích nhất tọa Trường sinh đế vượng chi hương, nên thích các sao Tử vi Thiên phủ, Quý nhân Lộc mã chi vị (vị trí). Sợ lạc không vong, hơn nữa đế tinh không nên cô lập, nên có tả sứ chi quân, sát diệu không nên quần cư (tụ tập)­ là hung đồ tác ác, Tử Phủ nhật nguyệt Tả hữu giáp mệnh, Định thị quý đoán, Liêm trinh phá quân hao tù nhập mệnh, định tác Phá luận. chúng thiện đồng cung, thì phú sẽ tụ tập, chư hung phản bối, trăm họa không nhẹ, đại hạn chủ 10 niên chi họa hay phúc, tiểu hạn đoán 1 năm vinh hay cô. Đại hạn cực thoái, tiểu hạn sao có thể bổ? Đại hạn chưa tới, tiểu hạn lo gì? Cố lưu niên chư sát, thân sát mệnh sát lưu sát Bệnh phù tử phù bạch hổ thái tuế hỏa linh quan phù tang điếu chi loại, nếu gặp thì là tai, hoặc hạn số lao tù, thì tai có thể tiêu miễn, cứ bình hằng mà luận
  • Khám mệnh thì đầu tiên xem bản mệnh nạp âm là sao nào, ví dụ như giáp tý - ất sửu hải trung kim, dĩ Kim tinh làm chủ, thì xem Vũ khúc thuộc kim ở cung phận nào, để biện họa phúc, cứ thế mà luận, nếu ở cung sinh vượng, hoặc tại quý nhân vị, cùng đồng cung với cung quan lộc, là kiết luận, nếu đồng cung với thất sát hình kị, thì là hạ đẳng
  • Khám mệnh phải xem pháp số sâu nông, đầu tiên dĩ mệnh chủ là chính, tiếp tới thân chủ, sau đó là tới cung chủ tham luận, thì biết phú quý bần tiện đinh đoạt, ví dụ như người sinh Thổ, Cự môn là sao Thổ, kì tinh hóa Ám, nhưng không thể luận là sao ám, nếu đắc địa không bị hãm, còn có kiết hóa, thì là kiết, không thể gọi là họa
  • Khám mệnh nên thức đại yếu, an mệnh an thân xong, đầu tiên khám thân mệnh tọa sinh vượng mộ kho chi hương không lạc không vong, lộc mã không lạc không vong, nên dĩ chính tạng địa không làm chính (không vong), sau đó khám tử vi đế tướng có đắc địa không, nếu đế tinh thất điệp, thì xem Linh tinh vũ khúc đắc địa hay không, thì có thể luận phú quý, kì quý giả, đầu tiên khám thái dương đắc độ, kì phú giả, thì khán thái âm bất hãm, kì bần giả, thì xem cung thân mệnh có cát diệu đều hãm, tụ phùng ác sát, tắc dĩ bần tiện luận chi
  • Khám mệnh cần phải phân nam nữ phú quý chi thuyết, như thân mệnh đều kiết, lại gặp hạn tốt, không có phá bại, tự nhiên sẽ phát vượng, chung thân phúc hậu, như cây tùng, như từ bi của mưa rơi
  • Khám mệnh cần xem nam nữ bình ổn chi thuyết, như thân mệnh căn nguyên kiên cố, nhưng có vận hạn không xứng, cũng chủ gia xứ an nhiên, tong hữu sát tấu phá bại chi sự, trong hung có cứu vớt, thân mệnh không phòng hại
  • Khám mệnh cần biết nam nữ bần cùng chi thuyết, như thân mệnh vô kiết, còn có ác sát lại, xuất thân hàn vi, Y lộc gian tân, cũng có thể bình địa phát phúc, chỉ là thập niên ngộ hảo vận hạn, thập niên qua đi thì từ từ thoái, tài bại gia phá, quan lộc táng luôn, nhược nhân mệnh không có cát diệu, không kiên cố được, gọi là phúc đấy
  • Khám mệnh phải biết sinh tử nam nữ chi thuyết, tiên khán tiểu hạn, thứ khán đại hạn, đại hạn nhược tất 10 năm khốn khó, tiểu hạn thuận tắc 1 năm vinh hoa, hoặc sau 1 năm, thì lại có tác dụng. Phàm luận sinh tử, không thể nói Thân mệnh không chủ, chỉ khán đại tiểu nhị hạn thái tuế phùng sát , khán xem đế lộc (tử vi lộc tồn) đối xung tam hợp bản cung có gặp hay không, nếu kiến thì bại mà không nguy, nếu thân sát mệnh sát lưu niên chư sát giao hội đại tiểu hạn, đế lộc đều hãm bị chế không vong chi địa, tắc quyết tử không nghi ngờ gì nữa, nếu có thể thoát bản mệnh, thì quan lộc con cái tai tật phá tài không thể miễn, luận điểm này cần tới đến hạn thì cùng xem
  • Khám nữ mệnh, phu phụ nữ, hạn và nam tử không giống nhau, sao với người nam không giống nhau, dĩ quan lộc thiên di gặp sát tinh là hãm, dĩ tài bạch điền trạch nhập sát là nhược tiếp sau, như cư sinh vượng thì tốt, dĩ thân mệnh phu tử phúc đức là chính cường, nếu cư không vong chiếu vào thân mệnh, gia sát thì là cô độc chi cách, sợ đào hoa nhập vào thân mệnh, hình sát hội vào xung hợp, là dâm tiện hạ đoán, như nếu đồng lương tị hợi, cơ nguyệt dần thân, phá quân mão dậu, đều là dâm luận, tòng kì chính, cũng chủ hình khắc hạ tiện, nếu tài điền phu tử đều là cát tinh, thì mới là kiết đoán

(Nguồn: dịch từ cuốn Tử Vi Đẩu Số Tiệp Lãm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chân khẩu quyết của Hi Di

Trang trí phòng ăn như thế nào? –

Để bữa ăn thêm ngon miệng, ngoài việc tạo ra cho mọi người một không khí vui vẻ thì khung cảnh trong phòng cũng góp một phần không nhỏ. Do đó, khi tiến hành trang trí phòng ăn không những tuân theo các quy tắc thiết kế mà còn phải tạo ra được một khô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng khí vui vẻ và một không gian ấm áp.

Màu sắc phòng ăn có ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý con người. Do đó trang trí tường phòng ăn không được coi nhẹ tác dụng của màu sắc với tình cảm. Nên lấy tông sáng, nhẹ nhàng làm chủ như màu trắng, màu vàng chanh nhạt, vàng nhạt, da cam và các màu tương đồng Những màu sắc này đều có tác dụng kích thích sự thèm ăn, làm tăng sự hứng thú với người ăn, thúc đẩy sự giao lưu giữa những người cùng ăn. Ngoài ra có thể sử dụng hiệu quả màu sắc của ánh đèn để điều tiết màu sắc trong phòng. Khi lăn sơn không nên chọn các màu óng ánh phản quang.

trang-tri-phong-an

Những bức tranh phong cảnh hài hòa và những bức tranh hoa quả trông ngon mắt sẽ giúp bạn ăn ngon miệng.

Nếu phòng ăn có diện tích nhỏ thì có thể treo trên tường một tấm gương lớn để đánh lừa thị giác, tạo một không gian lớn hơn.

Ánh sáng trong phòng ăn cũng góp phần làm cho bữa ăn của bạn thêm ngon miệng. Ánh sáng phải êm dịu, trải đều mới tăng thêm sự hài hòa, ấm cúng, tăng thêm mối giao lưu thân thiện giữa mọi thành viên trong gia đình, bạn nên lấy ánh sáng trắng làm chính, tcít nhất là dùng thiết bị có thể điều chỉnh được độ sáng mạnh yếu, khi ăn uống điều chỉnh ánh sáng yếu vừa phải sẽ tăng thêm tính lãng mạn, vui vẻ dễ chịu, còn trong thời gian khác có thể điều chỉnh ánh sáng cường độ lớn hơn. Lắp đèn treo là tốt nhất, cũng có thể treo đèn chùm trên trần hoặc đèn gắn trên tường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí phòng ăn như thế nào? –

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Sao tử vi là vua của các vì sao, chủ quyền về sự uy quyền, tài lộc và phúc đức. Tử vi khắc chế được đặc tính hung ác của các sao hỏa tinh và linh tinh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Sao tử vi thuộc hành thổ, là một quý tinh.

Miếu địa ở: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân ( thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn và uy nghi).

Vượng địa: Thìn, Tuất (Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong).

Đắc địa: Sửu, Mùi (thông minh, thao lược, hay liều lĩnh).

Bình hòa: Hợi, Tý, Mão, Dậu (Kém thông mình, nhân hậu).

Sao tử vi không có vị trí hãm địa.

Sao Tử Vi an tại cung nào thì giáng phúc tại cung đó.

Sao Tử vi an tại Hợi, Tý, Mão, Dậu: Kém rực rỡ, giảm uy lực, nên không cứu giải được tai ương hay họa hại.

Sao Tử Vi gặp thiên tướng, văn xương, văn khúc, thiên khôi, thiên việt, tả phù và hữu bật thì uy quyền hiển hách. Tử Vi gặp những sao này giống như vua gặp được bề tôi trung lương có tài phò tá.

Sao Tử vi gặp sao thiên phủ thì của cải súc tích. Sao thiên phủ được ví như một vị thần coi kho cho nhà vua.

Sao Tử vi gặp sao lộc tồn và sao thiên mã thì tăng thêm quyền lực.

Sao tử vi làm cho sao thất sát thêm rực rỡ, ban quyền hành cho sao thất sát. Tử vi gặp thất sát ví như vua cầm cây kiếm báu.

Tử vi khắc chế được đặc tính hung ác của các sao hỏa tinh và linh tinh.

Sao Tử Vi kị gặp sao tuần, triệt án ngữ và kình dương, đà la, không kiếp, địa kiếp. Sao tử vi gặp những sao này chẳng khác gì vua bị vây hãm, bị quân hung đồ làm hại, nên sẽ thường sinh ra những chuyện chẳng lành.

Cung mệnh có Sao Tử Vi miếu địa vượng địa hay đắc địa tọa thủ thì thân hình đẫy đà và cao, da hồng hào, mặt đầy đặn, có trí thông minh, suốt đời được hưởng phúc, tuổi thọ cũng gia tăng. 

Tử vi bình hòa nên thân hình vừa phải, kém thông minh nhưng trọn đời vẫn được cơm no áo ấm, sống lâu.

Từ Vi miếu địa và bình hòa: tính nhân hậu và thẳng thắn, về già lại rất khiêm cung.

Sao Tử vi vượng địa hay đắc địa có nhiều mưu cơ, thủ đoạn, đôi khi giám làm cả những việc bất nghĩa.

Tử Vi gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp nhất là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Vũ Khúc, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả phù, Hữu Bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Long Trì, Phượng Các: Tất có uy quyền hiển hách, phúc thọ song toàn và được hưởng giàu sang trọn đời.

Sao Tử Vi gặp sao Tuần, Triệt nên sớm khắc một trong hai thân, hay khắc anh chị em, lúc thiếu thời chẳng được xứng ý toại lòng, thường đau yếu và có nhiều bệnh tật. Lại phải ly tổ buôn ba dấn thân vào những chốn hiểm nghèo nên hay mắc bệnh tai họa khủng khiếp, đôi khi phải mang tàn tật. Về già mới được an nhàn sung sướng. Có cách này, nếu không sớm lìa bỏ gia đình, bôn tẩu phương xa chắc chắn là yểu tử.

Tử vi gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội họp nhất là Không Kiếp thì suốt đời phải lao tâm khổ tứ, công danh trắc trở hay gặp những chuyện chẳng lành.

Cung mệnh an tại Mão, Dậu có sao Tử vi tọa thủ gặp Tham Lang đồng cung: là người yếm thế, thường nhìn đời bằng con mắt bi quan, đôi khi lại muốn lánh xa khỏi cảnh trần tục để tu dưỡng thân tâm. Có cách này mà còn chen chân vào chốn phồn tạp, dĩ nhiên còn phải lao khổ. Nhưng sớm biết tu hành, tất được yên thân và hưởng phúc.

Đối với nữ: Tử vi thủ tại mệnh gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp là người có đức độ, sống lâu, được hưởng giàu sang trọn đời và rất vượng phu ích tử.

Sao tử vi gặp tuần, triệt án ngữ, nên lúc thiếu thời cô đơn, gian khổ, đôi khi có bệnh tật khó chữa, nếu không xa cách những người thân, tất không thể sống lâu được, lại phải muộn lập gia đình hay lấy kế, lẽ mới tránh được độ buồn thương. Nếu sơm lập gia đình, chắc chắn phải bỏ chồng, khóc chồng, hay sầu não vì con.

Tử Vi gặp nhiều sao mờ ám hội họp: là người hạ tiện, dâm dật, hay ưa chuyện ong bướm đi về, tuy khắc chồng hại con nhưng vẫn được cơm no áo ấm.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tử Vi - Uy quyền, tài lộc, thông minh và sáng suốt

Phong thủy chọn màu sắc trong cuộc sống –

Màu đỏ đậm, xanh nước biển hay trắng tinh khôi sẽ phù hợp với phòng khách nhà bạn? Phòng ngủ nên và không nên chọn màu nào? Nếu biết cách chọn màu sắc phong thủy đúng cách, cuộc sống của bạn sẽ đạt được những chuyển biến tích cực một cách rõ rệt. Pho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu đỏ đậm, xanh nước biển hay trắng tinh khôi sẽ phù hợp với phòng khách nhà bạn? Phòng ngủ nên và không nên chọn màu nào?

Nếu biết cách chọn màu sắc phong thủy đúng cách, cuộc sống của bạn sẽ đạt được những chuyển biến tích cực một cách rõ rệt. Phong thủy đưa màu sắc lên một bậc cao hơn cách chúng ta nghĩ, tiếp thêm năng lượng giúp môi trường sống xung quanh được hòa hợp và cân bằng hơn.

Nội dung

  • 1 Ý nghĩa của phong thủy màu sắc
    • 1.1 Màu Đỏ – Đam mê, can đảm, lãng mạn
    • 1.2 Màu Vàng – Ánh sáng, tươi tốt, hạnh phúc
    • 1.3 Màu Xanh – Bình tĩnh, yên lặng, hòa bình
    • 1.4 Màu Xanh lá – tăng trưởng, sức khỏe, sinh động
    • 1.5 Màu Cam – Hòa đồng, cởi mở, lạc quan
    • 1.6 Màu Tím – trung thành, bí ẩn, sang trọng
    • 1.7 Màu Hồng – Dịu dàng, mềm mại, yêu thương
    • 1.8 Màu Xám – Rõ ràng, tách biệt, trung tính
    • 1.9 Màu Đen – không xác định, không giới hạn, thu hút
    • 1.10 Màu Trắng – Ngây thơ, trong trẻo, khởi đầu mới
    • 1.11 Màu Nâu – Sức mạnh, vững chắc, ổn định

Ý nghĩa của phong thủy màu sắc

Màu Đỏ – Đam mê, can đảm, lãng mạn

Màu đỏ là màu phong thủy mạnh nhất của nhân tố Lửa. Màu đỏ rực rỡ mang đến cho ngôi nhà của bạn niềm vui, nhiệt huyết và cả sự lãng mạn.

my-life-in-red-by-santia-9127-1404199856

Theo văn hóa của phương Đông, màu đỏ đại diện cho may mắn, hạnh phúc và do đó, được sử dụng chính trong các đám cưới. Trong khi đó, theo văn hóa phương Tây, màu đỏ lại là thiên sứ của tình yêu và sự lãng mạn, lòng can đảm và cả đam mê mãnh liệt.

Màu Vàng – Ánh sáng, tươi tốt, hạnh phúc

Màu vàng, màu của ánh nắng và niềm vui, chắc chắn chúng sẽ giúp ngôi nhà của bạn trở nên bừng sáng. Màu vàng cũng tạo cảm giác ấm áp, giúp thu hút những nguồn năng lượng tốt nếu được sử dụng ở nhà bếp, phòng khách hay phòng riêng.

Nếu muốn trang trí nhà bằng màu vàng, bạn thật sự có rất nhiều sự lựa chọn: từ màu hoa vàng rực rỡ đến màu vàng chanh.

Màu Xanh – Bình tĩnh, yên lặng, hòa bình

Màu xanh luôn được ví là màu kỳ diệu trong phong thủy và mang đến rất nhiều sự lựa chọn: từ màu xanh da trời sáng trong đến màu thẫm hơn của đại dương.

2-6595-1404199856

Để tăng năng lượng cho môi trường sống của bạn, tốt nhất hãy sử dụng màu xanh cho những khu vực bát quái trong nhà: hướng Đông (sức khỏe), hướng Đông Nam (tiền bạc), và hướng Bắc (nghề nghiệp).

Màu Xanh lá – tăng trưởng, sức khỏe, sinh động

Xanh lá trong phong thủy được ví là màu của sự cải tiến, nguồn năng lượng mới và sự tái tạo. Màu xanh lá được tin rằng sẽ mang đến sức khỏe tốt bởi nó giúp cân bằng cơ thể thông qua các sức mạnh đến từ thiên nhiên.

Nếu sử dụng màu xanh lá, bạn được khuyên nên kết hợp nhiều tông màu khác nhau để có thể tối đa hóa ảnh hưởng tích cực của nó.

Màu Cam – Hòa đồng, cởi mở, lạc quan

Nếu bạn cảm thấy màu đỏ khó dùng trong trang trí nhà cửa vì chúng quá rực rỡ, thì bạn hãy lựa chọn màu cam thay thế.

Màu cam trong phong thủy được đánh giá khá “hòa đồng” vì luôn mang đến nguồn năng lượng tốt cho các cuộc trò chuyện cũng như tạo ra nhiều giây phút đáng nhớ trong gia đình. Ngoài ra, màu cam còn nhắc chúng ta về những giấc mơ và niềm đam mê cháy bỏng thuở thiếu thời.

Màu Tím – trung thành, bí ẩn, sang trọng

Các chuyên gia phong thủy khuyên bạn sử dụng màu tím một cách có tiết chế. Bởi màu tím khá rực rỡ và nóng, tốt nhất nên dùng màu tím cho các chi tiết trang trí, như gối hoặc tranh ảnh nghệ thuật, hơn là để sơn tường.

Nơi tuyệt vời nhất để bạn có thể thoái mái sử dụng màu tím chính là phòng nghỉ hoặc phòng thiền.

Màu Hồng – Dịu dàng, mềm mại, yêu thương

Màu hồng ở trên toàn thế giới đều tượng trưng cho tình yêu và do đó, nó có tác dụng làm dịu năng lượng tuyệt vời hoặc khiến cho hành động của tất cả mọi người trở nên từ tốn hơn rất nhiều.

Vintage-pink-bedroom-color-6373-1404199856

Tin vui là bạn có thể sử dụng màu sắc đang yêu này ở hầu như mọi nơi – từ phòng ngủ đến nơi giặt đồ.

Màu Xám – Rõ ràng, tách biệt, trung tính

Quan điểm của mọi người về màu xám thường theo hai hướng trái ngược rõ ràng: nhàm chán và tinh tế. Nhưng dù bạn nghĩ gì thì màu xám chắc chắn cũng sẽ mang đến nhiều nguồn năng lượng tuyệt vời khi được sử dụng theo cách khôn ngoan.

Các hướng phong thủy phù hợp với màu này chính là: hướng Tây (sáng tạo), hướng Tây Bắc (nhận được giúp đỡ) và hướng Bắc (nghề nghiệp).

Màu Đen – không xác định, không giới hạn, thu hút

Mang sắc thái của màn đêm, của tầng nước sâu thẳm và của vũ trụ bí ẩn, màu đen mang đến sức mạnh cũng như nét đặc biệt cho bất kỳ nơi nào.

Thật ra, việc sử dụng màu đen không đơn giản như mọi người thường nghĩ mà thường đi kèm khá nhiều quy tắc (ví dụ: không sử dụng màu đen cho phòng trẻ em hay trên trần nhà phòng ngủ).

Màu Trắng – Ngây thơ, trong trẻo, khởi đầu mới

Màu trắng trong phong thủy tượng trưng cho sự trong trắng, ngây thơ, có khả năng kết hợp và xuất hiện ở trong tất cả các màu khác. Do đó, nếu ở trong một nơi chỉ toàn màu trắng, bạn sẽ dễ bị thu hút và cảm thấy hoàn toàn thoải mái.

white-walls-living-dining-9746-1404199857

Màu Nâu – Sức mạnh, vững chắc, ổn định

Màu nâu là lựa chọn khá phổ biến trong trang trí nhà cửa những năm gần đây. Nó mang năng lượng nuôi dưỡng và thường đi cùng với những thứ tuyệt vời: thanh choccolate, cà phê và gỗ.

Những vùng phong thủy phù hợp nhất với màu nâu chính là: hướng Đông (sức khỏe), hướng Đông Nam (tiền bạc) và hướng Nam (danh vọng).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy chọn màu sắc trong cuộc sống –

Vận trình tử vi trọn đời Đinh Sửu nữ mang chi tiết

Đinh Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đinh Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1937, 1997 và 2057
Cung LY
Mạng GIÁNG HẠ THỦY (nước mù sương)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CON TRÙNG

Bà Chúa Ngọc độ mạng

Đinh Sửu mạng Thủy cung Ly,
Giang hà nước chảy từ từ đi qua.
Gái mà sanh thuận Thu Đông,
Có chồng sung sướng ở không ăn hoài.
Sanh nhằm Xuân Hạ lỗi thay,
Đầu đội tay xách tay mang gáng gồng.
Đinh Sửu số cũng thong dong,
Âm đức phải giữ mới mong thanh nhàn.
Số đặng nên cửa nên nhà,
Tự tay lo lắng đ àn bà mấy ai.
Bôn ba nào có ích gì,
Số trời đã định nghĩ gì xa xôi.
Khuyên ai phận này thôi mà,
Đông Tây vùng vẫy cũng là uổng công.
Miễn sao ăn ở hiền lành,
Về sau cũng có đôi phần ấm no.

xem bói tử vi tuổi Sửu

CUỘC SỐNG

Tuổi Đinh Sửu, tiền vận có nhiều vất vả buồn thương, qua trung vận mới được nhiều may mắn trong cuộc đời. Bổn mạng được nhiều tốt đẹp về vấn đề tình duyên lẫn tài lộc, hậu vận thì mới có kết quả và mang nhiều tốt đẹp cho cuộc đời, hy vọng sẽ có những thàng công lớn vào hậu vận, số sung sướng vào lúc hậu vận, cuộc sống được bảo đảm và đầy đủ.

Tóm lại: Cuộc đời tuổi nhỏ vất vả, vào trung vận mới được hy vọng và có nhiều dễ dàng về tiền bạc, hậu vận mới được sung sướng an nhàn.

Tuổi Đinh Sửu không thành công về công danh, nhưng thành công về sự nghiệp và cuộc đời. Số hưởng thọ trung bình từ 60 đến 68 tuổi, nhưng nếu làm hiền, phúc đức thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác sẽ bị giảm kỷ.

TÌNH DUYÊN

Về vấn đề tình duyên, bước đầu nhiều trở lực, không có một quyết định dứt khoát, nên thường hay bị lừa đảo, làm cho cuộc sống có buồn khổ đôi chút.

Về vấn đề tình duyên, tuổi Đinh Sửu có ba trường hợp như sau:

Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời phải có ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 4, 9 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5, 8 và 10 Âm lịch. Và nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn sống hoàn toàn hạnh phúc, không có thay đổi về vấn đề tình duyên khi đã có quyết định, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 7 và 11 Âm lịch.

Về vấn đề tình duyên của tuổi Đinh Sửu có ba trường hợp như trên. Bạn nên nhớ xem mình sanh vào tháng nào, để biết về sự diễn tiến của vấn đề tình duyên và quyết định số phận của mình.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Phần gia đạo có nhiều hay đẹp và không có gì xảy ra quan trọng trong cuộc đời. Phần công danh nếu có cũng chỉ vào mức độ bình thường mà thôi.

Sự nghiệp có hoàn thành sớm hay muộn do ở sự siêng năng và kiên nhẫn của bạn, vì cuộc đời còn phải qua với sự trùng hạp tuổi của vấn đề tình duyên. Nhưng riêng về cá nhân thì sự hoàn thành sự nghiệp một cách khó khăn, phải ở vào tuổi 30 trở lên mới có triển vọng tốt đẹp. Tiền tài vừa đủ, không giàu sang phú quý nhưng cũng không đến nỗi thiếu hụt, nghĩa là tiền bạc cũng chỉ ở vào mức độ trung bình mà thôi.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Trong cuộc đời nếu cần làm ăn, hợp tác hay cộng tác, bất cứ việc gì có liên quan đến đời sống của mình, thì nên cần lựa những tuổi nầy, thì có phát đạt về tài lộc, tình cảm mà không bao giờ sợ sự thất bại, đó là những tuổi rất hạp với tuổi Đinh Sửu, đó là các tuổi: Mậu Dần, Canh Thìn và Giáp Thân. Những tuổi nầy rất hạp cho sự làm ăn của bạn.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Trong việc hôn nhân và hạnh phúc cần phải lựa chọn những tuổi hạp với tuổi mình để kết hôn, chẳng những phát đạt về tài lộc và tình cảm mà còn có thể thuận lợi trong việc cấu tạo một đời sống vinh diệu cho cuộc đời. Trong việc lựa chọn lương duyên, bạn cần chọn những tuổi nầy thì sẽ được hưởng nhiều tươi đẹp, đó là các tuổi: Mậu Dần, Canh Thìn, Giáp Thân.

Ba tuổi nầy rất hạp về đường tình duyên và cả về vấn đề tài lộc, phần con cái đầy đủ và tạo được cuộc sống giàu sang phú quý.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy thì cuộc sống của bạn chỉ có thể tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Đinh Sửu, Tân Tỵ, Quý Mùi và Ất Hợi. Vì những tuổi nầy chỉ hạp với bạn về đường tình duyên mà không hạp về đường tài lộc.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, bạn có thể sẽ không tạo được một sự sống êm đẹp trong cuộc đời mà trái lại bạn khó tạo được một cuộc đời được hoàn toàn đầy đủ như ý, trái lại bạn luôn luôn phải chịu cảnh nghèo khổ triền miên, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Kỷ Mão, Ất Dậu, Quý Dậu.

Bạn kết duyên với ba tuổi nầy, chỉ tạo được một cuộc sống vừa đủ ăn đủ mặc mà lại luôn luôn chật vật khó mà có lúc nào an nhàn thảnh thơi được.

Có những năm tuổi bạn rất xung khắc vì việc lương duyên, toan tính việc lương duyên khó thành tựu, hay thành thì gặp cảnh xa vắng triền miên, vì tuổi bạn gặp năm xung khắc về lương duyên, đó là bạn ở vào nhưng năm mà số tuổi bạn ở vào: 19, 23, 25, 31, 35, 37 và 43 tuổi.

Bạn sanh vào những tháng nầy có số đa phu hay ít ra cũng đa đoan về việc lấy chồng, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 4 và 5 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì phải hết sức thận trọng việc lập gia đình mới có thể thành công toàn vẹn được.
NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

N ên nhớ trong cuộc đời bạn, dù trong mọi khía cạnh nào hay trong sự kết duyên hay làm ăn, đều nên tránh những tuổi đại kỵ vì những tuổi nầy rất xung khắc với tuổi Đinh Sửu. Nếu cộng tác, hợp tác hay kết duyên thì sẽ phải tuyệt mạng hay lâm vào cảnh biệt ly vào giữa cuộc đời, đó là các tuổi: Nhâm Ngọ, Bính Tuất, Mậu Tý, Giáp Ngọ, Bính Tý, Giáp Tuất và Canh Ngọ. Những tuổi nầy nên tránh đi là tốt hơn.

Gặp tuổi kỵ trong việc làm ăn nên tránh đi. Trong tình duyên thì nên âm thầm, không nên làm lễ hôn nhơn hay ra mắt bà con thân tộc một cách linh đình. Về gia đình con cái nên xem sao hạn hằng năm mà cúng thì được giải hạn.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Đinh Sửu có những năm khó khăn nhứt, làm ăn không được phát đạt, cuộc sống khó tạo được cơ hội thuận tiện, tiền bạc khó khăn, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 19, 24, 33 và 41 tuổi. Những năm nầy nên cẩn thận, đề phòng có bịnh hoạn hay gặp tai nạn.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Tuổi Đinh Sửu có những ngày, giờ xuất hành hạp nhứt là những ngày lẻ, tháng chẵn và giờ chẵn. Xuất hành vào những ngày giờ và tháng nói trên, làm ăn được phát triển, tài lộc dồi dào, không sợ bị thất bại về tiền bạc cũng như về việc làm ăn. Những ngày, giờ và tháng ghi trên áp dụng cho suốt cuộc đời.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 20 đến 25 tuổi: Năm 20 tuổi, được khá về đường tài lộc và tình cảm. Năm 21 tuổi có bịnh hoạn, kỵ tháng 6 và 7, nên cẩn thận trong hai tháng nầy, những tháng khác bình thường. Năm 22 tuổi, năm nầy có phát triển về tài lộc và tình cảm được lên cao, toàn năm đều tốt. Năm 23 tuổi, không nên đi xa, làm ăn có tánh cách tiền bạc nhiều sẽ thất bại, năm có kỵ tuổi, nhứt là những tháng 1, 5, 7 và 10 Âm lịch. Năm 24 tuổi, năm nầy rất tốt cho việc làm ăn, có lợi nhỏ, vào tháng 12 đại lợi. Năm 24 tuổi, năm nầy cũng phát triển mạnh mẽ về việc làm ăn, tài lộc khá dồi dào, toàn năm lợi nhiều hơn hại trên mọi lãnh vực. Suốt thời gian nầy tình cảm ở mức trung bình không có gì đáng nói.

Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có kỵ tháng 3, tháng 4 có hao tài đôi chút, những tháng khác trung bình. 27 tuổi khá hay đẹp, nên phát triển về đường tài lộc lẫn sự nghiệp rất tốt. 28 tuổi, năm nầy nên làm những việc gia đình, không nên giao dịch về tiền bạc cũng như không nên làm ăn lớn. 29 và 30, hai năm bình thường không có gì quan trọng xảy ra.

Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi, nên cẩn thận sẽ có đau nặng hay trong gia tộc có tang khó. Năm nầy làm ăn không được khá. Năm 32 tuổi, năm nầy việc làm ăn không được tốt, nhưng không có hao tài tốn của, tài lộc vẫn bình thường. 33 tuổi, năm quá xấu cho bổn mạng và tuổi, năm nầy kỵ đi xa hay làm ăn về việc tiền bạc. 34 và 35 tuổi, hai năm đều tốt, có hoạch tài vào năm 34 tuổi. Năm 35 tuổi nên cẩn thận việc gia đạo một chút, việc làm ăn nên phát triển tốt.

Từ 36 đến 40 tuổi: Tuổi 36 được tốt. 37 tuổi có nhiều dịp may đưa đến, nên hùn hạp hay buôn bán thì tốt nhứt. 38 và 39, có cơ hội thuận tiện cho sự phát triển về nghề nghiệp và công danh lẫn tình cảm. Năm 38, kỵ vào tháng 9, 39 kỵ tháng 2, hai tháng của hai năm, nên tránh đụng chạm tình cảm bất lợi. 40 tuổi, trung bình, tài lộc đều hòa, tình cảm hơi có rắc rối nhưng rồi cũng không có gì xấu.

Từ 41 đến 45 tuổi: Khoảng thời gian nầy rất tốt đẹp về phần gia đạo, nên cần lo cho bổn mạng, nếu đi mua bán hay làm ăn có tánh cách tiền bạc nên coi chừng. Những năm nầy không nên đi xa, hãy xuất hành theo như trên thì tốt.

Từ 46 đến 50 tuổi: Thời gian nầy cố tạo lấy một cuộc sống đầy đủ cho con cái thì hơn. Sẽ có nhiều dịp may đưa đến về phần tiền bạc và tình cảm. Năm 47 tuổi, thường đau bịnh, những năm khác bổn mạng vững.

Xem thêm:

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Sửu

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Đinh Sửu nữ mang chi tiết

Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy - Phong thủy - Xem Tử Vi

Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy, tu vi Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy

Dường như, thủy tinh đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc trang trí nhà cửa. Từ hành lang bằng kính cho đến gạch thủy tinh trong phòng khách... Vậy trong phong thủy, thủy tinh có ý nghĩa huyền bí như thế nào?

Cùng với sự đổi mới không ngừng của trào lưu nhà ở, những người trẻ tuổi ngày nay có xu hướng thích dùng đồ trang trí được làm từ chất liệu thủy tinh để trang trí cho ngôi nhà của mình. Từ hành lang bằng kính cho đến gạch thủy tinh trong phòng khách... Một vài gia đình còn phá bỏ đi tường bằng gạch trong phòng ngủ và phòng khách để đổi sang tường kính vì nhận thấy rằng tường kính có thể khiến cho không gian trở nên rộng rãi hơn.

Tuy nhiên, thủy tinh là một loại chất liệu đặc biệt, vì vậy khi dùng thủy tinh trong nhà thì càng phải chú ý nhiều hơn.

Kiêng ngăn giữa phòng ngủ và phòng khách bằng kính

Theo như phong thủy, phòng khách là nơi để tiếp khách thuộc phần dương, còn phòng ngủ là nơi để gia chủ có thể nghỉ ngơi thuộc phần âm. Nếu sử dụng tường kính để ngăn cách hai phòng này thì có thể dễ dàng nhìn thấy nhất cử nhất động của gia chủ và khách trong phòng. Như vậy âm dương sẽ mất cân bằng khiến cho tâm trạng con người bất ổn, tinh thần hoảng loạn.

Kiêng lắp đặt phòng tắm kính trong phòng ngủ

Một vài cặp vợ chồng trẻ vừa mới kết hôn thích lắp đặt phòng tắm kính trong phòng ngủ vì cho rằng như vậy có thể làm tăng thêm độ mặn nồng cho tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên trong phong thuy thiết kế phòng tắm kính là điều kiêng kỵ. Vì nhà vệ sinh dù sao thì cũng là nơi chứa nhiều tà khí thuộc phần âm cần phải được che lại. Vì thế nên dùng tường bằng gạch thay cho tường kính trong suốt.

Kiêng dùng gạch thủy tinh cho ngôi nhà

Trong một vài thiết kế của những ngôi nhà gỗ hay biệt thự sang trọng có khi người ta sử dụng gạch thủy tinh để trang trí cho ngôi nhà bằng cách phủ một lớp gạch thủy tinh nên trên sàn nhà, đồng thời tạo các hình vẽ hoa văn lên đó để tạo vẻ đẹp tinh tế cho căn phòng.

Vì là thủy tinh trong suốt nên không thể tạo cho bạn cảm giác như đang bước trên sàn nhà thật, và chắc hẳn bạn sẽ cảm thấy thiếu đi cảm giác an toàn. Mà sàn nhà lại cần phải vững chắc vì thế gạch thủy tinh không thích hợp để sử dụng cho ngôi nhà của bạn.

Kiêng đặt tường kính thẳng giường ngủ

Tường kính cũng là một giải pháp mà các kiến trúc sư thích sử dụng khi thiết kế nhà ở hiện nay. Thứ nhất là vì tường kính có thể tạo cảm giác thoáng đãng cho ngôi nhà, hai là làm cho căn phòng trở nên đa dạng nhiều màu sắc. Và tường kính còn có thể đem đến cho bạn nhiều niềm vui bất ngờ. Các chuyên gia khuyên rằng tường kính có thể sử dụng trong việc trang trí nhà ở, nhưng có một nguyên tắc cần phải lưu ý đó là không nên đặt thẳng giường ngủ.

Ngoài ra, tường kính nên dựa vào tường thật, nếu không sẽ có cảm giác hư ảo không rõ ràng. Tóm lại, tường kính không nên đặt quá nhiều trong nhà, phải sử dụng một cách hợp lý, mỗi một căn phòng lại có những cách sắp xếp khác nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy - Phong thủy - Xem Tử Vi

Phong thủy và hình xăm –

Hình xăm phong thủy và những bí ẩn sau mỗi hình xăm luôn là câu chuyện được rất nhiều người quan tâm. Bởi lẽ, có những sự tình cờ, hoặc do sắp xếp của một thế lực vô hình nào đó không thể lý giải, có người xăm hình xăm phong thủy thì phất lên như diề

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

u gặp gió, có người thì gặp phải án “tử chết không toàn thây…

y-nghia-hinh-xam

 

1. Một số quan niệm về thuật phong thủy đối với hình xăm trong nhân tướng học

Tứ thú là bộ hình xăm rất quen thuộc. Tứ thú bao gồm rồng xanh, hổ trắng, chim công và rùa đen. Theo thuật phong thủy thì bốn con vật này phải được xăm vào đúng vị trí của nó thì mới tốt. Do đó, người ta hay nói: “tả Thanh Long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ”. Điều này có nghĩa là bên cánh tay trái nên xăm rồng xanh, cánh tay phải xăm hình hổ trắng, ngực trước xăm chim công, sau lưng là xăm hình rùa đen có con rắn quấn quanh.

Bốn linh vật này vốn được coi là vật mang lại may mắn nhưng bạn nên nhớ rằng chúng không mang lại may mắn cho tất cả mọi người. May mắn chỉ có được khi mệnh của chủ nhân hợp với hình xăm đó. Ngược lại nếu mệnh không gánh được tứ linh thì chỉ gây tổn hao nguyên khí, lành hóa dữ, hợp hóa xung.

hinh-xam-phong-thuy

 

Những hình xăm phong thủy khó xăm nhất mà bạn nên cân nhắc kỹ trước khi tiến hành đó chính là hình rồng, hình Quan Công, Thanh Long, Tà Long, chữ nhẫn, Quan âm ngồi đài sen… Mặc dù những hình xăm này rất phổ biến nhưng kỳ thực lại rất nguy hiểm đến vận mạng chủ nhân nếu không thích hợp. Những hình xăm này đòi hỏi mệnh của chủ nhân phải gánh rất nặng nề, bằng không mệnh nhỏ, mệnh yếu rất dễ gây hậu họa. “Chữ nhẫn” là một hình xăm không hề đơn giản, những người kinh doanh, những người giảo ngoạt, chua ngoa, thiếu thật thà, thiếu kiên trì nhẫn nại nếu cứ quyết xăm “chữ nhẫn” cho bằng được thì sớm muộn cũng gánh tai ương. Hình “Quan âm ngồi đài sen” cũng vậy, nếu kẻ xăm hình không một lòng hướng phật, tâm tà thì ắt hẳn sẽ gặp vận xui.

2. Những vị trí xăm hình đầy nguy hại

Vẫn phải nhắc lại hình xăm phong thủy cần phù hợp với tính cách, vận mạng của chủ nhân. Những hình xăm không thích hợp sẽ gây ra những hậu họa nhất định phụ thuộc vào tưng vị trí khác nhau.

y-nghia-phong-thuy-hinh-xam

 

Xăm ngực và phần dưới cơ thể: Đây là vị trí xăm nguy hiểm. Với những ai chưa lập gia đình sẽ lận đận tình duyên. Sau khi lập gia đình dễ vô sinh, xung khắc với con với cháu.

Xăm hình ở ngón tay: Với nữ nếu xăm ở ngón tay bên bàn tay trái thì chồng bạc duyên, nếu xăm bên bàn tay phải thì nhân duyên kém. Ở nam thì ngược lại.

Hình xăm ở mông: Dễ gặp những điều thị phi thường xuyên, không dứt.

Hình xăm ở đùi: Dễ khiến đường đời gập ghềnh, trúc trắc

Hình xăm che sẹo: Trong thuyết phong thủy nơi có sẹo là nơi tổn hao đến khí, nếu xăm hình lên vết sẹo sẽ càng khiến khí loạn, khí rối hơn.

Hình xăm trên vai, cổ: Những hình xăm nếu không hợp mệnh được xăm ở vị trí này dễ gây mệnh khổ, ngoài ra ảnh hưởng đến đường hô hấp, khí huyết lưu thông.

hinh-xam-tren-vai

 

Xăm hình động vật: Dễ bị người khác sai khiến, lợi dụng. Ngoài ra nếu không cẩn thận còn có thể gây xung khắc trong bộ 12 con giáp.

Xăm hình cây cỏ: Da vốn mang tính thổ, thực vật mang tính mộc, mộc lại khắc thổ nên hay gây sự cố bất thường, dễ bị thương tích, tai bay vạ gió

Xăm hình ở tay chân: Dễ gặp điều thị phi suốt đời. Đặc biệt xăm ở bắp chân dễ ảnh hưởng đến chuyện tình duyên, nam nữ.

Nếu vận mạng, sự may mắn, tài lộc của bạn thay đổi theo chiều hướng xấu sau khi xăm hình thì ắt hẳn là hình xăm của bạn đã phạm, không hợp mệnh. Cách khắc phục duy nhất là hãy xóa bỏ hình xăm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy và hình xăm –

Phong cách bắt Pokemon go của 12 chòm sao như nào?

Bắt Pokemon go cùng 12 chòm sao thôi. Trò chơi hot nhất hệ mặt trời trong thời gian này đã đến, cùng xem 12 chòm sao của chúng ta thích hợp nhất với pokemon nào
Phong cách bắt Pokemon go của 12 chòm sao như nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Pokemon go cùng 12 chòm sao thôi. Trò chơi hot nhất hệ mặt trời trong thời gian này đã đến, cùng xem 12 chòm sao của chúng ta thích hợp nhất với pokemon nào nhé.


Phong cach bat Pokemon go cua 12 chom sao nhu nao hinh anh 2
Bắt Pokemon go

Bạch Dương

  Pokemon go là trò chơi siêu yêu thích của Cừu trắng đấy. Bạch Dương trời sinh tính hiền lành, thiện lương, là người rất thích che chở cho người khác nên họ thích nhất là những chú pokemon nhỏ dễ thương.  

Kim Ngưu 

  Kim Ngưu tính cách thành thật chính trực nhưng cũng vô cùng cố chấp. Nên một chú pokemon tùy hứng, đáng yêu khiến họ cảm thấy thoải mái hơn đấy.  

Song Tử

  Thích giải trí, thích vui vẻ nên Song Tử cảm thấy thích thú vô cùng với những chú pokemon có sự lanh lợi, hoạt bát.  

Cự Giải

  Bản chất “gà mẹ” của Cự Giải phát huy cao độ trong khi chơi Pokemon go. Chòm sao này thích nhất là những chú pokemon nhỏ nhắn, yếu đuối cần chăm sóc
 
Phong cach bat Pokemon go cua 12 chom sao nhu nao hinh anh 2
 Đuổi bắt Pokemon go cùng 12 chòm sao

Sư Tử

  Vừa thấy đã biết là Sư Tử ưa thích những chú pokemon có sức mạnh lớn, vẻ ngoại phô trương, to lớn rồi.  

Xử Nữ

  Công thủ toàn năng, ngoại hình xinh xắn, Xử Nữ chỉ cần có vậy thôi ấy mà, có vậy thôi, không cần nhiều đâu. Đúng là ưa hoàn hảo quá độ.  

Thiên Bình

  Xinh đẹp và bắt mắt là tiêu chí đầu tiên và cao nhất mà Thiên Bình quan tâm đến ở một chú pokemon. Họ vốn là chòm sao ưa cái đẹp mà, thấy đẹp là tít mắt lên rồi.  

Thiên Yết

  Pokemon go á, Thiên Yết chắc gì đã chơi, mà có chơi thì chú nào mạnh là anh chọn thôi, không quan tâm thích hay không thích.  

Nhân Mã

 

Nhất định phải linh động, quyến rũ, thấy là yêu mới được nhé, Nhân Mã chọn pokemon mà cũng như chọn người yêu vậy.

Ma Kết


Bận rộn như Ma Kết chắc chả có hứng thú với trò chơi thế này đâu. Họ còn mải mê bao nhiêu việc kia kìa, nhưng nếu chơi thì cũng thích những con cường đạo vô song, đánh đâu thắng đó ấy.

Bảo Bình


Những chú pokemon có tính năng mới lạ, hay ho sẽ nằm trong tầm ngắm của Bảo Bình ngay. Bảo Bình có hứng thú khám phá và phát triển những điều mà chưa nhiều người biết.

Song Ngư

Đáng yêu, nhất định phải đáng yêu nhá những chú pokemon của Song Ngư. Biết cách làm nũng nữa thì càng tuyệt, Song Ngư thích những thứ siêu yêu thế mà.
Hương tinh dầu dành riêng cho 12 chòm sao Loài hoa may mắn của 12 chòm sao Gợi ý phong thủy nhà ở đón phúc tăng tài cho 12 chòm sao

Thái Vân
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong cách bắt Pokemon go của 12 chòm sao như nào?

Sử dụng phong thủy hình khối để cuộc sống muôn phần thuận lợi

Sử dụng phong thủy hình khối sẽ tạo ra nguồn năng lượng phong thủy tích cực, mang tới sự hanh thông, thuận lợi cho mọi phương diện của cuộc sống như tài lộc,
Sử dụng phong thủy hình khối để cuộc sống muôn phần thuận lợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Sử dụng hài hòa các hình khối theo ngũ hành sẽ tạo ra nguồn năng lượng phong thủy tích cực, mang tới sự hanh thông, thuận lợi cho mọi phương diện của cuộc sống như tài lộc, sức khỏe, tình duyên…

  Theo quan điểm phong thủy, mỗi hình khối khác nhau mang yếu tố ngũ hành, ý nghĩa và tác dụng phong thủy riêng biệt. Từ đó có thể ứng dụng ngũ hành trong các hình khối khác nhau, tạo ra sự cân bằng năng lượng trong ngôi nhà, văn phòng.    Dưới đây là những hình khối cơ bản thường được ứng dụng trong xây dựng. Sử dụng hài hòa phong thủy hình khối cũng là cách để tạo ra nguồn năng lượng tích cực, mang tới tác dụng trợ giúp cho mọi mặt của con người trong cuộc sống như tài lộc, sức khỏe, tình yêu…   1. Hình vuông   Trong phong thủy, hình vuông mang yếu tố của đất, hành Thổ và con số biểu trương là số 2.
 
Su dung phong thuy hinh khoi de cuoc song muon phan thuan loi hinh anh
 
Hình vuông thu hút những năng lượng bền vững liên quan đến các mối quan hệ và gia đình. Nếu cuộc sống và các mối quan hệ của bạn đang rắc rối, hỗn loạn, bạn nên sử dụng thêm nguồn năng lượng này. Nó sẽ giúp bạn nhanh chóng lấy lại sự cân bằng, giúp mọi việc trở nên hanh thông, thuận lợi hơn.
 
Bên cạnh đó, hình vuông mang đến cuộc sống giàu có và thành công trong sự nghiệp cho người mang Quái số 8, 2 và 5.   2. Hình chữ nhật
 
Hình chữ nhật đại diện cho năng lượng của gỗ, thuộc hành Mộc và sự tăng tiến về công danh, sự nghiệp. Con số mang ý nghĩa biểu trưng và phù hợp với hình chữ nhật là 3 và 4, trong đó số 3 mang tới nhiều may mắn hơn. 
 
Su dung phong thuy hinh khoi de cuoc song muon phan thuan loi hinh anh 2
 
Hình chữ nhật còn đại diện cho sự chuyển động. Sử dụng hình chữ nhật trong văn phòng để cân bằng lại yếu tố Kim hoặc Thổ. Ngoài ra, khi bạn muốn tìm kiếm sự bảo vệ, có thể dùng hình khối này trong trang trí nhà ở, văn phòng.
 
Hình khối chữ nhật thích hợp cho gia chủ mang quái số 1 hoặc 9 muốn thăng tiến hơn nữa trong sự nghiệp.
3. Hình tròn  
Su dung phong thuy hinh khoi de cuoc song muon phan thuan loi hinh anh 3
 
Hình tròn là biểu trưng của sự an toàn và may mắn vì đại diện cho vàng, yếu tố ngũ hành Kim, con số biểu trưng là số 6 và 7. Tính kim giúp cân bằng lại tính mộc quá nhiều trong những ngôi nhà gỗ, lắp sàn gỗ hay đồ nội thất gỗ.    4. Hình lượn sóng  
Su dung phong thuy hinh khoi de cuoc song muon phan thuan loi hinh anh 4
 
Hình khối lượn sóng đại diện cho nước, yếu tố ngũ hành Thủy. Ngoài ra, nó còn đại diện cho số 1 cát lành.
 
Hình lượn sóng hay dạng đường cong nói chung tượng trưng cho tính lưu động của các phần tử nước và khả năng vận chuyển và chuyển hóa. Đây là một trong những hình dạng khó áp dụng nhất vào nội thất trong nhà. 
 
Nếu bạn mang Quái số 4 rất thích hợp sử dụng các đồ nội thất có dạng hình lượn sóng hay hình cong trong nhà và văn phòng.
 
Việt Hoàng   10 điều đáng lưu tâm khi chuyển đồ về nhà mới
Không phải là chỉ cần cúng bái thần linh, thổ địa xong là bạn có thể tùy ý chuyển đồ vào nhà mới. Có những việc rất nhỏ nhưng cũng đáng để bạn lưu tâm nếu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sử dụng phong thủy hình khối để cuộc sống muôn phần thuận lợi

Sao Phượng Các

Hành: Thổ Loại: Đài Các tinh Đặc Tính: Công danh, vinh hiển lâu dài Tên gọi tắt thường gặp: Phượng
Sao Phượng Các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long Trì và Phượng Các. Gọi tắt là bộ sao Long Phượng. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là Long Phượng Hổ Cái.

Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Phượng Các ở Mệnh thì nhan sắc rất đẹp, da mặt hồng hào, thanh tú, nhất là đối với phụ nữ.
Tính Tình

  • Thông minh, có chất văn.
  • Ôn hòa, nhân hậu, điềm đạm, cởi mở.
  • Đoan trang trong nết hạnh.
Công Danh Tài Lộc
  • Thi đỗ cao, có khoa giáp lớn, nhất là ở Mão Dậu.
  • Làm tăng thêm tài lộc, điền sản (Long Trì chỉ nhà cửa, ao hồ).
  • May mắn trong hôn nhân (dễ yêu, dễõ cưới, vợ chồng tương đắc).
  • May mắn cả trong việc sinh nở (dễ sanh, sinh dễ nuôi).
Với các nghĩa trên, Phượng Các là sao tương đối vẹn toàn về nhiều mặt nhan sắc, tính hạnh, tài lộc, gia đạo.
Ý Nghĩa Phượng Các Và Các Sao Khác
  • Phượng Các, Thai Phụ: Thăng quan, thi đỗ.
  • Phượng Các, Riêu, Hỷ hay Phi: Đắc thời, có hỷ sự đến nhanh chóng về tình duyên, thi cử, quan lộ.
  • Phượng Các, Thiên Lương: Nữ mệnh có chồng danh giá, hiền.
  • Phượng Các, Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu: Đây là bộ sao "hiền thần", chuyên phò tá cho Tử Phủ. Cách này giúp đắc quan mau lẹ, cao quý.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ danh giá hoặc có điền sản.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phúc Đức
  • Phú quý.
  • Dòng họ khá giả.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Điền Trạch
  • Phượng Các, Mộ: Có nhà đất rộng rãi, có di sản.
  • Phượng Các, Thai, Bát Tọa: Có nhà lầu cao sang, nhà có ao hồ.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Quan Lộc
  • Gia tăng sự thuận lợi về việc cầu công danh, chức vụ, thi cử, bằng khen.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn là người có danh chức, đắc lực.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp quý nhân, được người mến chuộng.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tật Ách
  • Chủ đau bệnh về lỗ tai, thận.
  • Phượng Các nếu gặp với các sao Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, nếu không thì đời hay bị vu oan, giá họa, nói xấu, dèm pha, oán trách, nhà cửa hay bị mối mọt, đồ đạc mau hư, tầm thường.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tài Bạch
  • Gia tăng sự tốt đẹp về mưu cầu tài lộc, tiền bạc hoặc được thừa hưởng di sản, địa ốc, tiền trợ cấp, tiền hưu bổng và chính mình cũng chu cấp cho người khác, làm việc từ thiện.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tử Tức
  • Dễ sinh con, sinh con đẹp, dễ nuôi.
  • Sinh quý tử, thông minh, tuấn dật.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng đẹp đôi, tương đắc, việc cưới xin dễ dàng.
Phượng Các Khi Vào Các Hạn
  • Phượng Các, Riêu, Hỷ: Có dạm hỏi, đưa đến hôn nhân.
  • Phượng Các, Cáo, Ấn: Thi đỗ.
  • Phượng Các , Thiên Mã: Có dời nhà cửa.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Phượng Các

2 loại người và 5 thời điểm đừng quên tụng kinh niệm Phật

Niệm Phật tu thân, đời đời phúc báo. Ích lợi cụ thể của tụng niệm là gì? Những người nào nên tụng kinh niệm Phật?
2 loại người và 5 thời điểm đừng quên tụng kinh niệm Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Niệm Phật tu thân, đời đời phúc báo. Niệm Phật không những mang tới sự thanh thản, bình yên mà còn khiến con người tìm ra phương hướng cho cuộc sống của chính mình. Ích lợi cụ thể của tụng niệm là gì? Những người nào nên tụng kinh niệm Phật?

2 loai nguoi va 5 thoi diem nhat dinh dung quen tung kinh niem Phat
 

1. Những người nên tụng kinh niệm Phật
 

Người sang giàu nên niệm Phật bởi phúc đức đời này đều đến từ việc tu hành của kiếp trước, người giàu sang phú quý kiếp này chính là người đã tu dưỡng đầy đủ nghiệp lành ở kiếp trước. Nhưng sang giàu không vĩnh viễn trường tồn, nếu tạo ra nghiệp chướng thì chẳng mấy chốc tiêu tan, sa vào bể khổ. Vì thế người giàu cần tụng niệm hồi hướng, tiếp tục tu nhân tích đức cho bản thân và gia đình để phúc ấy kéo dài.    Dẫu nhờ phước đức đã gieo mà kiếp này sung sướng thì cũng đừng vội mừng, tất cả chỉ là tạm thời mà thôi, khi về với cát bui cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Vậy thì bám víu vào những thứ hão huyền ấy liệu có ích gì. Tu Phật niệm kinh không phải chỉ để tiếp tục đời đời giàu có, kiếp kiếp ấm no mà quan trọng hơn là tìm thấy sự bình yên trong những ngày tháng đang sống.   Người nghèo nhất định phải niệm Phật. Kiếp trước xây ác nghiệp, kiếp này đền quả báo, để trả nghiệp nhất định phải thành tâm sám hối. Ngoài việc sống tốt, giữ tấm lòng thiện lương thì phải chăm chỉ tu dưỡng, nêu cao Phật hiệu để sớm xây thiện hạnh, tích lũy nghiệp lành cho mình.   Hơn thế nữa, cuộc sống nghèo hèn đau khổ về vật chất đã đủ để khiến con người mệt mỏi, cần có định hướng tinh thần níu giữ ta lại với đời. Giá trị ấy đến từ tu Phật, học Phật và hướng Phật, thấm nhuần tư tưởng từ bi hỉ xả của nhà Phật. Có như vậy thì mới tìm thấy được chân tâm ở cõi đời, cũng bớt khổ bớt đau, trong lòng có con đường sáng, tự dưng bỏ qua hết muộn phiền.   Khổ mà biết là khổ để thoát khỏi khổ ấy mới là kẻ trí. Khổ mà không biết khổ, cam chịu số phận thì phí hoài. Nếu nghĩ đời mình đã quá khốn khó, chẳng mong hòng gì, cầu Phật chỉ vô ích thì thật sai lầm. Cầu Phật không phải mong Phật giúp chuyển nghèo thành giàu, chuyển xấu thành tốt, đó là chuyện hết sức vô lý.   Niệm Phật là để bản thân giác ngộ, tìm ra chân lý, tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Tìm ra rồi mới biết sống thế nào cho tốt, sống tốt rồi đảm bảo thoát khổ. Con người trên đời ngoài vật chất, ngoài tiền tài còn có muôn vàn điều khác mang tới hạnh phúc, quên đi thiếu thốn vật chất, hướng tới sự giàu có ở các phương diện khác để cân bằng.   Trước chân tam bảo không phân biệt sang hèn, trước mặt Đức Phật không có người quý tiện. Nam nữ già trẻ trai gái, bất cứ ai có lòng đều có thể tụng kinh niệm Phật, tu dưỡng học đạo, không hề có cấm kị, không hề có giới hạn.    Sống trên đời dù giàu có thế nào, thành công ra sao, vinh hiển tột bậc cũng chẳng thể thoát khỏi 7 nỗi khổ lớn của đời người. Mà đã khổ thì phải tìm cách cải thiện, cách cải thiện tốt nhất chính là thường xuyên niệm Phật, có đạo dẫn đường tự tìm ra niềm vui trong nỗi khổ.  

2. Những lúc nên tụng kinh niệm Phật


nhung luc nen tung kinh niem phat
 
- Lúc bận rộn:   Lúc không có Phật cũng có thể niệm Phật vì Phật tại tâm, trong lòng có Phật chẳng cần tượng cần chùa. Ngồi ngay ngắn, hướng mặt về phía Tây, khởi tâm động niệm, tự tưởng tượng ra hào quang xán lạn của Đức Phật rồi chậm rãi tụng, thân tâm an lạc, mọi xấu xa khổ ải cũng bay biến tự bao giờ.    Tụng kinh trong lúc bận rộn, có thời gian niệm một câu thì niệm một câu, có thời gian niệm mười câu thì niệm mười câu. Ngay cả khi bận rộn, dù chỉ trống một khoảnh khắc cũng có thể hướng Phật mà cầu tụng, buông bỏ tạp niệm, sáng suốt tụng trì.    Nhiều người cho rằng tụng kinh phải thành khóa thành bài, ngồi suốt một giờ mới là đúng đạo. Phật giáo không kiểu cách như vậy, miễn có lòng thì ở đâu cũng được, miễn có tâm thì bao lâu cũng tốt. Lúc đi niệm Phật, lúc ngồi niệm Phật, nghỉ ngơi giữa giờ niệm Phật, trước khi đi ngủ niệm Phật đều có giá trị như nhau.   Vì thế đừng lo lắng rằng bản thân quá bận, quá nhiều việc, không thể dành thời gian sáng tối trưa chiều ngồi trước ban Phật để tụng niệm. Cứ tụng kinh khi nào có thể, người có lòng Phật sẽ chứng tâm. Nghe kinh niệm Phật là nhất đẳng hưởng thụ của đời người, muốn lúc nào thì hưởng lúc ấy, hưởng ngay cả khi thời gian hữu hạn, không gian hẹp hòi.
 
- Lúc nhàn rỗi:   Trên đời có quá nhiều nỗi khổ, nhân sinh có quá nhiều người khổ, người bận rộn còn muốn tu hành, vậy sao người rảnh rỗi lại không tu tâm hướng Phật. Người bận chỉ tụng niệm được đôi ba câu, tranh thủ thời gian còn người rỗi có thể gia trì khóa tụng mỗi sáng, trưa, chiều tối; được nghe kinh Phật, nghe giảng Pháp, thật tốt biết bao.   Nếu không tận dụng thời gian thì là uổng phí, không tu tâm để tâm trôi nổi thì là lãng phí. Duyên phận cho ta không vướng bận thì đừng bê trễ, cố gắng học Phật niệm kinh nhiều hơn, chẳng những thành người có ích, làm việc có ích mà còn tự điều chỉnh bản thân không sa ngã vào những thói hư tật xấu.   Người rảnh rỗi chẳng những tụng kinh niệm Phật đều mà còn có thể tới chùa tham gia tu trì, làm nhiều việc thiện để lời kinh thấm sâu, biến thành hành động. Thay vì ngồi một chỗ, hòa nhập cộng đồng Phật tử, hướng tới giác ngộ Phật giáo chẳng phải tốt hơn hay sao.
Xem thêm bài viết Tụng kinh - nghi thức dưỡng tâm tâm linh
 
- Lúc sai lầm:   Người có lúc phạm sai lầm, có lúc u mê lạc lối, cần phải tịnh tế để gia cố trí tuệ, một mặt sám hối mặt khác tăng cường sức mạnh để không tiếp tục đi sai đường. Niệm Phật về với chính đạo, mở lòng ra đón nhận những học thuyết, những sáng tỏ, những giác ngộ của Phật pháp. 
nhung nguoi nen tung kinh niem phat
 
Một người tu hành có thể khiến bản thân tốt đẹp hơn và cũng làm cho những người xung quanh tốt đẹp hơn. Vì sao? Vì tu hành giác ngộ, trí tuệ phóng khoáng thì tự nhiên đối nhân xử thế cũng rộng rãi, khéo léo hơn, dẫn dắt người khác một cách sáng suốt, truyền năng lượng tích cực.    Đặc biệt, người hướng Phật còn có thể truyền giảng đạo pháp và niềm tin tôn giáo của mình tới cộng đồng để tạo thành một tập thể hướng Phật. Một đồn mười, mười đồn trăm, nếu cao Phật hiệu, để tất cả cùng hướng thiện hướng phúc như mình.   - Lúc vui mừng:   Đừng vui mà quên đường, đừng thấy trước mắt mà nghĩ rằng nó sẽ kéo dài mãi mãi. Trong cái vui phải biết lo cho tương lai, trong cái vui vẫn phải giữ tâm thật bình thản bởi mọi thứ đều chỉ có tính thời điểm, nay được mai mất, không trường tồn vĩnh cửu. Vì thế thay vì nương nhờ vào phút giây ngắn ngủi, hãy hồi hướng tụng kinh niệm Phật để tìm được nguồn vui lâu dài.    Kiếp người khổ nhiều vui ít, có vui thì chỉ là tạm bợ chốc lát rồi qua đi, còn nỗi buồn thì cư đeo đẳng mãi. Thân tâm cảnh lạc, tìm thấy hạnh phúc trong việc tụng kinh niệm Phật thì niềm vui tăng lên gấp bội còn nỗi buồn sẽ nhanh chóng lùi xa.    - Lúc hổ thẹn:    Làm sai mà hổ thẹn, kiếp trước tu ác nghiệp kiếp này chịu quả báo cũng hổ thẹn, khi trong tâm không dám đối diện với chính mình, hãy tìm đến Phật pháp. Kinh Phật không lên án, không bài trừ, không xa lánh một ai, đón nhận tất cả chúng sinh, những người biết hối lỗi, biết tự nhận sai và quyết tâm tìm ra đường đúng.   Càng làm sai càng nên tụng kinh để nhận ra lỗi lầm và biết phương hướng sửa chữa, khai mở trí tuệ, lần sau không đi vào vết xe đổ. Trầm luân trong mê là nỗi khổ, muốn thoát khổ chỉ có tự thân cố gắng, Phật giáo cho phương tiện, mỗi người tự cứu lấy mình.
Xem thêm bài viết Phương pháp tiêu tai giải nạn - nói dễ, khó làm
 
Tụng kinh niệm Phật không cầu danh lợi, không khoe tài năng, không phô trương thanh thế. Làm người tu hành chẳng những không giàu có, không nổi tiếng mà còn không hãnh tiến, không đạt được bất cứ thứ gì hữu hình. Nhưng giá trị vô hình là vô giá, tinh thần, năng lượng, tâm linh, trí tuệ mang tới thứ hạnh phúc cao hơn tiền bạc vật chất.    Niệm Phật không màng ngoại cảnh, không màng rào cản, không kể vui buồn, không so đo sang hèn, đó là thế giới của sự bình đẳng và trí tuệ, của lòng tin và thành tâm. Con người có thể thiếu bất cứ điều gì nhưng nếu thiếu đi đời sống tinh thần thì tuyệt đối không thể tiến tới cảnh giới của bình an được. 
Tụng kinh niệm Phật thành tâm, nhớ kĩ 12 điều căn cốt 6 đạo lý cơ bản của việc tụng kinh niệm Phật Hướng dẫn tụng kinh cho Phật tử tại gia
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 2 loại người và 5 thời điểm đừng quên tụng kinh niệm Phật

Cách chỉnh sửa lông mày để vận mệnh tốt hơn

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn và lông mày góp phần quan trọng trong việc tạo nên vẻ đẹp của đôi mắt.
Cách chỉnh sửa lông mày để vận mệnh tốt hơn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lông mày đẹp hay xấu không chỉ ảnh hưởng đến diện mạo mà nó còn ảnh hưởng tới cả tính cách và vận trình của bản mệnh.


Xem nhân tướng học lông mày cải thiện vận mệnh:

Cac kieu long may va cach chinh sua long may de van menh tot hon hinh anh
Ảnh minh họa

 
1. Lông mày bát tự (hình chữ “bát”)
 
Lông mày hình chữ “bát” kéo dài qua đuôi mắt là người khôn khéo, có tài năng nhưng khá trầm tĩnh, thường mang vẻ bề ngoài “tẩm ngẩm tầm ngầm nhưng đấm chết voi”, nhân duyên tốt, cho dù cuộc sống có gặp khó khăn thì vẫn có quý nhân giúp đỡ.
 
2. Lông mày hình long hổ
 
Phía đầu 2 lông mày chúc xuống dưới còn phía đuôi lại hơi cong vút lên trên, giống như đuôi hổ, người có lông mày kiểu này thì tính cách khá kiên định, có khí phách nhưng lại khá độc đoán và tàn nhẫn.

Cac kieu long may va cach chinh sua long may de van menh tot hon hinh anh 2
Ảnh minh họa
 
3. Lông mày ngang
 
Kiểu lông mày chỉ là một đường thẳng, giống như chữ Nhất, chỉ là một nét ngang, người sở hữu kiểu lông mày này thì tính tình hơi cố chấp, tuy nhiên, đạo đức phẩm hạnh nhìn chung cũng khá tốt, biết đối nhân xử thế. Nếu cả 2 vợ chồng cũng có lông mày kiểu này thì sẽ thường xuyên gặp rủi ro và khó khăn nhưng lại chung thủy với nhau tới đầu bạc răng long.
 
4. Khoảng cách giữ 2 đầu lông mày hẹp
 
Bình thường giữa hai lông mày thường có một khoảng cách, thế nhưng với một số người thì 2 đầu lông mày lại sát vào nhau, những người như vậy thì lòng dạ hẹp hòi, sự nghiệp cũng khó đạt được vinh quang và tiền vận cũng gặp nhiều trắc trở. Nếu muốn vận trình tốt hơn thì có thể tỉa bớt lông mày cho gọn gàng hơn và tạo khoảng trống giữa 2 lông mày.
 
5. Lông mày sát mắt
 
Khoảng cách giữa lông mày và mắt là rất hẹp, có cảm giác như là ánh mắt bị ngăn cản bởi một điều gì đó. Vận trình của người này cũng lên xuống bất ổn, khó đạt được thành công trong sự nghiệp, nếu là đàn ông thì có tính sợ vợ. Nếu muốn thay đổi vận trình thì cũng có thể tỉa bớt lông mày và vẽ tạo kiểu lông mày hơi hướng lên. 

Cac kieu long may va cach chinh sua long may de van menh tot hon hinh anh 3
Ảnh minh họa
 
6. Lông mày hình đao
 
Phía đầu lông mày hơi nhỏ một chút nhưng càng về đuôi lại càng mở rộng ra. Người này tính tình thích ăn to nói lớn, dễ bị kích động, chuyện nhỏ cũng hóa thành chuyện lớn. Có thể tỉa phần đuôi lông mày cho gọn gàng hơn, lợi bỏ những sợi lông thừa để các mối quan hệ giao tiếp trong xã hội được tốt đẹp hơn.
 
7. Lông mày “mất của”
 
Bất luận là nam nữ, người sở hữu kiểu lông mày rời rạc, đứt đoạn, không gọn gàng thì là người không có khả năng quản lý tiền bạc, hơn nữa, nếu lông mày ngắn thì lại càng xấu hơn. Người này có thể dùng biện pháp phun xăm và tỉa bớt những sợi lông mày thừa để hình dáng lông mày được liền mạch và đẹp đẽ hơn hoặc cũng có thể gửi tiền nhờ người thân giữ hộ.
 
Phương Thùy
Tướng lông mày đàn ông vừa giỏi vừa giàu
Đàn ông có tướng lông mày hình rồng đa phần giỏi giang, gánh vác công to việc lớn trong gia đình và có cuộc sống giàu sang, hạnh phúc.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách chỉnh sửa lông mày để vận mệnh tốt hơn

Giấc mơ báo hiệu xui xẻo đang rình rập

Nếu bạn mơ thấy xe bị hư tức là bạn sẽ hao tổn tiền bạc, mơ thấy gãy răng, rụng tóc là gia đình bạn sắp có chuyện...
Giấc mơ báo hiệu xui xẻo đang rình rập

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mơ thấy bị người yêu bỏ rơi

Giấc mơ này ám chỉ kế hoạch của bạn sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở, quan trọng hơn là không ai có thể giúp đỡ bạn, bạn buộc phải tự lực cánh sinh.

2. Mơ thấy ăn đồ cay

Mơ thấy bạn đang ăn tỏi, hành tây hoặc những thứ gia vị cay ám chỉ bạn sắp có chuyện ngoài ý muốn xảy ra, có thể là họa đến từ miệng, bệnh do ăn uống gây ra hoặc là do tranh chấp, ẩu đả.

Thu-pham-gay-dau-da-day-4-8353-141783476

3. Mơ thấy nói lời tạm biệt với mọi người

Giấc mơ này báo hiệu có kẻ đang giở trò xấu với bạn, kẻ này ở sau lưng bạn đang giở thủ đoạn khiến bạn gặp nhiều phiền phức.

4. Mơ thấy rơi từ trên cao xuống

Mơ thấy rơi từ trên cao xuống hoặc bị ngã và tỉnh dậy ám chỉ sắp có bất trắc xảy ra, có thể là thất vọng trong công việc, các mối quan hệ hoặc chuyện tình cảm khiến bạn nản lòng.

5. Mơ thấy xe bị hư

Mơ thấy bánh xe bị thủng, đèn vỡ… là những của cải ngoài thân, giấc mơ này báo bạn sắp hao tổn tiền bạc.

6. Mơ thấy răng bị gãy, rụng hoặc cắt tóc

Mơ thấy răng bị gãy, rụng nhưng không chảy máu, ám chỉ trong gia đình của bạn sắp xảy ra chuyện. Răng và tóc là bộ phận trên cơ thể, nếu nó bị thương tổn nghĩa là sẽ liên quan đến người trong gia đình, có thể là vấn đề về sức khỏe của người thân hoặc hao tổn chuyện tiền bạc.

1-9589-1417834765.jpg

7. Mơ thấy bóng tối

Mơ thấy bạn đang ở một mình trong bóng tối báo hiệu sắp xảy ra chuyện khiến bạn phải chịu oan ức. Bạn nên cẩn thận với những việc mình đang làm hoặc những người đang có ác ý đổ hết mọi lỗi lầm lên đầu bạn.

8. Mơ thấy ngôi nhà bị hư hỏng

Mơ thấy ngôi nhà bị hư hỏng như cửa bị nghiêng, tường bị nứt… Ngôi nhà là nơi bạn sinh sống và bảo vệ bạn, giấc mơ này nói lên sẽ có tai họa ngoài ý muốn xảy ra, nặng thì tai nạn nghiêm trọng, nhẹ thì bị thương tích do ngã. 

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ báo hiệu xui xẻo đang rình rập

12 chòm sao ngoại tình: Xếp hạng độ vị tha khi đối phương phản bộ

Sẽ ra sao khi 12 chòm sao ngoại tình? Xếp hạng lòng vị tha của 12 chòm sao nam khi người yêu ngoại tình để biết sức chịu đựng của cánh đàn ông.
12 chòm sao ngoại tình: Xếp hạng độ vị tha khi đối phương phản bộ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoại tình là vấn nạn không chỉ chị em mà các anh em cũng lo ngay ngáy. Xếp hạng mức độ 12 chòm sao ngoại tình và lòng vị tha của 12 chòm sao nam khi người yêu ngoại tình dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ thêm về sức chịu đựng của cánh đàn ông.  


12 chom sao ngoai tinh Xep hang do vi tha khi doi phuong phan boi hinh anh 2
 

Hạng 1: Sư Tử (xác suất ngoại tình 0%)

  Kẻ sĩ có thể chết chứ quyết không chịu nhục là phương châm của chòm sao nam Sư Tử. Họ sẽ không thể chịu đựng dù chỉ một chút dấu hiệu nửa kia của mình có tình tự bên ngoài, bóp ngay từ trong trứng nước ấy chứ.  

Hạng 2: Hổ Cáp (xác suất ngoại tình 5%)

  Ngoại tình ư? Bạn định đùa với Hổ Cáp đấy à? Chỉ cần phát hiện đối phương có chút biểu hiện khác lạ là chàng trai này điều tra tận ngọn nguồn và cắt đứt quan hệ ngay, dù cho có yêu chết đi sống lại đến thế nào.  

Hạng 3: Thiên Bình (xác suất ngoại tình 10%)

  Trong 12 chòm sao nam, Thiên Bình là người yêu ghét rõ ràng, thời điểm đã thích một người thì cái gì cũng chiều theo đối phương, khoan dung hết lòng. Nhưng không bao gồm việc ngoại tình. Họ có ranh giới của chính mình, đã bị chà đạp lên lòng tự trọng thì không bao giờ tha thứ.  

Hạng 4: Kim Ngưu (xác suất ngoại tình 20%)

  Không nên cho rằng Kim Ngưu là chàng trai hiền lành, thật thà mà qua mặt, có đào hoa bên ngoài. Họ nghiêm túc, chín chắn, coi trọng người yêu, có thể tạm bỏ qua một số lỗi nhỏ nhưng yêu cầu sự chung thủy và chân thành cao nhất từ một nửa của mình. Do đó mà chuyện 12 chòm sao ngoại tình là điều Kim Ngưu khó có thể chấp nhận.

Hạng 5: Cự Giải (xác suất ngoại tình 30%)

  Tuy rằng Cự Giải là chàng trai yêu gia đình, thích sự ổn định trong tình cảm nhưng nếu phát hiện sự xuất hiện của người thứ 3 thì chấm dứt là điều không tránh khỏi. Cự Giải không hi vọng mình sẽ trở thành người phòng hờ, kẻ thay thế, họ chỉ muốn tìm được tình yêu chân chính mà thôi.  

Hạng 6: Ma Kết (xác suất ngoại tình 40%)

  Trong 12 chòm sao nam, Ma Kết quảng giao nên rất nhiều bạn bè, chuyện gì cũng không qua đực tai mắt của họ. Người yêu mà muốn một chân đạp hai thuyền thì xem chừng rất khó đấy.
12 chom sao ngoai tinh Xep hang do vi tha khi doi phuong phan boi hinh anh 2
 

Hạng 7: Xử Nữ (xác suất ngoại tình 50%)

  Xử Nữ là chàng trai có tâm lý mâu thuẫn, lúc phát hiện người yêu ngoại tình thì họ một mặt muốn cắt đứt ngay lập tức, mặt khác lại không nỡ. Tha thứ thì không làm được, không tha thứ thì không chịu được, đúng là đau đầu.

Hạng 8: Song Tử (xác suất ngoại tình 60%)

  Trông liên láu vậy thôi chứ Song Tử khá nhát gan, chẳng dám cùng người yêu nói chuyện cho rõ ràng đâu. Vì thế, cứ tự lừa gạt chính mình, dù biết đối phương có lỗi cũng không muốn từ bỏ ảo tưởng, nâng lên được chứ không đặt xuống được.  

Hạng 9: Song Ngư (xác suất ngoại tình 65%)

  Song Ngư nam dường như khá ít quan tâm tới nửa kia nên người ta có ngoại tình bạn cũng không biết mà phòng hay giải quyết. Cần xem lại bản thân trước khi suy tới trách nhiệm của đối phương nhé.  

Hạng 10: Bảo Bình (xác suất ngoại tình 70%)

  Thực sự nhiều khi Bảo Bình với chuyện tình cảm quá mức khoan dung, khiến người khác không thể nào lý giải được. Dù biết nửa kia làm chuyện không phải với mình thì bạn cũng sẽ bỏ qua, với lý do cho người ta một không gian riêng, riêng chán rồi sẽ quay về với mình. Người đi không giữ, người về sẽ tiếp tục quý trọng.  

Hạng 11: Bạch Dương (xác suất ngoại tình 80%)

  Vốn là người kích động, cũng khá qua loa đại khái nên đối chuyện tình cảm, họ rất nhanh nhẹn, nhiệt tình, cố gắng hết mình. Nhiều khi cứ tự cố gắng mà quên đi đối phương có thể đáp lại mình bao nhiêu.  

Hạng 12: Nhân Mã (xác suất ngoại tình 90%)

  Lúc chuyện ngoại tình xảy ra, chắc Nhân Mã còn đang phiêu diêu tự chốn nào, chẳng có tâm tư mà quản. Kẻ tám lạng người nửa cân, cũng chẳng ai có lỗi với ai nên cứ tự do mà đường ai nấy đi vậy thôi. Hoa hoa công tử của 12 chòm sao nam vì thế mà có tiếng là người rộng lượng đấy.
Giữ chặt 3 chòm sao nam si tình nhất vòng tròn hoàng đạo 12 sao nam nghĩ gì về việc tập thể hình? Điểm danh 3 chòm sao nam sáng suốt, vượt cả ải mĩ nhân
Thái Vân  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao ngoại tình: Xếp hạng độ vị tha khi đối phương phản bộ

Ảnh hưởng các vật trong phòng làm việc tại nhà –

Những vật bạn nhìn thấy trong phòng làm việc cũng là yếu tố quan trọng. Dưới đây là một số nhân tố có thể đáng chú ý: - Đảm bảo tất cả đồng hồ và lịch trong phòng làm việc chì thời gian chính xác; nếu không, bạn sẽ thấy mình thật sự không “khớp” với

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những vật bạn nhìn thấy trong phòng làm việc cũng là yếu tố quan trọng. Dưới đây là một số nhân tố có thể đáng chú ý:

IMG_2649

– Đảm bảo tất cả đồng hồ và lịch trong phòng làm việc chì thời gian chính xác; nếu không, bạn sẽ thấy mình thật sự không “khớp” với nhu cầu của công việc.

– Đồng hồ đặt đối diện mặt bàn làm việc hoặc treo trên bức tường, phía trên bàn làm việc, có thể góp phần tạo cảm giác áp lực về thời gian. Hãy chuyển đồng hồ đi chỗ khác nhưng vẫn đảm bảo xem giờ thuận tiện, không để đồng hồ kêu tích tắc ở ngay trước mặt.

– Khi bước vào phòng, vật cần tránh nhìn thấy đầu tiên là các hóa đơn chưa thanh toán ở trên bàn. Chúng sẽ khiến bạn tập trung vào chi phí, thay vì thu nhập.

– Khi ngồi làm việc, nếu bạn quay mặt vào tường, hãy trang trí khoảng không đó. Đối diện với bức tường trống không hàm ý tâm trạng trống rỗng, có thể góp phần tạo cảm giác vô dụng và chán nản. Hãy đặt các đồ vật dễ khơi dậy xúc cảm: bức ảnh gia đình, cuốn sách quảng cáo du lịch với kỳ nghỉ bạn đang dự định thực hiện vào cuối năm, mô hình giải thưởng “Doanh nhân của năm” bạn hy vọng sẽ được nhận trong tương lai, hoặc bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào để truyền cảm hứng.

Nói chung, tất cà hình ảnh trong phòng làm việc càng mang tính tích cực và đem lại sự phát đạt càng tốt. Bất cứ vật gì biểu lộ sự nghèo nàn hoặc thiếu thốn đều không thuộc về căn phòng này.

Sự bừa bộn trong phòng làm việc cũng có tác động xấu như ở các phòng khác. Bừa bộn khiến bạn rối trí, khó tập trung và bị tiêu hao năng lượng. Hãy chú ý giữ mặt bàn làm việc và các khu vực xung quanh gọn gàng. Sự bừa bộn tiềm ẩn cũng đáng quan tâm. Nếu bạn muốn có nhiều khách hàng và công việc hơn, hãy hoàn tất các hồ sơ dạng mềm và tạo chỗ cho các tài liệu mới vốn đi kèm với sự mở rộng công việc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ảnh hưởng các vật trong phòng làm việc tại nhà –

Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?

Trong 3 năm tới, nhờ vận khí vượng mà những con giáp dưới đây không thăng quan cũng phát tài phát lộc, tình duyên lí tưởng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người tuổi Tỵ   Vận khí của người tuổi Tỵ trong 3 năm nữa luôn giữ ở mức bình ổn, tốt đẹp. Nhất là năm 2017, vận khí đạt mức đỉnh điểm, tin vui nối tiếp tin vui, tài lộc phát vượng vô cùng.   Cục diện sự nghiệp trong 3 năm tới của con giáp này có sự biến động lớn, cơ hội thăng quan tiến chức rộng mở thênh thang. Ngay từ bây giờ, bạn cần xác định mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Công sức và sự nỗ lực bạn bỏ ra chắc chắn sẽ gặt hái được thành quả tốt đẹp trong thời gian sắp tới. Vậy nên đừng vội nản chí mà bỏ cuộc giữa chừng nhé.  

Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 
2. Người tuổi Mùi   Trong danh sách con giáp thành đạt trong 3 năm tới không thể không nhắc đến người tuổi Mùi. Bước vào năm 2016, vận thế của người tuổi Mùi đã có sự chuyển biến tích cực. Ảnh hưởng của Thái Tuế trong năm 2015 giảm đi đáng kể, thay vào đó là vận khí tốt lành. Tính cách của con giáp này cũng trở nên lạc quan, suy nghĩ tích cực và thông thoáng hơn rất nhiều. Gặp sự khó khăn không né tránh mà sẵn sàng đương đầu, hạ quyết tâm xử lý triệt để. Đó chính là một trong những yếu tố góp phần tạo nên thành công sự nghiệp rực rỡ cho bạn.   Trong công việc, tư duy sáng tạo của bạn linh hoạt hơn hẳn, làm việc gì cũng xông xáo để thể hiện tài năng. Vậy nên, cơ hội thăng quan tiến chức ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, lại gặp được bạn hiền, có quý nhân ở bên, khó khăn trong công việc nhanh chóng được tháo gỡ.    Dẫu sao, vận khí may mắn cũng chỉ là một phần nhỏ trong chuỗi yếu tố liên kết để mang lại thành công cho bạn. Sự nỗ lực của bản thân vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đừng bao giờ quên điều đó.
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 
3. Người tuổi Thân   Năm 2016 là năm tuổi của người tuổi Thân trong mười hai con giáp, chịu ảnh hưởng của Thái Tuế, vận thế tổng quan không mấy lý tưởng. Nhưng so với những năm tuổi của các con giáp khác, vận thế của bạn có phần khá hơn, vẫn có không ít cơ hội phát triển.   Tuy nhiên, bạn sẽ trải qua một năm bận rộn, khá vất vả. Đổi lại, bạn cũng được đồng nghiệp tin tưởng, cấp trên đánh giá cao, con đường công danh sự nghiệp cũng từ đó được củng cố và phát triển. Tương lai trong 3 năm tới sẽ gặt hái được thành tựu lớn, đáng khiến người khác ngưỡng mộ.   Đặc biệt, khi bước sang năm 2017, vận thế của người tuổi Thân được ví như cá gặp nước, hanh thông đủ đường. Đó chính là thời điểm lý tưởng để bạn phát triển mọi mặt của bản thân, bao gồm cả sự nghiệp, tài lộc và tình duyên, cần chủ động nắm bắt để sớm “về đích”.  
Diem danh nhung con giap thanh dat trong 3 nam toi hinh anh
 
4. Người tuổi Hợi   Trong ba năm tới, có thời điểm người tuổi Hợi được sự tương trợ của Lưu niên đại vận, xuất hiện nhiều cơ hội kiếm tiền và thành danh. Dù bản thân con giáp này không thích bon chen, có thể tự mình bỏ lỡ một vài cơ hội tốt đẹp, nhưng xét về tổng thể, vận khí may mắn sẽ giúp bạn vượt lên tất cả, mang về thành quả đáng tự hào.   Chính vì thế, cuộc sống trong 3 năm tới của bạn hứa hẹn sự thảnh thơi, đón nhận nhiều tin vui liên tiếp về sự nghiệp và tài lộc. Bên cạnh đó, bản mệnh lại được Hồng Loan cát tinh chiếu mệnh, vận đào hoa theo đó cũng vượng dần lên, không khó để tìm được nửa kia ưng ý và sống với nhau tới đầu bạc răng long.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?

Lá số và cuộc đời Steve Jobs

Nhìn vào lá số tử vi này, ta hiểu lý do tại sao Steve Jobs lại là người có sức sáng tạo và ảnh hưởng đến những người khác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Steve Jobs là một cái tên rất có ảnh hưởng đến giới công nghệ. Ông qua đời là một sự mất mát lớn lao cho Apple nói riêng và cho sự phát triển công nghệ của toàn thế giới nói chung.

Nói về cái chết thì thật sự có rất nhiều điều cần để bàn luận, liên quan rất nhiều đến thứ mà người ta gọi là nghiệp quả, nhân duyên. Thông thường, khi bàn luận về sự chết chúng ta rất e sợ và luôn tìm cách tránh né nó. Nhưng đối với những bậc thầy giác ngộ, những nhà hiền triết thì chỉ là “một sự khởi đầu mới” mà thôi.

 Dường như Steve Jobs cũng đã hiểu được điều này trong những năm tháng cuối đời mình, người ta bắt gặp được khi ông thường sử dụng cụm từ  “phượng hoàng hồi sinh trong lửa”.

Dưới đây là lá số tứ trụ của của con người tài hoa Steve Jobs:

Nhìn vào lá số này, ta hiểu lý do tại sao Steve Jobs lại là người có sức sáng tạo và ảnh hưởng đến những người khác một cách mãnh liệt như vậy. Nhật chủ có gốc vững chãi, lại hỉ Thực Thương bao bọc quanh thân. Các bạn hãy tưởng tượng mặt trời giữa trưa (12h) trong một ngày nắng hạ không mây sẽ tỏa sáng mạnh mẽ và thiêu đốt mọi vật dưới mặt đất ra sao thì sự tác động của Jobs đến người khác cũng như vậy. Đây chính là lý do nhân viên của ông bị ông tác động, “khủng bố” – theo nguyên văn, trong công việc khi đối mặt với ông.

Ông còn là người rất giàu có vì 2 chi mộ khố bọc lấy thân, những dấu ấn không tốt trong thời thơ ấu (dưới 16 tuổi) cũng đã phần nào hình thành nên suy tưởng về sự hoàn thiện trong cuộc sống hiện thời. Tôi không đồng ý với ý kiến của một số các chuyên gia khác khi so sánh giữa lá số của Bill Gates với Steve Jobs. Họ cho rằng Bill kiếm tiền giỏi hơn Steve, còn Steve tiên phong trong sự sáng tạo hơn Bill. Điều này là một nhận định chưa chính xác. (Tôi sẽ có một bài viết về Bill Gates sau). Nói cho đúng hơn, tiền và vinh quang của Steve nằm trong dạng ý tưởng và hàm chứa trong đội ngũ nhân viên của ông. Steve đúng là một mẫu người nói theo Tử Vi là có cung Nô Bộc tốt.

Thật ra mà nói, Steve Jobs là một con người bẩm sinh đạo đức. Nhưng dường như khó để cho ông ta thể hiện chúng ra bên ngoài. Vì tam hội hóa Ấn cục, tâm từ và hành vi từ thiện, là một gánh nặng đè lên bản thân ông ta. Đây cũng chính là lý do tại sao, Steve Jobs ít làm từ thiện hơn Bill Gates. Đồng thời, ông cũng có một số sự lách luật như vụ gian lận cổ phiếu năm 2001.

Khi vừa bước sang tuổi 56 (âm lịch là 57), ông đã vào một đại vận mới. Đại vận Nhâm Thân. Năm khởi đầu của đại vận này là Tân Mão. Tam hội cục Dần Mão Thìn sinh Ấn nay đã hiện ra một cách rõ ràng và đè nén lên thân quá nhiều. Thiên can Nhâm đại vận này lại cướp mất thân và quay lại trợ sinh cho Ấn cục. Địa chi Thân cũng hợp lực tương sinh. Đây là tượng quá tải lại vong thân nên ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của Steve.

Ngày ông qua đời là ngày 05/10 (ngày Quý Tỵ). Một lần nữa tam hình xuất hiện trong mệnh cục và đánh bật gốc rễ sinh mệnh của ông ta.

Nếu tìm nguyên nhân cái chết của Steve theo ngôn ngữ của các nhà Đông Y ngày xưa thì trường hợp Ấn cục đè thân, tam hình phá mệnh như vậy chỉ có thể gọi là “can đởm quá vượng” – chức năng gan mật quá mạnh. (Steve Jobs bị qua đời vì ung thư tuyến Tụy, Tụy và Gan là hai cơ quan rất mật thiết trong hệ tiêu hóa đấy chứ)

Lá số tử vi Steve Jobs và dấu ấn sự nghiệp trong cuộc đời ông

Tháng 2 giờ San francisco mặt trời mọc lúc khoảng trước 7h sáng, lặn khoảng trước 6h tối, chu kì mọc lặn của mặt trời khoảng 11 – 11.5 h.

Giờ sinh từ Ls được cộng thêm 0.5h để tính cho đúng theo giờ mặt trời ở SF.

Đây là lá số tử vi được coi là đúng nhất của Steve Jobs:

Sự ra đi của Steve Jobs thực sự đã khiến cả thế giới đau buồn. “Người hùng” của Apple đã mang lại cho cuộc sống con người những sản phẩm đầy tiện ích. Hãy nhìn lại cuộc đời của cựu CEO Steve Jobs qua từng năm tháng.

1955 – Sinh ngày 24/2 tại San Francisco trong gia đình Joanne Simpson và Abdulfattah Jandali.

1955 – Được vợ chồng Paul và Clara Jobs nhận làm con nuôi và 5 tháng sau chuyển về sống ở Mountain View, California.

1971 – Gặp gỡ Steve Wozniak, nhà đồng sáng lập ra Apple sau này

1972 – Đăng ký vào học tại trường Cao đẳng Read, Portland, Oregon, nhưng đã bỏ học sau 1 học kỳ.

1974 – Gia nhập vào công ty Atari Inc. với vai trò là kỹ thuật

1976: Jobs và Wozniak quyên góp được 1.750 USD và bắt đầu xây dựng chiếc máy tính to bằng chiếc bàn đầu tiên – Apple I. Thành lập công ty Apple Computer Company cùng với Wozniak và người bạn Ronald Wayne. Ông Wayne đã bán cổ phần của mình 2 tuần sau đó.

1985 – Giành được giải thưởng Công nghệ quốc gia do Tổng thống Mỹ Ronald Reagan trao.

1985 – Jobs bị đánh bật ra khỏi bộ máy lãnh đạo của Apple do những bất đồng với Sculley. Jobs từ chức và kéo theo 5 nhân viên của Apple ra đi cùng ông.

1985 – Thành lập công ty Next Inc. để phát triển phần cứng và phần mềm. Công ty này sau đó được đổi tên thành Next Computer Inc.

11991 – Steve Jobs cưới người vợ hiện nay là Laurene Powell. Ông có 3 người con.

1996 – Apple mua lại công ty Next Computer của Jobs với giá 427 triệu USD tiền mặt cộng với cổ phiếu của Apple. Jobs trở thành cố vấn cho chủ tịch Apple khi đó là Gilbert F. Amelio.

1997 – Jobs trở thành Giám đốc điều hành tạm thời và chủ tịch của Apple sau khi Amelio bị lật đổ. Mức lương của Jobs là 1 USD.

1998 – Apple phát hành máy tính iMac “tất cả trong một” với doanh số lên tới hàng triệu chiếc được bán ra. Sản phẩm này giúp Apple hồi phục tài chính và đẩy giá cổ phiếu của hãng tăng tới 400%. iMac đã giành giải thưởng vàng tại Cuộc thi Định hướng nghệ thuật và thiết kế Anh. Tạp chí Vogue gọi iMac là “một trong những thời trang nóng nhất của mùa xuân” còn trang Business Week ca ngợi iMac là “một trong những hình ảnh bền vững nhất của thế kỷ”. Jobs cũng giành giải thưởng của Viện thiết kế Chrysler cho việc thiết kế iMac.

1998 – Apple bắt đầu làm ăn có lãi và đạt kỉ lục về mức lợi nhuận trong 4 quý tài chính liên tiếp.

2000 – Từ “tạm thời” được loại bỏ khỏi chức danh của Steve Jobs. Jobs chính thức trở thành CEO của Apple.

2001 – Apple ra mắt hệ điều hành thế hệ mới – OS X dựa trên nền tảng Unix và hệ điều hành này đã có nhiều bản nâng cấp trong các năm qua.

2001 – Apple có bước đột phá đầu tiên vào thị trường điện tử tiêu dùng với việc ra mắt iPod, một chiếc máy nghe nhạc MP3 cầm tay. iPod đã được bán ra hơn 4,4 triệu chiếc trong năm tài khóa 2004.

2002 – Apple trình làng chiếc máy tính để bàn iMac tất cả trong một với màn hình phẳng. Sản phẩm đã xuất hiện trên trang bìa của tạp chí Time năm đó và giành nhiều giải thưởng thiết kế.

2003 – Jobs giới thiệu iTunes Music Store chuyên bán các ca khúc và album đã được mã hóa.

2003 – Jobs ra mắt chiếc máy tính cá nhân PowerMac G5 64 bit.

2004 – iPod Mini, một phiên bản nhỏ hơn của máy nghe nhạc iPod đời đầu được ra công bố.

2004 – Vào tháng 2, hợp đồng hợp tác của Pixar và Disney đã hết hạn. Jobs và giám đốc điều hành Disney là Michael Eisner đã cố gắng nhưng thất bại trong việc thương lượng quan hệ cộng tác mới. Vì vậy, Jobs tuyên bố rằng Pixar sẽ tìm kiếm một đối tác mới để sản xuất phim khi hợp đồng với Disney hết hạn. Cuối cùng Pixar được bán lại cho hãng Walt Disney vào năm 2006

2004 – Vào tháng 8 năm này, Jobs được chuẩn đoán mắc phải căn bệnh ung thư tuyến tụy và trải qua một ca phẫu thuật. Jobs đã hồi phục và trở lại làm việc vào tháng 9.

2004 – Dưới tài điều hành của Jobs, Aple đã báo cáo doanh thu quý tài chính thứ 4 cao nhất trong gần một thập kỷ. Thành công này là nhờ vào sự trỗi dậy của mạng lưới bán lẻ và doanh số bán ra máy nghe nhạc iPod. Doanh thu của Apple trong quý tài chính kết thúc vào ngày 25/9 là 2,3 tỷ USD.

2007 – Jobs giới thiệu iPhone, một trong những chiếc điện thoại thông minh đầu tiên không có bàn phím tại triển lãm Macworld Expo.

2008 – Vào cuối tháng 12, Apple thông báo Jobs sẽ không phát biểu tại Macworld Expo 2009 cũng như không tham dự sự kiện này. Thông tin này ngay lập tức làm dấy lên những suy đoán về tình hình sức khỏe của ông. Apple cũng cho biết kể từ năm 2009, hãng sẽ không còn tham dự triển lãm này.

2009 – Vào đầu tháng 1, Jobs cho biết ông đang sụt cân một cách nghiêm trọng do sự mất căn bằng hocmon. Tại thời điểm đó, Jobs khẳng định vấn đề này sẽ không cản trở ông tiếp tục đảm nhiệm vị trí CEO của Apple. Khoảng một tuần sau đó, Jobs thông báo ông sẽ nghỉ việc ở Apple cho đến tháng 6 vì tình trạng sức khỏe của ông đang xấu đi. Jobs không tiết lộ căn bệnh của mình. COO Tim Cook của Apple đã thay mặt Jobs xử lý các công việc hàng ngày tại công ty trong thời gian phục hồi của Jobs. Apple cho biết Jobs sẽ vẫn tham gia vào việc đưa ra những quyết định chiến lược quan trọng của Apple.

Tháng 6/2009 – Tờ Thời báo phố Wall đưa tin Jobs đã trải qua một ca phẫu thuật cấy ghép gen. Một bệnh viện ở Tennessee sau đó đã xác nhận thông tin này.

Tháng 6/2009 – Apple khẳng định Jobs sẽ quay trở lại làm việc vào cuối tháng này.

Tháng 1/2010 – Apple công bố máy tính bảng iPad. Sản phẩm này dã ngay lập tức gặt hái được thành công ngoài sức tưởng tượng và khởi đầu cho một thể loại mới trong các thiết bị điện toán di động.

Tháng 9/2010 – Jobs xuất hiện trên sân khấu ở San Francisco để giới thiệu set-top box thế hệ thứ hai của Apple TV giúp chuyển phim từ Internet hoặc các thiết bị di động như iPhone và iPad trực tiếp sang TV.

Tháng 1/2011 – Apple thông báo Jobs xin nghỉ để điều trị y tế mà không đưa ra lý do nào cụ thể. Những câu hỏi về sự nghiêm trọng của tình hình sức khỏe Jobs lại dấy lên, ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu, việc phát triển sản phẩm và  các hoạt động kinh doanh của Apple.

Tháng 6/2011 – Jobs bất ngờ xuất hiện tại Hội nghị các nhà phát triển thế giới của Aple để giới thiệu iCloud và iOS 5. Một vài ngày sau, Jobs gặp gỡ Hội đồng thành phố Cupertino (Mỹ) để xin phép xây dựng đại bản doanh mới trông giống như một phi thuyền ở thành phố này.

Steve Jobs nhường lại vị trí “chèo lái” cho Tim Cook.

Tháng 8/2011 – Jobs thông báo ông sẽ từ chức khỏi chiếc ghế Giám đốc điều hành của Apple và Tim Cook sẽ đảm nhiệm vị trí này. Jobs chỉ đảm nhận vai trò Chủ tịch hội đồng quản trị của công ty.

Vào ngày 5/10/2011 – Steve Jobs qua đời ở tuổi 56.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lá số và cuộc đời Steve Jobs

Bậc thầy phong thủy Lưu Bá Ôn phá vượng khí bằng 100 con mèo

Tuy là một nhân vật có thực trong lịch sử nhưng người ta lại biết tới Lưu Cơ – Lưu Bá Ôn chủ yếu qua các truyền thuyết về phong thủy. Câu chuyện phá phong thủy
Bậc thầy phong thủy Lưu Bá Ôn phá vượng khí bằng 100 con mèo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhà họ Du của ông là nổi tiếng nhất.


► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ: Xem phong thủy chuẩn xác để đón lành tránh dữ

Bac thay phong thuy Luu Ba On pha vuong khi bang 100 con meo hinh anh
 
Lưu Bá Ôn cùng với ba anh em họ Du đều sống chêt vì Chu Nguyên Chương đánh lấy thiên hạ, lập nhiều chiến công. Trong quá trình khởi nghĩa, hai bên cũng có thể nói là vào sống ra chết cùng nhau, tình cảm sâu nặng.
 
Du Thông Nguyên được phong làm Nam An Hầu còn Du Thông Uyên được phong làm Việt Tuyển Hầu. Ngoài ra, Chu Nguyên Chương còn đặc cách hạ lệnh cho Lưu Bá Ôn giúp mình xây dựng một căn nhà thật đẹp tặng cho anh em họ và con cháu họ Du.
 
Được Chu Nguyên Chương giao việc xây nhà cho họ Du, Lưu Bá Ôn đương nhiên không có lý do gì để không làm hết sức mình. Vì thế, ngôi nhà mà Lưu Bá Ôn xây dựng cho anh em họ Du hết sức nguy nga tráng lệ. Ngoại trừ hoàng cung, tại Nam Kinh không có ngôi nhà nào có thể sánh kịp với căn nhà này.
 
Tuy nhiên, người đời xưa thường nói, cây càng cao thì gió càng lớn. Căn nhà quá to, thường bị người ta lấy ra so sánh với hoàng cung của anh em họ Du đương nhiên khó tránh khỏi việc mang theo mầm họa.
 
Thừa tướng Hồ Duy Dung trước mặt Chu Nguyên Chương nói lời dèm pha khiến vua lo sợ một ngày hai anh em nhà họ Du vì được sủng ái mà “công cao hơn chủ”, làm phản, lật đổ cơ đồ nhà họ Chu, bèn ra lệnh phá nhà.
 
Vừa may, Lưu Bá Ôn biết được, bèn hiến kế dùng phong thủy phá “vượng khí” nhà họ Du để làm an lòng Chu Nguyên Chương. Lưu Bá Ôn tâu với vua: “Cá (trong tiếng Hán, chữ cá với họ Du có cách đọc như nhau, vì thế cá ý chỉ nhà họ Du) mà ra biển thì có thể hóa rồng. Nay thần chỉ cho căn nhà họ Du một cái giếng.
 
Lại thêm, cá vốn rất sợ mèo ăn thịt, vì thế, thần đã phái một con mèo canh giữ trước cửa, cá chỉ cần lò đầu ra thì mèo có thể nuốt gọn. Như vậy, chẳng cần phải tốn công sức dỡ nhà khiến mất lòng dân, phá hoại cảnh thái bình thịnh trị mà vẫn có thể trừ được vương khí nhà họ Du” Sau khi được sự đồng ý của Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn đã bày “bát quái trận” xung quanh nhà họ Du. Ông lệnh cho quân sĩ dựng một tấm bia đá ở trước cửa nhà họ Du, bên trên bia khắc hình hơn 100 con mèo.
 
Phía trước của tấm bia là một cái giếng. Phía sau nhà là một bức tường chặn kín. Phía Đông của căn nhà là một đài câu cá. Sau đó, Lưu Bá Ôn nói với Chu Nguyên Chương: “Nếu như một ngày nào đó, con cá này phá cửa mà ra thì sẽ bị hơn 100 con mèo nuốt chửng.
 
Nếu như có chạy thoát khỏi 100 con mèo thì phía sau là tường chắn, hai phía Đông Tây là đài câu cá, tầng tầng lớp lớp bao vây, nó cũng không thể ra được tới biển để biến thành rồng được. Muốn có nước chỉ còn cách là xuống chiếc giếng ở trước nhà. Cá mà sống ở giếng thì không thể nào làm nên trò trống gì được”.
 
Chu Nguyên Chương thấy rằng sắp đặt như vậy, nhà họ Du sẽ không bao giờ có thể ra tới biển để trở thành rồng thì vui mừng lắm, thưởng cho Lưu Bá Ôn rất hậu hĩnh.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bậc thầy phong thủy Lưu Bá Ôn phá vượng khí bằng 100 con mèo

Nằm mơ thấy súng lục –

Có một người đàn ông khoảng 38 tuổi đang chăn trâu ở ngoài đồng. Anh ta là một người khỏe mạnh cường tráng, không có bệnh di truyền, tâm lí bình thường. Nhưng gần đây anh bị yếu đi, tiều tụy hẳn. Mọi người hỏi thăm, anh ta nói rằng mây ngày trước anh
Nằm mơ thấy súng lục –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy súng lục –

Vận mệnh tốt xấu của con người qua tướng cổ

Trong tướng pháp cho rằng chiếc cổ có liên quan đến vận thế của người đó, phụ thuộc chủ yếu vào độ dài ngắn và kích cỡ của cổ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Độ dài ngắn, kích cỡ của cổ phải vừa phải, nếu như quá dài hay quá ngắn, quá thô hay quá mảnh đều không phù hợp với tiêu chuẩn để có vận thế tốt trong mệnh lý học. Cụ thể, có thể liệt kê ra 15 đặc trưng của chiếc cổ dưới đây:

1. Chiếc cổ đầy đặn, mịn màng thể hiện người chủ có địa vị cao sang.

2. Chiếc cổ tròn săn chắc thể hiện người chủ sung túc.

3. Chiếc cổ vừa dài vừa gầy, người chủ tốt tính nhưng dễ gặp phải ngăn trở.

4. Người béo, cổ có hầu là người dễ dàng gây chuyện rắc rối.

5. Người mà phía sau cổ có nhiều thịt là người giàu có.

6. Người mà phía sau cổ có da như đường kẻ sợi là người sống lâu.

7. Người cổ ngắn mà lại vuông vức là người có phúc lộc.

8. Người cổ mảnh mà dài thì tài sản không lớn.

9. Người cổ có điểm lấm tấm thì thường có cá tính mạnh mẽ, muốn hơn người, ham học hỏi không chịu thua kém ai.

10. Người cổ tròn nhưng thô thì thường sống thọ nhưng lại không giàu có.

11. Người cổ mảnh và yếu không có sức sống thì thường “làm bạn” với bệnh vặt.

12. Người có cổ vừa thô vừa ngắn là người thấp kém.

13. Người có cổ thô mà đầu lại nhỏ thì thường không thọ.

14. Người có nốt ruồi trên cổ thường bị người khác sai khiến.

15. Người có cổ uốn lượn, không ngay thẳng thường có tâm địa xấu, không nên kết giao.

Theo: Lichvansu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh tốt xấu của con người qua tướng cổ

Lý giải đời cha ăn mặn đời con khát nước từ góc nhìn Phật giáo

Đời cha ăn mặn đời con khát nước, ít ai hiểu cặn kẽ nguồn cơn câu nói tưởng chừng vô cùng đơn giản nhưng lại chứa đựng bài học cuộc sống trong đó.
Lý giải đời cha ăn mặn đời con khát nước từ góc nhìn Phật giáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ai cũng một vài lần trong đời nghe câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, nhưng ít ai hiểu cặn kẽ nguồn cơn câu nói tưởng chừng vô cùng đơn giản nhưng lại chứa đựng bài học cuộc sống trong đó.

 

1. Góc nhìn tâm linh, Phật giáo

  Đời cha ăn mặn đời con khát nước, theo luật nhân quả thì ai làm người nấy chịu: cha làm tội, con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Vậy tại sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng? Đó là vì: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng nghiệp.
 
Bật nghiệp Là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sinh, như mình học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình lười thì mình thất bại.
 
Cộng nghịêp Là nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong một hoàn cảnh. Đã sinh chung một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, thì cái nghiệp quả phải có liên quan với nhau. Đó là vì: " Thông thường Thiêng Liêng hay sắp xếp cho những LINH HỒN cùng tầng bậc, cùng số vốn đức ở với nhau, giống như con người hễ giàu có tiền đức thì ở cùng tầng lớp giàu mà những người nghèo đức thì cũng phải ở cùng với những người nghèo đức".

Ly giai doi cha an man doi con khat nuoc tu goc nhin Phat giao hinh anh goc
 
Phật đã từng dạy rằng:
 
"Điều mẹ cha bà con,
 
Không có thể làm được
 
Tâm hướng chánh làm được
 
Làm được tốt đẹp hơn." - Kinh Pháp Cú, Phẩm Tâm (HT Minh Châu dịch).
 
Nói chung, khi tâm ta ‘hướng chánh’ thì tất cả các nghiệp đều được chuyển hóa cho dù nghiệp lực đó có phát xuất từ góc độ nào hay đã xảy ra bao lâu. Thừa hưởng cái hay của thế hệ đi trước, đồng thời cũng phải gánh chịu những hậu quả xấu của thế hệ đó để lại, là một điều tự nhiên. Đức Phật không khuyên chúng ta né tránh cái quả. Khi những nghiệp quả xấu của thế hệ trước truyền thừa đến chúng ta, nếu chúng ta vẫn tiếp tục nhận chịu mà không làm gì cả để chuyển hóa thì thế hệ con cháu mình sẽ phải tiếp tục thừa hưởng!
 
Rõ ràng, nếu chúng ta muốn dứt tuyệt những hệ quả xấu của đời trước để lại, thì mình phải biết hướng tâm đến những cái chân chánh, thiện lành. Chính hành động này sẽ giúp cho thế hệ sau tránh được hậu quả của tổ tông truyền lại. Như câu chuyện về người mẹ bị ung thư ngực qua đời; và do di truyền nên ba cô con gái của bà cũng bị ung thư ngực. Tuy nhiên, đứa con gái giữa dứt khoát không chấp nhận định mệnh đã được an bài cho cô ta. Thế là cô ta chăm chỉ học ăn kiêng, thể dục thường xuyên, và thiền tập hằng ngày. Cuối cùng, chứng ung thư ngực của cô hoàn toàn biến mất; và hơn thế nữa, hai đứa con gái của cô, giờ đã trưởng thành, cũng không có triệu chứng bị ung thư ngực như cô khi trước!
 
Như Phật dạy, chúng ta có biệt nghiệp và cộng nghiệp riêng của mình, nhưng nếu không biết hướng tâm đến chánh đạo, mình sẽ chọn theo cái cộng nghiệp sẽ đưa đẩy mình đến cái kết quả tiêu cực như cha ông mình đã làm. Như trường hợp người hay nhậu nhẹt thích làm bạn với người thích rượu chè; ngược lại, người muốn tìm hạnh phúc sẽ thích thân gần với người có hạnh phúc. Cũng vậy, những kẻ tiêu cực, chán đời thường thích gần gũi với người thích phê phán, chỉ trích người khác! Muốn chấm dứt cái hậu quả ‘cha ăn mặn, con khát nước’ truyền xuống từ trong gia đình, chính mình phải tu tập chuyển hóa bản thân để cộng nghiệp gia đình sẽ chấm dứt trong đời mình và không còn tiếp tục cho đến đời sau.
 

2. Góc nhìn tâm lý con người
 

Đời cha ăn mặn thì đời con khát nước”, tức là nếu cha ăn mặn, cha làm những việc thiếu phước tổn đức thì bản thân người cha đó là phải khát nước trước đã. Tiếp theo nữa là cuộc đời những người con phải cùng chịu cảnh thiếu thốn khát khao như cha vậy. Chỉ vì một lẽ đơn giản là nếu người cha ăn mặn tức sống không thiện lành thì sẽ dẫn đến nghèo khó, mà nghèo khó thì lấy đâu ra nhiều tiền của để nuôi dưỡng cho con ăn uống dư dã đầy đủ được, nên phải bị đói khát là chuyện thường tình.

Ly giai doi cha an man doi con khat nuoc tu goc nhin Phat giao hinh anh goc
 

3. Góc nhìn từ giáo dục

  Về mặt giáo dục, cha mẹ là một tấm gương để con của họ xác định những giá trị đúng đắn về đạo đức cho bản thân. Làm gương là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của những người làm cha làm mẹ. Đây là một việc rất khó khăn vì đạo đức không phải là thứ mà các bậc phụ huynh có thể dạy cho con mình từ sách giáo khoa. Những kinh nghiệm và những lời khuyên của cha mẹ trước hành vi, ứng xử… của con mới sẽ tạo ra giá trị đạo đức, cốt cách ở con ngay từ khi còn bé. Vì thế mới nói "Đời cha ăn mặn đời con khát nước".

Có thể thấy sự ảnh hưởng của cha mẹ tới con cái qua các sự kiện sau:


1. Khi cha mẹ nói dối


Một trong những giá trị đạo đức quan trọng nhất của cha mẹ ảnh hưởng tới con của mình là nói dối. Nói ra sự thật có thể khó khăn hơn một chút, nó có thể khiến người khác buồn nhưng chỉ trong chốc lát. Hậu quả: Nếu không được giáo dục ngay từ bé, ban đầu con của họ có thể chỉ học cách nói những lời nói dối vô hại, nhưng về sau thói quen nói dối sẽ trở nên nghiêm trọng và thường xuyên hơn nhằm che đậy lỗi của mình.

2. Khi cha mẹ không biết xin lỗi khi sai
 
Tạ lỗi trước người khác không chỉ là một giá trị đạo đức mà đó còn là nghi thức cơ bản. Khi cha mẹ không dạy con điều này, con của họ sẽ không có thói quen và phản xạ tự nhiên mỗi khi làm điều gì đó không đúng. Hậu quả: Con của họ không biết khiêm nhường.

3. Khi cha mẹ không phải là người hữu ích và hào phóng
Việc dạy con trở thành một người có ích và hào phóng sẽ tốt cho cuộc sống và hình thành nhân cách cũng như suy nghĩ đúng đắn cho con của họ đối với vai trò của mình. Bởi vậy, để con trở thành một người hữu ích và hào phóng với mọi người thì bản thân bố mẹ phải là người trao cho con của họ những giá trị đó ngay từ khi còn nhỏ. Hậu quả của việc cha mẹ không phải là người hào phóng và hữu ích là: Con con của họ sẽ đơn độc trong đời.
 
4. Khi cha mẹ không thận trọng suy xét
 
Thận trọng xem xét trước khi đưa ra quyết định nào đó là việc quan trọng mà mỗi bậc cha mẹ cần phải dạy con qua lời và hành động. Cha mẹ không chỉ cho chúng những kinh nghiệm cuộc sống thì con của họ không biết cách cách đưa ra quyết định, phải lựa chọn giữa những gì được xem là đúng – sai về mặt xã hội.Hậu quả: Con của họ sẽ không có thói quen đánh giá vấn đề chính xác và đúng đắn nhất, và sẽ phải hối hận vì xử lý hấp tấp, vội vàng.
 
5. Khi cha mẹ làm tổn thương người khác
 
Đây là một trong những giá trị đạo đức vô cùng quan trọng mà cha mẹ phải dạy cho con của mình. Cho dù là hành động vô ý thì việc khiến ai đó bị tổn thương về mặt thể chất hoặc tinh thần có thể dẫn đến những sự việc đáng tiếc. Vì thế, hãy giải thích cho con hiểu việc làm người khác đau buồn không có gì là tốt đẹp. Hậu quả khi không được dạy bảo điều này là: Khi con của họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn sẽ không có người đồng cảm, chia sẻ. Khi con của họ không có lòng trắc ẩn với nỗi đau của người khác sẽ không biết tôn trọng cuộc sống của chính mình và của người khác và sẽ có những hành động sai lầm, ích kỉ, nông nổi.   ST
Phật chỉ ra 3 kiếp nạn ai cũng phải trải nghiệm trong đời
Người sống trên đời dều cần tín ngưỡng, nếu không có tín ngưỡng thì nhân sinh khuyết thiếu cảm xúc. Phật giáo – tôn giáo của niềm tin, sự từ bi và tinh thần

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải đời cha ăn mặn đời con khát nước từ góc nhìn Phật giáo

Những gam màu đang “hot” cho phòng ngủ

Một chút màu sắc tươi sáng trong phòng ngủ kết hợp việc bày biện nội thất tinh tế, khác lạ sẽ giúp bạn có nơi nghỉ ngơi thư giãn ấn tượng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ ngọt ngào với màu hồng đào.

Phòng ngủ với màu vàng rực rỡ và màu xanh tràn sức sống giúp gia chủ thư giãn sau ngày làm việc căng thẳng.

Dẫn đầu trong danh sách màu sắc “trung tính” được ưa dùng, với một căn phòng màu xám bạn có thể biến tấu nó thành không gian ấm áp hoặc mát mẻ tùy theo cách kết hợp.

Màu xanh không chỉ dùng cho những căn phòng của bé trai, những điểm nhấn màu xanh đậm ở đây tạo nên sự yên ả, kết hợp với màu hồng nhạt tạo ra điểm nhấn nhẹ nhàng cho căn phòng.

Bạn cũng có thể chọn gam màu xám tối cho căn phòng, để tạo nên sự cân bằng, nên kết hợp nó với một màu tươi sáng, ví dụ như màu cam ở đây.

Căn phòng với điểm nhấn màu xanh lá vui mắt.

Phòng ngủ màu trắng sang trọng, tinh tế với sắc trắng làm chủ đạo. Điểm nhấn ở đây là những họa tiết hoa lá trên giấy dán tường.

Theo Hiền Thương/Cafeland


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những gam màu đang “hot” cho phòng ngủ

Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang...
Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ. 

2. Tai lớn là người thông minh và may mắn. 

3. Dái tai phẳng là người có phong cách của các nhà triết học.

4. Thềm thịt ở tai mỏng là người khiêm tốn.

5. Tai lớn là người nhiệt tình và tràn đầy năng lượng.

6. Tai nhỏ là người nhanh nhẹn và phản ứng mau lẹ trong mọi tình huống. Tuy nhiên, khả năng chịu áp lực của họ không cao.

7102013205310-2860-1411461396.jpg

7. Người có lông ở tai thích tự bảo vệ mình, ích kỷ và hay bỏ qua cảm xúc của người khác. 

8. Tai lớn, dái tai chảy xệ là người có cuộc sống giàu sang.

9. Tai nhiều lông là biểu tượng của sự trường thọ.

10. Tai cứng và hồng hào là người rất giàu có.

11. Màu sắc của tai trắng hơn mặt là người có tướng nổi tiếng.

12. Vành tai không rõ ràng là người thiếu chân thành.

13. Người có tai đậm màu, không tươi dễ mắc bệnh về tim.

Hạnh Yunnie (theo Meig)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dái tai cho cái nhìn tốt về số phận

Sức mạnh tiềm ẩn của pha lê đối với sự nghiệp và tài lộc

Pha lê không chỉ là vật trang sức quý giá mà nó còn có khả năng kỳ diệu. Mỗi loại pha lê sẽ mang lại cho bạn một thú vị bất ngờ.
Sức mạnh tiềm ẩn của pha lê đối với sự nghiệp và tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Pha lê không chỉ là vật trang sức quý giá mà nó còn có khả năng kỳ diệu. Mỗi loại pha lê sẽ mang lại cho bạn một thú vị bất ngờ.

 

Pha lê trắng: tốt cho sức khỏe và sự nghiệp


Pha lê trắng có thể giúp bài thải khí độc, khiến tinh thần, trí tuệ minh mẫn hơn. Hãy đặt pha lê trắng với kích thước lớn trên bàn làm việc để thu hút vận may về sự nghiệp tốt cho công việc và sự nghiệp.
Tránh bài trí pha lê trắng gần đầu giường, bất lợi cho giấc ngủ. 


Pha lê màu xanh: tăng tài lộc


Năng lượng của pha lê xanh giúp tăng khả năng thích nghi của con người với môi trường mới, tăng tính tích cực, sáng tạo. Điều này đặc biệt tốt cho sự nghiệp và tài vận.


Pha lê hồng: tăng tình cảm


Giúp tăng cường sức khỏe và sức hấp dẫn của chủ nhân trong mắt người khác giới.
Cũng có thể đặt pha lê ở đầu giường, dưới gối hoặc trên bàn học. Năng lượng của pha lê hồng dịu nhẹ, dễ chịu, tốt cho tinh thần.


Pha lê tím: nâng cao trí tuệ


Năng lượng pha lê tím có thể nâng cao khả năng "tự phục hồi" của các bộ phận trong cơ thể, tăng cường sức khỏe. Pha lê tím rất thích hợp để trên bàn làm việc, giúp trí tuệ minh mẫn, tăng khả năng sáng tạo. 
 


Pha lê Citrin: tự tin hơn


Còn gọi là pha lê vàng, rất quý hiếm, mang lại năng lượng mạnh nhất cho trường khí con người so với các loại pha lê có ánh sáng vàng. Nó rất thích hợp cho những người chuyên về công việc kinh doanh, đầu tư, giúp tăng cường sức khỏe, sự tự tin, tính quyết đoán, lập trường vững vàng.


(Theo 500 câu hỏi đáp phong thủy nhà ở)

 
 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sức mạnh tiềm ẩn của pha lê đối với sự nghiệp và tài lộc

6 nốt ruồi báo hiệu chủ nhân hưởng phúc đức suốt đời

Bạn có sở hữu nốt ruồi may mắn, hưởng nhiều phúc đức nào trên cơ thể mình không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Nốt ruồi “Điền trạch đa tiến”

Trong nhân tướng học, nốt ruồi “Điền trạch đa tiến” chỉ nốt ruồi mọc ở vị trí xương bả vai. Dù là nam hay nữ, có tướng nốt ruồi này đều được nhờ vào hồng phúc tổ tiên, thừa hưởng khối tài sản lớn.

Sau này, khi trưởng thành biết duy trì và phát huy tài sản đó, có được địa vị nhất định trong xã hội, suốt đời không phải lo lắng về vật chất, cuộc sống an nhiên, tự tại. Đây là một trong những nốt ruồi may mắn trên cơ thể, bạn không nên tẩy xóa.

Nhung tuong not ruoi may man tren co the con nguoi hinh anh
 
2. Nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”

Ba nốt ruồi nối tiếp nhau ở vị trí giữa cổ và bả vai được gọi là nốt ruồi “Trí, nhân, dũng”. Chủ nhân của tướng nốt ruồi này thông minh, lanh lợi, học hành giỏi giang, hiếu học, tài năng xuất chúng.

Bên cạnh đó, người này dũng cảm, hành hiệp trượng nghĩa, đi tới đâu cũng được mọi người yêu mến, tôn trọng.

3. Nốt ruồi “Đức cao phúc dày”


Vị trí nốt ruồi này khá khó tìm. Nó nằm ở phía dưới cùng của xương bả vai phải, nơi tiếp giáp với cột sống.

Như tên gọi của nốt ruồi “Đức cao phúc dày”, người có kiểu nốt ruồi này, dù là nam giới hay nữ giới, đều được phúc đức bao bọc, công thành danh toại, tài lộc hanh thông.

4. Nốt ruồi “Phúc như Đông hải”


Đây là nốt ruồi ở vị trí chính giữa cột sống (không lệch sang trái hay sang phải). Người có tướng nốt ruồi này thường được sinh ra trong gia đình giàu có, bố mẹ khỏe mạnh, có tiềm lực kinh tế lớn mạnh.

Cuộc sống hôn nhân bền vững, con cháu hiếu thảo, công thành danh toại, có địa vị khá cao trong xã hội, được nhiều người ngưỡng mộ.

5. Nốt ruồi “Thọ diên cổ hi”

“Thọ diên cổ hi” ý chỉ sống thọ, tuổi thọ cao, xưa nay hiếm thấy. Nốt ruồi này nằm thẳng dưới rốn.

Sở hữu nốt ruồi này, tuổi thọ của chủ nhân rất cao, càng sống lâu càng được hưởng nhiều phúc lộc. Người này hay hành thiện giúp đời, kiến thức uyên thâm, cuộc đời an nhiên, tự tại. Sau này con cái hiếu thảo, hòa thuận nên phúc đức càng nhiều.

6. Nốt ruồi “Quy vĩ”

Nốt ruồi “Quy vĩ” (đuôi rùa), ý chỉ vị trí của nó nằm ở phần cuối cùng của xương sống. Người có nốt ruồi như vậy đa tài, học hành xuất chúng, tiền đồ xán lạn.

Hơn thế, sức khỏe của người này cường tráng, văn võ song toàn, đồng thời có con mắt nhìn đời tinh tế, dễ gặt hái được thành công. Đa phần những người này thích hợp làm nhà văn, nhà thơ hay nhà tâm lý học, tư tưởng học.


Hoàng Lam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 nốt ruồi báo hiệu chủ nhân hưởng phúc đức suốt đời
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd