Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Thân (P1)

Ngày sinh đại cát cho người tuổi Thân: Phần lớn người tuổi Thân sinh ngày mùng 1 đều có số mệnh cát tường.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Thân (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phần lớn người tuổi Thân sinh ngày mùng 1 đều có số mệnh cát tường. Nam giới có nhiều tài năng thiên bẩm, nữ giới hiền thục, phúc đức, biết hi sinh vì người khác.


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
  Người tuổi Thân sinh ngày mùng 1   Phần lớn người tuổi Thân sinh ngày mùng 1 đều có số mệnh cát tường. Nam giới có nhiều tài năng thiên bẩm, nữ giới hiền thục, phúc đức, biết hi sinh vì người khác.
Người tuổi Thân sinh ngày mùng 2   Dù là nam giới hay nữ giới, những người tuổi Thân sinh vào ngày mùng 2 âm lịch đều có số mệnh hung cát đan xen, phúc họa luôn đi kèm với nhau. 
Người tuổi Thân sinh ngày mùng 3   Người này tuy một đời phúc lộc dồi dào nhưng chỉ cần một bước đi sai lầm sẽ khiến khuynh gia bại sản, công danh sự nghiệp đều sụp đổ.
Người tuổi Thân sinh ngày mùng 4   Tiền vận hưng vượng, tài lợi song toàn nhưng hậu vận kém may mắn. Nếu người này không biết tích lũy ngay từ khi còn trẻ, lúc về già sẽ trắng tay.

Xem ngay sinh dai cat cho nguoi tuoi Than P1 hinh anh
Ảnh minh họa
  Người tuổi Thân sinh ngày mùng 5   Nam mệnh hay nữ mệnh tuổi Thân sinh ngày mùng 5 âm lịch đều thông minh lanh lợi, chí khí hơn người, biết tùy cơ ứng biến nên dễ dàng gặt hái được thành công.   Người tuổi Thân sinh ngày mùng 6   Người tuổi Thân sinh ngày mùng 6 âm lịch có tiền vận chật vật, phải trải qua bao gian nan trắc trở mới thành đạt. Tuy nhiên, đến trung vận khởi sắc, hậu vận an nhàn, hưởng phúc.   Người tuổi Thân sinh ngày mùng 7   Người này tuy mưu sự nhiều nhưng thành công không đáng kể, thậm chí còn gặp thất bại liên tiếp. Tuy vậy, nếu nỗ lực hết sức và kiên trì theo đuổi mục tiêu thì mọi việc đều tiến triển tốt đẹp.   Người tuổi Thân sinh ngày mùng 8   Người này có số mệnh vất vả nhưng cũng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp, tài lợi 4 bốn, tiền đồ xán lạn, có số được làm quan.   Người tuổi Thân sinh ngày mùng 9   Đa phần người tuổi Thân sinh ngày mùng 9 đều sở hữu bộ não thông minh, linh hoạt, có chí tiến thủ, làm việc có đầu có cuối rõ ràng, thích hợp với nghề kinh doanh, buôn bán.   Người tuổi Thân sinh ngày mùng 10   Sinh ngày mùng 10 âm lịch, nam mệnh tuổi Thân thông minh, thanh tú; nữ mệnh tài giỏi, tính cách phóng khoáng, hiểu lễ nghĩa và có tư tưởng cầu tiến.   Người tuổi Thân sinh ngày 11   Nam giới tuổi Thân sinh ngày 11 thì số mệnh cát tường, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, tài lộc không thiếu, gia sự hưng vượng, cuộc sống vợ chồng hòa hợp, hạnh phúc. Ngày sinh này hợp với nam giới hơn nữ giới.   Người tuổi Thân sinh ngày 12   Số mệnh cát tường, suốt cuộc đời đều bình yên, không phải trải qua sóng gió hay tai họa lớn nào. Tuy nhiên, người này không hợp với đường quan lộc mà chỉ hợp kinh doanh, buôn bán. Ngoài ra, cả nam giới và nữ giới đều vượng vận đào hoa, nên đời sống tình cảm phong phú, nhiều bất ngờ.   Người tuổi Thân sinh ngày 13   Tiền vận không thuận, vất vả bôn ba đây đó để khởi dựng cơ đồ. Đến trung vận (khoảng 30-40 tuổi) vận thế khởi sắc, có cơ hội được làm quan to.   Người tuổi Thân sinh ngày 14   Mệnh người này cát tường, tuy tiền vận gặp trở ngại nhưng được cha mẹ nâng đỡ, quý nhân phù trợ nên cuộc sống khá bình yên, thuận lợi và hưởng nhiều phúc lộc.   Người tuổi Thân sinh ngày 15   Người này có trái tim lương thiện, tính cách ôn hòa, thiết thực, hay giúp đỡ mọi người xung quanh nên ai nấy đều tôn trọng. Hễ gặp khó khăn sẽ có người giúp đỡ nên vạn sự như ý.
An Khánh (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Thân (P1)

Chàng trai tuổi nào đa tình nhất trong 12 con giáp? –

Câu hỏi được các bạn nữ đặt ra nhiều nhất đó chính là trong 12 con giáp chàng trai nào đa tình nhất? Với bản tính thích tự do, ham cái mới khiến những anh chàng tuổi Ngọ và Thìn xếp đầu bảng trong danh sách này. Tất cả chúng ta đều tò mò vì sao họ lạ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi được các bạn nữ đặt ra nhiều nhất đó chính là trong 12 con giáp chàng trai nào đa tình nhất? Với bản tính thích tự do, ham cái mới khiến những anh chàng tuổi Ngọ và Thìn xếp đầu bảng trong danh sách này. Tất cả chúng ta đều tò mò vì sao họ lại trong danh sách đa tình.Củ thể thế nào chúng ta cùng khám phá để biết được nam giới tuổi nào đa tình?

Nội dung

  • 1 Chàng trai nào đa tình nhất?
  • 2 Thứ 1: Chàng trai tuổi Ngọ
  • 3 Thứ 2: Chàng trai tuổi Thìn
  • 4 Thứ 3: Chàng trai tuổi Dậu

Chàng trai nào đa tình nhất?

Thứ 1: Chàng trai tuổi Ngọ

Vốn yêu thích tự do nên trong tình yêu, những anh chàng tuổi Ngọ vô cùng chú trọng đến việc tìm không gian riêng cho mình. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tình cảm chân thành họ dành cho đối phương trong giai đoạn chớm nở của tình yêu. Khi giai đoạn ngắn ngủi này kết thúc, níu giữ họ cho riêng mình có lẽ là việc khó hơn cả lên trời.

20140702-boi-van-menh-tuoi-ngo-1307-1878-1407107071

Những chàng trai tuổi Ngọ đã cân nhắc khá kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định quan trọng trong chuyện tình cảm, nhưng nếu có cảm giác không hài lòng, họ lập tức rời bỏ đối phương để đi tìm một nửa phù hợp hơn. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự phong lưu, đa tình của người tuổi Ngọ.

Thứ 2: Chàng trai tuổi Thìn

Những anh chàng tuổi Thìn không những đa tình mà còn ham “của lạ”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ đều muốn chinh phục và thưởng thức điều mới mẻ. Thay đổi tình yêu với những chàng trai tuổi Thìn là chuyện cơm bữa và không thể thiếu trong cuộc sống này.

tuoi-thin-01-1782-1407107071

Con trai tuổi Thìn hài hước, có biệt tài ăn nói nên đi tới đâu cũng gây sự chú ý và có sức hút mạnh với người khác giới. Cuộc đời của họ trải qua không ít mối tình. Với họ kết thúc một mối tình là sự khởi đầu cho những trải nghiệm mới thú vị hơn.

Thứ 3: Chàng trai tuổi Dậu

Với những anh chàng cầm tinh con Gà, tình cảm cũng như những phương diện khác của cuộc sống, đều phải rõ ràng, không có chuyện yêu nửa vời, nói chia tay năm lần bảy lượt rồi lại quay về với nhau. Ngoài ra, họ biết mình có số đào hoa, đa tình nên rất tự tin trong chuyện tình cảm.

chinh-phuc-nguoi-tuoi-dau-6092-1407107071

Người tuổi Dậu không tin vào tình yêu vĩnh cửu mà chỉ quan tâm tới cảm giác tức thời. Do đó, một khi đã hết cảm giác yêu, chàng trai tuổi Dậu sẽ chia tay dứt khoát, không chút vướng bận mà đi tìm tình yêu mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chàng trai tuổi nào đa tình nhất trong 12 con giáp? –

Chùa Hương - Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay...

Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân, mặc khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương.
Chùa Hương - Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân, mặc khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương.

Lễ hội chùa Hương

  Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Ngày mồng 6 tháng 1 âm lịch là khai hội và thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3. Thời gian chính của lễ hội là từ rằm tháng 1 đến 18 tháng 2 âm lịch.
Phần lễ của lễ hội này được thực hiện khá đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tại tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.

Tại chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền.

Phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa Ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của Đạo giáo. Đền Cửa Vòng thờ Bà Chúa Thượng Ngàn là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và cá thần.

Ngày hội, làng tổ chức đám rước thần từ đền ra đình trong không khí đông vui, hân hoan của mùa xuân. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu... Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều  khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.

Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền ngắm cảnh như lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Đến nay, ngày hội đua thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho người đi hội.

Trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người với thiên nhiên cao rộng, là sự hòa hợp giữa thực và mơ.

(Theo Việt Báo)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hương - Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay...

Xem giờ sinh tuổi Thìn: Sinh giờ nào thì may mắn cả đời?

Xem giờ sinh tuổi Thìn: Đa phần người tuổi Thìn sinh vào giờ bản mệnh đều thông minh, phú quý, nam tài nữ đẹp, vợ chồng hòa hợp, cuộc sống đầy đủ
Xem giờ sinh tuổi Thìn: Sinh giờ nào thì may mắn cả đời?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem giờ sinh tuổi Thìn: Đa phần người tuổi Thìn sinh vào giờ bản mệnh đều thông minh, phú quý, nam tài nữ đẹp, vợ chồng hòa hợp, cuộc sống đầy đủ, phúc lộc dồi dào, có quý nhân phù trợ nên mọi sự đều thành.

 

Giờ Tý (23h – 1h)

  Theo luận đoán tử vi, gặp vận số tam hợp Thân – Tý – Thìn nên người tuổi Thìn sinh giờ Tý có sự nghiệp thuận lợi, tiền đồ sáng lạng, mọi sự cát tường. Người này được quý nhân phù trợ, người thân và bạn bè giúp sức nên dễ đạt được thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên đôi lúc bị kẻ tiểu nhân phá hoại nên không tránh khỏi tình trạng phá tài, nhưng cuối cùng vẫn thành công rực rỡ.

Giờ Sửu (1h – 3h)



Người tuổi Thìn sinh vào giờ Sửu có cát tinh chiếu mệnh nên mưu cầu đại cát, làm việc gì cũng thuận buồm xuôi gió. Ngoài ra, có quý nhân giúp đỡ, gia đình hậu thuẫn nên cuộc đời không phải trải qua nhiều sóng gió. Tuy có vướng vào họa khẩu thiệt thị phi nhưng nhân duyên tốt lành, mọi chuyện đều ổn thỏa.  

Giờ Dần (3h – 5h)

  Do sao Dịch Mã chiếu mệnh nên người tuổi Thìn sinh giờ Dần có số li hương, phát triển sự nghiệp nơi đất khách quê người. Dù sự nghiệp có thành tựu nhất định nhưng mệnh phạm Thiên Tuất tinh nên thành công không dễ dàng. Do đó, làm việc gì cũng phải thận trọng thì tỉ lệ thành công mới cao.  

Giờ Mão (5h – 7h)



Theo tử vi trọn đời của người tuổi Thìn, do Mão Mộc khắc Thìn Thổ nên người sinh vào giờ này dễ bị ốm đau bệnh tật vô phương cứu chữa. Dù người này tài hoa, có học thức nhưng lại không gặp may mắn, cuộc sống thăng trầm bất ổn, nhiều chuyện muộn phiền.  

Giờ Thìn (7h – 9h)

  Đa phần người tuổi Thìn sinh vào giờ bản mệnh đều thông minh, phú quý, nam tài nữ đẹp, vợ chồng hòa hợp, cuộc sống đầy đủ, phúc lộc dồi dào, có quý nhân phù trợ nên mọi sự đều thành.
Xem gio sinh phu quy cho nguoi tuoi Thin hinh anh
Ảnh minh họa

Giờ Tỵ (9h – 11h)

  Vì Tỵ Hỏa sinh Thìn Thổ nên người tuổi Thìn sinh vào giờ này tuy gặp họa nhưng không lớn, không có họa đại xung, cuộc đời bình yên. Ngoài ra, người này được quý nhân giúp đỡ, gia đình hỗ trợ nên sự nghiệp thành đạt, cuộc sống sung túc. Tuy nhiên, dù là nam mệnh hay nữ mệnh đều có số tái hôn.  

Giờ Ngọ (11h – 13h)

  Người tuổi Thìn sinh vào giờ Ngọ thường có tính tình nóng nảy, tinh thần bất ổn, số phải phiêu bạt khắp nơi, làm việc gì cũng phải thận trọng thì mới có được thành công. Người này có thời thơ ấu vất vả, lắm truân chuyên nhưng khi vào trung và hậu vận thì có cả danh và lợi, cuộc sống an nhàn yên ổn.  

Giờ Mùi (13h – 15h)

  Người sinh vào giờ này có sao Thái Dương chiếu mệnh nên số gặp nhiều phiền toái, hao tốn tiền của dù có tài năng và phẩm chất đạo đức tốt. Người này phải tự thân vận động, không được gia đình hậu thuẫn nên lập nghiệp khó khăn, tuy vậy cũng có những thành công nhất định.  

Giờ Thân (15h – 17h)



Vì Thìn Thổ sinh Thân Kim nên người này có tài lộc song toàn, kinh doanh phát đạt, tứ phương đều lợi. Tuy nhiên có sao Chỉ Bối chiếu mệnh nên phải cẩn trọng trong vấn đề kết giao bạn bè, tránh ảnh hưởng đến sự nghiệp.  

Giờ Dậu (17h – 19h)



Người tuổi Thìn sinh vào giờ Dậu rất vượng vận đào hoa, có tài có lộc nhưng cũng gặp không ít rắc rối về chuyện tình cảm. Cuộc sống người này sung túc, đầy đủ nhưng dễ xuất hiện tình trạng ngoại tình khiến hôn nhân bất ổn.

Giờ Tuất (19h – 21h) 

  Sinh vào giờ Tuất hầu hết là những người có tài năng, thông minh tài trí, có tài ăn nói nhưng lại khó tụ tài, tự lực cánh sinh, càng đi xa sự nghiệp càng có triển vọng.

Giờ Hợi (21h – 23h)



Người sinh giờ Hợi có số đại cát đại lợi vì được sao Tử Vi và Long Đức chiếu mệnh. Cuộc đời người này khá an lành, sự nghiệp thuận lợi thành công, có quý nhân giúp đỡ nên mọi phiền phức hay khó khăn đều được hóa giải.    Kết luận: Giờ sinh phú quý của người tuổi Thìn là giờ Tý và Thìn.

Mời các bạn xem thêm bài viết: Người tuổi Thìn hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?
  Việt Hoàng (Theo XZ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem giờ sinh tuổi Thìn: Sinh giờ nào thì may mắn cả đời?

34 chiêu thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời (P2)

Nhân tướng học cho rằng tướng tại tâm, tâm tốt thì tướng đẹp. Thay đổi tướng mạo không phải điều dễ nhưng cũng không quá khó khăn nếu bạn răn mình, làm theo
34 chiêu thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

những điều tốt dưới đây. 


34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc
 
34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 2
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 3
 
34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh
 
 
34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 4
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 5
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 6
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 7
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 8
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 9
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 10
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 11
 
34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 12
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 12
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 14
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 15
 

34 chieu thay da doi thit hoan doi cuoc doi P2 hinh anh goc 16
 
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 34 chiêu thay da đổi thịt hoán đổi cuộc đời (P2)

Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Chùa Tứ Kỳ còn có tên gọi khác là Linh Tiên tự thuộc thôn Tứ Kỳ, xã Hoàng Liệt (nay thuộc quận Hoàng Mai), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội
Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tứ Kỳ còn có tên khác là Linh Tiên tự. Chùa thuộc thôn Tứ Kỳ, xã Hoàng Liệt (nay thuộc quận Hoàng Mai), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 8km về phía Nam theo quốc lộ 1A.

Chùa được xây dựng vào năm 1687, trên một khu đất cao ráo về phía Đông Bắc làng, phía ngoài là tam quan, tiếp đến nhà bia, tiền đường, thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu và vườn tháp.

Tam quan xây 2 tầng nhìn ra quốc lộ 1A, qua khỏi tam quan đến 2 nhà bia kiểu phương đình chồng diêm, trong mỗi nhà có 1 tấm bia đá đặt trên lưng rùa. Tòa tiền đường 5 gian 2 dĩ đầu hồi bít đốc tay ngai, vì kèo kết cấu chồng rường giá chiêng, mái phân thượng tứ – hạ tứ. Thượng điện là ngôi nhà 1 gian, nối liền với toà tiền đường kết cấu hình chữ Đinh. Nhà Tổ được làm theo kiểu đầu hồi bít đốc, kiến trúc đơn giản bằng những vật liệu mới do tu sửa năm 1993. Nhà Mẫu gồm 5 gian. Việc bài trí tượng thờ so với các chùa khác đơn giản hơn vì thiếu bộ tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác, Thập điện Diêm vương và tòa Cửu Long.

Sát tường hậu tiền đường, bên phải đặt tượng Thánh Hiền, bên trái là tượng Đức Ông, gần tượng Thánh Hiền là 1 quả chuông khá lớn có khắc chữ “Linh Tiên tự” đúc năm Thiệu Trị 1 (1841). Dọc gian giữa thượng điện là hệ thống bệ thờ xây gạch, bày các bộ tượng: Quan Âm Nam Hải ở giữa, hai bên là 2 vị Bồ Tát, sau đó là bộ tượng A Di Đà tam tôn, trong cùng phía trên cao nhất là bộ tượng Tam thế. Tường hậu là nhà thờ Mẫu, trên tòa thạch đống có tượng mà người ta đoán là Chánh vương Phủ Thị Nội Cung Tần họ Nguyễn, tên Diệu Tâm và các pho tượng Ngũ vị tôn ông, Quan Hoàng, Đức Thánh Trần. Tượng trong nhà Tổ đều thể hiện tư thế ngồi, khuôn mặt từ bi.

Trước đây, Chùa là nơi hoạt động bí mật của cán bộ Đảng, chính quyền huyện xã trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Sư cụ Đàm Dần trụ trì chùa đã được chính phủ tặng thưởng huy chương kháng chiến.

Chùa Tứ Kỳ là một ngôi chùa có cảnh đẹp ở phía tây nam thành phố nằm trong hệ thống di tích của Thủ đô. Nơi đây còn là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của một cộng đồng dân cư và là nguồn sử liệu quý giá mang giá trị lịch sử về sự tồn tại của làng cổ Tứ Kỳ. Đây cũng là nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử phát triển của đạo Phật phái thiền tông trên vùng đất phía Nam Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVIII – XIX. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1995.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Các tuổi không nên khởi công làm nhà, xây dựng công trình –

Dưới đây sẽ cung cấp các trường hợp không nên tự khởi công làm một loại công trình nào đó như: nhà ở, xí nghiệp, chung cư, nhà máy... Nếu cố làm sẽ khó tránh hoạ tai. 1 Tuổi và năm kiêng làm nhà Các năm sinh của chủ Năm kiêng làm nhà Họa tai Thân - T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây sẽ cung cấp các trường hợp không nên tự khởi công làm một loại công trình nào đó như: nhà ở, xí nghiệp, chung cư, nhà máy… Nếu cố làm sẽ khó tránh hoạ tai.

images681119_IMG_5361

1 Tuổi và năm kiêng làm nhà

Các năm sinh của chủ

Năm kiêng làm nhà

Họa tai

Thân – Tý – Thìn

và Tị – Dậu – Sửu

Năm Thìn

Năm Mão

Năm Tị

Hại bản thân

Hại vợ

Hại con

Hợi – Mão – Mùi

và Dần – Ngọ – Tuất

Năm Tuất

Năm Ngọ

Năm Tị

Hại mình

Hại vợ

Hại con

2  Cách tính tuổi kiêng làm nhà theo luật Kim Lâu

* Quy tắc:
Lấy tuổi âm lịch chia cho 9, nếu còn dư 1-3-6-8 thì tuổi đó phạm Kim Lâu, không nên làm nhà, cưới hỏi, mua đại gia súc.
Ví dụ: Tính xem 36 tuổi có phạm Kim Lâu không, ta lấy 36 chia cho 9 được 4, dư 0. Vậy năm 36 tuổi không phạm Kim Lâu, có thể làm nhà và các việc lớn.

* Lưu ý
Khi tìm tuổi làm nhà nên xem thêm quy tắc “Cửu trạch vận niên” và các tuổi Kim Lâu – Hoang Ốc – Tam Tai để chọn lấy tuổi phù hợp.

Ví dụ: tuổi 19 theo quy tắc “cửu trạch” thì rơi vào cung Khôn – Phúc, làm nhà được. Song theo lệ kỵ Kim Lâu thì 19:9=2 dư 1 phạm Kim Lâu.
“Một – Ba – Sáu – Tám – Kim Lâu
Làm nhà, cưới vợ, tận trâu xin đường”.
Lưu ý: Tính tuổi âm lịch (tuổi dương lịch +1).

3 Cách tính tuổi kiêng làm nhà theo luật Hoang Ốc

(3) Tam Địa Sát 30

(4) Tứ Tấn Tài 40

(2) Nhị Nghi 20

(5) Ngũ Thọ Tử 50

(1) Nhất Cát 10

(6) Lạc Hoang ốc 60

* Quy tắc:
10 tuổi ở ô số 1, 20 tuổi ở ô số 2, 30 tuổi ở ô số 3… ô số 6 là 60 tuổi. Ai ở khoảng tuổi nào thì bắt đầu từ ô của tuổi đó đếm tiếp theo chiều kim đồng hồ, mỗi năm một ô cho đến tuổi mình hiện tại. Nếu rơi vào các ô số 3 “Tam Địa Sát”, ô số 5 “Ngũ Thọ Tử”, ô số 6 “Lục Hoang ốc” thì phạm Hoang Ốc.

VD: Xét tuổi 53 (tuổi âm):
Ô số 5 là 50, ô số 6 là 51 -> ô số 1 là 52, ô số 2 là 53. Vậy người 53 tuổi không phạm Hoang ốc. Luật Hoang ốc chỉ kỵ làm nhà hay công trình có nhà vì làm xong sẽ bỏ hoang phí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các tuổi không nên khởi công làm nhà, xây dựng công trình –

Kinh dịch - Khả năng phát hiện

Môn học Chu Dịch Dự Đoán đưa ra khá nhiều cách thức lập quẻ để dự đoán, điển hình là Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) Tham khảo 1 số sách trong nước và nước ngoài, tôi chọn ra 3 cách lập quẻ cơ bản : 1. Gieo 3 đồng tiền: Dự đoán ý thức & tiềm thức của người gieo đồng tiền. 2. Gieo theo phương vị: Dự đoán suy nghĩ của người bị đoán. 3. Gieo theo thời gian: Dự đoán diễn tiến sự việc.
Kinh dịch - Khả năng phát hiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003
Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam)

KINH DỊCH
KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN

Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved.
Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !

CHƯƠNG 2 : CHU DỊCH DỰ ĐOÁN HỌC

Môn học Chu Dịch Dự Đoán đưa ra khá nhiều cách thức lập quẻ để dự đoán, điển hình là Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) Tham khảo 1 số sách trong nước và nước ngoài, tôi chọn ra 3 cách lập quẻ cơ bản :
1. Gieo 3 đồng tiền: Dự đoán ý thức & tiềm thức của người gieo đồng tiền.
2. Gieo theo phương vị: Dự đoán suy nghĩ của người bị đoán.
3. Gieo theo thời gian: Dự đoán diễn tiến sự việc.

LỜI BÀN :
- Xưa kia, các mưu sĩ, quân sư tài giỏi thường chuộng cách gieo quẻ theo chữ viết, câu nói (tương tự như khi gieo đồng tiền) Do cách gieo này nhận biết chính xác tâm thức của Vua Quan, nên dễ lấy được nhanh lòng tin. Nhưng khi lâm sự, cách gieo trên không mang lại hiệu quả cao do phải vận dụng 3 lần dự đoán: Dự đoán tâm thức, căn cứ vào tâm thức dự đoán hành vi, căn cứ vào hành vi dự đoán kết quả sự việc. Nếu gieo theo thời gian, ta chỉ cần 1 lần dự đoán, dự đoán diễn tiến & kết quả của sự việc. Những cẩm nang đi đường chỉ mở ra xem vào một thời điểm nhất định, được ghi trong các câu chuyện về Khổng Minh, Trương Lương… hoàn toàn không phải là chuyện hoang đường. Nó được vận dụng từ cách gieo quẻ theo thời gian của môn Chu Dịch Dự Đoán Học.
- Ngày nay, đa phần những người hoạt động bói toán vẫn thường thích sử dụng cách gieo quẻ theo đồng tiền là điều dễ hiểu. Nó nắm bắt được ngay tâm thức của người đến xem bói.
- Trong bài này, tôi viết về môn học dự báo. Những chi tiết hoang đường, kỳ bí, huyền hoặc không phù hợp với lý luận cơ bản tôi không đề cập đến.
Môn học này dự đoán cái gì ?

1. Dự đoán về Tôi (Ngôi thứ nhất)
2. Dự đoán về Người khác (Ngôi thứ hai)
3. Dự đoán Sự Kiện (Ngôi thứ ba)
Để dự đoán, ta cần có những thông tin nào ?
1. Ngôi thứ nhất: Nhận thông tin qua 3 đồng tiền.
2. Ngôi thứ hai: Nhận thông tin qua phương hướng.
3. Ngôi thứ ba: Nhận thông tin qua thời gian.

Có thông tin, ta đi lập bài toán dự đoán :

TẠO LẬP BÀI TOÁN DỰ ĐOÁN
Tạo lập bài toán cho dự đoán ngôi thứ nhất:
Thực hiện các bước sau:
1. Chọn 3 đồng tiền có chất liệu giống nhau, bằng đồng (Cu)
2. Qui ước mặt hình là âm ( __ __ ), mặt chữ là dương ( _____ )
3. Đặt 3 đồng tiền vào 2 lòng bàn tay khoảng 1 phút. Gieo chúng lên mặt phẳng bất kỳ. Nếu:
3 mặt hình, ta ghi: ___ ___ x
3 mặt chữ, ta ghi: _______ x
2 hình 1 chữ, ta ghi: _______
2 chữ 1 hình, ta ghi: ___ ___
Sau khi gieo 6 lần, giả thử ta có đồ hình:
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___x                 _______x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
Đồ hình 1                 Đồ hình 2

* Qui ước ghi từ dưới lên.
* Đảo ngược các thanh dấu x, ta có đồ hình 2.
* Trường hợp không có x sau khi gieo, ta chỉ có 1 đồ hình duy nhất. Ví dụ:
_______
___ ___
___ ___
___ ___
___ ___
___ ___
Đồ hình không có x

Ta gọi tên chúng (xem bảng 2 & 3)
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___x                 _______x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
Sơn Hoả Bí                 Lôi Hoả Phong

Tạo lập bài toán dự đoán cho ngôi thứ hai
Thực hiện các bước sau:
* Người chuyển động: ta lấy hướng sau lưng họ.
* Người ngồi: ta lấy hướng trước mặt họ.
Ví dụ: Ông lão đi từ hướng Tây nam đến vào lúc 12h trưa.
Ta lập bài toán như sau:
Ông lão: Thiên ; Tây nam : Địa (xem bảng 2)
Thiên: 1 ; Địa: 8 (Xem bảng 2)
12h trưa: 7 (xem bảng 1)
Ta làm phép tính:
1 + 8 + 7 = 16
16 : 6 có số dư x = 4
Ta có:
_______                 _______
_______                 _______
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
Thiên Địa Bỉ                 Phong Địa Quán

Tạo lập bài toán dự đoán ngôi thứ 3
Ví dụ: 8h sáng ngày 27-8 năm Nhâm Ngọ
8h sáng: 5
Nhâm: 9
Ngọ: 7
* 27 + 8 + 9 = 44
44 : 8 dư 4 (Lôi)
44 + 5 = 49
49 : 8 dư 1 (Thiên)
49 : 6 dư 1 (x = 1)
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
_______                 _______
_______                 _______
_______x                 ___ ___x
Lôi Thiên đại                 Tráng Lôi Phong Hằng

* 27 + 8 + 7 = 42
42 : 8 dư 2 (Trạch)
42 + 5 = 47
47 : 8 dư 7 (Sơn)
47 : 6 dư 5 (x = 5)
___ ___                 ___ ___
_______x                 ___ ___x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
Trạch Sơn Hàm                 Lôi Sơn Tiểu Quá

KỸ THUẬT DỰ ĐOÁN
Theo các bước sau :
1. Nêu vấn đề cần dự đoán ở dạng câu hỏi. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng.
2. Xem nghĩa của 2 quẻ Chủ nhằm xác định suy nghĩ, thái độ, hành động của những người trong cuộc & diễn biễn của sự việc vào thời gian đầu.
3. Xem nghĩa của 2 quẻ Biến nhằm xác định suy nghĩ, thái độ, hành động của những người trong cuộc & diễn biến của sự việc ở thời gian sau.
4. Căn cứ vào (1) (2) (3) đưa ra lời dự đoán.

Ví dụ 1 : 20h ngày 20 – 10 Nhâm Ngọ, 2 bên thương thảo lại giá cả mua bán theo đề nghị của Bên A. Bên A là người bán. Cuộc thương thảo kết thúc nửa giờ sau đó. Tôi muốn biết kết quả cuộc thương thảo ấy.
Câu hỏi : Kết quả cuộc thương thảo ấy ra sao?
Lập bài toán dự báo, ta có:
- 2 quẻ Chủ : Vị tế (Chưa xong) ; Quán (Bày tỏ)
Luận : Một bên bày tỏ quan điểm của mình nhưng chưa hoàn tất.
- 2 quẻ Biến : Giải (Giải thích) ; Hoán (Tan vỡ)

Luận : Một bên đưa lý lẻ nhằm giải thích. Cuộc họp tan vỡ không có kết quả.
Dự Đoán :
Cuộc họp do yêu cầu của Bên A, cho nên việc bày tỏ quan điểm là ở bên A. Bên A bày tỏ chưa xong thì xuất hiện lời giải thích. Lời giải thích này tất nhiên là ở bên B. Lời giải thích ở bên B đưa ra đã khiến cuộc họp tan vỡ.
Bên A là bên bán, ta suy ra bên A muốn nâng giá bán. Và bên B đã không chấp nhận điều ấy khiến cuộc họp không đem lại kết quả.

Ví dụ 2 : Vẫn ví dụ trên, nhưng cuộc họp kéo dài qua khung giờ sau (21h). Cho biết kết quả.
Câu hỏi : Kết quả cuộc thương thảo ra sao ?
Lập bài toán dự báo, ta có :
- 2 quẻ Chủ : Tiểu Súc (Cản ngăn) ; Phong (Phát triển)
Luận : Một bên cho biết rằng họ có thể sẽ phát triển giải pháp nhằm cản ngăn đề nghị của bên kia.
- 2 quẻ Biến : Tốn (Vâng thuận) ; Chấn (Chấn động)
Luận : Một bên chấn động phải vâng thuận theo bên kia.

Dự Đoán
:
Ta có 2 trường hợp:
1. Trường hợp thứ nhất : Nếu bên A là người cung cấp nhỏ so với bên B, hoặc bên A phụ thuộc bên B ở nguyên liệu đầu vào, thì : Bên B cho biết răng họ có thể nghĩ đến biện pháp ngăn lại cuộc buôn bán hiện nay giữa 2 bên. Bên A lo lắng và buộc phải rút lại lời đề nghị của mình.

2. Trường hợp thứ hai : Nếu bên A là nhà cung cấp lớn, hoặc loại hàng bên A cung cấp hiện đang bán chạy trên thị trường, thì : Bên A cho biết rằng họ có thể sẽ nghĩ đến biện pháp ngăn lại cuộc buôn bán giữa 2 bên hiện nay. Bên B lo lắng và buộc phải rút lại lời đề nghị của mình.

Ví dụ 2 : Một người bạn cùng khoá tổ chức sinh nhật, nhưng chỉ mời vài bạn gái trong lớp. Tôi đã có bạn trai, nhưng vì nể bạn nên cũng nhận lời. Tôi muốn biết buổi sinh nhật tối hôm ấy sẽ diễn tiến ra sao khi biết rằng có dancing ?
- Xem qua các quẻ (17h – 19h) 2 quẻ Chủ: Tuỳ & Giải ; 2 quẻ Biến: Đoài & Sư, thấy rằng buổi tiệc diễn ra vui vẻ và các bạn tôn trọng nhau.
- Xem qua (19h – 21h) 2 quẻ Chủ: Đại Quá & Tiểu Quá ; 2 quẻ Biến: Khốn & Hàm, thấy rằng có khả năng xảy ra tình trạng các bạn chọc ghẹo qua lại quá đáng. Tôi đã có bạn trai, vì thế có khả năng ai đó quan tâm hay chọc ghẹo tôi. Không muốn để xảy ra những chuyện như thế, bèn dặn người nhà gọi điện kêu tôi về gấp.

- Xem qua (21h – 23h) 2 quẻ Chủ: Khốn & Dự ; 2 quẻ Biến: Khảm & Tấn, thấy rằng nếu còn ở lại dancing thì rất có khả năng tôi bị đối xử sổ sàng. Vì thế, vì lý do gì chưa thể về sau 19h thì bằng mọi cách tôi phải về trước 21h.

BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài thứ nhất: Một người đến hỏi: “Khoảng 6 giờ chiều hôm qua, tôi nhận được cú điện thoại từ nước ngoài gọi về. Đó là con rể, mới làm lễ Đính Hôn cách đây 4 tháng. Cháu nó nói rằng có gởi về Việt Nam 1 lá thư, không rõ tôi đã nhận được chưa. Hơn 1 tiếng sau, có người nhà cậu ấy mang lá thư qua. Trong thư nói rằng con rễ tôi không thể về Việt Nam làm lễ cưới như đã định trước đó. Và đề nghị bên tôi chờ (!?)”
17h – 19h: quẻ Chủ: Tỉ & Lâm ; quẻ Biến: Khảm & Qui Muội.
19h – 21h : quẻ Chủ: Nhu & Minh Di ; Biến: Tiết & Ký tế.
Câu hỏi :
1. Ẩn ý cú điện thoại ?
2. Ẩn ý lá thư ?

Bài thứ hai : 2h30 chiều, một người đàn ông ngoại quốc đến yêu cầu cho gặp giám đốc với lý do muốn bàn với công ty chuyện làm ăn. Ông ta tự giới thiệu là người đại diện cho 1 tập đoàn có trụ sở chính đặt tại Châu Á. Ông ta đề nghị một hợp tác song phương.
1h – 3h : quẻ Chủ: Chấn & Khảm ; quẻ Biến: Phệ Hạp & Tỉ.
3h – 5h : quẻ Chủ: Hằng & Kiển ; quẻ Biến: Đại Tráng & Tỉ.

Câu hỏi :
1. Đây là một đề nghị hợp tác nghiêm túc ?
2. Diễn tiến câu chuyện (Ông ấy ra về lúc 4h) ?

Bài thứ ba : ngày 11 – 9 – 2001, Hoa Kỳ bị khủng bố bằng máy bay. Toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở Newyork bị đổ sụp hoàn toàn.
Quẻ Chủ: Trung Phu & Di ; quẻ Biến: Tiết & Tổn.
Câu hỏi :
1. Phản ứng của Hoa Kỳ ?
2. Đánh giá khả năng bảo vệ (an ninh) của Hoa Kỳ trước ngày 11 – 9 ?
3. Tổ chức đó lâu đời hay mới thành lập ?

BẢNG 1:

CAN CHI GIỜ
Giáp 23h – 1h 1
Ất Sửu 1h – 3h 2
Bính Dần 3h – 5h 3
Đinh Mão 5h – 7h 4
Mậu Thìn 7h – 9h 5
Kỷ
Tỵ 9h – 11h 6
Canh Ngọ 11h – 13h 7
Tân Mùi 13h – 15h 8
Nhâm Thân 15h – 17h 9
Quý Dậu 17h – 19h 10

Tuất 19h – 21h 11

Hợi 21h – 23h 12

BẢNG 2:
_______                  ___ ___                  _______                  ___ ___
_______                  _______                  ___ ___                  ___ ___
_______                  _______                  _______                  _______

CÀN (Thiên)         ĐOÀI (Trạch)         LY (Hoả)         CHẤN (Lôi)
Ông Lão                 Bé Gái                     Thanh Nữ          Trung Niên
Tây Bắc (1)            Tây (2)                    Nam (3)             Đông (4)


___ ___                  _______                  ___ ___         ___ ___
___ ___                  _______                  _______         ___ ___
_______                  ___ ___                  ___ ___         ___ ___

TỐN (Phong)         KHẢM (Thuỷ)         CẤN (Sơn)         KHÔN (Địa)
Trung Nữ               Thanh Niên               Bé Trai               Bà Lão
Đông Nam (5)       Bắc (6)                   Đông Bắc (7)      Tây Nam (8)


BẢNG 3:

00 THUẦN KHÔN 40 LÔI ĐỊA DỰ
01 ĐỊA THIÊN THÁI 41 LÔI THIÊN ĐẠI TRÁNG
02 ĐỊA TRẠCH LÂM 42 LÔI TRẠCH QUI MUỘI
03 ĐỊA HOẢ MINH DI 43 LÔI HOẢ PHONG
04 ĐỊA LÔI PHỤC 44 THUẦN CHẤN
05 ĐỊA PHONG THĂNG 45 LÔI PHONG HẰNG
06 ĐỊA THUỶ SƯ 46 LÔI THUỶ GIẢI
07 ĐỊA SƠN KHIÊM 47 LÔI SƠN TIỂU QUÁ
10 THIÊN ĐỊA BỈ 50 PHONG ĐỊA QUÁN
11 THUẦN CÀN 51 PHONG THIÊN TIỂU SÚC
12 THIÊN TRẠCH LÝ 52 PHONG TRẠCH TRUNG PHU
13 THIÊN HOẢ ĐỒNG NHÂN 53 PHONG HOẢ GIA NHÂN
14 THIÊN LÔI VÔ VỌNG 54 PHONG LÔI ÍCH
15 THIÊN PHONG CẤU 55 THUẦN TỐN
16 THIÊN THUỶ TỤNG 56 PHONG THUỶ HOÁN
17 THIÊN SƠN ĐỘN 57 PHONG SƠN TIỆM
20 TRẠCH ĐỊA TUỴ 60 THUỶ ĐỊA TỈ
21 TRẠCH THIÊN QUẢI 61 THUỶ THIÊN NHU
22 THUẦN ĐOÀI 62 THUỶ TRẠCH TIẾT
23 TRẠCH HOẢ CÁCH 63 THUỶ HOẢ KÝ TẾ
24 TRẠCH LÔI TUỲ 64 THUỶ LÔI TRUÂN
25 TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ 65 THUỶ PHONG TĨNH
26 TRẠCH THUỶ KHỐN 66 THUẦN KHẢM
27 TRẠCH SƠN HÀM 67 THUỶ SƠN KIỂN
30 HOẢ ĐỊA TẤN 70 SƠN ĐỊA BÓC
31 HOẢ THIÊN ĐẠI HỮU 71 SƠN THIÊN ĐẠI SÚC
32 HOẢ TRẠCH KHUÊ 72 SƠN TRẠCH TỔN
33 THUẦN LY 73 SƠN HOẢ BÍ
34 HOẢ LÔI PHỆ HẠP 74 SƠN LÔI DI
35 HOẢ PHONG ĐỈNH 75 SƠN PHONG CỔ
36 HOẢ THUỶ VỊ TẾ 76 SƠN THUỶ MÔNG
37 HOẢ SƠN LỮ 77 THUẦN CẤN


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh dịch - Khả năng phát hiện

Các đồ dùng trong văn phòng phải được xếp đặt như thế nào –

Xếp đặt bàn viết, có hai điểm cần chú ý: Một là, cần phải chú ý không được đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa chính. Hai là, chú ý đằng sau bàn làm việc cần có chỗ tựa, không được có khoảng trống quá nhiều. Để tránh đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xếp đặt bàn viết, có hai điểm cần chú ý: Một là, cần phải chú ý không được đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa chính. Hai là, chú ý đằng sau bàn làm việc cần có chỗ tựa, không được có khoảng trống quá nhiều.

file.419742

Để tránh đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa chính, chủ yếu là vì khiến cho nhà lãnh đạo khi làm việc không dễ dàng tiếp nhận những âm thanh bên ngoài cửa đến mình và những soi mói của tiểu nhân; để tránh đằng sau ghế ngồi có quá nhiều khoảng không, chủ yếu là vì để khi nhà kinh doanh ngồi vào bàn xử lý mọi công việc có thể giảm đi những cảm giác không thật đằng sau lưng mình, tăng thêm độ tin cậy.

Đặt bàn làm việc yên một chỗ, trước bàn làm việc nên có một không gian tương đối mở rộng, theo cách nói của phong thủy là một khu sinh khí, có thể khiến cho lòng được mở rộng. Đồng thời, khoảng cách giữa bàn làm việc và cửa xa nhau, mà hơn nữa cửa lại ở vị trí góc chếch của phía trước bên trái bàn làm việc, có thể tránh những soi mói trực tiếp của người ngoài cửa và những tạp âm ở phía bên ngoài đem lại. Đằng sau của bàn làm việc là một bức tường kiên cố, bời vì bức tường đó sẽ giống như một dãy núi đem lại cảm giác vững chắc, lại khiến cho bàn làm việc cũng như có chỗ dựa.

Ngoài ra giữa bàn viết cần phải chú ý lựa chọn phòng có cửa sổ, đồng thời còn phải quan sát quang cảnh xung quanh ngoài cửa sổ, yêu cầu khi đứng gần cửa sổ nhìn ra xa, phía trước cửa sổ không nên nhìn thấy những vật giống như những ông khói… Ngoài điều nói trên, còn phải xem phía bên ngoài của cửa sổ có đường đi lại không, nếu có đường đi, tốt nhất là nên lựa chọn căn phòng khác. Bởi vì nơi có người đi lại, tiếng bước chân, tiếng cười nói, đều sẽ ảnh hưởng đến tâm lí khi làm việc của mọi người trong phòng. Hơn nữa, còn thường bị những ánh mắt soi mói của người ngoài cửa nhìn vào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các đồ dùng trong văn phòng phải được xếp đặt như thế nào –

Vận đào hoa, tình duyên của các con giáp trong tháng 12

Những người tuổi Mão hãy cẩn thận với sự xuất hiện của người thứ ba. Nếu không đúng khẩu vị của bạn, vậy đừng cố thử, những người tuổi Ngọ nhé.
Vận đào hoa, tình duyên của các con giáp trong tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-1 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-2 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-3
Sửu  Dần Mão
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-4 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-5 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-6 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-8 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-9 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-10 khoang-cach-do-tuoi-ly-tuong-khi-12-con-giap-ket-hon-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Maruko (theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận đào hoa, tình duyên của các con giáp trong tháng 12

Bí ẩn của gương soi

Đối với con người hiện đại thì trong việc chế tạo gương soi không có gì là bí mật cả. Song sự bí ẩn của những chiếc gương, của quy trình công nghệ làm ra chúng và của việc lưu giữ chúng trong nhà cho đến nay vẫn còn nhiều điều chưa được làm sáng tỏ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Vậy cái mặt phẳng có tác dụng phản chiếu đó chứa đựng điều gì và tại sao lại có nhiều truyền thuyết, nhiều chuyện bói toán và nhiều điều mê tín gắn liền với chiếc gương đến thế?Vậy cái mặt phẳng có tác dụng phản chiếu đó chứa đựng điều gì và tại sao lại có nhiều truyền thuyết, nhiều chuyện bói toán và nhiều điều mê tín gắn liền với chiếc gương đến thế?

Điềm báo và mê tín

Hiện nay, ở thiên niên kỷ thứ ba, không ít người vẫn tiếp tục tin vào bản chất ma thuật của chiếc gương. Người ta thường giật mình khi đánh rơi chiếc gương xuống sàn nhà, người ta sợ hãi nếu như chiếc gương bị vỡ. Sau khi những vị khách khó chịu bước ra khỏi nhà, người ta thường dùng khăn ướt lau sạch mặt gương để xóa hết dấu vết của những người “bất hảo” đó khỏi “ký ức” của gương, còn nếu như có ai trong số thân nhân qua đời thì người ta lấy mảnh vải che mặt gương lại.

Theo phong tục Trung Hoa, chiếc gương được coi là vật trừ tà bởi lẽ ma quỷ khi nhìn vào gương sẽ thấy hình thù quái dị của mình nên khiếp sợ. Ở Nhật, chiếc gương đóng vai trò tối quan trọng: nó là một trong những báu vật của nhà vua cùng với ngai vàng, thanh bảo kiếm và ba viên ngọc trai tượng trưng cho ba phẩm chất cao quý của con người là kiến thức, sự can đảm và lòng nhân từ. Được so sánh với nước, chiếc gương đã trở thành phép thần thông và được dùng vào việc bói toán ở Congo, trong các bộ tộc Bambara và ở châu Á. Đó là bát nước hoặc chiếc gương mà trong đó pháp sư nhìn thấy các vong hồn.Có không ít điểm báo gắn liền với chiếc gương. Và ở tất cả các dân tộc chúng rất giống nhau. Nếu gương bị rơi vỡ thì đó là điềm gở - trong gia đình sắp có người chết. Trong gương có thể nhìn thấy bóng dáng của vị hôn phu hoặc hôn thê của mình. Sự rủi ro đang rình rập vị hôn thế nếu như trước lễ thành hôn, nàng nhìn thấy mình mặc bộ đồ cưới trong gương. Sự bất hạnh đó có thể tránh được bằng cách mặc thử bộ đồ cưới nhưng thiếu một chiếc găng tay. Ngoài ra, sau khi làm lễ ở nhà thờ về, đôi vợ chồng trẻ phải đứng cạnh nhau trước chiếc gương - điều đó sẽ mang đến sự may mắn cho họ.

Nhiều dân tộc như Ấn Độ, Tadzhkitan, Ba Tư... có một nghi lễ thành hôn như sau: cô dâu và chú rể cùng nhìn vào một chiếc gương, dường như mối liên hệ giữa họ và những người trong gương sẽ củng cố cuộc hôn nhân trên trần gian. Theo quan niệm dân gian của các dân tộc Slavơ thì chiếc gương được nhìn nhận trước hết như ranh giới giữa thế giới trần gian và thế giới bên kia. Có nhiều câu chuyện về chiếc gương gắn liền với sự xuất hiện trong đó bóng ma của những người đã khuất. Theo một số truyền thuyết, trong những chiếc gương cổ được lưu giữ linh hồn của tất cả những ai đã từng soi vào đó. Nếu như chiếc gương giữ lại hình ảnh của kẻ độc ác, chẳng hạn tên sát nhân, hay đã “chứng kiến” cảnh giết người thì bản thân nó cũng trở thành “độc ác” và có khả năng phát ra năng lượng tiêu cực.



Để tránh những hậu quả xấu, không nên soi gương khi đang đau ốm. Tốt nhất là nên nhìn vào gương với nụ cười và với sự mãn nguyện. Khi đó gương chỉ phát ra năng lượng tích cực mà thôi...Các nhà khoa học cũng quan tâm đến loại gương vốn không vội vã bộc lộ tất cả những điều bí ẩn của nó. Trước hết phải nói đến cuộc thí nghiệm bằng gương do nhà vật lý học, viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô B.Kozyrev (1905 -1979) khởi xướng. Cấu trúc gương của Kozyrev như sau: một lá nhôm dẻo bóng loáng như gương được cuốn lại một vòng rưỡi theo chiều kim đồng hồ. Bên trong lá nhôm đó đặt một chiếc ghế cho người được làm thí nghiệm và thiết bị đo. Vào đầu những năm 90, những tấm gương cuộn như vậy được dùng cho các thí nghiệm về tri giác cực nhạy vốn được tiến hành tại Viện Y học thực nghiệm thuộc phân Viện hàn lâm khoa học Sibiri do viện sĩ V.Kazurcheev hướng dẫn. Kết quả của cuộc thí nghiệm chưa được công bố. Người ta chỉ biết rằng một trong những người tham gia thí nghiệm đã chết trong hoàn cảnh lạ lùng, còn những người khác thì tự sát. Ở mức độ nhất định, cuộc thí nghiệm là sự tiếp tục những nghiên cứu của nhà vật lý học thiên văn Kozyrev chuyên khảo sát mối liên hệ giữa không gian và thời gian.

Kết quả của những cuộc thí nghiệm là rất kỳ lạ. Những người được ngồi trong cái ống gương hình trụ đó có những cảm giác tâm sinh lý dị thường rất khác nhau, điều này được ghi nhận trong biên bản của công trình nghiên cứu. Họ có cảm giác “thoát ra khỏi thể xác mình”, đã ghi nhận những trường hợp biểu hiện của hiện tượng thần giao cách cảm... Người ngồi trong buồng kín đó trong mấy tiếng đồng hồ bắt đầu cảm thấy mình như người tham dự các sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ xa xôi, ngay trước mặt họ, dường như trên màn hình đã lần lượt hiện ra những sự kiện và những nhân vật quen thuộc qua sách giáo khoa và hoàn toàn không quen thuộc. Song điều kỳ lạ nhất là người tham gia cuộc thí nghiệm bằng gương tin chắc rằng những chiếc gương chính là đường hầm để chuyển sang một chiều đo khác...

Kỹ thuật chuyển năng lượng sang các thế giới khác khá phức tạp và đối với con người hiện đại thì việc áp dụng nó có thể kết thúc một cách bi thảm. Những cuộc thí nghiệm cũng cho thấy sự tiềm ẩn của một mối nguy hiểm nhất định, vốn có thể đe dọa đến tính mạng con người. Chính vì vậy chúng đã bị đình chỉ. Không phải ngẫu nhiên tòa án giáo hội Tây Ban Nha đã nghĩ ra một cách tra tấn đặc biệt bằng gương. Nạn nhân mấy ngày liền bị nhốt vào một chiếc phòng gương kín mít, trong đó ngoài anh ta và ngọn đèn thì chẳng có cái gì hết. Vô số hình ảnh phản chiếu giống như những người song sinh nhìn chòng chọc vào anh ta suốt ngày đêm. Chúng ở phía trên, ở bên trái, ở bên phải và ở phía dưới. Chúng gặp lại mỗi một động tác của người đó, hệt như giễu cợt nạn nhân. Thông thường con người không chịu nổi cách tra tấn bằng gương như vậy và bị phát điên. Một khi những tác động phụ của gương chưa được các nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra những kết luận có sức thuyết phục, thì ta nên lắng nghe những lời khuyên của người xưa và cần thận trọng khi tiếp xúc với thứ dụng cụ phản chiếu đáng lưu ý này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn của gương soi

Tử vi tiểu sảo

Một bài viết chia sẻ về bản thân của cụ Thiên Lương. Ngắn gọn mà lại ý nghĩa.
Tử vi tiểu sảo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên Lương

Năm 1947 là năm đất nước có nhiều chuyện nhiễu nhương làm cho dân tình điêu đứng. Tôi là một người có thể gọi là vô gia cư, nhà cửa bị phá hoại vì lệnh tiêu thổ kháng chiến, đến định cư tại một làng (B,V.) cùng một số người trong hoàn cảnh lánh nạn chiến tranh.

Công việc hàng ngày như giống nhau, nghĩ là không có ngày chủ nhật. Buổi sáng dậy xếp dọn đồ đạc sẵn vào mấy cái bị, ăn cơm mau chóng, nghe ngóng tin Tây đánh đến gần là chạy, đến xế chiều mới yên chí. Ăn xong ngồi họp với mấy người bạn tản cư tán gẫu hết chuyện này sang chuyện khác.

Năm ấy tôi 38 tuổi, học Tử vi được 10 năm, ngồi đâu cũng ham nói chuyện lý số, coi bộ ta đây là một cây…Thế rồi một buổi chiều, một ông bạn lối xóm cùng tuổi thấy nói tôi biết Tử vi mời sang chơi, xem giùm cho số phận tuổi Canh Tuất sinh ngày 6 tháng 6 giờ Mão.

Mệnh đóng tại Thìn có Thiên Cơ, Thiên Lương, Tuế Phá, Thiên Hư, Hoả Tinh, Quan lộc ở Thân Vô chính diệu Thiên Mã, Lộc Tồn, Khốc, Khách, Địa không, cung Tài ở Tí có Thiên Đồng, Thái Âm, Hoá Khoa, Hoá Kị, Linh Tinh. Tuy lúc này đầy lòng tự mãn sự học số vì xã giao, tôi nhùn nhường đặt vấn đề, nếu 2 câu đầu mà không trúng thì thôi xin vô phép không giám nói tiếp.

Ông bạn ngồi trước mặt tỏ ra rất hân hoan được người chỉ đường đi nước bước cho mình.

Câu trước nhất tôi hỏi: Bác có bị cháy nhà lần nào chưa? (Vì thấy Cơ Lương thủ mệnh bị Hoả Tinh)

Ông bạn trả lời: Thưa chưa có

Tôi tấn công liền, nếu không cháy nhà bị máy bay ném bom (Thiên Mã, Hoả Tinh) mà bác sống được nhờ có người mắt lé ngồi trong hầm núp với bác (Thái Âm, Hoá Kị, Hoá Khoa, Linh Tinh).

Ông bạn tôi nẩy người lên, hai tay chấp lạy vái lên vái xuống, miệng nói có, có trúng quá. Ông kể đầu đuôi, năm 1945 Mỹ đánh Nhật ở Đông Dương, nhà ông bị máy bay Mỹ ném bom trúng tiêu tùng, các hầm núp xung quanh sập nát, mọi người chết hết. Chỉ còn cái hầm của ông là còn và trong hầm lúc đó người em họ mắt lé ngồi bên ông, ông tấm tắc khen ngợi cho tôi là Thánh sống, năn ni xin xem hộ có thời vận làm ăn gì được không, vì tôi đã có hẹn trước là chỉ coi vài ba câu thôi.

Thấy ông hỏi thời vận để làm ăn, tôi tính năm đó ông 38 tuổi, ở đại vận cung Mùi (33 - 43) vô chính diệu, tuổi Canh Tuất có Triệt ở Ngọ Mùi, Thiên Không ở Mão, Tuần ở Dần Hợi, tứ là vận Vô chính diệu có Triệt ở chính cung Thiên Phủ ở Hợi, gặp Thiên Không, Thiên Tướng ở Mão gặp Tuần, tôi cất cao giọng hạ một câu đến nay nhiều lúc nghĩ đến vấn thấy mặt đỏ tía tai, mắc cỡ, vận bác có gì đâu là nguy hại, Vô chính diệu đắc tam không, cứ làm ăn tiến tới đừng ngại.

Ông bạn đứng ngay dậy nói: Tôi mất hết cơ nghiệp, vợ chết, con chết, tấm thân lang bạt cầu bơ cầu bất 4 năm nay, hiện giờ tiền hết gạo không, không biết lấy gì mà sống.

Bao nhiêu lời nói đó như một gáo nước lạnh đổ xối vào lòng tự cao của tôi với câu “máy bay dội bom vì có người mắt lé mà thoát chết”, cáo lỗi đứng lên ra về và nhất định từ biệt Tử vi, từ đó không coi số cho ai và cũng không thèm nói chuyện tử vi với ai.

Đến nay, xin thưa, thật những trò tiểu sảo nhiều khi rất sáng chói nhưng không căn bản nguyên tắc nắm vững, khác nào căn nhà làm trên bãi sính lầy dễ sụp đổ.

KHHB Xuân Ất Mão (1975)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi tiểu sảo

Lời khuyên của Phật giáo với người đồng tính

Giới tính thứ 3 là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay. Lời khuyên của Phật giáo với người đồng tính sẽ cho thấy một góc nhìn rất nhân văn về vấn đề này.
Lời khuyên của Phật giáo với người đồng tính

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Loi khuyen cua Phat giao voi nguoi dong tinh hinh anh
 
Đồng tính luyến ái là một hiện tượng tâm sinh lý phát sinh từ cách đây rất lâu, song trong khoảng 10 năm trở lại đây mới thực sự được xã hội quan tâm nhiều hơn. Dẫu dư luận đã có phần cởi mở hơn, nhưng không thể phủ nhận, người đồng tính luyến ái vẫn phải chịu rất nhiều điều tiếng, sự kì thị và áp lực nặng nề. Lời khuyên của Phật giáo với người đồng tính biết đâu sẽ giúp họ tìm thấy lối đi cho cuộc sống của mình.   Phật giáo cho rằng, chúng sinh bình đẳng nên người đồng tính cũng giống tất cả những người dị tính khác, trước Phật là như nhau. Thêm nữa, đối với bản thân, Phật luôn nhắc nhở, phải tự trân quý yêu thương nên dù có sự khác biệt với những người khác, thì cũng không nên xem đó là lý do để oán trách, phủ nhận bản thân.   Bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người - chỉ lối đường yêu
Phật viết, kiếp trước 500 lần ngoái đầu nhìn lại mới đổi được kiếp này 1 lần gặp thoáng qua. Nghe bài pháp Duyên Chi Ta Gặp Một Người để hiểu rõ chữ duyên

Đối với xã hội, Phật dạy từ bi hỉ xả, khẩu nghiệp là nghiệp ác nặng nhất, nên lấy lòng thiện mà đối với người đồng tính. Không lấy gièm pha, khinh khi, hay những hành động ác nghiệt để đối xử.
  Nếu người đồng tính cảm thấy cuộc sống quá bế tắc, hãy tìm tới cửa Phật, học Phật pháp, quy y Tam Bảo, chịu Ngũ giới để tránh xa nhân thế. Như vậy thì việc mang giới tính nào đã không còn quan trọng nữa, cũng không còn phải phiền toái vì yêu, vì hận, vì đạo đức xã hội hay lời gièm pha của người khác.    Hướng tới Tây phương, chăm chỉ tu hành, giải tỏa phiền não, trở thành người đắc đạo cũng là một lựa chọn. Cánh cửa nhà Phật luôn rộng mở chào đón cho tất thảy chúng sinh.  
► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Lời Phật khuyên những cô gái chậm duyên, muộn chồng Luận những tướng người có cơ duyên chốn cửa chùa Phật dạy 10 điều tự tại phải ghi nhớ trọn đời trọn kiếp Tâm Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời khuyên của Phật giáo với người đồng tính

Bá đạo những lý do chia tay của 12 chòm sao nữ

Tình yêu của những cô gái không bao giờ có thể nói lý, dù cho bạn trai rất tốt cũng tìm ra điểm không ưng. Vậy lý do chia tay của 12 chòm sao nữ là gì nhỉ?
Bá đạo những lý do chia tay của 12 chòm sao nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu của những cô gái không bao giờ có thể nói lý, dù cho bạn trai rất tốt cũng tìm ra điểm không ưng, dù trải qua những ngày tháng ngọt ngào cũng vẫn thấy thiếu sót, muốn thay đổi. Vậy lý do chia tay của 12 chòm sao nữ là gì nhỉ?

► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Ba dao nhung ly do chia tay cua 12 chom sao nu hinh anh 2
 

Bạch Dương và Thiên Yết: đối phương làm trái ý mình

 

Trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì Bạch Dương và Thiên Yết nắm tay nhau cùng rất bá đạo. Họ cảm thấy đối phương làm trái ý mình, không đứng về phía mình, rất khó chịu. Vì thế mà họ làm náo động lên, bù lu bù loa, nói đối phương không yêu mình rồi hậm hực, đùng đùng đòi chia tay, đúng là không nói đạo lý.  

Kim Ngưu và Ma Kết: đối phương không hiểu mình

Chòm sao Kim Ngưu nữ và Ma Kết nữ khá nhạy cảm và yêu cầu cao về sự đồng điệu tâm hồn. Chỉ cần cảm thấy bạn trai có chút không thấu hiểu mình là sẽ nhanh chóng nghĩ ngợi rồi chia tay. Trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì đây quả là lý do vô lý, vì hai nàng này có chịu thổ lộ tâm tư gì đâu mà cứ khăng khăng đòi người yêu phải hiểu cơ chứ.  

Song Tử và Bảo Bình: đối phương không phối hợp

Như gần như xa, hai cô nàng hoàng đạo này yêu cầu bạn trai phải tâm ý tương thông, lúc cần là có mặt ngay tức khắc, đâu phải thánh nhân mà làm được. Loại tình yêu này dằn vặt, cần bạn trai toàn lực phối hợp, đúng là tiểu yêu quái, khó chiều quá đi.
 

Cự Giải và Song Ngư: đối phương không lãng mạn

  Mặc dù nói lãng mạn không thể ăn được nhưng con gái ai chẳng thích, nhất là những cô gái có tâm hồn bay bổng, nhạy cảm như Song Ngư và Cự Giải. Họ yêu cầu bạn trai phải thật tinh tế, thật lâm li, giống như trong ngôn tình vậy. Nhưng đâu phải chàng trai nào cũng có đủ tâm tư, thời gian và công sức, mỗi người một tính, phải thực tế một chút chứ các cô gái.
Ba dao nhung ly do chia tay cua 12 chom sao nu hinh anh 2
 

Sư Tử và Nhân Mã: đối phương không mãnh liệt

  Khi vừa bắt đầu, cảm xúc mãnh liệt những qua một thời gian sẽ dần bình lặng, ngày tháng trôi đi đều đều, thực tế cuộc sống vốn là như vậy. Nhưng trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì hai cô nàng Nhân Mã và Sư Tử lại cố tình quên điều này, họ cứ nhất nhất cho rằng tình cảm phải thật mạnh mẽ, đáng chờ mong, nếu không thì đường ai nấy đi ngay.  

Xử Nữ và Thiên Bình: đối phương có hình tượng không tốt

  Không còn cách nào khác, đàn ông phần lớn đều không quá chú trọng ngoại hình cá nhân, cho dù có cố gắng nhưng không phải ai cũng có thể như soái ca trong phim được. Mà hai chòm sao nữ hoàn hảo như Xử Nữ và Thiên Bình thì chắc chắn không chấp nhận rồi, yêu cầu này quá mức cao, có phần áp đặt cá nhân rồi.
Đáng sợ 4 chòm sao nữ trở mặt như trở bàn tay 1001 cách thu hút đàn ông “cực dễ” của Chòm sao nữ thông minh 3 chòm sao nữ có phúc, tìm thấy hạnh phúc mới sau ly hôn
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bá đạo những lý do chia tay của 12 chòm sao nữ

Mơ thấy ánh nắng trong mưa: Sẽ xảy ra tranh chấp tiền tài –

Mơ thấy mặt trời chiếu sáng trong mưa là điềm báo xảy ra tranh chấp tiền tài với bạn bè, nguyên nhân cũng bởi chuyện vay mượn nhau. Hãy cẩn thận, chở để diễn ra vở bi kịch “tiền mất mà tình cũng tan”.Nếu mơ thấy ánh sáng mặt trời khi tối khi sáng, ch
Mơ thấy ánh nắng trong mưa: Sẽ xảy ra tranh chấp tiền tài –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ánh nắng trong mưa: Sẽ xảy ra tranh chấp tiền tài –

6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn

Nếu năm mới gặp những điều báo hiệu may mắn thì hy vọng cả năm sẽ tốt lành, ngược lại sẽ xui xẻo không ít.
6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng có kiêng có lành”. Vì thế, trong những ngày Tết, người Việt đặc biệt cẩn trọng trong mọi việc.

6 diem lanh bao hieu nam moi may man hinh anh
Ngày Tết, nếu thấy hoa mai nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may

6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn:
 
Cây quất tứ quý   Nhiều người quan niệm nếu ngày Tết nhìn thấy cây quất của gia đình có đủ Tứ quý: Quả xanh, quả chín, hoa, lộc thì cả năm sẽ gặp nhiều may mắn, phúc lộc.   Hoa đào nở kép   Từ sau đêm Giao thừa cho tới sáng mùng Một Tết, nếu hoa đào nở kép, hoa thắm, có ba lớp trên đài như hình dáng bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc cho gia đình.   Hoa mai nở 6 cánh   Có câu "Hoa khai phú quý". Ngày Tết, nếu thấy hoa mai nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Nếu có một vài bông hoa nở 6 cánh nữa thì trong năm càng gặp nhiều may mắn và an lành.   Nhặt được đồ   Đầu năm nhặt được tiền (của rơi) là báo hiệu điềm may mắn. Tuy nhiên, nếu là đồ vật có giá trị hoặc số tiền lớn thì nên tìm cách trả lại cho chủ nhân của nó. Bởi, sẽ không có gì tốt hơn là đầu năm làm điều phúc đức cho người và giúp tâm hồn luôn thanh thản.   Mặc quần áo trái   Nghe có vẻ buồn cười nhưng đây là dấu hiệu báo một năm mới may mắn và tốt lành. Tuy nhiên, điều này sẽ không đúng nếu như bạn cố tình mặc trái quần áo.   Chó chạy vào nhà   Tục ngữ có câu: “Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang”. Theo dân gian, khi chó chạy vào nhà sau Giao thừa hoặc sáng mùng Một, đặc biệt là chó lạ, thì gia đình sẽ gặp nhiều may mắn.

Sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 điềm lành báo hiệu năm mới may mắn

Bài trí sân vườn theo phong thủy: Những điều cần biết

Một ngôi nhà có sân vườn vừa đẹp vừa hữu dụng. Cùng xem những lưu ý cần biết để bài trí sân vườn theo phong thủy, mang sức khỏe, đón tài lộc về nhà nhé.
Bài trí sân vườn theo phong thủy: Những điều cần biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngôi nhà có sân vườn chẳng những đẹp mà còn rất hữu dụng. Nhưng bài trí sân vườn theo phong thủy ra sao thì chưa nhiều người tỏ tường. Cùng xem những lưu ý cần biết khi bài trí sân vườn để mang sức khỏe, đón tài lộc về nhà nhé.   Sân vườn bao gồm tất cả những thứ được bố trí trong khoảng sân trước và sau nhà, không chỉ cây mà còn cả các công trình kiến trúc phụ trợ như lầu hóng mát nữa. Phong thủy sân vườn cũng quan trọng không kém đối với vận thế của gia chủ. Sân vườn được thiết kế hợp phong thủy, không phạm phải những lỗi cấm kị về cách cục, bài trí sẽ giúp tài lộc ùn ùn kéo tới.   Vậy bạn đã biết cách để bài trí sân vườn theo phong thủy, không ảnh hưởng đến sức khỏe gia chủ mà còn rước tài lộc về nhà hay chưa? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu những điều nên và không nên trong bài trí sân vườn nhé.  

Phong thủy sân vườn: Có nên trồng cây to trong sân vườn?

  Quan điểm phong thủy truyền thống cho rằng, nếu trồng cây lớn ở vị trí trung tâm của sân vườn thì sẽ hình thành chữ “khốn” (困), tức cái cây bị vây giữa bốn bức tường, cũng giống như con người bị vây hãm, lâm vào cảnh khốn cùng. Làm như vậy sẽ ảnh hưởng rất xấu đến vận thế của gia chủ. Vậy quan điểm này có thực sự chính xác hay không?   Trước kia, do đất nước chúng ta là đất nước nông nghiệp, sân vườn chủ yếu dùng để phơi phóng ngũ cốc. Vì thế, nếu có cây to trong sân vườn thì lẽ dĩ nhiên, nó sẽ che bớt rất nhiều ánh nắng dùng để phơi khô ngũ cốc. Mà cây to thì rễ lớn, sẽ phá hỏng sự bằng phẳng của sân vườn, giảm bớt không gian để phơi phóng. Vì những nguyên nhân trên nên mới có quan điểm bài trí sân vườn theo phong thủy thì không nên trồng cây to.


san vuon theo phong thuy 5
 
  Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, hình thức kinh tế cũng dần thay đổi, tác dụng của sân vườn cũng không chỉ gói gọn trong việc phơi phóng ngũ cốc như trước nữa. Chính vì thế mà trong thiết kế sân vườn hiện đại, trồng cây trong sân vườn không còn được xem là phạm lỗi phong thủy, khiến gia chủ bị vây hãm, khốn cùng nữa.

Có thể bạn quan tâm: Bố trí sân vườn hợp phong thủy cho mọi hướng.
  Cây cối hoa cỏ vốn là tinh khí của đất trời, là tinh linh cho đất mẹ sinh ra, là biểu tượng cho Đất. Tuy nhiên, nếu trồng cây không đúng cách, đặc biệt là những cây thân gỗ cao to thì có thể sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe và đời sống của gia chủ, không đúng với mục đích sử dụng thực tế của sân vườn. Thông thường, sân vườn không thích hợp trồng cây quá lớn, giá trị sử dụng không cao mà lại có quá nhiều điểm bất tiện, cụ thể như sau:


san vuon theo phong thuy 2
 
  Trồng cây lớn trong sân vườn, chắc chắn cây xòe bóng mát nhưng cũng đồng nghĩa vói việc ngăn cản việc hứng sáng vào nhà. Thân cây cao, tán rộng có thể sẽ che kín ánh sáng mặt trời vào tới cửa sổ, khiến cho ngôi nhà và các căn phòng đều âm u, tăm tối và ẩm thấp, không tốt cho sức khỏe của gia chủ.   Trồng cây lớn trong sân vườn còn không tốt cho việc thông gió. Cây lớn sẽ là vật cản trở luồng không khí tươi mát lưu thông giữa nhà ở và sân vườn, khiến cho khí ẩm và mùi hôi trong nhà không thể nhanh chóng bị xua tan bởi gió. Tất nhiên, khi đó cả căn nhà sẽ bị ẩm ướt, không tốt cho sức khỏe, dễ gây các bệnh phong hàn, bệnh về đường hô hấp…   Trồng cây lớn trong sân vườn còn không tốt ở chỗ, rễ cây lớn phát triển rất mạnh, chúng đào sâu xuống lòng đất để tìm nước và chất dinh dưỡng cho cây, dễ dàng phá hỏng thế đất cũng như ảnh hưởng đến sự an toàn của căn nhà khi nền móng bị rễ cây làm suy yếu.


san vuon theo phong thuy 1
 
  Còn nếu sân vườn nhỏ mà vẫn trồng cây lớn thì nó sẽ chiếm không ít diện tích của sân vườn, khiến cho sân vườn nhà bạn trở nên nhỏ hẹp. Ngoài ra, cây đến mùa rụng lá, chỉ một cơn gió cũng khiến mảnh sân ngập trong lá khô, quét dọn không dễ, làm xấu cảnh quan cũng như không tốt về vệ sinh.   Vì thế, ngoài yếu tố phong thủy theo quan điểm truyền thống thì việc trồng cây to trong sân vườn thực sự rất bất lợi. Sân vườn trước kia ngoài để phơi phóng thì còn là nơi ngắm cảnh, ngày nay nó là nơi để gia đình sum họp, là sân chơi của trẻ trong nhà. Xét cả yếu tố thực tế và phong thủy thì sân vườn trồng cây lớn đều không mang lại nhiều lợi ích, bạn hãy cân nhắc thật kĩ trước khi thực hiện.

Bạn đã biết Những cấm kị phong thủy khi bố trí sân vườn chưa?
 

Phong thủy sân vườn: Có nên rải nhiều đá trong sân vườn?

  Đá cuội vốn được coi là vật trang trí cho sân vườn. Một số gia đình có sân vườn to rộng còn đặt cả những bộ bàn ghế ngồi hóng mát bằng đá, vừa hữu dụng lại vừa tăng độ phong nhã của khu vườn. Song theo quan điểm phong thủy truyền thống, nếu số lượng đá trong vườn quá nhiều, lại mang hình thù kì quái thì sẽ khiến cho căn nhà nằm trong sân vườn giống như nám mồ, cực kì không tốt cho gia chủ. Trên thực tế, cho dù là xét trên góc độ phong thủy hay góc độ sử dụng thì bạn cũng không nên bài trí hay rải quá nhiều đá trong sân vườn.


san vuon theo phong thuy 4
 

Theo các chuyên gia phong thủy, nếu biết cách sử dụng thì cũng có thể dùng đá để cân bằng âm dương phong thủy sân vườn. Song nếu sân vườn rải quá nhiều đá sẽ khiến cho Thổ khí biến mất, đá sẽ khiến cho âm khí vượng, dương khí hư hao. 
 
Trong cuộc sống hàng ngày, khi tới mùa hè nóng bức, những viên đá nằm dưới ánh nắng mặt trời suốt cả ngày sẽ lưu giữ nguồn nhiệt rất lớn. Nếu sân vườn rải đầy đá hay bài trí nhiều đồ trang trí bằng đá, vậy thì nhiệt độ ở khoảng cách cao hơn mặt đất 1m sẽ đạt đến độ nóng kinh người, 50 độ C. Đá hút nhiệt tốt, lại tản nhiệt kém, ngay cả không khí mát lành ban đêm cũng bị hơi nóng từ đá tỏa ra xua tan, khiến con người có cảm giác bức bối khó chịu. Nhà có sân vườn mà mùa hè nóng bức ra sân hóng mát, ngược lại còn bị hơi nóng từ đá hun người, quả là bi ai! 


san vuon theo phong thuy
 
  Rồi mùa đông tới, những viên đá hút hết hơi ấm trong không khí ban ngày, khiến cho không gian xung quanh càng trở nên lạnh lẽo, gián tiếp khiến cho căn nhà của bạn càng thêm giá lạnh. Vào những ngày trời âm u, mưa nhiều, đá cuội rải sân vườn sẽ ngăn cản nước bốc hơi, cả khu vườn bị hơi ẩm bao trùm, căn nhà cũng không tránh khỏi cảm giác ẩm ướt.   Đá nghệ thuật đặt trong vườn nếu mang hình dạng kì quái như tượng người hay thú, hoặc ngay trước cửa ra vào có phiến đá lớn chắn đường thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý con người. Theo các nghiên cứu y học, có những loại đá mang từ trường rất phức tạp, tác động xấu đến tinh thần và sinh lý con người. Ngoài ra, còn một điểm nữa mà khoa học đã chứng minh, nếu sân vườn rải quá nhiều đá cuội thì khi đi dạo trên đó, bàn chân con người cũng không có cảm giác dễ chịu, còn dễ bị trẹo chân hay trượt ngã, rất nguy hiểm.


san vuon theo phong thuy 3
 
  Nói tóm lại, bài trí sân vườn theo phong thủy mà rải quá nhiều đá hay xếp đặt các viên đá làm cảnh quá nhiều thì hại nhiều hơn lợi. Tốt nhất, bạn nên lựa chọn những cách khác để khiến cho sân vườn nhà mình đẹp hơn. Nếu bạn thực sự thích dùng đá để trang trí sân vườn thì có thể tham khảo hai cách sau. Một là dùng đá đã được chế tác bởi bàn tay con người, làm thành các bức tượng điêu khắc đẹp và có ý nghĩa, làm bồn cây cảnh, đài phun nước hay hòn giả sơn… bài trí hợp lý xen lẫn với màu xanh của cây cỏ hoặc màu trắng của nước. Hai là khi rải đá lên sân vườn, cần cân nhắc kĩ lưỡng giữa tính thực tế và diện tích khu vườn. Nếu vườn lớn thì có thể rải đá với nhiều kích cỡ lớn nhỏ khác nhau, còn nếu vườn nhỏ thì nên tiết chế, chỉ rải đá vừa phải mang tính tượng trưng. Dù chọn cách nào, bạn cũng nên suy nghĩ và lựa chọn sao cho thật hợp lý, vừa có sân vườn đẹp mà lại hợp phong thủy.   Thiên Thiên

Ứng dụng thuyết Âm - Dương trong phong thủy sân vườn Bố trí tiểu cảnh hợp phong thủy cho ngôi nhà (phần cuối) Một vài lưu ý trồng cây cảnh sân vườn hợp phong thủy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí sân vườn theo phong thủy: Những điều cần biết

Nhìn hướng chọn màu cửa chính đẹp phong thủy

Nhiều người coi trọng hướng nhà mà bỏ qua màu cửa chính hợp phong thủy. Đây chính là sai lầm “chết người” khiến phong thủy nhà xấu đi.
Nhìn hướng chọn màu cửa chính đẹp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người coi trọng hướng nhà mà bỏ qua màu sắc cửa chính. Đây chính là sai lầm “chết người” khiến phong thủy nhà xấu đi.


► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

Nhin huong chon mau cua dep phong thuy hinh anh
 
Sự kết hợp hài hòa giữa hướng và màu sắc nơi cửa chính sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành cho ngôi nhà.
 
Đối với cửa chính thuộc hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, thuộc hành Thổ thì những gam màu như xanh lục, xanh da trời thuộc hành Mộc và hành Thủy như màu đen, màu xám, màu xanh biển sẫm là không phù hợp, vì Mộc - Thổ xung khắc, Thổ - Thủy xung khắc. Màu cửa chính hợp phong thủy là hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa sinh cho hành Thổ của hướng. Hoặc màu vàng, màu nâu thuộc hành Thổ, làm vượng cho hành Thổ của hướng.
 
Nếu cửa chính nằm ở hướng Đông hoặc Đông Nam, thuộc hành Mộc, cần tránh sơn màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim. Cũng không sử dụng cửa làm bằng kim loại, thuộc hành Kim bởi Kim khắc Mộc. Đồng thời, cũng cần tránh sơn cửa chính, cổng ngỏ màu đỏ, hồng, cam, tím thuộc hành hỏa, bởi hỏa sẽ làm suy kiệt năng lượng của hành Mộc ở hướng Đông hoặc Đông Nam. Chọn cửa gỗ, sơn màu xanh lục, xanh da trời, hoặc màu xám, màu xanh biển sẫm thì hợp phong thủy.
 
Hướng Tây và Tây Bắc thuộc hành Kim vì vậy màu đỏ, hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa là màu cửa nên tránh, vì Hỏa khắc Kim. Tốt nhất là sử dụng màu vàng, nâu thuộc hành Thổ sinh cho hành Kim của hướng. Hoặc màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim làm vượng cho hành Kim của hướng.
 
Xanh biển sẫm, xám, đen thuộc hành Thủy là màu phù hợp với cửa chính ở hướng Bắc vì hướng Bắc thuộc hành Thủy, làm vượng cho hành Thủy của hướng. Hoặc màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim sinh cho hành Thủy của hướng.
 
Tuy nhiên màu xanh nước biển sẫm, xám, đen thuộc hành thủy sẽ rất tối kỵ khi dùng cho cửa chính hướng Nam thuộc hành Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa. Màu cửa phù hợp cho hướng Nam là xanh lục, xanh da trời thuộc hành Mộc, sinh cho hành Hỏa hướng Nam. Hoặc màu đỏ, hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa, làm vượng cho hành Hỏa hướng Nam.
 
Tất nhiên màu của cửa chính của ngôi nhà, phù hợp sinh vượng với từng hướng như trên, trong điều kiện hướng đó là hướng tốt theo tuổi của gia chủ.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn hướng chọn màu cửa chính đẹp phong thủy

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Mỗi một con giáp sẽ đại diện cho một tính cách khác nhau. Vậy trong 12 con giáp, những con giáp nào được đánh giá sẽ trở thành những người chồng lý tưởng? Các chị em chúng ta cùng tìm hiểu nào!
Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1: Tuổi Dần.

Những người tuổi Dần đa số sống một cuộc sống đầy đam mê, cuốn hút. Nhờ có lòng quả cảm và sự hào phóng, họ luôn nhận được rất nhiều sự tôn trọng, kính nể.

Với bạn bè, những người tuổi Dần là những người bạn thú vị, chân thành, và dễ nhờ vả.

Với gia đình, họ là những người trụ cột vững chãi và làm vợ chàng trai tuổi Dần sẽ rất hạnh phúc. Mặc dù trong con người họ hơi gia trưởng và luôn thích người khác làm theo ý mình nhưng bù lại họ lại rất biết cách chăm sóc, quan tâm, luôn để ý đến từng chút thay đổi một của những người xung quanh họ. Chỉ thấy vợ không vui hay khó chịu, sức khỏe có vấn đề, người chồng tuổi Dần sẽ là người cùng buồn cùng vui và chăm sóc lo lắng cho bạn, dỗ dành vợ đến khi nào bạn vui vẻ trở lại mới thôi.

Do đó, trong 12 con giáp, các chàng trai tuổi Dần xứng đáng với vị trí Top 1 làm người chồng lý tưởng.

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Các bạn nữ hãy chú ý tới các chàng trai tuổi Dần nhé!

Top 2: Tuổi Tuất.

Được miêu tả như những nhân viên cần mẫn, những người tuổi Tuất yêu thích sự hoàn hảo đến từng chi tiết trong mọi công việc. Họ còn được coi là những người chân thành và đáng tin cậy nhất trong 12 con giáp.

Nếu bạn có một người chồng tuổi Tuất, bạn sẽ thấy rất tin tưởng vì họ là những người luôn biết lắng nghe những niềm vui và chia sẻ nỗi buồn, hoạn nạn với bạn. Bên cạnh đó, với trí thông minh, nhanh nhẹn của mình, người chồng tuổi Tuất còn đưa ra rất nhiều lời khuyên hữu ích cùng bạn vượt qua khó khăn.

Có một điều quan trọng nữa ở đàn ông tuổi Tuất mà ít ai làm được, đó là đàn ông tuổi Tuất là những người rất giỏi việc nhà. Họ không chỉ muốn chia sẻ tình cảm với bạn mà họ còn muốn chia sẽ, giúp đỡ bạn cả những công việc nhà. Tử vi 2016 đánh giá người tuổi Tuất là người chồng rất có trách nhiệm, luôn biết cách tạo cho vợ và con một mái ấm gia đình êm ả đầy cảm giác an toàn

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Vì thế nếu lấy được người đàn ông này là niềm hạnh phúc của các chị em đấy

Top 3: Tuổi Mùi

Không giỏi việc nhà như đàn ông tuổi Tuất, tuổi Mùi lại nổi bật là một người đàn ông rất lãng mạn và hài hước. Họ cũng là những người rất tài năng và có óc sáng tạo cao.

Nếu bạn lập gia đình với người tuổi Mùi, bạn sẽ thấy họ luôn biết cách để bạn hiểu được bạn là người rất quan trọng với cuộc sống của họ.

Một khi đã bước vào cánh cửa hôn nhân họ, bạn sẽ được tận hưởng một tình yêu, một biển trời đầy mật ngọt với những điều bất ngờ thú vị. Những món quà ý nghĩa, những bó hoa bất ngờ hay những cử chỉ âu yếm, những lời nói hài hước… vào các ngày lễ, dịp quan trọng.

Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Tất cả làm cho bạn cảm giác như mình là trung tâm của Trái đất. Tử vi hàng ngày dám khẳng định các cô gái, bà vợ khác chắc hẳn sẽ phát ghen với bạn đấy./


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp sẽ là những người chồng lý tưởng.

Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?

Bát tự có Tài vượng có đồng nghĩa với việc tiền tài dồi dào, phúc lộc đầy đủ hay không? Hãy cùng ## tìm hiểu về trường hợp tử vi này.
Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự có Tài vượng có đồng nghĩa với việc tiền tài dồi dào, phúc lộc đầy đủ hay không? Hãy cùng ## tìm hiểu về trường hợp tử vi này.


Bat tu Tai vuong co phai la so menh phat tai hinh anh
 
 1. Tài tinh và tài khố có mối liên hệ với nhau nhưng Tài tinh không phải tài khố nên bát tự Tài vượng chưa chắc là tài lộc đã tốt. Hơn nữa, xem bát tự còn phải căn cứ vào thuộc tính ngũ hành. Nếu Mộc là Tài tinh thì Mùi Thổ là tài khố, Kim là tài tinh thì Sửu Thổ là tài khố, Thủy là Tài tinh thì Thìn Thổ là tài khố, Hỏa là tài tinh thì Tuất Thổ là tài khố, nếu Thổ là Tài tinh thì Tuất Thổ là tài khố.   2. Mệnh chủ có phát tài hay không được quyết định bởi mệnh cục có Tài tinh đắc dụng hay không. Tài tinh đắc dụng hay không phải xem quan hệ giữa Tài tinh và tài khố là thuận hay nghịch, là sinh hay khắc.
Thế nào là mệnh cục hình khắc cha mẹ? Bát tự hòa hợp, hôn nhân như ý Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Kim là Tài, tài tinh là Kim đắc dụng, Sửu Thổ là tài khố, Thổ sinh Kim, tài khố sinh dụng thần Tài tinh nên lá số tử vi có tài lộc dồi dào.
  Mộc là Tài, tài tinh Mộc đắc dụng, Mùi Thổ là tài khố, Mộc khắc Thổ, Thổ háo Mộc nên tài khố tổn thương dụng thần tài tinh, số mệnh bất lợi đường tiền tài.
Bat tu Tai vuong co phai la so menh phat tai hinh anh
 
Thủy là Tài, Tài tinh Thủy đắc dụng, Thìn Thổ là tài khố, Thổ khắc Thủy, tài khố khắc dụng thần Tài tinh nên không có lợi cho tài lộc.
  Hỏa là Tài, Tài tinh là Hỏa đắc dụng, Tuất Thổ là tài khố, trong Thổ có Hỏa, trong Hỏa có Thổ, tài khố hóa tiết dụng thần Tài tinh nên không có lợi về tài lộc.   Thổ là Tài, Tài tinh là Thổ đắc dụng, Tuất Thổ là tài khố, Thổ vượng thì tài khố giúp đỡ Tài tinh, dụng thần được trợ giúp nên có lợi cho tài vận của bản mệnh.
Hướng dẫn 5 bước cơ bản để tự xem bát tự luận số mệnh Dạy cách xem bói thú vị bằng lược và bằng đũa Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thân Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát tự Tài vượng có phải là số mệnh phát tài?

Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa

Ngày sinh là một trong những yếu tố quan trọng của bát tự, tìm hiểu tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa để kiểm chứng điều này.
Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày sinh là một trong những yếu tố quan trọng của bát tự, xác định đặc điểm tính cách và những yếu tố chung ngay từ khi sinh ra. Tìm hiểu tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa để kiểm chứng điều này.

Dac trung tinh cach cua nguoi sinh ngay Binh Hoa hinh anh
 

1. Tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa

  Người sinh ngày Bính Hỏa tức là những người sinh vào các ngày có thiên can là Bính, ví dụ như ngày Bính Thân, Bính Tý, Bính Ngọ,… Để hiểu rõ hơn về thiên can, xem thêm bài viết Cơ sở hình thành thiên can địa chi.

Bính Hỏa là thiên can thứ 3 trong thứ tự 10 thiên can, thuần Dương Hỏa, khí thế mạnh, là Hỏa của Mặt Trời, hào quang rọi sáng, không thiếu chỗ nào. Hỏa này chấy hừng hực, có thể làm nóng chảy sắt, chứa đựng sự nhiệt tình rộng rãi, tâm ý ngập tràn.
  Ưu điểm trong tính cách của người này là phấn chấn nhiệt tình, tích cực lạc quan, tràn trề sức sống, sôi nổi hài hước, vô tư tự nguyện. Khuyết điểm tính cách của họ là ưa thích hư vinh, vui buồn thất thường, bảo thủ.   Người sinh ra trong ngày Bính rất giỏi giúp đỡ người khác, tính tình ngay thẳng, không độc ác, mồm miệng nhanh nhẹn, thích chọc ghẹo, xuất khẩu thành thơ, lúc nào cũng mang tới tiếng cười. Có ưu thế về giao tiếp, cùng người khác ở chung rất dễ, tâm trạng lúc nào cũng phấn chấn, hướng về phía trước.   Mặt khác, tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa là nôn nóng vội vàng, hiếu thắng, làm người quá bá đạo, thiếu nhẫn nại, đầu voi đuôi chuột, không chú ý những chi tiết nhỏ lại tùy ý, không có kế hoạch cụ thể. Nhiều khi người này hành động không để ý tới cảm nhận của người khác, nói nhiều khiến người ta khó chịu.   Với tinh lực dồi dào như ánh mặt trời, người này có chí tiến thủ mạnh, lúc nào cũng sẵn sàng theo đuổi lý tưởng của bản thân tới cùng cộng thêm tài trí hơn người nên có cơ hội thành công rất lớn. Nhưng vì thiếu sự điềm tĩnh, dễ kích động nên công việc bỏ dở giữa chừng, lại cậy mình thông minh nên lười biếng, cho rằng bản thân như vậy là đủ rồi, gặp thất bại sẽ bất ngờ.   Người sinh ngày Bính Hỏa trời sinh phóng túng, hành động buông thả, tiêu tiền không suy nghĩ. Bạn cho rằng tiền bạc kiếm càng nhiều thì phải tiêu càng nhiều, có tiền không tiêu không phải đạo lý nên bình thường sẽ chẳng chút do dự mà phung phí, tiêu bạt mạng, mua cả những đồ không cần thiết về nhà. Tôn trọng đặc tính tự nhiên của bản thân, người này nếu phát huy được những ưu điểm trong tính cách, tự lực cánh sinh thì mới chân chính có cuộc sống tốt nhất. Nếu bạn muốn có cuộc sống vô lo vô nghĩ thì hãy phải tạo ra bầu không khí thoải mái, hoa lệ xung quanh mình; nếu hẹp hỏi, thiếu giao tiếp thì hào quang biến mất. Hưởng thụ nhân sinh đẹp nhất là tự do tiền bạc, tiêu tiền mình kiếm. Xem thêm Xem tử vi quý nhân vận theo ngày sinh siêu chuẩn   Về phương diện tình cảm, người này ít khi có mối tình lâu dài vì ngọn lửa nhiệt tình lập tức thiêu rụi ngay từ những giây phút ban đầu. Bất kì mối quan hệ nào cũng nhanh đến nhanh đi, tiêu chuẩn là yêu nhau trong vòng 3 phút. Là người coi trọng cảm giác đầu tiên, coi trọng ngoại hình, người sinh ngày Bính Hỏa có thể dũng cảm theo đuổi người mình thích.
Dac trung tinh cach cua nguoi sinh ngay Binh Hoa hinh anh
 
Nhưng họ là người buông thả, phong lưu, tình yêu chỉ là một cơn gió, cả đời theo đuổi mục tiêu mới mẻ. Thế nên đừng hi vọng quá nhiều vào sự thủy chung và chuyên nhất của người này, cũng vì lẽ đó mà họ chưa chắc đã có một cuộc sống yên bình, hạnh phúc như họ hằng mong muốn.

Xem thêm: Đặc điểm nổi bật về tính cách của người tuổi Bính Dần

2. Đặc trưng của người sinh ngày Bính Hỏa

  Nhiệt tình hữu lễ, thích chăm sóc người khác, dễ nảy sinh tình cảm chiều chuộng trẻ con và đối xử tốt với cấp dưới.   Tình cảm phong phú nhưng không thích thể hiện bằng ngôn ngữ, tâm tình thay đổi nhanh chóng.   Dễ quên, cẩu thả, làm đâu bỏ đó, đồ đạc lung tung, mất mát thường xuyên.   Là người trung thực, biết lắng nghe nhưng nước đổ đầu vịt, hoàn toàn không coi là gì, ý mình mình làm.   Không kiên trì, không biết nhẫn nại, không giả tạo. Với người mình yêu mến thì sẵn lòng giúp đỡ, với người mình không ưa thì không thèm liếc một cái.   Thẳng tính, sĩ diện, tùy cơ ứng biến, cấp tiến không lùi.   Luận đoán số mệnh người tuổi Tân Mùi - Lộ Bàng Thổ Ngày Nguyệt Kỵ: “Mùng 5, 14, 23, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn” Ngày Tam Nương là ngày gì, Tam Nương năm 2017 cần kiêng kị những gì? Kiến giải vận trình của người sinh giờ Tý
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc trưng tính cách của người sinh ngày Bính Hỏa

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

9 đường vân tay nhiều tiền lắm của

Nếu có một trong những đường vân tay nhiều tiền dưới đây, mệnh chủ không giàu thì sang, hưởng cuộc sống trải đầy vinh hoa phú quý.
9 đường vân tay nhiều tiền lắm của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu có một trong những đường vân tay nhiều tiền dưới đây, mệnh chủ không giàu thì sang, hưởng cuộc sống trải đầy vinh hoa phú quý.

9 duong van tay nhieu tien lam cua, phu quy duoi theo am am hinh anh
9 vân tay mang lại sự giàu có

1. Vân Tài vận

  Vân Tài vận chính là đường vân nằm ngay dưới ngón tay đeo nhẫn kéo dài theo phương thẳng đứng xuống phía lòng bàn tay.

Người có đường vân Tài vận thường có tài kinh doanh buôn bán thiên bẩm, nếu làm trong lĩnh vực này thì tiền tài nhiều như nước, dồi dào mãi không cạn. Ngoài ra, người này cũng giỏi về các giao dịch tài chính khác.
 

2. Vân hình sao

  Theo Nhân tướng học, nếu trên bàn tay có vân hình sao nằm ngay gò Thủy Tinh (bên dưới ngón tay út) là dấu hiệu phát tài bất ngờ, dù là nguồn chính tài hay phụ tài đều tăng đột biến. Ngoài ra, con cái của người này cũng có tài vận tốt, cuộc sống sung túc, giàu có. Theo đó, người này được hưởng phúc lộc con cháu khi về già.

 

3. Vân hình chữ 井 (Tỉnh)

  Ngay trên gò Mộc Tinh (dưới ngón tay trỏ) có vân hình chữ井 (Tỉnh) hoặc chữ 十 (Thập)… cho biết chủ nhân của bàn tay này có sức ảnh hưởng lớn trong sự nghiệp, do đó gặt hái được nhiều thành công, tài phúc trong cuộc đời.

4. Vân hình chữ 田 (Điền)

  Nếu trên đường chỉ tay Sự nghiệp và cạnh đường Sinh mệnh có vân hình chữ 田 (Điền) là dấu hiệu cho thấy mệnh chủ thích hợp với những ngành nghề như bất động sản, khoáng sản hoặc làm luật sư, chuyên gia tư vấn, chuyên viên đào tạo…cũng dễ phát tài phát lộc, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.

Có thể bạn quan tâm: Xem tướng tay của người được hưởng phú quý sau khi kết hôn
 

5. Vân Hào trạch

  Vân Hào trạch hay còn gọi là vân Kim phòng tử, nằm phía dưới ngón tay đeo nhẫn. Người có đường vân này có số may mắn về tài lộc, dễ phát đại tại, nhiều cơ hội kiếm tiền, dễ kinh doanh xuyên ngành, sở hữu công ty hoặc tập đoàn lớn…  

6. Vân đen

  Thoạt nhìn vân đen này giống như nốt ruồi đen, tuy nhiên nó có kích thước lớn hơn nhiều so với nốt ruồi. Người có vân đen dễ phát tài phát lộc, số mệnh cũng giàu sang phú quý. Tuy nhiên, khi nắm bàn tay một cách tự nhiên, vân đen này phải nằm gọn trong lòng bàn tay, nếu lộ ra ngoài sẽ không tốt.  

7. Vân Công ấn

  Theo thuật xem tướng bàn tay, sở dĩ có tên là vân Công ấn vì nó có hình dạng như chiếc ấn tròn dùng để đóng dấu trong công việc. Người có vân Công ấn ở bàn tay (vị trí ngay dưới ngón tay cái) rất thích hợp làm công việc trong cơ quan chính phủ hoặc những việc có liên quan, tiếp xúc với bộ máy cấp cao của nhà nước. Theo đó, người này có cuộc sống giàu sang, phần lớn đều là đại gia và khá nhiều vợ.  

8. Vân Ngộ quý

  Vân Ngộ quý có nghĩa là gặp được quý nhân phù trợ. Trên bàn tay, đường vân này bắt đầu từ vị trí giao giữa Càn Cung và đường chỉ tay Sự nghiệp.

Người có vân Ngộ quý thường giỏi giao tiếp, cuộc sống gia đình hòa thuận, nhân duyên tốt, dễ gặp được người tương trợ, giúp sức cho sự nghiệp nên tiền đồ sáng lạng, công thành danh toại, dễ phát tài phát lộc.
 

9. Vân Tổ vệ

  Vân Tổ vệ hay còn gọi là Tổ tí, nằm ở vị trí nối giữa Khảm cung và đường chỉ tay Sự nghiệp, có nghĩa là được tổ tiên che chở, hậu thuẫn. Đa phần người có vân này đều được thừa hưởng sản nghiệp của tổ tiên để lại nên dễ dàng thành đạt và giàu có.   Việt Hoàng (Theo DYXZ)
Xem tướng tay của người nợ như chúa chổm Nét tướng tay báo hiệu chủ nhân vượng vận đào hoa cả đời Đoán biết thành công hay thất bại trên bàn tay bạn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 đường vân tay nhiều tiền lắm của

Tướng người chung thủy

Các biểu hiện sau đây càng có nhiều thì người đó càng chung thủy trong tình yêu, bao gồm các dấu hiệu trên thân thể, khuôn mặt, dáng điệu, trên tay chân và nốt ruồi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA KHUÔN MẶT, DÁNG HÌNH của Đặng Xuân Xuyến -

Theo thuật xem tướng của người phương Đông thì bất luận là nam hay nữ, nếu tập trung nhiều dấu hiệu được liệt kê dưới đây thì đấy là mẫu người chung thủy trong tình yêu.

chung thủy trong tình yêu

1. BIỂU HIỆN TRÊN THÂN THỂ

- Đầu tròn nhưng hơi mảnh dẻ và cổ cao.

- Đầu tròn vừa. Cổ tròn nhưng không nổi gân.

- Đầu suôn nhọn như hình quả trứng.

- Đầu to nhưng thân mình lại nhỏ. Hoặc đầu lớn nhưng đầu lại vuông.

- Tóc đen, chân tóc khít rậm và to sợi.

- Tóc mềm nhưng lại nằm rạp xuống đầu.

- Tóc mềm sợi và lượn sóng.

- Hai bên mang tai có xương nổi cao.

- Cổ tròn, vững và tương đối xứng với đầu và vai.

- Vai nở rộng và eo lưng đầy đặn.

- Ngực nẩy nở vừa phải và dài.

- Phụ nữ vú lớn nhưng không xệ xuống. Núm vú hướng lên phía trên.

- Bụng đầy đặn và hướng lên phía trên.

- Rốn cao lên phía trên, cách xa hạ bộ.

- Tiểu tiện vọt như hạt châu (tua ra như mưa).

- Lông ở âm bộ và dương bộ mượt, mọc không quá nhiều. Đàn bà thì âm bộ hướng lên trên.

2. BIỂU HIỆN TRÊN KHUÔN MẶT, DÁNG ĐIỆU

- Hai mắt tròng đen nhiều, tròng trắng ít.

- Nếu là phụ nữ mắt bên phải nhỏ hơn mắt bên trái, còn nếu là đàn ông thì mắt bên trái nhỏ hơn mắt bên phải.

- Hai mắt lớn, tươi sáng và có thần.

- Chân mày to và đầy đặn.

- Lông mày mọc rủ quắp xuống mắt.

- Tai cứng và mọc cao.

- Hai tai lớn, dầy, cả hai lỗ tai cùng lớn.

- Lưỡng quyền thon nhỏ và ít thịt.

- Lưỡng quyền là hai gu xương nổi thấp, má no đầy nhưng không xệ.

- Trán cao, tròn hơi dô và có vài nếp nhăn cách xa chân lông mày.

- Thân mũi dài, to đều đặn, sống mũi có chiều hơi cong.

- Sống mũi nhỏ, đầu mũi to và tròn.

- Mũi to nhưng cân xứng với khuôn mặt, đầu lỗ mũi to nhưng tròn đẹp, hai cánh mũi nở.

- Nhân trung sâu, rộng như cái máng và tươi sáng. Hoặc nhân trung dài, rộng và ngay ngắn.

- Nhân trung bề ngang hơi hẹp nhưng dài và sâu.

- Khóe miệng hai bên hướng lên trên.

- Miệng ngay ngắn, hai môi đều có lằn vạch đứng.

- Môi trên, môi dưới hài hòa, cân xứng và cùng hướng lên phía trên.

- Hai môi vừa dầy và đều đặn.

- Ngủ thường nằm nghiêng, tay đặt lên người, dáng người ngay ngắn.

- Dáng điệu từ tốn, khoan thai, chắc chắn.

3. BIỂU HIỆN TRÊN TAY, CHÂN

- Cánh tay phía trên hơi gầy, nhỏ, dưới bắp tay đến cườm hơi mập, lớn.

- Cánh tay dài, nhỏ, không cân xứng với dáng hình.

- Bàn tay ướt và gò Kim Tinh nổi cao.

- Bàn tay gầy và mềm yếu.

- Bàn tay khuyết lòng nhưng ngón tay tròn trịa, no đủ.

- Bàn tay mềm nhưng hơi thô kệch.

- Bàn tay cứng và có phần hơi thô.

- Các đầu ngón tay tròn trịa hoặc vông vức, nghiêm chỉnh.

- Lòng bàn tay có ít đường chỉ chằng chịt, rối loạn.

- Móng tay dài và cứng nhưng không dễ gẫy.

- Bàn tay có sắc đỏ đậm hoặc hồng nhạt.

- Phía sau lưng bàn tay có nhiều lằn nhăn.

- Phía sau lưng bàn tay có những chỗ lòm hóp.

- Gò Kim Tinh được no đầy và hồng hào.

- Chân nhỏ, ít nổi gân, ít thịt và xương.

- Bàn chân hơi cong và có ít lông.

- Bàn chân có lũm (lõm) và cứng rắn.

- Các ngón chân cân xứng, đều đặn nhau.

4. BIỂU HIỆN TRÊN NỐT RUỒI

- Nốt ruồi mọc ở gò má bên trái.

- Nốt ruồi mọc ở tại yết hầu, gu xương giữa cổ.

- Nốt ruồi mọc ở dưới gan bàn chân.


(Trích trong KHÁM PHÁ BÍ ẨN CON NGƯỜI QUA KHUÔN MẶT, DÁNG HÌNH của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

khám phá bí ẩn con người qua khuôn mặt dáng hình

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa
  • Khám phá bí ẩn con người qua khuôn mặt dáng hình - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người chung thủy

Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Tết Nguyên Đán lễ hội tết cổ truyền Việt Nam, 23 tháng chạp cúng ông Táo, đêm giao thừa cúng giao thừa ngoài trời, cúng giao thừa trong nhà, xông đất
Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết nguyên đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.

Tết nguyên đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội tết cổ truyền Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.

Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới.

Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.

Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…

Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.

Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày cúng ông Táo để đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.

Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).

pháo hoa đêm giao thừa tết nguyên đán việt nam
pháo hoa đêm giao thừa tết nguyên đán việt nam

Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!

Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.

Sau lễ đêm giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.

Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.

Tục Lệ Trong Ðêm Giao Thừa

Trong Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ.

Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.

Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng.

Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn.

Hương lộc: Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.

Xông nhà: Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Lý giải lá số: giải mã bí ẩn cuộc đời

Một bài viết rất hay về phương pháp giải đoán lá số tử vi của tác giả Lâm Canh Phàm. Mời các bạn cùng đọc tham khảo
Lý giải lá số: giải mã bí ẩn cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Tử vi đẩu số khi các lá số được sắp xếp, điều quan trọng nhất là xem cát hung của cung Mệnh, xem có được sinh vượng (cung vị của Trường sinh, Đế vượng), Mộ khố (cung Sửu là Kim khố, cung Mùi là Mộc khố, cung Thìn là Thủy khố, cung Tuất là Hỏa khố), sao Lộc tồn và sao Thiên mã rơi vào Không vong hay không, trong đó lấy sao Địa không, sao Tiệt lộ Không vong là đáng ngại nhất, Tuần không xếp ở vị trí thứ hai. Sao Mệnh chủ phạm Không vong là bất lợi nhất, sau đó sao Thân chủ phạm Không vong xếp ở vi trí tiếp theo. Sao Lộc tồn phạm Không vong, thì phát cũng không liền; sao Thiên mã phạm Không vong, thì cả đời bôn ba, mà tốn công vô ích. Nếu sao Lộc, Mã, Mệnh chủ và Thân chủ phạm Không vong, nhất định phải dựa vào thuộc tính Ngũ hành của cung vị của sao đó để phán đoán cát hung. "Kim không sẽ kêu", "Hoả không sẽ phát", đại hạn và tiểu hạn gặp phải mà được phúc. "Thủy không thì trôi nổi, Mộc không thì gãy, Thổ không thì sụt lún".

Tiếp đến là xem nạp âm mệnh chủ của Ngũ hành cục của bản mệnh thuộc sao nào. Mệnh Thủy nhị cục, lấy sao Phá quân là nạp âm mệnh chủ; mệnh Mộc tam cục, lấy sao Tham lang là nạp âm mệnh chủ; mệnh Kim tứ cục, lấy sao Vũ khúc làm nạp âm mệnh chủ; mệnh Thổ ngũ cục thì lấy sao Cự môn làm nạp âm mệnh chủ; mệnh Hỏa lục cục thì lấy sao Liêm trinh là nạp âm mệnh chủ. Lấy hung cát mà nạp âm mệnh chủ rơi vào vị trí của cung để phân biệt họa phúc, cát hung. Nếu cung vị đó là sinh vượng, hoặc tại cung vị của quý nhân (vị trí cung của sao Thái dương, Thiên khôi, Thiên việt) và đồng cung với Lộc tồn là cát lợi. Nếu cùng cung với sao Thất sát, Kình dương là mệnh hạ đẳng.

Sau đó, lấy sao Mệnh chủ làm chủ, sao Thân chủ làm phụ tá, dựa vào hung cát mà nó rơi vào vị trí của cung để phán đoán phú, quý, hèn, sang. Tiếp theo, xem vận cát hung của sao Tử vi và Thiên tướng rơi vào vị trí của cung. Nếu sao Tử vi gặp hung, sát tinh thì phải xem hung cát mà Linh tinh, sao Vũ khúc sở tại vị trí của cung, qua đó mới có thể phán đoán là mệnh phú quý hay không. Người thuộc mệnh quý, ắt phải xem mức độ miếu, vượng của sao Thái dương; người thuộc mệnh phú, ắt phải xem độ sáng tối của sao Thái âm. Nếu như sao Thái dương tọa mệnh cung Dậu, Tuất, Hợi, Thái âm ở Thìn, Tỵ, Ngọ, mệnh này không thể giữ được những gì đã có, phải rời xa quê hương xuất ngoại mới có cơ hội phát triển, cải biến vận mệnh. Người thuộc mệnh nghèo hèn cũng phải xem cát hung của cung Mệnh.

Trong lá số, nếu cung Mệnh tốt, gặp lưu niên, đại tiểu hạn tốt, không gặp bất cứ trở ngại nào, tự nhiên sẽ phát vượng, cả đời sung túc. Đó là mệnh phú quý.

Trong lá số, nếu cung Mệnh kiên cố, bền vững làm cho vận mệnh không được như ý, nhưng vẫn được bình an vô sự là mệnh bình ổn.

Trong lá số, nếu cung Mệnh không gặp cát tinh, không thể kiên cố, lại gặp ác tinh, sát tinh phần lớn đều do xuất thân nghèo hèn. Nếu có thế phát tài bình ổn, cũng là do gặp 10 năm đại hạn tốt, 10 năm sau lại dần dần lụi bại, tài tán nhà tan, gặp phải việc không như ý, là mệnh nghèo khổ, bần cùng.

Nếu con người từ khi sinh ra đã giàu có mà không bị phá hoại, hưởng phúc đến già, đây ắt là do mệnh, hạn tương hợp, từng bước tiếp cận, nâng đỡ nhau, sao nhập cung miếu 5, 10 năm cũng không thất vận. Nếu người sinh ra đã được vui vẻ, hưởng phúc, vợ vinh con quý, đến trung niên lại gặp tai ương, hao người tốn của, hoặc thương vong, nhất định do trụ không vững, hoặc xuất hạn giao hạn, từ cát chuyển thành hung, trung niên phạm sát tinh chiếu mệnh hạn, hoặc sao rơi vào cung lạc hãm, lại thêm Thái tuế gặp hung, vận hạn đến đó, không nghèo khổ thì cũng chết yểu. Nếu một người sinh ra đã nghèo hèn, ban đầu rất gian khổ, đến trung niên trở nên vượng phát, tài lộc như ý, uy quyền xuất chúng, đều do sinh tại trung cục, các sao vận hạn trung niên đều mạnh, lại thuộc miếu vượng, là mệnh trước khổ mà sau sướng.

Vận mệnh phú quý của con người đã định sẵn trong bản mệnh mỗi con người, làm sao có thể phân biệt được sinh tử? Với vấn đề này, trước tiên phải xem đại hạn và xem tiểu hạn. Đại hạn chủ về phúc họa trong vòng 10 năm, tiểu hạn chủ về thăng trầm trong vòng 1 năm. Đại vận suy, thì 10 năm sẽ rơi vào lận đận khốn khó, cho dù tiểu hạn được vượng cũng chỉ hưởng phúc trong 1 năm.

Đại hạn đã suy, tiểu hạn cũng không có tác dụng gì. Đại hạn tốt tiểu hạn xấu không quá đáng lo ngại. Vì thế, cho dù lưu niên không lợi nếu đại hạn vững vàng, kiên cố, tai họa sẽ giảm nhẹ đi. Nếu luận sinh tử trước hết xem cung Mệnh có sát tinh không. Nếu Thái tuế lưu sát giao hội đối xung vị trí của cung tiểu, đại hạn, mà sao Tử vi, sao Lộc tồn đều là lạc hãm, lại chịu sự kiểm soát của Không vong, lúc này nếu 3 sao Tử vi, Thiên tướng ấn tinh, Lộc tồn tài tinh tam hợp hội chiếu, có thể giải trừ được tai ách, tuy bại mà không nguy; nếu không, sẽ gặp tai họa có liên quan đến tính mạng.

Cách cục của lá số vừa xác định, có thể dựa vào Chính tinh của cung Mệnh, đế đoán định tính cách của bản mệnh. Nếu cung Mệnh, một tinh cấp, một tinh chậm, lại có thể phán đoán được tính cách bất thường của họ, thiện ác khó phân định, ba phải, thiếu lập trường quan điểm. Nếu cát tinh nhập cung Mệnh, thì chủ nhân có tính cách nhân từ, phúc đức, là cách cục thượng hảo. Nếu ác tinh, sát tinh nhập cung Mệnh, thì bản tính ác độc ngang ngược. Ngoài ra, nếu có thể tham khảo quan hệ sinh khắc của Ngũ hành, thì suy đoán vận mệnh càng thêm tỉ mỉ, chính xác.

Khi sử dụng Ngũ hành phải xem xét mối quan hệ sinh khắc giữa đôi bên, lại xem chúng rơi vào cung nào. Nếu ngũ hành của sao Thất sát thuộc Hỏa, nếu rơi vào cung Dần, Dần thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa. Ngũ hành của sao Vũ khúc thuộc Kim, nếu đồng cung với sao Thất sát, Hỏa của sao Thất sát khắc chế Kim của sao Vũ khúc, sao Vũ khúc không thể phát huy được vai trò. Nếu Kim nhập Hỏa, là chịu hạn chế; nếu Kim nhập Thổ là đắc địa.

Bất luận con người có vận mệnh phú, quý, sang, hèn, nếu mệnh rơi vào cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi trong lá số, chủ về sự vất vả. Nếu lại giao hội các sao động như Thiên mã, Thiên cơ, Thái âm, Thái dương..., thì đặc tính của mệnh vất vả, gian truân càng nổi bật. Nếu mệnh rơi vào cung Tý, Ngọ Mão, Dậu, chủ về bất lợi, hiếu sắc, thích giao du, đàng điếm, chuyện tình duyên cả đời lận đận, lại gặp các sao đào hoa như: Tham lang, Liêm trinh, Thiên diêu, Hàm trì, Hồng loan, thì đặc tính đào hoa càng nổi trội. Nếu mệnh rơi vào cung Thìn, Tuất, Mùi, Sửu thì chủ về hình (hình khắc), cá tính bảo thủ, cô độc, rời xa quê hương, nếu lại gặp sao Phá quân, Cự môn, thì tính cách cô độc. Do cung Thìn và cung Tuất là Thiên la, Địa võng, ngưòi thuộc cung này nhất định muốn phá vỡ khuôn khổ và nguyên tắc, vì thế đặc tính tha hương càng thể hiện rõ.

Ngoài ra, 12 cung vị trong lá số, đều có thuộc tính ngũ hành riêng. 12 Địa chi của năm sinh cũng có những hợp kỵ không giống nhau. Vì thế, vị trí của cung Mệnh, Thái tuế, lưu niên và đại, tiểu hạn mà chúng tiến đến gần, hung cát họa phúc của chúng có liên quan đến năm sinh của con người.

(Tử vi đẩu số nhập môn - Lâm Canh Phàm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải lá số: giải mã bí ẩn cuộc đời

Top 5 con giáp dễ bị lừa trong ngày cá tháng tư

Thông minh và tinh ranh như người tuổi Tý lại có thể dẫn đầu danh sách con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư ư? Cùng xem thực hư ra sao nhé.
Top 5 con giáp dễ bị lừa trong ngày cá tháng tư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Thông minh và tinh ranh như người tuổi Tý lại có thể dẫn đầu danh sách con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư ư? Chính xác, vì có câu “thông minh phản thông minh”, vì muốn đạt được nhiều nên phải suy nghĩ nhiều, hoài nghi vô kể, đôi khi tự sập bẫy của chính bản thân mình.


Top 5 con giap de bi lua trong ngay ca thang tu hinh anh
 
No5. Người tuổi Ngọ


Nhân lúc người tuổi Ngọ trong 12 con giáp còn “tâm hồn treo ngược cành cây”, mơ màng về một nơi xa xăm nào đó, nếu bạn thực hiện chiến dịch công kích ngày Cá tháng Tư, đảm bảo chắc chắn con giáp này dễ dàng “chui đầu vào lưới”.

Bản tính người cầm tinh con Ngựa vốn phóng khoáng, không để tâm chuyện nhỏ nhặt. Vì thế, nếu có bị chơi khăm trong ngày này, họ cũng cười xuề xòa rồi bỏ qua hết, tất cả chỉ là vui vẻ thôi mà.

No4. Người tuổi Tỵ

Sức “miễn dịch” của người tuổi Tỵ với những trò đùa tinh quái có vẻ không cao. Đây cũng là một trong những con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư nhất.

Top 5 con giap de bi lua trong ngay ca thang tu hinh anh 2
 
Chỉ cần bạn nhắc “trúng tim đen” về đối tượng mà con giáp này đang thầm thương trộm nhớ, ắt họ sẽ sập bẫy trong sự vui mừng khôn xiết.

No3. Người tuổi Thìn

Dù rất tỉnh táo và có sự phòng bị nhất định trong ngày Cá tháng Tư, nhưng người tuổi Thìn lại không ngờ rằng, những đứa bạn thân lại có thể chơi khăm mình đến vậy.

Ăn món ăn có mùi vị lạ, uống đồ uống không giống bình thường hay mặc một chiếc áo có những hình thù kỳ dị đằng sau... là điều mà con giáp này có thể phải trải qua trong ngày 1/4 đó.

Top 5 con giap de bi lua trong ngay ca thang tu hinh anh 3
 
No2. Người tuổi Mão

Sự thông minh, lanh lợi thường ngày của người tuổi Mão bỗng giảm đi trông thấy khi bị vướng vào những trò đùa tinh quái của bạn bè hay đồng nghiệp xung quanh ngày Cá tháng Tư.

Nếu không tinh ý, “Mão nhi” có thể ngồi vào chiếc ghế dính đầy tương cà hoặc có thể đánh răng với bàn chải đầy tương ớt... trò nghịch ngợm của những cô/cậu bạn cùng phòng.

Tại sao lại có ngày Cá tháng Tư?
Chúng ta vẫn biết ngày ngày 1 tháng 4 là ngày Nói Dối – hay ngày Cá tháng Tư. Vào ngày này, mọi người trên khắp thế giới được phép trêu đùa
No1. Người tuổi Tý

Thông minh và tinh ranh như người tuổi Tý lại có thể dẫn đầu danh sách con giáp dễ bị lừa trong ngày Cá tháng Tư ư? Chính xác, vì có câu “thông minh phản thông minh”, vì muốn đạt được nhiều nên phải suy nghĩ nhiều, hoài nghi vô kể, đôi khi tự sập bẫy của chính bản thân mình.

Lợi dụng sơ hở này, bạn bè có thể nghĩ ra nhiều trò tinh quái, thậm chí là có chút vô tâm dành riêng cho người tuổi Chuột. Có thể là hẹn bạn ở đâu đó rồi cho leo cây hoặc hứa hẹn trả số tiền vay nợ nhưng lại bắt bạn phải mời ăn uống một chầu ra trò.

Ngọc Diệp

3 con giáp dẫn đầu danh sách vận khí thăng cấp bất ngờ trong tháng 4
– Nếu tháng 3 trôi qua trong lặng lẽ, ảm đạm thì tháng 4 lại hứa hẹn nhiều niềm vui, sự may mắn bất ngờ ở mọi phương diện cho những con giáp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp dễ bị lừa trong ngày cá tháng tư

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd