Nằm mơ thấy mình giết người là có điềm gì? –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
ạ tiếp địa khí, đón lành tránh dữ. Cửa có vượng môn và suy môn. Cửa coi trọng chỗ thông với đường lớn, vì khí sinh hộ thượng, vừa mở cửa là khí vào ngay.
Làm cửa là cả một nghệ thuậtẻ Theo nguyên lý “tụ khí” của thuật phong thuỷ, cửa phải vừa đắc khí vừa tụ khí lại không được đóng chết khí. Do đó các nhà phong thuỷ thường dùng la bàn để dẫn khí theo vượng phương, rồi mới quyết định mở cổng lớn. cổng phía trong cổng lớn phải thiết kế theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh, tránh tương khắc. Nhưng các cổng lại không được bố trí cùng một hướng, vì như vậy “khí” sẽ bị đại lậu.
Người Phương Đông rất chú trọng kiến trúc và cảnh quan. Họ coi cửa sổ là nơi để quan thưởng cảnh tự nhiên, bồi bổ sức khoẻ, di dưỡng tinh thần. Do đó thuật phong thuỷ rất chú ý chọn hướng có sinh khí.
Các nhà Phong thuỷ còn cho rằng nhà lớn cửa nhỏ không hay, bất lợi cho thông khí, ra vào. Nhà nhỏ cửa to cũng không hay, tại cổng lớn tránh để đá dải trước.
Phía Nam nhà có cửa hoặc cửa sổ, tốt nhất nên có mái hiên che mặt trời.
Cửa sổ trên mái nhà không nên mở ở góc Tây Nam và Đông Bắc. Cũng không nên mở cửa quá nhiều vì dương khí quá thịnh.
Cửa sổ mở phía Bắc sẽ làm cho phụ nữ kinh nguyệt không đều.
Cửa cần phải mở, nước cần phải phóng ra, nếu thấy ở Phương Kiền, Khôn, cấn, Tốn, Dần, Thân, Kỷ, Hợi có núi vuông hoặc tròn trịa xinh tươi thì họ bảo khang ninh phú quý lâu dài không dứt.
Kích thước cổng và cửa rộng hay hẹp tuỳ ta lựa chọn, nhưng phải theo đúng thước tấc của cổ nhân, thì mới mong gia tài hưng thịnh. Tường vây ở hai bên cổng lớn không được thiên lệch, chếch xéo. Rất kỵ ba cửa thông liền một trục, sẽ bị tà ma, trộm cướp.
Mí cửa cao to mà tường vách thấp nhỏ là không thích hợp. Nếu cổng lớn mà vượt qua mí cửa, tai hoạ sẽ liên tiếp xảy ra, có tai hoạ kiện tụng, hình ngục, anh em bất hoàẻ cổng lớn, bên trái nhỏ hẹp, nữ nhân gặp nạn; nếu hai bên đều đặn, tiền tài mới tăng tiến.
Hàm răng nói lên tính cách của một người. Hàm răng và nụ cười vẫn luôn là những tiêu chuẩn không thể thiếu để thẩm định vẻ đẹp của một người. Qua hàm răng ta còn có thể coi bói xem được chủ nhân là người thế nào.
1. Coi bói qua hàm răng hạt lựu
Phụ nữ có răng hạt lựu là đẹp nhất. Đặc điểm của kiểu răng này là có hình dạng giống như hạt lựu, ngắn, vuông và xít nhau, hơn nữa răng lại trắng và chắc. Chủ nhân hàm răng này là người thông minh. Là con trai thì có quý phúc; là con gái thì hiền thục, lấy được chồng giàu sang, cuộc sống an nhàn, hạnh phúc trọn đời.
2. Coi bói qua hàm răng rồng
Nam giới có răng rồng là đẹp nhất. Đặc điểm của kiểu răng này là răng cửa rất dài và trắng, hàm răng có hơn 32 chiếc. Cộng với dáng hình cao lớn, mặt, mũi và tai đều dài thì gọi là “long hình”, chủ nhân chắc chắn là người đại phú đại quý.
3. Coi bói qua hàm răng hổ
Đặc điểm của răng hổ là răng nanh (cạnh răng cửa) ở hàm trên mọc nhô hẳn ra. Người có răng như vậy, nếu miệng đẹp, sắc môi tươi tắn, răng nanh lại trắng, dài và sáng thì chắc chắn thành đạt khi ở tuổi thiếu niên, đặc biệt rất thích nếu theo đuổi con đường nghệ thuật, điện ảnh.
4. Coi bói qua hàm răng trâu
Đặc điểm của răng trâu là răng cửa trắng, dài, to và đều, hàm răng hơn 32 chiếc. Chủ nhân của hàm răng này phúc nhiều hơn quý, con cháu đều tài giỏi.
5. Coi bói qua hàm răng quỷ
Đặc điểm của răng quỷ là răng nanh và răng cửa khấp khểnh, không đều nhau, môi vẩu, lộ răng. Người có kiểu răng này sống giả dối, hành vi và lời nói thiếu thành thật.
6. Coi bói qua hàm răng chó
Răng cửa không đều nhau, răng nanh lại dài và nhọn là đặc điểm của tướng răng chó. Chủ nhân là người có tính tình quái gở, nói năng hoang đường, làm việc gì cũng không thành công.
7. Coi bói qua hàm răng thưa
Đặc điểm của răng thưa là răng trên rộng dưới hẹp, kích cỡ không đều nhau, các răng mọc cách nhau. Người có hàm răng như vậy là người nói năng luyên thuyên, thường gây chuyện thị phi. Học cũng không biết cách chi tiêu và nắm giữ tài chính. Trong gia đình, họ khắc mẹ, sống bất hiếu.
8. Coi bói qua hàm răng vẩu
Đặc điểm của răng vẩu là hàm răng trên hoặc răng cửa mọc không đều, chồng lên nhau và nhô ra ngoài. Chủ nhân của hàm răng này thời trẻ hay gặp thất bại, cả đời vất vả. Trong gia đình, họ khắc với bố .
Trong phong thủy nhà ở, lửa là yếu tố rất quan trọng để kích hoạt năng lượng một số khu vực trong nhà. Và chúng ta thường chọn nến như là cách thưc dễ nhất để hỗ trợ yếu tố lửa này. Điều quan trọng là bạn có thể di chuyển, đặt để nến ở bất cứ nơi đâu mà bạn thấy cần thiết. Nến là công cụ linh hoạt để điều chỉnh phong thủy trong nhà. Lửa được được xem là nguồn năng lượng sạch và có thể sử dụng lò sưởi trong một khu vực cụ thể nào đó trong nhà nhưng nhược điểm là bạn không thể di chuyển lò sưởi và hơn nữa, nếu nó tạo ra năng lượng quá lớn thì có nguy cơ gây tác động ngược lại, tạo ra những năng lượng không mong muốn.
![]() |
![]() |
![]() |
Hành: ThủyLoại: Cát TinhĐặc Tính: Văn chương, học hành, thi cử
Ý Nghĩa Của Sao Bác Sĩ
Bác Sĩ là cát tinh, có nghĩa là thông minh, hay suy xét kín đáo, chủ sự thông đạt thâm thúy, ngôn ngữ hoạt bát, khoan hòa, nhân hậu, lợi ích cho việc thi cử học hành, giải trừ bệnh tật.
Về các điểm này, Bác Sĩ có đặc tính tương tự như Hóa Khoa, chủ về học và hạnh đồng thời cứu giải bệnh tật. Nhưng Bác Sĩ không mạnh bằng vào Hóa Khoa.
Ý Nghĩa Bác Sĩ Và Các Sao Khác
Người ta thường nói yêu tha thiết sẽ mù quáng, khuyết điểm cũng thành ưu điểm, chỉ cần đủ chân thành, mọi điều đều không thể trở thành rào cản. Nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu tiên, khi hai người mới tìm hiểu về nhau, liệu năm tháng trôi qua, ai có thể giữ tấm lòng nhất kiến chung tình, chẳng toan tính chi như buổi ban đầu? Đã có
![]() |
![]() |
Tính: ÂmHành: ThủyLoại: Văn Tinh, Phúc TinhĐặc Tính: Khoa giáp, hiển vinh, từ thiện, nhân hậu, cứu giải về bệnh tật, tai họaTên gọi tắt thường gặp: Khoa
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Các Cung
Hóa Khoa là cát tinh. Được đi liền với các văn tinh thì hiển đạt về học vấn, giải nguy. Do đó, đóng ở bất luận cung nào, Hóa Khoa cũng có hai tác dụng nói trên.
Ý Nghĩa Hóa Khoa Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Hóa Khoa là văn tinh, chủ về khoa bảng, học vấn, nên người có Hóa Khoa thủ Mệnh vẻ mặt thanh tú, khôi ngô, trung hậu.
Tính Tình
Vì Hóa Khoa là sao khoa giáp, học vấn đồng thời cũng là nết hạnh cho nên có nhiều ý nghĩa sâu sắc về hai phương diện này.
![]() |
Ảnh minh họa |
Bài viết của tác giả Phong Nguyên
Vì nhận thấy tờ “Khoa Học Huyền Bí” rất có giá trị và đứng đắn về nhiều phương diện, nhất là về mục Tử Vi, nên tôi chẳng ngại tài hèn sức mọn ghi lại trong bài này những điều tôi đã học hỏi được nơi các vị cao thâm về Tử Vi, những điều mà tôi không thấy nêu ra trong các sách Tử Vi đã xuất bản (hoặc là có trong một cuốn nào đó mà tôi không được may mắn đọc tới). Ngõ hầu tỏ bày được cảm tình với tờ KHHB đồng thời giúp ích được phần nào các bạn đã và đang nghiên cứu khoa Tử Vi, một môn mà tôi ước mong sẽ trường tồn và phát triển mãi mãi.
Dưới đây chỉ là những điều lặt vặt, nhưng khá khác lạ, mà tôi đã ghi lại được nên không có hệ thống, và do đó tôi đã để đề mục “Tạp ghi về Khoa Tử Vi”
Các sao Địa Không và Địa Kiếp
Một lần tập coi Tử Vi cho một người bạn, tôi thấy lá số của anh ta có Không Kiếp cư Quan tại Tỵ nên vội vàng bảo anh ta thế nào cũng có ngày mạnh về công danh mặc dù không bền vững, lâu dài. Nhưng bẵng đi một thời gian, khoảng 10 năm sau, tình cờ gặp anh ta, tôi được biết là chẳng có phát gì cả, mặc dầu đã vào hạn tốt rồi. Anh ta nói rõ là chỉ hơn một chút thôi. Tôi lấy làm lạ và đặt vấn đề với một đàn anh về Tử Vi. Vị này giảng cho tôi rõ là chỉ có những tuổi đại hạn đi nghịch (tức là Âm Nam-Dương Nữ) thì mới ăn được 2 sao Không Kiếp ở Tỵ hoặc Hợi và còn phải là Hỏa hoặc Thổ Mệnh nữa mới ăn trọn vẹn (lẽ tất nhiên chỉ phát khi có môi trường tốt, tức là đại hạn tốt, còn qua đại hạn kém là lại xuống luôn vì Không Kiếp có cách hoạnh phát, hoạnh phá). Vị này có đọc cho tôi nghe câu phú:
“Không Kiếp hà hiềm ư Tỵ, Hợi
Nhân mạnh nghịch dĩ thành danh”
Áp dụng vào trường hợp trên. Bấy giờ tôi mới vỡ lẽ và mừng là hiểu thêm được thế nào là “nhân mạnh nghịch” (nghĩa là đại hạn đi ngược chiều kim đồng hồ) và nhớ lại tuổi anh bạn tôi là Nhâm Thân (tức Dương Nam) và là Kim Mệnh. Thành ra anh ta khá hơn được là nhờ Không Kiếp, vì đâu có phát mạnh.
Lại một lần khác, tình cờ gặp hai người bà con nhờ coi về Tử Vi, mà hai người cùng có Không Kiếp đắc địa, một người Không Kiếp cư Tý, một người có Không Kiếp cư Hợi (đây tôi chỉ đề cập tới hai sao Không Kiếp, chứ thực ra cần phải coi nhiều yếu tố khác), tôi mừng là “trúng tủ” nhờ có câu phú trên, nhưng đến khi hai người đó hỏi tôi là Không Kiếp đắc địa tại Tỵ tốt hay Hợi tốt thì tôi thú thực tôi thấy bí. Nếu lấy Ngũ Hành ra mà suy thì lại càng lúng túng hoặc ít ra cúng không xác đáng vì nếu nói Không Kiếp là Hỏa cư Tỵ cũng là Hỏa thì tốt hơn cư Hợi là Thủy (vì Thủy khắc Hỏa), tuy nghe cũng hơi có lý, nhưng nghĩ kỹ lại thì tại sao Không Kiếp lại đắc địa ở cung Thủy (Hợi) thì lại vô lý. Do đó, tôi lại đành bảo là đắc địa ở hai cung cũng như nhau, nhưng hôm sau tôi phải mò tới nhà vị đàn anh kể trên để hỏi về điểm đó.
Đây là câu giải thích của vị đó:
“Ông hẳn đồng ý với tôi là Không Kiếp đều là hung tinh, hay nói khác đi đều là “tướng cướp” (ông đó hay ví von dí dỏm) cho nên ban đêm chúng làm ăn dễ hơn ban ngày, dễ tẩu thoát hơn, vấn biết thời nay vấn đề ăn cướp ban ngày không phải là khó khăn, nhưng nói về sự hợp lý bình thường thì ban đêm mới là môi trường thuận lợi cho các kẻ cướp. Do đó, nếu Không Kiếp cư Tỵ (tức là ban ngày) không phát mạnh bằng cư Hợi (ban đêm). Lẽ dĩ nhiên là nói hai trường hợp tương đương nhau về các điểm tốt khác, chứ không phải cứ căn cứ vào Không Kiếp mà võ đoán như vậy”.
Mệnh vô chính diệu đắc tam Không
Hầu như trong mọi sách Tử Vi đều có ghi câu “Mệnh Vô Chính Diệu đắc Tam Không nhi phú quý khả kỳ”, và chắc hẳn những người nghiên cứu Tử Vi đều đã hiểu rõ nghĩa. Tuy có rất nhiều lá số có cách trên mà chẳng thấy “phú quý khả kỳ” gì hết, nghĩa là vẫn cứ nghèo hoặc trung lưu là cùng, mặc dù các lá số đó đều đúng giờ sanh hết, trong khi đó tôi có một người bà con (hiện giờ đáng gọi là đại thương gia) có cách này. Như thế tức là câu phú trên cũng vẫn có trường hợp rất ứng, nhưng nhiều trường hợp trật. Khi đã bí, lẽ tất nhiên tôi phải đi tham khảo những vị cao thâm về Tử Vi. Và về điểm này hầu như vị nào cũng giảng giống nhau là phải căn cứ vào câu phú “Tam Không Độc Thủ phú quý song toàn”, có nghĩa là khi mệnh của mình vô chính diệu được tam không hội hợp mà là con một (độc thủ có nghĩa là chỉ có một mình, chứ không phải là “ba không” độc chiếm cung Mệnh) trong gia đình thì mới giàu sang, nhưng vị nào cũng công nhận rằng hai chữ “khả kỳ” vẫn đúng trong trường hợp này vì sự giàu sang lên xuống bất thường lắm. Cho tới ngày nay tôi ngẫm thấy rất đúng vì người bà con giàu sang nói trên của tôi cũng đã có lúc gần như sạt nghiệp, tiền chợ không có chứ chưa nói đến gì cao xa, nhưng đã có hai lần rất “khả kỳ” vì đùng một cái lên triệu phú như máy bay phản lực. Không biết sau này có thể vững được lâu dài không. Đó là chuyện tương lai. Còn những lá số kia quả thật tôi thấy người nào cũng đông anh em nên lấy đâu ra “độc thủ”. Vì lẽ đó, mấy vị Tử Vi mà tôi tham khảo có nói thêm là nếu thấy lá số ai có cách như vậy mà đông anh em thì nhắm vào các yếu tố khác mà đoán hay dở chứ tam không đối với lá số đó kể như “phá”… Do đó, khi “tam không” đã không thành vấn đề thì “nhất không” hay “nhị không” cũng không cần quan tâm nữa. Tuy nhiên khi mệnh vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt án ngữ ngay tại cung thì vẫn hay hơn mệnh vô chính diệu đơn thuần nhiều. Vậy ta cũng không nên áp dụng máy móc quá.
Thái Dương cư Tý
Nói chung, mọi sách về Tử Vi đều nói là từ Dần đến Thân là những cung sáng sủa đối với Thái Dương, còn từ Dậu đến Sửu là tối tăm cho mặt trời. Thế mà có một vị giỏi tử vi đã giảng cho tôi là Thái Dương cư Tý tuy không phải là tốt đẹp, sáng sủa nhưng cũng dùng được vì mặt trời ở đáy nước (cung Tý là Thủy) thì cứ âm ỷ nóng chứ không lộ ra ngoài cho nên ai có Thái Dương cư Tý thường thường là người cứ ngấm ngầm cố gắng mà thành công, học cái gì cũng âm thầm, nếu có thêm các sao về văn học thì vẫn thành đạt đến mức cao khoa tuy không ai biết đến. Tôi có hỏi thêm tại sao ở cung Hợi cũng là thủy mà sao Thái Dương lại không hợp được chút nào thì vị đó giải đáp là cung Tý là Dương thì mới hợp với mặt trời (còn cung Hợi là Âm), hơn nữa giờ Tý tức là giờ đầu của ban ngày mặc dầu trời vẫn tối đen, còn giờ Hợi thì thuộc về ban đêm hoàn toàn. Tôi đã nghiệm nhiều lá số đúng như thế, là những người đã lỡ phá ngang về học vấn mà nay có kiến thức rất rộng và còn có người đậu Cử Nhân khi đã lớn tuổi vì Thái Dương cư Tý bao giờ cũng phát rất chậm, lâu dài, nhưng hơi… “chì”.
Vì thế, theo thiển ý, nhiều khi Thái Dương cư Ngọ tuy rất tốt nhưng có khi còn thua anh Thái Dương cư Tý ở chỗ không được lâu bền. Về mục Thái Dương cư Ngọ đã có nhiều vị bàn tới rồi nên tôi thấy nói thêm cũng vô ích.
(Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí)
1. Vị trí để tủ lạnh
![]() |
Theo phong thủy học, vị trí bài trí tủ lạnh tốt nhất trong ngôi nhà là phòng bếp. Tủ lạnh vốn thuộc hành Kim, phòng bếp lại là nơi Hỏa vượng, mà Hỏa khắc Kim. Vì vậy, để tủ lạnh trong bếp sẽ có tác dụng làm cân bằng tính Hỏa. Nhưng cần chú ý, tủ lạnh không kê đối diện hoặc gần bếp vì khí nóng từ bếp và hơi lạnh từ tủ lạnh xung khắc với nhau sẽ gây ảnh hưởng sức khỏe của gia chủ. Ngoài ra, nó còn có thể khiến những người trong gia đình không hòa thuận.
Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông. Ngoài ra người mệnh Thủy cũng có thể kê thêm một chiếc tủ lạnh khác trong phòng khách để hỗ trợ cho mệnh của mình.
Những người mệnh Mộc nên kê tủ lạnh ở chỗ khuất của ngôi nhà. Trong các quán bar, người ta thường kê tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với những người không hợp với Kim, đây là một cách tuyệt vời để hóa giải ảnh hưởng xấu từ tủ lạnh.
Không đặt tủ lạnh đối diện với cửa bởi điều này có thể khiến tài lộc của gia chủ không ổn định.
2. Cách lựa chọn màu tủ lạnh
![]() |
Tủ lạnh là đồ dùng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng đối với một số người, nó lại kị về mệnh. Để bài trí tủ lạnh hợp phong thủy, màu tủ lạnh hợp với mệnh của gia chủ bạn nên màu sắc tủ lạnh phù hợp một mặt có thể hóa giải tác dụng không mong muốn với người xung khắc Kim, đồng thời lại có tác dụng hỗ trợ với người hợp mệnh Kim.
Theo thuyết ngũ hành, Kim tương ứng với màu trắng, Mộc tương ứng với màu xanh lá cây, Thủy tương ứng với màu đen và xanh lam, Hỏa tương ứng với màu đỏ và tím, Thổ tương ứng với màu vàng và nâu. Người kị với Kim có thể lựa chọn tủ lạnh có màu đỏ, tím hoặc xanh lá cây để hạn chế tính Kim của tủ lạnh. Người hợp với Kim nên chọn tủ lạnh màu trắng, vàng, nâu để tăng thêm vận may.
3. Tủ lạnh không được để trống
![]() |
Tủ lạnh liên quan thức ăn của người sử dụng. Thức ăn dồi dào ngụ ý chủ nhân không phải lo lắng về cơm ăn áo mặc. Ngược lại, tủ lạnh bị bỏ trống có nghĩa là tình hình kinh tế không khả quan, bởi vậy tủ lạnh nên để đầy đủ thức ăn.
4. Dọn dẹp tủ lạnh định kỳ
Tủ lạnh có liên hệ mật thiết với tài vận của gia chủ, do vậy chủ nhân cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ tủ lạnh. Như vậy mới khiến tài lộc sinh sôi.
5. Không đặt đồ điện hoặc đồ vật trên nóc tủ lạnh
![]() |
Có người để tiết kiệm không gian, đã đặt lò vi sóng, lò nướng hay máy xay sinh tố lên nóc tủ lạnh. Chưa nói về góc độ phong thủy, thì về khoa học, sóng điện từ do các thiết bị điện này phát ra đã ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người sử dụng.
Ngoài ra cũng không để đồ vật trên tủ lạnh. Nhiều người có thói quen tiện tay để đồ vật lên tủ lạnh, lâu ngày nóc tủ lạnh sẽ trở thành nơi chứa đồ. Việc này tưởng là vô thưởng vô phạt, nhưng thực ra nó lại ảnh hưởng đến sự tụ tài. Vì vậy tủ lạnh tốt nhất là nên lau chùi sạch sẽ, cả bên trong lẫn bên ngoài.
(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nên: Làm vượng phía chính Đông, tập trung nạp khí
Người nhà mang thai là niềm vui với cả gia đình, do vậy đừng để phong thủy ảnh hưởng tới sự phát triển của bà mẹ và thai nhi.
Khí trường của ngôi nhà ảnh hưởng rất lớn tới bà mẹ và thai nhi. Do vậy, trọng điểm phong thủy là nạp khí, hơn nữa phải là nạp dương khí và vượng khí mới tốt. Căn phòng mà bà bầu ở cần giữ cho không khí thông thoáng, thường xuyên mở cửa sổ để trao đổi khí, không nên do mùa hè nóng nực là ở lì trong căn phòng máy lạnh.
Ngoài ra, căn phòng cũng không nên âm u, tối tăm. Cần có đủ ánh sáng đèn điện và ánh sáng mặt trời, để dương khí có thể tích tụ, xua đuổi âm khí.
Khí trường mạnh có lợi cho việc sinh con “mẹ tròn con vuông”, nên phía Đông cần dùng nhiều màu xanh, như thảm màu xanh lá cây, các vật trang trí màu xanh lá…. Các vật này sẽ làm vượng khí, khiến đứa trẻ sinh ra thông minh và khỏe mạnh.
Tránh: Xây dựng, cải tạo, chuyển nhà.
Đối với bà bầu và thai nhi, việc duy trì sự ổn định của khí trường là điều quan trọng nhất. Trong thời gian phụ nữ mang thai, trong nhà không nên động thổ, xây dựng, cải tạo phòng, cũng không nên thay đổi phòng ở hoặc dời giường.
Tránh thay đổi môi trường sống khi nhà có bà bầu.
Thông thường, nếu ở một môi trường có thể thụ thai, thì sẽ không có vấn đề gì lắm về phong thủy, cho nên không nên thay đổi để tránh rước rắc rối vào người.
Trong thời gian phụ nữ mang thai cũng không thích hợp di dời, do thai nhi quen với môi trường cũ. Nếu di dời, từ trường, thanh trường của ngôi nhà mới có điều khác biệt với nơi cũ. Nếu thai nhi không thể thích ứng được, sẽ làm cản trở sự phát triển của trẻ nhỏ.
Phòng ngủ cho bà bầu ngủ nghỉ cũng là một nơi cần chú ý. Cần luôn giữ cho cuối giường được sạch sẽ và gọn gàng. Nếu cuối giường còn không gian, chỉ nên bày quần áo và chăn gối sạch, không được đặt quần áo cũ rách, đồ lặt vặt hay các đồ kì lạ, đặc biệt là hộp công cụ, đồ chơi hay các dụng cụ kim khí. Nếu muốn bỏ các vật này đi, chọn ngày lành và ngày bà bầu ra ngoài để bỏ, tránh ảnh hưởng không tốt tới thai nhi.
Hành: MộcLoại: Cát TinhĐặc Tính: Vui vẻ, mau mắn, tốt lànhTên gọi tắt thường gặp: Đào
Phụ tinh. Một trong nhóm sao Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ. Gọi tắt là bộ Tam Minh (Đào Hồng Hỷ). Phân loại theo tính chất là Đào Hoa Tinh. Sao này là sao tốt.
Vị Trí Ở Các Cung
Sao Đào Hoa có bốn vị trí: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, theo trục Bắc Nam Đông Tây.
Đào Hoa đắc địa nhất ở cung Mão.
Cung Mão ở chính Đông, tượng trưng cho bình minh. Tại đây sao Đào Hoa được ví như đóa hoa nở lúc hừng sáng, hội tụ tất cả vẻ đẹp đang lên, lại được thêm hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi. Cụ thể là đóa hoa chẳng những có vẻ đẹp cố hữu mà còn được người ngắm soi, chiêm ngưỡng. Đó là trường hợp của những người đắc thời về ái tình, kiểu như những bậc quốc sắc thiên hương, minh tinh tài tử, có hấp lực quyến rũ, lại được nhiều người biết và tôn thờ.
Đào Hoa ở cung Tý (vào lúc nửa đêm). Đào Hoa ở đây ví như đóa hoa nở về đêm, trong hoàn cảnh rất hữu tình nên không kém lộng lẫy. Tuy nhiên vì hoa nở đêm nên ít người biết đến. Điều này ám chỉ người có duyên ngầm, đối với một số người thân cận, ít được mọi người hay biết. Đây cũng là trường hợp những mối tình kín đáo (yêu trộm, được yêu trộm, biết bảo mật trong tình yêu).
Đào Hoa ở cung Ngọ (giữa trưa). Đào Hoa ở cung Dậu (tối trời). Tại hai vị trí Ngọ, Dậu. Đào Hoa kém thi vị, bớt nhiều sức hấp dẫn. Đó là trường hợp những người vô duyên, chậm duyên hoặc có duyên mà không gặp thời hay chậm phát. Nếu Tuần, Triệt đồng cung thì mơí sáng lên và có triển vọng được.
Ý Nghĩa Đào Hoa Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Sao Đào Hoa đắc địa thì có nhan sắc và có duyên, nếu hãm địa thì kém hơn.
Tính Tình
Cung Mệnh có sao Đào Hoa thì tính người vui vẻ, mau mắn, ham vui, đa tình, lẳng lơ, hoa nguyệt.
Công Danh Tài Lộc
Nếu Đào Hoa đóng ở bốn cung Di, Quan, Tài và Nô thì có sự may mắn về công danh, tài lộc do người khác phái mang đến, cũng như có thể bất lợi về công danh tài lộc vì đặc tính đào hoa của mình.
Sự hay dở còn tùy thuộc việc hội tụ với cát hay hung, sát tinh. Đi với cát tinh, Đào Hoa mang lại nhiều may mắn nhờ ở người khác phái giúp đỡ. Ngược lại, nếu gặp hung hay sát tinh thì sẽ bị liên lụy bởi ái tình vì người khác phái.
Phúc Thọ Tai Họa
Cung Mệnh có Đào hay Hồng tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh hội hợp tất không thể sống lâu được.
Những Bộ Sao Tốt
Từ vựng ÂM & DƯƠNG là 2 thuật danh định tính khái quát 2 mặt vận hành của mọi vật chất (hữu hình hoặc vô hình) trong trời đất (xuất hiện vào thế kỷ thứ 3 truớc công nguyên, do nhà lý học Trâu Diễn đề xuớng thời Xuân thu - Chiến quốc nước Tàu loạn lạc); bộ sách đông y lâu đời nhất là HOÀNG ĐẾ NỘI KINH (thời Tiền Tần / Chiến quốc nước Tàu chưa thống nhất) cũng lấy nguyên lý "vận hành" của Kinh Dịch (cách nay khoảng 46 thế kỷ) để "thực tế hóa" 2 thuật danh Âm & Duơng trong phần nói về giáo khoa bệnh học luận trị, là:
(ảnh Internet)
ÂM TỤ - DUƠNG TÁN để các thầy thuốc căn cứ vào đây mà chữa bệnh!. Điều này có ý nghĩa toán học rất cụ thể:
Nhìn vào thực tế cuộc sống con nguời, lại càng thấy rõ ràng hơn:
Ngay cả các sinh hoạt "phồn thực sinh lý" của mọi động vật (kể cả người):
Như vậy "lưỡng nghi" của Kinh Dịch phuơng Đông cổ đại, có thể tạm hiểu (bước đầu) như triết luận mối tương quan hữu cơ của 2 hành vi đối đẳng nhau, nhưng nương tựa nhau (hàm ơn nhau!) để mọi vật chất tồn sinh - dù vô hình hay hữu hình trong tầm mắt hữu hạn của sinh vật nguời! Đó là ý nghĩa của thuyết Âm Duơng! Nền văn minh - khoa học đương đại, cũng là thành quả tốt đẹp xuất phát từ những công trình trí tuệ toán học: chọn lọc giải pháp CHO RA/Dương - NHẬN VÀO/Âm khả thi nhất (vận trù học) để thực hiện, mục đích làm cho SỰ SỐNG con nguời hạnh phúc hơn!
Có 2 nguồn định nghĩa về SỨC KHỎE con nguời, đó là:
2.1- Theo y học hiện đại (quen gọi là Tây y): tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã định nghĩa Sức Khỏe là một trạng thái hoàn hảo về thể chất, tinh thần,và phúc lợi xã hội.
2.2- Theo y học cổ truyền (quen gọi là Đông y): các tài liệu giáo khoa về YHCT đều quan niệm Sức Khỏe là lưỡng nghi Âm - Duơng trong cơ thể được thăng bằng! Ngược lại: bệnh tật chỉ là hậu quả của sự mất quân bình Âm Duơng...
Riêng nền y học cổ truyền Việt Nam, nhiều thầy thuốc danh tiếng trong y sử nuớc nhà (cụ Tuệ Tĩnh thế kỷ 14, cụ Nguyễn Đại Năng thế kỷ 15, cụ Lê Hữu Trác thế kỷ 18, cụ Nguyễn Đình Chiểu thế kỷ 19...) đều đã truyền thừa cho hậu thế quan niệm "sức khỏe toàn diện" từ vật chất đến tinh thần, theo như cụ đông y sĩ Đẩu Sơn - Lê Lã Sảng (chủ phòng thuốc Phúc Mãn Đuờng thời gian 1934-1963, khu phố Chợ 20 đuờng Général Lizé - Saigon, nay là đường Điện Biên Phủ, quận 10- TP. HCM) đã giải thích chi tiết SỨC KHỎE ĐÍCH THỰC (là cách gọi của gia tộc Lê Lã tỉnh Hưng Yên năm xưa) gồm 6 hợp phần (3 âm, 3 dương) như sau:
Mô hình minh họa:
(Â1: thể chất; Â2: tinh thần; Â3: an sinh xã hội
D1: cảm xúc; D2: ứng xử; D3: tâm linh)
Sự SỐNG con nguời là quá trình tích tuổi, thể trạng sinh học của mọi nguời đến tuổi nghỉ hưu (từ trên 55 tuổi...) đều có sự suy thoái trong các hoạt động của tổ chức tạng - phủ... Điều này có ý nghĩa: sống càng lâu thì sức khỏe càng yếu dần đi! Lão khoa Đông y đã nghiệm lý được khả năng "tiên luợng tuơng lai" cho các hệ tuổi tác, như sau:
(sức khỏe "tỷ lệ nghịch" với tích tuổi)
Cũng từ bảng thống kê kinh nghiệm ở trên, các thầy thuốc xưa đã phát hiện ra được mối liên thông giữa khả năng "âm-duơng phồn thực" (tức sinh hoạt tình dục nam nữ) với tình hình sức khỏe "bình thuờng" của nguời đàn ông (tính bình quân với mức sai số 10% ) như sau:
(Hằng số 9 là "cửu khiếu Linh khu" gồm 2 mắt + 2 tai + 2 lỗ mũi + 1 miệng + 1 lỗ thông đại tiện + 1 lỗ thông tiểu tiện của bộ máy người kỳ diệu).
Thầy thuốc đông y ĐẨU SƠN (Lê Lã Sảng) giải thích: số 9 theo ma trận vuông Lạc Thư (mô hình tuợng số áp dụng trong hậu thiên bát quái - Dịch lý cổ truyền) thuộc hành Hỏa quẻ Ly trong Linh khu (tức bộ máy nguời kỳ diệu) là tạng Tâm (chủ về bộ phận tuần hoàn huyết), tuổi già mà máu huyết còn luân lưu tốt... ắt sức khỏe phồn thực âm - duơng cũng còn... lai rai chút đỉnh!
4.1- Mười điều để sống khỏe:
4.2- Phòng bệnh bằng 5 KHÔNG:
4.3- Ăn uống mỗi ngày cần:
4.4- Triết lý cho cuộc sống
4.4.1- Một Trung tâm:
4.4.2- Hai chút chút:
4.4.3- Ba quên:
4.4.4- Bốn có:
4.4.5- Năm phải:
Thuật danh ÂM DUƠNG nói chung là khái quát hành vi NHẬN & CHO (chứ không có ý nghĩa nào khác hơn!) của mọi vật chất trong tự nhiên giới cũng như trong cơ thể con nguời. Nguồn sức khỏe của mỗi chúng ta chỉ có thể bền bỉ dài lâu, khi cá thể chúng ta biết vận hành tích cực cả 6 hợp phần của sứ khỏe đích thực (holistic concept) trong thường ngày, theo "cơ chế 3 âm 3 dương" đã nêu ở trên:
5.1- cơ chế 3 âm (nhận vào):
5.2- cơ chế 3 dương (cho ra):
Lê Hưng VKD
(Bài nói chuyện sáng chủ nhật ngày 14.92014 với Hội Cựu giáo chức TP. TDM tại hội truờng trung học Chu Văn An, P. Hiệp Thành nhân ngày Người cao Tuổi Việt Nam 1/10 hàng năm)
Phương Vị: Nam Đẩu Tinh
Tính: Dương
Hành: Thủy
Loại: Phúc Tinh
Đặc Tính: Phúc thọ
Tên gọi tắt thường gặp: Đồng
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 5 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Miếu địa ở các cung Dần, Thân.
Vượng địa ở các cung Tý.
Đắc địa ở các cung Mão, Tỵ, Hợi.
Hãm Địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Ngọ, Dậu.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Thiên Đồng đắc địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng, mặt vuông vắn và đầy đặn. Còn Thiên Đồng hãm địa thì mập và đen.
Tính Tình
Sao Thiên Đồng ở cung miếu địa và vượng địa: thông minh, ôn hòa, đức hạnh, từ thiện, không có tánh quả quyết, hay thay đổi ý kiến, công việc, hoặc hay gặp cảnh bị bỏ dở nửa chừng, được hưởng sự phong lưu, khá giả, sống lâu. Người nữ thì đảm đang, ăn ở có đức, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm lợi cho chồng con.
Sao Thiên Đồng cung đắc địa: thích phiêu lưu, nay đây mai đó, hay thay đổi chỗ ở, công việc lưu động, phong lưu, có niềm tin về thần linh, tôn giáo, làm phước, hay thay đổi chí hướng, không có lập trường dứt khoát, xử lý nặng về tình cảm, ân tình nghĩa lụy hơn là dùng lý trí, nguyên tắc, số ly hương, khó cầm giữ tiền của vững chắc.
Sao Thiên Đồng cung hãm địa: hay thay đổi thất thường, hay gặp sự trắc trở, dễ gặp thị phi, hiểu lầm, không cẩn trọng về ngôn ngữ, làm gì cũng phải nương vào người khác mới làm được, không có định kiến, phiêu bạt, ly hương. Riêng sao Thiên Đồng ở Ngọ là người có óc kinh doanh, thích mua bán.
Tài Lộc Phúc Thọ
Sao Thiên Đồng đắc địa thì chỉ sự giàu sang.
Sao Thiên Đồng hãm địa thì phải lo lắng về tiền bạc, tài sản khi có, khi tán, có lúc phải túng thiếu vất vả.
Sao Thiên Đồng ở Ngọ thì chỉ năng khiếu kinh doanh. Nhưng về mặt phúc thọ, vì Thiên Đồng là phúc tinh nên dù hãm địa cũng thọ.
Thiên Đồng, Kình ở Ngọ: Có uy vũ lớn, được giao phó trấn ngự ở biên cương.
Thiên Đồng, Thiên Lương ở Dần, Thân: Làm nên, danh giá. Ngoài ra có khiếu về y khoa, dược khoa, sư phạm rất sắc bén.
Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cách: Phúc thọ, làm công chức.
Thiên Đồng, Thiếu Âm đồng cung ở Tý: Phúc hậu và thọ; đẹp đẽ.
Thiên Đồng, Không, Kiếp, Hỏa Linh: U mê, nghèo khổ, sống qua ngày, ăn mày.
Thiên Đồng, Thái Âm ở Tý, Hổ, Khốc, Riêu: Đàn bà đẹp nhưng bạc phận, khóc chồng.
Thiên Đồng, Hóa Kỵ ở Tuất: Rất xấu trừ phi tuổi Đinh thì phú quý.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phụ Mẫu
Sao Thiên Đồng tại Mão, Tỵ, Hợi: Cha mẹ khá giả.
Sao Thiên Đồng tại Dậu: cha mẹ bình thường, mẹ thường hay đau yếu (vì có Thái Âm hãm xung chiếu).
Sao Thiên Đồng tại Thìn, Tuất: cha mẹ và con cái xung khắc.
Thiên Lương tại Dần, Thân: cha mẹ giàu sang và thọ (ở Dần tốt hơn ở Thân).
Thái Âm tại Tý: Cha mẹ giàu sng và thọ.
Thái Âm tại Ngọ: cha mẹ vất vả, sớm xa cách nhau.
Cự Môn ở Sửu, Mùi: sớm xa cách hai thân. Trong nhà thiếu hòa khí.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phúc Đức
Thiên Đồng ở Mão, Tỵ, Hợi: Được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng đi xa làm ăn.
Thiên Đồng ở Dậu, Thìn, Tuất: Phúc đức không được tốt. Cuộc đời lúc vui lúc buồn, ra ngoài hay vướng vào chuyện thị phi, đàm tiếu, cãi cọ lôi thôi. Họ hàng ly tán, thường có sự tranh chấp lẫn nhau.
Thái Âm đồng cung tại Tý: Được hưởng phúc, sống lâu. Nên lập nghiệp xa quê hương, bản quán. Trong họ có nhiều người quý hiển, giàu sang.
Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Phúc đức không được tốt, phải ly hương, họ hàng ly tán, phiêu bạt.
Thiên Lương đồng cung: Suốt đời thanh nhàn, được hưởng phúc, sống lâu. Trong họ có nhiều người quý hiển, giàu sang.
Cự Môn đồng cung: Phúc đức không được tốt, thường phải ly hương, bôn ba, thời trẻ tuổi thì nghèo khó, vất vả, dễ xa cách người thân, cô độc, tình cảm lận đận, cần phải có nhiều sao tốt mới đỡ xấu ở hậu vận về già.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Điền Trạch
Thiên Đồng ở Mão, Nguyệt đồng cung tại Tý: Giàu có lớn. Tay trắng lập nghiệp, càng ngày càng thịnh vượng.
Thiên Đồng ở Dậu, Nguyệt đồng cung tại Ngọ: Thành bại thất thường, nhưng về già cũng có chốn nương thân.
Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: Có nhà đất nhưng rất ít, hay phải thay đổi mua vào bán ra luôn luôn.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: Tạo dựng nhà đất khó khăn, dù có tạo dựng được cũng phải gặp rủi ro, hoàn cảnh thời cuộc làm cho mất mát. Dễ gặp cảnh tranh chấp về điền sản.
Thiên Lương đồng cung: Tạo dựng nhà đất trước ít sau nhiều.
Cự Môn đồng cung: Về già mới có nhà đất.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Quan Lộc
Thiên Đồng ở Mão: có công danh, nhưng phải nay đây mai đó.
Thiên Đồng ở Dậu: công danh muộn màng, Chức vị nhỏ, hay thay đổi. Nên chuyên về kỹ nghệ hay buôn bán.
Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: có công danh lúc có lúc không, hay di chuyển, lưu động, chóng chán, hay thay đổi.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: có công danh, nhưng phải nay đây mai đó, có tài ăn nói lý luận. Công danh trước nhỏ sau lớn.
Thái Âm đồng cung tại Tý: công danh hiển hách, có tài can gián người trên.
Thái Âm đồng cung tại Ngọ: hạp ngành nghề công kỹ nghệ hoặc kinh doanh.
Thiên Lương đồng cung: có công danh tốt đẹp. Rất nổi tiếng nếu chuyên về y khoa hay sư phạm.
Cự Môn đồng cung: thường gặp sự chật vật trong công danh, phải cần có cấp trên nâng đỡ mới tốt, hay bị lôi thôi kiện tụng, thị phi, bị dòm ngó.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Thiên Di
Thiên Đồng ở Mão: Ra ngoài mới tốt, không nên ở lâu một chỗ. Hay gặp quý nhân phù trợ.
Thiên Đồng ở Dậu: Thường hay đi xa, xa nhà. Ra ngoài vất vả, thường hay gặp chuyện phiền lòng. Sau này chết ở xứ người.
Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: Đi xa, nay đây mai đó, dù có nhà cũng không ở nhà, hay thay đổi nơi ăn chốn ở.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: Ra ngoài nên cẩn trọng, làm gì cũng nên có sự suy tính kỹ lưỡng, dễ gặp chuyện thị phi, tranh cãi.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý, Thiên Lương đồng cung: Luôn gặp quý nhân phù trợ. Được nhiều người kính trọng, nếu đi buôn, làm kinh doanh cũng phát tài.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Ra ngoài rất bất lợi, hay gặp sự cạnh tranh và ghen ghét.
Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung: Ra ngoài hay được vào nơi chốn sang trọng quyền quý, hoặc gặp người có chức quyền, lời nói của mình được tin phục, sau này chết ở xa nhà, dễ ly hương. Nhưng cũng nên cẩn thận về ngôn ngữ, lời nói, không nên nói sai sự thật, hoặc đùa giỡn quá đáng dễ bị hiểu lầm, và làm việc gì cũng phải lo nghĩ luôn luôn.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tật Ách
Sao Thiên Đồng chỉ toàn thể bộ máy tiêu hóa, không đích danh chỉ bộ phận nào rõ rệt trong bộ máy này. Tùy theo đắc hay hãm địa, bộ máy này sẽ bị ảnh hưởng tốt hay xấu. Ngoài ra, đi với sát tinh, bộ máy tiêu hóa bị tổn thương.
Thiên Đồng, Thiên Khốc, Thiên Hư hay nhị Hao: Hay đau bụng, có khuynh hướng tiêu chảy, sình bụng, khó tiêu, trúng thực.
Thiên Đồng, Kỵ: Hay đau bụng, có khuynh hướng tiêu chảy, sình bụng, khó tiêu dễ bị trúng thực, trúng độc.
Thiên Đồng, Không Kiếp, Hình: Lở bao tử, có thể mổ xẻ ở bộ máy tiêu hóa, cắt ruột, vá ruột. Ngoài ra, Thiên Đồng thường thiên về nghĩa thích ăn uống rượu chè, trà dư tửu lậu, do đó bộ máy tiêu hóa bị liên lụy.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tài Bạch
Thiên Đồng tại Mão hay Thái Âm đồng cung tại Tý: Tay trắng làm giàu, càng về già càng nhiều của.
Thiên Đồng tại Dậu: Tiền bạc tụ tán thất thường.
Thiên Đồng tại Tỵ, Hợi: Phải lang thang nay đây mai đó, làm nghề lưu động mới có tiền, nhưng cũng dễ bị hao tán.
Thiên Đồng tại Thìn, Tuất: Tiền vào tay này lại ra tay khác, hay túng thiếu.
Thái Âm đồng cung tại Ngọ: kiếm tiền khó khăn, chậm chạp, vất vả, thường phải bôn ba, nay đây, mai đó mới có tiền, làm đủ mọi nghề. Ở tuổi trung niên tiền bạc mới yên ổn.
Cự Môn đồng cung: Tiền bạc vào ra thất thường, dễ gặp cảnh túng thiếu, dễ có sự tranh chấp tiền bạc, hoặc thưa kiện. Phải xa xứ làm ăn mới tốt.
Thiên Lương đồng cung: Khá giả. Rất thích hợp với ngành nghề kinh doanh, mua bán.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Tử Tức
Rất tốt nếu Thiên Đồng ở Mão: đông con, đồng cung với Lương, Nguyệt ở Tý: đông con, con quý hiển.
Kém tốt nếu ở Dậu: ít con, thay đổi chỗ ở luôn mới có nhiều con, ở Tỵ, Hợi: hai con, nếu có nhiều con thì mất một số, con cái ly tán, chơi bời.
Xấu nếu Thiên Đồng ở Thìn Tuất, hiếm con và nhất là đồng cung với Cự Môn thì ít con, con khó nuôi, bất hòa, ly tán, có thể có con riêng.
Ý Nghĩa Thiên Đồng Ở Cung Phu Thê
Thiên Đồng ở Mão: nên muộn đường hôn nhân mới tốt, hoặc việc hôn sự hay gặp trắc trở, xa cách ở buổi ban đầu, về sau thì hạnh phúc lâu dài. Nam nên là con trưởng, đoạt trưởng, nữ là con thứ.
Thiên Đồng ở Dậu: hay có sự bất hòa trong gia đình, hoặc thường phải xa cách nhau.
Thiên Đồng ở Tỵ: dễ có duyên nợ, cũng dễ xa nhau, hoặc hay có chuyện buồn phiền, hoặc vì làm ăn mà thường xa cách, duyên nợ ở xa.
Thiên Đồng ở Thìn, Tuất: khắc khẩu, nếu không thì hạnh phúc không trọn vẹn, lâu dài.
Thiên Đồng, Thiên Lương đồng cung: Sớm lập gia đình. Hai người thường có họ hàng với nhau, hoặc người cùng xứ, hoặc có quen biết trước với anh chị em, người thân trong nhà mà thành duyên nợ. Vợ chồng đẹp đôi và giàu sang.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Tý: Sớm lập gia đình. Hai người thường quen biết nhau trước, hoặc hai họ đã có quen nhau. Vợ chồng khá giả, đẹp đôi.
Thiên Đồng, Thái Âm đồng cung tại Ngọ: Phải muộn lập gia đình mới tốt.
Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung tại Tý: Duyên nợ dễ chia ly, hoặc phải xa cách một thời gian mới đoàn tụ. Hoặc lập gia đình gặp sự trắc trở rồi mới thành.
Thiên Đồng Khi Vào Các Hạn
Nếu sáng sủa thì hưng thịnh về tài, danh, may mắn. Nếu xấu xa thì hậu hạn xấu (hao của, bị kiện, tụng, bị đổi chỗ...).
Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa lấy thứ tự xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc - Quyền - Khoa - Kỵ, không thể đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc.
Luận về Hóa Lộc
Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa xuân hướng ra bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tương trưng mùa xuân cũng sinh sôi nảy nở.
Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn.
Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc ko nhất định là thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất định là người tài hoa.
Luận về Hóa Quyền
Hóa quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như mùa hè, như lửa bốc, tính chất mãnh liệt. Mùa hè ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến hè thì xanh tốt vinh vượng.
Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa quyền chủ về tự tín và làm việc đắc lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa quyền cũng tượng trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi khi Hóa quyền trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.
Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm, khuôn phép tuy nhiên cũng lại dễ xung động.
Luận về Hóa khoa
Hóa khoa thuộc Kim, mùa thu là mùa của thâu liễm với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà ko lộ, bởi vậy nên tâm cơ không gian trá.
Hóa khoa tượng thu Kim trong ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy, người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phá, nhưng được kính nể.
Luận về sao Hóa kị
Hóa Kị trong ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa kị ví như mùa đông, bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa xuân tới bung ra. Hóa kị là lúc phải chịu sự thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh linh xảo.
Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa kị thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.
Tác động của Tứ Hóa
Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố định.
Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.
Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém nhiều ít.
Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì chỉ là tích súc.
Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.
Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.
Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.
Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét.
Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.
Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.
Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc.
Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp, Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét đố kị cũng thật ghê gớm.
Nguồn Sưu tầm
Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí chúng ta.
Mỗi dịp Tết trung thu khắp những con phố nhỏ rộn ràng khúc hát: “Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu. Cán đây rất dài cán cao quá đầu. Em cầm đèn sao em hát vang vang. Đèn sao tươi màu của đềm rằm liên hoan! Tùng rinh rinh, tùng tùng tùng rinh rinh..."
Đã từ lâu mặt nạ giấy bồi, đèn Trung thu hình ngôi sao là những món đồ không thể thiếu đối với trẻ em trong dịp Tết trung thu ngày trước. Ngày nay, tuy nhiều loại đồ chơi hiện đại xuất hiện nhưng những món đồ chơi này vẫn có một ý nghĩa đặc biệt với trẻ nhỏ.
Để làm một chiếc đèn Trung thu hoàn toàn bằng thủ công, người thợ phải làm nhiều công đoạn chi tiết và phức tạp, từ chẻ tre, vót tre, cắt khung, làm xương đèn, lắp cán đến in hoa văn, màu sắc trên giấy kính… mới tạo thành một chiếc lồng đèn hoàn chỉnh.
Tre làm lồng đèn phải là tre già ngâm với nước muối nhiều ngày để chống mối mọt, sau đó phơi khô, chuốt nan tùy theo kích cỡ của từng loại đèn. Giấy dán lồng đèn có nhiều màu, khi căng ra dán người thợ cần phải khéo léo để giấy thẳng góc và không bị rách.
Tham khảo: Nét đẹp phong tục truyền thống trong Tết Trung Thu đất Việt
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Chùa nằm trên một khoảnh đất cao, rộng, bằng phẳng thuộc địa phận phường Trường An, cách trung tâm thành phố Huế 2 km về hướng nam. Mặt chùa hướng đông nam, trước có núi Kim Phụng làm án, bên phải giáp đường Điện Biên Phủ, bên trái có chùa Linh Quang và nhà thờ cụ Phan Bội Châu, phía sau có chùa Thiên Minh.
Chùa Từ Đàm được khai sơ vào khoảng năm 1690, tức vào cuối thế kỷ thứ XVII, đến nay đã trên 300 năm vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ngài Minh Hoằng Tử Dung – một vị thiền sư Trung Hoa sang Thuận Hóa thời bấy giờ sáng lập chùa này. Đầu tiên, ngài đặt tên là Ấn Tông Tự – ấn tông nghĩa là “dĩ tâm ấn vi tông”, tức lấy sự truyền tâm làm tông chỉ.
Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc Tứ Ấn Tông Tự. Đến thời Thiệu Trị, vua đặt thêm một tên khác là “Từ Đàm Tự”. Từ đàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho đức Phật, cho hình ảnh ngôi chùa Việt Nam như đám mây lành che mát cho chúng sanh.
Chùa Từ Đàm lúc sơ khai chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng tranh tre nứa lá. Từ đó đến nay chùa đã tồn tại lâu dài trên dãi đất Cố đô Huế. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử thì năm 1932, khi Phật giáo Việt Nam phục hưng sau bao năm bị phân hóa dưới thời Pháp thuộc, năm 1935 sơn môn tăng già Thừa Thiên chuyển giao Chùa Từ Đàm cho Hội An Nam Phật học làm trụ sở chính của hội.
Năm 1938, Hội An Nam Phật học đại trùng tu Chùa Từ Đàm và đúc pho tượng bổn sư cùng các pháp khí để tôn trí trong chánh điện. Hiện nay, tại chùa có đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Cấu trúc của chùa theo kiểu “chùa Hội” kết hợp giữa nét nghệ thuật kiến trúc mới và cũ với yêu cầu rộng rãi, cao ráo, cổ kính nhưng đơn giản. Chùa Từ Đàm có ba bộ phận quan trọng là tam quan, chùa chính và nhà Hội.
Cổng tam quan chùa cao, rộng, có mái ngói thanh nhã. Phía sau cổng có cây bồ đề quanh năm tỏa bóng mát. Đây là cây bồ đề được chiết ra từ cây bồ đề nơi Phật đắc đạo do bà Karpeies hội trưởng hội Phật học Pháp thỉnh từ ấn Độ qua Việt Nam tặng và được trồng vào năm 1936. Sân chùa rộng, bằng phẳng, thoáng mát, đủ chỗ để tập trung hàng nghìn người về dự lễ.
Chùa chính gồm tiền đường, chính điện và nhà Tổ. Tiền đường được xây trên một nền móng bằng đá hoa cương chạy chỉ, cao 1,5 m, mái xây kiểu cổ lầu nên chùa vốn đã cao trông lại càng cao hơn. ở các bờ mái và trên nóc chùa là những cặp rồng uốn cong, mềm mại đối xứng nổi lên trên những dãy ngói âm dương chạy dọc trông thật cân đối, hài hòa, đẹp mắt. Dưới mái cổ lầu có những bức đắp nổi sự tích đức Phật, bố cục trọn vẹn trên các khung đúc. Dọc theo các cột trụ tiền đường là các bức câu đối dài nét chữ sắc sảo. Tả hữu sát với tiền đường có hai lầu chuông trống.
Trong điện có pho tượng đức Thế tôn Thích ca mâu ni ngồi trên tòa sen. Chùa Từ Đàm thờ độc tôn nên cách bài trí và thờ tự trong điện có phần đơn giản so với các ngôi chùa khác ở Huế. Phía sau chính điện có nhà Tổ, nhà Tăng. Từ Đàm là ngôi chùa Hội cho nên Hội quán được xây dựng lớn, rộng 10 căn, cao hai tầng ở sân dưới chùa cạnh đường Phan Bội Châu.
Từ Đàm đã được nhiều người ở khắp đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng và phát triển của Phật giáo Việt Nam thời kỳ cận đại và cuộc đấu tranh vì hòa bình và tự do tín ngưỡng. Chùa Từ Đàm là trụ sở hoạt động của An Nam Phật học hội.
Nốt ruồi ở xương quai xanh hoặc bả vai - quản lý tài sản không tốt Nếu vị trí lõm giữa xương quai xanh và bả vai có nốt ruồi thì khả năng quản lý tài sản của người này không tốt, không có khả năng xây dựng tài chính, điều này sẽ làm cho hậu vận gặp khó khăn vì không có tích lũy. Bởi vậy, bất kể nam nữ, nếu có nốt ruồi tại vị trí này thì nên thận trọng ngay cả khi tiền đã cầm trong tay, đặc biệt là trong việc đầu tư tài chính.
Nốt ruồi ở bầu ngực – người hẹp hòi, túng thiếu Nếu một trong hai bầu ngực có nốt ruồi thì người này khá hẹp hòi, “lòng lang dạ thú” và thường xuyên lâm vào cảnh túng thiếu, mối quan hệ với người khác thường không tốt, thường bị hiểu lầm hoặc bị hãm hại. Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này thường rất đào hoa, tuy nhiên đào hoa quá vượng cũng khiến cho chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở.
Nốt ruồi dưới gót chân – gặp nhiều phiền toái Dưới gót chân có nốt ruồi, đặc biệt là nốt ruồi đen thì bạn nên cẩn thận, vì nốt ruồi này cảnh báo cuộc sống của bạn gặp rất nhiều phiền toái, làm việc hết mình hết sức nhưng kết quả thu được ít hoặc không được người khác công nhận, chuyện tình cảm cũng không khá hơn, cố gắng nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu. Nếu là nữ giới thì có thể chọn màu sơn móng chân phù hợp với bản mệnh, còn với nam giới thì có thể xóa nó đi, ít nhiều vận trình sẽ được cải thiện. Ngoài ra, nếu bạn thường xuyên đi tất thì ảnh hưởng của nốt ruồi cũng giảm đi đáng kể.
![]() |
Ảnh minh họa. |
Theo quan niệm của ông bà ta xưa, khi gia đình ai đó đào đất lấp ao, khơi rãnh, xây tường không may chạm Long Mạch, thì những người sống trong gia đình đó dễ gặp tai hoạ, vận rủi, điềm xấu… Do đó gia chủ phải làm lễ bồi hoàn địa mạch để giải trừ tai hoạ, vận xấu.
Để tránh được tai họa thì gia chủ phải lấy nước ở ba con sông, hoà với năm loại đất linh để nặn Thần Quy (Thần Rùa), cho chỉ 5 màu vào thân Rùa.
Sau đó, chọn các ngày Thiên Xá, Thiên Nguyên, Địa Nguyên, Cường Nhật, Trùng Mậu, Trùng Kỷ rồi tìm nơi đào đất tạo thành hố bày lễ hoa quả ứng với Ngũ Hành (5 màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, đen hoặc tím), cùng lễ mặn ứng với Ngũ Hành, hoa 5 màu, hương, vàng mã… cạnh hố khấn cầu theo bài văn khấn bồi hoàn địa mạch.
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Đức U minh Giáo chủ Địa Tạng Vương Bồ Tát
- Con kính lạy Đức Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy các Ngài Ngũ phương, Ngũ đế, Ngũ nhạc thánh đế, Nhị thập tứ khí phần quan, Địa mạch thần quan, Thanh Long Bạch Hổ, chư vị thổ thần cùng quyến thuộc.
- Con kính lạy các ngài Kim Niên Đương cai Tôn thần, Bản cảnh Thành hoàng Tôn thần và các vị thần minh cai quản trong khu vực này.
Tín chủ (chúng) con là:……
Ngụ tại:……………………
Hôm nay là ngày…. Tháng…. Năm…, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án, xin điền hoàn địa mạch. Tín chủ có lời thưa rằng:
Bởi vì trước đây
Do tinh mờ mịt
Thức tính hồn mờ
Đào đất lấp ao
Gầy nên chấn động
Hoặc bởi khách quan
Hoặc do chủ sự
Tổn thương Long Mạch
Mạo phạm thần uy
Ảnh hưởng khí mạch
Nay muốn cho phong thổ an hoà, gia đình chúng con mọi người được an bình, miễn trừ tai họa, nên tín chủ con trượng uy Đại Sỹ, nương đức Tôn thần, cung tạo bồi hoàn, nhương kỳ khẩn đảo thần công, nguyện xin bảo hộ, chứng minh sám hối, thụ hưởng đan thành.
Tín chủ chúng con xin thành tâm cúng dâng:
Ngài U minh Giáo chủ Bản tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát;
Ngài Kiên Lao địa thần Bồ Tát;
Các Ngài Ngũ phương, Ngũ đế, Hậu Thổ nguyên quân, Sơn nhạc Đế quân, Đương phương Thổ địa, Thổ phủ Thần kỳ;
24 Khí Thần quan; 24 Long Mạch Thần quan, 24 Địa Mạch Thần quan, 24 Sơn Địa Mạch Thần quan, 24 Hướng Địa Mạch Thần quan;
Thanh long Bạch hổ, Thổ bá, Thổ hầu, Thổ mãnh, Thổ trọng Thần quan, Thổ phụ, Thổ mẫu, Thổ lương, Thổ gia Thần quan, Thổ tử, Thổ tôn, Thổ khảm, Thổ khôn Thần quan, Thổ kỳ Ngũ phương Bát quái và các Thần minh quyến thuộc, Kim niên Hành khiển Thái tuế chư đức Tôn thần,
Đương cảnh Thành hoàng bản thổ Đại Vương và tất cả các vị Thần minh cai quản khu vực này,
Cúi xin thương xót tín chủ chúng con, nhận lời cầu thỉnh, chuẩn tâu sám tạ, giáng phó án tiền, hưởng lễ vật. Nguyện cho: Phong thổ phì nhiêu
Khí sung mạch vượng
Thần an tiết thuận
Nhân sự hưng long
Sở cầu như ý.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
![]() |
Ảnh minh họa |
Bài 1: Vận mệnh và dự đoán vận mệnh
Trích cuốn “Có một Ðấng Tạo Hóa quan tâm đến bạn không?“ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội NW:
“Vào năm 1905, tức là 40 năm trước năm 1945, Einstein đã tiên đoán có một quan hệ giữa vật chất và năng lượng. Nhiều người biết phương trình E = mc² (trong đó E là năng lượng, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng) của ông. Chẳng bao lâu sau khi quan hệ đó được Einstein công thức hóa thì các nhà bác học có thể giải thích được là làm sao mặt trời tiếp tục chiếu sáng hàng tỷ năm. Trong mặt trời có những phản ứng nhiệt hạch liên tục. Bằng cách này, mỗi giây, mặt trời biến khoảng 564 triệu tấn hyđro thành 560 triệu tấn heli. Ðiều này có nghĩa là cứ trong mỗi giây có khoảng 4 triệu tấn vật chất đã biến đổi thành năng lượng mặt trời mà một phần tỏa xuống mặt đất bảo toàn sự sống.
Ðiều đáng chú ý là quá trình có thể đổi ngược lại. Cuốn The World Book Encyclopedia giải thích : “Năng lượng đổi thành vật chất khi những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở tốc độ cao tạo ra các hạt mới nặng hơn“. Các nhà khoa học đã thực nghiệm được điều này trong một phạm vi giới hạn, dùng máy khổng lồ gọi là máy gia tốc hạt, trong đó những hạt bên trong nguyên tử va chạm nhau ở vận tốc cực cao, để tạo ra vật chất. Nhà vật lý học đoạt giải thưởng Nobel, tiến sĩ Carlo Rubbia giải thích: “Chúng tôi đã tái tạo một trong các phép lạ về vũ trụ - biến năng lượng thành vật chất““.
…………………………..
“Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo ra các vật này? Ấy là Ðấng khiến các cơ-binh ra theo số nó, và đặt tên hết thẩy, chẳng một vật nào thiếu, vì sức-mạnh Ngài lớn lắm, và quyền-năng Ngài rất cao (Ê-sai 40:26). Vâng, Kinh-thánh nói rằng một nguồn năng lượng vô biên - Ðấng Tạo Hóa – đã hình thành vũ trụ vật chất. Ðiều này hoàn toàn phù hợp với kỹ thuật tân tiến“.
Qua 2 đoạn trích trên cho chúng ta thấy rằng câu đầu tiên của Kinh-thánh: “Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất“ (Sáng-thế Ký 1:1) có thể được hiểu chính xác là : Ban đầu Ðức Chúa Trời đã dùng sức mạnh vô biên của mình để dựng nên vũ trụ trong đó có mặt trời và trái đất của chúng ta. Cho nên khi các ngôi sao (như mặt trời của chúng ta) cháy mãi hết nhiên liệu rồi sẽ phải tắt thì ở trong một môi trường đặc biệt nào đó như Hố Trắng chẳng hạn sẽ phun ra vật chất (tham khảo chủ đề “Những điều cần biết về Vũ Trụ học“ trong mục “Lý Học Ðông Phương“ tại trang web này), trong đó xuất hiên các ngôi sao mới. Chính điều này có thể chứng minh được vì sao trên bầu trời của chúng ta tới nay vẫn tồn tại ti tỷ các ngôi sao tỏa ánh sáng - năng lượng - vào vũ trụ rộng bao la trong khi thời gian là vô tận.
“Nhà địa chất học nổi tiếng Wallac Pratt bình luận : “Nếu có ai yêu cầu tôi, với tư cách là một nhà địa chất học, giải nghĩa cách vắn tắt các tư tưởng tân thời của chúng ta về nguồn gốc của trái đất và sự phát triển của sự sống trên đó cho những người mộc mạc, quê mùa như các chi phái mà sách Sáng-thế Ký được viết cho, thì tôi không thể làm gì hay hơn là theo sát phần lớn lối diễn tả và ngôn ngữ trong chương một của Sáng-thế Ký“. Môi-se là người viết quyển đầu tiên của Kinh Thánh là Sáng-thế Ký khoảng năm 1513 TCN (vì cuốn Kinh Thánh là một bộ gồm 66 cuốn sách nhỏ được viết trong một khoảng thời gian hơn 1.500 năm từ 1513 TCN đến khoảng năm 80 SCN - có khoảng 40 người đã tham gia viết). Ông Wallac Pratt cũng nhận xét rằng thứ tự các biến cố mô tả trong sách Sáng-thế Ký: Nguồn gốc của đại dương, việc đất trồi lên, sự xuất hiện các loài sống dưới biển, chim chóc và các động vật hữu nhũ, thực chất là thứ tự của các giai đoạn chính yếu của thời đại địa chất.
Chúng ta thử xem xét: Cách đây 3500 năm, làm sao Môi-se biết được thứ tự chính xác như thế nếu như tin tức đó không phải bắt nguồn từ Ðấng Thiết Kế (Ðức Chúa Trời)“.
Ðể phù hợp với khoa học chúng ta thừa nhận rằng Môi-se vào thời gian đó chỉ là người “Ở Trần Ðóng Khố“ trong một xã hội còn rất lạc hậu trên trái đất của chúng ta đã ghi chép lại những tri thức mà các vị khách thuộc một nền văn minh ngoài trái đất ghé thăm chúng ta (có thể gọi họ là các sứ giả của Ðức Chúa Trời) truyền đạt cho. Chính vì vậy mà ngôn ngữ diễn đạt rất mộc mạc, đơn sơ, hầu như Môi-se và những người tham gia viết Kinh-thánh chỉ diễn đạt được các tri thức của Họ theo nghĩa đen mà thôi, vì vậy mới có nhiều sai sót. Ðó là lý do vì sao có sự kiện Galileo bị đưa lên ngọn lửa của giàn thiêu.
Một điều quan trọng nữa là cuốn Kinh-thánh không những đã nói tới nguồn gốc hình thành, sự kiến tạo địa chất của trái đất và sự phát triển của sự sống trên trái đất mà cuốn Kinh-thánh còn dự đoán các sự kiện đã và chưa xẩy ra. Ðó là dự đoán sự xuất hiện của 7 cường quốc trên trái đất trước khi trái đất bị hủy diệt bởi sự va chạm với thiên thạch. Phần này xin mời các học viên đọc chủ đề: “Trận chiến Ha-ma-ghê-đôn và ngày tận thế“ trong mục “Dự Báo và Chứng Nghiệm“ tại trang web này.
Ðiều này đủ cho chúng ta nhận thấy rằng cuốn Kinh-thánh không chỉ dừng lại ở mục đích truyền bá về hệ tư tưởng, đạo đức mà nó còn dự đoán vận mệnh của trái đất của chúng ta. Vận mệnh trái đất, Họ (tức người ngoài hành tinh của chúng ta) còn dự đoán được, vậy thì vận mệnh của con người chúng ta Họ không dự đoán được sao? Cho nên theo tôi học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý đã xuất hiện trên trái đất của chúng ta khoảng 3 đến 4 nghìn năm hoàn toàn phù hợp với khoảng thời gian xuất hiện cuốn Kinh-thánh cũng là món quà mà những vị khách này đã viếng thăm và tặng chúng ta.
Ðây chính là lý do mà tôi đã nghiêm túc nghiên cứu môn Tử Bình qua lăng kính của Vật Lý học.
Ở bài 1 này tôi không đòi hỏi mọi người phải tin rằng con người nói riêng hay vạn vật nói chung có vận mệnh và dự đoán được vận mệnh… mà tôi khuyên mọi người chưa nên tin bất cứ cái gì ngay được. Mọi cái cứ từ từ nghiên cứu xem sao đã, chỉ đến khi có được sự suy luận có lý cộng thêm các ví dụ trong thực tế kiểm nghiệm lý luận đó đúng thì mới có thể tin được mà thôi.
Các câu hỏi trọng tâm:
1 - Bạn hãy thử chứng minh học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng với bảng Nạp Âm sáu mươi năm Giáp Tý (hoàn toàn theo nhận thức đã có của bạn không dựa theo nội dung bài viết trên) là do người Trung Quốc nói riêng hay của người trên trái đất chúng ta nói chung phát minh ra chứ không phải do những người thuộc nền văn minh ngoài trái đất tặng.
2 – Theo bạn khái niện Lỗ đen và Lỗ trắng để giải thích sự tồn tại vĩnh hằng của Vũ Trụ có tính thuyết phục (hợp lý) hay không?
3 – Âm Dương Ngũ Hành là các tiên đề trong mệnh học Ðông Phương có hợp lý không ?
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
nhiều.
![]() |
Thương quan gặp quan thì không những khắc chồng mà thân còn vất vả, nếu không làm hại chồng thì cũng là người bệnh hoạn, người ít phúc đức, cuộc sống không yên ổn.
Thiên can thấu quan sát , địa chi không có quan sát lại còn gặp đất tử tuyệt, đó là người làm suy kiệt chồng, cuối cùng đi làm vợ lẽ.
Nữ tài phải ít, nếu tài nhiều thì dâm loạn.
Tài và quan cả hai đều có thì khi hành vận gặp cả quan lẫn kiếp tài sẽ khắc chồng, qua vận mới nên lấy chồng
(hoặc nên lấy chồng muộn).
Thương quan trùng trùng tất sẽ khắc chồng và tính cách ngang bướng.
Nữ mà quan tinh nhiều thì làm hại chồng.
Nữ mà thực quan ít thì chồng suy, con vượng.
Nữ vận hành đến đất tỉ kiếp thì làm trở ngại chồng, khắc cha.
Quan tuyệt hưu tù thì cô quả, đơn đọc.
Nữ có kình dương là khắc chồng, chắc chắn sẽ tái giá.
Nữ Tứ trụ gặp thương nếu lấy chồng gần thì sẽ khắc chồng, gặp xung, kiêu, ấn nếu không ly dị thì dễ chết.
Nữ chỉ có 1 quan tinh là tốt, nhiều quan tinh là tượng tái giá lấy chồng nhiều lần.
Kiêu, ấn trùng trùng là người vợ dễ tử biệt sinh ly.
Trong Tứ trụ không có quan tinh, không làm vợ lẽ thì cũng là vợ kế.
Tài quan nhập mộ là người không là hại con thì cũng khắc chồng.
Tài quan lâm tử tuyệt là người phụ nữ cô quả đói nghèo.
Tài quan đều rơi vào tuần không vong là gây hại cho chồng, phải bỏ đi phương xa.
Trong Tứ trụ có cả kiêu thực cùng với thương quan là hại con, khắc chồng.
Mậu sinh vào ngày quý là quan, tuổi trẻ đã lấy chồng già. Trong Tứ trụ nếu gặp cả hợi, dậu thì không lấy chồng là tốt nhất.
Nữ không có tài, quan, thực ấn thì người đó cuộc sống không vất vả cũng là làm nghề ca kĩ.
Mệnh nữ trong Tứ trụ đinh gặp nhâm nhiều đó là người dâm loạn.
Phu tinh vượng, tử tinh suy, tất khắc con ; tử tinh vượng. Phu tinh suy, tất làm hại chồng.
Trong Tứ trụ chỉ một phu tinh, hai tài tinh thì gọi là người tranh chồng ; nếu chính tài vượng, thiên tài suy thì mình làm vợ cả, người kia làm vợ lẽ, ngược lại là mình làm vợ lẽ.
Phu tinh không vượng lại còn bị khắc chế là người lấy chồng muộn, hoặc lấy chồng bất minh, lén lút.
Tham tài, làm hỏng ấn là người phụ nữ bất lương ( tài nhiều, ất ít).
Tài tinh nhiều là khắc chồng : thân ở vượng địa là giàu mà khắc chồng con.
Tứ trụ có quý nhân còn gặp trạch mã là người đẹp, phong lưu, khéo.
Người hợp quý nhiều thì người đẹp, đa tình nhưng thấp hèn.
Ðào hoa mờ, mộc dục rõ không là người đi tu cũng là người ở chùa.
Tí, ngọ, mão, dậu đều có là người ham mê tửu sắc, hoang dâm. Dần , thân, tị, hợi đều có là người phụ nữ thông minh.
Ấn tin nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
Mệnh nữ nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
Mệnh nữ có quan tinh khi hành đến quan vận thì sẽ khắc chồng.
Trong Tứ trụ kim thanh, thủy lạnh là người khó lấy chồng.
Thổ táo, hỏa mạnh thì phòng không lạnh lẽo.
Quan nhiều, ấn nhiều là người cô đơn.
Tài suy, ấn tuyệt là lấy chồng sớm ( tảo hôn).
Tứ trụ gặp tam hình, gặp quan quỷ là khắc con hại chồng.
Thủy tụ vượng là người con gái lẳng lơ.
Lục hợp cùng với tam hình là người hại chồng, làm bại gia nghiệp.
Phá tài, phá ấn là người khó lấy chồng.
Xung quan hợp thực ( thần ) thì hình phạt chồng, sống nương tựa vào con.
Quan tinh được lệnh mà gặp thương là người làm ni cô.
Trụ ngày là kình dương là gặp sát là người không làm vợ lẽ thì cũng đi tu.
Chỗ ngang vai trong lục thân mà lộ ra chị em tất có chuyện tranh chồng.
Trong Tứ trụ toàn tỉ kiếp, quan địa thì chắc chắn có chuyện tranh chồng.
Phu tinh vượng, quan tinh được lệnh, kiêu thần mạnh thì hại con.
Năm và ngày tương xung thì không nên sinh đẻ.
Mệnh đào hoa là người phụ nữ rất dâm.
Thân vượng, quan tinh hung thì người đó không đi tu cũng làm nghề ca kĩ.
Thực thần gặp kiêu thần nhiều, can của năm sinh là thương quan, giờ là kình dương , hình xung khắc hại, lưu niên và các vận xung hợp kiêu thần, kình dương thì nhất đinh sinh đẻ khó khăn, trắc trở.
Phạm tam hình lục hợp, vong thần kiếp sát, cô thần quả tú là người khắc chồng, khắc con.
Nữ gặp quan đế vượng là người còn trinh nguyên.
Quan tinh gặp tuần không vong, ngày sinh vô khí là người không có chồng, nếu có thì cũng luôn luôn sợ chết chồng.
Kim thần gặp giáp là người khắc chồng.
Người trong Tứ trụ có thân tí thìn gặp nhâm quý là người không tiết hạnh.
Người đào hoa gặp kiếp sát là người cô độc, dâm ô, phá hại gia nghiệp, trẻ thì làm nghề linh tinh, già thì cô đơn nghèo khổ.
Hàm trì và đại hao cùng cung với nhau là người độc ác, gian dâm.
Người gặp mão dậu nhiều là người hay sẩy thai, khắc con. Hay đau nhức về bệnh máu.
Phu tinh đắc địa là người nhiều con.
Nhất đóng ở thương quan là người hay chửi chồng. Người như thế nên lấy chồng già làm mẹ kế hay vợ lẽ.
Trong Tứ trụ tân là quan tinh, có sửu là phu ( chồng ) kho nếu gặp nhiều tân là người đã chết chồng.
Nữ gặp tí ngọ mão dậu là người theo trai làm vợ .
Nữ ngày giờ sinh gặp khôi canh là hại chồng khắc con.
Nữ mệnh thủy gặp thổ nhiều là người sống cô đơn.
Cung phu có khắc là lấy vợ muộn, cung thê có khắc là lấy chồng muộn.
Nữ phạm thương quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
Nữ phạm thượng quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
Nữ phạm thương, thiên, ấn thì không lợi cho chồng con.
Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ không kính chồng. Cướp quyền chồng.
Quan tuyệt, hưu tù là người cô đơn quả tú.
2. LY HÔN
Ví dụ 1. Khôn tạo
Tháng 3 năm 1984 người phụ nữ này nhờ đoán. Tôi xem trong Tứ trụ thấy kiêu thương tỉ kiếp đều có, lại còn thêm âm dương sai lệch, trụ ngày có khôi canh, đại vận lại gặp khôi canh nên chắc chắn phải kết hôn hai lần. Năm ất tị 1965 đúng là thương quan gặp thương quan có hại, vì kỉ thổ quan tinh ở vượng địa, chồng khoẻ không đến nỗi chết cho nên đoán ly hôn. Quả nhiên đúng thế.
Ví dụ 2. Khôn tạo
Tứ trụ này thương quan hai rõ ba mờ, thương vượng nhiều, chắc chắn là khắc chồng. Quả nhiên năm 1975 cô đó ly hôn. Năm 1975 cô ta 41 tuổi, hành đại vận giáp tí, gặp lưu niên ất hợi, kiêu ấn đều vượng, đó là năm ly hôn, chính ứng câu " Kiêu ấn trùng trùng là người phụ nữ tử biệt sinh ly".
Ví dụ 3: Khôn tạo
Tháng 2 năm 1985 cô Mai nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thân ở đất đế vượng, thân vượng, kiêu ấn lại nhiều, kình dương nhiều chắc chắc là người phụ nữ khắc chồng, tái giá. Cho nên đoán : năm nhâm tí 1972 có ly hôn. Sự thực đúng thế
Ly hôn năm 1972 là vì đại vận nhâm dần, lưu niên là nhâm tí, tiểu vận là ngang vai, thân gặp đế vượng tất khắc chồng, lại kình dương trung lặp với tuế quân, "kình dương gặp tuế quân là đột nhiên hoạ đến". Nếu không ly hôn thì nhất định gặp hoạ.
Ví dụ 4. Khôn tạo
Mùa thu năm 1985 cô Trương đến nhà nhờ đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ thân vượng, sát vượng là vợ chồng xung khắc, cung phu sửu thổ là dậu sửu bán hợp , lục hợp với tí sửu là cuộc hôn nhân trước nóng sau lạnh, trước hợp sau tan. Nên năm 1972 ly hôn, năm 1978 ly hôn lần thứ hai.
Ly hôn năm nhâm tí 1972 là vì : đại vận đinh sửu ngang vai khắc chồng, lưu niên nhâm tí chính là hai sửu hợp với 2 tý, tức là chồng hợp với người khác. Năm 1978 lại ky hôn vì đại vận mậu dần là đất thương quan, lưu niên mậu ngọ là chỗ thương quan, "thương quan vượng địa là người khắc chồng".
Ví dụ 5. Khôn tạo
Tháng 11 năm 1988 khi tôi đang giảng bài ở Nam Kinh có một vị đại sứ nước ngoài nhờ tôi đoán vận cho ông ta và người nhà. Khi tôi sắp xếp Tứ trụ con gái của ông, thấy trong Tứ trụ tỉ kiếp rất nhiều, cung phu tương hình nên khắc chồng rất nặng. Do vậy đoán năm 1975 nhất định phải ly hôn. Quả đúng tháng 5 năm 1975 vừa lấy chồng thì tháng 7 đã ly hôn.
Năm 1975 ly hôn là vì: trong Tứ trụ rất nhiều tỉ kiếp, điều đó ứng với câu : " Tỉ kiếp trùng trùng là chồng không còn tình nghĩa với mình".
Ví dụ 6 . Khôn tạo
Tháng 7 năm 1987, tôi đến núi Phổ Ðà là một thắng cảnh của Phật giáo có 1 nữ thanh niên biết tôi đã nhờ tôi đoán giúp. Tôi thấy trong Tứ trụ, tỉ, kiếp mỗi bên 1 nửa, cung chồng khắc thân đó là tượng người phụ nữ lấy chồng muộn nhưng lại sớm chia tay. Do đó tôi nói với cô ta: cô lấy chồng muộn, nhưng không suôn sẻ. Theo Tứ trụ của cô thì năm kết hôn cũng là năm ly hôn. Năm 1986 có tai hoạ đó, cô ta thừa nhận : đúng như thế!
Năm 1986 ly hôn là vì : gặp đúng đại vận bính thìn, lưu niên bính dần là ấn thủ vượng địa cho nên có việc ly hôn. Ðúng là "tỉ kiếp trùng trùng là kết hôn 2 lần".
Trong 2 ví dụ 4 và 5, tỉ kiếp rất nhiều, nhưng là hai cô ở hai nước khác nhau thế mà tai hoạ trong hôn nhân lại giống nhau nên có thể nói Tứ trụ dự đoán học đoán ở đâu cũng đúng.
Ví dụ 7. Khôn tạo
Ðây là Tứ trụ của một diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Trung Quốc, mùa xuân năm 1990 khi tôi ở Thượng Hải đã khẩn thiết nhờ tôi đoán. Tôi xem trong Tứ trụ không thấy quan tinh, tức là "không phải là vợ lẽ thì cũng là vợ kế, nên ly hôn tái giá là điều chắc chắn". Xem đại vận thấy gặp thương quan, lưu niên bính dần lại là lúc "thương quan gặp quan" nên khắc chồng, do đó tôi nói: năm 1986 có chuyện ly hôn, nếu không ly hôn thì chồng chết. Cô ta nói: năm 1986 đã ly hôn. Xem ra đó là điều may mắn vì đã cứu được một sinh mạng.
Ví dụ 8. Khôn tạo
Tháng 4 năm 1991 khi ở Singapo người phụ nữ này nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ quan tinh hai lần lộ ra, thương quan mở, năm giáp tí 1984 thì ba quan hội ở vượng địa là người vợ có rắc rối trong hôn nhân, lại gặp phải "thương quan gặp thương quan là sẽ có tai hoạ bất ngờ ập đến", cho nên tôi đoán cô ta năm 1984 phải ly hôn. Lời đoán rất ứng nghiệm.
3. MẤT CHỒNG
Ví dụ 1 . Khôn tạo
Mùa xuân năm 1984, một thầy thuốc nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều lại gặp đế vượng, phu tinh tí thuỷ lại gặp hưu tù, thương quan laị vượng, tức là phu tinh có khắc không có sinh nên chắc chắn là chết. Do đó tôi đoán chồng chết năm 1969 tức là năm kỉ dậu thương quan. thực tế đúng như thế.
Ví dụ 2 . Khôn tạo
Mùa đông năm 1986 một diễn viên kịch nói nổi tiếng của Trung Quốc đến nhà nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ của bà có "Tứ trụ thuần âm là tượng khắc chồng tái giá", "thực kiêu cũng gặp thương quan là nếu có chồng thì chồng chết", nên tôi đã đoán : nếu chồng bà không chết năm 1970 thì chết năm 1971. Bà nói: đúng, chồng mất năm 1970.
Chết năm 1970 là vì đúng với câu : "Kiêu ấn trùng lặp là người phụ nữ có tử biệt sinh ly".
Ví dụ 3. Khôn tạo
Tháng 1 năm 1986 có 1 phụ nữ thông qua Lô Chí Tần nhờ tôi đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ của bà, thương quan trùng lặp nhiều nên nói: cuộc đời của bà khổ nhất là việc hôn nhân không thuận, chồng mất liên tiếp, vừa tái giá lại tái giá. năm 1984 lại vừa gặp tai nạn mất chồng. Bà ấy vừa khóc vừa nói : người chồng thứ nhất của tôi mất năm 1959, người thứ hai mất năm 1984.
Chồng mất năm 1984 là vì nguyên nhân: ba thương hội tụ ở vượng địa.
Ví dụ 4. Khôn tạo
Ðầu năm 1984, có 1 người Hồ Bắc đến nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thực nhiều, kiêu mạnh, kiêu thực đều có đó là thông in chồng mất rất rõ. Hiên nay đại vận canh ngọ gặp đát kiêu, năm giáp tí 1984 là năm có 3 thực, 4 kiêu tranh đoạt thực rất kịch liệt, nên năm 1984 có tai họa mất chồng. Tôi đã trình bày cho cô ta cách giải, nhưng cô không làm theo. Về sau tháng 8 năm 1984 thì báo thấy có tang : ngày 3 tháng 3 người chồng bỗng nhiên bị chết.
Ví dụ 5. Khôn tạo
Mùa xuân năm 1987 khi tôi lên Bắc Kinh gặp 1 người phụ nữ có chức vụ khá cao đã nhờ tôi đoán vận với thái độ xem thường việc đoán. Tôi thấy bà rất tự phụ, vốn không muốn đoán nhưng để muốn chứng minh rằng Chu dịch dự đoán học và Tứ trụ dự đoán học là có cơ sở nên tôi cũng sắp xếp Tứ trụ và đoán luôn. Vừa vào đầu đã nói đúng yếu điểm của bà ta : năm 1974 bà bị chết chồng. Nghe xong bà ta rất phục.
Ðại vận của bà ta là Giáp dần, lưu niên cũng là giáp dần, là tam quan cùng tương ngộ, hội tụ, tức ứng với câu " Nữ có quan tinh lại gặp quan vận, tất sẽ khắc chồng".
Ví dụ 6: Khôn tạo
Tháng 5 năm 1991 khi tôi ở Băng Cốc -Thái Lan có 1 bà họ Từ là đại thương nhân, tuy tuổi đã quá 60 nhưng tinh thần vẫn rất sung mãn, cười nói hoạt bát có duyên, tiếp khách nhiệt tình, cởi mờ. Bà ấy đã đưa Tứ trụ ra nhờ tôi đoán. Xem xong Tứ trụ tôi nói luôn : Tứ trụ của bà không có quan tinh là suốt đời tự do thoải mái, đi về một mình. Trong hôn nhân bà trước hết là tì thiếp sau mới làm vợ. Năm 1969 thì mất chồng. Bây giờ giàu có và quyền thế đã ràng buộc bà. Nghe xong bà liền giơ ngón tay cái: Thầy Thiệu là người thần, đoán đúng hết. Về hôn nhân thì bà là người vợ thứ 3 và chồng bà đã mất năm 1969.
Chông mất năm kỉ dậu (1969) là vì : kiêu, ấn, đều vượng lại gặp tuế vận, lại còn gặp kiêu thần. Ðiều đó ứng với câu " Tứ trụ không có quan tinh không làm vợ lẽ thì cũng làm mẹ kế".
Mục 2 và mục 3 ở trên đều nói về những tiêu chí thông tin và các sự việc khắc vợ, khắc chồng. Hoạ khắc vợ khắc chồng là điều mọi người rất quan tâm. Nhưng tai hoạ có thể hóa giải được không ? Ðiều đó phải xem hoàn cảnh cụ thể của người ấy, có người hoá giải được, có người không. Ví dụ về ly hôn mà nói, ai cũng hy vọng không việc gì xẩy ra việc đó và xem nó như một tai hoạ trong đời người, nhưng thực tế có lúc ly hôn lại cũng không phải hoàn toàn là xấu.
Vì hai vợ chồng khí âm dương ngũ hành bất hoà từ lúc khắc nhau phát triển đến giai đoạn đối kháng, trong thời gian đó hai vợ chồng ngoài những lúc bực tức, tranh cãi, đánh nhau, làm việc gì cũng không thành, tuy rằng việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn lại do cãi nhau, mà điều chủ yếu là do sự đối kháng của khí âm dương bất hòa nên cuối cùng dẫn đến hôn nhân tan vỡ. Cuộc hôn nhân bất hòa có trường hợp sức khắc mạnh mẽ, nếu không ly hôn thì một bên sẽ chết, tuy nhiên cái chết đó là nguyên nhân bên ngoài hoặc bệnh tật gây đến, nhưng thực chất là do mệnh vận tác động sai khiến. Cho nên có những cuộc ly hôn không những cứu được một mạng người mà sua khi ly hôn mỗi người đều tìm thấy những người bạn tương sinh, tương hợp với mình, làm cho hai khí âm dương trong cơ thể được cân bằng, tình cảm thoải mái, thúc đẩy sự nghiệp phát triển, có cống hiến cho xã hội.
Trong vấn đền ly hôn không phải hai bên đều tự nguyện mà thường một bên hay nói có chết cũng không ly hôn. Ðối với các trường hợp như thế có thể tìm cách hóa giải để giải hoạ. Ví dụ tôi đã dùng phương pháp giải cứu cho nhiều cuộc ly hôn có hiệu quả tốt. Dưới đây cử vài ví dụ. Càn tạo.
Tháng 3 năm 1985, gặp một trường hợp đòi ly hôn nhau, thời gian khá dài. Lãnh đạo và bạn bè đã khuyên hết lời, nói : ông đã hơn 50 tuổi, con cháu đều có, đòi ly hôn không sợ người đời cười hay sao. Nhưng ông ta vẫn một mực không nghe. Cuối cùng ông ta nghe người khác khuyên đến nhờ tôi hóa giải.
Tôi xem trong Tứ trụ ông ta thấy ngang vai nhiều, kình dương lại gặp vượng địa, nhật nguyên là mậu dần, năm và lệnh tháng xung khắc thê tinh rất nặng. Trên Bát quái thông tin khắc vợ cũng rất rõ nên từ rất sớm đã ly hôn 1 lần. Lần ly hôn thứ hai sẽ xảy ra vào năm bính dần (1986) là không nghi ngờ gì nữa.
Nhưng tôi thấy sự khắc vợ của ông ta tuy hung nhưng có thể hóa giải được và đã bày cho ông ta cách giải. Kết quả người chồng càng bình tĩnh và cuối cùng quan hệ vợ chồng tốt dần. Bạn bè người quen ai cũng rất ca ngợi.
Người tuổi Ngọ thông minh lanh lợi, vui vẻ hoạt bát. Họ là những người yêu đời và sống lạc quan tích cực. Có thể nói người tuổi Ngọ luôn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống, họ cũng được nhiều người quý mến vì sự chân thành và trung thực của mình.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |