Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Quẻ Quan Âm thứ 80 Quẻ Quan Âm: Trí Viễn Đầu Quân đoán rằng làm việc phải có trước có sau, không nên thay đổi. Việc đã dự tính sẽ được trợ giúp
Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 80 được xây dựng trên điển cố: Trí Viễn đầu quân.

Quẻ thượng cát thuộc cung Mùi. Làm việc nên có trước có sau, đừng nên bất nhất thì sẽ có được sự tin tưởng mà không hỗn loạn. Những việc trong lòng dự tính cứ bình tĩnh mà thực hiện, sẽ có quý nhân đến trợ giúp.

Thử quái quý nhản tiềp dẫn chi tượng. Phàm sự hòa hợp đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Trí Viễn Đầu Quân

Tương truyền vào thời kỳ Nam Bắc Triều, ở trang trại nhà họ Lý có một viên ngoại họ Lý, sinh được hai người con, người con trai tên là Lý Hòng Tín, người con gái tên lầ Lý Tam Nương. Lưu Trí Viễn (895 – 948), cũng gọi là Lưu Tri Viễn, là vị hoàng đế khai quốc của nhà Hậu Hán trong thời kỳ Ngũ Đại, sau khi lên ngôi hoàng đế đổi tên là Lưu Hạo) xuất thân nghèo khố, sau khi vào quân đội, đi chăn ngựa ở Tấn Dương, gặp Lý thị, vào làm rể trong Lý gia trang, thành hôn với Lý Tam Nương.

Không ngờ Lưu Trí Viễn vốn có mệnh làm thiên tử, sau khi lạy nhạc phụ nhạc mẫu, thì hai ông bà đều qua đời. Vợ chồng Lý Hồng Tín vốn đã oán giận Lưu Trí Viễn, thấy cha mẹ qua đời, sợ Lý Tam Nương sẽ phân chia gia sản với mình, liền đổ cho Lý Tam Nương tư tình mà đính hôn, làm bại hoại gia phong, muốn hại chết vợ chồng Lưu Trí Viễn và Lý Tam Nương. Vì vướng mắc quan hệ gia đình, sợ để lại tiếng xấu bất nhân bất nghĩa, hai người bèn đuổi Lý Tam Nương đến thôn Ma Oa gánh nước tưới gai, lại đẩy Lưu Trí Viễn đến khu vườn có con yêu tinh dưa tác quái để trồng dưa. Lý Tam Nương biết được mưu kế của họ, ra sức ngăn cản Lưu Trí Viễn đến vườn dưa, nhưng Lưu Trí Viễn cậy mình có võ nghệ, vẫn quyết đi một mình.

Khu đất mà Lưu Trí Viễn trồng dưa nằm ở vùng núi lớn tại Dương Địch xưa nối thông với hai đất Trịnh, Mật, tương truyền ở đó thường có một con quái thú màu đỏ ẩn hiện, không ai dám đi qua, mọi người gọi đó là “Bất Quá nhai” (núi không dám đi qua). Những thương nhân và tiểu thương của hai vùng Trinh, Mật qua đây đều phải đi đường vòng. Buổị tối ngày thứ ba sau khi Lưu Trí Viễn đến khu ruộng trồng dưa, thì yêu tinh dưa xuất hiện, chỉ thấy toàn thân màu đỏ, giống lao trông như một đám lửa lao đến. Lưu Trí Viễn vốn võ nghệ tài giỏi, ở nhà Lý Tam Nương cũng đã luyện được công phu luyện ngựa, bèn dậm đất nhảy bật lên, cưỡi lên lưng con quái thú, chạy qua chạy lại mười tám vòng, thì con quái thú đã thấm mệt, toàn thân toát mồ hôi, toàn là màu máu. Thì ra nó chính là con ngựa quý “Hãn huyết bảo mã” nổi tiếng.

Sau khi yêu tinh dưa bị Lưu Trí Viễn thuần phục, có vị tiên chỉ cho đào sâu ba thước tại mảnh đất trồng dưa, đào được ba báu vật là bộ áo giáp bằng vàng, cây thương bằng bạc và thanh kiếm bằng đồng, lại dặn dò anh hây đầu quân khởi nghiệp, chắc chắn sẽ có thành tựu.

Lưu Trí Viễn có được con ngựa quý và thanh kiếm báu, bèn từ biệt Tam Nương, đi đầu quân.

Sau khi Lưu Trí Viễn đi, Lý Tam Nương phải chịu sự dày vò của anh trai và chị dâu. Chị dâu bắt cô mỗi ngày phải gánh mười ba gánh nước, đêm đến phải đẩy cối xay đến sáng. Lúc này, Lý Tam Nương đã có thai. Một tối, anh trai của Tam Nương đưa cơm cho cô, thấy cô đi được một bước thì thở dốc đến ba lần, thực không đành lòng, liền bảo cô ăn cơm, còn mình thì đẩy giúp cối xay. Không ngờ chị dâu cũng đi theo đến đấy, thấy vậy thì giật phắt cái bát trong tay Lý Tam Nương, ném xúống đất. Lúc này Lý Tam Nương thấy đau bụng, rõ ràng là sắp chuyển dạ, nhưng chị dâu lại cho là giả vờ, cầm cái giằng cối xay định đánh. Sau thấy Tam Nương quả thực sắp sinh con, bèn kéo chồng chạy đi. Tam Nương đành phải tự mình sinh nở, dùng miệng để cắn dây rốn cho con, nên đặt tên con là “Giảo Tề Lang” (chàng cắn rốn). Tam Nương gọi người gia đinh già đến, ngay đêm đó đưa đến chỗ Lưu Trí Viễn để nuôi nấng.

Mười sáu năm sau, một hôm Lý Tam Nương đang múc nước ở giếng, có một con thỏ trắng mang mũi tên trên mình chạy đến, để lại mũi tên rồi đi. Sau đó có một vị tướng trẻ đuối đến, nói chuyện với Lý Tam Nương, mới nhận ra là mẹ đẻ của mình. Vị tướng trẻ đó chính là Giảo Tề Lang, nhưng cậu không dám nhận mẹ ngay tại đó, mà giả làm cháu. Sau đó về báo cho cha là Lưu Trí Viễn, mang quân về thôn Sa Đà, vợ chồng, mẹ con được đoàn viên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Bí kíp “né” giờ xấu hoàn hảo cho 12 con giáp

Nắm được mối quan hệ giữa các con giáp sẽ giúp chúng ta lựa chọn thời gian xúc tiến công việc thật hoàn hảo.
Bí kíp “né” giờ xấu hoàn hảo cho 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thế gian vạn vật tương sinh tương khắc, vận mệnh 12 con giáp cũng xoay chuyển theo quy luật đó. Mỗi con giáp khác nhau lại đại diện cho một tuổi và một thời khắc khác nhau. Mỗi thời khắc lại mang trong mình một ý nghĩa thời gian sâu xa, nắm được mối quan hệ giữa các con giáp sẽ giúp chúng ta lựa chọn thời gian xúc tiến công việc thật hoàn hảo.



► Xem lịch âm và giờ hoàng đạo chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Bi kip ne gio xau hoan hao cho 12 con giap hinh anh goc
 
Hà Xuyên

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí kíp “né” giờ xấu hoàn hảo cho 12 con giáp

Sao Thanh Long

Hành: Thủy Loại: Thiện Tinh Đặc Tính: Vui vẻ, may mắn về công danh, hôn nhân, giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ Tên gọi tắt thư...
Sao Thanh Long

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Thiện TinhĐặc Tính: Vui vẻ, may mắn về công danh, hôn nhân, giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ Tên gọi tắt thường gặp: Long
Phụ tinh. Sao thứ 3 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

Ý Nghĩa Thanh Long Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Sao Thanh Long ở Mệnh thì gương mặt tuấn tú, phương phi, cốt cách sang trọng.
Tính Tình

  • Vui vẻ, hòa nhã.
  • Lợi ích cho việc cầu danh, thi cử.
  • May mắn về hôn nhân.
  • May mắn về sinh nở.
  • Giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ.
Ý Nghĩa Thanh Long Với Các Sao Khác
  • Long, Kỵ ở Tứ Mộ: Thanh Long được ví như rồng xanh ẩn trong mây ngũ sắc, nghĩa là như rồng gặp mây, người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử.
  • Thanh Long, Lưu Hà: Người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử (được ví như rồng xanh vùng vẫy trên sông lớn).
  • Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái: Cách này gọi là Long Hổ Cái, cũng rực rỡ về tài quan.
  • Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các: Cách này gọi là Tứ Linh, cũng rực rỡ về công danh, tài lộc.
  • Thanh Long, Quan Đới: Người gặp thời, đắc dụng.
  • Thanh Long, Sát tinh: Mất hết uy lực, trở thành yểu và hèn nhát.
Ý Nghĩa Thanh Long Ở Các Cung
  • Thanh Long rất đẹp nếu ở hai cung Thủy là Hợi, Tý, hoặc ở cung Thìn (Long cư Long vị) cũng rực rỡ như trường hợp Long Kỵ, Long Hà.
  • Ngoài ra, các cách tốt kể trên, nếu có tại cung Mệnh, Thân, Quan, Di, Tài hay Hạn đều đắc dụng, đắc lợi cho đương số.
  • Mặt khác, nếu Mệnh hay Quan giáp Long, giáp Mã thì cùng hiển đạt về công danh, chức vị.
Tóm lại, tuy là sao nhỏ nhưng Thanh Long vốn là bản chất rồng xanh nên rất uy dũng, cao thượng, đem lại sự may mắn về nhiều phương diện thi cử, công danh, hôn nhân, sinh nở. Kết hợp phong phú với nhiều cát tinh và ở một số cung thuận vị, Thanh Long càng phát đạt rực rỡ cho phái nam cũng như phái nữ miễn là đừng gặp sát tinh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thanh Long

Tuổi Thân hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Người tuổi Thân phần lớn đều túc trí đa mưu, có tài năng vượt trội hơn người. Vậy người tuổi Thân hợp với tuổi nào, nên kết đôi với ai để có hôn nhân hạnh phúc?
Tuổi Thân hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thân phần lớn đều túc trí đa mưu, có tài năng vượt trội hơn người. Vậy trong tình yêu hôn nhân thì người tuổi Thân hợp với tuổi nào, nên kết đôi với ai để có hôn nhân hạnh phúc?
Người tuổi Thân phần lớn đều túc trí đa mưu. Tuy nhiên, họ cũng là người rất hoạt bát và hài hước. Sự lanh lợi, vui tươi cũng khiến họ có nhân duyên rất tốt. Chẳng thế mà người ta có câu: “Chọn vợ phải chọn con gái tuổi Thân mới chuẩn”.
 
Người này làm việc theo cảm hứng, giàu tính sáng tạo, có tài năng vượt trội hơn người. Có điều, vì bản thân họ quá xuất sắc nên có phần hơi hiếu thắng, độc đoán và trọng lợi danh. 
 
Con người chẳng ai là hoàn hảo. Vậy người như nào sẽ là bạn đời lý tưởng, dung hòa và chấp nhận con người của con giáp này? Người tuổi Thân hợp với tuổi nào, nên kết đôi với ai để có hôn nhân hạnh phúc? Mời các bạn cùng tìm hiểu với Lịch ngày tốt nhé.
 
Tuổi Thân và tuổi Tị lục hợp, 2 con giáp này rất hợp với nhau về tình duyên, hôn nhân giữa họ cũng vô cùng mỹ mãn. Tuổi Thân cũng khá hợp với tuổi Tý và tuổi Thìn, nếu bạn chọn vợ chọn chồng, đừng bỏ qua 2 con giáp này nhé.
 
Tuy nhiên, tuổi Thân và Tị, Dần hợp lại thành thế cục Tam Hình, vì thế trong 1 nhà không nên có đủ mặt 3 con giáp trên. Tuổi Thân và tuổi Hợi tương hại, nên tránh kết hôn với người tuổi này để có được hôn nhân hạnh phúc bền lâu.


Tuoi Than hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh
 

Nữ tuổi Thân hợp với nam tuổi nào?
 

Nữ tuổi Thân + Nam tuổi Tị = Lục hợp
 

Nữ tuổi Thân và nam tuổi Tị trong tử vi có độ tương hợp cực kì cao. Hai người này có cá tính khác biệt, sở thích cũng không giống nhau nên cũng có phần khắc khẩu. Tuy nhiên, đó dường như chỉ là chút gia vị cho tình yêu của họ. Càng giận hờn thì họ càng không xa được người kia. Sở thích và cá tính khác biệt khiến họ có cuộc sống hôn nhân luôn mới mẻ và tràn ngập những niềm vui bất ngờ.
 
Tuổi Thân hợp với tuổi nào? Đàn ông tuổi Tị là người thông minh, cơ trí, phụ nữ tuổi Thân khéo léo đảm đang. Họ có chung mục tiêu, chung lý tưởng trong cuộc sống, quan niệm về giá trị cũng tương đồng. Sự kết hợp của 2 con giáp này sẽ đem đến 1 tình yêu muôn màu muôn sắc, tan rồi lại hợp, nhưng nhìn chung là hạnh phúc dài lâu. Đặc biệt, nếu cố gắng nỗ lực thích nghi với cá tính của nhau thì hôn nhân của 2 người này sẽ hơn cả tuyệt vời.
 

Nữ tuổi Thân + Nam tuổi Tý = Tam hợp
 

Hai con giáp nếu kết đôi sẽ có cuộc sống tình cảm khá viên mãn. Đôi lúc còn có hiểu lầm và bất đồng, nhưng đến cuối cùng mọi mâu thuẫn đều được hóa giải, 2 người đều thấu hiểu và thông cảm cho nhau. Đây có thể coi là 1 cặp đôi tương đối hoàn hảo.
 
Cô gái tuổi Thân và chàng trai tuổi Tý có rất nhiều điểm chung, họ cực kì ăn ý với nhau, có thể hiểu nhau qua từng ánh mắt. Tâm ý tương thông, nhìn tình cảm giữa họ, người ta thường nghĩ về 1 cặp đôi sinh ra là để dành cho nhau. Bản thân họ cũng luôn cảm thấy người kia là 1 nửa mà mình tìm kiếm đã lâu. Hai con giáp này rất dễ phải lòng nhau từ cái nhìn đầu tiên.
 
Họ có những nhu cầu về vật chất và tinh thần khá giống nhau, cũng có cùng mục tiêu hướng đến trong cuộc sống. Chính vì thế mà ở bên nhau, 2 người sẽ có thể hỗ trợ nhau trong mọi việc, tạo dựng cuộc sống gia đình ấm áp và hạnh phúc như mơ.

Bạn có biết, rước dâu tuổi Thân thì cả nhà chồng nhận vinh hoa phú quý không?
 

Nữ tuổi Thân + Nam tuổi Thìn = Tam hợp
 

Đây là 1 cặp đôi rất hợp nhau, cả về tính cách và lý tưởng sống. Họ có tiếng nói chung, dễ dàng chung sống hòa thuận với nhau. Cuộc sống hôn nhân của 2 con giáp này luôn tràn ngập tiếng cười, niềm vui và lạc quan của cả 2 khiến cho hạnh phúc lan tỏa trong mọi ngóc ngách của căn nhà.
 
Hai người này đều là những người cực kì độc lập. Họ tích cực và cầu tiến, ham học hỏi những điều mới lạ. Nữ tuổi Thân và nam tuổi Thìn nếu kết hôn sẽ có thể hỗ trợ và động viên nhau cùng tiến bước. Họ biết cách quan tâm và chăm sóc đối phương, song cũng rất khéo léo để cho đối phương có không gian riêng. Sự tôn trọng và thấu hiểu lẫn nhau giúp cho mối quan hệ càng ngày càng gắn bó và tốt đẹp hơn.


Tuoi Than hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh
 

Nam tuổi Thân hợp với nữ tuổi nào?
 

Nam tuổi Thân + Nữ tuổi Tị = Lục hợp
 

Hai con người cùng thông minh nhưng cũng rất cẩn trọng mà muốn ở bên nhau thì phải dám vứt bỏ mọi lớp áo giáp, dẹp bỏ hết những phòng ngự với đối phương. Khi có thể chân thành đối diện với nhau thì đây sẽ là 1 cặp đôi hoàn hảo.
 
Tính cách cả 2 người đều khá nhạy cảm, cũng có phần hơi quái tính. Dù cùng đứng chung chiến tuyến nhưng họ vẫn luôn giữ khoảng cách hoặc đố kị với tài năng và cơ hội mà người kia có được. Tuy nhiên, chính những điều tưởng chừng cực đoan ấy lại khiến cho lực hút giữa 2 con giáp này càng trở nên mãnh liệt.
 
Tuổi Thân hợp với tuổi nào? Đàn ông tuổi Thân giỏi giang nhiệt tình, phụ nữ tuổi Tị thông minh cẩn trọng. Nếu có thể giảm bớt cái tôi và thông cảm cho nhau thì 2 người này sẽ được nhiều người yêu mến, bản thân họ cũng sẽ tạo nên 1 gia đình hạnh phúc bền lâu. 
 

 

Nam tuổi Thân + Nữ tuổi Tý = Tam hợp
 

Đây là cặp đôi của thành công. Hai người đều có sức chiến đấu cực kì lớn, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc chỉ khiến họ càng có thêm động lực để không ngừng phấn đấu và phát huy hết những khả năng tiềm tàng bên trong mình. Hai con giáp này có cuộc sống ấm êm, tài lộc dồi dào, an khang thịnh vượng.
 
Đàn ông tuổi Thân là mẫu người ưa tư duy và rất giỏi lên kế hoạch, có thể nắm chắc thắng lợi dù ở cách xa nghìn dặm. Tuổi Thân hợp với tuổi nào? Cô gái tuổi Tý hiền thục đảm đang, biết vun vén gia đình, mọi chuyện đều thu xếp rất chỉn chu. Người chồng luôn tán thưởng sự cần kiệm, khéo léo của người vợ. Còn người vợ thì luôn khiến cho không khí gia đình vui vẻ và đầm ấm.

Mời bạn đọc thêm: Tuổi Thân nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
 

Nam tuổi Thân + Nữ tuổi Thìn = Tam hợp
 

Hai con giáp này nếu kết hôn sẽ là 1 cặp xứng đôi vừa lứa. Hai người đều có khát khao, có lý tưởng, có tinh thần cầu tiến và đầu óc tư duy. Hôn nhân khiến họ có thêm động lực phấn đấu để đạt được mục tiêu chung, lại có thể bù đắp những khuyết điểm của người này bằng ưu điểm của người kia. Hai người chung tay hiệp lực, vượt qua mọi khó khăn, san bằng mọi trở ngại.
 
Đàn ông tuổi Thân sống thực tế, dám nghĩ dám làm, sự thông minh kiên cường của người vợ càng tiếp thêm sức lực cho người chồng. Hai người yêu thương tôn trọng lẫn nhau, luôn biết động viên cổ vũ người kia có thêm niềm tin để bước tiếp, cuộc hành trình giữa họ luôn vui tươi và hạnh phúc đong đầy.   Hy Vũ

Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Thân Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Thân Lấy người tuổi Thân làm vợ lợi đủ đường

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Thân hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?

Chùa Keo Hành Thiện - Nam Định

Chùa Keo Hành Thiện có tên chữ là chùa Thần Quang,nằm cách thành phố Nam Định trên 30 km về phía Đông Nam. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam
Chùa Keo Hành Thiện - Nam Định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa Điểm: Chùa Keo Hành Thiện tọa lạc ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Chùa Keo Hành Thiện có tên chữ là chùa Thần Quang, chùa không sư, nằm cách thành phố Nam Định trên 30 km về phía Đông Nam. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi. Có lẽ, đây là ngôi chùa duy nhất không có sư ở.

Trước kia, chùa nằm trên khu đất được triều nhà Lý cắt đất cho Đức Không Lộ, nên cả làng phải thay nhau cắt cử để trông coi, thờ cúng ngài. Đó là “cái lý” mà người dân thôn Hành Thiện làm công việc nhang khói, trông coi chùa thay sư sãi”.

Lịch Sử Chùa Keo Hành Thiện

Tương truyền, Chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng (1061) dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hải Thanh (nay là xã Nam Hồng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.

Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định). Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, về sau cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).

Kiến Trúc Chùa Keo Hành Thiện

Ban đầu, chùa được xây dựng tạm trên nền đất của làng. Năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa được tu sửa hoàn chỉnh và có dáng dấp như ngày nay. Trong 400 năm tiếp theo, chùa nhiều lần được tu bổ lớn như vào các năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), Chính Hoà thứ 25 (1704), Thành Thái thứ 7 (1896) và đặc biệt từ năm 1962 chùa Keo đã được nhà nước công nhận là tích lịch sử văn hoá, nên đã được tôn tạo nhiều lần.

Kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng. Không gian chùa là là cả một khu kiến trúc cổ to lớn, bề thế với 13 tòa rộng gồm 121 gian nối tiếp nhau soi bóng xuống mặt hồ lung linh huyền diệu. Hai bên đường kiệu lát gạch, kề liền hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40 gian bề thế.

Gác chuông chùa Keo Hành Thiện là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50. Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở.

Chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo. Sau chùa là đền Thánh thờ Đức Thánh Tổ Đại pháp thiền sư Không Lộ, người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Nhân Tông.

Lễ Hội Ở Chùa Keo Hành Thiện

Chùa Keo Hành Thiện là một trong những lễ hội độc đáo ở miền Bắc. Hàng năm, chùa mở hội hai lần. Đó là hội Xuân vào dịp Tết nguyên đán và hội tháng 9 mở vào ngày 13, 14, 15 để kỷ niệm ngày sinh của Thánh tổ Không Lộ. Hội tháng 9 còn là nơi hội tụ của những sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân nông nghiệp. Tổ chức bơi chải từ ngày 10-9 đến hết hội. Chính vì vậy, vào ngày hội, nhân dân không những trong vùng mà cả trong Nam ngoài Bắc đều nô nức kéo về dự.

Chùa Keo Hành Thiện
Lễ hội Chùa Keo Hành Thiện tổ chức hàng năm

Trong thời kỳ đô thị hóa nông thôn phát triển nhanh chóng như hiện nay, việc giữ gìn và phát huy được những giá trị văn hóa, những lễ hội truyền thống như lễ hội Chùa Keo ở làng Hành Thiện là điều hết sức quý báu. Cùng với một số lễ hội nổi tiếng ngoài miền Bắc như lễ hội Yên Tử, lễ hội Chùa Bái Đính, lễ hội Chùa Hương,… lễ hội Chùa Keo là lễ hội có quy mô và sức hút lớn đối với du khách thập phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Keo Hành Thiện - Nam Định

Xem bói nốt ruồi trên đùi, ở rốn là tốt hay xấu?

Bạn muốn biết nốt ruồi ở đùi là tốt hay xấu, ý nghĩa nốt ruồi ở đùi mang lại điều gì cho chủ nhân. Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những ý nghĩa của nốt ruồi ở các vị trí khác trên cơ thể:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn muốn biết nốt ruồi ở đùi là tốt hay xấu, ý nghĩa nốt ruồi ở đùi mang lại điều gì cho chủ nhân. Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn những ý nghĩa của nốt ruồi ở các vị trí khác trên cơ thể:

Xem bói nốt ruồi trên đùi, ở rốn là tốt hay xấu?

Nốt ruồi ở đùi

Theo quan niệm của các nhà Nhân tướng học thì nốt ruồi mọc ở đùi ( hay còn gọi là vế, bắp đùi, cẳng chân) thì đều không tốt. Những người có nốt ruồi mọc ở đùi thường không có con, hoặc gặp khó khăn về đường con cái. Với đàn ông nếu có nốt ruồi mọc ở bắp chân hay ống quyển thì thường không vợ.

Với những nốt ruồi trên đùi, tức là kể cả hai bên bẹn hay hai bên háng, bất kể là nốt ruồi chìm hay nốt ruồi nổ, chỉ cần mọc ở vị trí từ háng đến trên đầu gối thuộc mặt trước thì đều là tướng tốt, là người có của cải, cuộc sống sung túc ngày càng giàu sang. Những nốt ruồi trên đùi đều tốt không kể là nốt ruồi đen hay đỏ, nốt ruồi nổi cao hay bằng phẳng.

Nốt ruồi ở háng phụ nữ:

Đối với phụ nữ thì nốt ruồi ở háng hay còn gọi là nốt ruồi ở bẹn nhất là có nốt ruồi son thì biểu thị chủ nhân của những nốt ruồi này thường là những người đắc chí, công việc, sự nghiệp của họ luôn thuận buồm xuôi gió. Còn trong lĩnh vực tình yêu, hôn nhân sẽ luôn được may mắn, gặp được người chồng tốt.

Nốt ruồi ở rốn.

Với những người có nốt ruồi ở rốn hay nốt ruồi gần rốn thì đều tốt. Với những người có nốt ruồi ở rốn thì thường có tương lai sáng lạn, trong trường hợp nốt ruồi mọc nổi thì lại càng tốt hơn. Kể cả nốt ruồi mọc ở rốn đàn ông hay nốt ruồi mọc ở rốn phụ nữ thì đều tốt, con đường sự nghiệp của những người này đôi khi có thể gặp khó khăn nhưng đều vượt qua được.

Trên đây là những ý nghĩa của nốt ruồi ở các vị trí khác nhau trên cơ thể, để tham thảo thảo thêm những bài viết hữu ích khác, bạn có thể xem những bài viết dưới đây của chúng tôi:

+ Nốt ruồi trên thái dương có nên xóa hay không?

+ Nốt ruồi trên trán báo hiệu mệnh sướng khổ

+ Xem bói nốt ruồi trên cơ thể

+ Nốt ruồi ở gót chân phải có ý nghĩa gi?

+ Xem tướng người có lông mày rậm

Key liên quan: nốt ruồi ở rốn, nốt ruồi gần rốn, nốt ruồi ở rốn phụ nữ, nốt ruồi ở rốn đàn ông, nốt ruồi ở đùi, nốt ruồi trên đùi, nốt ruồi ở háng phụ nữ, nốt ruồi ở háng, nốt ruồi ở bẹn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói nốt ruồi trên đùi, ở rốn là tốt hay xấu?

Tìm hiểu về thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng để bảo vệ sức khỏe

Cùng xem thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng để hiểu thêm về cơ thể, chăm sóc tốt hơn cho chính mình và những người xung quanh.
Tìm hiểu về thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng để bảo vệ sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thế gian vạn vật đều có thuộc tính, có đối lập thì mới có sự cân bằng. Lục phủ ngũ tạng trong thân thể cũng có thuộc tính, quyết định tới phương diện khỏe mạnh của mỗi người.  

1. Quan hệ giữa ngũ hành và ngũ tạng

  Đặc điểm hoạt động sinh lý, thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng có nguyên tắc như sau: gan thuộc ngũ hành Mộc, có đặc tính là sinh sôi nảy nở, điều tiết công năng; tim thuộc ngũ hành Hỏa, có tính dương ấm áp; tỳ thuộc ngũ hành Thổ, có chức năng hóa nguyên, sinh sôi vạn vật; phổi thuộc ngũ hành Kim, đặc tính thanh thuần, nội tại; thận thuộc ngũ hành Thủy, có chức năng tàng tinh, vận chuyển nước khắp cơ thể.   Ngũ hành có liên hệ, ngũ tạng cũng có liên quan tới nhau. Theo quan hệ tương sinh thì thận Thủy lấy tinh nuôi gan, gan Mộc tàng máu nuôi tim, tim Hỏa lấy nhiệt để điều hòa tỳ, tỳ Thổ hóa sinh nước để bổ sung cho phổi, phổi Kim chuyển khí thành nước về thận. 
Tim hieu ve thuoc tinh ngu hanh cua ngu tang de bao ve suc khoe hinh anh
 
Theo quan hệ tương khắc của ngũ hành, phổi Kim dùng khí thanh ức chế dương cường ở gan, gan Mộc điều hòa sơ tiết tỳ khô nóng, tỳ Thổ vận hóa ngăn thận làm nước tràn lan, thận Thủy thoải mái có thể phòng ngừa tim cang hỏa liệt; tim Hỏa nhiệt dương hạn chế phổi thanh túc.   Thân thể và ngũ khí hoàn cảnh bốn mùa và ngũ vị ẩm thực đều có mối quan hệ mật thiết, thể hiện thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng. Nói chung, ứng dụng học thuyết ngũ hành với sinh lý có thể thấy rõ, tổ chức bên trong thân thể và hoàn cảnh bên ngoài thân thể có tính liên hệ thống nhất.   

2. Các bệnh lý liên quan tới ngũ tạng

  Gan thuộc ngũ hành Mộc, tim thuộc ngũ hành Hỏa, tỳ thuộc ngũ hành Thổ, phổi thuộc ngũ hành Kim, thận thuộc ngũ hành Thủy. Có ngũ tạng thì có lục phủ, ngũ tạng và lục phủ có quan hệ kinh lạc.   Gan là kinh, mật là lạc; tim là kinh, ruột non là lạc; tỳ là kinh, dạ dày là lạc; hệ thống phân bố là tuyến tụy; phổi là kinh, ruột già là lạc; thận là kinh, bàng quang là lạc; đôi bên có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.    Tim là kinh, ruột non là lạc, dinh dưỡng và nước trong đồ ăn được tì hấp thu tiến vào phổi, phổi nhập liệu vào bàng quang, hỏa vượng làm ruột non bị nóng, nóng nên nước vào bàng quang xuất hiện hiện tượng tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu ra máu. Lúc này, không chỉ điều trị tiết niệu mà nên cân nhắc bồi dưỡng tim để hết căn nguyên bệnh.   Tì là kinh, dạ dày là lạc, dạ dày chứa đồ ăn nên có khí, tỳ cất khí, tinh luyện vận chuyển, hai bên phối hợp mang dinh dưỡng tới toàn thân. Kinh lạc bị ảnh hưởng thì dạ dày và tì bị ướt, công năng giảm xuống.    Phổi là kinh, ruột già là lạc, phổi gặp khí lạnh sẽ xuất hiện hiện tượng đi tả, thời gian lâu sẽ có ho khan, phổi có hỏa khí thì sinh táo bón, táo bón lâu tích tụ độc tố, tăng gánh nặng cho gan. Thận là kinh, bang quang là lạc, chức năng công năng của thận không tốt thì viêm bàng quang, kết sỏi.  

3. Vận dụng nguyên lý ngũ hành vào ngũ tạng

  Ngũ hành tương sinh tương khắc, thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng cũng có quan hệ tương tự. Về tương sinh, gan tốt thì tim tốt, tâm tính thiện lương do Mộc sinh Hỏa; tim vượng thì tỳ thông do Hỏa sinh Thổ; tỳ mạnh thì phổi khỏe do Thổ sinh Kim; phổi vượng thì thận tốt do Kim sinh Thủy; thận mạnh thì gan cường so Thủy sinh Mộc.   Về tương khắc, gan không tốt sẽ khắc tỳ (Mộc khắc Thổ), gan bổ trợ cho việc phân bố mật, nếu gan yếu sẽ dẫn tới chán ăn, ghét dầu mỡ, chướng bụng, dạ dày chướng, hại cho tỳ. Tỳ khắc thận (Thổ khắc Thủy), tỳ có tác dụng sinh hóa khí huyết, khô công năng, hàm năng này bị kém đi thì thận hoạt động không trơn tru. 
Tim hieu ve thuoc tinh ngu hanh cua ngu tang de bao ve suc khoe hinh anh
 
Thận khắc tim (Thủy khắc Hỏa), người bị bệnh tim trị không dứt là do không chú ý tới thận. Thận khắc chế tim thì nếu chỉ chữa bệnh ở tim mà không hạn chế hung khắc ở thận thì bệnh không bao giờ khỏi được.   Tim khắc phổi (Hỏa khắc Kim), cẩn thận phát sinh hỏa vượng khiến tức ngực, khó thở, co thắt lồng ngực bởi tim khắc phổi, ức chế lẫn nhau, cái này cường là cái kia nhược.   Phổi khắc gan (Kim khắc Mộc), phổi có lúc nóng, hỏa tính vượng, ức chế tính mộc của gan nên sinh ra các bệnh tật trong người.   Từ lý thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc có thể thu được kết luận: người có bệnh thì nội tạng chịu tổn thương, nói cách khác bệnh trong thời gian ngắn không thể trị sẽ biến thành bệnh mãn tính, rồi tuần hoàn thành bệnh ác tính. Tuần hoàn ác tính là kết quả của quá trình tương khắc liên tục, vòng tương khắc xoay đi xoay lại khiến mọi nội tạng đều bị tổn hao, hạ thấp chức năng, công năng.   Khi mọi bộ phận đều bị suy nhược tới mức độ nhất định hoặc đồng thời xuất hiện vài chứng bệnh một lúc thì theo Đông y chính là thời điểm ngũ hành không hài hòa, âm dương không thăng bằng, nội tại cơ thể không còn ở chỉnh thể nguyên vẹn và tự nhiên như trước nữa.    Người khỏe mạnh là người mà thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng cân bằng, âm dương phối hợp. Hình dáng bên ngoài nhận định như sau: thân thể thăng bằng, người đứng thẳng tắp so với mặt đất, ngũ hành tương sinh tương khắc, cân đối với nhau. Chỉ cần một bộ phận nhược quá hoặc vượng quá đều không được, sẽ phá hủy sự hài hòa, mất trạng thái cân bằng, tạo thành bệnh tật. Đó chính là nguyên tắc bổ quá hóa bệnh mà người xưa thường nói tới.  

4. Vận dụng dưỡng sinh cho ngũ tạng

  Người có bệnh thì phải chữa, nhưng không thể bệnh ở đâu thì chữa ở đấy được mà phải phối kết hợp giữa các cơ quan. Bồi dưỡng thêm bộ phận tương sinh với nó để cùng nhau khỏe mạnh, tăng cường hạn chế, hóa giải bộ phận khắc với nó để không sản sinh ra bệnh tật.   Nguyên tắc dưỡng sinh theo ngũ hành được áp dụng thành các nguyên tắc dưỡng sinh theo mùa và nguyên tắc dưỡng sinh theo tiết khí. Các món ăn, cách tập luyện đều phải phù hợp với tình hình thời tiết thì mới có lợi cho thân thể. Nhìn chung là nên tiến hành theo gợi ý như sau:
Tim hieu ve thuoc tinh ngu hanh cua ngu tang de bao ve suc khoe hinh anh
 
Mùa xuân, Mộc khí vượng, nên dưỡng gan bằng những thực phẩm có tính mát, thanh nhiệt giải độc như trà xanh, các loại rau, hoa quả, đậu xanh, đậu đỏ, các loại thuốc có tính mát. Vận động nên chọn buổi sáng nhưng đừng sớm quá hoặc buổi chiều nhưng đừng tối quá để tránh gió lạnh.   Mùa hè, Hỏa vượng nên đồ ăn tính hàn cần được bổ sung, bảo vệ tốt cho tim. Giá đỗ, táo đỏ, thịt gà, rau xanh, đậu xanh, đậu đỏ, hạt sen, bí đao, dưa hấu, măng tây đều phải ăn nhiều. Vận động vào sáng sớm và buổi tối, vừa vận động vừa bổ sung thêm nước cho cơ thể. Mùa này rất thích hợp để ăn chay, có những nguyên tắc không cần ăn chay trường mà vẫn khỏe mạnh, có thể áp dụng cho bản thân và gia đình.   Mùa thu Thổ khí mạnh, tính háo nóng rất đậm nên điều hòa âm dưỡng, bổ sung Thủy khí trong người để chống chọi lại các căn bệnh về đường hô hấp. Nên ăn cháo táo đỏ hạt sen, thịt vịt hầm thuốc bắc, canh khoai tây cà rốt, uống các loại thuốc bổ tỳ để dưỡng sức khỏe. Vận động nhiều hơn chút cũng rất đáng hoan nghênh.   Mùa đông lạnh, Thủy khí vượt trội, dưỡng sinh cần nhất là giữ ấm, duy trì năng lượng để tích khí vào người, sinh nhiệt năng, chú ý tới thận. Đây cũng là mùa tốt nhất cho việc bồi dưỡng thân thể nên ăn nhiều đạm, đồ bổ dưỡng như nhân sâm, mật ong,… Vận động hàng ngày để máu huyết lưu thông, gân cốt co dãn, vừa tránh lạnh lại có ích cho việc bảo vệ sức khỏe.   Thông qua thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng, có thể thấy cơ thể là một chỉnh thể phức tạp nhưng nguyên tắc. Chỉ cần nắm vững nguyên tắc thì mọi vấn đề đều được giải quyết, mọi bệnh tật đều có phương hướng chữa trị một cách tốt nhất. Dưỡng sinh, tăng cường sức khỏe, bảo vệ thân thể là việc quan trọng, không nên lơ là, hãy ghi nhớ kiến thức để áp dụng một cách chuẩn xác nhất.
Cách chọn nghề hợp ngũ hành bản mệnh của từng người Hướng dẫn cách hóa giải mệnh xung khắc, giảm bớt phần hung hiểm Tại sao ngũ hành Mộc hợp với ngũ hành Hỏa và ngũ hành Thủy?

Thái Vân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về thuộc tính ngũ hành của ngũ tạng để bảo vệ sức khỏe

Top 3 chòm sao “dại gái” nhất

Một số chòm sao có thái độ quá phấn khích trước những “hot girl, hot boy” thì người ta gọi đó là sự “dại”.
Top 3 chòm sao “dại gái” nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thực ra thì trong cuộc sống ai cũng mê cái đẹp và hướng tới cái đẹp, tuy nhiên, một số chòm sao lại có thái độ quá phấn khích trước những “hot girl, hot boy” thì người ta gọi đó là sự “dại”.


Hạng 3: Cự Giải

Mọi người thường cho rằng Cự Giải khá bảo thủ nhưng lại rất chăm lo cho gia đình và mẫn cảm với những người con gái đẹp. Nhưng thực chất họ lại cố chấp và vô cùng quan tâm đến mức si mê những người có vẻ bề ngoài hào nhoáng. Việc ngắm nhìn những người có ngoại hình đẹp thường mang lại cảm giác thích thú và vui vẻ cho Cự Giải. Mặc kệ người đó tốt hay xấu, chỉ cần “đẹp” thì bằng mọi giá Cự Giải sẽ tiếp cận cho bằng được.

 

Top 3 chom sao dai gai nhat hinh anh
Đệ nhất thiên hạ mê gái là Song Ngư

Á quân: Sư Tử

Mặc dù rất hống hách và kiêu ngạo nhưng Sư Tử đích thị là một kẻ mê gái, mê trai, hơn nữa những người mà Sư Tử thích lại còn có chút tiếng tăm nữa, kiểu như hot girl, hot boy hay diễn viên, ca sỹ nổi tiếng… chả hạn. Bản thân Sư Tử thực ra cũng có chút hơn người, thế nhưng họ sẵn sàng chấp nhận đứng sau lưng để làm hậu thuẫn cho người mình thích hoặc chỉ đứng xa ngắm nhìn họ cũng khiến cho Sư Tử cảm thấy ấm lòng rồi. Nếu Sư Tử đang tìm bạn gái thì để có thể lọt vào “mắt xanh” của Sư Tử, bạn cần phải có một ngoại hình hấp dẫn.

 

Bật mí 9 điều bí mật về ông già Noel
Mùa Giáng Sinh an lành đã tới, các em nhỏ lại háo hức chờ đón những món quà đáng yêu từ ông già Noel. Hình ảnh ông già Noel mặc quần áo đỏ chui qua ống khói đã

Thiên hạ đệ nhất dại gái, dại trai: Song Ngư

Song Ngư dễ bị “đánh gục” bởi cái đẹp, kể cả những món đồ xinh xinh hay những món ăn được bày trí hấp dẫn thì cũng thu hút sự quan tâm Song Ngư chứ không hẳn phải là mỹ nữ. Kể cả những món đồ đẹp mắt, màu sắc khác nhau nhưng vẻ ngoài lại giống nhau hoàn toàn thì Song Ngư vẫn muốn mua tất cả. Song Ngư được Hải Vương Tinh chiếu mệnh nên chỉ thích hư vinh, miễn là đẹp mắt  thì họ sẽ ngắm mãi không thôi, cho dù người đó kém thông minh nhưng lại có vẻ ngoài hấp dẫn thì vẫn có thể khiến Song Ngư siêu lòng.

► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất

Phương Thùy (Theo Astro)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 chòm sao “dại gái” nhất

Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tử vi Chủ nhật: Dù là ngày nghỉ nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch cho công việc tuần tới, người tuổi Tỵ cần đề phòng có kẻ thứ ba phá đám tình cảm,...
Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp: Dù là ngày nghỉ nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch cho công việc tuần tới, người tuổi Tỵ cần đề phòng có kẻ thứ ba phá đám tình cảm của bạn và người ấy...
 

Tuổi Tý
 
Mọi sự nỗ lực và cố gắng trong công việc của người tuổi Tý tuần qua đã phần nào được ghi nhận. Chủ nhật là thời gian bạn nên nghỉ ngơi, lấy lại tinh thần làm việc cho đầu tuần tới. Thay vì nằm dài ở nhà, người tuổi Tý nên đi gặp gỡ bạn bè để giải tỏa tâm lí. Đồng thời, chuyện tình cảm của người tuổi Tý khá thuận lợi vì cả hai đều cố gắng dành thời gian bên nhau lâu nhất.
 
Con số may mắn: 1 và 4 Giờ tốt nhất trong ngày: 16h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Tý, tuổi Sửu và tuổi Dần   Tuổi Sửu
 
Dù là ngày nghỉ, nhưng người tuổi Sửu vẫn lên kế hoạch công việc một cách rõ ràng trong đầu. Tuần tới hứa hẹn sẽ có nhiều bước tiến triển tốt trong sự nghiệp của bạn. Tuy nhiên, bạn nên gạt bỏ suy nghĩ công việc sang một bên để tận hưởng ngày nghỉ trọn vẹn.
 
Người tuổi Sửu đã sẵn sàng cho một mối quan hệ tình cảm tốt đẹp, hãy mạnh dạn thổ lộ tình cảm để kết thúc cuộc sống đơn thân của bạn.
 
Con số may mắn: 2 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 20h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần   Tuổi Dần   Nguồn tài chính ổn định do vận thế tốt giúp người tuổi Dần có thể mạnh tay chi tiêu vào dịp cuối tuần. Một khoản tiền bất ngờ sẽ đến và cho phép bạn có thể thực hiện sở thích hoặc thú vui đã ao ước từ lâu. 
 
Nửa kia của bạn đang cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì sự “quản lí” quá sát sao của bạn. Người tuổi Dần nên tạo không gian tự do cho đối phương, thực hiện chiến dịch “nạt mềm buộc chặt”.
 
Con số may mắn: 0 và 6 Giờ tốt nhất trong ngày: 17h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Tý, Thìn và Tỵ
Tuổi Mão
Vận thế của người tuổi Mão có chiều hướng tăng, theo đó bạn dễ dàng đạt được các mục tiêu trong công việc hơn. Vì quá căng thẳng do phải làm lượng công việc lớn trong tuần, người tuổi Mão nên tận dụng thời gian nghỉ ngơi để chăm sóc bản thân mình.    Chuyện tình cảm của người tuổi Mão khá thuận lợi. Tuy nhiên, bạn nên cân nhắc kĩ việc nhận lời tỏ tình của người cùng cơ quan. Điều đó sẽ gây cho bạn không ít điều bất tiện trong tương lai.    Con số may mắn: 2 và 9 Giờ tốt nhất trong ngày: 16h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Mão
Tuổi Thìn
 
Nhìn lại thành quả công việc đạt được, không chỉ có bạn hài lòng mà cấp trên và đồng nghiệp đều ghi nhận. Tài vận của bạn có xu hướng tăng, nhân đà này bạn hãy khẳng định năng lực của mình hơn nữa, tạo bước tiến mới trong sự nghiệp. 
 
Tình yêu của người tuổi Thìn đang trong giai đoạn thử thách. Hai người cần phải tin tưởng nhau hơn và cùng nhau vượt qua mọi trở ngại cuộc sống, tiến tới hạnh phúc lâu bền.   Con số may mắn: 0 và 2 Giờ tốt nhất trong ngày: 21h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Mão và Mùi

Tu vi Chu nhat cua 12 con giap 2452015 hinh anh
Ảnh minh họa
  Tuổi Tỵ
 
Người tuổi Tỵ có thể tạm hài lòng với những tiến triển trong công việc tuần qua. Bạn nên toàn tâm toàn ý nghỉ ngơi, lấy lại sức khỏe và tinh thần. Tuy nhiên, nên cẩn thận hơn trong mối quan hệ bạn bè và gia đình, tránh những mâu thuẫn không đáng có xảy ra.   Hôm nay bạn cần lưu ý có kẻ thứ ba muốn chen ngang phá đám tình cảm của hai người. Thay vì cả giận mất khôn, người tuổi Tỵ nên bình tĩnh và cư xử khéo léo, không được gây mất hòa khí đôi bên, bởi khi đó tình cảm dễ bị rạn nứt.   Con số may mắn: 3 và 5 Giờ tốt nhất trong ngày: 19h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Tỵ   Tuổi Ngọ
 
Một vài ý tưởng lãng mạn cho cuộc hẹn hò ngày cuối tuần đã chiếm hết tâm trí của bạn. Điều đó giúp hai bên cảm nhận được niềm hạnh phúc ngọt ngào. Nếu ai đó cho rằng bạn hơi bốc đồng hoặc thái quá, bạn cũng đừng buồn bởi mọi điều bạn làm đều nhằm mục đích tốt đẹp.
 
Có ai đó đang mong chờ câu trả lời từ bạn. Người tuổi Ngọ cần nhanh chóng đưa ra quyết định, tránh làm tổn thương người khác.   Con số may mắn: 2 và 3 Giờ tốt nhất trong ngày: 10h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Sửu và Ngọ   Tuổi Mùi   Mặc dù là ngày nghỉ, nhưng do vận thế tốt kéo theo những cơ hội tài chính tuyệt vời sẽ đến với người tuổi Mùi trong ngày hôm nay. Rất có thể sang tuần mới bạn sẽ thấy khoản đầu tư của mình có dấu  hiệu sinh lời. 
 
Tuy nhiên, chuyện tình cảm của người tuổi Mùi lại gặp chút rắc rối. Vì mọi người xung quanh, thậm chí cả đối phương cũng chưa thực sự hiểu điều bạn nghĩ, do đó một vài mâu thuẫn phát sinh. Tuy nhiên, mọi chuyện đều nằm trong tầm kiểm soát của bạn.   Con số may mắn: 5 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 8h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Thìn, Mùi và Thân
Tuổi Thân   Hôm nay là thời điểm tốt để người tuổi Thân rà soát lại tình hình tài chính của mình, tránh tình trạng rỗng túi ngay đầu tuần mới. Bạn nên đi đâu đó hít thở không khí trong lành để tìm lại nguồn cảm hứng cho công việc sắp tới.   Người tuổi Thân sẽ nhận ra điều bất ngờ trong những mối quan hệ bạn bè cũ của mình. Tình cảm của bạn sẽ có sự biến động lớn vào tuần tới. Bạn cần chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đón nhận.
 
Con số may mắn: 1 và 6 Giờ tốt nhất trong ngày: 13h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Thìn   Tuổi Dậu   Người tuổi Dậu nên tự thưởng cho mình một ngày cuối tuần hoàn toàn thư giãn. Nếu có cuộc gọi liên quan đến công việc, bạn có thể từ chối trả lời. Với vận thế đang khởi sắc, công việc của bạn sẽ thuận lợi, không cần phải lo lắng.   Tình cảm của người tuổi Dậu trong ngày hôm nay không có nhiều biến động. Tuy nhiên, cần chú ý hơn về ngoại hình để thu hút ánh nhìn của những người khác giới, tạo cơ hội kết thúc cuộc sống độc thân của bạn. Nếu đã có gia đình, một bữa tối lãng mạn là điều cần thiết cho bạn trong hôm nay.   Con số may mắn: 0 và 8 Giờ tốt nhất trong ngày: 15h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần   Tuổi Tuất   Hôm nay người tuổi Tuất nên lưu ý các mối quan hệ trong gia đình, vì nhiều khả năng sẽ có mâu thuẫn với bố mẹ hoặc anh chị em. Đồng thời, tình cảm giữa bạn và nửa kia cũng gặp trục trặc do bất đồng quan điểm. Người tuổi Tuất nên kiểm soát tốt cảm xúc của mình, tránh gây mất hòa khí hoặc rạn nứt tình cảm.
 
Con số may mắn: 6 và 9 Giờ tốt nhất trong ngày: 14h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Mão và Tỵ   Tuổi Hợi   Người tuổi Hợi có thể nghỉ ngơi hoàn toàn trong ngày cuối tuần này. Khi đã lấy lại tinh thần, sang tuần tới bạn sẽ thêm động lực làm việc và tiến thêm bước xa trong sự nghiệp của mình.   Tình cảm của bạn và người ấy đang thiếu đi yếu tố lãng mạn vì cả hai quá bận rộn trong công việc. Hai bạn nên tận dụng thời gian của ngày nghỉ để sắp xếp một buổi tối lãng mạn và thú vị.   Con số may mắn: 3 và 5 Giờ tốt nhất trong ngày: 14h Quý nhân phù trợ: Người tuổi Dần và Mùi
 
Việt Hoàng (Theo Astrology)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Chủ nhật của 12 con giáp (24/5/2015)

NHỮNG ĐIỀU NÊN TRÁNH KHI THIẾT KỂ PHÒNG NGỦ

Kiến thức phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ không nên quá rộng

Con người là một thực thế sinh học và xã hội. Khi nghiên cứu về sinh học ta sẽ thấy được bản thân con người như một cỗ máy sinh học tinh vi nhậy cảm. Trong đó có một hoạt động cơ bản nhất mang đặc trưng sinh lý không thể thay đổi, bất di bất dịch đó là quá trình trao đổi chất và năng lượng.

Khi con người nghỉ ngơi, trang thái sinh lý chuyển từ dạng hưng phấn sang trạng thái ức chế. Mọi hoạt động ngừng lại và quá trình trao đổi chất và năng lượng hạn chế nhiều. Vì thế, nên thiết kế phòng ngủ vừa phải, không nên quá hẹp, vì hẹp quá, nếu như đóng kín cửa thì khí thở sẽ bị hạn chế ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhưng cũng không được thiết kế phòng ngủ quá rộng vi những nguyên nhân như sau.

Thứ nhất: Trao đổi chất và năng lượng với môi trường có quá trình tác động qua lại với nhau. Phòng ngủ rộng quá, nhiệt năng cơ thể lan tỏa để cân bằng điều hòa với môi trường sẽ khiến hao nhiệt năng cơ thể gây ra mệt mỏi.

Thứ hai: Xung thần kinh não bộ và tủy sống phát ra những luồng sóng điện từ, ở trạng thái vô thức (khi ngủ), nếu phòng ngủ quá rộng những luồng sóng điện từ lan tỏa trong không gian khiến tổn hao năng lượng. Mà yếu lĩnh của phong thủy học là tụ khí, tránh tình trạng tán khí.

Thứ ba: Phòng ngủ quá rộng gây nên cảm giác trống trải, cô đơn, thấy mình quá nhỏ bé, thiếu tự tin.

Thứ tư: Vì khi ngủ trạng thái sinh lý của con người là nghỉ ngơi, ức chế, thuộc âm, không cần nhiều không khí và năng lượng. Quá trình trao đổi chất, hô hấp, tuần hoàn, hoạt động tư duy ở trạng thái yếu nhất. Thiết kế phòng ngủ rộng quá, gây nên tình trạng bất lợi cho sức khỏe, thiếu tính khoa học và lãng phí diện tích, nguyên vật liệu.

Phòng ngủ tối kỵ lộn xộn

Kiêng kị trong phong thủy phòng ngủ

Tục ngữ có câu: “Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”. Con người dành 1/3 quãng thời gian trong suốt cuộc đời là để nghỉ ngơi. Và phòng ngủ trở nên vô cùng quan trọng. Cuộc sống có muôn nỗi bộn bề, quỹ thời gian thì eo hẹp, đặc biệt trong thời đại công nghiệp thì con người ta càng trở nên bận rộn hơn. Thế nhưng người xưa có câu: “ Người nhân là người tự biết yêu mình”. Bản thân mình khỏe mạnh, thì mới có thể chăm sóc tốt cho người thân và cống hiến được nhiều hơn cho xã hội. Vì thế cho nên, dưới góc độ phong thủy, tôi có lời khuyên nên giữ phòng ngủ gọn gàng, sạch sẽ.

Sở dĩ phải giữ phòng ngủ gọn gàng vì. Thứ nhất: Phòng ngủ lộn xộn là nới trú nấp của các loài động vật gây hại như kiến, gián, muỗi, chuột, và cả vi khuẩn nữa. Các loại sinh vật gây hại trên có thể mang theo mầm bệnh truyền nhiễm, ảnh hưởng tới sức khỏe.

Thứ hai: Phòng ở thiếu ngăng nắp gây lên tình trạng rồi loạn trường khí, ảnh hưởng bất lợi tới gia đạo và tài vận.

Thứ ba: Sau một ngày làm việc vất vả, mệt mỏi, con người cần nhất là nghỉ ngơi, sức khỏe bảo đảm, tâm lý thoải mái, mới có khả năng phục hồi, tái tạo sức lao động hiệu quả nhất. Nếu như phòng ngủ lộn xộn, thiếu ngăn nắp, gây ảnh hưởng lớn tới tâm lý, khiến con người càng cảm thấy ức chế, mệt mỏi hơn, vì tâm lý không thoải mái nên đương nhiên quan hệ gia đạo không hài hòa ngọt ngào, sự nghiệp vì thế cũng sẽ bị ảnh hưởng không tốt.

Không nên để các thiết bị điện

   Kiêng kị trong phong thủy phòng ngủ

Khi nghỉ ngơi thuộc trạng thái tĩnh, trạng thái âm. Nên đặt nhiều đồ dùng bằng điện sẽ không tốt. Vì sao? Vì những thiết bị điện hầu hết có thuộc tính Hỏa, bản chất của Hỏa là tính bốc lên cao, hướng thượng nó đối nghịch với trạng thái tĩnh, trạng thái nghỉ ngơi, gây nên tình trạng mất cân bằng về âm dương ngũ hành.

Thứ nữa, các thiết bị điện nếu không bảo đảm an toàn dễ gây nguy cơ chập cháy, tai nạn lửa điện. Máy vi tính, Ti vi…phát ra các luồng sóng điện từ, và có từ trường vì thế gây căng thẳng đối với đầu óc và bộ máy sinh học của con người.

Đặt những vật dụng hình tròn hay kim loại cách xa phòng ngủ

Những vật dụng có hình tròn, hay các vật dụng bằng kim loại có ngũ hành là Kim và thuộc tính động – dương. Vì lẽ đó, những vật dụng có hình dạng tròn hay kim loại sắc bén không phải là các vật dụng lý tưởng trong phòng ngủ.

Một số người có sở thích sưu tầm bảo kiếm, dao găm, vũ khí và trưng bày trong phòng ngủ. Tuy nhiên, dưới góc độ phong thủy và mệnh lý thì chỉ có những người có tổ hợp tứ trụ cần đến kim loại mới nên làm điều này. Như những người Mộc thịnh cần chế ngự, hoặc nhược Kim, đầu óc phân tán, tư tưởng khó tập trung, đêm ngủ không yên giấc, mơ màng, bóng đè, ác mộng, thì những vật dụng trên mới quan trọng và cần thiết. Còn lại về cơ bản là nên để những vật dụng này ở xa phòng ngủ. Chỉ trừ trường hợp đặc biệt cần bổ khuyết ngũ hành mệnh lý vừa kể trên mà thôi.

Trong phòng ngủ không nên mở cửa sổ trời

Cửa sổ trời, thông gió trực tiếp từ trần nhà. Mà bản chất của căn nhà vốn là để che mưa chắn nắng. Ánh sáng và gió từ trên cao đi tới con đường này không lợi cho sức khỏe. Vả lại, theo quan niệm dân gian, chỉ có người nào vừa qua đời họ mới tháo một ít mái lợp để ánh dương chiếu xuống. Vì sao? Giải thích theo nguyên lý khoa học thì khi người mất nằm xuống, điện tích âm và hơi lạnh tỏa ra rất nhiều, phải dùng ánh dương chiếu xuống đạt mức cân bằng, hạn chế bớt điện tích âm và hơi lạnh. Người đang còn sống và khỏe làm như vậy thế nào được?

Cửa phòng ngủ không được đối diện với phòng ăn và phòng vệ sinh

Phòng vệ sinh là nơi chứa nhiều uế khí dơ trọc và vi khuẩn gây bệnh. Phòng ăn, bếp nấu, khói bụi dầu mỡ, mùi thức ăn và những những thứ phức tạp khác nữa. Vì vậy cho nên tránh thiết kế cửa phòng ngủ đối diện với phòng vệ sinh và phòng bếp, vì khí độc, vi khuẩn, các mùi vị phức tạp đan xen hòa trộn theo đường đó vào thẳng phòng ngủ, có thể gây nên bệnh tật, ảnh hưởng tới sức khỏe.

Giày dép nên để bên ngoài

Giầy dép sau một ngày đồng hành cùng con người nhuốm đầy mồ hôi, dính nhiều bụi đất, và là nơi vi khuẩn ẩn náu, sinh sôi. Vì vậy, nên đặt giày dép bên ngoài phòng ngủ, để tránh tàng chứa nguồn khí dơ trọc, hôi hám, vi khuẩn và mầm bệnh.

Không được nuôi cá cảnh trong phòng ngủ

Bể cá cảnh ngũ hành thuộc Thủy, có tác dụng cải tạo không gian, cảnh quan, và chiêu tài tụ khí. Thậm chí, trong các trường hợp phương vị gặp các hung tinh như Thất xích, Lục bạch, ở bối cảnh các sao này thất lệnh, một là quan tinh chủ kiện tụng hình pháp (Lục bạch), một sao là Tặc tinh chủ về tai nạn đột ngột, hoặc mất trộm (Thất xích), nhưng cả hai sao đều có ngũ hành thuộc Kim, tại phương vị các sao này bay đến trong năm nên đặt bể cá để chiết giảm điều xấu.

Tuy nhiên, trong phòng ngủ, không nên đặt bể cá. Vì hơi nước bốc lên, độ ẩm trong phòng cao quá sẽ gây ra tình trạng bị nhiễm lạnh và bệnh hô hấp.

 Kiêng kị trong phong thủy phòng ngủ

Phòng ngủ đối diện với non bộ hoặc tảng đá gồ ghề không lợi cho phụ nữ mang thai

Trong phong thủy nhà ở, nếu cửa số phòng ngủ đối diện với hòn non bộ hay tảng đá gồ ghề sẽ bất lợi cho phụ nữ có thai, thai nhi không ổn định, thậm chí còn có thể hư thai. Điều này được ghi chép khá chi tiết và rõ ràng trong sách Thẩm thị Huyền không học của Thẩm Tiên Sinh. Và nếu như mua nhà mà gặp tình huống này thì nên đặt một món đồ trang trí hình tròn vào bên trong cánh cửa sổ để hóa giải sát khí.

Hải Triều


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: NHỮNG ĐIỀU NÊN TRÁNH KHI THIẾT KỂ PHÒNG NGỦ

Sao Tham Lang - Hung tinh chủ họa phúc và uy quyền

Cung mệnh an tại Hợi, Tý có sao Tham lang đồng cung tọa thủ (thủy cung) giáp với tứ sát thì số người này thật là nghèo khổ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Tham Lang - Hung tinh chủ họa phúc và uy quyền

Sao Tham Lang - Hung tinh chủ họa phúc và uy quyền

Sao Tham Lang thuộc chòm sao Bắc Đẩu Tinh (thuộc tính âm thuỷ) tên thường gọi là Tham.

Sao Tham Lang miếu địa tại: Sửu và Mùi

Vượng địa tại: Thìn và Tuất.

Đắc địa tại: Dần và Thân.

Hãm địa tại: Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ, Mão, Dậu.

Ý nghĩa sao Tham Lang tại cung mệnh: Tham Lang tại mệnh miếu địa, vượng địa hay đắc địa thì thân hình cao lớn, đẫy đà da trắng, mặt đầy đặn, lông, tóc rậm rạp, có ẩn tướng (miếu địa: có nốt ruồi kín), khá thông minh và trung hậu, nhưng hiếu thắng và tự đắc, ưa hoạt động và có đầu óc kinh doanh, tài tổ chức. Hay mưu tính những việc to lớn, làm việc gì cũng muốn chóng xong. Chỉ chuyên cần được buổi đầu và về sau lại sinh ra lười biếng chán nản và bỏ dở. Thích tới những nơi đông người, ăn ngon mặc đẹp.

Tham Lang miếu địa lúc thiếu thời gian chuân vất vả, chẳng mấy khi được toại lòng. Nhưng từ tuổi 30 trở đi thì thật là phú quý song toàn càng về già lại càng an nhàn.

Sao Tham Lang vượng địa gặp hóa kỵ đồng cung là người cao vừa tầm, hoặc xung chiếu, nên buôn bán kinh doanh để được giàu có.

Tham Lang hãm địa thì thân hình cao vừa tầm, hơi gầy, da thô và xấu, mặt dài, tiếng nói to, kém thông minh.

Sao Tham Lang hãm địa tại Tý, Tỵ, Ngọ, Hợi là người nhan hiểm tham lam, có nhiều dục vọng, cũng có óc kinh doanh nhưng không quả quyết, không bền chí, thường chuyên về kỹ nghệ và thủ công, hoặc đi buôn. Suốt đời phải lao khổ, sức khỏe suy kém có nhiều bệnh tật ở mắt, bộ tiêu hóa, sinh dục. Hay bị bắt bớ giam cầm, nên đi xa làm ăn mới mong yên thân và sống lâu. nếu hãm địa tại  cung Ngọ là người có tính dâm dật, chơi bời, hoang đãng.

Tham Lang hãm địa tại mão, dậu là người yếm thế, làm việc gì cũng thất bại, hay gặp những chuyện chẳng lành, chỉ có tu hành mới mong được yên thân và hưởng phúc thọ.

Tham Lang dù miếu địa, vượng địa hay đắc địa, hãm địa, hoặc gặp hóa kỵ đồng cung tất hay bị bắt bớ giam cầm, khó tránh khỏi nạn về sông nước.

Cung mệnh an tại Tỵ và Hợi có Tham Lang tọa thủ nếu không làm đổ tể, bán thịt tất bị bắt bớ giam cầm, rất khổ.

 Đàn bà cung mệnh có Tham Lang tọa thủ là người hay ghen tuông nếu hãm địa thì thêm tính hiểm độc.

Cung mệnh an tại Sửu mùi có Tham, Vũ tọa thủ đồng cung, lúc thiếu thời gian chuân phải ngoài 30 tuổi mới vinh hiển, càng về già lại càng giàu có.

 Cung mệnh an tại Sửu, Mùi có Tham, Vũ tọa thủ và đồng cung về già có uy quyền, được được người tới lui thuần phục.

Cung mệnh an tại tứ mộ (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) Có Tham hoặc Vũ tọa thủ hay 2 sao đồng cung, phải ngoài 30 tuổi mới phát phúc và hưởng tài lộc.

Cung thân an tại tứ mộ Có Tham hoặc Vũ tọa thủ hay 2 sao đồng cung là hạ cách, suốt đời phải chịu nhiều vất vả không thể quý hiển được.

Cung mệnh an tại tứ mộ có Tham tọa thủ hỏa tinh, linh tinh đồng cung hội họp là người quyền cao chức trọng giàu có.

Cung mệnh an tại Sửu và Mùi có Tham, Vũ tọa thủ đồng cung, mà cung mệnh lại không sáng sủa tốt đẹp mờ ám, có cách này thì khổ cả đời, lao đao, lận đận.

Cung mệnh có sao Tham Lang hãm địa gặp nhiều sát tinh đồng cung, rất mờ ám và xấu xa. Đàn bà có cách này là hạng người dâm dật,  buôn son bán phấn, đàn ông có cách này là hạng trộm cắp gian xảo.

Cung mệnh an tại Hợi và Tý có Tham Lang tọa thủ gặp Kình hoặc Đà đồng cung thì rất mờ ám và xấu xa. Tham Lang ở vị trí này được ví như hoa đào nổi trôi trên dòng nước,  người có cách này là người có tính chơi bời, hoang đãng thường lang thang nay đây, mai đó.

Cung mệnh tại Dần có Tham, Đà tọa thủ và đồng cung là người chơi bời bừa bãi đến nỗi bị đánh đập, rước họa vào thân.

Cung mệnh có sao Tham Lang miếu địa hay vượng địa tọa thủ gặp Linh tinh đồng cung là người có tài thao lược, hiển đạt về võ nghiệp và giàu sang. Tuổi Mậu Kỷ có cách này vì có sự nghiệp ứng hợp thì được hưởng phú quý tột bậc xuất tướng nhập tướng.

Tham Lang rất kị gặp Kình, Đà, Không, Kiếp hội họp nếu cung mệnh có Tham Lang miếu địa hay vượng địa tọa thủ gặp không đồng cung, hay kiếp đồng cung tất sau này không được hưởng phúc thọ, giàu thì chết sớm, mà nghèo thì sống lâu.

Cung mệnh an tại Ngọ và Dần có sao Tham Lang tọa thủ gặp sát tinh hội họp như Hổ, Tang thật khó có thể đề phòng được sấm sét hay bị ác thú cắn.

Cung mệnh an tại Hợi, Tý có sao Tham lang đồng cung tọa thủ (thủy cung) giáp với tứ sát thì số người này thật là nghèo khổ.

Cung mệnh an tại Hợi, Tý có Tham tọa thủ, gặp quyền vượng hội họp biến hư thành thực, chuyển xấu thành tốt. Tuổi Giáp kỷ có cách này sẽ được hưởng giàu sang.

Cung mệnh có sao Tham Lang miếu địa hay vượng địa tọa thủ gặp Kỵ đồng cung hay xung chiếu là người buôn bán xuôi ngược nay đây mai đó nhưng lại rất giàu có.
Cung mệnh an tại Dậu (đoài), Mão (chấn) có Tham Lang tọa thủ là người thoát tục, tu hành. Nhưng trong trường hợp này nếu Tham gặp Kỵ, Kiếp hội họp chắc chắn sẽ phá giới trở thành người thường, còn nợ trần hoàn.

Cung mệnh an tại Dần, Thân mà có sao Tham Lang tọa thủ gặp sao Sinh đồng cung, thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp tất sống lâu như ông Bành Tổ.

Đàn bà có sao Tham Lang hãm địa tọa thủ gặp đào đồng cung là người độc ác và thâm hiểm, rất dâm đãng. Nhưng trong trường hợp này gặp thêm tuần, triệt án ngữ lại là người nhân hậu, đoan chính.

Cung mệnh an tại Tý có sao Tham Lang tọa thủ là hạng trộm cắp du đãng, bất nhân, bất nghĩa. Nếu gặp Tuần, triệt án ngữ lại là người lương thiện, thẳng thắn sống đúng mực.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tham Lang - Hung tinh chủ họa phúc và uy quyền

Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy - Phong thủy - Xem Tử Vi

Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy, tu vi Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy

Dường như, thủy tinh đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc trang trí nhà cửa. Từ hành lang bằng kính cho đến gạch thủy tinh trong phòng khách... Vậy trong phong thủy, thủy tinh có ý nghĩa huyền bí như thế nào?

Cùng với sự đổi mới không ngừng của trào lưu nhà ở, những người trẻ tuổi ngày nay có xu hướng thích dùng đồ trang trí được làm từ chất liệu thủy tinh để trang trí cho ngôi nhà của mình. Từ hành lang bằng kính cho đến gạch thủy tinh trong phòng khách... Một vài gia đình còn phá bỏ đi tường bằng gạch trong phòng ngủ và phòng khách để đổi sang tường kính vì nhận thấy rằng tường kính có thể khiến cho không gian trở nên rộng rãi hơn.

Tuy nhiên, thủy tinh là một loại chất liệu đặc biệt, vì vậy khi dùng thủy tinh trong nhà thì càng phải chú ý nhiều hơn.

Kiêng ngăn giữa phòng ngủ và phòng khách bằng kính

Theo như phong thủy, phòng khách là nơi để tiếp khách thuộc phần dương, còn phòng ngủ là nơi để gia chủ có thể nghỉ ngơi thuộc phần âm. Nếu sử dụng tường kính để ngăn cách hai phòng này thì có thể dễ dàng nhìn thấy nhất cử nhất động của gia chủ và khách trong phòng. Như vậy âm dương sẽ mất cân bằng khiến cho tâm trạng con người bất ổn, tinh thần hoảng loạn.

Kiêng lắp đặt phòng tắm kính trong phòng ngủ

Một vài cặp vợ chồng trẻ vừa mới kết hôn thích lắp đặt phòng tắm kính trong phòng ngủ vì cho rằng như vậy có thể làm tăng thêm độ mặn nồng cho tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên trong phong thuy thiết kế phòng tắm kính là điều kiêng kỵ. Vì nhà vệ sinh dù sao thì cũng là nơi chứa nhiều tà khí thuộc phần âm cần phải được che lại. Vì thế nên dùng tường bằng gạch thay cho tường kính trong suốt.

Kiêng dùng gạch thủy tinh cho ngôi nhà

Trong một vài thiết kế của những ngôi nhà gỗ hay biệt thự sang trọng có khi người ta sử dụng gạch thủy tinh để trang trí cho ngôi nhà bằng cách phủ một lớp gạch thủy tinh nên trên sàn nhà, đồng thời tạo các hình vẽ hoa văn lên đó để tạo vẻ đẹp tinh tế cho căn phòng.

Vì là thủy tinh trong suốt nên không thể tạo cho bạn cảm giác như đang bước trên sàn nhà thật, và chắc hẳn bạn sẽ cảm thấy thiếu đi cảm giác an toàn. Mà sàn nhà lại cần phải vững chắc vì thế gạch thủy tinh không thích hợp để sử dụng cho ngôi nhà của bạn.

Kiêng đặt tường kính thẳng giường ngủ

Tường kính cũng là một giải pháp mà các kiến trúc sư thích sử dụng khi thiết kế nhà ở hiện nay. Thứ nhất là vì tường kính có thể tạo cảm giác thoáng đãng cho ngôi nhà, hai là làm cho căn phòng trở nên đa dạng nhiều màu sắc. Và tường kính còn có thể đem đến cho bạn nhiều niềm vui bất ngờ. Các chuyên gia khuyên rằng tường kính có thể sử dụng trong việc trang trí nhà ở, nhưng có một nguyên tắc cần phải lưu ý đó là không nên đặt thẳng giường ngủ.

Ngoài ra, tường kính nên dựa vào tường thật, nếu không sẽ có cảm giác hư ảo không rõ ràng. Tóm lại, tường kính không nên đặt quá nhiều trong nhà, phải sử dụng một cách hợp lý, mỗi một căn phòng lại có những cách sắp xếp khác nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa huyền bí của thủy tinh trong phong thủy - Phong thủy - Xem Tử Vi

Treo đèn chùm thế nào cho đúng phong thủy

Đèn chùm chứa đựng nguồn năng lượng lớn nên rất tốt cho tài vận và các mối quan hệ của gia chủ. Tuy nhiên, nếu treo đèn chùm tùy tiện thì lợi bất cập hại, tự
Treo đèn chùm thế nào cho đúng phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

rước họa vào thân.

  Theo quan điểm phong thủy, đèm chùm được coi là mang đến nguồn năng lượng dương mạnh, giúp kích thích nguồn tài lộc dồi dào. Nếu treo đèn chùm đúng phong thủy, gia chủ sẽ nhận được nhiều lợi ích về tiền bạc và các mối quan hệ xã giao. Dưới đây là những lợi ích mà bạn sẽ có được khi thực hiện đúng những lời khuyên về việc treo đèn chùm.
1. Tăng tiền tài, kích thích các mối quan hệ hài hòa
 
Bạn thấy đấy, trong nhà hàng bao giờ các thực khách cũng thích tụ tập xung quanh các bàn sáng nhất. Đèn chùm mang lại vận may tài lộc cho nhà hàng cũng như kích thích mối quan hệ của thực khách. 
 
Thông thường, khi ăn hay hẹn hò xã giao luôn đi đôi với nhau ở các thương vụ kinh doanh, đặc biệt là các nước châu Á. Năng lượng thổ của các tinh thể pha lê và năng lượng hỏa của ánh sáng kích thích hỗ trợ xuất sắc cho cả hai khía cạnh này.

Treo den chum the nao cho dung phong thuy hinh anh
Ảnh minh họa

2. Kích hoạt sự may mắn
 
Theo phong thủy, ánh sáng là một trong những chất kích hoạt phong thủy tốt lành nhất. Nó tăng gấp đôi và gấp ba khi ánh sáng được khúc xạ bằng đèn chùm pha lê lấp lánh. Do đó, dưới ánh đèn chùm pha lê, nguồn năng lượng tích cực được lưu thông thuận lợi hơn, tạo ra những trường vận khí tốt, kích hoạt sự may mắn về tiền bạc cho bạn.
3. Hóa giải vận hạn   Khi những mâu thuẫn xảy ra giữa người đàn ông và phụ nữ cũng tương tự như nguồn năng lượng nước và lửa đụng nhau. Năng lượng của đèn chùm có thể hoạt động trung gian, đánh tan các cuộc va chạm giữa hai nguồn năng lượng. Từ đó hóa giải mọi vận hạn xấu, mang tới những điều tốt đẹp.
4. Hút năng lượng tích cực   Một cách tuyệt vời để thu hút nguồn năng lượng vào nhà là lắp đèn chùm ở tiền sảnh hoặc gần cửa trước. Năng lượng thanh khiết của tinh thể sáng kích thích năng lượng tích cực, linh hoạt nhập vào nhà của bạn.
5. Đổi mới không gian phòng ngủ
 
Nếu căn phòng tối tăm, đèn chùm sẽ dễ dàng làm sáng phòng lên, đổi mới không gian phòng ngủ. Tuy vậy khi treo đèn chùm cần tránh để thẳng giường. Treo đèn ngay phía trên giường ngủ sẽ tạo nên cảm giác không an toàn, ảnh hưởng đến chất lượng.
8. Kích hoạt năng lượng tích cực của các góc quan trọng
 
Trong từng góc cụ thể, treo đèn chùm phong thủy sẽ tạo ra những hiệu ứng và lợi ích khác nhau. Cụ thể, sử dụng đèn chùm ở phía Tây và Tây Bắc góc, nơi ánh sáng và năng lượng thổ sẽ có lợi cho trẻ em và người đàn ông của ngôi nhà. Phía Đông Bắc và Tây Nam sẽ giúp gia tăng mối quan hệ và tạo ra sự hài hòa trong gia đình. Góc phía Nam mang lại sự tài lộc và thành công.
► Xem thêm: Những yếu tố phong thủy nhà ở ảnh hưởng đến tài vận gia đình bạn

Theo
Khám phá
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo đèn chùm thế nào cho đúng phong thủy

Tại sao tháng 7 âm lịch được gọi là "tháng cô hồn"?

Người Việt xem tháng 7 là tháng cô hồn, dã quỷ và cũng chính là tháng Vu Lan báo hiếu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguồn gốc tục cúng cô hồn

Xưa, người Việt cổ tin rằng, tùy theo việc khi còn sống làm mà người mất sẽ được đầu thai kiếp khác hay bị đày xuống địa ngục, thậm chí lang thang quấy rối người thường. Và cúng cô hồn từ đó mà xuất hiện.

Theo quan niệm của nhiều gia đình Việt, việc cúng cô hồn không chỉ để khỏi bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc, giúp những cô hồn ít ra cũng có một ngày được no nê, đỡ tủi phận. Đó là ý nghĩa mang tính nhân văn rất cao trong văn hóa Việt, cũng như quan niệm về ngày xá tội: con người dù đã gây ra những tội ác gì thì trong quá trình chịu trừng phạt, quả báo, cũng có được một ngày xá tội, để đỡ khổ cực, đau đớn…

me
Theo quan niệm của nhiều gia đình Việt, việc cúng cô hồn không chỉ để khỏi bị quấy phá, mà vì muốn làm phúc, giúp những cô hồn ít ra cũng có một ngày được no nê, đỡ tủi phận.

Dưới góc độ Đạo giáo, tục cúng cô hồn bắt nguồn từ tích cổ Trung Hoa. Truyền thuyết dân gian cho rằng từ mùng 2/7, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì “thả cửa” để cho ma quỷ túa ra tứ phương, đến sau 12 giờ đêm ngày 14/7 thì kết thúc và các ma quỷ phải quay lại địa ngục.

Do đó, vào tháng 7 âm lịch, người ta quan niệm trên dương thế có rất nhiều quỷ đói nên phải cúng cháo, gạo, muối hối lộ cho chúng để chúng không quấy nhiễu cuộc sống bình thường. Ở Trung Quốc, việc cúng cô hồn được thực hiện vào ngày 14 tháng 7 Âm lịch, còn ở Việt Nam, thời gian này kéo dài nguyên một tháng.

Một chuyện khác kể rằng, một đại đệ tử của Phật là đức A Nan Đà một buổi tối đang ngồi trong tịnh thấy thì thấy một con ngạ quỷ (quỷ đói) người gầy quắt, cổ dài, miệng nhả ra lửa bước vào, nói rằng 3 ngày nữa A Nan Đà sẽ chết và cũng trở thành quỷ miệng lửa (diệm khẩu) như nó. Quỷ nói: “Nếu muốn tránh thì ông phải bố thí cho lũ ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc đồ ăn, và cúng dường Tam bảo giúp chúng tôi, để chúng tôi được tái sinh vào cõi trên, thì ông cũng được tăng thọ”.

Tôn giả A Nan Đà đem chuyện này nói với đức Phật. Phật bèn làm một bài chú đem tụng trong lễ cúng tam bảo để cầu siêu thoát cho quỷ đói miệng lửa. Về sau, dân gian hiểu rộng ra thành lệ cúng và cầu phúc cho vong nhân nói chung. Lễ cúng dần dần thành xá tội vong nhân – thể hiện lòng kính trọng, vị tha của người còn sống đối với những người đã khuất, dẫu cho những hành động quá khứ lỗi lầm xưa kia…

me
Cũng trong tháng 7, người ta thường truyền tai nhau về 18 điều cấm kỵ như: không để chuông gió trước đầu giường, đi đêm không được gọi tên thật, không được chụp ảnh buổi tối...

Cũng trong tháng 7, người ta thường truyền tai nhau về 18 điều cấm kỵ như: không để chuông gió trước đầu giường, đi đêm không được gọi tên thật, không được chụp ảnh buổi tối... Cũng không ít người quan niệm rằng tháng này đen đủi, không nên dựng nhà, sửa cửa, đám cưới… Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng những quan niệm này chưa được bất kỳ khoa học nào chứng minh là đúng. "Mọi người có thể có được đức tin song không nên sa đà vào mê tín. Nhiều khi chính sự sa đà sẽ khiến họ vuột mất cơ hội tốt", GS. TS Phạm Đức Dương, chuyên gia về Ngôn ngữ dân tộc và Đông Nam Á học chia sẻ trên Infonet.

Ngạ quỷ - nỗi kinh sợ trong tháng cô hồn

Trong số những cô hồn, ma quỷ hay phá quấy người dân, dân gian xưa thường xuyên nhắc tới ngạ quỷ (quỷ đói). Trong các thuyết Phật giáo, người ta cho rằng, ngạ quỷ là một dạng tái sinh khi con người chết đi, nếu làm nhiều việc tốt, chúng sẽ được đầu thai kiếp khác làm người. Ngược lại, nếu làm điều xấu, tùy theo các mức độ mà chúng sẽ bị đầy xuống địa ngục, nhẹ hơn thì đầu thai làm súc sinh và nhẹ nhất làm ngạ quỷ.

Tín ngưỡng dân gian cũng lưu truyền một sự tích khác về quỷ đói. Tương truyền có một gia đình nọ giàu có nhờ bán nước mía. Một hôm, có một nhà sư tới xin nước mía về để chữa bệnh. Người chồng đi vắng, dặn vợ ở nhà tiếp đãi nhà sư cẩn thận.

Nhưng bà vợ tham lam, keo kiệt đã lén đi tiểu vào bát của nhà sư, sau đó trộn chung với nước mía. Nhà sư tinh thông biết chuyện, đã đổ bát nước đi và bỏ về. Sau này, người vợ chết đi, do tội lỗi của mình nên bị đầu thai thành thứ quỷ luôn luôn đói khát, sống ở nơi bẩn thỉu, nhớp nhúa, gọi là quỷ đói.

Tháng 7 âm lịch có hai lễ lớn: Vu Lan và cúng Cô hồn

Như vậy, trong tháng 7 âm lịch có hai lễ lớn: Vu Lan và cúng Cô hồn. Hai lễ này về cơ bản hoàn toàn khác nhau. Lễ Vu Lan gắn với tích về Mục Kiền Liên, người hầu của Đức Phật, là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông.

me
Như vậy, trong tháng 7 âm lịch có hai lễ lớn: Vu Lan và cúng Cô hồn. 

Vì tưởng nhớ mẹ nên một ngày nọ Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần nhìn xuống địa ngục, thấy mẹ là bà Thanh Đề bị Diêm Vương đày làm quỷ đói do kiếp trước gây nhiều nghiệp ác. Thương mẹ nên ông dùng phép thuật xuống địa ngục để mang cơm dâng cho người. Bà Thanh Đề do lâu ngày nhịn đói nên khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình vì sợ các cô hồn khác đến tranh. Vì còn tính "tham sân si" nên khi bà đưa bát lên miệng, thức ăn đã hóa thành lửa đỏ không thể ăn được. Đau xót khi chứng kiến cảnh này, Kiền Liên cầu xin Đức Phật giúp mình cứu mẹ.

Đức Phật dạy ông rằng một mình con không thể cứu được mẹ do ác nghiệp của bà quá nặng, chỉ còn cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong thành công. Vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư tăng mãn hạ (sau 3 tháng an cư kiết hạ) thì sửa một cái lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng và thành khẩn cầu xin mới có thể cứu rỗi vong nhân khỏi địa ngục tăm tối.

Mục Kiền Liên thành tâm làm theo lời Phật dạy, không những cứu được mẹ mà còn giải thoát được tất cả vong hồn bị giam cầm ở âm cung. Từ đó ngoài ý nghĩa "mùa hiếu hạnh", tháng bảy âm lịch còn gọi là tháng "xá tội vong nhân", tức là thời gian các vong hồn được thả tự do. Trong những ngày này, người dân thường lập đàn cầu siêu hoặc cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn (tức là vong hồn không có người thân) để mong họ phù hộ cho mình.

Từ đó về sau theo lời Phật dạy, các phật tử muốn báo hiếu cha mẹ thì cử hành lễ Vu Lan để cầu siêu cho các đấng sinh thành và cầu phá địa ngục cho những vong hồn. Tuy nguồn gốc khác nhau nhưng cả hai lễ cúng lớn trong tháng 7 đều chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả, đó là đề cao việc báo hiếu và làm phúc bố thí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao tháng 7 âm lịch được gọi là "tháng cô hồn"?

Sống ở đời chỉ cần làm người tốt là đủ, đừng suy nghĩ thiệt hơn

Sống ở đời chỉ cần làm người tốt là đủ, đừng suy nghĩ thiệt hơn. Kiếp người vốn ngắn ngủi, thoáng chốc đã phải trở về với cát bụi. Vì vậy, đừng suy nghĩ thiệt hơn, tranh giành mà chỉ làm người tốt là đủ rồi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kiếp người vốn ngắn ngủi, thoáng chốc đã phải trở về với cát bụi. Vì vậy, đừng suy nghĩ thiệt hơn, tranh giành mà chỉ làm người tốt là đủ rồi.

Một vị lữ khách trông thấy một bà lão ở trên bờ sông. Bà lão đang lo lắng không biết vượt qua sông thế nào?

Mặc dù toàn thân mệt mỏi rã rời, người lữ khách vẫn cố gắng hết sức mình giúp bà lão vượt qua sông.

Sau khi đã qua được sông, thật không ngờ, bà lão khiến người lữ khách rất thất vọng…
Sau khi qua sông, bà lão không nói gì cả, vội vàng bỏ đi.

Người lữ khách cảm thấy rất hối hận: “Dường như thật không đáng phải cố gắng nỗ lực giúp bà lão! Bời vì ngay cả hai chữ ‘Cám ơn’, mình cũng không được nhận”.

Đâu biết rằng, vài tiếng sau, trong lúc anh mệt không thể tiếp tục bước đi thì có một vị trẻ tuổi đuổi theo anh.

Người này nói: “Cám ơn anh vì đã giúp bà nội tôi! Bà dặn tôi mang cho anh một chút đồ và nói chắc anh sẽ dùng đến nó”.

Nói xong vị này lấy lương khô ra đưa cho anh, đồng thời tặng anh một chú ngựa.

Đừng nên vội vàng tìm câu trả lời cho cuộc sống

Đừng nên vội vàng mong muốn cuộc sống sẽ cho bạn biết hết các câu trả lời,
Đôi khi, bạn cần phải kiên nhẫn chờ đợi.

Cho dù nếu bạn hướng vào một cái hang động mà hét lên, cũng cần đợi một lúc, mới cảm nhận âm thanh vọng lại.

Cũng có nghĩa là cuộc sống sẽ cho bạn đáp án nhưng sẽ không cho bạn biết tất cả ngay lập tức.

Nếu như có một ngày, trong cuộc sống của bạn gặp phải những phong ba bão táp, và bạn không thể chịu đựng được nữa, vậy thì, mong bạn hãy biết chờ đợi….

Mọi việc đều là sự an bài tốt nhất

Khi bạn đang gặp phải những nghịch cảnh mà cảm thấy mọi việc đều không tốt.
Tình yêu, công việc, sự nghiệp, lý tưởng đều tan thành mây khói.
Trong tâm thấy tuyệt vọng vô cùng,
Vậy bạn hãy thử thay đổi một chút cách nhìn nhận các vấn đề, rồi tự nhủ với bản thân: “Tất cả đều đã có an bài tốt nhất!”

Phúc họa đi liền nhau, biết đâu tương lai sẽ có sự thay đổi bất ngờ xảy đến? “Tất cả đều đã có an bài tốt nhất”

Không nên phiền muộn, không nên chán nản,
Càng không nên chỉ nhìn vào khoảng thời gian tồi tệ này.
Hãy biết nhìn xa trông rộng, để mở mang tầm mắt,
Không nên ân hận, càng không nên oán trời trách người,
Luôn lạc quan, cố gắng, tin rằng ông Trời sẽ không tuyệt đường của người tốt

Để giảm bớt “tranh giành”, hãy quan niệm:

Người nhiều tiền hay ít tiền, đủ ăn là được rồi!
Người xấu hay đẹp, vừa mắt là được rồi!
Người già hay người trẻ, khỏe mạnh là được rồi!
Gia đình giàu có hay nghèo túng, hòa thuận là được rồi!
Chồng về sớm hay về muộn, có về là được rồi!
Người vợ phàn nàn nhiều hay ít, lo việc nhà là được rồi!
Con cái dù làm tiến sĩ hay bán hàng ngoài chợ cũng được, an tâm là được rồi!
Nhà to hay nhà nhỏ có thể ở được là được rồi!
Trang phục có thương hiệu hay không, có thể mặc được là được rồi!
Ông chủ không tốt, có thể chịu được là được rồi!
Hết thảy phiền não, có thể giải được là được rồi!
Cả đời người, bình an là được rồi!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống ở đời chỉ cần làm người tốt là đủ, đừng suy nghĩ thiệt hơn

Bảng đối chiếu thai tức

Duới đây là chi tiết về bảng đối chiếu thai tức.
Bảng đối chiếu thai tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bảng đối chiếu thai tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Ngày

trụ

Thai

tức

Giáp

Kỷ

Sửu

Giáp

Tuất

Kỷ

Mão

Giáp

Thân

Kỷ

Tỵ

Giáp

Ngọ

Ất

Mùi

Giáp

Thìn

Ất

Dậu

Giáp

Dần

Ất

Hợi

Ất

Sửu

Canh

 Tý

Ất

Hợi

Canh

Dần

Ất

Dậu

Canh

Thìn

Ất

Mùi

Canh

Ngọ

Ất

Tỵ

Canh

Thân

Ất

Mão

Canh

Tuất

Bính

Dần

Tân

 Hợi

Bính

Tân

Sửu

Bính

Tuất

Tân

Mão

Bính

Thân

Tân

Tỵ

Bính

Ngọ

Tân

Mùi

Bính

Thìn

Tân

Dậu

Đinh

Mão

Nhâm

Tuất

Đinh

Sửu

Nhâm

Đinh

Hợi

Nhâm

Dần

Đinh

Dậu

Nhâm

Thìn

Đinh

Mùi

Nhâm

Ngọ

Đinh

 Tỵ

Nhâm

Thân

Mậu

Thìn

Quý

Dậu

Mậu

Dần

Quý

Hợi

Mậu

Quý

Sửu

Mậu

Tuất

Quý

Mão

Mậu

Thân

Quý

Tỵ

Mậu

Ngọ

Quý

Mùi

Kỷ

Tỵ

Giáp

Thân

Kỷ

Mão

 Giáp

Tuất

Kỷ

Sửu

Giáp

Kỷ

Hợi

Giáp

Dần

Kỷ

Dậu

Giáp

Thìn

Kỷ

Mùi

Giáp

 Ngọ

Canh

Ngọ

Ất

Mùi

Canh

Thìn

Ất

Dậu

Canh

Dần

Ất

Hợi

Canh

 Tý

Ất

Sửu

Canh

Tuất

Ất

Mão

Canh

Thân

Ất

 Tỵ

Tân

Mùi

Bính

Ngọ

Tân

Tỵ

Bính

Thân

Tân

Mão

Bính

Tuất

Tân

Sửu

Bính

Tân

Hợi

Bính

Dần

Tân

Dậu

Bính

Thìn

Nhâm

Thân

Đinh

Tỵ

Nhâm

Ngọ

Đinh

Mùi

Nhâm

Thìn

Đinh

Dậu

Nhâm

Dần

Đinh

Hợi

Nhâm

Đinh

Sửu

Nhâm

Tuất

Đinh

Mão

Quý

Dậu

Mậu

Thìn

Quý

Mùi

Mậu

Ngọ

Quý

Tỵ

Mậu

Thân

Quý

Mão

Mậu

Tuất

Quý

Sửu

Mậu

Quý

Hợi

Mậu

Dần

(Theo Tử bình nhập môn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng đối chiếu thai tức

Kiểu nhà ở khiến người phụ nữ gặp xui xẻo liên tiếp

Kiểu nhà ở khiến phụ nữ gặp xui xẻo: Nếu nhà khuyết lõm phía Tây Nam thì ảnh hưởng tới địa vị và sức khỏe người phụ nữ.
Kiểu nhà ở khiến người phụ nữ gặp xui xẻo liên tiếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sức khỏe, tài lộc và tình duyên của người phụ nữ có mối liên hệ mật thiết với phong thủy ngôi nhà đang ở. Nếu ở trong những kiểu nhà phạm phong thủy, người phụ nữ luôn gặp nhiều xui xẻo.



Trong ngôi nhà hay căn hộ, phía Tây Nam được coi là đại diện cho người phụ nữ. Hướng này tốt sẽ mang lại tài vận tốt, những điều may mắn và ngược lại. Do đó, cần hết sức lưu ý khi thiết kế hay bài trí vật dụng ở hướng này.

1. Nhà khuyết lõm ở phía Tây Nam

Xét theo yếu tố phong thủy, phía Tây Nam dùng để chỉ người phụ nữ trong gia đình. Nếu căn nhà hay căn hộ mà có phía Tây Nam bị khuyết lõm, có nghĩa là căn nhà này không có chỗ cho phụ nữ, dẫn đến người phụ nữ không thường xuyên về nhà, thích ra ngoài tụ tập, tìm cảm giác mới. Điều này ảnh hưởng đến địa vị, sức khỏe cũng như làm đảo lộn sinh hoạt hàng ngày của người phụ nữ.

Kieu nha o khien nguoi phu nu gap xui xeo lien tiep hinh anh
Ảnh minh họa

2. Nhà vệ sinh ở hướng Tây Nam


Theo khía cạnh phong thủy khác, phía Tây Nam chủ yếu hướng đến tình cảm và trinh tiết của người phụ nữ. Do đó, nếu thiết kế nhà vệ sinh ở hướng Tây Nam sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần của người phụ nữ. Ở trong ngôi nhà này lâu dần sẽ khiến người phụ nữ mắc bệnh tật và hàng loạt những vấn đề tâm lí.
Ngoài ra, nhà vệ sinh là nơi không được sạch sẽ, chứa nhiều tà khí, như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến vận may của phụ nữ trong tất cả mọi việc của cuộc sống.

3. Đặt nhiều vật đè nén hay sắc nhọn ở phía Tây Nam


Đặt nhiều vật nặng gây đè nén ở khu vực phía Tây Nam sẽ rất dễ ảnh hưởng đến tài vận của người phụ nữ. Hơn thế, sự nghiệp của họ cũng sẽ gặp nhiều điều không thuận lợi.

Ngoài ra, đặt những vật có gai, sắc nhọn phía Tây Nam cũng không mang lại điều tốt lành cho người phụ nữ. Chúng sẽ phá hủy vận may của họ, thậm chí mang đến những họa thị phi, tai họa bất ngờ.

4. Không chú trọng đặt cây xanh ở phía Tây Nam

Cây xanh đem đến sức sống cũng như vận may mới cho ngôi nhà, giúp tránh những điều trắc trở, bất lợi. Nếu phía Tây Nam ngôi nhà được chăm chút và trang trí bằng cây xanh thì cuộc sống của người phụ nữ sẽ thuận lợi, gặp nhiều may mắn.

Tuy nhiên, tuyệt đối không nên đặt hoa ở phía Tây Nam, vì như vậy, người phụ nữ sẽ dễ gặp mệnh đào hoa, rơi vào nhiều mối quan hệ tình cảm phức tạp. Ngoài ra bạn cũng có thể treo những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn ở phía Tây Nam của ngôi nhà.

► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiểu nhà ở khiến người phụ nữ gặp xui xẻo liên tiếp

Mơ về đàn ông là gặp may

Giấc mơ về người đàn ông ẩn chứa rất nhiều điều, có thể là điềm lành nhưng cũng có thể là điềm dữ.
Mơ về đàn ông là gặp may

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giấc mơ về người đàn ông ẩn chứa rất nhiều điều, có thể là điềm lành nhưng cũng có thể là điềm dữ. 

Bạn mơ thấy người đàn ông lội qua mương rạch. Đây là điềm báo tốt lành rằng bạn sắp nhận được tin vui có thể là về tình cảm hoặc công việc...    Nếu một người đàn ông bé nhỏ xuất hiện trong giấc mơ của bạn, đây không phải là điều mà bạn phải băn khoăn, lo lắng. Giấc mơ này chuyển tới bạn một thông điệp rằng, trong tương lai bạn sẽ trở nên giàu có, sung túc.
Mo ve dan ong la gap may hinh anh
Bạn mơ thấy đàn ông có mái tóc vàng hoe là điềm may mắn đấy nhé
  Bạn mơ thấy một người đàn ông đang làm lụng vất vả, có lẽ hình ảnh của cuộc sống khổ cực và nghèo khó này sẽ luôn ẩn hiện trong tâm trí bạn. Nhưng bạn hãy vui lên vì đó là một điềm báo tốt đẹp rằng bạn sắp có cuộc sống  giàu có, phát đạt trong nay mai.   Mơ thấy người đàn ông có mái tóc vàng hoe là điềm may mắn: Bạn sẽ được quý nhân phù trợ.   Tuy nhiên, nếu mơ thấy người đàn ông đang ngủ thì lúc này bạn nên lưu ý tới các mối quan hệ với những người xung quanh. Giấc mơ báo rằng có thể bạn sẽ xảy ra xích mích với hàng xóm.   Nếu mơ thấy người đàn ông giàu sang thì bạn hãy chú ý hơn tới của cải của mình. Giấc mơ này là điềm báo bạn có thể sẽ bị hao hụt tài sản. Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy người đàn ông, giấc mơ này ám chỉ đến một nhân vật có quyền lực với bạn hoặc đó là người cha của bạn. Giấc mơ này cũng nhắc nhở bạn cần phải kết hợp các phẩm chất quyết đoán, hợp lý, tích cực và cầu tiến vào bản thân mình. Nếu người đàn ông trong giấc mơ này là người quen thì điều này đang thể hiện cảm xúc của bạn và mối quan tâm của bạn về họ.    Nếu bạn là một người đàn ông và bạn nằm mơ thấy chỉ có những người đàn ông trong một bữa tiệc, giấc mơ này cho thấy rằng bạn đang đặt câu hỏi về khả năng của bạn. Bạn lo sợ rằng mình đang bị bỏ qua và bị trở thành người ngoài cuộc, hoặc bạn có cảm giác mình không bằng người khác.    Nếu bạn là một người phụ nữ và bạn nằm mơ thấy mình đang ở trong một căn phòng với nhiều người đàn ông, giấc mơ này ám chỉ đến cá tính nam tính của bạn. Bạn cần phải khẳng định quyền lực của mình hơn. Nếu bạn nằm mơ thấy mình đang nằm trong vòng tay của một người đàn ông nào đó trong giấc mơ, giấc mơ này cho thấy bạn đang chấp nhận và càng ngày càng thể hiện cá tính quyết đoán và mạnh mẽ của bạn. Nó cũng thể hiện những ham muốn của bạn trong một mối quan hệ với những người đàn ông lý tưởng theo kiểu mẫu của bạn.   Nếu bạn là phụ nữ và bạn nằm mơ thấy một cậu bé hay một chàng thanh niên, giấc mơ này thể hiện cảm xúc của bạn về một người con trai thực tế cuộc sống của bạn, họ là người quan trọng và có ý nghĩa đối với bạn. Cũng có thể trong thực tại bạn đã phải lòng một chàng trai và bạn đang suy nghĩ về người ấy cả trong lúc ngủ.   Nếu bạn là một người đàn ông trưởng thành và bạn nằm mơ thấy mình là một cậu bé, giấc mơ này thể hiện cho con người hồn nhiên và tính cách vui tươi như con trẻ của bạn. Ngoài ra, nó cũng nhắc nhở bạn cần phải phát triển một số khía cạnh cá tính vẫn chưa trưởng thành của mình.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ về đàn ông là gặp may

7 điều kiêng kỵ trong đám cưới

Những người vía nặng, nhà có tang không đi đám cưới. Kiêng chọn ngày cưới vào những ngày cô thần, quả tú, không phòng...kiêng chọn ngày xấu, giờ xấu đón dâu
7 điều kiêng kỵ trong đám cưới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quan niệm sống hiện đại của các bạn trẻ ngày nay cho rằng, hôn nhân hạnh phúc là do yêu nhau, hiểu nhau chứ không phụ thuộc vào các quan niệm dân gian như tuổi vợ chồng không hợp, ngày cưới không đẹp...do đó, việc xem ngày cưới hỏi hoặc những điều kiêng kỵ trong đám cưới bị cho rằng là việc lạc hậu, mê tín....

Các chuyên gia tâm lý cũng cho rằng, hạnh phúc gia đình yên ấm, suôn sẻ cả đời phụ thuộc chủ yếu vào tình yêu, lối sống của các cặp vợ chồng. Vì vậy, dù có kiêng kỵ nhiều thứ trong đám cưới, nhưng khi sống với nhau mà “đồng sàng dị mộng” không cảm thông, chia sẻ với nhau thì gia đình cũng khó yên lành.

Nhưng kiêng kỵ cũng là nét văn hóa truyền thống cưới xin của người Việt, là một phần quan trọng trong phong tục tập quán, những điều phổ biến, hoặc mang nét văn hóa truyền thống như chọn ngày lành tháng tốt để cưới cho thuận lợi thì vẫn nên duy trì. Còn những quan niệm không có căn cứ thì cũng không nên quá tin tưởng mà ảnh hưởng tới việc chuẩn bị đám cưới. Nếu có điều không hợp lý với thời đại, hoặc có tính mê tín dị đoan thì không nên mù quáng thực hiện. 

Dưới đây là 7 điều cần kiêng kỵ trong đám cưới

1. Kiêng ngày xấu, chọn ngày giờ tốt đẹp khi làm đám cưới

Người Việt rất kiêng kỵ chọn ngày và kén giờ làm lễ chạm ngõ, ăn hỏi, rước dâu. Ngày nay các cặp đôi đều coi trọng việc này để cử hành hôn lễ. Ngoài hợp mạng, hợp tuổi còn chọn ngày cưới vào ngày Hoàng đạo, tránh những ngày Hắc đạo, Tam tai, Sát chủ, ngày Rằm…

Quan niệm làm đám cưới vào ngày đẹp thì cuộc sống sau này sẽ yên ả, thuận lợi. Vì vậy nhà nào cũng nhờ xem kỹ giờ, ngày, tháng, năm cho tốt và hợp tuổi cho hai vợ chồng để sau này gặp nhiều may mắn, hạnh phúc, ăn nên làm ra.

Theo các thầy tử vi, cưới hỏi vào ngày có sao Cô thần, Quả Tú, Không phòng, cô dâu sẽ cô quạnh, hiếm con...

Chọn được ngày đẹp đón dâu, còn phải chọn giờ Hoàng đạo để chú rể xuất phát.

Tới nhà cô dâu cũng phải giờ Hoàng đạo mới được vào đón dâu. Đón xong về đến nhà chú rể lại phải chờ giờ Hoàng đạo mới được vào nhà.

Đặc biệt kiêng kỵ cưới vào năm cô dâu ở tuổi kim lâu – tuổi có số đuôi là 1, 3, 6, 8 để tránh những rủi ro (như hôn nhân tan vỡ, con cái hiếm muộn, khó nuôi…).

Ngoài ra tháng 7 Âm lịch, với tích Ngưu Lang Chức Nữ chia ly, cộng với thời tiết mưa bão nên dù trong tháng có ngày hoàng đạo cũng nên kiêng cữ.

2. Kiêng cữ khi ăn hỏi

- Khi nhà trai đến ăn hỏi, cô gái không được ló mặt ra trước (vì sẽ bị coi là vô duyên, thiếu lễ phép), mà phải ở trong phòng tới khi hai nhà thưa chuyện xong xuôi, chú rể vào đón cô dâu mới được ra để mời nước họ hàng.

- Trong đám hỏi ở miền Bắc, nhà gái phải làm lễ xé cau (dùng tay bẻ những quả cau trong tráp ăn hỏi của nhà trai) để cúng ông bà tổ tiên. Sở dĩ nhà gái không được dùng dao cắt, vì dân gian cho rằng cắt cau bằng dao sẽ khiến tình cảm vợ chồng tương lai bị chia cắt.

Ở miền Nam, chú rể sẽ là người xé cau, cô dâu xếp trầu để thắp hương trên bàn thờ, ai làm nhanh hơn được coi là về sau sẽ "nắm quyền" nhà.

3. Kiêng chuẩn bị bàn thờ gia tiên sơ sài

Bàn thờ tổ tiên chính là thể hiện sự chu đáo của gia đình mỗi nhà, đa số các bậc phụ huynh đều lo liệu chu đáo, để tới giờ đón dâu, cô dâu chú rể sẽ cùng bố mẹ hai bên cùng thắp hương trên bàn thờ báo cáo với tổ tiên.

Ngày cưới tùy điều kiện mà bày biện ban thờ gia tiên, nhưng đều kiêng bày bàn thờ sơ sài. Mà thường bao sái (lau dọn) sạch sẽ ban thờ, bày biện những vật phẩm đẹp mắt, đầy đủ mâm cỗ cúng gia tiên, các vật phẩm tối thiểu như gà luộc, xôi, rượu, hoa quả, vàng mã... Hôn lễ chính phải cử hành tại bàn thờ tổ tiên có đủ hương đăng hoa quả.

- Ở miền Trung khi nhà trai đến phải có người làm mai đi đầu. Lễ vật bao gồm: Trái cây, bánh kẹo, trầu cau và cặp đèn trùng với kích thước chân đèn trên bàn thờ.

 Ra khỏi nhà mẹ đẻ, cô dâu cần đi thẳng, không ngoái đầu nhìn lại.

4. Kiêng kị khi đón dâu

- Lúc cô dâu theo chồng về nhà trai phải đi thẳng về phía trước, không được ngoái lại nhìn hay có vẻ quyến luyến nhà mình. Dân gian cho rằng, đi theo chồng mà ngoảnh đầu nhìn lại nhà cha mẹ thì cô dâu đó sẽ khó dạy bảo, sau này cũng không chu đáo việc nhà chồng.

- Mẹ đẻ không nên đưa con gái về nhà chồng, bởi theo người xưa khi hai mẹ con xa nhau thường quyến luyến ôm nhau khóc. Nước mắt biệt ly e sẽ không lành, do đó kiêng mẹ đẻ tiễn con gái về nhà chồng.

Nhưng ngày nay trong lễ cưới nhiều cô dâu bước chân ra khỏi nhà mẹ đẻ vẫn bật khóc nức nở mà… không hiểu vì sao. Còn nhiều gia đình quán triệt chỉ có bố cô dâu, họ hàng thân cận, các vị cao lão mới được đưa cô dâu về nhà chồng.

- Nhiều nhà còn thực hiện đến nhà gái đón dâu phải đi một đường, còn đón cô dâu về theo một đường khác để tránh những điều không may sẽ theo về nhà.

- Xưa cô dâu đang mang bầu khi về nhà chồng không được đi vào từ cửa chính, mà phải đi vòng ra cửa sau để vào (người xưa cho là cô dâu có bầu mà đi cửa trước sẽ làm nhà trai sau này làm ăn không may mắn).

- Kiêng mẹ chồng đứng ở cửa đón con dâu, điều này lý giải là để cô dâu không đòi bỏ về nhà theo mẹ đẻ, và mẹ chồng nàng dâu không xung khắc sau này.

Khi đoàn rước dâu về, mẹ chồng sẽ cầm bình vôi (bình vôi là biểu hiện tiền của, quyền hành trong nhà, không muốn con dâu thay thế). Ngày nay khôgn có bình vôi, mẹ chồng cầm chùm chìa khóa thay thế. Khi hai họ đã yên vị được một lúc, mẹ chồng mới xuất hiện để đón con dâu và đi chào, cảm ơn hai họ.

5. Những người kiêng không được đến đám cưới của người khác

Ai cũng muốn dành những điều tốt nhất cho cặp vợ chồng trẻ, tránh dớp không lành, vì vậy dân gian kiêng những người sau không nên đi đón dâu:

- Những người gia đình không hạnh phúc, hay cãi vã, những người cuộc sống không thuận, những người đứt gánh giữa đường (chỉ còn vợ, hoặc chồng), những người lấy nhau xong mãi không có con, hiếm muộn… không nên đi đón dâu.

- Người đang có tang không được dự đám cưới để tránh đen đủi, vận hạn đến cho gia chủ.

- Bà bầu không nên tới đám cưới. Nhưng hiện nay, dường như chuyện bà bầu đi đám cưới đã là chuyện bình thường.

Ở miền Trung việc rót rượu thường dành cho chú rể.

6. Kiêng kỵ trong hôn lễ

- Có quan niệm cho rằng nhẫn cưới phải là nhẫn trơn và hai người không được đeo trước khi hôn lễ diễn ra.

- Ở miền Bắc chú rể rót rượu champagne, cô dâu cắt bánh cưới. Nhưng ở miền Trung thực hiện hai việc này là chú rể - thể hiện quyền làm chủ gia đình của người đàn ông, như vậy gia đình mới hạnh phúc, không bị xáo trộn.

7. Kiêng kỵ phòng tân hôn

Phòng tân hôn là nơi quan trọng để hai vợ chồng bắt đầu một cuộc sống mới cần:

- Giường tân hôn cần mua giường mới (không nên dùng giường cũ).

- Người trải chiếu hoa cho giường tân hôn phải nhờ người tốt vận (một phụ nữ trung niên, có gia đình ấm êm hạnh phúc, có đủ con trai, con gái) trải chiếu hoa giúp, như thế thì mới mong sinh con khỏe mạnh, dễ nuôi.

- Phòng tân hôn kỵ đặt một số đồ vật như: Trong phòng không đặt đồ bị hỏng, rượu vang, thực vật có gai (xương rồng), búp bê trang trí, vật dụng cũ, vật kỷ niệm của người cũ, hình ảnh của người khác, các loại vũ khí, vật sắc nhọn… vì sợ ảnh hưởng đến hòa khí của hai vợ chồng.

Xét theo phong thủy thì nó tạo khí âm, không tốt cho việc khởi đầu một cuộc sống mới.

-Người “vía nặng”, phụ nữ góa chồng, người tứ nhãn (chỉ phụ nữ mang thai), người có hôn nhân tan vỡ, người hiếm muộn con cái, người có tang… không được vào phòng tân hôn để tránh điều bất lợi, không may cho đôi vợ chồng mới.

- Kiêng kỵ cho người khác ngồi trên giường tân hôn.

Còn rất nhiều kiêng kỵ nữa, nhưng có thể để ý kiêng trong ngày cưới tránh làm đổ, vỡ đồ đạc vì là điềm không tốt cho đôi trẻ, kỵ nhất là vỡ gương, vỡ ly cốc hay gãy đũa (nếu xảy ra thì đôi vợ chồng sẽ bất hòa, đổ vỡ, chia ly nên phải làm lễ giải hạn).

Khi đón dâu đi qua các cây cầu, ngã 3 ngã 5, ngã 7 cô dâu phải vứt gạo muối, tiền lẻ xuống. Phong tục này hàm ý, đoạn đường sắp tới của đôi uyên ương sẽ luôn suôn sẻ, giàu sang...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 điều kiêng kỵ trong đám cưới

Hiện tượng thường thấy về ô nhiễm không khí nhà ở –

Ô nhiễm do hoàn thiện nhà là một trong những nguồn gốc chủ yếu dẫn đến ô nhiễm trong nhà ở. Trong những vật liệu dùng để hoàn thiện nhà ở như sơn, vật liệu sơn, tấm gỗ dán, nilon dán tường, đá lát... đều có chứa các chất có hại như Formaldehvde (Meta

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ô nhiễm do hoàn thiện nhà là một trong những nguồn gốc chủ yếu dẫn đến ô nhiễm trong nhà ở. Trong những vật liệu dùng để hoàn thiện nhà ở như sơn, vật liệu sơn, tấm gỗ dán, nilon dán tường, đá lát… đều có chứa các chất có hại như Formaldehvde (Metal), benzen. Radon. Những chất độc hại này chính là “sát thủ vô hình” tiềm ẩn trong không khí, có mùi làm cay mũi, cay mắt, có mùi dẫn đến đau đầu, tức ngực, thậm chí trúng độc mãn tính.

p33382

Là một người dân bình thường, ô nhiễm không khí nhà ở của mình có vượt quá chỉ tiêu hay không chúng ta cũng khó biết chính xác, nhưng chúng ta có thể thông qua một số hiện tượng thường thấv để bước đầu phán đoán có phải không khí trong nhà mình đã ô nhiễm hay không. Những hiện tượng thường gặp này được chia thành:

Vào mỗi buổi sáng sớm, sau khi thức dậy bạn cảm thấy ngột ngạt khó chịu, buồn nôn, thậm chí hoa mắt chóng mặt.

Sau khi mới chuyển nhà, bỗng nhiên con vật cưng bị chét.Tất cả mọi người trong nhà đều mắc chứng một căn bệnh, nhưng sau khi rời khỏi môi trường đó, triệu chứng bệnh tật sẽ có chuyển biến rõ rệt và tốt lên.

Người trong nhà thường có triệu chứng dị ứng trên da, hơn nữa dị ứng còn có tính phát tán rộng theo từng cụm.

Tuy không hút thuốc lá, cũng rất ít khi tiếp xúc với môi trường có khói thuốc, nhưng lại thường xuyên cảm thấy khó chịu nơi cổ họng, cảm giác có dị vật trong họng, hô hấp không thông suốt.

Vợ chồng mới cưới sống với nhau thời gian khá dài mà vẫn chưa có con, hơn nửa tìm không ra nguyên nhân, hoặc phụ nữ mang thai trong tình trạng mang thai bình thường nhưng lại phát hiện ra thai nhi dị hình.

Trồng cây trong nhà không dễ sóng, lá dễ bị vàng, khô héo, đặc biệt là một số loài thực vật có sức sống rất mạnh cũng khó sinh trường bình thường.

Người trong nhà đặc biệt là trẻ nhỏ rất dễ bị cảm mạo, ho, hăt hơi, khả năng miễn dịch kém, trẻ con không chịu về nhà.

Vật nuôi trong nhà như chó, mèo, thậm chí là loài cá nhiệt đới cũng chết một cách vô lý.

Nhà mới xây hoặc vật dụng mới mua có dị mùi gây khó chịu cho mũi, hơn nữa sau hơn một năm mà những mùi đó vẫn không bay hết.

Dương nhiên, nếu muốn đưa ra đánh giá chính xác xem không khí môi trường trong nhà mình ô nhiễm vượt quá chỉ tiêu hay không thì cần phải thông qua cơ quan kiểm định môi trường do kiểm định mới có thể biết được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiện tượng thường thấy về ô nhiễm không khí nhà ở –

Búp bê Annabelle có thật hay không?

Câu hỏi búp bê Annabelle có thật hay không sẽ trả lời trong bài viết sau và câu chuyện phía sau bộ phim đình đám sẽ dần được hé lộ.
Búp bê Annabelle có thật hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bộ phim kinh dị “Annabelle: Creation” vừa ra rạp đã thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận nhưng điều nhiều người phân vân đó là búp bê Annabelle có thật hay không? Có thể nói, búp bê Annabelle không chỉ có trên màn ảnh rộng mà còn có ở ngoài đời thực. 

Được biết, cho đến nay búp bê Annabelle hiện đang được trưng bày trong bảo tàng Occult của chuyên gia tâm linh nổi tiếng - vợ chồng Ed và Lorraine Warren tại New England, Mỹ. 
 
Sau hơn 40 năm, câu chuyện của Annabelle - con búp bê bị quỷ ám đã được đưa lên màn ảnh rộng và sau đây là sự thật được hé lộ phía sau bộ phim bom tấn Hollywood. 
 
Trước tiên, diện mạo thực của Annabelle không hề đáng sợ như trong phim. Các nhà hóa trang đã thay đổi đi phần nào để tạo cho người xem cảm giác sợ hãi và ám ảnh hơn. 

Bup be Annabelle co that hay khong
Búp bê Annabelle có thật hay không? Phiên bản Annabelle trong phim trái và thật phải trong tủ kính của viện bảo tàng vợ chồng Ed và Lorraine Warren
   Năm 1970, Donna một sinh viên y tá được mẹ tặng món quà sinh nhật là búp bê Raggedy Ann – một nhân vật trong câu chuyện của nhà văn Johnny Gruelle. Donna để con búp bê trong căn phòng thuê nhỏ - nơi cô ở cùng cô bạn Angie. Cô đặt nó trên giường và quên bẵng đi trong vài ngày cho tới khi con búp bê khiến hai người hoảng sợ vì họ nhận ra nó thường xuyên thay đổi vị trí và thậm chí còn di chuyển từ phòng này sang phòng khác khi họ vắng nhà.   Có những lúc Donna và Angie tìm ra con búp bê ngồi trên chiếc ghế dài tay khoanh trước ngực, lần khác thấy nó đứng thẳng như người dựa vào một chiếc ghế trong phòng ăn. Nhiều lần Donna đặt con búp bê trên ghế trước khi đi làm, nhưng khi trở về thì cửa đóng chặt và búp bê lại nằm trên giường.   Con búp bê không chỉ di chuyển mà còn biết viết. Khoảng một tháng Donna và Angie có trải nghiệm đáng sợ khi bắt đầu thấy các tin nhắn gửi cho họ có nét viết bằng bút chì trên giấy giấy da có nội dung: "Help Us". Dòng chữ được viết với nét bút của trẻ nhỏ. 

Có thể bạn quan tâm: Sau khi chết, bạn sẽ thành "MA" hay thành "THIÊN THẦN"?
 
Lorraine Warren (anh trai) mang Annabelle den bao tang Occult
Lorraine Warren (ảnh trái) mang Annabelle đến bảo tàng Occult
  Hai người nghĩ rằng phải làm điều gì đó với những điều con búp bê đang gây xáo trộn cuộc sống của họ. Bạn cùng phòng của Donna đã tìm người và tiến hành một buổi gọi hồn, nhờ đó Donna và Angie đã liên lạc được với linh hồn sống trong búp bê có tên là Annabelle Higgins và được nghe câu chuyện: Annabelle là một bé gái, chỉ mới bảy tuổi là nạn nhân của một vụ giết người, linh hồn cô bé yếu ớt nên cần nơi nương tựa trong hình hài của con búp bê. 
 
Annabelle cho biết, bé cảm thấy thoải mái và an toàn khi sống cùng họ và muốn ở lại để được yêu thương. Cảm thấy cảm động trước câu chuyện của Annabelle nên Donna đã cho phép linh hồn cô bé được ở lại trong búp bê và sống cùng họ. Tuy nhiên, những gì Annabelle nói ra dường như không phải là sự thật.
 
Cậu bạn trai của Angie có tên là Lou thường xuyên ghé thăm nhà họ chưa bao giờ thích con búp bê này cả và đã cảnh báo Donna vứt nó đi. Một đêm lời cảnh báo của anh đã thành sự thật. Lúc đó, anh chìm vào giấc ngủ sâu, Lou trải qua cảm giác vô cùng đáng sợ khi anh cảm thấy toàn thân như bị tê liệt. Nhìn xuống dưới chân mình là búp bê Annabelle, nó đang bắt đầu từ từ lướt lên chân của anh rồi di chuyển tới ngực và sau đó dừng lại. Chỉ trong vài giây con búp bê bóp nghẹt Lou, khiến anh thở hổn hển tưởng như đã nghẹt thở. Anh choàng tỉnh  vào sáng hôm sau, khẳng định đó không phải là một giấc mơ.

Sự việc thực sự đáng sợ xảy ra ngay sau đó khi có lần chỉ có anh và Angie ở lại căn hộ chuẩn bị cho một chuyến đi vào ngày hôm sau. Cặp đôi chợt nghe tiếng động xào xạc xuất phát từ phòng của Donna, Lou lặng lẽ đến cửa phòng ngủ, chờ những tiếng động lạ dừng lại rồi mới tiến vào phòng và bật đèn lên.

Anh phát hiện ra căn phòng trống rỗng, ngoại trừ con búp bê trông như được ai đó vội vã ném vào góc của căn phòng. Lou thử tìm kiếm xem có đồ vật gì mất hay không, anh tiến lại gần con búp bê và có cảm giác rõ rệt rằng ai đó đang đứng sau lưng mình. Khi tìm xung quanh, anh rất ngạc nhiên khi nhận ra không có ai ngoài mình đứng trong phòng. Nhanh như chớp, anh thấy mình bị chấn vào ngực, gập người lại, và anh nhận ra ngực mình bị cào xước và chảy máu. Trên ngực anh lúc này là bảy dấu móng vuốt, ba vết theo chiều dọc và bốn vết theo chiều ngang, tất cả đều nóng rát như bị bỏng. 

Xem thêm: Người chết do tai nạn, linh hồn sẽ đi đâu về đâu?
 
Lorraine Warren cung Annabelle bi khoa trong tu kinh
Hình ảnh hiện tại, Lorraine Warren cùng Annabelle đang bị khóa trong tủ kính

 
Sau trải nghiệm đáng sợ này, họ tin rằng đây không phải là nơi cư ngụ của linh hồn của một em bé. Donna đã liên lạc với linh mục tên là cha Cooke và cha đã ngay lập tức liên lạc với cặp vợ chồng là hai nhà tâm linh nổi tiếng thời bấy giờ là Warrens. Ed và Lorraine Warren.   Sau khi nói chuyện với bạn trai của Angie, Ed và Lorraine đi đến kết luận rằng con búp bê không phải bị ám bởi linh hồn của một đứa trẻ mà là một linh hồn quỷ giữ nào đó đang điều khiển búp bê để tạo ra những ảo ảnh của nó với mong muốn được chủ nhà chấp nhận cho nó chiếm giữ căn nhà. Thế lực ma quỷ này bản chất không muốn ở lại trong con búp bê, mà muốn chiếm lấy cơ thể của con người.    Trước tiên nó bắt đầu di chuyển con búp bê xung quanh căn nhà bằng phương pháp dịch chuyển để khơi dậy sự tò mò của người trong nhà với hy vọng rằng họ sẽ chấp nhận cho nó ở cùng. Sau khi gây chú ý, người ở trong nhà sẽ tìm để giao tiếp với nó, thế lực ma quỷ này dùng con mồi là các linh hồn dễ bị tổn thương, vờ như vô hại – ví dụ như cô bé gái trong buổi gọi hồn trước đó. Với sự cho phép của Donna cho chúng ám vào con búp bê và sau đó sẽ là toàn bộ căn nhà.    Vợ chồng Warrens tin rằng giai đoạn tiếp là ma quỷ sẽ ám vào những người trong nhà. Trước đây đã có những trường hợp chỉ kéo dài thêm 2 – 3 tuần nữa là các linh hồn ma quỷ đã hoàn toàn sở hữu con người sau khi giết lần lần những người trong nhà. 
 
Kết thúc cuộc điều tra, vợ chồng Warrens thực hiện buổi cầu nguyện mang phước lành và làm lễ trừ tà để làm sạch căn nhà. Theo yêu cầu của Donna, và để đề phòng các hiện tượng trước đây xảy ra thêm nữa, vợ chồng Warrens sẽ mang theo con búp bê, họ bỏ nó vào một chiếc hộp đặc biệt dành riêng cho Annabelle – “nhà” của búp bê được đặt ở bảo tàng của gia đình Warrens cho đến tận bây giờ. Chiếc hộp được khóa giữ con búp bê không di chuyển lung tung, nhưng bất cứ điều gì khủng khiếp liên quan đến nó vẫn còn đó.    Trên thực tế, rất nhiều câu chuyện của Warren chưa hề được chứng thực ngoài chính những gì họ đã tuyên bố. Thậm chí, có nhiều chuyện kỳ lạ như vụ án ngôi làng Amityville đã được lý giải khá nhiều lần.   Riêng với trường hợp của Annabelle, nó được đề cập trong cuốn sách "The Demonologist: The Extraordinary Career of Ed and Lorraine Warren" (Tạm dịch: Các nhà quỷ học - sự nghiệp phi thường của Ed Lorraine Warren) phát hành năm 1980.    Theo đó, người linh mục chỉ dẫn cho nhóm Donna là Cha Hegan, và Cha Cooke là người thực hiện phép trừ tà.   Tuy nhiên, 2 nhân vật này dường như chưa bao giờ nhắc đến câu chuyện về Annabelle với bất kỳ ai khác. Tương tự là Donna và nhóm bạn - ước tính giờ đã 70 tuổi, cũng chưa từng xuất hiện ở bất kỳ đâu. 

Mi Mo

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Búp bê Annabelle có thật hay không?

Vợ chồng có tướng phu thê sống hạnh phúc viên mãn

Theo góc nhìn nhân tướng học, vợ chồng có tướng phu thê thường sở hữu nhiều nét tương đồng trên khuôn mặt và cuộc sống hôn nhân khá viên mãn.
Vợ chồng có tướng phu thê sống hạnh phúc viên mãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình


1. Những người thế nào được gọi là có tướng phu thê?


Tướng phu thê chỉ những cặp đôi trước và sau khi kết hôn có nhiều đường nét trên khuôn mặt giống nhau. Nếu chưa kết hôn, khả năng nên duyên vợ chồng rất lớn. Nếu đã kết hôn, cuộc sống gia đình hạnh phúc, viên mãn.

Vo chong co tuong phu the thuong song hanh phuc vien man hinh anh
 
Theo lý giải của dân gian, vợ chồng có tướng phu thê hay chuyện kết hôn là do nhân duyên trời định hoặc do tiền duyên từ kiếp trước...

Hoặc do thói quen sống tương đồng, thời gian chung sống với nhau lâu nên tình cảm ngày càng gắn bó. Cộng thêm hoàn cảnh ăn uống, sinh hoạt tương đồng nên có sự hòa hợp, ảnh hưởng lẫn nhau, nhìn các cặp đôi có nét hao hao giống nhau.

Theo lý giải về mặt tâm lý học, mỗi người có xu hướng bắt chước hành động của người khác. Càng sống với nhau lâu, càng thân thiết thì càng dễ mô phỏng, bắt chước. Nên việc vợ chồng tương đồng, mô phỏng hành động, sắc thái biểu cảm giống nhau là điều dễ hiểu.

Xem vết bớt để “đón đầu” tương lai tươi sáng cho trẻ
– Vết bớt hay còn gọi là chàm, là mảng sắc tố màu đỏ, đen hay nâu có kích thước khá to trên cơ thể ngay từ lúc sinh ra. Dân gian coi đây là

2. Lý giải tướng phu thê theo góc nhìn nhân tướng học


Vo chong co tuong phu the thuong song hanh phuc vien man hinh anh 2
 
- Sự hài hòa về âm dương: Điều này thể hiện ở những điểm bù trừ lẫn nhau. Có người chồng cao to nhưng lấy phải vợ thấp, bé; người có sống mũi cao lấy người sống mũi thấp; người nói nhiều yêu người nói ít; người cương yêu người nhu... Vợ chồng có tướng phu thê sẽ có sự bù trừ về âm dương, giúp cuộc sống thêm thuận lợi.

- Tướng mạo tương đồng: Những cặp đôi có nét hao hao giống nhau về khuôn mặt, ngoại hình, dáng đi đứng... thường có xu hướng nói chuyện hòa hợp. Nếu gắn bó với nhau lâu dài lại càng thêm giống nhau.

- Tỷ lệ tam đình đồng đều: Trong nhân tướng học, khuôn mặt được chia thành ba phần gọi là tam đình (Thượng đình, tính từ chân tóc đến khoảng giữa hai đầu lông mày; Trung đình tính từ giữa hai đầu lông mày đến dưới hai cánh mũi; Hạ đình tính từ dưới hai cánh mũi đến cằm). Vợ chồng có tỷ lệ tam đình phân phối đồng đều có nghĩa là vận số cũng có điểm giống nhau. Cuộc sống hôn nhân hài hòa, tốt đẹp.

Ngân Hà

Tướng mặt quý cô có phúc phận làm phu nhân của chính trị gia
– Có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận ra sao, hãy cùng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ chồng có tướng phu thê sống hạnh phúc viên mãn

Đặt tên cho con theo Mệnh Mộc –

Mệnh của con người là do trời ban, mỗi năm sinh sẽ có một mệnh khác nhau thuộc vào 1 trong 5 mệnh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Cha mẹ muốn con cái có cuộc sống sau này được thuận lợi, may mắn thì nên đặt tên con hợp phong thủy, hợp mệnh của con cũng nh
Đặt tên cho con theo Mệnh Mộc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ư nên xem xét kỹ cả giờ, ngày sinh và tháng sinh của con trước khi đặt tên cho con.

Theo phong thủy, tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo nguyên lý cơ bản, năm ngũ hành này tương sinh, tương khắc với nhau.

– Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

– Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

Với mệnh Mộc cha mẹ có thể đặt tên con liên quan đến nước (Thủy), cây (Mộc) hay lửa (Hỏa) bởi Thủy sinh ra Mộc, Mộc sinh ra Hỏa.

Đặt tên cho con

Mộc chỉ mùa xuân, sự tăng trưởng và đời sống cây cỏ.

Tích cực: Có bản tính nghệ sỹ, làm việc nhiệt thành.

Tiêu cực: Thiếu kiên nhẫn, dễ nổi giận, thường bỏ ngang công việc

Mộc gắn với cỏ cây, hoa lá và sắc xanh của cây cối. Đặt tên cho bé theo mệnh Mộc, bố mẹ có thể chọn:

Đặt tên cho con gái

– Cho bé gái, có những cái tên hay như:

  • Chi
  • Cúc
  • Đào
  • Hạnh,
  • Huệ,
  • Hương
  • Hồng
  • Lan
  • Liễu
  • Mai
  • Phương
  • Quỳnh
  • Sa
  • Thư
  • Thanh
  • Trà
  • Trúc
  • Xuân…

Đặt tên cho con trai

– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:

  • Bách
  • Bình
  • Đông
  • Khôi
  • Lam
  • Lâm
  • Nhân
  • Phúc
  • Quý
  • Sâm
  • Tích
  • Tùng…

Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy mệnh Mộc cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con theo Mệnh Mộc –

Tướng tai đàn ông vừa thông minh lại giàu có

Sở hữu một trong những đặc điểm tướng tai này, đa số đàn ông đều thông minh và giàu có, là chỗ dựa vững chắc cho các quý cô.
Tướng tai đàn ông vừa thông minh lại giàu có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

1. Tai dày, cứng và vểnh dài
 
Tướng tai đàn ông dày cứng và vểnh lên thường là quý tướng. Người này có sức khỏe tốt, sống trường thọ. Ngoài ra, đường quan lộc rõ ràng, đạt được công danh sự nghiệp lớn, đa số đều giàu có và giỏi giang.

2. Vành tai dày, thành quách rõ ràng
 
Đàn ông có vành tai dày, thành quách lại rõ ràng thường rất thông minh, học rộng hiểu cao, công danh sự nghiệp sáng lạng. 

Tuong tai dan ong vua thong minh lai giau co hinh anh
Ảnh minh họa

3. Dái tai to bản, rủ xuống miệng
 
Theo nhân tướng học, đàn ông có tướng tai mà dái tai to bản, rủ xuống miệng có số mệnh sung sướng, sống trong giàu sang phú quý và rất trường thọ. Cuộc sống của người này luôn đầy đủ, không bao giờ phải lo lắng vấn đề tiền bạc. Họ sẽ là chỗ dựa vững vàng cho vợ và cả dòng họ nhà vợ.
 
Ngoài ra, người đàn ông này khá chung thủy, nên hôn nhân thường hạnh phúc, đầm ấm và ít sóng gió, trắc trở. 
 
4. Tai dày mà tròn, vành tai vểnh cao
 
Người có tướng tai dày, tròn đều và vành tai vểnh cao có phúc lộc đầy nhà. Hơn thế, người này có trí tuệ minh mẫn, tài năng xuất chúng và giữ địa vị xã hội cao. Cuộc sống của người này vô cùng an nhàn và sung sướng.
 
Người đàn ông này thích giúp đỡ người khác, hay làm việc thiện và coi đó như một trong các việc nên làm mà không đòi hỏi phải được đền đáp.
 
5. Trong tai có nốt ruồi mọc
 
Đàn ông có nốt ruồi mọc ở trong tai thường có trí tuệ rất cao. Không chỉ vậy, con cháu người này cũng vô cùng thông minh và hiếu thuận. Người này có cuộc sống an nhàn, giàu sang và được hưởng phúc lộc của con cháu khi về già.
 
6. Lỗ tai rộng

Người có lỗ tai rộng, đặc biệt có thể cho vừa ngón tay thường rất thông minh, nhanh nhẹn. Người này không những có sự nghiệp vững vàng mà đời sống hôn nhân còn khá hạnh phúc và trọn vẹn. 

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng tai đàn ông vừa thông minh lại giàu có

Thờ Phật tại nhà cần phải biết những điều kiêng kị?

Có nhiều người không hiểu đối với tro hương cùng các kinh sách, tượng và các pháp vật bị hư hỏng thì sẽ xử lý như thế nào? Thậm chí có người mang đến giao cho nhà chùa.
Thờ Phật tại nhà cần phải biết những điều kiêng kị?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tục lệ tín ngưỡng của dân gian thường có rất nhiều điều kiêng kị, nhưng đó không phải là tín ngưỡng Phật giáo chân chính mà chỉ là những điều kiêng kị bị ngộ nhận là của Phật giáo. Dưới đây là những tục kiêng kỵ không chính đáng: 

- Những cây hương thừa trong bát hương nếu hàng ngày không thu gọn thì trở nên dơ bẩn và dễ gây cháy rất nguy hiểm. Cho nên các bát hương đặt trước các tượng Phật trong chùa, hàng ngày vào lúc sáng sớm đều cần phải thu gọn, giữ cho bát hương luôn luôn sạch sẽ như mới thắp hương lần đầu.

- Các nữ tín đồ thờ Phật tại nhà đến kỳ kinh nguyệt thì không dám tới chùa lễ Phật, thậm chí không dám đến trước bàn thờ Phật để thắp hương tụng kinh, tọa thiền, niệm Phật.

Kỳ thực đó là điều kiêng kị của hàng quỷ thần cấp thấp. Vì quỷ thần sợ máu bẩn nên hễ thấy máu bẩn thì dễ nổi giận. Quỷ thần nghiện ăn máu, thấy máu là dấy lòng tham, nhưng máu kinh nguyệt không phải là máu tươi nên quỷ thần có phản ứng như bị người ta đùa bỡn làm nhục.

Do vậy, phụ nữ khi hành kinh vào các đền, miếu, điện thờ quỷ thần thì có thể bị hậu quả không tốt.

Còn như các Sa-di ni, Tỳ kheo ni, cùng các Ưu bà di (nữ cư sỹ) ở gần đều sinh hoạt tại chùa, cùng các phụ nữ tu hành hàng ngày làm bạn với kinh sách, tượng Phật và các pháp vật khác của nhà chùa, từ xưa đến nay chưa từng thấy ai bị tai họa bởi vấn đề xung khắc do kinh nguyệt gây ra cả.

Những người thờ Phật tại gia khi lập bàn thờ Phật trước hết phải nhờ người làm lễ khai quang các tượng Phật, Bồ Tát, lại phải chọn ngày tốt, hướng tốt. Đó cũng là do tín ngưỡng dân gian hoặc phong tục dân gian.

Theo quan điểm "nhập gia tùy tục" mà nói thì tục lệ đó cũng không có gì sai trái lắm. Làm lễ khai quang là để tỏ ý thận trọng, chọn ngày chọn hướng là để tỏ ý cầu mong tốt lành.

Nhưng theo quan điểm Phật giáo thì chư Phật, Bồ Tát có ở khắp mọi nơi, không một chỗ nào không ứng hiện. Tất cả mọi hướng đều có chư Phật, Tam bảo, Long thiên hộ pháp.

Như vậy, đương nhiên là không hề có những vấn đề do tín ngưỡng dân gian tưởng tượng ra. Chỉ cần chọn một chỗ nào mình cho là tôn quí nhất, rồi với tình cảm thành kính nhất và chọn một thời điểm thích đáng nhất để đặt tượng thờ Phật là được.

Có người cho rằng có những bài chú, bài kinh nào đó thì người tu tại gia không được niệm, hoặc có những bài chú, bài kinh nào thì không được niệm vào một giờ nào đó.

Kỳ thực, với tấm lòng cung kính, tất cả mọi bài kinh, chú đều có thể tụng niệm ở bất cứ nơi nào thanh tịnh. Tốt nhất là trước khi tụng niệm nên rửa tay, súc miệng rồi đứng trước bàn thờ thắp hương lễ Phật mà tụng niệm nhưng không nên nói người tu tại gia không được tụng kinh nào đó hoặc không được niệm chú nào đó, trừ những pháp môn quy định đặc biệt của Mật Tông thì không kể.

Trong một nhà cũng có thể có người tin Phật, có người tin Thần, phải chăng có thể thờ chung cả Thần và cả Phật trong cùng một bàn thờ ? Điều đó nên coi là không có vấn đề gì.

Thờ phật tại nhà cần chú ý điều gì

Nên thờ Phật ở chính giữa, cúng Bồ Tát ở hai bên, cúng các Thần ngoài cùng, coi là kẻ bảo vệ bên ngoài cho Tam bảo, cũng nên để cho các Thần gần gũi với Tam bảo để tu học Phật pháp, gây thần nhân duyên với đạo Phật.

Nếu đạt được sự thỏa thuận của cả nhà, sau khi đã đổi ý mà tin theo Phật thì sẽ làm lễ cúng Thần, khấn cáo với Thần rồi đem tượng (và đồ thờ) Thần cất đi, để tránh cúng thờ ngẫu tượng quá nhiều sinh ra tạp loạn.

Có nhiều người không hiểu đối với tro hương cùng các kinh sách, tượng và các pháp vật bị hư hỏng thì sẽ xử lý như thế nào? Thậm chí có người mang đến giao cho nhà chùa.

Kỳ thực thì chỉ cần chọn chỗ đất trống và đồ đựng sạch sẽ, bỏ các thứ đó vào rồi châm lửa đốt đi, đốt xong đào lỗ chôn xuống đất là được. Những thứ làm bằng kim loại không đốt được thì tìm chỗ cất kín, một thời gian sau sẽ xử lý thải bỏ như đối với đồ đạc cũ kỷ rách nát khác.

Các vật cúng bày trên bàn thờ Phật như hoa, quả, nước trà v.v… thuộc các loại phẩm vật tiêu hao thì phải thay đổi hằng ngày. Những thứ gì còn có thể dùng được, ăn được thì nên đem dùng vào việc khác hoặc đem cho người nhà ăn dùng, không nên vứt đi. Những thứ bị ôi thiu, hư nát thì phải đổ bỏ đi như đổ rác. Còn như phẩm vật bày cúng nên bày cúng đơn chiếc hay bày một đôi thì không có hạn chế gì cả.

Xét về mỹ quan đối xứng mà nói thì nên dùng một cặp đôi. Nhưng nếu vì tiền nong vật phẩm có hạn, hoặc do vị trí chỗ bày biện không tiện, chỉ bày cúng đơn chiếc thì cũng không có gì là không được. Còn về đồ cúng là những món gì, về nguyên tắc là tùy theo chỗ tiền nong chi tiêu mà mình có thể lo liệu được, không bày biện rườm rà mà cũng không cần phải phô trương.

Thời gian tu hành tại nhà thích hợp nhất là vào lúc sáng sớm và buổi tối, lúc đó nhờ thân tâm thanh tịnh, thoải mái. Như vậy mới có thể chuyên chú, thành tâm mà tu tập.

Nếu vì tính chất công việc làm ăn thì đương nhiên có thể chọn những thời gian khác nhau. Tốt nhất là không lập bàn thờ trong phòng ngủ, không nên ngồi tọa thiền, lễ Phật, tụng kinh ở trên giường.

Nhưng nếu nhà ở chỉ có một phòng thì tốt nhất là lúc bình thường lấy vải khăn che phủ tượng Phật. Khi nào lễ Phật thì xếp dọn giường chiếu chỉnh tề, sạch sẽ rồi mới mở khăn tượng Phật ra. Nếu giường làm lễ cúng được, coi đó cũng là một nơi để tu hành.

Nói tóm lại, lấy cái tâm thanh tịnh, cung kính để biểu thị mức độ trang trọng, nghiêm túc làm nguyên tắc.

Sau khi đã quy y Tam Bảo thì không được quy y một tôn giáo nào khác, không được thờ phụng một đền miếu, đạo tràng nào của tín ngưỡng dân gian. Tuy vậy vẫn phải giữ thái độ tôn kính đối với các tín ngưỡng đó.

Khi đi vào các nhà thờ, đền miếu, đền thần phải cúi người chắp tay chào hỏi. Không được coi việc thờ phụng đó là đối tượng tín ngưỡng của mình, mà coi đó là cử chỉ để giữ quan hệ hữu nghị.

Trước khi chưa có nhận thức xác thực đối với Phật pháp thì không được đọc sách báo ngoại đạo, nếu không sẽ dẫn đến sự chỉ dắt sai lầm về phương hướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thờ Phật tại nhà cần phải biết những điều kiêng kị?

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

“Tuyệt chiêu” đơn giản đem lại vận may

Theo các nhà phong thủy, nếu bạn đang gặp xui xẻo trong cuộc sống, hãy thực hiện theo vài cách đơn giản dưới đây để thu hút vận may.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đặt một bể cá nhỏ ở phía Bắc căn nhà. Không nhất thiết phải đặt bể cá lớn, bạn chỉ cần có một bể thủy tinh nhỏ và thả vào những chú cá bé xíu như cá bảy màu và neon. Điều quan trọng là bạn nhớ chăm sóc mỗi ngày để bầy cá luôn khỏe mạnh. Những con cá nhỏ bơi lội tung tăng giúp đẩy mạnh dương khí trong căn nhà, đem đến nhiều may mắn cho công việc của bạn.

2. Treo bức tranh có hình chim chóc ở cửa trước. Chim chóc tượng trưng cho các cơ hội nhằm cải thiện cuộc sống theo hướng tốt hơn. Các con chim còn đem đến nhiều tin tốt lành cho những người sinh sống ở đây. Bức tranh càng có nhiều chim càng tốt, loại nào cũng được miễn là lông của chúng có nhiều màu sắc.

Treo tranh chim chóc cũng là cách để giảm thiểu những xui xẻo và mang lại may mắn

3. Tổ chức tiệc tùng. Vào một ngày đặc biệt nào đó, bạn hãy mời những người bạn thân thiết đến nhà và tổ chức những bữa tiệc vui vẻ. Không khí vui tươi của buổi tiệc sẽ làm tăng dương khí, giúp giải phóng các năng lượng xấu bị tù đọng lâu ngày rồi chuyển hóa chúng thành năng lượng tốt. Do đó, cuộc sống của bạn sẽ luôn tràn ngập niềm vui.

4. Đặt một gói muối biển trong ví. Ngoài tính năng làm sạch đồ vật, muối biển còn có khả năng thu hút tiền tài. Bạn cho một ít muối vào túi ni-lông nhỏ rồi nhét vào góc ví và luôn đem theo bên mình tiền tài sẽ nhanh chóng đến với bạn.

5. Trồng cây ở phía Đông Nam. Trồng cây ở hướng này, bạn sẽ kích hoạt sinh khí cho ngôi nhà. Nhờ vậy, bạn sẽ có thêm nguồn thu nhập mới. Nếu để ngôi nhà thiếu sinh khí ở hướng này, năng lượng về của cải ngày càng yếu dần. Nó sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của bạn.

6. Trang trí nhà bằng biểu tượng mặt trăng và mặt trời. Khi hai biểu tượng này kết hợp với nhau, chúng tạo nên sức mạnh không ngờ. Kết hợp này còn thể hiện sự cân bằng âm dương, giúp cuộc sống trong ngôi nhà trở nên hài hòa.


7. Đeo mặt dây chuyền hình quạt. Cánh quạt là biểu tượng sức mạnh có tác dụng chuyển hóa hạn xui thành vận may. Nó giúp bạn xua đi những điều tiêu cực, lời gièm pha và ý đồ xấu của người khác nhằm vào bạn.

8. Chôn nữ trang màu đỏ để cầu tài. Dùng một miếng vải đỏ hoặc vàng gói món nữ trang có mặt đá màu đỏ rồi chôn hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của khu vườn (Có thể làm hai gói để chôn ở hai nơi). Cách này giúp bạn vượt qua sự thiếu thốn về tiền bạc và đặc biệt hiệu quả trong giai đoạn bạn khó khăn nhất.

9. Đào ao nhỏ ở hướng Tây Nam. Nếu nhà bạn có vườn hãy đào một ao nhỏ ở hướng này rồi thả rong vào nuôi cá. Việc này giúp kích hoạt các yếu tố tích cực, đem đến nhiều may mắn trong cuộc sống và tài chính cho bạn.

(Theo Một thế giới)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: “Tuyệt chiêu” đơn giản đem lại vận may

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd