Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Kiến thức phong thủy. Chọn tên cho con mang lại may mắn năm Giáp Ngọ –

Con bạn sinh năm 2014, là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) vậy vấn đề đặt tên cho con sinh năm Giáp ngọ 2014 như thế nào? Con bạn sinh năm 2014 Giáp Ngọ là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) và trước khi sinh cháu thì vấn đề ‘Đặt tên ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con bạn sinh năm 2014, là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) vậy vấn đề đặt tên cho con sinh năm Giáp ngọ 2014 như thế nào?

500_thumb (2)

Con bạn sinh năm 2014 Giáp Ngọ là mệnh Kim (Sa Trung Kim – vàng trong cát) và trước khi sinh cháu thì vấn đề ‘Đặt tên cho con sinh năm Giáp ngọ 2014 như thế nào?’ là câu hỏi được các bậc cha mẹ sinh con vào năm 2014 quan tâm nhiều nhất.

Người tuổi Ngọ là người cầm tinh con ngựa, sinh vào các năm 1954, 1966, 1978, 1990, 2002, 2014, 2026… Dựa theo tập tính của loài ngựa, mối quan hệ sinh–khắc của 12 con giáp (tương sinh, tam hợp, tam hội…) và ngữ nghĩa của các bộ chữ, chúng ta có thể tìm ra các tên gọi mang lại may mắn cho người tuổi Ngựa.

1. Tính cách người tuổi Ngọ Người sinh năm Ngọ, tính tình khoáng đạt, tư duy nhanh nhạy, năng lực quan sát tốt. Theo dân gian, người tuổi Ngựa tính khí nóng nảy, hay sốt ruột, làm việc vội vàng. Họ dễ rơi vào lưới tình, song cũng thoát ra nhanh chóng và nhẹ nhàng. Họ thường thoát ly gia đình khi trưởng thành, cho dù ở nhà họ vẫn mang tinh thần độc lập và chờ thời cơ bay nhảy, sức sống của người tuổi ngựa mạnh mẽ, song thường có biểu hiện lỗ mãng, vội vàng, ưu điểm lớn nhất của họ là lòng tự tin mạnh mẽ, xử sự hào nhã. họ có năng lực buôn bán. Họ thích mặc màu nhạt, kiểu cách độc đáo và đẹp. Họ luôn làm theo ý mình, thích mình là trọng tâm. Khi trình bày quan điểm họ vung tay múa chân, quyết nói ra toàn bộ suy nghĩ của mình. Hiện tượng mâu thuẩn trước sau trong tính cách của họ là do tình cảm hay thay đổi của họ sinh ra. Họ làm việc theo trực giác. Bạn không thể thay đổi được tính khí (thói quen bẩm sinh) này của họ. Họ làm việc tích cực làm được nhiều việc cùng một lúc, khi đã quyết định họ lao vào làm ngay. Người tuổi Ngọ rất khó làm việc theo kế hoạch của người khác. Họ ít có tính kiên nhẫn. Họ thích làm những việc có tính hoạt động, họ giỏi giải quyết việc gay cấn, rắc rối, khi nói chuyện họ không tập trung, họ làm việc với thái độ tích cực, mong công việc giải quyết nhanh chóng. Nữ tuổi ngọ có sức sống mạnh mẽ, cữ chỉ nhẹ nhàng, nói hơi nhiều. Họ có thể dịu dàng nhưng có lúc tỏ ra cực đoan. Tóm lại người tuổi Ngựa, tính tình khoán đạt, chung sống hòa hợp, tinh thần làm việc cao.

2. Những từ nên dùng đặt tên cho con tuổi ngựa

a. Nên dùng những từ có bộ THẢO (cỏ) bộ KIM (vàng) người tuổi Ngọ mang tên hai bộ này sẽ có học thức uyên bác, yên ổn, giàu có, vinh quang, hưởng phúc suốt đời

BỘ THẢO

Miêu: mạ, cây giống

Nhận: khoai sọ

Ngải: cây ngải cứu

Cửu: một loại cỏ thuốc

Thiên: um tùm Vu: khoai sọ

Khung: xuyên khung

Bào: đài hoa Chi: cỏ thơm

Duẩn: măng Cầm: cây thuốc

Hoa: Bông Phương: thơm

Chỉ: bạch chỉ

Nhiễm: chỉ thời gian trôi

Linh: cây thuốc phục linh

Nhược: giống như

Dĩ: cây thuốc Ý dĩ

Bình: táo tây Mậu: tươi tốt

Nhị: nhị hoa

Huân: cỏ thơm

Truật: mầm, chồi

Trăn: um tùm

Sảnh: xinh đẹp

Minh: trà

Thù: cây thuốc dũ

Trà: trà

Thảo: cỏ

Cấn: cây mao dương hoa vàng

Tiến: cỏ thơm

Thuyên: cỏ thơm

Hưu: cỏ sâu róm, cỏ đuôi chó

Lợi: dung đặt tên Nam, Nữ đều được

Toán: tỏi

Dược: thuốc

Thúc: đỗ

Diệp: lá

Huyên: cây hoa hiên

Đổng: họ

Đổng Uy: xum xuê

Lan: hoa lan

Nghệ: nghệ thuật

Lam: màu xanh da trời

Lội: nụ hoa Nhuế: họ

Nhuế Liên: hoa sen

Tưởng: họ Tưởng

Dĩnh: thông minh

Phạm: họ phạm

Tiết: họ Tiết

Tạng: họ Tạng

Vạn: họ Vạn

Cúc: họ Cúc

BỘ KIM:

Kim: vàng

Xuyến: vòng đeo tay

Linh: cái chuông

Ngân: bạc

Nhuệ: lanh lợi

Lục: sao chép

Cẩm: gấm

Tiền: tiền bạc

Kiện: phím đàn

Toản: kim cương

Bát: bát đồng đựng thức ăn

Giám: gương soi

Luyện: gọt rũa

Kính: gương soi

Thiết: sắt Điền: tiền (cổ)

Cự: to lớn

b.Nên chọn những chữ có bộ:NGỌC, MỘC, HÒA (cây lương thực) sẽ được quý nhân giúp đỡ, đa tài khôn khéo, thành công rực rỡ như

BỘ NGỌC: Giác: ngọc ghép thành 2 miếng Doanh: đá ngọc Tỷ: ấn của nhà vua Bích: ngọc quý(hình tròn giữa có lỗ)

BỘ MỘC: Đông: phương đông Sam: cây tram Bân: lịch sự Hàng: Hàng Châu Vinh: vinh dự Nghiệp: nghề nghiệp

BỘ HÒA: Hòa: cây lương thực Tú: đẹp Bỉnh: họ Bỉnh Khoa: khoa cử Tần: họ tần Giá: mùa màng Tắc: kê Nhu: mềm mỏng Lâm: mưa to Kiệt: tài giỏi Đống xà ngang Sâm: rừng Thụ: cây Đạo: lúa Tô: tỉnh lại Tích: tích tụ Thử: kê nếp

c. Nên đặt tên có bộ TRÙNG (côn trùng) ĐẬU(đỗ) Theo dân gian người tuổi Ngựa mang tên này sẽ phúc lộc dồi dào danh lợi đều vẹn toàn Mật: mật ong Điệp: bướm Dung hòa hợp Huỳnh: đom đóm Túy: tinh hoa Diệm: xinh đẹp Thụ: dựng đứng lên

d. Nên chọn những chữ có bộ TỴ(rắn), MÙI(dê), Dần(hổ) TUẤT (chó) vì con Ngựa hợp với rắn, dê, hổ, chó. Bưu: hổ con Hí: kịch Thành: họ Thành Dần: hổ, địa chi dần Xứ, nơi chốn Tuất: địa chi tuất Kiến: xây dựng Quần: đám đông Nghĩa: tình nghĩa Sư: sư tử Độc: một mình Mỹ: đẹp Tiến: tiến lên

3. Những tên kiêng kỵ không nên dùng đặt tên cho con tuổi Ngọ Không nên dung chữ có bộ ĐIỀN, bộ HỎA, bộ CHẤM THỦY, bộ THỦY, BĂNG (nước đá) BẮC (phương Bắc) vì Ngựa mạng Hỏa đặt tên cho người tuổi Ngựa những chữ thuộc bộ này sẽ lo âu mệt mỏi, tinh thần hoặc tính tình ngang ngạnh, dễ xãy ra tranh cải, mọi việc bất thuận như: Giáp: can Giáp Do: họ Do Đĩnh: bờ ruộng Chẩn: bờ ruộng Nam: con trai Tất: ho Tất Trù: đồng ruộng Viêm: nóng Huyễn: sáng chói Quýnh: sang quắc Mẫu: đơn vị đo diện tích Dã: đồng ruộng Trác: luộc, trần Dục: dọi sang Diệp: cháy hừng hực Thân: địa chi Thân Điện: xưa chỉ vùng ngoại ô Giới: ranh giới Phú: phú quý Hỏa lữa Bính: sang chói Chú: bấc đèn Cương: bờ cỏi Lỗi: nụ hoa Hoán: sang sủa Sí: nóng bỏng Lạn: rối ren, lộn xộn Thủy: nước Băng: nước đá Tịch: nước thủy triều Giang: song Tấn: con nước Hà: song Khí: hơi nước Trì: ao Ba: song Dương: biển lớn Lang: song Hải: biển Trạch: đầm hồ Đông: mùa đông Loan: vịnh Sa: cát Cảng: biển Thục: thùy mị Nhuận: ẩm ướt Hoài: sông Hoài Thanh: trong Hoán: ào ào Và cũng không nên dùng chữ có bộ DẬU (gà), bộ MÃ bộ TÝ (chuột) NGƯU (Trâu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Chọn tên cho con mang lại may mắn năm Giáp Ngọ –

Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại ma nào?

Ma là một khái niệm trừu tượng, tên gọi phân biệt theo vùng miền. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có những loại ma nào?
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại ma nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Ma" là một khái niệm trừu tượng, tên gọi phân biệt theo vùng miền. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, có những loại ma nào?


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Ma là một khái niệm trừu tượng, là phần phi vật chất của một người đã chết (hay hiếm hơn là một động vật đã chết). Theo quan niệm của một số tôn giáo và nền văn hóa, con người gồm 2 phần là thể xác và linh hồn. Khi thể xác chết, linh hồn thoát khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma” hoặc “quỷ”.

Trong tin nguong dan gian Viet Nam co nhung loai ma nao hinh anh
Ảnh minh họa

Những loại ma phổ biến:

 

Ma trơi

  Ma trơi hay ma chơi, là những đám lửa sáng lập lòe được nhìn thấy vào ban đêm ở những bãi tha ma. Đây là một hiện tượng tự nhiên duy nhất mà đến nay các nhà khoa học có thể giải thích được bằng tri thức khoa học, không hề thần bí như nhiều người mê tín (tưởng là ma) đã kể.   Ma trơi là hiện tượng các hợp chất phosphor được hình thành từ hoạt động của vi khuẩn sống dưới lòng đất phần mộ (gồm hai chất đó là Phốtphin (PH3) và diphotphin) trong xương người và sinh vật dưới mồ bốc lên thoát ra ngoài, gặp không khí trong một số điều kiện nhất định sẽ bốc cháy thành lửa. Các đốm lửa nhỏ với độ sáng khá nhỏ (xanh nhạt), lập lòe, khi ẩn khi hiện. Ban đêm mới thấy được ánh sáng còn ban ngày thì các đốm lửa này có thể bị ánh sáng mặt trời che khuất.   Hiện tượng ma trơi đuổi theo: khi gặp ma trơi, con người sẽ sợ, hoảng loạn và chạy. Khi đó sẽ sinh ra một luồng khí chuyển động làm ngọn lửa bay theo chiều gió theo hướng người chạy.  

Ma gà

  Ma gà có tên gọi khác là ma chài hoặc ma ngũ hải, có nguồn gốc từ một số dân tộc miền núi Lạng Sơn như Tày, Nùng…Đây cũng là một trong những điều bí ẩn lớn nhất tại các bản làng vùng cao. Những người tin vào sự tồn tại của ma gà cho rằng, nó được sử dụng như một loại bùa ngải có tác dụng đem lại may mắn cho gia chủ hoặc trù ếm kẻ thù từ xa. Kẻ bị nguyền có thể gặp phải trăm vàn xui xẻo tai họa như bệnh tật, tai nạn, bị thù ghét…   Cho đến bây giờ, chưa từng có ai biết hình dạng thật sự của con “ma gà”, tất cả chỉ dựa vào những câu truyện truyền miệng từ đời này qua đời khác, để rồi nó trở thành một hủ tục kinh dị ăn sâu vào tiềm thức những người dân vùng cao. Tất cả những người tin vào “ma gà” đều cho rằng không phải ai cũng “nuôi” được ma gà, chỉ có những người sinh ra trong gia tộc, dòng họ có truyền thống nuôi “ma” truyền lại mới có thể nuôi được. Ma gà được nuôi trong một cái hũ sành, để ở xó xỉnh tăm tối nhất, kín đáo nhất của ngôi nhà, cái hũ này sẽ được đậy kín trong mọi trường hợp. Mỗi tháng, vào một ngày nhất định, người nuôi “ma gà” phải tắm rửa sạch sẽ, khấn vái làm lễ cho “ma” ăn, thức ăn thường là một con gà sống. Nếu cứ đến ngày đó, “ma” không được ăn gì thì cũng phải “nhập” được vào một ai hoặc một con vật bất kỳ, nếu không gia chủ phải thế mạng. Ai đã bị con ma gà nhập vào, phải mời thầy cúng làm lễ trừ tà.  

Ma xó

  Ma xó có nguồn gốc từ phong tục của các dân tộc thiểu số ở vùng thượng du Tây Bắc, tại xứ Mán, Mèo. Khi nhà có người chết thì các thầy mo sẽ bó xác chết cho cứng lại rồi bỏ vào một cái quan tài dựng đứng đặt ở góc tối của ngôi nhà (loại quan tài này được tạo thành từ một thân cây rỗng ruột). Các thầy mo sẽ cúng cơm cho ma ăn mỗi ngày và ngày nào cũng gọi tên của nó cho đến khi con ma xó trả lời lại thầy mo bằng một hình thức tương tác tâm linh đầy bí ẩn. Sau một khoảng thời gian tương đối dài, thầy mo sẽ dạy cho con ma xó cách thức giữ nhà, khi thành công thì có mở cửa nhà cũng không ai dám vào nhà mà phá phách, trộm cắp.   Theo truyền thuyết, ma xó có uy lực rất lớn, nó có khả năng bẻ gãy cổ một người trưởng thành trong tích tắc. Khi ai đó tự ý bước vào nhà và chạm vào bất kỳ đồ vật nào của người bản xứ lúc vắng chủ, ma xó sẽ làm kẻ không mời đó trào máu ra thất khiếu mà chết đứng!
 

Ma lai

  Ma lai (còn gọi là ma lai ba khoang) là một loại ma trong truyền thuyết, chuyên đi ăn phân, nội tạng của người hay súc vật. Tương truyền Ma lai 3 khoang cũng là những cô gái đẹp ở vùng Tây Bắc, khu vực giáp ranh xứ Lào, đây là những thiếu nữ cực kì diễm lệ với cổ cao ba ngấn đỏ hồng….nhưng khi gần gũi lúc nào cũng có cảm giác phảng phất mùi tanh tưởi đâu đó!   Dân gian đồn rằng vào những đêm trăng khuyết, khi mọi người đều an giấc… chiếc đầu của cô gái này sẽ tách khỏi thân mình cùng với ba đốt sống ở cổ, mang theo cả bộ lục phủ ngũ tạng, đặc biệt là cà bộ ruột lòng thòng mà không một nhiểu máu!….Ma lai sẽ bay đi trong màn sương qua các bụi rậm để tìm phân hay hay đàm rải của con nguời thải ra mà ăn!…Nếu tìm không có thì nó sẽ tạm dùng cứt trâu còn lầy hay những xác cóc nhái chết sình trương… ma lai phải về nhập lại thân mình trước khi giờ Dần đến (trước 4 giờ sáng) vì khi có sáng mặt trời xuất hiện chiếu vào bộ ruột của nó thì con ma lai sẽ bị chết ngay lập tức!   Cũng có người cho rằng khi lật úp cái xác của ma lại trong lúc nó đã tách khỏi xác thì con ma lai không thể nhập vào xác được mà phải năn nỉ kẻ đã úp xác nó lại…Nếu kẻ ấy muốn nó chết thì cứ để đến lúc mặt trời lên! Tự khắc từ cổ thân hình đang nằm sấp kia sẻ trào hết máu ra…lúc ấy là hết đời thiếu nữ Ma lai.!  

Ma da

  Có thể phân loài ma này thuộc quái vật nước do môi trường sinh sống là ẩn mình dưới nước. Do Việt Nam là một đất nước có hệ thống sông ngòi chằng chịt nên việc con người bị chết đuối xảy ra thường xuyên nên dân gian kể nhau nghe câu chuyện ma da để hù dọa, răn đe lũ con nít chăng?
Trong tin nguong dan gian Viet Nam co nhung loai ma nao hinh anh
Thờ ma xó (Ảnh minh họa)
Loài ma da này thường được miêu tả như sau: Khi bạn bơi dưới nước nơi hoang vắng hay bơi qua một khúc sông chỉ có một mình thì ma da sẽ xuất hiện từ bên dưới, nó kéo cẳng chân bạn lôi sâu xuống dưới nước, kết quả là bạn chết ngộp. Có nơi miêu tả nó có hình dạng như một đứa trẻ con, có nơi nó như một tấm vải đen to lớn, có nơi thì ví nó có màu xanh, trơn nhớt như rong rêu bám dưới đáy sông. Nhưng dù gì đi nữa thì với tình trạng chết do đuối nước thường diễn ra thì câu chuyện về ma da sẽ vẫn được nhắc đến.
 

Bóng đè

  Bóng đè hay còn gọi là ma bóng đè không gây nguy hiểm đến con người. Theo mô tả của một số người từng bị bóng đè thì ma bóng đè có hình dáng như con người, đen như màn đêm. Khi bạn đang chìm vào trong giấc ngủ sâu thì bạn sẽ bị rơi vào trạng thái mơ màng, có thể bạn sẽ có cảm giác như thấy mình bị rơi từ trên cao xuống vực, hoặc thấy bị ai đó bóp cổ, bị chó đuổi, rắn tấn công…muốn chạy mà không nhúc nhích nổi. Có người cảm thấy như nghe có sức mạnh đè lên người mà không thể nào đẩy ra được, khó thở, có khi bị ảo giác nhìn thấy những hình ảnh khủng khiếp, hoặc nghe được âm thanh bí ẩn. Có người còn thấy hình như có ai đó đứng, ngồi bên cạnh hay cảm giác như bị đẩy ngã ra khỏi giường,… Đó là hiện tượng “bóng đè” mà mỗi người ít nhất 1 lần trong đời phải trải qua.   Về mặt khoa học, có rất nhiều nguyên nhân khiến bóng đè xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng tâm lý, lo lắng hay stress do sức áp từ công việc, do đảo lộn chu trình của giấc ngủ, những yếu tố tâm lý này kích thích lên vỏ não, gây ra hiện tượng bóng đè. Do tư thế nằm ngủ, người để tay lên ngực khi ngủ sẽ gây khó khăn cho việc thở và dễ bị bóng đè. Cà phê và rượu cũng là tác nhân gây nên bóng đè. Cũng có khi bóng đè là dấu hiệu của một số bệnh tim mạch, nhưng những trường hợp này chiếm rất ít.   Ngoài những loại ma kể trên, còn có:   Ma men là vong hồn của những người say khi chết đi thành ma vẫn thường hay lôi kéo người khác say sưa tới chết.   Ma thần vòng là hồn ma của những người thắt cổ chết sau đó xui khiến người khác cũng thắt cổ tự tử chết như họ.   Ma trành hay còn gọi là ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai…   và nhiều loại ma khác như ma le, ma hời, ma lon…
ST.

11 tình huống chứng tỏ bạn có thể nhìn thấy Ma 9 điềm báo gặp ma và cách hóa giải trong tháng 7 ma khóc quỷ hờn Bỏ tiền lẻ bên người chết đường chết chợ để làm gì?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại ma nào?

Nhà có nhiều tài lộc nếu đặt bể cá đúng hướng phong thủy

Bản thân bể cá đã là sự kết hợp hài hòa của ngũ hành. Do đó, nếu biết đặt và chăm sóc đúng cách, nó sẽ bổ sung năng lượng tích cực, tăng vượng khí và tài lộc
Nhà có nhiều tài lộc nếu đặt bể cá đúng hướng phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bản thân bể cá đã là sự kết hợp hài hòa của ngũ hành. Do đó, nếu biết đặt và chăm sóc đúng cách, nó sẽ bổ sung năng lượng tích cực, tăng vượng khí và tài lộc cho gia chủ.


► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

Theo quan điểm phong thủy, bể cá là một phần nội ngoại thất có đủ 5 yếu tố trong ngũ hành. Với nước là hành Thủy; cây thủy sinh, gỗ lũa là hành Mộc; kết cấu của bể (bao gồm khung, giá đỡ, máng đèn) thuộc hành Kim; đất sỏi rải dưới nền là hành Thổ; màu sắc đỏ, cam, vàng của cá hoặc một số cây thủy sinh, vật trang trí thuộc hành Hỏa.

Nha co nhieu tai loc neu dat be ca dung huong phong thuy hinh anh
Ảnh minh họa

Những hướng thích hợp để đặt bể cá

 
- Hướng Đông Nam: Hướng này thuộc hành Mộc, mang ý nghĩa cung Tài lộc. Trong khi đó, Thủy sinh Mộc, sẽ  đem lại nhiều may mắn về tiền bạc, danh vọng cho gia chủ.
 
- Hướng Đông: Đây cũng là hướng thuộc hành Mộc, mang ý nghĩa cung Gia đạo. Khi Thủy sinh Mộc, cung này sẽ mang lại nhiều thuận lợi về sức khỏe và gia đình.
 
- Hướng Bắc: Hướng này thuộc hành Thủy, mang ý nghĩa cung Sự nghiệp. Khi song Thủy đồng hành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp phát triển hưng vượng.
 
Chọn hình dáng bể cá theo phong thủy
 
- Hình tròn: Hình dạng này thuộc hành Kim (đại diện cho tiền tài), khiến Thủy sinh sôi. Ngoài ra, hình tròn là biểu thị của sự viên mãn. Do đó, dùng hình dáng bể cá hình tròn đặt ở trung tâm căn phòng sẽ mang lại nhiều may mắn và tài lộc cho chủ nhà. 
 
- Hình chữ nhật: Hình này thuộc hành Mộc, Thủy sinh Mộc nên dùng bể cá hình chữ nhật đặt ở cạnh tường của căn phòng sẽ mang lại nguồn tài lộc hưng vượng cho gia chủ.
 
- Hình lục giác: Số 6 được xem là con số của hành Thủy, do đó có thể sử dụng dạng bình này đặt ở trung tâm căn phòng hoặc cửa phòng để mang lại nhiều điều tốt lành cho ngôi nhà.
 
Lưu ý: Không nên sử dụng bể cá hình vuông và hình đa giác (tam giác, bát giác...) bởi nó là biểu trưng của hành Thổ và Hỏa, tương khắc với các hành Thủy nên không mang lại nhiều tài lộc. 

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà có nhiều tài lộc nếu đặt bể cá đúng hướng phong thủy

Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ thủa xa xưa, các cụ ta thường dùng 12 con giáp ngày, tháng, năm và cả giờ. 12 con giáp tức là 12 con vật quen thuộc tượng trưng cho các năm theo thứ tự sau đây: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong bài ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu rõ hơn về giờ tính theo 12 con giáp và cụ thể ở đây là giờ tị. Bạn có biết giờ tị là mấy giờ không? Tưởng đơn giản nhưng không phải ai cũng biết. Hãy cùng Phong thủy số tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây nhé.

Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Xem thêm

+ Giờ tốc hỷ là giờ gì?

+ Ngày bất tương là ngày gì?

+ Ngày chu tước hắc đạo là ngày gi?

Giờ tỵ là mấy giờ?

Giờ tị, nói có lẽ ai cũng biết giờ tị là giờ rắn, tuy nhiên giờ tị là mấy giờ, cụ thể là vào khoảng thời gian nào trong ngày thì có lẽ không phải ai cũng biết, đặc biệt là các bạn trẻ. Để hiểu rõ hơn về cách tính giờ theo 12 con giáp, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu:

+ Một ngày gồm có 24 tiếng, 24 tiếng này quy định là 5 canh và 6 khắc

1. Bảng giờ trong 1 ngày theo 12 con giáp

Tính theo 12 con giáp, thứ tự các giờ sẽ tính như sau:

·         Giờ tý tức là giờ chuột, bắt đầu từ khoảng 23 giờ đêm đến 1 giờ sáng. Những bạn sinh ra vào giờ này tức là sinh giờ tý.

·         Giờ ngọ hay còn gọi là ngựa, bắt đầu từ 11 giờ trưa đến 13 giờ trưa

·         Giờ sửu hay còn gọi là trâu, bắt đầu từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng

·         Giờ mùi hay còn gọi là dê, bắt đầu từ 13 giờ trưa đến 15 giờ chiều

·         Giờ dần là giờ hổ, bắt đầu từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng

·         Giờ thân tức là khỉ, bắt đầu từ 15 giờ đến 17 giờ chiều

·         Giờ mão hay còn gọi là giờ mẹo, con mèo, bắt đầu từ 5 giờ đến 7 giờ sáng

·         Giờ dậu là gà từ tính từ 17 giờ đến 19 giờ tối

·         Giờ thìn là rồng tính từ 19 giờ đén 11 giờ sáng

·         Giờ tị là giờ rắn tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng

·         Giờ hợi là heo, tính từ 21 giờ đến 23 giờ khuya

·         Giờ tuất là con chó, tính từ 19 giờ đến 21 giờ tối

Vậy với câu hỏi, giờ tị là mấy giờ, nhìn cách tính ở trên chúng ta sẽ trả lời chính xác được rằng, giờ tị tính từ 9 giờ đến 11 giờ sáng.

2. Một ngày có 5 canh

Ngoài tính xem giờ tị là mấy giờ, giờ hợi là mấy giờ... chúng ta sẽ cùng tìm hiểu thêm về cách chia canh của người xưa.

·         Canh 1 tính từ 19 giờ đến 21 giờ tức là giờ tuất

·         Canh 2 tính từ 21 giờ đến 23 giờ - giờ hợi

·         Canh 3 tính từ 23 giờ đến 1 giờ sáng – giờ tý

·         Canh 4 tính từ 1 giờ đến 3 giờ sáng – giờ sửu

·         Canh 5 tính từ 3 giờ - 5 giờ - giờ dần

Bên trên là một vài hướng dẫn về cách tính giờ, tính canh theo 12 con giáp của người xưa mà chúng ta có thể tham khảo nhé


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có biết chính xác giờ tỵ là mấy giờ?

Điểm danh 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn

Xui rủi là điều chẳng ai mong muốn, song không may lại có 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn. Lịch ngày tốt xin có đôi lời nhắc nhở, cầu chúc bình an.
Điểm danh 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xui rủi là điều chẳng ai mong muốn, song không may lại có 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn. Lịch ngày tốt xin có đôi lời nhắc nhở, hy vọng các bạn đều được bình an.
Tháng 7 âm lịch trong năm còn được gọi là tháng cô hồn, bởi đây là khoảng thời gian mà các vong hồn nơi âm tào địa phủ được “mở cửa mả”, thoát lên dạo chơi chốn trần gian. Chính vì thế mà trong tháng này buổi tối tốt nhất không nên đi ra ngoài quá muộn, cũng cần lưu ý để không phạm phải những điều cấm kị trong tháng cô hồn.


4 con giap de gap xui xeo trong thang co hon
 
  Tuy nhiên, đôi khi phòng tránh là một chuyện, song dù làm tốt đến đâu thì 4 con giáp sau vẫn dễ gặp những điều xui xẻo, đen đủi trong tháng cô hồn, bởi phạm phải xung sát trong tháng này. Vậy đó là những con giáp, hãy cùng tìm hiểu với Lịch ngày tốt nhé.  

1. Người tuổi Tị hoặc người sinh vào tháng 8 âm lịch


tuoi ti de tai nan
 
Huyết quang đao sát, tiền tài thấu chi.   Người cầm tinh con Rắn hay những người sinh vào tháng 8 âm lịch trong tháng cô hồn cần chú ý đảm bảo an toàn cho bản thân, bởi đây là thời điểm mà bạn có thể gặp phải những tai họa bất ngờ, tai nạn hoặc bị thương tật, chảy máu, ứng với họa huyết quang. Những tai họa này khiến cho bạn thất thoát tiền của, tài lộc tổn hao.   Tốt nhất với những chuyện mình chưa quen thuộc thì chớ nên cố ý động vào kẻo mang họa vào thân, cũng nên tránh xa những nơi nhiều tà ma nhất trong tháng cô hồn. Chuyện tình cảm cũng dễ bị đào hoa dữ đeo bám, không phân biệt được đúng sai tốt xấu.   Ngoài việc chú tâm cẩn trọng giữ gìn sức khỏe, tỉnh táo trong chuyện tình cảm thì người tuổi Tị hay những người sinh vào tháng 8 âm lịch cũng có thể đeo thêm đá mặt trăng phong thủy để cầu bình an.  

2. Người tuổi Dần,  người sinh vào tháng 10 âm lịch


tuoi dan gap den dui
 

Mệt mỏi nguy khốn, sức khỏe kém an yên.   Người tuổi Dần là 1 trong 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn, ngoài ra người sinh vào tháng 10 âm lịch cũng là đối tượng cần cẩn trọng trong khoảng thời gian này. Nên chú ý nghỉ ngơi sinh hoạt điều độ, giữ gìn sức khỏe.   Bạn dễ cảm thấy mệt mỏi, khó chịu trong người, đó là dấu hiệu của bệnh tật sắp đến. Nên hạn chế thức đêm, ôm đồm công việc dẫn đến căng thẳng, quá tải vì áp lực. Cần tìm thời gian để thả lỏng tinh thần, thoải mái về thể chất. Cũng có thể mang theo mình vòng tay có hình Địa Tạng Bồ Tát để xua tan vận hung đeo bám.  

3. Người tuổi Sửu, người sinh vào tháng 7 âm lịch


tuoi suu de benh tat
 
Tai nạn xe cộ, vỡ đầu chảy máu.   Tháng cô hồn nhiều điều kiêng kị, không thể làm ngơ, đặc biệt là với người sinh tháng 7 âm, tháng cô hồn và người tuổi Dần – con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn. Trong tháng này, có việc đi đâu hay đơn giản là khi tham gia giao thông cũng cần phải đặc biệt tập trung chú ý, chỉ lơ là một chút cũng có thể gây tai nạn.   Trong công việc đừng nóng vội bốc đồng, dễ gây tai họa. Dù là đi bộ hay đi xe thì cũng phải tập trung tinh thần, tuyệt đối không phân tâm làm những chuyện khác. Nghe điện thoại khi chạy xe là điều tối kị. Để bế quan hóa sát, có thể đeo thêm vật phẩm phong thủy, tốt nhất là nam đeo Quan Âm, nữ đeo Di Lặc.  

4. Người tuổi Dậu, người sinh vào tháng 4 âm lịch


tuoi dau pham thai tue
 

Thái Tuế xung sát, tiểu nhân quấy nhiễu.

Người tuổi Dậu trong năm 2017 phạm Thái Tuế nên trong tháng 7 âm lịch càng phải cẩn thận hơn. Đây cũng là con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn, trong tháng hành sự cẩn trọng là hơn, chớ làm việc xấu kẻo vận hung ám vào người.   Ngoài ra còn có người sinh tháng 4 âm lịch cũng dễ gặp nhiều điều đen đủi trong tháng cô hồn. Trong công việc nên cố gắng khiêm nhường, chớ tự cao tự đại, cũng đừng lo chuyện bao đồng, hạn chế buôn chuyện nói xấu mọi người cùng chỗ làm để tránh gây thù chuốc oán, mang họa vào thân.    Lịch ngày tốt cũng khuyên người tuổi Dậu, người sinh vào tháng 4 âm lịch nên đeo đá thạch anh đen để cản sát khí, phòng tiểu nhân, bình an đi qua tháng cô hồn.
An An

Những điều 12 con giáp cần chú ý trong tháng cô hồn Vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn Mặc tháng cô hồn xui xẻo, những con giáp này vẫn rủng rỉnh tiền tiêu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 con giáp dễ gặp xui xẻo trong tháng cô hồn

Tư thế ngủ tiết lộ điều khao khát trong tình yêu của bạn

Bạn hay nằm nghiêng, nằm ngửa, hay nằm sấp... các tư thế ngủ có thể nói rất nhiều về những điều bạn muốn trong tình yêu đấy nhé.
Tư thế ngủ tiết lộ điều khao khát trong tình yêu của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tu-the-ngu-tiet-lo-dieu-khao-khat-trong-tinh-yeu-cua-ban tu-the-ngu-tiet-lo-dieu-khao-khat-trong-tinh-yeu-cua-ban-1
Nằm ngửa Nằm sấp
tu-the-ngu-tiet-lo-dieu-khao-khat-trong-tinh-yeu-cua-ban-2 tu-the-ngu-tiet-lo-dieu-khao-khat-trong-tinh-yeu-cua-ban-3
Nằm nghiêng Nằm ngủ tư thế bào thai

Mộc Trà (theo Quiz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tư thế ngủ tiết lộ điều khao khát trong tình yêu của bạn

Các ngày “Du hoa” (xấu) –

Tháng Giêng kỵ ngày Tị Tháng Bảy kỵ ngày Hợi Tháng Hai kỵ ngày Dần Tháng Tám kỵ ngày Thân Tháng Ba kỵ ngày Hợi Tháng Chín kỵ ngày Tị Tháng Tư kỵ ngày Thân Tháng Mười kỵ ngày Dần Tháng Năm kỵ ngày Tị Tháng Mười một kỵ ngày Hợi Tháng Sáu kỵ ngày Dần T

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ebf33d

  1. Tháng Giêng kỵ ngày Tị
  2. Tháng Bảy kỵ ngày Hợi
  3. Tháng Hai kỵ ngày Dần
  4. Tháng Tám kỵ ngày Thân
  5. Tháng Ba kỵ ngày Hợi
  6. Tháng Chín kỵ ngày Tị
  7. Tháng Tư kỵ ngày Thân
  8. Tháng Mười kỵ ngày Dần
  9. Tháng Năm kỵ ngày Tị
  10. Tháng Mười một kỵ ngày Hợi
  11. Tháng Sáu kỵ ngày Dần
  12. Tháng Chạp kỵ ngày Thân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Du hoa” (xấu) –

Nợ ĐỜI không trả, tự gieo nghiệp NGHÈO HÈN

Phật dạy trong cuộc đời này có 4 thứ không nên mắc nợ, đó là tiền bạc, là trách nhiệm, là ân tình và thời gian. Nợ mà không trả là tự gieo nghiệp nghèo hèn.
Nợ ĐỜI không trả, tự gieo nghiệp NGHÈO HÈN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Mời các bạn đọc những câu nói hay về cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

No DOI khong tra, tu gieo nghiep NGHEO HEN hinh anh
Ảnh minh họa

 
Về món nợ thứ nhất là tiền bạc. Theo lẽ tự nhiên, có vay thì có trả. Khi ta vay ai một món tiền nghĩa là ta đang nhận ở người đó một món nợ không chỉ đơn thuần là vật chất mà còn là ân nghĩa. Thế nhưng ở đời, nhiều người vay tiền không muốn trả dẫn đến gieo nghiệp nghèo. Có người “xù nợ”, có người trả nợ nhưng lại mang niềm oán giận người cho vay. Theo lý lẽ nhà Phật thì đây chính là việc họ đang tự gieo nghiệp nghèo hèn cho mình.    Tiến làm nghề kinh doanh bất động sản ở Hà Nội vốn xuất thân là một người khá giả. Anh được thừa hưởng khối tài sản lớn của bố mẹ để lại nên bắt đầu lập nghiệp kinh doanh bất động sản một cách thuận lợi. Thế nhưng chỉ sau 10 năm lấy vợ và làm người giàu có, sự nghiệp của Tiến càng ngày càng xuống dốc. Bao nhiêu đất đai mà Tiến tậu được cuối cùng phải bán hết vì nợ nần.   Chẳng là trong quá trình làm ăn, Tiến thường vay rất nhiều người, cả ngân hàng cũng như anh em bạn bè và bất cứ ai mà Tiến gặp. Tiến ở nhà biệt thự, đi xe sang nhưng lạ là khi có cơ hội vay được tiền của ai là Tiến vay. Lúc vay, Tiến đều hứa là 1 tháng hoặc 2 tháng sau sẽ trả. Nhưng đến ngày hẹn trả, Tiến viện đủ lý do để khất nợ.   Khi đòi quá thì Tiến sẽ tránh mặt, không trả lời điện thoại, thậm chí còn dùng kế “cả vú lấp miệng em” rằng “đừng có mà dồn tôi đến chân tường” hoặc dùng kế hoãn binh: “Yên tâm đi, một tuần sau tôi trả không thiếu một đồng. Anh em với nhau, vay mấy đồng bạc mà cứ làm như là chết đến nơi”… Thế nhưng đến một tuần sau đó, Tiến lại lờ đi như chưa bao giờ có chuyện vay mượn xảy ra…   Hầu hết những người cho Tiến vay tiền đều đã có mối quan hệ rất thân tình, tốt đẹp với anh. Nhiều người vì cho Tiến vay tiền mà mất thời gian đi hỏi nợ, mất cả ăn cả ngủ vì ức chế, vợ chồng mất hòa thuận vì trách móc lẫn nhau khi cho Tiến vay tiền.   Tiến cũng từng kiếm được bộn tiền nhờ buôn bán bất động sản. Thế nhưng trong khoảng 5 năm trở lại đây, Tiến không làm ăn gì được với nghề này. Bao nhiêu đất của Tiến đều bị các chủ nợ “thu hồi”. Đến ngôi nhà vợ chồng Tiến ở cũng bị ngân hàng xiết nợ. Hiện, Tiến đang phải ra phụ vợ bán hàng ăn để kiếm sống hàng ngày.   Trường hợp thích “nợ”, vay nợ không muốn trả như của Tiến không hề hiếm. Chỉ cần tra google cụm từ “vay tiền không trả”, bạn sẽ tìm ra hàng loạt những câu hỏi gửi luật sư của các “chủ nợ” là nạn nhân của những “con nợ” vay tiền không muốn trả kiểu này.
 
Thượng toạ Thích Chân Quang, trong bài pháp âm Nhân quả Giàu – Nghèo, giải thích về vấn đề nhân quả giàu nghèo trong bài pháp âm nhân quả giàu nghèo như sau: Giàu là do siêng năng giúp đỡ, bố thí người khác. Nghèo là do hà tiện, bủn xỉn, ích kỷ, không chịu bố thí.   Theo lời giải thích này thì hành vi “vay tiền không trả”, hoặc “vay tiền không muốn trả” là một biểu hiện của tâm ích kỷ, tráo trở. Chiếu theo luật nhân quả trong đạo Phật thì hành vi đó chính là cách gieo nghiệp nghèo hèn cho mình. Nhanh thì cho đời này, muộn thì cho những đời sau. Không chỉ gieo nghiệp nghèo vì tâm ích kỷ mà còn gieo cả nghiệp gian truân trong đời vì tâm tráo trở như đã phân tích ở trên.   Thạc sĩ Nguyễn Hồng Lê (Trung Ương Đoàn TNCSHCM) cũng cho rằng, tốt nhất trên cuộc đời không nên nợ cái gì. Khi ta nợ ai đó một cái gì thì ta đang tự khoác lên cuộc đời mình một gánh nặng.
 
Về vấn đề nợ tiền bạc cũng như vậy, bất đắc dĩ thì mới phải đi vay. Người có đạo đức họ sẽ ăn không ngon ngủ không yên khi chưa trả được nợ. Còn người thiếu đạo đức thì thường họ không có cảm giác đó. Ngược lại với họ, vay được là mừng, còn không cần biết là khi nào sẽ trả. Khi nào người khác đòi nợ thì họ sẽ chây ì mặc cho “ân nhân” của mình đau khổ, tức giận thế nào.   Theo các chuyên gia, người sợ nợ vì thế cũng là người có đạo đức. Bởi nợ nào thì cũng phải trả, không trả cách này thì sẽ phải trả bằng cách khác. Bởi nhân quả không loại trừ ai.
 
Dân gian có câu nói truyền miệng rất hay đó là “tiền bạc phân minh, ái tình dứt khoát”. Câu này có ý nghĩa là dù yêu quý nhau đến cỡ nào thì vẫn nên minh bạch trong vấn đề tiền bạc. Tiền bạc là mồ hôi, là công sức lao động của mỗi người. Nếu vì yêu quý nhau, thân thiết nhau mà lợi dụng tiền bạc của nhau thì đến một ngày tình cảm cũng sẽ sứt mẻ.   Ngay cả anh em ruột thịt thì vẫn cần phải rõ ràng về vấn đề tế nhị này. Khoản nào vay thì rõ là vay và cần phải trả với tấm lòng biết ơn. Khoản nào cho, biếu hay tặng thì người cho không nên đòi người nhận một ngày nào đó trả ơn mà hãy vô tư theo cách “cho đi hạnh phúc chính là mang lại hạnh phúc cho mình”.   Nhưng đó là phía người cho. Còn phía người nhận thì bắt buộc không bao giờ được quên ân tình đó. Bởi món nợ đó không đơn thuần là nợ vật chất mà còn là nợ cả ân tình và nếu không trả sẽ gieo nghiệp nghèo.

ST.
Lời Phật dạy 5 điều đúng để cha mẹ nuôi con nên người Tiêu tán thiện nghiệp vì 4 sai lầm đáng trách Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nợ ĐỜI không trả, tự gieo nghiệp NGHÈO HÈN

Nhà tắm ở vị trí 'xấu xí', tiền mất tật mang!

Hóa giải phong thủy xấu của phòng tắm mà chẳng cần đập đi xây lại! Nếu bạn có chút quan tâm đến phong thủy thì đều biết khu vực phòng tắm là nơi khó bài trí nhất trong nhà. Có rất nhiều thứ trong phòng tắm ảnh hưởng xấu đến nguồn năng lượng phong thủy tốt và tinh khiết trong gia đình. Thậm chí, nhiều chuyên gia cũng thấy bài trí phong thủy phòng tắm quả thật là một thử thách.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi người có một cách riêng để hóa giải các nguồn năng lượng xấu xuất hiện ở khu vực phòng tắm, tùy vào vị trí của căn phòng trong ngôi nhà. Dưới đây là danh sách 5 vị trí phong thủy phòng tắm tồi tệ nhất và một vài mẹo phong thủy để giúp trung hòa các nguồn năng lượng tiêu cực tiềm tàng.

1. Phòng tắm ở vị trí trung tâm của ngôi nhà

Vị trí trung tâm được coi như trái tim của ngôi nhà, cũng là điểm giữa của âm dương. Thông thường, mọi người đều muốn nó thông thoáng, tràn đầy áng sáng và đẹp mắt. Do vậy, phòng tắm - vốn được coi là nơi ô uế, để ở giữa nhà là một vị trí cực kì xấu. Bạn sẽ làm gì nếu phòng tắm của bạn ở trung tâm của ngôi nhà? Bạn có đặt một tấm gương lớn trên cửa để hóa giải?

 nha tam o vi tri 'xau xi', tien mat tat mang! - 1

Đầu tiên và trước hết, khi phòng tắm ở vị trí trung tâm của ngôi nhà, bạn phải liên tục nỗ lực để giữ phòng tắm luôn gọn gàng và sạch sẽ. Ngoài ra còn có các yếu tố khác để khắc phục:

- Trang trí phòng tắm thật đẹp

- Luôn để ý đến chất lượng không khí. Đừng để nhà tắm bốc mùi.

- Quan tâm đến chất lượng ánh sáng trong phòng tắm của bạn.

- Thêm các đồ nội thất có yếu tố Lửa hoặc Đất trong phòng - đó có thể là do màu sắc, hình dạng, hoặc các đồ trang trí. Hai yếu tố này rất tốt cho năng lượng trung tâm của ngôi nhà. Nguyên tốt Đất giúp cân bằng yếu tố Thủy có quá nhiều trong phòng tắm.

2. Cửa phòng tắm đối diện cửa chính

Lý do mà khi cánh cửa phòng tắm đối diện với cửa chính được coi là phong thủy xấu rất đơn giản: năng lượng trong vũ trụ đi vào nhà qua cánh cửa phía trước. Nếu phòng tắm của bạn 'đối mặt' với cửa trước, hầu hết năng lượng tốt sẽ dễ dàng thoát ra qua các lỗ cống trong phòng tắm. Lúc này, rất  ít hoặc không có năng lượng phong thủy tốt còn lại để nuôi dưỡng ngôi nhà.

- Luôn đóng cửa phòng tắm để giữ năng lượng trong nhà, không bị thất thoát.

- Tạo năng lượng phong thủy tốt trong phòng tắm

- Tập trung cải thiện phong thủy cửa trước để thu hút càng nhiều năng lượng tích cực.

3. Phòng tắm nằm ở vị trí tiền tài

Phòng tắm nằm đúng vị trí tiền tài (góc Đông Nam) của ngôi nhà quả thật là một thách thức lớn. Tuy ảnh hưởng đến phong thủy chung nhưng cũng không hẳn là quá xấu để vô phương cứu chữa.

 nha tam o vi tri 'xau xi', tien mat tat mang! - 2

- Màu sắc: chọn lựa trong các màu sau đây để sơn tường hay trang trí

Mộc: Nâu, Xanh

Thủy: Xanh biển, Đen

Thổ: Vàng cát, vàng sáng

- Tre: Cây tre là một biểu tượng của sự may mắn trong phong thủy. Một chậu 8 cây tre nhỏ trong phòng tắm sẽ giúp hóa giải năng lượng xấu

- Đá quý: Bạn có thể để một vài viên đá quý nhiều màu trong phòng tắm - vừa trang trí, vừa tốt cho phong thủy như hổ phách, thạch anh tím, ngọc,... 

- Tranh ảnh: Treo một bức tranh biểu trưng cho sự giàu có, tiền vào như nước trong phòng tắm để thu hút tài lộc vào nhà.

- Sang trọng: Một không gian xa xỉ, thoải mái như spa rất cần thiết khi vị trí phòng tắm ở góc Đông Nam của ngôi nhà

- Sạch sẽ: Dù bạn có hóa giải đủ mọi cách thì quan trọng nhất là phải giữ cho phòng tắm sạch sẽ, sáng sủa và thoáng khí. 

- Bồn cầu: Sau khi đi vệ sinh, bạn luôn phải đóng nắp bồn cầu để tránh tiền bạc theo nước chảy ra ngoài.

4. Cửa phòng tắm đối diện cửa bếp

Cửa nhà bếp đối diện với cửa nhà tắm là một trong những cấm kị phong thủy phòng tắm nhiều người biết. Chưa nói đến vấn đề phong thủy, không một gia đình nào muốn mùi hôi của nhà vệ sinh dễ dàng ám vào mùi thức ăn cả.

Theo phong thủy, năng lượng của phòng tắm (ô uế, thất thoát) không nên trộn lẫn với nguồn năng lượng của bếp (dinh dưỡng, ấm áp, tình yêu). Hơn thế nữa, yếu tố Thủy của phòng tắm kị hoàn toàn với yếu tố Lửa của bếp.

 nha tam o vi tri 'xau xi', tien mat tat mang! - 3

Mục tiêu của bạn là tạo ra càng nhiều vật cản càng tốt giữa nhà bếp và phòng tắm, và đây là một số mẹo phong thủy đơn giản có thể cân nhắc nếu bạn không muốn phải đập nhà sửa lại.

- Luôn đóng cửa phòng tắm.

- Giữ phòng tắm thơm tho

- Tìm một cách sáng tạo để vạch rõ ranh giới hai phòng. Có thể là một chậu cây cao, một bức bàn che hay một cánh cửa kính ở cửa nhà bếp.

- Sơn hai màu khác nhau để xác định và tách biệt hai không gian.

- Tạo điểm nhấn để thu hút các nguồn năng lượng đang bị trộn lẫn mà vẫn đẹp nhà. Một bức tranh khổ lớn ở mảng tường giữa là một gợi ý không tồi.

5. Phòng tắm ở trên phòng ngủ

Phòng tắm ở trên phòng ngủ sẽ tạo áp lực cho giấc ngủ của bạn. Có một vài cách để bạn có thể giảm bớt gánh nặng trong phong thủy phòng tắm.

 nha tam o vi tri 'xau xi', tien mat tat mang! - 4

- Hạn chế sử dụng nhà tắm này mà chỉ khi nào thật sự cần thiết.

- Kê giường phòng ngủ tránh vị trí phía dưới bồn cầu

- Trang trí phòng tắm và phòng ngủ theo hai phong cách đối lập nhau. Ví dụ phòng ngủ nhẹ nhàng thì phòng tắm nên rực rỡ và ngược lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà tắm ở vị trí 'xấu xí', tiền mất tật mang!

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tý

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tý đẹp đẽ hanh thông, làm chủ vận mình, tự mình tiến lên.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tý đẹp đẽ hanh thông, làm chủ vận mệnh, tự mình tiến lên.


► Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
 
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Nham Ty hinh anh
 
Người sinh ngày Nhâm Tý được trời phú cho trí tuệ thông minh, mẫn tiệp, thích các hoạt động quảng giao. Ngày có Thiên Nguyên tọa có Tỷ Kiếp nên cá tính kiên trì, cố chấp.   Người có xu hướng cực đoan, hình thái Tang đố Mộc, tình nhiều duyên nhiều, hỉ sự vây quanh, chuyện tình cảm tốt đẹp bằng phẳng, lấy được người mình yêu. Trụ ngày đối xứng là Đinh Sửu, gặp Mão Mộc thì tốt, hợp nhất là người sinh vào năm Mão.   Xem tử vi mệnh chủ ngày Nhâm Tý là chí âm chí dương, ẩn nhẫn kiên cường. Thủy chủ trí, đại biểu cho ý chí của vạn vật. Người sinh nhu hòa, bình thản, thông minh, suy nghĩ thâm sâu. Đối với việc khó không lui, đối với việc xấu không xúc động, bình tĩnh, tự tin.    Ngày Nhâm Tý có Tý Thủy dương khí thịnh, khí thế đi đầu, không sợ Thất Sát, không sợ tài tinh, dũng mãnh đối đầu. Thủy thế vượng nên không câu nệ lễ tiết, cũng hay nói dối, lươn lẹo. Hơn nữa, Thủy thịnh thì tính háo sắc cuồng dâm, cậy mạnh đoạt yếu.    Cải thiện số mệnh nhờ sử dụng màu sắc chuẩn phong thủy
Mọi người đều tin rằng tính cách ảnh hưởng đến vận mệnh, tuy nhiên một điều mà không phải ai cũng biết, màu sắc quyết định vận mệnh.

Tử vi của người sinh ngày Nhâm Tý
tốt nhất là có Mộc để kiềm chế, Thủy là trí mà Mộc là nhân, tất sẽ tốt đẹp hòa hợp. Thủy nhiều thì tham vọng lớn, vận mệnh Thủy Mộc Thương Quan chăm chỉ, có Thủy Mộc dương hoa thì bị gièm pha, hiềm khích. Trụ ngày Nhâm Tý giống với ngày chủ Bỉ Kiếp tương đồng, thích phô trương khoe mẽ, không có ý thức quản lý tài sản.
 
Tử vi 2016 cho thấy, người sinh vào ngày này nên kết hôn  với những người sinh các ngày: Giáp Thìn, Giáp Thân, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Dậu, Ất Hợi, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Tý, Đinh Sửu, Đinh Mão, Đinh Hợi, Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Kỷ Sửu, Kỷ Mão, Kỷ Tỵ, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi, Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Tuất, Tân Hợi, Tân Sửu, Tân Mùi, Tân tỵ, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất, Nhâm Thân, Quý Tỵ, Quý Mùi, Quý Sửu, Quý Dậu.
Trần Hồng

Xem Clip Nhân tâm bủn xỉn, họa đến không ngờ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Tý

Vợ chồng mơ thấy nhau là tốt hay xấu?

Giấc mơ thường phản ánh những điều trong thực tế. Vợ chồng dù sống với nhau, chạm mặt nhau hàng ngày nhưng điều đó không có nghĩa là đêm nào cũng nằm mơ thấy
Vợ chồng mơ thấy nhau là tốt hay xấu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhau. Và mỗi giấc mơ về vợ hoặc chồng lại dự đoán những điềm báo khác nhau nữa. 



Vo chong mo thay nhau la tot hay xau hinh anh
Ảnh minh họa

Trong giấc mơ, bạn thấy đang trò chuyện cùng chồng nhưng bỗng dưng anh ta im bặt, rồi xa bạn 1 cách kỳ lạ. Đây là dấu hiệu cho thấy cuộc sống vợ chồng của bạn đang có khúc mắc khó nói. Bạn nên tâm sự với anh ấy để tìm ra nguyên nhân và cách giải quyết tốt nhất. 
  Nếu bạn mơ thấy hình ảnh người chồng mặt mày nhợt nhạt, dáng vẻ mệt mỏi là điều ám chỉ gia đình bạn sắp xảy ra chuyện phiền phức, hoặc người thân mắc bệnh. Hãy quan tâm, thăm hỏi và giúp đỡ họ nếu có thể.
 
Bạn mơ thấy chồng mình bệnh nặng nằm liệt giường nhưng bạn vẫn thờ ơ, không quan tâm chăm sóc. Điều này cho thấy cuộc sống vợ chồng bạn chưa có sự hòa hợp. Có thể người bạn đời đã không làm tròn trách nhiệm và chưa thật tốt với bạn hoặc trong lòng bạn đang tơ tưởng đến người đàn ông khác.    Nếu mơ thấy cảnh chồng mình đang giao thiệp, đàm phán với người khác, dự báo sắp tới gia đình bạn sẽ gặp phải một số khó khăn.    Con gái chưa kết hôn mơ thấy mình đã có chồng là dấu hiệu cho thấy bạn đang cố gắng tạo ra sự quyến rũ trong mắt đàn ông.   Người chồng trong giấc mơ khôi ngô tuấn tú, tính cách cởi mở, vui vẻ, biết chia sẻ, điều này chứng tỏ bạn đang khao khát có được gia đình hạnh phúc và hòa thuận.   Nếu nam giới mơ thấy người vợ thỏ thẻ với mình, ngụ ý, bạn đang có cuộc sống gia đình hạnh phúc.   Mơ thấy người vợ cởi mở biểu lộ tình cảm, cho thấy bạn đang có tâm trạng vui vẻ hoặc bạn đang hi vọng có được cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.   Tuy nhiên, nếu mơ thấy người vợ không hòa nhã hoặc có thái độ trách móc, la mắng mình, chứng tỏ giữa 2 người chưa có sự hòa hợp.   Mơ thấy vợ mặc áo chồng hoặc vợ mặc áo bông là điềm báo sẽ sinh con quý tử.   Mơ thấy vợ vui hoặc vợ ôm chồng dự báo sẽ nhận được tiền bạc.
 
Mơ thấy ôm vợ, cho thấy người nằm mơ đang rất vui vẻ.
 
Mơ thấy vợ cùng ở với chồng hoặc vợ chồng chải đầu cho nhau hoặc chồng cùng ngồi với vợ là có chuyện đại cát.
 
Mơ thấy vợ khỏa thân hoặc tranh chấp với vợ là ngụ ý mọi việc của bạn đều như ý.
 
Mơ thấy vợ chồng gầy yếu là điềm báo người nằm mơ sẽ mang thai song sinh.
 
Mơ thấy chồng khỏa thân dự báo vận mệnh của bạn gặp nhiều may mắn.
 
Mơ thấy giao hợp với vợ ám chỉ bạn sẽ gặp rủi ro.
 
Mơ thấy vợ chồng ăn uống cho thấy thời gian tới gia đình bạn sẽ có chuyện ly biệt.
 
Mơ thấy vợ mang thai là điềm báo trong nhà bạn có người ngoại tình.
 
Mơ thấy vợ bị bệnh, ám chỉ bạn thất thoát tiền bạc.
 
Mơ thấy vợ hôn mê, có thể vợ bạn sẽ bị sảy thai.
 
Tổng hợp  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ chồng mơ thấy nhau là tốt hay xấu?

Vận trình sự nghiệp của người tuổi Tỵ

Vì có quý nhân phù trợ nên sự nghiệp của người tuổi Tỵ thường gặp nhiều may mắn, họ dễ đạt được thành công hơn cả sự mong đợi của bản thân.
Vận trình sự nghiệp của người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì có quý nhân phù trợ nên sự nghiệp người tuổi Tỵ thường gặp nhiều may mắn, họ dễ đạt được thành công hơn cả sự mong đợi của bản thân.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Tuy nhiên, họ lại không giỏi giao tiếp, rất cố chấp, bảo thủ và hay làm mọi việc theo phán ý riêng của mình. Cho dù có lâm vào tình trạng xấu như thế nào thì họ cũng nhất định không chịu nghe theo lời khuyên của những người xung quanh.

Trong con người họ tồn tại hai thái cực, có mục tiêu chí hướng phấn đấu nhưng lại mang tư tưởng hưởng lạc thái quá. Chính vì vậy mà cuối đời họ có thể thành công vang dội nhưng nếu không biết cố gắng thì có thể lâm vào tình cảnh bi đát.

Người tuổi Tỵ biết tính toán, làm việc có kế hoạch và chăm chỉ. Trong 12 con giáp thì rắn bao giờ cũng là loài vật khôn ngoan và thích ứng nhanh với mọi sự thay đổi trong bất cứ môi trường nào.

Nhờ trời ban cho tài vận may mắn nên suốt cuộc đời hầu như họ đều không bị chi phối, lo lắng về chuyện tiền bạc. Tuy nhiên trong chi tiêu, họ sẽ không bao giờ phung phí mà luôn có khoản dự trữ cần thiết.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình sự nghiệp của người tuổi Tỵ

Nhìn bàn chân biết người có số làm tỷ phú

Hãy quan sát màu sắc, hình dáng móng và xem đường vân quý, bạn sẽ biết người đó có số tỷ phú hay không.
Nhìn bàn chân biết người có số làm tỷ phú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Màu sắc móng chân

Nếu móng chân của bạn hiện rõ màu trắng sữa nhưng là trắng trong, không bị đục, xin chúc mừng bạn có số giàu sang phú quý, vận mệnh rất tốt. Đặc biệt, nếu móng chân có sắc hồng hào và trong suốt thì số mệnh càng phú quý, cả đời không lo thiếu tiền xài.

Tuy nhiên, nếu móng chân hiện rõ màu xám, cho thấy vận mệnh chủ nhân không tốt, phải làm việc cơ cực, vất vả mà không thu về thành quả tốt.

2. Hình dáng móng chân

Chủ nhân của móng chân hình tròn và trơn có tiền tài dồi dào đồng thời cũng rất biết cách hưởng thụ cuộc sống. Nếu có thêm đặc điểm là móng chân dài, phần đầu móng hơi dốc về phía trước, bạn không cần phải tự mình kiếm sống mà ngay từ khi sinh ra đã được mọi người bao bọc, cứ gọi là sướng từ trong trứng nước nhé.

nhin-ban-chan-biet-nguoi-co-so-lam-ty-phu

3. Xem đường vân quý

Đường vân hình chữ Nhân được gọi là vân quý ở bàn chân. Nếu dưới lòng bàn chân có đường vân này chứng tỏ bạn có số mệnh đại phúc đại quý, tiền của dư giả, sở hữu nhiều tài sản tới mức có thể đạt đến trình độ tỉ phú hay cỡ bình bình cũng là đại gia có tiếng.

4. Độ dày mỏng của bàn chân

Người có bàn chân mỏng, ít thịt, thậm chí nhìn trơ xương thường phải lao động vất vả, làm những việc nặng nhọc mà còn không đủ ăn đủ tiêu. Cuộc đời người này nhiều sóng gió, khó được hưởng an nhàn, sung sướng kể cả khi về già.

Trái lại, nếu bạn có bàn chân dày dặn, tròn đầy thì cuộc sống nhiều phúc lộc, lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu.

5. Xem nốt ruồi lành dữ

Nốt ruồi được cho là mang tới điềm lành và may mắn cho bạn nếu như nó có màu đỏ son và mọc dưới lòng bàn chân. Nếu sở hữu nốt ruồi quý này, không những bản thân bạn có cuộc sống giàu có, nhiều tiền của mà còn giúp đỡ mọi người cùng phát đạt theo.

6. Độ dày của ngón chân cái

Ngón chân cái đại diện cho sức mạnh tài chính của bạn. Bạn kiểm tra xem nhé, nếu ngón chân cái dày dặn, tròn trịa và nhiều thịt, chứng tỏ bạn có số giàu sang đấy. Hơn thế, bạn còn được kế thừa sản nghiệp tổ tiên để lại, đời sống vật chất sướng khỏi chê nhưng cũng nhiều áp lực lắm đó.

7. Độ dài ngón chân thứ hai

Ngón chân thứ hai (ngay cạnh ngón chân cái) dài là biểu hiện của người thông minh, cá tính mạnh và độc lập. Khả năng kiếm tiền của người này rất tốt, họ không bao giờ cam chịu hoàn cảnh mà luôn chủ động trong mọi tình thế nên hiếm khi phải lo vấn đề tiền bạc.

Mr.Bull (Theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn bàn chân biết người có số làm tỷ phú

Mơ thấy phụ nữ sinh con –

Giấc mơ thấy chính mình sinh em bé là điềm báo cuộc sống gia đình bạn rất êm ấm, hạnh phúc. Mơ thấy sinh con trai là tin tốt lành Bạn mơ thấy mình sinh con trai, đó là tin rất tốt lành. Giấc mơ này có ý nghĩa rằng chồng bạn sắp được thăng qua
Mơ thấy phụ nữ sinh con –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy phụ nữ sinh con –

Soi cằm đoán tính cách con người bạn

Bạn có chiếc cằm vuông, cằm tròn, hay cằm móm... chúng đều có đặc điểm riêng để nói lên tính cách của bạn đấy nhé!
Soi cằm đoán tính cách con người bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

soi-cam-doan-tinh-cach-con-nguoi-ban
Số 1 Số 2 Số 3
Số 4 Số 5 Số 6

Mộc Trà (theo Lol)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi cằm đoán tính cách con người bạn

Lời Phật dạy về điều ý nghĩa nhất của sinh mệnh con người

Của cải dù nhiều hay ít thì khi nhắm mắt cũng chẳng thể mang theo. Theo lời Phật dạy :
Lời Phật dạy về điều ý nghĩa nhất của sinh mệnh con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống an nhàn dường như là điều không tưởng, khi sống chúng ta luôn phải tranh đấu để có được tiền tài danh vọng... nhưng khi tay buông xuôi, mắt khép lại thì cả cuộc đời cũng chìm vào hư không.

 
► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về cuộc sống cùng những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Của cải dù nhiều hay ít thì khi nhắm mắt xuôi tay cũng chẳng thể mang theo. Theo lời Phật dạy : "Điều ý nghĩa nhất của sinh mệnh con người chính là quay trở về".
Loi Phat day ve dieu y nghia nhat cua sinh menh con nguoi hinh anh
Ảnh minh họa
Câu chuyện sau đây sẽ là câu trả lời cho điều đó.   Năm 1921, Lewis Lawes trở thành giám đốc nhà tù nổi tiếng khủng khiếp ở Mỹ. Catherine, vợ của Lawes là một phụ nữ đặc biệt. Lúc Lawes tiếp quản nhà tù, Catherine vẫn còn khá trẻ dù họ đã có ba đứa con. Khi đó tình trạng trại giam khá hỗn loạn và nguy hiểm, ai cũng khuyên can, song họ không ngăn được bà thường xuyên đến đó.   Dường như bà không thấy có bất kì sự nguy hiểm nào khi đối diện với các tù nhân, mặc dù nhà tù nơi chồng bà cai quản nối tiếng về những tù nhân bất trị, đã phạm những tội ác đáng sợ.   Các tù nhân thường thấy bà đến, gương mặt bình thản, thân thiện, bà đẹp và dịu dàng, mỗi căn phòng nơi giam giữ các phạm nhân bà đều ân cần dừng lại, hỏi thăm, chia sẻ với họ đôi câu chuyện.   Một hôm, nhà tù tổ chức giải đấu bóng rổ, bà đưa 3 con nhỏ của mình đến xem, bà còn không ngần ngại ngồi xem trận đấu chung với các tù nhân. "Vợ chồng tôi đều rất quan tâm đến họ. Và tôi tin họ cũng sẽ quan tâm đến chúng tôi. Tôi không thấy có điều gì cần đáng lo cả." – Bà nói khi ai đó lo ngại cho bà.   Trong số tù nhân có một người mù, từng bị kết tội giết người, Catherine đã đích thân đến thăm anh ta. Bà cầm tay người tù hỏi:
 
– Anh có được học chữ dành cho người mù không?
 
– Người mù đọc chữ là sao, tôi không hiểu? – Anh ta trả lời.   Vậy là bà bắt đầu dạy anh ta chữ nổi. Nhiều năm sau, anh vẫn thường khóc mỗi khi nhắc đến bà.   Một người tù khác bị câm điếc, Anh không thể giao tiếp với mọi người. Thế là bà lặn lội đi học ngôn ngữ cử chỉ để về dạy cho anh. Trong gần 20 năm, bà thường xuyên lui tới nhà tù để giúp đỡ các tù nhân.   Nhưng không may, một ngày khi đang trên đường bà bị tai nạn giao thông và qua đời. Lawes phải lo đám tang cho vợ nên vắng mặt và một người khác đã tạm thời quản lý nhà tù thay ông.   Ngay lập tức, đã có chuyện không ổn xảy ra. Một đám đông tù nhân đã tập trung ở cổng lớn vào buổi sáng hôm mai táng Catherine, nhất định không chịu giải tán, trong đó có cả những tù nhân hung dữ với tội ác tày trời. Nhiều người trong số họ đã rơi nước mắt.   Hiểu được tình cảm họ dành cho Catherine, người quản trại tạm thời nói:
 
– Được rồi, các anh có thể đi tiễn Catherine, nhưng nhớ quay về trại trước khi trời tối.   Sau đó, ông ra lệnh mở cổng chính để tất cả tù nhân đến nhà Lawes nhìn mặt Catherine lần cuối. Không có bất kỳ giám thị nào đi theo họ cả. Dòng người xếp hàng ngay ngắn, đi bộ suốt gần một dặm đến nhà Lawes. Đêm ấy, họ trở về đông đủ, không thiếu một ai.   Mạnh Tử – Một học trò xuất sắc của Khổng Tử có câu: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nghĩa là bản tính nguyên sơ của mỗi người trong chúng ta đều là lương thiện. Thế nên chúng ta thường thấy mỗi đứa trẻ khi mới sinh ra đều đẹp tựa thiên thần.   Nhưng rồi trong dòng xoáy cuộc đời, trải qua bao năm tháng biến động, tranh đấu, bon chen, nhiều người trong họ có thể đã biến đổi thành tàn ác, xấu xa. Người đời cũng không ai muốn tôn trọng hay yêu mến họ nữa.   Vậy tại sao Catherine có thể đối xử với họ như thế? Tại sao bà không thấy sợ, khinh bỉ hay căm ghét những người đã phạm phải lầm lỗi đáng sợ hoặc đáng khinh.   Chẳng phải trong lòng bà không hề nghĩ chi đến những tội ác họ đã từng phạm phải, chẳng phải bà chỉ nhìn thấy ở họ một sinh mệnh vốn dĩ là lương thiện và bà tin rằng cái cội rễ ấy vẫn ở sâu thẳm trong tâm hồn họ và không bao giờ mất hẳn.   Chẳng phải bà hiểu rằng, không ai hoàn mỹ, ai cũng có thể mắc sai lầm. Có thể lớn, có thể nhỏ. Nhưng nếu chỉ nhìn vào sai lầm hay cái xấu của người khác thì trong tâm trí ta cũng chỉ tràn ngập bóng tối của những thứ xấu mà thôi. Và điều đó cũng không thể khiến họ tốt hơn hay khác đi.   Điều quan trọng hơn cả sự trả giá, là sự biết nhìn lại, nhận ra và "phản bổn quy chân", quay trở về với bản tính thuần thiện trong trẻo mà mỗi chúng ta đều đã từng có và có thể đã đánh mất trong những năm tháng đầy biến động của cuộc đời.   Nhà tù có thể giam giữ thân thể, nhưng bao dung và từ bi mới cứu chuộc được tâm hồn. Mới có thể thực sự đưa con người từ địa ngục trở về và thấu hiểu đến tận cùng giá trị của tình yêu thương, sự chân thành, tấm lòng lương thiện.   Những người tù ấy, vào buổi sáng trên con đường đến tiễn đưa Catherine, trong tâm hồn họ chẳng phải sẽ tràn ngập ánh sáng chiếu rọi từ thiên đường, nơi tình yêu, sự chân thành, nhân hậu mà bà đã dành cho họ. Và chẳng phải cái mầm thiện lành bà đã gieo vào tâm hồn họ trong những năm tháng bà còn sống, bằng những ân cần, trìu mến và bao dung ấy đã nảy nở và đơm hoa trong tâm hồn những con người tội lỗi.   Và ngay khi chẳng có quản ngục nào đi theo, chẳng có song sắt nào giam giữ thì chính sức mạnh vô hình ấy đã khiến họ không bao giờ làm điều xấu, đã không có tù nhân nào bỏ chạy. Bởi vì họ sẽ sống xứng đáng với sự từ bi, cao thượng mà bà dành cho họ.   Phật gia cho rằng: "Điều ý nghĩa nhất của sinh mệnh đời người chính là quay trở về, trở về với bản tính thuần chân nguyên sơ trong mỗi người." Và rằng, Chân – Thiện – Nhẫn là cội nguồn của những điều tốt đẹp..   Có Nhẫn mới có thể tha thứ, bao dung với lỗi lầm của người khác, có Thiện mới có thể đem điều tốt lành trao cho người khác, có Chân mới có thể làm mọi việc từ đáy lòng mà không giả tạo.   Hãy giữ gìn và vun xới hạt mầm tốt đẹp đó trong lòng mỗi con người, bởi vì không phải chính trị, tiền bạc, dầu mỏ, kim cương mà chính cội nguồn sâu thẳm tạo nên sinh mệnh và vũ trụ ấy mới có thể cứu rỗi thế giới này.

Theo daikynguyen
Hòa nhập mà không ô hợp - học Phật mà ứng vào đời Tập yêu thương theo phương pháp Phật dạy Vì sao sống thiện mà đời vẫn trắc trở?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật dạy về điều ý nghĩa nhất của sinh mệnh con người

Nếp nhăn mặt tiết lộ năng lực ẩn giấu của bạn

Bạn có nếp nhăn giữa hai phần lông mày như thế nào? Dưới đây là 3 nếp phổ biến sẽ tiết lộ cho bạn biết các tài năng phù hợp với bạn nhé.
Nếp nhăn mặt tiết lộ năng lực ẩn giấu của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nep-nhan-mat-tiet-lo-nang-luc-n-giau-cua-ban
nep-nhan-mat-tiet-lo-nang-luc-n-giau-cua-ban-1
nep-nhan-mat-tiet-lo-nang-luc-n-giau-cua-ban-2

Mộc Trà (theo Quizz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nếp nhăn mặt tiết lộ năng lực ẩn giấu của bạn

Quẻ Quan Thế Âm Đào Chu Quy Ngũ Hổ

Quẻ Quan Thế Âm Đào Chu Quy Ngũ Hổ có bắt nguồn như sau: Đào Chu là Phạm Lãi, ông tổ của thương nhân Trung Quốc, người đời gọi là "Đào Chu Công".
Quẻ Quan Thế Âm Đào Chu Quy Ngũ Hổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Năm mươi trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Đào Chu Quy Ngũ Hổ (còn gọi là Đào Chu Trở Về Ngũ Hổ ). Quẻ Quan Thế Âm Đào Chu Quy Ngũ Hổ có bắt nguồn như sau:

Đào Chu là Phạm Lãi, ông tổ của thương nhân Trung Quốc, người đời gọi là “Đào Chu Công”. Phạm Lãi (khoảng 536 tr.CN – khoảng 448 tr.CN), tự Thiếu Bá, là người lũng Tán Hộ, ấp Uyển, nước Sở. ông xuất thân bần hàn, nhưng lại thông minh lanh lợi, từ khi còn trẻ đã đọc nhiều sách vở, có nhiều tài trí, văn võ song toàn, không gì không tinh thông. Nhưng dù có tư chất của bậc thánh nhân, nhưng ở nước sở lúc này tầng lớp quý tộc chuyên quyền, nền chính trị rối loạn, Phạm Lãi không được người đời biết đến.

Năm Chu cảnh Vương thứ 24 (năm 496 tr. CN), nước Ngô và nước Việt xảy ra cuộc chiến tranh Huề Lý, Ngô Vương Hạp Lư chết trận, hai nước vì thế mà kết oán, chiến tranh liên miên suốt mấy năm liền không dứt. Sau hai năm, con trai của Hạp Lư là Phù Sai, để báo thù cho cha, đã quyết chiến với nước Việt ở Phù Tiêu. Việt Vương Câu Tiễn đại bại, chỉ còn lại năm nghìn binh sĩ, trốn vào núl cối Kê. Trong lúc Câu Tiễn cùng đường tuyệt lộ, Phạm Lãi đã đến nước Việt, dâng kế sách “dùng lời lẽ khiêm nhường và lễ vật trọng hậu, cầu xin nước Ngô để bảo tồn nước Việt”, ông đã nói với Câu Tiễn về suy đoán của mình: “nước Việt ắt hưng thịnh, nước Ngô ắt bại vong”, lại dâng sách lược khuyên Câu Tiễn “hạ mình phụng sự Ngô Vương, để mưu tìm cơ hội chuyến biến”. Câu Tiễn chọn dùng kế sách của ông, lại bái ông làm Thượng đại phu. Phạm Lãi cũng cùng với vợ chồng Câu Tiễn làm nô bộc ở nước Ngô trong ba năm.

Ba năm sau, Việt Vương trở về nước Việt, Phạm Lãi và Văn Chủng liền đề ra “chín thuật làm nước Việt hưng thịnh và làm nước Ngô diệt vong”. Để thực thi “chiến lược tiêu diệt nước Ngô”, họ đã sử dụng “mỹ nhân kế” là một trong chín thuật, Phạm Lãi đích thân trèo non lội suối tìm kiếm, đến tận sông Cán Sa ở núi Trữ La, tìm được người kỳ nữ tài đức song toàn, nhan sắc tuyệt luân là Tây Thi. Rồi dâng Tây Thỉ cho Ngô Vương, trong ngoài liên kết, cuối cùng giúp cho Câu Tiễn thực hiện được mục đích tiêu diệt nước Ngô. Phạm Lãi túc trí đa mưu, phò tá Việt Vương Câu Tiễn hoàn thành bá nghiệp, nhưng khi “Ngô Vương bỏ thân ở núi Dư Hàng, Việt Vương mở tiệc ờ đài Cô Tô, ông lập tức từ bỏ quan lộc, chỉ mang theo một lượng nhỏ châu báu, lên thuyền đi xa, một đi không trở lại.

Sau khi rời khỏi nước Việt, Phạm Lãi từ nước Tề viết thư cho Văn Chủng, nói rằng: “Con chim đã bắn được rồi, cây cung sẽ phải cất đi. Con thỏ tinh ranh đã bắt được rồi, chó săn sẽ bị làm thịt. Việt Vương là người thâm hiểm, nhiều mưu kế, có thế cùng chung hoạn nạn nhưng không thể cùng hưởng lạc. Sao ông còn không mau rời đi?” Văn Chủng nhận được thư bèn cáo bệnh, không vào triều, nhưng cuối cùng vẫn không thoát khỏi mệnh vận bị Việt Vương ban cho tội chết. Phạm Lãi đã đến nước Tề, thay đối họ tên, mang theo con cái và thuộc hạ, làm nhà cỏ ven biển để ở. ông khai hoang canh tác, làm thêm nhiều nghề, kinh doanh buôn bán, chỉ vài năm sau, đã tích lũy được lượng gia sản khổng lồ.

Phạm Lãi trọng nghĩa khinh tài, làm nhiều việc thiện cho quê hương, rất được người Tề ngưỡng mộ, vì thế Tề Vương mời ông vào kinh đô, phong làm Tướng quốc, chủ trì việc triều chính, ông thở dài: “Làm quan đến chức khanh tướng, trị gia đến mức có được nghìn vàng; đối với một kẻ áo vải tay trắng mà làm nên gia nghiệp, như thế đã đến cực điểm rồi. Cứ mãi hưởng tôn quý, e rằng không phải là điềm tốt lành.” Vì thế chỉ làm Tể tướng ba năm, ông lại lui về ở ẩn, trao lại ấn tướng cho Tề Vương, phát tán hết gia sản cho bạn bè và đồng hương. Đi đến đất Đào, Phạm Lãi thấy đây là con đường quan trọng cho việc buôn bán, có thể dựa vào đó mà làm giàu, vì thế ở lại đất này, tự xưng là “Đào Chu”. Ông buôn bán các vật phẩm theo thời, không lâu sau, lại trở nên giàu có.

Xem bói Quẻ Quan Thế Âm Đào Chu Quy Ngũ Hổ là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 50

Quẻ này là tưựng chèo thuyền thuận gió.
Những việc mong cầu đều rất thuận lợi tốt đẹp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Đào Chu Quy Ngũ Hổ

Mưa bụi và mưa rào

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu chuyện thứ nhất:

Người đệ tử vì không câu nệ, không chú ý đối với các tình tiết và các chi tiết nhỏ trong đối nhân xử thế, tự nhận thấy rằng những tình tiết nhỏ ấy không quan trọng, không liên can và đáng kể gì.

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

“Đương nhiên là mưa rào rồi ạ!” Người đệ tử nhanh nhảu đáp.

“Nhưng mà trong cuộc sống, dễ dàng làm ướt quần áo người ta lại là mưa bụi chứ lại không phải mưa rào đâu.” Vị thiền sư nói.

“Mưa rào hạt mưa nặng hạt, còn mưa bụi phất phất nhẹ bay, sao có thể dễ dàng làm ướt quần áo được ạ?” Người đệ tỏ vẻ khó hiểu.

“Bởi vì một khi nếu trời đổ mưa to, mọi người sẽ nhanh chóng cảnh giác hơn, người mang theo dù sẽ liền mở dù lên che mưa, người không mang theo dù sẽ liền trú mưa dưới những mái hiên. Nhưng nếu chỉ là mưa bụi, mọi người sẽ khó có cảm giác thấy ướt ngay, hoặc là có cảm thấy thì cũng không can chi, cho rằng chỉ lất phất vài hạt mưa nhỏ không đủ làm ướt quần áo, thế là họ cứ tự để mình đi trong mưa như thế, bất tri bất giác – như thể không hề hay biết, không hề cảm nhận thấy kẽ hở, cứ để hạt mưa lâm li thấm ướt hết cả quần áo.”

Người đệ tử im lặng, đăm chiêu.

Vị thiền sư giảng: “Trong đối nhân xử thế, lời nói và cử chỉ của chúng ta ví như một cử chỉ của tay, một cái nhấc chân, một hành động biểu đạt tình cảm hay một câu nói…những điều này đều giống như hạt mưa bụi nhỏ bé kia, nhìn thì rất nhỏ, nhưng nếu không để tâm chú ý, không thận trọng cảnh giác sẽ trở thành sơ hở vô ý hay cố ý mà làm ướt ‘quần áo’ của người khác”, tổn thương và phương hại người khác, đồng thời cũng là nguyên do ‘ướt’ sang cuộc đời của chính mình, khiến cuộc đời của mình phải chịu tối mờ, nan khó và tổn thất.”

Người đệ tử cuối cùng đã thấu hiểu vì sao mưa bụi lại dễ dàng làm ướt được quần áo của mọi người, là bởi vì người ta đã buông lỏng cảnh giác đối với mưa bụi.

Cảm ngộ: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” –  Nghĩa là “Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà phạm. “Vô lậu phương vi nhân sinh chi viên mãn” – đời người mà thực hiện tới được các phương đều vô lậu không rò rỉ, không kẽ hở ấy chính là đi đến cảnh giới của viên mãn.

Câu chuyện thứ hai:

Có một khoảng thời gian người đệ tử cảm thấy cuộc sống sao mà thống khổ, thậm chí phiền não. Vị thiền sư dẫn người đệ tử đến một mảnh đất rộng mênh mông bốn bề không gian khoáng đãng, rồi hỏi: “Con hãy ngước nhìn lên phía trên đầu con, con nhìn thấy gì nào?”. “Thiên không (Bầu trời)” Đệ tử đáp.

Vị thiền sư lại nói: “Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng ta lại có thể dùng một bàn tay che khuất được cả bầu trời đấy!”

Người đệ tử không nghĩ ra cách nào tin nổi. Chỉ nhìn theo vị thiền sư dùng một bàn tay và che kín lên hai mắt của đệ tử, rồi hỏi: “Con bây giờ có còn trông thấy bầu trời nữa không?”

Tiếp theo vị thiền sư hướng vào trọng điểm câu chuyện nói tiếp: “Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này, nhìn bàn tay thì thấy quả nhiên nó rất nhỏ, nhưng nếu không bỏ nó xuống, luôn cứ kéo nó lại gần mà nhìn, cứ mang nó đặt ở trước mắt mình, gác nó ở trong đầu và trong tâm tưởng, chính là sẽ giống như cái bàn tay này vậy, che khuất hết cả bầu trời thanh trong và quang đãng của chúng ta. Thế là, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất ánh thái dương của cuộc đời, bỏ lỡ mất bầu trời màu xanh trong, lỡ nhịp những áng mây ngũ sắc cùng ráng mầu rực rỡ mỹ lệ.”

Người đệ tử cuối cùng đã hiểu rõ căn nguyên gốc rễ nỗi thống khổ của mình.

Cảm ngộ: Đau khổ hay vui vẻ đều là do tự mình lựa chọn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mưa bụi và mưa rào

Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Cung mệnh có sao Tuần thì tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm. Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp, sinh bất phùng thời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Loại: Ám tinh

Đặc Tính: Sự trắc trở, dai dẳng, xoay trở bao giờ cũng chậm chạp.

Là một Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Tuần Trung Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Mệnh:

Tuổi trẻ lận đận, nghèo, cực, bôn ba, đau ốm.

Có thể mồ côi sớm hay sớm ra đời để lập nghiệp.

Sinh bất phùng thời.

Nếu vô chính diệu có Tứ hay Tam Không thì làm nên danh phận nhưng không bền, tuổi niên thiếu vất vả.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mất sớm, nhất là nếu Nhật, Nguyệt lạc hãm hay bị Không Kiếp chiếu. Cần cân nhắc với hai sao Nhật, Nguyệt và cung Phụ mẫu có Tuần, Triệt.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Phúc Đức:

Phúc đức bị trục trặc trên phương diện nào đó.

Triệt, Dương: Dòng họ thất tự, phải lập con nuôi.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Quan Lộc:

Công danh lận đận, khó nhọc mới làm nên.

Phải chịu vất vả trong một thời gian.

Thiên Tướng, Triệt, Tuần: Có thể bị bãi chức, hay bị tai nạn trong công vụ.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Nô Bộc:

Tuần ở cung này có nghĩa tôi tớ thay đổi, ra vào luôn, không ai ở lâu dài.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Tật Ách:

Rất cần có sao Tuần, Triệt tại cung Tật Ách vì nhờ hai sao này mà bệnh, tật và họa sẽ tiêu tán hay giảm thiểu đi rất nhiều. Sức khỏe và may mắn sẽ được bảo đảm nhiều hơn.

Ý Nghĩa sao Tuần Ở Cung Điền Trạch, Tài Bạch:

Sao Tuần ở hai cung Điền Trạch, Tài Bạch có thể có nhiều nghĩa:

Không có tài sản, hoặc chỉ có trong một giai đoạn nào đó.

Làm ra của nhưng phải chật vật.

Không được hưởng di sản tổ phụ.

Không có của để lại cho con.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Tử Tức:

Sát con, nhất là con đầu lòng.

Sinh con đầu lòng khó khăn, khó nuôi.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Phu Thê:

Sao Tuần ở cung này tiên quyết nói lên sự trắc trở hôn nhân, nhất là sự thất bại của mối tình đầu.

Lấy người khác làng, khác tỉnh mới tốt, nhưng nhân duyên phải gặp khó khăn.

Tuần gặp Mã: Vợ chồng bỏ nhau rất dễ dàng.

Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em xung khắc hoặc ít anh chị em.

Anh cả, chị cả mất sớm.

Sao Tuần Khi Vào Các Hạn

Nếu gặp sao sáng sủa thì hạn lại mờ ám, mưu sự trắc trở, thất bại.

Nếu gặp sao xấu xa thì hạn được sáng sủa, dù có gặp trắc trở ban đầu.

Đặc biệt cung Hạn gặp Tuần rất đáng lưu ý vì sao này có hiệu lực mạnh ở các đại, tiểu hạn.

Tóm lại, Sao Tuần là sao hết sức quan trọng, chi phối các cung, các sao, biến tốt thành tương đối xấu, biến xấu thành tương đối tốt, Hiệu lực nghịch đảo đó có thể làm lạc hướng luận đoán nếu sự cân nhắc không tinh vị.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tuần Không - Chủ sự chắc trở, chậm chạp

Dấu hiệu nhận biết người chết yểu và người sống thọ

Một số người quan niệm “Sống chết có số”, vậy “số” của bạn là thọ hay là yểu? Nhân tướng học đã phân tích một số dấu hiệu nhận biết người sống thọ và người
Dấu hiệu nhận biết người chết yểu và người sống thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một số người quan niệm “Sống chết có số”, vậy “số” của bạn là thọ hay là yểu? Nhân tướng học đã phân tích một số dấu hiệu nhận biết người sống thọ và người chết yểu, bạn có thể tham khảo.

  Người sống thọ có tướng người như sau:
 
- Lông mày, râu và tóc nhanh dài, lúc về già mà dài thì càng tốt. Trừ trường hợp dưới 30 tuổi mà lông mày đột nhiên dài ra một cách bất thường thì nên coi chừng dấu hiệu yểu mạng.
 
– Tai có Luân Quách rõ ràng, lớn và dầy, rắn chắc, sắc tươi nhuận.
 
– Sống mũi (Phần Niên thượng, Thọ thượng) đầy và có thịt.
 
– Nhân trung sâu và rộng.
 
– Răng chắc.

Dau hieu nhan biet nguoi chet yeu va nguoi song tho hinh anh
Người sống thọ thường có tiếng nói rõ ràng, vang dội
– Tiếng nói rõ ràng, vang dội.
 
– Thần khí sung túc.
 
– Cổ phía dưới có thêm lớp da trễ xuống vai ( trường hợp khi người đứng tuổi và mập ).
 
– Nếu là lộ hầu thì âm thanh phải trong trẻo và cao.
 
– Xương Lưỡng quyền vững vàng và ăn thông lên ngang phía.
 
– Xương hai bên đầu phía trên và sau tai nổi cao rõ rệt.
 
– Ngũ nhạc đầy đặn và đúng cách tục.
 
– Đến tuổi trung niên ( khoảng ngoài 30 tuổi ) Tai mọc lông dài hoặc lông mày bắt đầu mọc dài và sắc thái tốt.
 
– Lưng rộng, bụng dầy.
 
Người có đầy đủ tất cả các điều kiện kể trên chắc chắn là tướng trường thọ trong trường hợp bình thường
 
Người chết yểu có tướng người như sau:

– Lông mày đẹp về hình thức nhưng hỏng về thực chất (chẳng hạn sợi thô vàng, sắc khô héo), lông mày mọc xệ xuống phía dưới mi cốt, dáng vẻ lạnh lẽo.
 
– Tai nhỏ, úp xuống phía trước mặt, tai quá mềm và sắc không xạm, tai quá mỏng, nhĩ căn bạc nhược.
 
– Mũi gãy khúc, Sơn căn gập xuống, Chuẩn đầu nhỏ nhọn, khiến mũi trở thành liệt thế.
 
– Đầu nhỏ, cổ dài, trán nhỏ nhọn và nổi gân xanh, thiếu niên có dáng đi hoặc ngồi co đầu rụt cổ.

Dau hieu nhan biet nguoi chet yeu va nguoi song tho hinh anh 2
Tai nhỏ, úp xuống là tướng người chết yểu
– Nhân trung ngắn nông cạn.
 
– Tiếng nói đứt đoạn, giọng nói gấp mà hời hợt như người thiếu hơi, âm điệu buồn tẻ như người không có sinh khí.
 
– Ánh mắt đờ đẫn như kẻ si ngốc hoặc người ngái ngủ, ngồi thì lưng như gục ngã, đứng nhìn thì chân không có gân cốt, đi thì thân hình xiêu vẹo, bước chân thiếu vững vàng.
 
Tất cả những dấu hiệu trên đều là biểu hiện của bệnh “Thần thái suy nhược” nên không thể nào sống quá 50 tuổi. Bởi lẽ đó, có người tuy về hình tướng rất đẹp đẽ phương phi mà chết yểu chỉ vì khí chất không tương xứng.
 
Ngoài ra, cũng có một số dấu hiệu giúp ta dễ dàng nhận biết người có số chết yểu như sau:
 
-  Chết yểu trong vòng 10 tuổi trở lại : Đầu và trán nhỏ quá mức so với thân mình, trán nổi gân xanh quá rõ rệt, phía sau đầu xương bị lõm xuống.
 
- Chết yểu trong vòng 20 tuổi trở lại : Tác người lớn con mà đầu lại nhỏ bé cộng thêm với tiếng nói quá nhỏ là tướng khó sống qua năm 15 tuổi. Tai mỏng như giấy, nhĩ căn bạc nhược, da mỏng và bóng như bôi dầu khó vượt qua quãng 16, 19 tuổi, Mắt lồi mà lòng đen ít, lòng trắng nhiều, nhĩ căn xạm đen, tai mỏng và hướng về phía trước, khó sống qua tuổi 20.
 
- Chết yểu trong vòng 30 tuổi : Lông mày ngắn, mặt ngắn không thọ quá 25 tuổi. Mày thưa thớt, xâm phá Án đường, mắt không có thần, môi xám đều là tướng đoản thọ trong vòng 26 tuổi. Mắt nhỏ, quyền thấp, xương thô, thịt teo mà hạ đình quá dài nhọn: không quá 27 tuổi. Lông mày giao nhau mà mắt thoát thần, môi vẩu mà môi trên lại ngắn, da mặt quá mỏng đều là tướng khó sống được quá 30 tuổi.
 
- Chết yểu trong vòng 40 tuổi : Mắt lồi, lông mày ngắn, mà đại các quá dài không tương xứng với khuôn mặt khó sống qua 32 tuổi. Mắt thì lúc như lộ chân quang, lúc thì lại như chìm xuống. Lông mày vừa thô vừa ngắn lại thêm hạ đình dài hẹp: không quá 34 tuổi. Mắt lộ mà lộ hầu, xương nhỏ mà người mập: không quá 36 tuổi. Mắt lộ hung quang hừng hực, tính tình thô bạo thì dẫu mũi cao, sơn căn không gẫy khúc thì cũng chỉ đến năm 39 tuổi khó tránh được số trời.
 
- Tướng mạng vong trong khoảng 50 tuổi : Sống mũi không ngay ngắn (có chiều hướng lệch sang bên trái hay bên phải ) ít khi sống quá 42 tuổi. Mắt nhỏ, mày co rút lại không tương xứng với khuôn mặt, sơn căn lại đầy đặn thường sống đến khoảng 42, 44 tuổi. Bắt đầu phát phì mà thần khí lại có vẻ co rút thì khó qua được tuổi 49 và 50.
 
► Khám phá tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác

Theo Xemtuviso
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dấu hiệu nhận biết người chết yểu và người sống thọ

Luận về Cô Thần-Quả Tú

Cô Thần với Quả Tú là hai sao đi cặp (đối tinh). Hai sao trên không bao giờ xuất hiện ở Mão Dậu và Tí Ngọ, doanh trại cố định của Đào Hoa. Nhưng theo thế tam hợp nó vẫn gây ảnh hưởng cho các sao ở Tí Ngọ Mão Dậu.
Luận về Cô Thần-Quả Tú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cô Thần Quả Tú đều chủ về hình khắc cô đơn, phân ly. Nó tác động mạnh đối với các cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử tức. Nhưng khi Cô Thần vào cung Phúc Đức thì cá tính mạnh mẽ thích tự lập, không dựa dẫm, tùy thuộc.

Cô Thần vào Điền Trạch được kể là tốt đẹp, dễ gầy dựng cửa nhà. Nhưng Quả Tú có ảnh hưởng vào cung phối ngẫu hơn Cô Thần vì có những cung vị chỉ chịu ảnh hưởng xung chiếu của một trong hai sao này. Phu Thê mà có những sao này mang tính phù động như Thiên Cơ, Cự Môn gặp Quả Tú vợ chồng khó ở, khó gần nhau.

Quả Tú vào Phụ Mẫu, mà Mệnh Thân lại thấy Thái Âm, Hóa Kị ắt xảy đến tình trạng “tùy nương cải giá” nghĩa là có bố dượng. Quả Tú đứng với Vũ Khúc ở cung phối ngẫu vợ chồng càng dễ hình khắc phân ly vì lý do chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng muốn lấn quyền.

Hồng Loan đứng với Cô Quả chuyện hình khắc phân ly nặng hơn có thể sát hại.

Hồng Loan Cô Quả chẳng hay
Quả phu có kẻ tháng ngày cô đơn


Hóa Lộc, Lộc Tồn có thể làm giảm ảnh hưởng của Quả Tú được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Cô Thần-Quả Tú

Ngày nên làm lễ cầu chữa bệnh –

1. Tuổi và ngày nên làm lễ cầu, gặp thầy chữa bệnh Tuổi Ngày làm lễ cầu Tuổi Ngày làm lễ cầu Tý Tị - Hơi Ngọ Tị - Hơi Sửu Tý - Ngọ Mùi Tý - Ngọ Dần Sửu - Mùi Thân Sửu - Mùi Mão Dần - Thân Dâu Dần - Thân Thìn Mão - Dậu Tuất Mão - Dậu Tị Thìn - Tuất H

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

taduocsuchuabada-19_1

1. Tuổi và ngày nên làm lễ cầu, gặp thầy chữa bệnh

Tuổi

Ngày làm lễ cầu

Tuổi

Ngày làm lễ cầu

Tị – Hơi

Ngọ

Tị – Hơi

Sửu

Tý – Ngọ

Mùi

Tý – Ngọ

Dần

Sửu – Mùi

Thân

Sửu – Mùi

Mão

Dần – Thân

Dâu

Dần – Thân

Thìn

Mão – Dậu

Tuất

Mão – Dậu

Tị

Thìn – Tuất

Hợi

Thìn – Tuất

2. Cách thức cầu xin

a. Lễ: Bắt buộc phải có vàng hương, hoa quả, trầu, nước, bài vị.
b. Bài vị giấy vàng ghi: Thái Âm Nguyệt Đức Tiên Giáng Hạ.
– Khấn: Ngày tháng, tên bệnh nhân, địa chỉ… Cung thỉnh Thái Âm Nguyệt Đức tiên bà Giáng Hạ xin cho (tên bệnh nhân) được …. (tuỳ ý cần xin).
Nên làm lễ ngoài trời vào lúc 19 giờ đến 21 giờ, quay mặt hướng chính Tây mà cầu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày nên làm lễ cầu chữa bệnh –

Ứng dụng phong thủy để tăng doanh thu

Đồng tiên xưa của Trung Quốc, đặc biệt là tiền thời vua Càn Long nhà Thanh, đem lại rất nhiều công dụng trong việc thực Hành phong thuỷ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tăng doanh thu bằng ba đồng tiền may mắn



Đồng tiên xưa của Trung Quốc, đặc biệt là tiền thời vua Càn Long nhà Thanh, đem lại rất nhiều công dụng trong việc thực Hành phong thuỷ. Tuy nhiên, những đồng tiền này rất hiếm, vì vậy bạn có thể sử dụng những đồng xu khác để vận dụng Phong thuỷ trong việc mang lại tài lộc và sự may mắn cho bản thân. Trước khi sử dụng, bạn nên rửa sạch những đồng xu này bằng Nước muối, để loại bỏ năng lượng âm còn sót lại.

Cách tốt nhất để sử dụng những đồng xu là xâu lại thành một Đường thẳng, mặt dương hướng lên trên, sau đó dán chúng lên hộp đựng tiền, để thu hút tiền bạc. Ngoài ra, bạn có thể dán ba đồng xu vào bên trong máy thu tiền hoặc trên bìa sổ ghi hoá đơn. Theo phong thuỷ, đây là cách hữu hiệu nhất để tăng doanh thu trong kinh doanh, buôn bán.

Tăng doanh thu bằng tiếng chuông ngân


Theo quan niệm trước đây, chuông ngân mang ý nghĩa báo hiệu tin mừng. Vì thế, tiếng chuông ngân được xem là biểu tượng mang lại may mắn và tài lộc. Đối với những người buôn bán treo dãy chuông nhỏ bằng kim loại trong cửa hàng sẽ tạo ra năng lượng luân chuyển năng động. Và mỗi khi có khách bước vào, chuông sẽ ngân vang như chào đón người mang đến vận may nhằm tăng doanh thu của cửa hàng. Phương pháp này rất có hiệu quả đối với những cửa hàng bán đồ dùng Cá nhân như nữ trang, quần áo và Trang phục phụ nữ …

Chuông có thể làm bằng bất cứ loại kim loại nào, đồng thời có thể buộc bằng dây ruy-băng để kích hoạt năng lượng dương nâng cao hiệu quả. Trong phong thuỷ, treo sáu hoặc bảy cái chuông là lý tưởng nhất.



Có hai phương pháp treo chuông ở cửa như sau:

- Treo chuông vào tay nắm cửa ở phía ngoài của cửa hàng.

- Treo chuông ở phía trên cửa sao cho mỗi khi mở cửa, chuông sẽ ngân lên.


Bạn có thể treo chuông có kích cỡ nhỏ ở bên trong cửa hàng, dọc theo tường phía Tây, Tây Bắc hoặc đối diện trực tiếp với cửa vào, hay treo cao lên trần nhà để thu hút khí thịnh vượng vào cửa hàng. Bạn không cần quá chú ý đến kiểu dáng của những cái chuông, điều quan trọng là sự hiện hữu của nó thông qua tiếng chuông ngân lên thánh thót trong không gian để kích hoạt năng lượng tốt vào trong công việc buôn bán.


Gương: biểu tượng tăng gấp đôi


Những thương nhân Trung Quốc trước đây rất thích lắp những tấm gương lớn ở bên trong cửa hàng. Trong phong thuỷ, điều này không những đem lại ý nghĩa làm tăng gấp đôi các sản phẩm và tượng trưng cho sự buôn bán phát đạt của cửa hàng, mà còn tạo ra một khối lượng năng lượng dương rất lớn. Bởi vì, nó làm tăng gấp đôi các hành động của cửa hàng. Ngoài ra, họ còn gắn gương để phản chiếu máy thu ngân với mong muốn tăng doanh thu lên gấp đôi.


Khuyếch đại năng lượng chủ về kinh doanh phát đạt



Dùng gương là cách tốt nhất để khuyếch đại tất cả năng lượng tích cực trong kinh doanh. Bạn có thể dùng gương bọc các cột và tủ, lắp đặt gương trên tất cả các bức tường quanh cửa hàng, ngoại trừ bức tường đối diện với cửa ra vào. Bằng cách này, tất cả sản phẩm trưng bày trong cửa hàng và khách hàng đều được phản chiếu nhân đôi, cũng có nghĩa là tăng gấp đôi doanh thu.

(Sưu tầm)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng phong thủy để tăng doanh thu

Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu

Tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu có quan hệ Lục Xung bất hòa, vận trình cần đề cao cảnh giác.
Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu có quan hệ Lục Xung bất hòa, vận trình cần đề cao cảnh giác. Công việc bất ổn, bên ngoài có nhiều lời mời gọi khiến lãnh đạo nghĩ bạn không chuyên tâm, thay lòng đổi dạ.



Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc
 
Người tuổi Dậu bước vào tháng Tân Mão quan hệ Lục Xung bất hòa, vận trình cần đề cao cảnh giác. Công việc bất ổn, bên ngoài có nhiều lời mời gọi khiến lãnh đạo nghĩ bạn không chuyên tâm, thay lòng đổi dạ.

Lời khuyên: Nếu có điều kiện, bạn nên dùng đồ phong thủy may mắn cát tường để hưng thịnh vận trình, phối hợp với vị Bồ Tát, Chư Phật tọa mệnh để cầu bình an, gia trạch, sự nghiệp thuận lợi. Bạn nên tập trung xử lý công việc của mình, không nên quá coi trọng đồng tiền, thu nhập, càng nên tránh để tâm tới các trò giải trí vô bổ. Tháng bản mệnh rơi vào quan hệ Lục Xung nên sự nghiệp, gia trạch đều sẽ xuất hiện biến động, tuy vậy mọi chuyện không quá hung hiểm.

BIỂU ĐỒ TỬ VI THÁNG 2

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 2
 
CÔNG VIỆC


Theo tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu, mặt công việc phát sinh nhiều yếu tố bất ngờ, nếu bạn không xử lý khéo lẽo rất dễ gặp phải rắc rối. Có nhiều việc bạn không nên chỉ nghĩ mà không làm, chần chừ sẽ mất đi cơ hội của mình. Thời gian rảnh thì nên học tập các kỹ năng mới làm nền tảng cho sự nghiệp phát triển sau này.

Người làm ăn dù dám dũng cảm đương đầu khó khăn nhưng không được hấp tấp. Nhưng vì nên tảng sự nghiệp chuẩn bị chưa chắc, lại phát sinh nhiều biến động bất ngờ nên dễ gặp thất bại.

TÀI LỘC


Mặt tài lộc, nhờ Bính Hỏa khắc Tân Kim mà tình hình tài chính của người tuổi Dậu rất khả quan. Chính tài ổn định, chi tiêu không bị phát sinh nên có thể coi khá cân bằng. Bệnh Phù hung tinh khiến bạn chi tiêu nhiều tiền vào mặt sức khỏe. Tốt nhất bạn lên lịch đi khám sức khỏe định kỳ, đừng để tới lúc bệnh tình nặng mới đi chữa thì tài lộc còn bị thất thoát nhiều hơn.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 3
 
TÌNH CẢM


Vận đào hoa đáng để hi vọng, đặc biệt trong thời gian nghỉ ngơi Tết cổ truyền, những người tuổi Dậu độc thân về thăm nhà còn gặp gỡ được nhiều mối nhân duyên mới mẻ. Sự mạnh dạn của bạn sẽ đem tới nhiều buổi gặp gỡ hẹn hò. Tuy vậy quan hệ Lục Xung làm bạn không được thoải mái. Người đã có gia đình nên xem lại quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Bạn nên dành thời gian bên con hơn là chìm đắm vào mối quan hệ hai người.

SỨC KHỎE

Theo tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu, sức khỏe không được tốt, quan hệ Lục Xung tiềm tàng nhiều hiểm nguy đe dọa. Đặc biệt dân văn phòng vì dùng quá nhiều thời gian vào màn hình máy tính nên nguy cơ cận thị hoặc tăng độ cận rất cao. Ngoài ra, do thường xuyên ăn uống thất thường, giờ giấc làm việc quá khuya cũng khiến cơ thể mệt mỏi. Bệnh Phù tinh cũng là lý do để bạn đi lại cẩn thận trên đường, tránh va chạm không đáng có và đề phòng bệnh cũ tái phát.

Nhìn chung, trong tháng Tân Mão vận trình của bản mệnh Dậu lên xuống bất định, lại thiếu cát tinh trong cung mệnh nên mọi việc không thông suốt, công việc khó khăn khiến bạn chỉ biết than vãn. Một bộ phận tuổi Dậu sẽ có sự thay đổi trong công việc, môi trường làm việc và đồng nghiệp mới khiến bạn đau đầu trong việc thích ứng.

Xem tu vi thang Hai cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 4
 
=> Theo dõi: Tử vi hôm nay của bạn được cập nhật nhanh chóng, chính xác

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Hai của người tuổi Dậu

Chân bị tật với giấc mơ thấy chó và ngựa –

Sách Thái Bình quảng ký có chép: Có một người tên gọi là Chu Thiếu Khanh, đến Thành Đô trọ. Đêm Chu Thiếu Khanh nằm mơ thấy có người gọi lanh lảnh thì giật mình tỉnh dậy, thấy xung quanh không có động tĩnh gì lại nằm xuống ngủ. Giấc mơ lại đến. Lần n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Thái Bình quảng ký có chép:

Có một người tên gọi là Chu Thiếu Khanh, đến Thành Đô trọ. Đêm Chu Thiếu Khanh nằm mơ thấy có người gọi lanh lảnh thì giật mình tỉnh dậy, thấy xung quanh không có động tĩnh gì lại nằm xuống ngủ. Giấc mơ lại đến. Lần này Chu Thiếu Khanh mơ thấy có một người cầm một quyển sách nói:

mơ thấy chó và ngựa

–      Chu Thiếu Khanh quả nhiên ở đây!

Chu Thiếu Khanh nói:

–      Họ như nhau, nhưng Thiếu Khanh không phải là tôi.

Người nọ cuộn quyển sách chỉ để lộ một dòng có ba chữ Chu Thiếu Khanh.

Lúc đó có một người cưỡi ngựa từ ngoài vào và gọi:

–      Chu Thiếu Khanh, ra mà lấy này.

Chu Thiếu Khanh nhìn ra thì thấy con ngựa không có chân trước, đi khập khiễng trông rất khổ sở.

Chu Thiếu Khanh giật mình tỉnh dậy, sau đó vẫn bị giấc mơ ám ảnh. Quả nhiên không lâu hai chân của anh bị thương, phải cưa đứt.

Một nhà khoa học Mỹ đã thể nghiệm sâu sắc điều này. Ông cùng với một người bạn đốn cây trong rừng, cả hai người đều nằm mơ thấy chân của họ bị cụt một nửa. Hôm sau hai người kể chuyện này cho nhau nghe, họ chẳng biết có điều gì xảy ra, quyết định không đi làm nữa. về sau mọi việc xảy ra đúng như những điều đã mơ thấy.

Một số nhà y học và tâm lí học hiện đại sau khi nghiên cứu số mệnh con người đã đi đến kết luận:

Những bệnh sinh ra ở bộ phận chân con người đều liên quan đến hình ảnh chó hoặc ngựa trong giấc mơ. Trong giấc mơ nếu chó và ngựa gãy chân thì con người cũng thế.

Các số liên quan đến giấc mơ:

Chó đẻ: 51 – 91

Bắt rận cho chó: 93 – 83

Chó cắn chảy máu: 98 – 99

Chó cắn đuổi: 58 – 38

Chó cắn: 29 – 92 – 93

Chó đẻ: 51 – 91

Chó đến nhà: 93 – 98

Chó đen: 94 – 68

Con chó con: 48 – 49

Con chó nhật: 76

Con chó: 29 – 59 – 95

Đàn chó: 36 – 63

Hai con chó: 96 – 94

Con ngựa: 12 – 52 – 72

Ngựa: 01 – 62


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chân bị tật với giấc mơ thấy chó và ngựa –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd