Những điều cấm kỵ khi xem tướng –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Xem giờ sinh tuổi Dậu: Người tuổi Dậu sinh giờ Thìn có vận số tốt, vật chất dư giả, quyền cao chức trọng, tuy có lúc gặp thất bại nhưng tổn thất không lớn. Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Dậu.
![]() |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nhất Bạch tinh: Trân châu, kim cương.
Nhị Hắc tinh: Đá opal (màu vàng nhũ)
Tam Bích tinh: Đá lục bảo, đá phỉ thuý, đá Thồ Nhĩ Kỳ, hố phách.

Tứ Lục tinh: Phỉ thuý, đá lam bảo.
Ngũ Hoàng tinh: Đá mắt mèo, đá hoàng bảo.
Lục Bạch tinh: kim cương , vàng trắng, thuỷ tinh.
Thất Xích tinh: San hô (màu vàng nhũ)
Bát Bạch tinh: Ngọc, đá thạch lựu, đá ấn Độ.
Cửu Tử tinh: Đá hồng bảo, mã não, thuỷ tinh tím.
|
| (Ảnh minh họa) |
Tuy nhiên, ảnh hưởng của năng lượng vòng tròn sẽ tùy thuộc vào tốc độ của xe cộ lưu thông trên đường. Nó cũng phụ thuộc vào việc con đường đó có mang dòng sinh khí đến nhà bạn hay không.
Nếu dòng xe cộ lưu thông tự nhiên về hướng nhà bạn và không có vẻ thù nghịch, thì bùng binh sẽ mang năng lượng tốt vào nhà và đem lại may mắn. Ngược lại, nếu dòng xe cộ lưu thông quá nhanh và chạy xa dần khỏi ngôi nhà của bạn, nó sẽ cuốn theo vận may của ngôi nhà.
Một cách khác để phân tích ảnh hưởng của ngôi nhà đối diện bùng binh là dựa vào tương quan ngũ hành. Giao lộ vòng tròn thuộc hành Kim, đối với nhà có vị trí ở hướng Bắc (đối diện hướng Nam) thì năng lượng Kim của bùng binh sẽ mang lại may mắn.
(Theo Phong thủy đem lại sức sống cho bạn)
Hành: KimLoại: Cát TinhĐặc Tính: Quyền uy, quý hiểnTên gọi tắt thường gặp: Cái
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là bộ Long Phượng Hổ Cái.
Ý Nghĩa Hoa Cái Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người có bề ngoài sang trọng, đài các, thanh cao, được nhiều người yêu thích.
Công Danh Phúc Thọ
Hoa Cái chủ về phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời. Đây là trường hợp Hoa Cái đi với Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ thành bộ sao gọi là "Tứ Linh", chủ về công danh, chức vị, uy quyền.
Ý Nghĩa Hoa Cái Và Các Sao Khác
1. Bàn thờ bái vọng nghĩa là gì?
Ngày xưa, với nền kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp, người nông dân suốt đời không rời quê cha đất tổ, chuyển cư sang làng bên cạnh cũng đã gọi là biệt quán, ly hương, vì vậy bàn thờ vọng chỉ là hiện tượng cá biệt và tạm thời, chưa thành phong tục phổ biến.
"Vọng bái ", nghĩa là vái lạy từ xa. Ngày xưa, khi triều đình có những điển lễ lớn, các quan trong triều tập trung trước sân rồng làm lễ, các quan ở các tỉnh hoặc nơi biên ải, thiết lập hương án trước sân công đường, thắp hương, nến, hướng về kinh đô quỳ lạy Thiên tử. Khi nghe tin cha mẹ hoặc ông bà mất, con cháu chưa kịp về quê chịu tang, cũng thiết lập hương án ngoài sân, hướng về quê làm lễ tương tự.

Các bàn thờ thiết lập như vậy chỉ có tính chất tạm thời, sau đó con cáo quan xin về cư tang ba năm (xem bài Lễ Cư tang). Các thiện nam tín nữ hàng năm đi trẩy hội đền thờ Đức Thánh Trần ở Vạn Kiếp, đức Thánh Mẫu ở Đền Sòng v.v... dần dần về sau, đường sá xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, cũng lập bàn thờ vọng như vậy. Nơi có nhiều tín đồ tập trung, dần dần hình thành tổ chức. Các thiện nam tín nữ quyên góp nhau cùng xây dựng tại chỗ một đền thờ khác, rồi cử người đến bàn thờ chính xin bát hương về thờ. những đền thờ đó gọi là vọng từ (thí dụ ở số nhà 35 phố Tôn Đức Thắng Hà Nội có "Sùng Sơn vọng từ" nghĩa là Đền thờ vọng của núi Sòng, thờ thánh Mẫu Liễu Hạnh).
Bàn thờ vọng ông bà cha mẹ chỉ được tập trung trong trường hợp sống xa quê. Những người con thứ, bất cứ giàu nghèo, sang hèn thế nào, nếu ở gần cánh cửa trưởng trên đất tổ phụ lưu lại, thì đến ngày giỗ, ngày tết, con thứ phải có phận sự hoặc góp lễ, hoặc đưa lễ đến nhà thờ hay nhà con truởng làm lễ, cho dù cửa trưởng chỉ thuộc hàng cháu, thì chú hoặc ông chú vẫn phải thờ cúng ông bà tại nhà cửa trưởng. Do đó không có lệ lập bàn thờ vọng đối cửa thứ ngay ở quê nhà. Nếu cửa trưởng khuyết hoặc xa quê, thì người con thứ 2 thế trưởng được lập bàn thờ chính, còn bàn thờ ở nhà người anh cả ở xa quê lại là bàn thờ vọng.
Phong tục rất hay và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ chữ Hiếu đi đôi với chữ Đệ. Khi sống cũng như đã mất, ông bà cha mẹ bao giờ cũng mong muốn anh chị em sống hòa thuận, một nhà đầm ấm. Thỉnh vong hồn về cầu cúng lễ bái, mà anh chị em ở gần nhau không sum họp, mỗi người cúng một nơi, thì đó là mầm mống của sự bất hoà, vong hồn làm sao mà thanh thản được.
2. Cách lập bàn thờ vọng
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| => Theo dõi: Tử vi hàng ngày của bạn được cập nhật nhanh chóng, chính xác |
Ngũ hành tương sinh:
Mộc sinh Hỏa: Mộc có thể dùng để đốt lửa.
Thủy sinh Mộc: Thủy là nguồn sinh trưởng của cây cối.
Ngũ hành tương khắc:
Mộc khắc Thổ: Cây cối phá đất mà ra, gốc của cây nằm trong bùn đất, có thể làm đất tơi xốp, vì vậy khắc Thổ.
Kim khắc Mộc: Những công cụ kim loại có thể chặt gãy cây cối.
Người mệnh Mộc hợp với màu của mẹ Thủy, là màu đen, màu xám, màu xanh nước biển, màu nâu. Điển hình là màu nâu. Màu nâu là màu của gỗ, một yếu tố đại diện rõ ràng cho Mộc. Màu nâu tốt cho các cung: Cung Gia Đạo, Cung Tài Lộc và Cung Danh Vọng.

Tốt thứ nhì là được hòa hợp: Mộc với Mộc, nhiều cây sẽ là rừng xanh lá.
Màu xanh lá thể hiện sự tươi tắn, trong lành và mang lại cảm giác cho một điểm khởi đầu mới. Màu xanh lá có ảnh hưởng tốt đến sức khoẻ, giúp bạn đẩy lùi những hồi hộp và lấy lại cân bằng bằng những phương thức chữa trị của tự nhiên.
Khi dùng màu xanh lá, tốt hơn cả là kết hợp nhiều sắc thái màu khác nhau để đem đến được hiệu quả lớn nhất.
Màu sắc kỵ: Màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim, khắc phá mệnh cung hành Mộc, xấu.
Những chủ đề hình xăm bạn nên chọn: Mai lan trúc cúc, thư pháp, tùng bách, thỏ, mèo…
Bảng tra tuổi mạng Mộc:
– (1929, 1989) Tuổi Kỹ Tỵ, cung Cấn, mạng Ðại Lâm Mộc(cây lớn trong rừng), xương con rắn, tướng tinh con khỉ, khắc Ðại Trạch Thổ, con nhà Thanh Ðế- Trường mạng.
– (1928, 1988) Tuổi Mậu Thìn, cung Ðoài, mạng Ðại Lâm Mộc, xương con rồng, tướng tinh con quạ, khắc Ðại Trạch Thổ, con nhà Thanh Ðế-Trường mạng.
– (1921, 1981) Tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con gà, tướng tinh con chó, khắc Bích Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Cô bần.
– (1920, 1980) Tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc, xương con khỉ, tướng tinh con cho sói, khắc Bích Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Cô bần.
– (1913, 1973) Tuổi Quí Sửu, cung Tốn, mạng Tang Ðố Mộc (cây dâu), xương con trâu, tướng tinh con cua biển, khắc Ốc Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế- Quan lộc, tân khổ.
– (1912, 1972) Tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Ðố Mộc, xương con chuột, tướng tinh con heo, khắc Ốc Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Quan lộc, tân khổ.
– (1899, 1959) Tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Ðịa Mộc(cây trên đất bằng), xương con heo, tướng tinh con gấu, khắc Sa Trung Kim, con nhà Thanh Ðế-Phú quí.
– (1958, 2018) Tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình địa mộc (cây trên đất bằng), xương con chó tướng tính con vượn, khắc Sa Trung Kim, con nhà Thanh Ðế-Phú quí.
– (1951, 2011) Tuổi Ất Mẹo, cung Ly, mạng Tòng Bá mộc ( cây Tòng và cây Bá), xương con thỏ, tướng tinh con rái, khắc Lộ Bàng thổ, con nhà Thanh Ðế-Trường mạng.
– (1950, 2010) Tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá mộc, xương con cọp, tướng tinh con heo, khắc Lộ Bàng thổ , con nhà Thanh Ðế-Trường mạng.
– (1943, 2003) Tuổi Quí Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu mộc ( cây dương liễu), xương con dê, tướng tinh con cọp, khắc Lộ Bàng Thổ, con nhà Thanh Ðế-trường mạng.
– (1942, 2002) Tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu mộc, xương con ngựa, tướng tinh con rắn, khắc Lộ Bàng Thổ, con nhà Thanh Ðế-trường mạng.
Dưới đây mời bạn tham khảo một số mẫu hình xăm hợp với mệnh Mộc:





Lương thực chính của người phương Đông là gạo, đặc biệt là người phía Nam, với họ bữa ăn không thể thiếu gạo để thổi cơm, vì vậy nhà nào cũng có hũ gạo để đựng gạo, hũ gạo là đồ dùng không thể thiếu trong nhà bếp của mỗi gia đình.
Là vật dụng quan trọng như vậy, cuối cùng nó sẽ được đặt chỗ nào trong bếp? Đặt hũ đựng gạo ở phương vị “thổ” đương vượng là có lý, vì rằng:
(1) Gạo của thóc lúa là thứ được cấy trồng từ đất.
(2) Người xưa cất giữ lúa gạo trong hang động dưới đất,
Nói tóm lại hũ gạo nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của bếp và để sát mặt đất (tất nhiên phải chú ý đến chống ẩm) không phù hợp đặt hướng Đông và để cao.
Ngoài ra theo tập quán truyền thống của phương Đông là cất giữ thóc gạo ở chỗ kín vì vậy hũ gạo nên đặt chỗ kín đáo, nên đặt nó ở trong chum chôn dưới đất.
Tủ lạnh cũng như hũ gạo là những công cụ không thể thiếu được trong nhà bếp mỗi gia đình, nay xin nói về những điều cấm kỵ khi đặt tủ lạnh.
Tủ lạnh dùng để cất giữ đồ ăn thức uống hàng ngày cho mỗi gia đình, ngày nay ở thành phố tủ lạnh rất phổ biến vì vậy mọi người đều muốn biết tủ lạnh nên để vị trí nào trong nhà bếp là thích hợp?
Về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, đến nay vẫn chưa có ý kiến chung. Có 1 số người cho rằng tủ lạnh nên đặt tại hướng dữ, vì rằng tủ lạnh đã lạnh lại còn nặng, đặt nó ở hướng dữ là để chấn áp các sao dữ. Tuy nhiên, có 1 số người lại có ý kiến ngược lại, rằng tủ lạnh nên đặt ở hướng lành!
Ý kiến thứ 2 được xem là hợp lý:
(1) Tủ lạnh là chỗ bảo quản thức ăn đồ uống cho cả nhà nếu đặt nó ở hướng dữ là không thích hợp.
(2) Tủ lạnh là may móc nó vận hành liên tục cả 24h trong ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ, kích động nó đi gây rối vì thế đặt tủ lạnh ở hướng dữ không thích hợp. trong phong thủy học có nói rằng: “Phương vị dữ phù hợp với yên tĩnh chứ không phù hợp với chấn động” cũng chính là nguyên nhân giải thích ở trên.
Tử vi 2018, xem tử vi 2018 cho tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Xem tu vi 2018 đầu năm mới cho từng tuổi, xem bói tử vi 2018 nam mạng, nữ mạng trong năm mới 2018 Mậu Tuất. Xem tử vi năm 2018 Mậu Tuất về cuộc sống, tình duyên, hôn nhân, tài chính, sức khỏe, diễn biễn từng tháng năm mới 2018 Mậu Tuất .

Tuất là con giáp thứ 11 trong 12 Con Giáp, Tuất được xem là biểu tượng của sự người chính trực, chính nghĩa tính cần cù, giỏi chịu đựng gian khổ. Họ là người trọng nghĩa, ngay thẳng, chân thành, không cố làm ra vẻ ta đây, rất thích bênh vực kẻ yếu, tự nguyện nghe người khác tâm sự, sẵn sàng chia sẻ nỗi buồn với họ. Vì thế người tuổi Tuất biết cách sống hòa bình với mọi người.
Xem tử vi 2018 của 12 con giáp năm 2018 trên tất cả các mặt. Năm Mậu Tuất 2018 bắt đầu từ ngày bắt đầu từ ngày 16/08/2018 đến hết ngày 5/02/2019 dương lịch. Nếu bạn là nam hãy xem tử vi 2018 nam mạng, nếu là người nữ hãy xem tử vi 2018 nữ mạng. Ngoài ra, bạn có thể xem tử vi năm 2018 cho bố mẹ, anh em vợ chồng, người yêu hay anh em họ hàng ở tất cả lứa tuổi.
Nội dung
Tuổi Tý 2018 danh tài song tiến, sự vận bình bình. Có những lúc việc đến ngoài mong đợi do sự bất cẩn không tính thấu đáo. cẩn thận súc vật nuôi trong nhà gây bệnh hoặc tránh núi cao đất hiểm sông sâu. Cuối năm có việc tốt lành đến mình mà nắm chắc phần thắng. Nếu thần khí sung mãn, không phải lo nghĩ nhiều, tài vận bội thu. Trái lại thần hình bạc nhược, tinh lực suy vị thời chớ xuất môn mà phải chịu tha phương viễn xứ, nghe báo tang sự mà thương tâm phiền não,được việc này hỏng việc khác.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Giáp Tý | 1984 | 35 | Tử vi 2018 Giáp Tý nam mạng | Tử vi 2018 Giáp Tý nữ mạng |
| Bính Tý | 1996 | 23 | Tử vi 2018 Bính Tý nam mạng | Tử vi 2018 Bính Tý nữ mạng |
| Mậu Tý | 1948 | 71 | Tử vi 2018 Mậu Tý nam mạng | Tử vi 2018 Mậu Tý nữ mạng |
| Canh Tý | 1960 | 59 | Tử vi 2018 Canh Tý nam mạng | Tử vi 2018 Canh Tý nữ mạng |
| Nhâm Tý | 1972 | 47 | Tử vi 2018 Nhâm Tý nam mạng | Tử vi 2018 Nhâm Tý nữ mạng |
Tuổi Sửu 2018 sự nghiệp được thuận lợi, sau tiết Kinh chập, gặp nhiều duyên lành, tiền bậc, danh lợi đầy đủ, cầu gì được nấy, Trong năm cũng có việc phải xuất hành, một thân một mình đi xa khi gặp đào hoa chỉ sẽ không giữ được của, Vì cầu thái quá chỉ e khó tránh thị phi, kiện tụng, công việc công tư, phải phân định rõ ràng. Vì Tuổi Sửu trong năm Tuất có nhiều điểm khắc chê nhau, nên chỉ chuyện tình cảm chưa đủ, trong năm thường hay cảm thấy bi đau mình mẩy, hoa mặt chóng mặt nên ngừa tiểu nhân và đưa đến sự tranh chấp.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Ất Sửu | 1985 | 34 | Tử vi 2018 Ất Sửu nam mạng | Tử vi 2018 Ất Sửu nữ mạng |
| Đinh Sửu | 1997 | 22 | Tử vi 2018 Đinh Sửu nam mạng | Tử vi 2018 Đinh Sửu nữ mạng |
| Tân Sửu | 1961 | 58 | Tử vi 2018 Tân Sửu nam mạng | Tử vi 2018 Tân Sửu nữ mạng |
| Kỷ Sửu | 1949 | 70 | Tử vi 2018 Kỷ Sửu nam mạng | Tử vi 2018 Kỷ Sửu nữ mạng |
| Quý Sửu | 1973 | 46 | Tử vi 2018 Quý Sửu nam mạng | Tử vi 2018 Quý Sửu nữ mạng |
Tuổi Dần 2018 gặp năm Tuất là Tam hợp, muôn việc đều được hanh thông, không có việc gì là không được thuận lợi, tiền bạc, niềm vui cùng đến, du ngoạn bốn phương. Mọi việc vì danh vì lợi, cẩu gì cũng được như ý, làm việc gì cũng thành tựu. Năm này tốt nhất nên đi ra ngoài làm ăn, kinh doanh. Nhưng phải chú ý chớ nên lao tâm quá độ. Nếu không miệng tiếng thị phi sẽ khỏi, cô độc một mình, gieo tiếp mầm hoạ cho năm sau.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Giáp Dần | 1974 | 45 | Tử vi 2018 Giáp Dần nam mạng | Tử vi 2018 Giáp Dần nữ mạng |
| Bính Dần | 1986 | 33 | Tử vi 2018 Bính Dần nam mạng | Tử vi 2018 Bính Dần nữ mạng |
| Mậu Dần | 1998 | 21 | Tử vi 2018 Mậu Dần nam mạng | Tử vi 2018 Mậu Dần nữ mạng |
| Canh Dần | 1950 | 69 | Tử vi 2018 Canh Dần nam mạng | Tử vi 2018 Canh Dần nữ mạng |
| Nhâm Dần | 1962 | 57 | Tử vi 2018 Nhâm Dần nam mạng | Tử vi 2018 Nhâm Dần nữ mạng |
Tuổi Mão 2018 có sao Tử vi chiếu, làm việc mưu sự, làm ăn kinh doanh phần nhiều đều thành tựu. Phúc được trời ban, thân được chính khí che chở. Tuy nhiên trong năm vẫn gặp chút nạn nhỏ, nhưng không vì thế mà ảnh hưởng đến đại cục. Tiết lập thu tài lộc lại đến, nhưng chỉ e tài lộc quá nhiều sinh ra có hoạ, vì thế chớ nên tham lam vô độ, nên phải biết đủ, phúc lộc trường tồn, cả năm phú quý.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Ất Mão | 1975 | 44 | Tử vi 2018 Ất Mão nam mạng | Tử vi 2018 Ất Mão nữ mạng |
| Đinh Mão | 1987 | 32 | Tử vi 2018 Đinh Mão nam mạng | Tử vi 2018 Đinh Mão nữ mạng |
| Tân Mão | 1951 | 68 | Tử vi 2018 Tân Mão nam mạng | Tử vi 2018 Tân Mão nữ mạng |
| Kỷ Mão | 1999 | 20 | Tử vi 2018 Kỷ Mão nam mạng | Tử vi 2018 Kỷ Mão nữ mạng |
| Quý Mão | 1963 | 56 | Tử vi 2018 Quý Mão nam mạng | Tử vi 2018 Quý Mão nữ mạng |
Tuổi Thìn 2018 năm nay xung khắc nhau, hai bên vốn chẳng hoà nhau. Nên người tuổi Thìn sẽ bị phá tài, tiếng thị phi khó tránh. Làm việc gì cũng không có lợi. Người xưa thường nói: ác đâu không bằng đấu trí, tranh giành chẳng bằng khéo hoà, nhưng mỗi quan hệ bạn bè thân quen tốt nhất nên ít quan hệ trong năm nay. Nên khéo thoát hiểm nên nhẫn nhịn qua ngày.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Giáp Thìn | 1964 | 55 | Tử vi 2018 Giáp Thìn nam mạng | Tử vi 2018 Giáp Thìn nữ mạng |
| Bính Thìn | 1976 | 43 | Tử vi 2018 Bính Thìn nam mạng | Tử vi 2018 Bính Thìn nữ mạng |
| Mậu Thìn | 1988 | 31 | Tử vi 2018 Mậu Thìn nam mạng | Tử vi 2018 Mậu Thìn nữ mạng |
| Canh Thìn | 2000 | 19 | Tử vi 2018 Canh Thìn nam mạng | Tử vi 2018 Canh Thìn nữ mạng |
| Nhâm Thìn | 1952 | 67 | Tử vi 2018 Nhâm Thìn nam mạng | Tử vi 2018 Nhâm Thìn nữ mạng |
Tuổi Tỵ 2018 hồng loan xum hợp, nếu nắm bắt thời cơ ắt sẽ thư lợi lớn. Gấu ăn mặt trăng, trời sẽ âm u. Nhưng cơ duyên sẽ đến, sinh tử thăng trầm đều do tự mình quyết định. Cho nên than vãn ông trời chẳng công bằng nên biết rồng xanh phải có chân mệnh. Tuy có chút bệnh, hao chút tiền của, nhưng khi sao Nguyệt Đức chiếu thì cải hung thành cát, sẽ có cơ hội xuất ngoại hoặc xa quê.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Ất Tỵ | 1965 | 54 | Tử vi 2018 Ất Tỵ nam mạng | Tử vi 2018 Ất Tỵ nữ mạng |
| Đinh Tỵ | 1977 | 42 | Tử vi 2018 Đinh Tỵ nam mạng | Tử vi 2018 Đinh Tỵ nữ mạng |
| Tân Tỵ | 2001 | 18 | Tử vi 2018 Tân Tỵ nam mạng | Tử vi 2018 Tân Tỵ nữ mạng |
| Kỷ Tỵ | 1989 | 30 | Tử vi 2018 Kỷ Tỵ nam mạng | Tử vi 2018 Kỷ Tỵ nữ mạng |
| Quý Tỵ | 1953 | 66 | Tử vi 2018 Quý Tỵ nam mạng | Tử vi 2018 Quý Tỵ nữ mạng |
Tuổi Ngọ 2018 có sao Hoa cái chiếu, cả năm mọi việc tuỳ duyên, thi cử đỗ đạt, thông minh lanh lợi, nhưng vận thế năm này có nhiều biến động khó lường, có xảy ra tranh giành nhưng cuối cùng cũng giành thắng lợi, sự nghiệp có chuyện gập ghềnh, sau chuyển sang tài lộc. Để phòng việc kiện tụng quan trường, nên tiết dục giữ mình, nếu không nhẹ thì ảnh hưởng danh tiếng, nặng thì hao tổn tài lộc, nguy hiểm đến tính mạng.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Giáp Ngọ | 1954 | 65 | Tử vi 2018 Giáp Ngọ nam mạng | Tử vi 2018 Giáp Ngọ nữ mạng |
| Bính Ngọ | 1966 | 53 | Tử vi 2018 Bính Ngọ nam mạng | Tử vi 2018 Bính Ngọ nữ mạng |
| Mậu Ngọ | 1978 | 41 | Tử vi 2018 Mậu Ngọ nam mạng | Tử vi 2018 Mậu Ngọ nữ mạng |
| Canh Ngọ | 1990 | 29 | Tử vi 2018 Canh Ngọ nam mạng | Tử vi 2018 Canh Ngọ nữ mạng |
| Nhâm Ngọ | 2002 | 17 | Tử vi 2018 Nhâm Ngọ nam mạng | Tử vi 2018 Nhâm Ngọ nữ mạng |
Tuổi Mùi 2018 là kiếp tài, lưu niên cùng chiếu, mọi việc bình bình. Thời thế biến đổi, nhìn thấy mùa xuân trôi qua mà không biết làm thế nào giữ được. Làm ăn không được thuận lợi, mọi việc đều suy, phiền não trói buộc liên miên không dứt. Lấy thủ làm công là thượng sách. Tuyệt đối không nên đi lại giao dịch, cẩn thận mọi chuyện mà vẩn có những việc ngoài ý muốn nảy sinh.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Ất Mùi | 1955 | 64 | Tử vi 2018 Ất Mùi nam mạng | Tử vi 2018 Ất Mùi nữ mạng |
| Đinh Mùi | 1967 | 52 | Tử vi 2018 Đinh Mùi nam mạng | Tử vi 2018 Đinh Mùi nữ mạng |
| Tân Mùi | 1991 | 28 | Tử vi 2018 Tân Mùi nam mạng | Tử vi 2018 Tân Mùi nữ mạng |
| Kỷ Mùi | 1979 | 40 | Tử vi 2018 Kỷ Mùi nam mạng | Tử vi 2018 Kỷ Mùi nữ mạng |
| Quý Mùi | 2003 | 16 | Tử vi 2018 Quý Mùi nam mạng | Tử vi 2018 Quý Mùi nữ mạng |
Tuổi Thân 2018 không được tốt lắm, vì cuộc đời vô thường đen bạc, nên dù muốn cũng chẳng được yên thân. Muôn việc chỉ là bước khởi đầu, mười năm gieo trồng hạt giống. Lẽ đờì là vậy, gió mây tan tác, nào đâu chỉ có mặt nước ao thu gợn sóng. Mừng vì cơ duyên đã đến, vận thế chuyển vần, mưa tạnh mây tan bầu trời lại sáng.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Giáp Thân | 2004 | 15 | Tử vi 2018 Giáp Thân nam mạng | Tử vi 2018 Giáp Thân nữ mạng |
| Bính Thân | 1956 | 63 | Tử vi 2018 Bính Thân nam mạng | Tử vi 2018 Bính Thân nữ mạng |
| Mậu Thân | 1968 | 51 | Tử vi 2018 Mậu Thân nam mạng | Tử vi 2018 Mậu Thân nữ mạng |
| Canh Thân | 1980 | 39 | Tử vi 2018 Canh Thân nam mạng | Tử vi 2018 Canh Thân nữ mạng |
| Nhâm Thân | 1992 | 27 | Tử vi 2018 Nhâm Thân nam mạng | Tử vi 2018 Nhâm Thân nữ mạng |
Tuổi Dậu 2018 gặp vận Chính ấn, mọi việc hanh thông, thăng tiến quan chức. Gặp được sao phúc Thiên đức chiếu, vó ngựa xuất hành đi tìm danh lợi, nhưng ra đi khó định ngày về, vì thế khẩu thiệt thị phi dấy khởi.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Ất Dậu | 2005 | 14 | Tử vi 2018 Ất Dậu nam mạng | Tử vi 2018 Ất Dậu nữ mạng |
| Đinh Dậu | 1957 | 62 | Tử vi 2018 Đinh Dậu nam mạng | Tử vi 2018 Đinh Dậu nữ mạng |
| Tân Dậu | 1981 | 38 | Tử vi 2018 Tân Dậu nam mạng | Tử vi 2018 Tân Dậu nữ mạng |
| Kỷ Dậu | 1969 | 50 | Tử vi 2018 Kỷ Dậu nam mạng | Tử vi 2018 Kỷ Dậu nữ mạng |
| Quý Dậu | 1993 | 26 | Tử vi 2018 Quý Dậu nam mạng | Tử vi 2018 Quý Dậu nữ mạng |
Tuổi Tuất 2018 năm nay cùng là hành thổ với bản mệnh, nên trong mệnh lý cần phải biết nhu, phát triển về văn hoá văn chương vì có sao Hoa cái chiếu, Nếu như phải tham gia thi cử ắt sẽ thành công, ghi danh đầu bảng. Đôi vài công việc trong nhà nên lấy thủ làm công, thời cơ tốt tự đến. Nhưng mỗi khi suy nghĩ lo toan sẽ tổn đến tinh thần, vì thế thân tâm mệt mỏi, thường có bệnh tật vặt phát sinh.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Giáp Tuất | 1994 | 25 | Tử vi 2018 Giáp Tuất nam mạng | Tử vi 2018 Giáp Tuất nữ mạng |
| Bính Tuất | 1946 | 73 | Tử vi 2018 Bính Tuất nam mạng | Tử vi 2018 Bính Tuất nữ mạng |
| Mậu Tuất | 1958 | 61 | Tử vi 2018 Mậu Tuất nam mạng | Tử vi 2018 Mậu Tuất nữ mạng |
| Canh Tuất | 1970 | 49 | Tử vi 2018 Canh Tuất nam mạng | Tử vi 2018 Canh Tuất nữ mạng |
| Nhâm Tuất | 1982 | 37 | Tử vi 2018 Nhâm Tuất nam mạng | Tử vi 2018 Nhâm Tuất nữ mạng |
Tuổi Hợi 2018 gặp sao Thất sát nên cả năm vất vả, công việc gặp nhiều phiền phức, mọi việc phần nhiều thất bại. Vận phát vào giữa năm nhưng lại lỡ về thiên thời nên lúc lên lúc xuống, rất khó nắm bắt nê cần phải cô gắng đổ bù đắp lại. Nhưng vẫn phải khốn đốn nhiều phen, mọi việc đều dang dở giống như người có bệnh nhưng khám mãi chẳng tìm được nguồn bệnh. Cũng trong năm này có Thiên hỉ chiếu nên thường thích đi du ngoạn một mình, bỗng nhiên bừng tỉnh, ắt có lợi lớn, nên có thê nói một năm trôi qua không hề uổng phí.
| Âm lịch | Sinh | Tuổi | Nam mạng | Nữ mạng |
|---|---|---|---|---|
| Ất Hợi | 1995 | 24 | Tử vi 2018 Ất Hợi nam mạng | Tử vi 2018 Ất Hợi nữ mạng |
| Đinh Hợi | 1947 | 72 | Tử vi 2018 Đinh Hợi nam mạng | Tử vi 2018 Đinh Hợi nữ mạng |
| Tân Hợi | 1971 | 48 | Tử vi 2018 Tân Hợi nam mạng | Tử vi 2018 Tân Hợi nữ mạng |
| Kỷ Hợi | 1959 | 60 | Tử vi 2018 Kỷ Hợi nam mạng | Tử vi 2018 Kỷ Hợi nữ mạng |
| Quý Hợi | 1983 | 36 | Tử vi 2018 Quý Hợi nam mạng | Tử vi 2018 Quý Hợi nữ mạng |
Các bạn vừa xem tử vi năm 2018 của 12 con giáp trong năm 2018. Các bạn có thể xem chi tiết tử vi theo năm sinh và giới tính mình theo bảng danh sách tử vi từng con giáp trên bài viết .
Bài viết chép lại của anh Quách Ngọc Bội
Đẩu Số với Tiết Khí
Trong các thảo luận về mệnh lý tại các khu vực khác nhau, thỉnh thoảng lại có người nhắc đến vấn đề tương quan giữa Tử Vi Đẩu Số với Tiết Khí. Có thể thấy rằng, Tử Vi Đẩu Số dù muốn hay không muốn tham khảo đến vấn đề của Tiết Khí thì cho đến nay vẫn cứ đã và đang khiến nhiều học giả nghiên cứu tử vi cảm thấy có chút bối rối. Thành thực mà nói, cá nhân tôi (QNB chú: tác giả bài viết, Phan Văn Khâm, Đài Loan) cũng từng rất bối rối, có thời gian dài mà tôi thậm chí chả dám dùng Tử Vi Đẩu Số để mà toán mệnh cho người ta ấy chứ!
Suy cho cùng thì Tử Vi Đẩu Số ở trong lúc bài bố mệnh bàn (lá số) có cần hay không việc đối chiếu với Tiết Khí đây? Trước khi thảo luận nghiên cứu vấn đề này, chúng ta còn nhất thiết phải giải quyết một vấn đề tranh nghị nhiều năm từ xưa đến nay của môn Tử Vi Đẩu Số, đó chính là vấn đề của "tháng Nhuận". Bởi vì vấn đề "tháng Nhuận" và "Tiết Khí" có tồn tại mối quan hệ rất mật thiết.
Người từng học qua môn Tử Vi Đẩu Số đều biết rằng, trong việc an lá số mà đụng phải vấn đề đương số sinh vào tháng Nhuận là một vấn đề khá hóc búa (tối thiểu thì với người mới học là như vậy). Song, đối diện với thời đại trăm nhà đua tiếng về thuật số, riêng đối với phép bài bố tháng Nhuận của Tử Vi đẩu số đã có rất nhiều phương pháp khiến cho người ta phải suy nghĩ.
Có người nói, tháng Nhuận thì cứ lấy tháng sau đó mà toán; có người cho rằng lấy chính tháng đó mà toán; còn có người nói theo tháng sau đó mà khởi 2 cung Mệnh Thân nhưng mà các tinh diệu theo tháng thì vẫn lấy tháng trước đó để bài bố an định; lại thêm có người đem tháng trước đó với tháng Nhuận cộng lại khởi đến gần 60 ngày; v.v...
Các bố đó kiến giải nhiều cái cũng rối rắm khiến cho người ta bất giác hoa mày chóng mặt. Thế nhưng mà, trong đó có rất nhiều luận điệu kỳ kỳ quái quái, cứ như là chẳng ai sẵn lòng đem Tử Vi Đẩu Số để đối mặt với "Tiết Khí". Chỉ đơn giản là do một câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" (chẳng giống như môn Ngũ Tinh chú trọng đến Tiết Khí) ở trong bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết.
[Xin chú ý! bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết nói trên trong hai bản cổ thư của môn Tử Vi Đẩu Số, thì chỉ có cuốn <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> có ghi lại, còn trong một cuốn khác là <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> lại hoàn toàn chẳng thấy có ghi lại!]
(QNB chú: bản TVĐS Toàn Thư mà QNB dịch cũng không thấy ghi chép về bài quyết này, nhưng QNB có sưu tầm từ một số nguồn khác nhau và cũng đã có dịch bài Đẩu Số Tổng Quyết này đăng trên tuvilyso.org và chép lại trong quyển Tử Vi Ca Phú Tập Thành. Quý độc giả nêu chưa rõ bài này thì tham khảo thêm).
Không biết quý vị độc có từng hay không nảy ra ý nghĩ là, nhỡ may cái câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" chính là "ngụy quyết" (câu quyết giả) hoặc là cả cái bài Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết ấy đều là "ngụy quyết" thì làm sao?
Mọi người chớ có vội cho rằng bút giả nói chuyện giật gân, từ rất lâu rồi cho tới nay trong giới Đẩu Số vẫn liên tục có tồn tại tranh luận <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> và <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> thì quyển nào mới là "Thiên Thư" chính thống. Chỉ đơn giản là trong hai bản cổ thư đó có tồn tại rất nhiều sự khác biệt. Trong các sách của giới tiền bối mệnh lý trụ cột như Liễu Vô Cư Sĩ, Tuệ Canh, Nhật Nguyệt Đạo Nhân,... có thảo luận tỉ mỉ kỹ càng với các khảo chứng, cái gì thực cái gì hư, đọc giả có thể tự mình nhận xét đánh giá, bút giả khỏi cần phải nói rườm rà thêm!
Trở lại với nội dung chính của vấn đề, đầu tiên chúng ta nghiên cứu xem "tháng Nhuận" là cái gì?
Trước hết, chúng ta cần bắt đầu nghiên cứu một chút về "Lịch Pháp" của Trung Quốc. Ở đây chúng ta viện dẫn trong sách <<Lịch pháp tùng đàm>> (phiếm đàm về Lịch Pháp) của tiên sinh Trịnh Thiên Kiệt trước tác, do Đại Học Văn Hóa Trung Quốc xuất bản:
Trung lịch dựa theo nóng lạnh bốn mùa mà xác định năm, lấy Đông Chí làm Tuế Nguyên (bắt đầu của năm), từ Đông Chí này đến Đông Chí tiếp theo là 1 năm; Nhật Nguyệt hợp Sóc mà xác định tháng, lấy ngày Sóc làm Nguyệt Thủ (đầu mối của tháng),... Cho nên "niên vi hồi quy niên" (năm là "năm hồi quy"), còn gọi là "năm Thái Dương"; nguyệt vi hợp sóc nguyệt (tháng là tháng theo Sóc), cũng gọi là "tháng Sóc Vọng" hoặc là "tháng Thái Âm";...
Năm Trung lịch là năm Thái Dương, độ dài của năm có 365.2422 ngày, gọi là Tuế Thực, một năm dựa vào Thái Dương ở tại vị trí trên vòng Hoàng Đạo mà chia làm 12 Tiết nguyệt, tức 12 tháng Thái Dương,... Dựa vào 12 Chi làm thứ tự Tiết nguyệt, còn gọi là Thập Nhị Kiến Nguyệt.
Trung lịch căn cứ vào sự tròn khuyết của Thái Âm để tính toán tháng, mỗi một tháng Thái Âm có độ dài là 29.53058 ngày, gọi là Sóc Sách, lấy số nguyên là 30 ngày hoặc 29 ngày làm một tháng (âm) lịch.
Trung lịch lấy 12 tháng Thái Âm làm một năm (âm) lịch, số ngày của một 12 tháng Thái Âm lịch trong một năm là 354 hoặc 355 ngày;
Một năm (âm) lịch so với Tuế Thực của năm dương lịch ước chừng ít hơn 11 ngày. Cho nên một vài năm lại cần bố trí tháng Nhuận để điều chỉnh Tiết hậu. Năm Nhuận thì một năm có chứa 13 tháng (âm) lịch.
Trung lịch dựa vào tháng Thái Âm của nó cần phối hợp Nguyệt tượng, trường độ Sóc Sách của một tháng, hợp với 29.53058 ngày; dựa vào năm Thái Dương của nó cần phối hợp Tiết Khí, trường độ của một năm, Tuế Thực, hợp với 365.2422 ngày; đem trường độ của Sóc Sách với Tuế Thực đối chiếu lên để tìm ra bội số chung nhỏ nhất của chúng chính là 19 năm (tính theo năm Thái Dương) gọi là 1 Chương, trong một Chương có 235 tháng (tính theo tháng Thái Âm), số ngày của nó và số ngày của 19 năm Thái Dương là tương đồng (6939.6 ngày)... Đó là lý do mà trong 1 Chương, 19 năm, thì thiết lập có 7 tháng Nhuận....
Chúng ta nên biết rằng, biến đổi diễn hóa của bất kỳ một môn mệnh lý thuật số thì không có môn nào mà các bậc tiên hiền cổ thánh lại không căn cứ vào định luật của thế giới tự nhiên hoặc là quy luật vận hành của Nhật Nguyệt theo sự quan sát mà suy tính ra. Theo như bên trên đã nói, chúng ta có thể biết được "Tháng Nhuận" chính là vì sự phối hợp năm Thái Dương được dùng để điều chỉnh số phần tháng Thái Âm. Trong Thiên Văn, Lịch Pháp, hoặc Chiêm Tinh học, "tháng Nhuận" chỉ là chúng ta sửa đổi lại việc thiết kế an bài của "Năm". Tháng của Thái Âm lịch có thứ tự từ tháng Giêng (Chính Nguyệt), tháng Hai, tháng Ba,... tháng Mười Hai (Chạp) cũng chính là sự bài bố theo số chứ chẳng có công dụng gì khác trên thực tế, trái lại, mỗi một Thái Dương Tiết Nguyệt trong Thiên Văn học lại có một địa vị trọng yếu tương xứng với nó. Quý vị mà không ngại thì hãy xem lại ngày sinh dương lịch của bản thân mình, bởi vì mỗi năm vào ngày ấy thì vị trí Thái Dương trên Hoàng Đạo là đều tương đồng vị trí với lúc sinh ra. Nhưng mà người Trung Quốc luôn luôn chịu ảnh hưởng sâu sắc và coi trọng ngày sinh theo nông lịch (lịch âm), mà theo Thiên Văn thì nó không có nhiều điểm đặc biệt. Đó là lý do mà chúng ta không thể không nghi ngờ chất vấn trong môn Tử Vi Đẩu Số đối với vấn đề phép xem "tháng Nhuận" dường như có ý nghĩa bàn luận có giá trị đặc biệt.
Đã từng có đại sư môn Đẩu Số cho rằng phải căn cứ vào "Thái Âm lịch" mà quy định (đây cũng là quan điểm mà nhiều đại sư Đẩu Số khăng khăng giữ). Nhưng mà, chúng ta cho rằng cái quan điểm đặc biệt ấy có giá trị thảo luận, chúng ta đừng ngại nghiên cứu thêm một chút:
Trước tiên, chúng ta khảo cứu tất cả lịch pháp của Trung Quốc, ngàn năm qua đều áp dụng "Âm Dương hợp lịch", vì vậy mới có sự xuất hiện của "tháng Nhuận". Còn nếu chỉ dùng riêng mình "Thái Âm lịch" thì tựa hồ như chưa từng xuất hiện qua, dù cho trong dân gian lấy Thái Âm để tính toán tháng, cũng đều là vẫn muốn phối hợp Tiết Khí làm căn cứ, điểm này chúng ta có thể qua nông lịch thịnh hành trong dân gian mà hiểu được.
Thứ hai, cho dù nói theo quan điểm của Thiên Văn học và Vật Lý học, lực ảnh hưởng của Thái Dương (Mặt Trời) đối với Địa Cầu nếu như so với Mặt Trăng thì mạnh hơn rất nhiều. Chúng ta đều biết rằng, hết thảy các sinh vật trên Địa Cầu đều có 3 yếu tố duy trì sinh mệnh là: Ánh dương quang, Không khí và Nước. Trên Địa Cầu nếu như mà không có dương quang thì sẽ không có tồn tại sự sống, do đó, giả sử như Tử Vi Đẩu Số trong buổi thiết lập ban đầu sơ khai, mà bỏ qua Thái Dương không dùng lại chỉ dùng mỗi Nguyệt Lượng (Mặt Trăng), thì dường như lại có điểm không thể nào nói nổi. Đây cũng chính là cái mà tại làm sao hết thảy các môn thuật số Trung Quốc bao gồm: Bát Tự, Lục Hào quái, Mai Hoa dịch, Kỳ Môn Độn Giáp, Phong Thủy Dương Trạch, Tướng Mặt Tướng Tay,... đều cần tham chiếu Tiết Khí của Thái Dương lịch làm căn cứ xuất phát. Thậm chí, ngay cả thuật Chiêm Tinh phương Tây cũng đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Tiết Khí ấy chứ! (Trong chiêm tinh học, Thái Dương qua 12 chòm sao Hoàng Đạo chính là cái mà chúng ta gọi là Tiết Khí). Đương nhiên, Nguyệt Lượng đối với chúng ta cũng có lực ảnh hưởng tương đối lớn, điểm này, sau đây chúng ta sẽ thảo luận nghiên cứu.
Lại theo kết cấu bên trong của Tử Vi Đẩu Số để xét, giả sử nếu quả thực Tử Vi Đẩu Số chỉ khảo sát mình Thái Âm lịch hoặc năm Thái Âm, thì tại sao trong kỹ thuật Đẩu Số còn cần thiết lập một ngôi sao "Thái Dương" để làm cái gì? Trong phần "Chư Tinh vấn đáp luận" của sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có ghi chép:
"Thái Dương tinh thuộc hỏa nhật chi tinh vậy, chính là biểu nghi của tạo hóa,... làm nguồn chiếu sáng ở trong số, chính là then chốt của quan lộc...
Hi Di tiên sinh viết: Độ số trải qua vòng chu thiên của Thái Dương tinh vận chuyển vô cùng...
Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh viết: Thái Dương ti quyền quý làm văn, gặp Thiên Hình thì làm võ, tại Dần mão là sơ thăng (mới bắt đầu mọc), tại Thìn Tị là thăng điện (đã lên đến cung điện), tại Ngọ là Nhật lệ trung thiên (Mặt trời sáng rực rỡ giữa bầu trời), đại phú đại quý, tại Mùi Thân là thiên viên (xế khỏi cung viên)... tại Dậu là Tây một (lặn xuống phía Tây)... tại Tuất Hợi Tý là thất huy (mất ánh sáng)... v.v..."
Những quan điểm này đều cùng phù hợp với Thái Dương ở trong Chiêm Tinh học, có thể thấy trong buổi ban sơ thiết lập môn Đẩu Số, đích xác có suy xét khảo sát đến lực ảnh hưởng của Thái Dương.
Theo những gì đã thảo luận trong đoạn nói trên, chúng ta thực sự không tìm ra chứng cứ mạnh mẽ của việc Tử Vi Đẩu Số lấy Thái Âm lịch làm chủ. Có lẽ sẽ có người nghi ngờ chất vấn:
- Không lẽ vận hành của Nguyệt Lượng (mặt trăng) với Sóc Vọng tròn khuyết của nó lại không có ảnh hưởng tới sinh vật hay sao?
Chúng tôi có thể khẳng định chắc chắn với mọi người rằng:
- "Có"! Nguyệt Lượng thực sự cũng có lực ảnh hưởng rất lớn.
Trong Chiêm Tinh học, lực ảnh hưởng của Nguyệt Lượng là ngay kế sau Thái Dương. Trong mệnh bàn (lá số) có chiếm phân lượng tương đương. Nhưng mà then chốt của sự biến hóa thay đổi tròn khuyết của nó là ở "Nhật" (ngày) chứ không phải là ở "Nguyệt" (tháng). Chúng ta đều biết rằng ngày mồng Một âm lịch là không thấy ánh trăng, mà lúc trăng tròn thì nhất định là xảy ra xung quanh ngày 15. Cái này cũng chính là vì sao mà Tử Vi Đẩu Số khi an bài xác định sao Tử Vi cần phải theo ngũ hành Cục phối hợp với "số ngày sinh" để khởi. Ví dụ như: Trong khẩu quyết khởi Tử Vi tinh của Thủy Nhị Cục:
"Khảm thủy cung trung nhị tuế hành,
sơ nhất khởi sửu xuất nhị dần,
thuận hành nhất cung an nhị nhật,
âm dương tuy thù hành tắc đồng"
Nghĩa đen:
"Trong cung Khảm thủy hai năm chuyển
Mồng Một khởi ở Sửu, ra đến mồng Hai ở Dần
Chuyển theo chiều thuận, mỗi cung an hai ngày
Âm dương tuy có khác biệt nhưng di chuyển thì lại giống nhau"
Nôm na tức là:
"Đối với cung có Cục thuộc hành Thủy và cơ số vận hành là 2
Khởi sao Tử Vi với ngày mồng Một tại cung Sửu, mồng Hai tại cung Dần
Chuyển theo chiều thuận, cứ mỗi cung thì an hai ngày tiếp theo
Âm Dương tuy có khác biệt nhưng di chuyển lại giống nhau".
Ngoài ra thì ngũ hành cục khởi Tử Vi tinh cũng đều là tương đồng.
Trở lại, chúng ta xem phương pháp sắp đặt Mệnh Thân cung của Tử Vi Đẩu Số với phương pháp xác định cung Mệnh trong Chiêm Tinh học cũng có chút sự giống nhau. Lấy môn Quả Lão Tinh Tông (hoặc gọi là Thất Chính Tứ Dư) làm ví dụ, phương pháp an cung Mệnh của nó là lấy Thái Dương đến trong cung Hoàng Đạo mà khởi giờ sinh, thuận hành đếm đến Mão thì an cung Mệnh; còn phương thức của Tử Vi Đẩu Số thì lấy tháng sinh khởi giờ Tý, đếm nghịch đến giờ sinh thì an cung Mệnh. Phương diện này kỳ thực là có yếu tố tương tự rất to lớn, người nào mà học qua Thất Chính Tứ Dư (hoặc Chiêm Tinh) đều biết rõ, Thái Dương đến trong cung Hoàng Đạo kỳ thực chính là Tiết Khí mà chúng ta vẫn thường dùng, cũng chính là "tháng Thái Dương"; mà giải thiết là Tử Vi Đẩu Số cũng dùng Tiết Khí để phân chi Nguyệt Lệnh, như thế thì chẳng phải là cách an cung Mệnh của Tinh Tông và Tử Vi Đẩu Số là đều cùng một dạng theo Nguyệt Lệnh khởi đầu hay sao? Khác biệt chỉ ở phép đi thuận nghịch theo cung vị mà thôi. (Ở trong điều này còn liên quan tới vấn đề kết cấu của mệnh bàn Đẩu Số với Tinh Tông, có lẽ sau này sẽ trình bày ra).
Nếu như chúng ta còn bới lông tìm vết, theo cổ thư bắt đầu khảo chứng, cũng có thể tìm được một chút manh mối để thảo luận:
Hiện nay các học giả Tử Vi Đẩu Số chủ trương rằng nguyên do mà Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí là căn cứ cổ thư <<Thập Bát Phi Tinh sách thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập>> bên trong có bài "Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết" để mà lý luận. Chúng ta tạm thời trước tiên không bàn luận tới tính chân thực của nó, chỉ đơn thuần thảo luận nghiên cứu về câu bên trong bài "Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết":
"Tử Vi Đẩu Số Tổng Quyết" khai tông minh nghĩa có giảng rằng:
"Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh,
Tác thành đấu sổ thôi nhân mệnh,
Bất y Ngũ Tinh ( yếu ) quá tiết,
Chích luận niên nguyệt nhật thì sinh
...
Hà dụng cầm đường giảng Ngũ Tinh".
=
(Ngài Hi Di ngẩng đầu ngắm sao trên trời,
Tạo ra môn Đẩu Số để suy đoán mệnh người,
Không giống với (môn) Ngũ Tinh, quá chú trọng đến Tiết khí,
(Mà) Chỉ luận về năm, tháng, ngày, giờ sinh).
...
Thì còn cần dùng phòng nhạc ("cầm đường") để giảng về môn Ngũ Tinh nữa chăng?)
và chúng ta thảo luận đến nhân tố then chốt có liên quan ở hai câu là "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" và "Hà dụng cầm đường giảng Ngũ Tinh".
Trước tiên ta phải làm sáng tỏ hai chữ "Ngũ Tinh", bình thường dù sao vẫn cho rằng "Ngũ Tinh" chính là đại biểu cho "Quả Lão Tinh Tông" hoặc "Thất Chính Tứ Dư", nhưng kỳ thực điều này là sự hiểu lầm rất lớn. Cổ nhân giảng "Thất Chính Tứ Dư" là đem Thái Dương, Nguyệt Lượng, Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, mà quy làm "Thất Chính"; mà trong "Thất Chính" thì Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh được gọi là "Ngũ Tinh"; địa vị của Thái Dương và Thái Âm là ở trên cả "Tinh". Do đó, "Ngũ Tinh" chẳng qua chỉ là một bộ phận bên trong của "Thất Chính", chứ không thể đại biểu cho toàn bộ "Thất Chính Tứ Dư".
Người mà học qua môn Chiêm Tinh học đều biết rằng trong hết thảy "Thất Chính Tứ Dư" thì chỉ có sự vận hành của Thái Dương với Thái Âm là có quy luật thời gian nhất định, còn "Ngũ Tinh" của nó đối chiếu với thời gian của Địa Cầu mà nói thì không có quy luật nhất định. Chúng ta đem quy luật biến hóa của Thái Dương diễn biến thành "Tiết Khí", còn sự trong khuyết của Thái Âm theo sự vận hành của nó thì biểu hiện sự biến hóa thay đổi theo mỗi một ngày đêm. Nhưng mà sự vận hành của "Ngũ Tinh" thì căn bản không có tuân theo quy tắc thời gian, mà hoàn toàn cần phải dựa vào quan trắc và tính toán theo số học mới có thể biết được. Cái này cũng chính là nguyên nhân vì sao mà cổ nhân học "Thất Chính Tứ Dư" cần phải học đầy đủ về diễn toán (tính toán theo công thức) số học và họ về quan trắc Thiên Văn, chỉ có như thế mới có thể hiểu rõ ràng chính xác về quy tắc vận hành của "Ngũ Tinh". Người hiện đại thì khỏi phải phiền phức như vậy, chỉ cần bấm máy tính một cái, thì toàn bộ vị trí của Thất Chính Tứ Dư đều hiển hiện rõ ràng! Bởi vậy, tại đây tôi nhất định phải nhấn mạnh rằng:
Sự vận hành căn bản của "Ngũ Tinh" với "Tiết Khí là không có sự liên quan.
Đó chính là lý do mà nếu như câu "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" là nói Tử Vi Đẩu Số không chiểu theo quy tắc bài bố của "Ngũ Tinh" thì sẽ không cần nói đến việc khảo xét đến Thái Dương Tiết Khí. Trong toàn bộ kết cấu của câu trên, cũng có vẻ như có điểm mà nói chửa được thông.
Thứ hai, cổ nhân viết văn chương là hoàn toàn không có ngắt câu (các dấu câu chấm phẩy), do đó cái câu thoại "Bất y Ngũ Tinh yếu quá Tiết" nhỡ có thể là "Bất y Ngũ Tinh, yếu quá Tiết" (Không như Ngũ Tinh, phải chú trọng thông qua Tiết Khí) ấy chứ? Cứ kiểu như thế thì phản chuyển lại trở thành môn Tử Vi Đẩu Số lại cần chú trọng nhấn mạnh đến Tiết Khí hay sao?
Ngoài ra, quy ước an Thân Mệnh trong <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> có nhắc đến:
"Đại để nhân mệnh cú tòng dần thượng khởi chính nguyệt..., hựu nhược nhuận Chính nguyệt sinh giả yếu tại Nhị nguyệt nội khởi an Thân Mệnh, phàm hữu nhuận nguyệt câu yếu y thử vi lệ."
(Đại khái là nhân Mệnh theo cung Dần khởi tháng Giêng... Lại nếu như người sinh vào tháng Giêng nhuận, thì phải từ Tháng Hai mà khởi an Thân Mệnh, phàm cứ xuất hiện tháng nhuận thì phải y theo quy tắc ấy.)
[QNB chú: độc giả lưu ý, có lẽ khi La Hồng Tiên biên soạn cuốn TVĐSTT này, năm Canh Tuất đời Gia Tĩnh triều Minh, thì chưa có sự điều chỉnh về quy ước cho tháng nhuận là "không được nhuận vào các tháng Một (11), Chạp (12), Giêng (1)”, cho nên ở trên mới đề cập tới chi tiết "tháng Giêng nhuận" như vậy. Quy ước ấy, có lẽ xuất hiện theo bộ lịch Thời Hiến, khoảng năm 1644-1674 thuộc 2 đời Thuận Trị và Khang Hi triều Thanh].
Cái đoạn thoại ở trên đây cũng chính là một trong những lý do khiến cho các đại sư môn Đẩu Số kiên trì với quan điểm Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí. Nhưng mà, quý vị độc giả đã từng khảo xét qua hay chưa, khi người viết ra cuốn sách <<Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư>> này là ông La Hồng Tiên, Tiến Sĩ của triều Thanh (QNB chú: có lẽ tác giả nhầm. La Hồng Tiên là Tiến Sĩ của triều Minh). Ở trong phần tựa mở đầu cuốn <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> thì ông ấy có nói Tử Vi Đẩu Số là được một vị đạo sĩ ở núi Hoa Sơn có năm tu cỡ hai chục năm, dáng vẻ lão thành, đem tặng cuốn sách. Sau đó dựa theo sách mà học tập mà đoán ứng nghiệm như thần, bởi vì không dám giấu kín cho riêng mình nên đem công bố ra thiên hạ. Như thế thì, nói cách khác, cái bản <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> này chính là sở học sở tích lũy theo quá trình tự nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số của La Hồng Tiên, mang những điều tâm đắc mà viết thành. Cũng có thể nói, <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>> quy ước an Thân Mệnh kia cũng là theo sở kiến cá nhân của La Hồng Tiên, là một bộ phận trong tác phẩm của ông ấy, chứ cũng chẳng phải là chính đích thân lão thần tiên Trần Hi Di viết ra. Như thế, thì nhiều điều luận trong cuốn <<Tử vi Đẩu Số toàn thư>> này có gì cam đoan là hoàn toàn không có sai lầm hay không? Cổ nhân viết sách in sách bởi vì việc sao chép là không dễ dàng gì, cho nên thường ngày sửa lỗi in đầy rẫy, chữ tác đánh thành chữ tộ ("lỗ ngư hợi thỉ" là thành ngữ, chữ Lỗ viết thành chữ Ngư, chữ Hợi viết thành chữ Thỉ). Chúng ta có thể rất dễ dàng đưa ra nhiều chỗ nhầm lẫn trong cuốn <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>>. Do đó, phương thức xử lý tháng Nhuận của Tử Vi Đẩu Số ở đây cũng có thể là đại biểu cho ý kiến cá nhân của ông La Hồng Tiên mà thôi. Hơn nữa, các học giả hậu thế đều không hoàn toàn chiểu theo y như phương pháp xử lý tháng Nhuận theo quy ước an Mệnh Thân trong <<Tử Vi Đẩu Số toàn thư>>. Do đó, cái này cũng không thể được nhận định là chứng cứ hùng hồn về việc Tử Vi Đẩu Số không theo Tiết Khí. Huống hồ Tử Vi Đẩu Số lưu truyền đến nay, trong kết cấu cũng không phát sinh quá nhiều thay đổi trọng đại? Các vị không ngại thì đến tiệm sách mà xem các tác phẩm của Tử Vân tiên sinh, Liễu Vô Cư Sĩ, cùng với một số quảng cáo rùm beng về Khâm Thiên Tứ Hóa phi tinh,... ngoại trừ 14 chính tinh tương đồng với truyền thống ra thì còn lại đều không thấy nhiều bóng dáng của hình ảnh cổ thư nữa! Thậm chí ngay cả Tứ Hóa truyền thống đều biến thành ra "nhị Hóa", trong đó Hóa Quyền với Hóa Khoa bị tỉnh lược đi! Nhất thời đúng hay sai khó mà phân biện cho rõ, nhưng mà cũng đại biểu cho phép xem không chính gốc của cổ nhân lưu lại, người hậu thế từ kinh qua nghiệm chứng mà san định sửa đổi.
Thảo luận tới đây, chúng ta không ngần ngại để làm một loại "giả thiết", đó chính là nếu như "Tử Vi Đẩu Số" là sự lột xác từ "Quả Lão Tinh Tông" hoặc Chiêm Tinh học thì "Tử Vi Đẩu Số" nhất định chẳng thể nào thoát ly được cặp ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm. Do đó, tiên hiền cổ thánh lúc ban sơ thiết kế môn "Tử Vi Đẩu Số", tham chiếu phỏng theo vận hành của Nhật Nguyệt âm dương với biến hóa bốn Mùa, lấy "Tiết Khí" của Thái Dương vận hành trên Hoàng Đạo mà định Thân, Mệnh cung; lại tham khảo lấy "Nhật kỳ" của Nguyệt Lượng (mặt trăng) tròn khuyết để khởi Tử Vi tinh bàn. Như thế, cái tổ hợp cấu thành của thuật số mệnh học, nhất định sẽ phải giống ở riêng việc theo "Tiết Khí" làm căn cứ của thuật số để tiên tiến và chuẩn xác hơn.
Gần đây trên mạng có người hồi đáp Nguyệt Phần (số tháng) của Tử Vi Đẩu Số là căn cứ vào "Đẩu bính" để mà xác định, tháng Giêng thì "Đẩu bính" chỉ Dần, tháng Hai "Đẩu bính" chỉ Mão, tháng Ba thì "Đẩu bính" chỉ Thìn, v.v... Cái phép suy luận này cũng có vài điểm có chỗ mâu thuẫn:
Trước tiên, cái gọi là "Đẩu bính" là cái gì? Ứng với đúng cái phần phần đuôi của "Bắc đẩu thất tinh"! Nếu như quả chính xác là vậy thì tôi nhất định phải đưa ra sự sửa chữa uốn nắn! Bởi vì vị trí của chỗ "Đẩu bính" chỉ vào vẫn cùng với Tiết Khí có quan hệ không tách rời được!
Hoài Nam Tử viết: "Đẩu bính chỉ hướng Đông, thiên hạ đều Xuân; Đẩu bính chỉ Nam, thiên hạ đều Hè; Đẩu bính chỉ Tây, thiên hạ đều Thu; Đẩu bính chỉ Bắc, thiên hạ đều Đông".
Đây chính là cổ nhân lấy Bắc Đẩu thất tinh xem như ghi chép của quan trắc thời lệnh Tiết Khí. Cổ nhân phát hiện mà đem nó ghi chép lại. Thế thì vì sao mà có cái mối quan hệ đối ứng phù hợp như vậy nhỉ? Chủ yếu nhất vẫn là bởi vì Địa Cầu quay xung quanh Thái Dương mà biến đổi mối quan hệ của vị trí Hoàng Đạo. Do đó, chúng ta có thể nói "Đẩu bính" với Tiết Khí không liên quan hay sao? Huống hồ chỗ "Đẩu bính" chỉ vào Dần, Mão, Thìn, Tị,... cũng đều căn cứ vào sở định của Tiết Khí cả, không phải hay sao? Nếu như mà chẳng phải, thế thì xin hỏi rằng vào lúc tháng Nhuận của năm Nhuận thì "Đẩu bính" nó chỉ vào chỗ nào nhỉ?
Thứ hai, vị trí của chỗ "Đẩu bính" chỉ vào còn thuộc về "hiện tượng Thiên văn" mà làm sao có thể nói Đẩu Số với Thiên Văn là không liên quan đây? Ngoài ra, theo tôi được biết, vị trí của "Đẩu bính" di động mỗi ngày, từng Thời Thần (canh giờ) đều có vị trí biến động [Nó chỉ đúng chân thực phương hướng Đông Tây Nam Bắc hay không thì tôi vẫn còn nghi ngờ]. Vì thế, tôi còn đặc biệt đi sắm về một bộ giáo cụ rất đẹp của Bộ Giáo Dục phát hành - bàn chuyển các chòm sao để quan sát sao trời nhé! Đối với cái này mà có người nghi vấn, thì đề nghị ngài đừng ngại tới tiệm sách mà mua sắm vậy, đồng thời đi để mà quan sát một phen, ngài có thể hiểu rõ hơn!
Còn có người cho rằng Tử Vi Đẩu Số sở áp dụng chính là hệ thống "Hư tinh" chứ không phải là giống như Chiêm Tinh học xét đến sự vận hành của tinh thể thực tế. Do đó, khỏi cần đi giải thích về sự vận hành biến hóa của các tinh thể như là trong Chiêm Tinh học. Nên vì thế càng không cần bàn về việc Thái Dương quá cung với vấn đề Tiết Khí!
Về cơ bản, quan điểm này cũng có trăm ngàn chỗ sơ hở, chúng ta hãy nhìn quanh xem các môn chiêm bốc tinh mệnh của Trung Quốc, ngoại trừ Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh học hiện nay là cùng áp dụng sự vận hành của các tinh thể thực tế để mà làm cơ sở đoán mệnh ra, thì xin hỏi các vị, còn có một môn học thuật nào là xét đến hệ thống "Thực tinh" hay không? Thiên Can Địa Chi của Tử Bình Bát Tự, xin hỏi là có ai nhìn thấy được không? Hệ thống cửu tinh của Kỳ Môn Độn Giáp cũng chẳng phải là hư tinh hay sao? Hệ thống bát quái chẳng có nhẽ nào lại là tinh thể thực tế đấy à? Thế mà các môn đó đều dựa vào Tiết Khí để làm căn cứ, thế ngài cho rằng Tử Vi Đẩu Số có thể là ngoại lệ hay sao?
Một số bằng hữu có trả lời rằng chẳng cần biết mèo đen hay mèo trắng, có thể bắt được chuột thì chính là mèo tốt. Ý tức là chẳng kể là môn phái nào, chỉ cần toán được đúng thì nhất định là chính xác. Cái quan điểm này, cá nhân tôi đặc biệt tán thành, nhưng mà đây lại là một công trình khó khăn đặc biệt. Bởi vì Mệnh lý học chẳng phải là Toán học, nó cũng không có đáp án chuẩn mực, hoàn toàn chiểu theo kinh nghiệm cá nhân, cảm giác để mà nhận định, tựa hồ như rất khó có đáp án khách quan. Trừ phi có thể có một tổ chức đoàn thể giám sát cùng với một kho tư liệu khổng lồ để kiểm chứng tương hỗ, bằng không thì rất dễ rơi vào cái cảnh ông nói thì cho là ông có lý, bà nói thì cho là bà có lý, ai nói theo kiểu của người đó.
Ngoài ra, cá nhân tôi tuyệt đối tin tưởng vào "Mệnh vận tuyển trạch luận", nói cách khác là con người có thể thông qua sự lựa chọn để cải biến mệnh vận. Do đó, nhân tố của ảnh hưởng mệnh vận cũng không chỉ có riêng sinh thần bát tự, mà còn bao quát cả phong thủy, hoàn cảnh lớn lên, bối cảnh giáo dục, cha mẹ, vợ con,...
Chúng ta chỉ có thể căn cứ xác định một số đáp án sự kiện đã biết để suy đoán, bởi vì thực sự rất khó có một đáp án chuẩn mực, bất quá chúng ta vẫn đều là hy vọng có thể tập hợp một số học giả có chí hướng để nghiên cứu và thống kê, hy vọng có thể tiếp cận các chiêm tinh gia nước ngoài cùng đề xuất số liệu thống kê tin cậy để làm bằng chứng, cho nên tôi nói đây là một công trình đặc biệt to lớn.
Cuối cùng, tôi còn muốn nhấn mạnh một điểm, lập trường nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số của tôi tuyệt đối không phải là bảo thủ cứng nhắc, đứng ở lập trường người nghiên cứu mệnh lý, tôi thực sự mong muốn mở rộng tấm lòng để kiểm xét lại từ đầu các bảo vật mà Trần Đoàn lão tổ lưu lại, cái hay thì đường nhiên phải được tăng cường bảo tồn lưu giữ, có vấn đề thì chúng ta đương nhiên phải giải quyết vấn đề. Chiêm tinh thuật của người phương Tây có cục diện như ngày hôn nay cũng chính là công lao thuộc về sự phát triển của khoa học Thiên Văn cùng với sự sôi nổi của các học giả nghiên cứu, mới có thể có được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh (Tuy nhiên vẫn còn có một số vấn đề, nhưng ít ra thì trong phương diện cơ sở lý luận thì họ có rất ít tranh cãi). Trái lại thì Tử Vi Đẩu Số ở trong nước (các môn thuật số khác cũng thế) còn dừng lại ở quy mô mỗi ông nói một chút, mỗi cá nhân đều có một phần lý luận cao siêu có thể tự bào chữa, gặp lúc có ý kiến bất đồng thì choảng nhau chí chóe, cũng chẳng chịu tĩnh tâm để mà nghe ý kiến phản biện của người ta. Xin hỏi cái loại nghiên cứu học thuật như thế sẽ tiến bộ được chăng? Riêng vấn đề của Tiết Khí, Tứ Hóa, khởi Đại Hạn có ở cung Mệnh hay không, cũng đã khiến cho người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số đau hết cả đầu! Những cái khác càng không cần phải nói! Chúng tôi thực sự rất lo ngại, giả như có một ngày nào đó mà Đại Học trong nước (thậm chí Đại Học nước ngoài) muốn mở ra xây dựng chương trình học phần của môn Tử Vi Đẩu Số, thì không hiểu là sẽ phải giảng dạy như thế nào? Cho dù có chọn được người dạy được phù hợp, xin hỏi sẽ có bao nhiêu người tín phục nghe theo đây? Tới lúc đó, tôi có lẽ sẽ không nhịn được nếu như cứ nói đi nói lại cái luận điệu cũ rích: học tập mệnh lý cần không sợ tính toán sai lầm, chỉ sợ đến cố sống cố chết không nhận sai lầm!
Và quý vị cao nhân bậc thầy cùng chung sức. Nếu như tôi có sai lầm! Cũng hoan nghênh các cao nhân bậc thầy gửi thư đến phê bình và chỉ giáo! Tôi sẽ rất sẵn lòng hoan hỉ tiếp thu!
Phan Văn Khâm.
Với khả năng lý giải các nguyên lý và quy luật của vạn vật trong vũ trụ, Kinh Dịch đang trở thành một môn khoa học được ứng dụng ngày càng phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh.

Tại sao Kinh Dịch có thể ứng dụng rộng rãi trong kinh doanh?
Trong hoạt động kinh doanh, bên cạnh bản lĩnh cá nhân, chúng ta cần có một tầm nhìn chiến lược mới có thể đưa doanh nghiệp ngày càng đi lên. Tầm nhìn chiến lược đó có mối liên hệ mật thiết với những triết lý mà Kinh Dịch đưa ra. Chẳng hạn, khi bắt đầu khởi nghiệp, chúng ta cần chọn được một thời điểm phù hợp nhất nhằm tránh mọi rủi ro. Ở góc độ này, Kinh Dịch sẽ hỗ trợ các bạn nhìn thấy được một sự vận động khái quát và khách quan nhất của các trạng thái, hiện tượng mà cụ thể là sự biến động của tình hình kinh tế, xã hội.
Kinh Dịch bắt đầu được nghiên cứu từ thời cổ đại bởi người Trung Hoa rồi phát triển và trải qua nhiều biến đổi để tạo nên hệ thống triết lý. Khi thấu suốt bản chất của vạn vật và các nguyên lý bất biến của vũ trụ, bạn sẽ nhìn thấy được thời cơ thuận lợi cho doanh nghiệp tiến đến thành công. Đồng thời, nó cũng giúp chúng ta dự báo trước thách thức nhằm chủ động đưa ra giải pháp để tránh khỏi tổn thất một cách tối đa. Tuy nhiên, nếu chúng ta tin và khẳng định Kinh Dịch có khả năng thay đổi vận mệnh là hoàn toàn sai lầm. Bởi lẽ, mọi thứ diễn ra trong cuộc sống đều có quy luật. Có chăng, chúng ta chỉ có thể sử dụng sức lực và trí tuệ của con người để làm cho mọi thứ dễ dàng hơn và vượt qua một cách nhẹ nhàng mà thôi.
Kinh Dịch còn giúp các nhà tuyển dụng có thêm hành trang trong việc tuyển dụng nhân viên. Bằng những quy tắc về tướng mạo và tính cách con người, nhà lãnh đạo có thể dựa vào đó để chọn cho mình những cộng sự đắc lực. Ngoài ra, khi nắm được những đặc điểm bên trong của ai đó, bạn sẽ có sự điều chỉnh ứng xử cho phù hợp nhằm mang đến sự thành công trong xây dựng mối quan hệ xã hội.
Ngoài ra, Kinh Dịch còn được vận dụng để các chủ Doanh nghiệp biết cách xây dựng và sắp xếp phòng làm việc. Mục đích của việc làm này là nhằm tạo ra một môi trường chan hòa nhằm giúp đội ngũ nhân viên có được một không khí làm việc thoải mái và hứng thú nhất. Đồng thời, nó còn là điều kiện để mọi người phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình.
Một vài lưu ý khi ứng dụng Kinh Dịch trong kinh doanh
Kinh Dịch sẽ trở thành túi khôn của chúng ta trong kinh doanh với điều kiện được ứng dụng hợp lý và tránh lạm dụng. Đồng thời, người ứng dụng Kinh Dịch cần có sự hiểu biết tường tận và chính xác mọi nguồn gốc, nội dung trong Kinh Dịch. Bởi lẽ, khi chúng ta chỉ dừng lại ở những phán đoán mang tính chất hiện tượng và võ đoán thì mọi sự việc sẽ được quy chụp theo hướng tiêu cực.
Nếu muốn mời ai đó tư vấn về Kinh Dịch, chúng ta cần chọn cho mình một chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu chuyên sâu trong môn khoa học này để đảm bảo không gây tác động xấu đến đời sống. Không chỉ thế, bạn cần cảnh tỉnh trước hiện tượng rộ lên nhiều thầy xem địa lý, phong thủy mượn Kinh Dịch để trục lợi và rút tỉa túi tiền người dân. Đồng thời, chúng ta cần tránh sự đánh đồng theo một số quan niệm dân gian như “Dần thân tị hợi tứ hoành xung” hoặc “Nam La Hầu nữ Kế đô” chỉ vận hạn con người,… Bởi lẽ, tất cả những lời đồn thổi đó đều không xuất phát từ căn cứ có cơ sở khoa học Kinh Dịch rõ ràng.
Quy tắc bói bài:
1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.
2. Tự hỏi thầm bản thân “Mẫu người như thế nào sẽ mang lại hạnh phúc cho mình?”.
3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.
Lựa chọn 1: Queen of Wands
![]() |
Lựa chọn 2: The Fool
![]() |
Lựa chọn 3: The World
![]() |
Xem bói kết quả:
Lựa chọn 1: Queen of Wands – Người coi trọng gia đình
Bốc được lá bài này cho thấy bạn thuộc nhóm những người cực kỳ tham vọng, cho dù là nam hay nữ. Với bạn, danh vọng mới là đích đến hoàn hảo để trải nghiệm niềm vui trong cuộc sống. Đôi lúc vì quá mải miết theo đuổi thành công mà bạn quên đi mình còn gia đình và những người thân. Do vậy, người yêu sẽ là yếu tố dung hòa và gợi nhắc bạn về sự tồn tại của các mối quan hệ.
Người coi trọng gia đình, chăm lo cho bạn từng bữa ăn, buổi hẹn hò hay lo những đêm bạn làm việc mất ngủ. Đó là lựa chọn tuyệt vời để bạn gửi gắm. Hơn nữa, “gấu” còn là người sống chậm, sẽ mang lại cảm giác bình yên trong cuộc sống nhiều sóng gió của bạn.
Lựa chọn 2: The Fool – Người rộng lượng, dễ chia sẻ
Tính khí của bạn được cho là “không bao giờ lớn” vì thích được cưng chiều, chỉ muốn dựa dẫm vào bờ vai nào đó hoặc có người để trút mọi nỗi niềm. Hơn nữa, bạn còn hay để ý tới những chuyện nhỏ nhặt và suy nghĩ rất nhiều về sự thay đổi trong cảm xúc của cả hai. Sự nhạy cảm thái quá của bạn đôi lúc khiến chiến tranh lạnh giữa hai người xảy ra một cách khó kiểm soát.
Với tất cả những ưu và nhược điểm trên, một nửa mang lại hạnh phúc cho bạn cần hội tụ sự rộng lượng, biết lắng nghe và không chấp vặt. Đối phương chỉ coi những lần giận hờn vu vơ của bạn là chuyện nhỏ, thậm chí lấy đó là “gia vị” không thể thiếu trong tình yêu. Hai bạn cùng rất hợp nhau về sở thích ăn uống, lê la quán xá.
Lựa chọn 3: The World – Người cầu toàn
Bạn chiêm nghiệm cuộc sống là những trải nghiệm thám hiểm cái mới mẻ, thậm chí là tạo ra xu hướng có sức ảnh hưởng tới số đông. Do vậy bạn chẳng ngại ngần đưa ra những quyết định mang tính mạo hiểm cao và sẵn sàng chấp nhận hậu quả sẽ đánh mất tất cả. Tưởng chừng tính cách ấy chỉ ảnh hưởng tới sự nghiệp, công việc, nhưng bạn còn thử thách cả tình yêu.
Trái ngược với con người sôi nổi, có phần nổi loạn như bạn, “gấu” cần sự điềm tĩnh và an toàn để bù đắp. Những lúc bạn quá nông nổi, người ấy sẽ xuất hiện đúng lúc để đưa ra lời khuyên hữu ích. Nói cách khác, với bạn, người yêu không chỉ là “gấu”, mà còn là tri kỉ.
![]() |
| Tiền đồng |
![]() |
| Tiền đồng Xuất nhập bình an |
![]() |
| Sư tử đồng |
![]() |
| Long quy |
![]() |
| Chuông gió |
![]() |
| Hồ lô gỗ |
Cùng tìm hiểu ý nghĩa của 50 tên dành cho các bé trong năm 2016 này nhé.
Tên ý nghĩa cho bé trai năm 2016
Các tên theo vần từ A – N
1. THIÊN ÂN – Con là ân huệ từ trời cao
2. GIA BẢO – Của để dành của bố mẹ đấy
3. THÀNH CÔNG – Mong con luôn đạt được mục đích
4. TRUNG DŨNG – Con là chàng trai dũng cảm và trung thành
5. THÁI DƯƠNG – Vầng mặt trời của bố mẹ
6. HẢI ĐĂNG – Con là ngọn đèn sáng giữa biển đêm
7. THÀNH ĐẠT – Mong con làm nên sự nghiệp
8. THÔNG ĐẠT – Hãy là người sáng suốt, hiểu biết mọi việc đời
9. PHÚC ĐIỀN – Mong con luôn làm điều thiện
10. TÀI ĐỨC – Hãy là 1 chàng trai tài dức vẹn toàn
11. MẠNH HÙNG – Người đàn ông vạm vỡ
12. CHẤN HƯNG – Con ở đâu, nơi đó sẽ thịnh vượng hơn
13. BẢO KHÁNH – Con là chiếc chuông quý giá
14. KHANG KIỆN – Ba mẹ mong con sống bình yên và khoẻ mạnh
15. ĐĂNG KHOA – Con hãy thi đỗ trong mọi kỳ thi nhé
16. TUẤN KIỆT – Mong con trở thành người xuất chúng trong thiên hạ
17. THANH LIÊM – Con hãy sống trong sạch
18. HIỀN MINH – Mong con là người tài đức và sáng suốt
19. THIỆN NGÔN – Hãy nói những lời chân thật nhé con
20. THỤ NHÂN – Trồng người
21. MINH NHẬT – Con hãy là một mặt trời
22. NHÂN NGHĨA – Hãy biết yêu thương người khác nhé con
23. TRỌNG NGHĨA – Hãy quý trọng chữ nghĩa trong đời
24. TRUNG NGHĨA – Hai đức tính mà ba mẹ luôn mong con hãy giữ lấy
25. KHÔI NGUYÊN – Mong con luôn đỗ đầu.
Các tên theo vần từ N – V
26. HẠO NHIÊN – Hãy sống ngay thẳng, chính trực
27. PHƯƠNG PHI – Con hãy trở thành người khoẻ mạnh, hào hiệp
28. THANH PHONG – Hãy là ngọn gió mát con nhé
29. HỮU PHƯỚC – Mong đường đời con phẳng lặng, nhiều may mắn
30. MINH QUÂN – Con sẽ luôn anh minh và công bằng
31. ĐÔNG QUÂN – Con là vị thần của mặt trời, của mùa xuân
32. SƠN QUÂN – Vị minh quân của núi rừng
33. TÙNG QUÂN – Con sẽ luôn là chỗ dựa của mọi người
34. ÁI QUỐC – Hãy yêu đất nước mình
35. THÁI SƠN – Con mạnh mẽ, vĩ đại như ngọn núi cao
36. TRƯỜNG SƠN – Con là dải núi hùng vĩ, trường thành của đất nước
37. THIỆN TÂM – Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, mong con hãy giữ một tấm lòng trong sáng
38. THẠCH TÙNG – Hãy sống vững chãi như cây thông đá
39. AN TƯỜNG – Con sẽ sống an nhàn, vui sướng
40. ANH THÁI – Cuộc đời con sẽ bình yên, an nhàn
41. THANH THẾ – Con sẽ có uy tín, thế lực và tiếng tăm
42. CHIẾN THẮNG – Con sẽ luôn tranh đấu và giành chiến thắng
43. TOÀN THẮNG – Con sẽ đạt được mục đích trong cuộc sống
44. MINH TRIẾT – Mong con hãy biết nhìn xa trông rộng, sáng suốt, hiểu biết thời thế
45. ĐÌNH TRUNG – Con là điểm tựa của bố mẹ
46. KIẾN VĂN – Con là người có học thức và kinh nghiệm
47. NHÂN VĂN – Hãy học để trở thành người có học thức, chữ nghĩa
48. KHÔI VĨ – Con là chàng trai đẹp và mạnh mẽ
49. QUANG VINH – Cuộc đời của con sẽ rực rỡ,
50. UY VŨ – Con có sức mạnh và uy tín.
CÁCH LUẬN ĐOÁN THỦY KHÍ TỤ HAY TÁN Hướng thủy khí đến là tụ, hướng thủy khí đi là tán, như đã nói ở mục trên, đường sá trước cửa nhà (tức hư thủy), bên dài là thủy khí đến, bên ngắn là thủy khí đi. Nhưng khí cửa hiệu đối diện với đường sá thì không thể dùng phương pháp đó mà phải phối hợp với chiều xe lưu thông. - Nếu phía trước cửa nhà tiếp cận quá gần đường xe lưu thông, mà chiều xe lại chạy từ bên phải qua bên trái thì hướng thủy khí tới là bên phải và hướng thủy đi là bên trái, lúc ấy nên mở cửa bên trái tức bên thanh long để thu thủy khí của bên bạch hổ. (Xem hình 1, 2).
Hình 1. Đường xe lưu thông tiếp cận từ bên trái qua bên phải, đây là thủy khí đi từ bên trái qua bên phải, nên mở cửa phương bạch hổ để tiếp thủy khí.
Hình 2
Đường xe lưu thông tiếp cận từ bê phái qua bên trái, đây là cuộc thủy khí từ bên phải đến, nên mở cửa bên thanh long để tiếp thủy khí.
Ngoại trừ việc dùng chiều xe lưu thông, có một số con đường người ta phải căn cứ vào địa hình để định đoán thủy khí tới. Thí dụ như trong các khu thương nghiệp lớn, việc đoán định hướng thủy tới và hướng thủy đi trong ấy sẽ gặp khó khăn hơn nhiều. Thông thường người ta lấy vị trí của các cầu thang lên xuống để định hướng thủy tới. Mà việc đoán ảnh hưởng của tốt xấu do thủy tới và thủy đi cho các cửa hiệu cần phải lấy các tiêu chuẩn như: HÌnh dạng ôm lại, hay phản cung, đường bên trái dài hay bên phải dài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Xem tay
Tay dài quá gối là đại trí anh hùng, tay ngắn và dày thô là tham bỉ biển lận, tay dài mà nhỏ là thường giúp đỡ mọi người. Thân hình nhỏ bàn tay lớn có phước lộc.
Thân hình lớn tay nhỏ là người thanh cao: Tuy nghèo mà vẫn đầy đủ tư cách, tay thơm có hơi ẩm là người hào hoa, tình tứ. Tay hôi âm ĩ lạnh là ô trược, thô bỉ, háo dâm. Ngón tay thon nhỏ dài thiếu quyết đoán, nhưng khôn ngoan mưu trí.
Ngón tay ngắn cứng là cộc cằn nóng nảy, làm liều, làm sai, ngu xuẩn mà ngoan cố. Ngón tay sè ra kín đáo là tài cầm của. Ngón tay khô thưa sè ra có kẻ hở lớn là phá hại của cải không giữ lâu bền.
Đầu ngón tay nở lớn là người có phước lộc: tay mỏng ngón gầy khô như tre rừng là bần tiện nghèo hèn, vô tài bất trí. Tay nhuyễn là giàu sang.
Tay cứng cũng như móng bò là ngu si bần tiện, bàn tay dài, thân bàn tay và ngón tay đều, dài là người sang quí đài các, mỏng ngắn là bần hàn, dùi đục là thô bỉ cộc cằn.
Chung quanh thịt cao, lòng bàn tay sâu lỏm là người giàu có. Chung quanh thật thấp giữa lòng bàn tay no đầy là hao tài tán tài không có dư, bàn tay tươi mịn là phú quí, khô cằn là nghèo khổ.
Bàn tay sắc đỏ như son là giàu sang, dầu có nghèo cũng sạch, cũng sung sướng. Bàn tay màu vàng nghệ hay xanh xám là cùng khốn, nghèo hèn. Bàn tay trắng bệch là nghèo khổ bệnh tật.
Tóm lại bàn tay và ngón tay quí là no đủ đầy đặn, và dài kín ấm thơm và sắc hồng nhuận là thật tốt.
Xem chân
Chân là cột trụ chống đỡ thân mình. Chân cần thon, có dáng vóc vuông dài, thanh lịch mềm mại là người phú quí, nếu chân nhỏ cụt, mỏng và dáng thô và cứng ngắc, đó là người bần tiện.
Gót chân nứt nẻ là hạ tiện, dày mà rộng lớn bề ngang quá cũng nghèo khổ chớ không sang. Dưới gót có lằng như cái xoáy là có danh vọng lớn. Lòng bàn chân bằng như miếng gỗ là nghèo hèn cực khổ tới già.
Lòng bàn chân khuyết như chiếc thuyền úp, hay mặt trăng lưỡi liềm nằm giữa là người phú quí.
Ngón chơn dài, hơi thon nhọn là người trung nghĩa thuần hậu. Dưới bàn chân có nút ruồi là có uy quyền. Chân mà dẹp mỏng là hèn, chân thon nhỏ mà dầy cao là sang quí.
Sao Tử vi là đế Tài tinh, quý nhiều hơn phú, thiên về quyền thế, danh vị, có mệnh làm ông chủ, tọa cung Tài bạch thì tài vận rộng rãi ổn định, có tiền có thể chuyển đổi, tiền tài không thiếu, thường sinh ra trong gia đình phú quý. Cuộc đời không lo thiếu tiền.

Có thể có được tài sản của tổ tông hoặc tiền tài trợ giúp của người khác, thường có được tài không phải do lao động mà có được, thu nhập cao, có tư thế của kiếm tiền nhưng không thích hợp bộc phát, nên dựa vào danh vọng để sáng tạo tài phú.
Sao Tử vi thích thể diện, chú trọng trật tự, tiền kiếm nhiều nên tiêu nhiều, cần chú ý tăng thu nhập và giảm chi tiêu, không được khoa trương tiền tài quá mức để tránh tài đến tài đi, cuối cùng vẫn là bàn tay trắng.
Sao Tử vi thuộc âm Thổ, là sao đế vương tôn quý, là chủ của cung Quan lộc, có khả năng hóa giải tai họa, chế hóa, bao dung.
Sao Tử vi quý là đế tọa, không thích độc tọa, khi độc tọa thì thiếu hiền thần phù tá, giống như vua cô độc, thấy ai nói cũng có lý, thích đao to búa lớn, tự phụ không có chủ kiến nên dễ bị gian thần tiểu nhân che giấu, độc đoán chuyên quyền, nếu không biết biến báo thì khó tránh khỏi nhiều việc không thực hiện được.
Phương thức quản lý tiền tài của sao Tử vi rất rộng, có hứng thú đối với cổ phiếu, bất động sản, đất đai, vàng bạc châu báu, ngoại tệ, nhưng không quá tính toán tiền nong, rất chú ý đến thế diện, thường thích sống trong tòa nhà đẹp, đi xe đẹp, mặc đẹp và mới, cuộc sống rất giàu có.
Sao Tử vi tôn quý, bản thân yêu cầu cao, có được tiền bằng chính nghĩa, làm việc luôn đòi hỏi sự hoàn mỹ, thường được người khác công nhận và tôn trọng, trở thành có quyền uy trong lĩnh vực nào đó. Nếu có cát tinh phù tá thì thích hợp sáng nghiệp kinh doanh thương mại, có thể kinh doanh thiên về văn nghệ, hoặc buôn bán độc nhất có tính đặc sắc, có bản quyền.
Sao Tử vi thường dễ chịu ảnh hưởng của các sao đồng cung hoặc các sao khác của cung vị Tam phương Tứ chính, ưa nhất là được sự phù trợ của 6 cát tinh, đồng thời cũng thích các sao như Lộc tồn, Thiên mã, Thiên tướng, Thái âm, Thái dương, Thiên phủ. Sao Tử vi gặp sát tinh thì kiếm tiền phải bôn ba vất vả, dễ gặp trắc trở hoặc hao tổn tài.
Ở nước ta, từ lâu, tết Trung Thu đã biến thành ngày Tết Nhi đồng. Trẻ em được ăn bánh ngọt và vui chơi trong đêm với nhiều loại lồng đèn hình dáng, màu sắc khác nhau.
Người Việt ảnh hưởng tục lệ của người Hoa nhưng lễ cúng thần Thái Âm đơn giản hơn. Lễ vật cúng gồm có trà, bánh, hương hoa, không có bưởi, khoai môn và đậu phộng như lễ vật của người Hoa.
Tết Trung Thu là cái Tết lớn thứ ba trong năm. Từ hình ảnh tròn của vầng trăng, con người thuở xưa đã ký thác tư tưởng của mình thành một biểu tượng: đó là chiếc bánh tròn mà người ta gọi nó là Nguyệt Bính hay Bánh Vầng Trăng. Ngắm trăng thu mà không ăn Nguyệt Bính sẽ là vô nghĩa.
(h.1)
Về mặt ngôn ngữ, người ta lại liên kết cái ý niệm "Tròn" (viên) của Trăng với cảnh quây quần "đoàn viên" của con người qui tụ ăn mừng để thưởng Trăng. Rồi từ ý niệm này, lại nảy sinh ra huyền thoại ông già dưới trăng "Nguyệt lão" chắp mối tơ hồng để trai gái kết hôn.
Vầng trăng dịu dàng tượng trưng cho nguyên lý Âm, chủ về phụ nữ, nên vào đêm rằm Trung Thu, phụ nữ Trung Hoa thường bầy tiệc cúng Trăng với hương đèn và mâm ngũ quả cùng Nguyệt Bính, đặc biệt nếu cúng dưa hấu thì không nên bổ đôi mà phải lấy dao tiả thành hoa sen (vì kiêng cữ ý niệm "phân qua" tức là chia rẽ phân ly). Tục này truyền qua Việt Nam, ngoài Bắc trở thành tục bày cỗ thưởng nguyệt với bánh mặt trăng và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả trong mùa, đặc biệt phụ nữ trong nhà có dịp trổ tài phụ xảo nữ công bằng cách gọt đu đủ thành các thứ hoa nhuộm phẩm sặc sỡ hay nặn bột thành những con giống như tôm, cua, cá.
Một điểm đặc biệt là trên nắp các hộp bánh Trung Thu bán ở thị trường thường vẽ những bức hoạ như Hằng Nga Ngọc Thố Quảng Hàn cung hay Đường Minh Hoàng du Nguyệt Điện để thể hiện những huyền thoại liên quan đến mặt trăng.
Ở Việt Nam từ xưa đến nay, bánh Trung Thu gồm hai hình thức: dẻo và nướng.
Bánh dẻo làm bằng bột nếp trắng tinh nhồi với đường với nước hoa bưởi thơm lừng, đúc trong khuôn gỗ thường hình tròn, nhân làm bằng hột sen hay đậu xanh tán nhuyễn là chiếc bánh Trung Thu mang sắc thái Việt Nam hơn bánh nướng. Theo khẩu vị Hà Nội, bánh dẻo thường ngọt sắc hơn trong Nam. Đường kính của bánh thường rất lớn, có thể gần bằng chiếc mâm, để thể hiện hình dáng của vầng trăng thu lớn và trắng ngà trong biểu tượng của ý nghĩa "đoàn viên của gia đình" và nhất là tình yêu khắng khít vợ chồng.
(hin. banhdeo)
Bánh nướng Trung Thu hầu như vẫn trong bí quyết chế biến của dân Việt gốc Hoạ Hình dáng bánh nướng thường vuông hay tròn, thường đựng vừa khít bốn chiếc trong một cái hộp giấy vuông. Vỏ bánh làm bằng bột mì dậy men trộn với trứng gà và chút rượu, nhân thì có thể thuần tuý thường làm bằng đậu xanh, khoai môn, hay hột sen tán nhuyễn bao bọc lấy một hay hai tròng đỏ trứng vịt muối có mùi vani hay sầu riêng hoặc là nhân thập cẩm gồm đủ thứ như dăm bông, thịt quay, vi yến, dừa, hạt dưa, vỏ quít, ngó sen, bí đao.
Một điểm cần biết là những chiếc bánh nướng Trung Hoa mà chúng ta quen ăn ở Việt Nam hay mua tại những tiệm Hoa đại đa số ở hải ngoại chính là thoát thai từ kiểu thức và khẩu vị của vùng Quảng Đông bên Trung Hoa với những đặc điểm sau: vỏ bánh có vị ngọt, bánh đúc từ khuôn gỗ, còn về nhân thì thập cẩm bao gồm đến 200 loại vô cùng phong phú.
Về mặt thưởng thức, bánh nướng mới ra lò ăn không ngon vì vỏ khô cứng mà phải chờ ba ngày sau, mỡ trong lớp nhân mới rịn ra làm bánh ăn mềm và thơm ngon. Mặc dù người ta quảng cáo bánh có thể bảo quản lâu đến một tháng nhưng điều kiện khí hậu bình thường thì bánh chỉ nên ăn trong vòng hai tuần là tối đa nếu không thì ngửi khét dầu và làm sình bụng.
(hình. banhnuong)
Về sự tích bánh trung thu còn được kể lại như sau:
Huyền thoại thứ nhất: Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu ban cho viên thuốc trường sinh để sống lâu bảo vệ thế gian. Nhưng Hằng Nga lại lén ăn cắp thuốc này và bay tuốt lên mặt trăng. Trên mặt trăng, Hằng Nga làm bạn với một con thỏ ngọc đứng dưới gốc cây. Không khí trên mặt trăng vốn lạnh buốt nên do đó được gọi là Quảng Hàn cung. Hằng Nga bị lạnh nên phải ho làm viên thuốc trường sinh văng ra khỏi họng. Nàng bèn nghĩ nên lấy viên thuốc này giao cho con thỏ giã nhỏ ra thành bột mà rắc xuống thế gian mà để thiên hạ cũng được trường sinh.
Huyền thoại thứ hai là về vua Đường Minh Hoàng là người rất muốn luyện phép tu tiên. Chính tục lệ treo đèn và bầy cỗ vào đêm rằm tháng Tám vì đó là ngày sinh nhật của ông nên truyền cho thiên hạ khắp nơi phải làm thế để mừng cho ông. Chính vào đêm rằm này, ông ra lệnh cho viên đạo sĩ La Công Viễn làm phép thế nào để ông du hồn lên chơi trên mặt trăng. Truyền thuyết kể rằng đạo sĩ này đã cho ông uống một liều thuốc gì đó rồi nói vua kê đầu vào một cái gối đặc biệt trong một khung cảnh mờ ảo có đốt hương trầm phảng phất. Quả nhiên, nhà vua trong chốc lát thấy hồn mình nhẹ nhàng bay bổng lên vùng Nguyệt Điện rồi chứng kiến một bày tiên nữ lả luớt nhảy múa ca hát trong những bộ xiêm y theo bảy sắc của cầu vồng. Lúc tỉnh dậy, nhà vua bèn nhớ lại bắt chước mà sáng tác ra khúc nhạc Nghê Thường Vũ Y Khúc (Nghê là cái cầu vồng, Thường là cái xiêm váy). Khúc nhạc này rất nổi tiếng và lưu dấu trong thi văn hậu thế và ngộ thay, vua Đường Minh Hoàng đầy nghệ sĩ tính lại được giới nghệ thuật ca vũ Trung Hoa đời sau suy tôn là "Thánh tổ" của nghề nghiệp của họ.
Theo Yêu du lịch
Trích từ nguồn: danong.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Theo TS Nguyễn Sỹ Toản, Trưởng khoa Di sản văn hóa, ĐH Văn hóa Hà Nội, tục hái lộc đầu năm tùy vào quan niệm, nhận thức và điều kiện môi trường sống của từng vùng miền mà con người sẽ có và nên có cách ứng xử phù hợp khi tham gia hoạt động tín ngưỡng trong dịp đầu năm mới.
Nếu sống ở vùng trung du, miền núi có thể sẽ thuận lợi hơn cho việc lựa chọn hái một cành chồi non trên các loại cây có sức sống mạnh mẽ, xanh tốt quanh năm như sanh, si, sung, đa với ý nghĩa biểu tượng mang lộc chồi, sự sinh sôi nảy nở về nhà. Nơi thành thị, đất chật người đông, ít cây xanh và thường được qui hoạch trên các đường phố, nếu cả trăm người hái lộc bẻ cành thì cây cối trơ trụi. Phong tục tốt đẹp trở thành hành động tàn phá môi trường.
“Dù sống ở vùng miền nào, có lẽ chúng ta nên thay đổi quan niệm, không nhất thiết phải bẻ cành hái quả mới là xin lộc đầu năm. Khi đi lễ đền, chùa đầu năm, ta thắp một nén hương, khấn Thần, Phật với tâm trong sáng, xin những điều may mắn, tốt lành đem về gia đình. Đó cũng là hình thức hái lộc theo đúng nghĩa và phù hợp với xu thế phát triển hiện nay”, ông Toản nói.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng, quan niệm bẻ cành càng to, càng nhiều lộc là cách hiểu “hết sức trần trụi”, hay nói đúng hơn là thiếu sự thiếu hiểu biết.
Ông Toản giải thích: “Giống như việc đi lễ đình, đền, chùa, một số người sai lầm khi tin rằng đem mâm cao, cỗ đầy, lễ vật nhiều thì được Thần, Phật ban tặng nhiều tài lộc, may mắn. Vậy người to khỏe, mạnh tay bẻ cành to sẽ có nhiều lộc hay sao? Thực hiện nghi thức tín ngưỡng để con người vững tâm hơn, từ đó tập trung phấn đấu vào năm mới. Hiểu được ý nghĩa sâu xa của phong tục hái lộc, ta sẽ không chen lấn xô bồ”.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Sỹ Toản chia sẻ, bản thân ông và gia đình chưa bao giờ hái lộc bằng hình thức bẻ cành cây đầu năm. Ông thường tự nhắc nhở bản thân và con cháu, tài lộc, danh vọng đều do nỗ lực của bản thân mình mà có chứ tuyệt nhiên không có sự ban phát của Thần, Phật cho người không nỗ lực rèn luyện phấn đấu.
Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia cho hay, ông cảm thấy buồn khi chứng kiến cảnh cây cối tan tác đêm giao thừa những năm gần đây.
“Gìn giữ phong tục hái lộc là điều đáng quý nhưng bẻ cả cành to đem về nhà, đó là hành vi phá hoại, sai tín ngưỡng”, GS Thịnh nói.
Theo GS Thịnh, mọi người có thể xin lộc đầu năm bằng cách lấy những cành lộc tượng trưng được chuẩn bị sẵn ở đền, chùa, đặt lại đó chút tiền lẻ công đức. Hoặc người dân chọn mua cành lộc bán ở đường, mua một vài quả khế, cây mía hoặc một chậu cây nho nhỏ… đem về nhà trong ngày đầu năm.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Bói tình yêu để biết nhân duyên của bạn |
Mái nhà không chỉ dùng để che mưa nắng mà theo phong thuỷ thì hình dáng, cách lắp đặt và vật liệu nóc quyết định đến sự lành dữ của ngôi nhà. Vì vậy, khi thiết kế cần phải tránh các kiểu hình dáng mái nhà sau:
– Nóc mái hình tam giác: Với mái nhà hình tam giác lại có độ dốc quá lớn, sẽ dễ làm cho thể khí trong và ngoài nhà biến đổi dị thường. Bởi vậy, cách khắc phục tốt nhất là cắt ngang mái nhà, lắp đặt một nóc mái mới nghiêng ra ngoài, như vậy vừa đẹp lại vừa phù hợp với yêu cầu phong thủy.

– Mái nhà dốc về một phía: Kiểu mái này dễ làm cho ánh nắng chiếu rọi vào trong nhà, làm ảnh hưởng tới sự hấp thu khí của cơ thể người. Khắc phục bằng cách nâng cao một mái lên cách mặt là 3m và ở phía bên kia nên thiết lập mái mới, dài 3m là lý tưởng nhất.
– Mái bằng: ngày nay, nhiều người thường thiết kế kiểu mái này để tận dụng làm sân thượng, đồng thời làm sân phơi hoặc hóng mát buổi tối. Vì là mái bằng phẳng nên truyền nhiệt khá nhanh, khiến không khí trong nhà luôn nóng bức về mùa hè và lạnh lẽo về mùa đông, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của người sông bên trong. Khắc phục bằng cách: Nếu là mái gỗ thì nên nâng cao nền; nếu giấy dán tường trong nhà là loại plastic, thì nên đổi bằng vải hoặc ốp ván mỏng, nếu là kiểu nhà Tây hoặc biệt thự, có thể bóc gỡ những vật liệu hợp chất hóa học, vật liệu tổng hợp kiểu mới ra, ốp bằng ván gỗ mỏng lên tường, mặt nền lát bằng vật liệu gỗ dày sẽ mang lại cảm giác mát mẻ và ấm áp hơn.
– Mái giữa cao hai bên thấp: mái nhà này lồi lõm không bằng phẳng, tốc độ nước mưa xôi xuống nhanh và mức độ xâm thực của nước cũng tăng, vật liệu xây dựng sẽ chóng mục và chỗ tiếp giáp của mái cũng bị ảnh hưởng không tốt. Khi lựa chọn dùng loại mái này, cần phải chú ý tới việc lắp đặt vật liệu xây dựng có chất lượng tốt.
Nhà mái cao có vai trò rất quan trọng trong việc tránh nước mưa và gió. Do đó khi xây mái nhà nhất định phải biết được sự cần thiết, phải xây mái cao và chú ý đến chất liệu làm mái nhà. Hiện nay có rất nhiều vật liệu xây dựng, độ nghiêng dốc của mái nhà cũng phải phụ thuộc vào chất liệu xây dựng. Chất liệu để làm mái nhà nên chọn những loại thuộc về thực vật có chứa nước như rơm rạ, cỏ, cỏ tranh, tấm ván… Độ nghiêng của mái nhà phải lớn mới có thể chống nước mưa dễ dàng. Nếu dùng ngói thì phần ngói xếp kè lên nhau phải lớn để tránh nước mưa chảy ngược lại hoặc bị gió lật ngược. Ngoài ra, cũng có thể dùng tấm thép, tấm nhôm để lợp mái nhà, có điều giá thành hơi cao.
Bất kể là mái nhà làm bằng chất liệu gì, có hình dạng như thế nào thì việc chống mưa dột, gió lùa cũng đều rất quan trọng. Bởi thế cần phải sớm sửa chữa phần mái nhà bị dột nước mưa để giảm bớt nguy cơ nguy hiểm. Trong sách cổ người ta gọi là “vị vũ trù mưu”.
Nhà mà bị dột nước hay ngói trên mái nhà mà không chắc chắn là dấu hiệu người trong nhà bị bệnh tật, cần phải cẩn thận. Mái nhà không chắc chắn thể hiện ngôi nhà đã quá cũ.
Mái nhà là bộ phận rất quan trọng và nổi bật của mỗi ngôi nhà. Nếu mái nhà bị dột mưa hay ngói trên mái nhà không chắc chắn là do thiếu sự tu sửa. Hơn nữa nhà bị dột sẽ dẫn đến tai hoạ liên tiếp, bởi thế người ta có câu: “nhà dột do gặp mưa liên tiếp, thuyền hỏng do nằm ở đầu gió”.
| ► Tra cứu ngày âm lich hôm nay chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
![]() |
| That Luang là lễ hội Phật giáo lớn nhất tại Lào được tổ chức hàng năm vào tháng 12 Phật lịch |
Lấy vợ lấy chồng, ta có tục so đôi tuổi, xem có hợp thì mới lấy, tin rằng hễ không hợp thì về sau vợ chồng ở với nhau không được chu toàn. Cũng có khi là một cách nhã để từ chối không gả, đổ cho tại tuổi, chứ không phải chê bai. Nhưng phần nhiều là tin thật.
Ngũ hành tương sinh là hợp, là tốt:
Ngũ hành tương khắc là không hợp, là xấu:
Hành của chồng mà sinh hành của vợ thì gọi là sinh xuất, hành của vợ mà sinh hành của chồng thì gọi là sinh nhập. Khắc cũng thế, chồng khắc vợ là khắc xuất, vợ khắc chồng là khắc nhập.
Sinh nhập thì thật là tốt. Sinh xuất thì là tiết khí, hơi kém. Khắc xuất thì xấu, nhưng còn tiềm tiệm được. Khắc nhập thì thật là xấu, không nên lấy nhau.
Tị – Hòa: hai vợ chồng cùng một hành thì là tị – hòa cũng có thể dung được.
Có câu rằng:
Mỗi hành chia làm mấy thứ, như hành Hỏa, thì có Tích – lịch – hỏa (lửa sấm sét) với Thiên – thượng – hỏa (lửa trên trời), hai thứ cùng dữ dội. Hai thứ hỏa ấy là hỏa – diệt, không thể đi được với nhau.
Lại có câu:
Những thế cùng hành ấy là dung nhau được, như Phù đăng hỏa (lửa đèn) với Sơn – hạ – hỏa (lửa dưới núi) phải nhờ lẫn nhau mới sáng, thế là Lưỡng hỏa thành viêm.
Cũng có thế khắc, nhưng mà khắc nhẹ, vợ chồng ở với nhau chỉ lạt lẽo mà thôi, chứ không đến nỗi phải lìa.
Tuổi nào hành gì?
| Năm | Can chi | Niên mệnh | Nghĩa niên mệnh | Quẻ dịch nam | Quẻ dịch nữ |
| 1905 | Ất Tỵ | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1906 | Bính Ngọ | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1907 | Đinh Mùi | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1908 | Mậu Thân | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1909 | Kỷ Dậu | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1910 | Canh Tuất | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1911 | Tân Hợi | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1912 | Nhâm Tý | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1913 | Quý Sửu | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1914 | Giáp Dần | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1915 | Ất Mão | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1916 | Bính Thìn | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1917 | Đinh Tỵ | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1918 | Mậu Ngọ | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1919 | Kỷ Mùi | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1920 | Canh Thân | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1921 | Tân Dậu | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1922 | Nhâm Tuất | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1923 | Quý Hợi | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1924 | Giáp Tý | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1925 | Ất Sửu | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1926 | Bính Dần | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1927 | Đinh Mão | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1928 | Mậu Thìn | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1929 | Kỷ Tỵ | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1930 | Canh Ngọ | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1931 | Tân Mùi | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1932 | Nhâm Thân | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1933 | Quý Dậu | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1934 | Giáp Tuất | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1935 | Ất Hợi | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1936 | Bính Tý | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1937 | Đinh Sửu | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1938 | Mậu Dần | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1939 | Kỷ Mão | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1940 | Canh Thìn | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1941 | Tân Tỵ | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1942 | Nhâm Ngọ | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1943 | Quý Mùi | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1944 | Giáp Thân | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1945 | Ất Dậu | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1946 | Bính Tuất | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1947 | Đinh Hợi | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1948 | Mậu Tý | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1949 | Kỷ Sửu | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1950 | Canh Dần | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1951 | Tân Mão | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1952 | Nhâm Thìn | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1953 | Quý Tỵ | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1954 | Giáp Ngọ | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1955 | Ất Mùi | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1956 | Bính Thân | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1957 | Đinh Dậu | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1958 | Mậu Tuất | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1959 | Kỷ Hợi | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1960 | Canh Tý | Bích Thượng Thổ | Đất tò vò | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1961 | Tân Sửu | Bích Thượng Thổ | Đất tò vò | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1962 | Nhâm Dần | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạc | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1963 | Quý Mão | Kim Bạch Kim | Vàng pha bạc | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1964 | Giáp Thìn | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1965 | Ất Tỵ | Phú Đăng Hỏa | Lửa đèn to | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1966 | Bính Ngọ | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1967 | Đinh Mùi | Thiên Hà Thủy | Nước trên trời | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1968 | Mậu Thân | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1969 | Kỷ Dậu | Đại Trạch Thổ | Đất nền nhà | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1970 | Canh Tuất | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1971 | Tân Hợi | Thoa Xuyến Kim | Vàng trang sức | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1972 | Nhâm Tý | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1973 | Quý Sửu | Tang Đố Mộc | Gỗ cây dâu | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1974 | Giáp Dần | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1975 | Ất Mão | Đại Khe Thủy | Nước khe lớn | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1976 | Bính Thìn | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1977 | Đinh Tỵ | Sa Trung Thổ | Đất pha cát | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1978 | Mậu Ngọ | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1979 | Kỷ Mùi | Thiên Thượng Hỏa | Lửa trên trời | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1980 | Canh Thân | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1981 | Tân Dậu | Thạch Lựu Mộc | Gỗ cây lựu | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1982 | Nhâm Tuất | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1983 | Quý Hợi | Đại Hải Thủy | Nước biển lớn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1984 | Giáp Tý | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1985 | Ất Sửu | Hải Trung Kim | Vàng trong biển | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1986 | Bính Dần | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1987 | Đinh Mão | Lư Trung Hỏa | Lửa trong lò | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1988 | Mậu Thìn | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1989 | Kỷ Tỵ | Đại Lâm Mộc | Gỗ rừng già | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1990 | Canh Ngọ | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 1991 | Tân Mùi | Lộ Bàng Thổ | Đất đường đi | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 1992 | Nhâm Thân | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 1993 | Quý Dậu | Kiếm Phong Kim | Vàng mũi kiếm | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 1994 | Giáp Tuất | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 1995 | Ất Hợi | Sơn Đầu Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 1996 | Bính Tý | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 1997 | Đinh Sửu | Giảm Hạ Thủy | Nước cuối khe | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 1998 | Mậu Dần | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 1999 | Kỷ Mão | Thành Đầu Thổ | Đất trên thành | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 2000 | Canh Thìn | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 2001 | Tân Tỵ | Bạch Lạp Kim | Vàng chân đèn | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 2002 | Nhâm Ngọ | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 2003 | Quý Mùi | Dương Liễu Mộc | Gỗ cây dương | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 2004 | Giáp Thân | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 2005 | Ất Dậu | Tuyền Trung Thủy | Nước trong suối | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 2006 | Bính Tuất | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 2007 | Đinh Hợi | Ốc Thượng Thổ | Đất nóc nhà | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 2008 | Mậu Tý | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 2009 | Kỷ Sửu | Thích Lịch Hỏa | Lửa sấm sét | Ly Hỏa | Càn Kim |
| 2010 | Canh Dần | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Cấn Thổ | Đoài Kim |
| 2011 | Tân Mão | Tùng Bách Mộc | Gỗ tùng bách | Đoài Kim | Cấn Thổ |
| 2012 | Nhâm Thìn | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Càn Kim | Ly Hỏa |
| 2013 | Quý Tỵ | Trường Lưu Thủy | Nước chảy mạnh | Khôn Thổ | Khảm Thủy |
| 2014 | Giáp Ngọ | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Tốn Mộc | Khôn Thổ |
| 2015 | Ất Mùi | Sa Trung Kim | Vàng trong cát | Chấn Mộc | Chấn Mộc |
| 2016 | Bính Thân | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Khôn Thổ | Tốn Mộc |
| 2017 | Đinh Dậu | Sơn Hạ Hỏa | Lửa trên núi | Khảm Thủy | Cấn Thổ |
| 2018 | Mậu Tuất | Bình Địa Mộc | Gỗ đồng bằng | Ly Hỏa | Càn Kim |
BẢNG LẬP THÀNH ÐỂ SO ÐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THEO NGŨ HÀNH KHẮC HỢP
Trên đây là nội dung phương pháp "So đôi tuổi vợ chồng" lấy từ cuốn "Từ điển tử vi" của tác giả Đắc Lộc để bạn đọc tham khảo. Cá nhân tôi không đưa ra lời nhận xét nào. Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo.
Theo quan niệm tâm linh, đường chỉ tay là yếu tố xác định được tính cách, vận mệnh hay cả tình duyên v.v của con người rất rõ. Mọi số kiếp đều thể hiện trong các đường chỉ tay. Trong đó, những người có đường chỉ tay hình chữ M được cho là rất đặc biệt. Vậy Đường chỉ tay hình chữ M có ý nghĩa gì? Cùng tìm lời giải dưới đây nhé.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại:
+ Nốt ruồi ở gót chân phải có ý nghĩa gi?
+ Xem tướng người có lông mày rậm
+ Màu mắt nâu tiết lộ gì về con người bạn
+ Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì?
+ Ý nghĩa của việc đeo nhẫn ở các ngón tay
Người có đường chỉ tay hình chữ M được cho là những người rất có tài, có khả năng thiên bẩm đặc biệt, trực giác tốt và đặc biệt là một đối tác tuyệt vời trong bất kỳ mối quan hệ kinh doanh nào. Đây là lời giải cho Bàn tay chữ M có ý nghĩa gì của một trong web nổi tiếng thế giới Healthyworldhouse.com.
Trên thực tế, đường chỉ tay hình chữ M được hình thành từ các đường chỉ tay: tam đạo, sinh đạo và trí đạo. Các chuyên gia Nhân tướng học cho biết rằng, số lượng người có đường chỉ tay này rất hiếm có, do đó học trở thành dấu hiệu của người đặc biệt và có những tài nhất định. Rất nhiều người tìm hiểu Đường chỉ tay hình chữ M có ý nghĩa gì vì bản thân họ có hoặc người thân, bạn bè của họ có dấu hiệu này.
Sau những nghiên cứu về Nhân tướng học cũng như các lĩnh vực liên quan thì câu trả lời cho Bàn tay chữ M có ý nghĩa gì được rút ra như sau:
+ Họ là người có tướng lãnh đạo, sự nghiệp phát triển, có thể gây dựng được cơ đồ. Là người mạnh mẽ, đáng tin cậy, nói là làm. Trong lịch sử, có rất nhiều nhân vật nổi tiếng có đường chỉ tay chữ M. Từ tổng thống, nhà tiên tri đến tỷ phú, thương gia v.v Họ còn lập ra Hội những người có chỉ tay hình chữ M nữa.
+ Đường chỉ tay hình chữ M có ý nghĩa gì còn có câu trả lời rằng họ là người có tài năng và gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống. Vì tài trực giác nhạy bén, kinh doanh, lãnh đạo thiên bẩm mà cuộc sống của bạn có nhiều điều thi vị và màu sắc.
+ Đừng bao giờ có ý định đùa cợt với những người có đường chỉ tay chữ M vì họ có trực giác tốt, phát hiện ra những điều giả dối rất nhanh. Và thường sau đó thì khó lòng lấy lại được niềm tin từ họ, cho dù họ đã tha thứ.
+ Họ còn là người giỏi giao tiếp, biết gây dựng mối quan hệ với mọi người. Là người trực nghĩa, nhiệt tình giúp đỡ mọi người xung quanh.
+ Phụ nữ có đường chỉ tay chữ M thì có trực giác tốt hơn đàn ông. Đó là câu trả lời cho nhiều nghiên cứu về Đường chỉ tay hình chữ M có ý nghĩa gì. Kể cả khi 2 vợ chồng đều có chỉ tay chữ M thì trực giác vợ vẫn tốt hơn. Do đó họ dễ tạp ra những thay đổi trong cuộc sống cũng như nắm bắt cơ hội.
Lời giải cho Bàn tay chữ M có ý nghĩa gì đã được nêu ra. Nếu bạn đang có đường chỉ tay chữ M thì thực sự bạn là người rất đặc biệt đấy nhé. Cùng điểm lại những điều lý giải Đường chỉ tay hình chữ M có ý nghĩa gì và đối chiếu với bản thân nhé!