Cách xem tướng hình thể phụ nữ qua ngũ hành –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Hành: HỏaLoại: Bại TinhĐặc Tính: Trở ngại, phá tán.
Phụ tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
Ý Nghĩa Tuế Phá Ở Cung Mệnh
Cơ Thể:
Tuế Phá là bộ răng. Tuế Phá gặp Thiên Khốc, Thiên Hư thì đau răng, sâu răng, hư răng. Ở cung Mệnh có Tuế Phá thì răng xấu, hay đau.
Tính Tình
Sao Tuế Phá ở cung Mệnh thì tính tình ngang ngược, cứng đầu, nghịch ngợm, phá tán.
Ý Nghĩa Tuế Phá Và Các Sao Khác
1. Nốt ruồi trên đỉnh đầu
![]() |
2. Nốt ruồi mọc trong lông mày
![]() |
3. Nốt ruồi ở giữa trán
![]() |
4. Nốt ruồi ở huyệt Thái Dương
![]() |
5. Nốt ruồi ở tai
![]() |
6. Nốt ruồi ở gò má
![]() |
7. Nốt ruồi ở môi trên
![]() |
8. Nốt ruồi ở môi dưới
![]() |
9. Nốt ruồi ở gần cằm
![]() |
10. Nốt ruồi ở sau gáy
![]() |
11. Nốt ruồi ở cổ bên phải
![]() |
Xem tiếp trang sau
Alexandra V (theo F.C)
Mỗi vì sao trong Tử Vi Đẩu Số đều được hình tượng hóa từ các nhân vật của Phong thần diễn nghĩa. Bài viết này xin được tiếp tục với hình tượng thứ hai là Sao Tham Lang - Đát Kỷ
Sau khi Trụ Vương từ cung Nữ Oa trở về, ngày đêm tơ tưởng đến dung mạo tuyệt mỹ của Nữ Oa nương nương, nên muốn hạ lệnh tìm kiếm, tuyển lựa mỹ nữ khắp thiên hạ, nhưng bị Tể tướng Thương Dung cùng các đại thần khác cực lực can gián nên đành phải từ bỏ ý định.
Nhân vật đại diện cho sao Tham Lang trong "Phong thần diễn nghĩa" chính là Đát Kỷ (hoặc phiên âm khác là Đắc Kỷ).
Vào tháng 04 năm Trụ Vương thứ tám, tứ đại chư hầu thông lĩnh các chư hầu nhỏ dưới quyền tập hợp tại Triều Ca để chúc mừng Trụ Vương đăng cơ tròn tám năm. Các chư hầu khi dâng lễ vật lên Trụ Vương đều phải có thêm một phần biếu tặng cho sủng thần của Trụ Vương là Phí Trọng. Hôm đó, khi Phí Trọng xem lại danh sách tặng lễ vật của các chư hầu, chỉ thấy thiếu phần của Ký Châu hầu Tô Hộ, nên trong lòng ngấm ngầm nghĩ kế ám hại.
Khi Trụ Vương bày yến tiệc tại điện Hiển Khánh thiết đãi các đại thần và chư hầu lớn nhỏ, Phí Trọng liền tâu với Trụ Vương răng: "Thân nghe nói con gái của Ký Châu hầu Tô Hộ xinh đẹp như tiên giáng trần, không những nghiêng nước nghiêng thành, mà còn hiền thục nhu thuận, đúng là bậc mỹ nữ đệ nhất trong thiên hạ, bệ hạ hãy cho nàng nhập cung. Như vậy, vừa thoả mãn được mong ước tuyển lựa phi tần của bệ hạ, lại vừa không kinh động đến cả nước, không biết ý của bệ hạ ra sao?"
Trụ Vương nghe vậy thì vui mừng khôn tả, bèn triệu Ký Châu hầu vào yết kiến. Khi đó, Tô Hộ đã cả gan tranh biện với Trụ Vương, đồng thời khơi sâu thêm mối oán thù với Phí Trọng, đến nỗi suýt bị Trụ Vương cho giải ra Ngọ Môn chém đầu thị chúng.
Ký Châu hầu Tô Hộ nhiều lần vì kháng mệnh và phải hứng chịu đủ các loại cực hình, sau cùng nghe theo lời khuyên bảo của Tầy Bá hầu Cơ Xương, mà tạm thời từ bỏ ý định đối kháng, chấp nhận cho con gái là Đát Kỷ nhập cung.
Tô Hộ có 2 người con, một trai một gái. Người con trai trưởng là Tô Toàn Trung, văn võ song toàn, dũng mãnh vô song. Người con gái là Tô Đát Kỷ, 16 tuổi khi mới nhập cung, là một bông hoa đẹp tuyệt trần: mắt long lanh như sương mai, da mịn màng tựa nhung lụa, mũi cao thẳng, miệng hoa nhỏ, dáng đi thướt tha mà giọng nói lại trong trẻo.
Trụ Vương lập tức bị Đát Kỷ mê hoặc, bỏ bễ triều chính, phá hoại kỷ cương triều đình. Theo như tiểu thuyết "Phong thần diễn nghĩa", Đát Kỷ trước khi nhập cung thì cũng chỉ là một cô nương bình thường. Trên đường dâng nạp cho trụ vương đã bị yêu tinh do Nữ Oa nương nương phái xuống trần thế nhập vào thân xác để phá hoại cơ nghiệp của Trụ Vương, nhằm đẩy nhà Ân Thương đi đến chỗ diệt vong.
Trụ Vương thấy Đát Kỷ xinh đẹp tuyệt trần, thì vô cùng sủng ái, cho xây dựng cung Thọ Tiên cho Đát Kỷ ở, ngày đêm hưởng lạc, dâm loạn vô độ. Đát Kỷ đã dùng nhan sắc và tài nghệ khiến Trụ Vương thần hồn điên đảo, bỏ bê việc triều chính. Khương Hoàng hậu và các đại thần như Tể tướng Thương Dung, Á tướng Tỷ Can, trung thần Mai Bá, Đông Bá hầu Khương Hoàn... lần lượt đều bị hại chết về tay Đát Kỷ. Ngược lại, gian thần Phí Trọng nhờ có sự hậu thuẫn của Đát Kỷ mà giành được chức Tể tướng.
Từ khi nhập cung cho đến năm Trụ Vương thứ 28, Đát Kỷ đã mê hoặc Trụ Vương suốt hai mươi năm, cho đến tận khi Khương Tử Nha thống lĩnh các lộ chư hầu đánh vào Triều Ca, tiêu diệt Ân Thương, lập nên vương triều Chu.
Đát Ky bị giết, hồn phách bay đến đài Phong Thần tại Tây Kỳ, được phong làm sao Tham Lang (sói tham). Đó là do bên ngoài điện thần của Đát Kỷ có một đàn sói dữ canh cổng, nhằm canh giữ cho Đát Kỷ ở yên trong cung.
► Tham khảo thêm: Giải mã nằm mơ thấy cá, mơ thấy ma |
![]() |
Ảnh minh họa |
Nhưng nếu nằm mơ thấy sâu bọ bò lên người mình là điềm báo bạn sẽ gặp phải trở ngại nào đó trong cuộc sống nhưng đừng quá lo lắng, bạn sẽ sớm vượt qua được thôi.
Nếu bạn mơ thấy bị sâu bọ bám vào chân là tin vui trong chuyện tình duyên, có ai đó đang muốn chiếm giữ trái tim bạn đó.
Mơ thấy bị sâu bọ bám vào bắp đùi là điềm báo bạn đang u mê vì những lời tán tỉnh đường mật của ai đó. Hãy tỉnh táo và suy xét kỹ càng để tránh gặp phải rắc rối không đáng có nhé.
Mơ thấy sâu bọ cắn ở cổ hay bám vào mặt lại là điềm dữ. Hãy nhìn lại các mối quan hệ xung quanh và điều chỉnh một cách hợp lý, vì giấc mơ này cảnh báo rằng bạn đang bị người khác lợi dụng.
Theo Giải mã giấc mơ
òng cạnh nó, tạo ra không gian phòng rộng hơn; nếu diện tích nhà đủ rộng thì việc cân nhắc bố trí ban công sẽ nhẹ nhàng hơn. Bất luận là mở rộng không gian hay tạo không gian mới, quan trọng nhất vẫn là ý tưởng sáng tạo.
Việc cải tạo ban công đã có lịch sử khá lâu, ban công có sớm nhất được tạo cho phòng bếp và phòng tắm. Sau này đã xuất hiện ban công thiết kế cho phòng luyện tập thể thao, vườn hoa, phòng trà. Mỗi phương pháp cải tạo đều tồn tại điếm khiếm khuyết của nó. Vì vậy, khi chọn phương án cải tạo ban công phải coi trọng dến chức năng theo nhu cầu thông thường nhất của bản thân, cố gắng nâng cao hiệu suất sử dụng nó.
Ban công có rất nhiều chức năng, có thể trở thành bộ phận kéo dài ra của phòng khách, làm tăng tính thông thoáng của không gian, cũng có thể trở thành không gian giải trí độc lập, cũng có thể là nơi nghỉ ngơi, thư giãn. Dưới đây là một số ý kiến xung quanh vấn đề cải tạo ban công, xin cung cấp để độc giả tham khảo.
(1) Biến ban công thành phòng ở
Để tận dụng hết không gian ban công, người ta hay cải tạo nối thông nó với phòng bên cạnh, đồng thời dùng cửa sổ thấp có rèm che ngăn cách với bên ngoài. Diện tích phòng ngủ quá nhỏ hoặc thiếu ánh sáng nghiêm trọng có thể dùng phương án này để mở rộng không gian sử dụng, tăng thêm ánh sáng trong phòng.
(2) Ban công là một phòng sách nhỏ
Diện tích nhà hẹp thường không có không gian phòng sách hoặc phòng làm việc riêng, nếu cải tạo làm thông ban công với bên trong nhà, đó có thể trở thành một phòng sách mới.
(3) Ban công biến thành khu chứa đồ.
Nhà ở với không gian thu nạp quá ít, từ phòng bếp, lối đi không thể nào thấy được bên ngoài, nếu ban công cạnh phòng bếp thì góc ban công có thể cải tạo làm nơi đặt tủ chứa đồ, nơi chứa hoa quả, thức ăn hàng ngày ăn không hết hoặc chứa những vật phẩm không thường dùng.
Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng đó là câu nói rất có lý trong tình yêu. Để biết mình biết ta cũng cần phải xem tuổi kết hôn một cách chính xác mới có thể đưa ra quyết định đúng đắn.
Nhân tướng học có thể bói tuổi kết hôn qua các biểu hiện của tướng tay như các đường chỉ tay, độ mềm mại của tay, các cử động của ngón tay qua đó có thể xác định được những người kết hôn muộn.
Những người có Đường Tình cảm hiện lên hình bậc thang biểu thị phương diện tình cảm có chủ kiến nên khi chọn người bạn đời thường không suy nghĩ kín kẽ, chỉ là dựa vào tình cảm nhất thời mà quyết định, đôi khi dễ bị lừa dối trong tình yêu, cộng thêm tính ỷ lại của bản thân lại khá cao, những người này sẽ nhẹ dạ cả tin vào những lời ngon ngọt của đối phương, cho nên thường bị những lời nói dối đánh lừa, không nhìn được hết chân tướng sự việc.
Nếu chỉ tay bạn có đặc điểm này, hãy bình tĩnh và sáng suốt. Dừng lại một chút, nghĩ kỹ một chút, chất vấn bản thân thêm. Nếu những câu hỏi, những suy nghĩ mà bạn vượt qua được, chí ít tình cảm của bạn với người ấy là chân thành.
Khi bói tình yêu người có ngón tay Cái mềm, có thể cong gập ra sau được cho thấy tình cảm của người này hỷ nộ vô thường, có biểu hiện gọi là tình cảm hóa. Nhưng bởi coi trọng chuyện quan hệ tình cảm, dường như là muốn đối phương toàn tâm toàn ý chăm sóc mình nên dễ bị đối phương lừa dối, cuối cùng rơi vào cảnh thương tâm, buồn bã, ân hận. Nếu bị phụ bạc một lần, họ sẽ vô cùng thận trọng khi yêu người khác nên tuổi kết hôn thường hay muộn màng.
Nếu bạn là người tình cảm hóa yêu thương, hãy nhớ rằng, tình yêu tuy một những vẫn là hai. Hai ở đây là hai người chung một tình yêu. Con người vẫn cần phải có không gian riêng, vẫn cần có những sở thích, vẫn cần có những đam mê khác. Nếu bạn chỉ muốn người ta toàn tâm toàn ý, lúc nào cũng nghĩ tới bạn, điều đó sẽ mang lại cho đối phương cảm giác ngột ngạt, bứt bối. Theo phản xạ, sẽ có xu hướng lánh xa bạn thêm. Có câu: “lạt mềm buộc chặt”, hãy khéo léo trong tình yêu!
Người có Đầu ngón út mềm vô lực cho thấy vận thế tình cảm không tốt, thường xuyên gặp phải những kẻ bạc tình, dẫn tối nhiều tổn hại, nhưng chính vì không biết nhìn xa trông rộng cho nên đối với những cám dỗ của họ hầu như là không thể kháng cự lại được, một khi đã rơi vào bẫy của đối phương thì cuối cùng chỉ còn tay trắng.
Bởi vậy, nếu bạn rơi vào trường hợp này, hãy lùi một bước mà trời cao biển rộng. Hãy nghĩ về tương lai, nghĩ về những mơ ước trong tình yêu của bạn, xem những ngọt ngào hiện tại bạn đang có, có thật sự là tình yêu không. Cả hai phía nhé. Dừng lại một chút giúp bạn không bị tình cảm chi phối hoàn toàn phán xét của mình. Ít nhất, hãy một lần để lý trí lên tiếng.
Đường Trí tuệ quá ngắn (như hình 1) cho thấy tình cảm dễ bị kích động, đời sống tình cảm hầu như xuất hiện rất nhiều vấn đề, cộng thêm thiên tính thuần nhất không phòng bị người khác, cho nên người này dễ bị người bạn đời cho vào mộng mị mà không hề hay biết đối phương sớm đã trở mặt với mình, cho tới khi chân tướng sự việc đã quá rõ ràng.
Hãy khôn ngoan trong tình yêu. Điều này không có nghĩa là bạn tính toán, làm lợi, hay chạy theo tình cảm mù quáng. Khôn ngoan ở đây là bạn sáng suốt trong vấn đề tình cảm của hai người. Hãy để bản thân bạn ở thế chủ động. Bạn có hiểu người yêu của mình không. Bạn có thể khéo léo làm cho anh ấy bị “sức hút” của bạn không thoát ra được không.
Những người có Đường Tình cảm phân nhánh song song (như hình 2) biểu thị là người rất coi trọng tình cảm, không muốn bị người khác ép buộc, thường vui vẻ đáp ứng yêu cầu của người khác, có khuynh hướng là người chín chắn, về mặt tình cảm, họ thiếu khả năng nhìn thấu sự việc, dù đã biết đối phương có hành vi quay lưng lại với mình cũng sẽ sẵn sàng tha thứ cho mọi hành động của đối phương.
Nếu gặp được người yêu thương mình thật sự, bạn sẽ thật hạnh phúc vì hai người đều trân trọng tình cảm của nhau. Nhưng nếu gặp thất bại ngay lần đầu, thường sẽ bị tổn thương sâu sắc. E dè trong mối tình mới nên khi bói tuổi kết hôn cũng thường được kết luận là chậm hơn.
Cần lưu ý là 5 trường hợp trên không phải nhất nhất là kết hôn muộn. Mà là bởi tính cách từ những đặc điểm của tướng tay dễ dẫn đến tình trạng như vậy mà thôi!
(theo Tử vi số mệnh)
Bói tình yêu để nhận biết được người có được hạnh phúc trong tình yêu. Tình cảm yêu đương nam nữ phải xuất phát từ lòng ái mộ mới có thể yêu thương, quý mến nhau, xuất phát từ khát vọng hạnh phúc cuối cùng hai người mới kết hợp với nhau. Tình yêu hạnh phúc sưởi ấm cuộc đời của một con người. Đó là tình yêu đáng quý, rất khó có thể đạt được, và chính từ tướng tay bạn có thể biết được tình yêu của mình như thế nào.
Tướng tay ngón tay út dài và thẳng
Ngững người này đại đa số biểu hiện tình yêu một cách thẳng thắn, biểu hiện tình cảm của mình rõ ràng. Họ có thể hiểu được người mình yêu thương, do đó có thể tăng cường mối quan hệ với người này, vun đắp cho tình yêu.
Đường Tình cảm cong, đoạn trước có đường phân nhánh
Báo hiệuhọ là người có tình yêu ấm áp. Là người thông minh, lanh lợi, có thể đem đến cho đối phương cảm giác hạnh phúc. Họ yêu người khác và được người khác yêu lại, có thể, cùng nhau xây dựng nên mối quan hệ tình cảm ngọt ngào, hài hòa.
Gò Kim tinh dầy đặn, màu hông nhuận, có đường đuờng chỉ tay nhỏ
Đây là người trọng tình trọng nghĩa, nhân phẩm tốt. Là người có khả năng tình dục tốt, biết hưởng thụ tình yêu một cách trọn vẹn. Nhưng nếu trên gò Kim tinh có quá nhiều đưòng chỉ nhỏ, ngầm báo hiệu đây là người sẽ chịu nhiều vất vả.
Thuyết Ngũ Hành được ứng dụng với những quy tắc tương sinh tương khắc và phản ngược của tương sinh tương khắc, sự thái quá của từng hành. Nó giúp cho lý giải, ứng dụng phù hợp đối với từng sự việc, hiện tượng của thiên nhiên, xã hội, con người…
Đặc tính của Ngũ Hành
Ngũ Hành gồm năm hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Mỗi hành có đặc tính riêng biệt, hình thái và biểu lý phương cách khác nhau.
– Hành Thủy có đặc tính hàn lạnh, hướng xuống, thâm trầm, thể hiện màu đen, uyển chuyển…
– Hành Hỏa có đặc tính nóng, bốc lên, sung lực, sắc đỏ, không hòa hoãn…
– Hành Kim có đặc tính sắc bén, thụ sát, thanh tĩnh, biểu hiện sắc trắng, nhu động…
– Hành Mộc đó là tính sinh sôi nảy nở, thẳng ngay, cong dài với sắc khí xanh, dịu êm…
– Hành Thổ – đất có tính nuôi dưỡng, che trở, hóa dục với sắc vàng nâu…
Với Ngũ Hành chính là sự so sánh biểu lý. Nó quy tụ những đặc tính cơ bản. Nó tàng ẩn trong sự vật hiện tượng mà từ đó sự so sánh để đi đến một lý giải hợp lý.
Nhờ có Ngũ Hành với đặc trưng biểu lý mà mọi sự vật, hiện tượng có thể quy vào một Hành đặc trưng nào đó. Nhờ thế mà nắm bắt các thuộc tính của sự vật, hiện tượng một cách dễ dàng. Nó khái quá hóa thuộc tính. Nó đi từ khó hiểu, trừu tượng đến sự rõ ràng, dễ hiểu dễ biết để nhận biết một thực thể nào đó.
Nói Hành Hỏa thì mơ hồ nhưng nói sắc đỏ, nóng, bốc v.v… thì hiểu ngay. Đấy là thuộc tính làm cho dễ nhận biết Hành Hỏa.
Quy luật sinh khắc của Ngũ Hành
Quy luật tương sinh và tương khắc là hai phạm trù đối lập nhau như Âm và Dương. Gọi là phạm trù vì quy luật tương sinh tương khắc bao hàm rộng lớn của sự sinh trưởng và kiềm chế, diệt, khắc để luôn cố gắng giữ thế cân bằng trong tự nhiên, xã hội cũng như trong con người. Không có tương sinh thì không có tương khắc. Bởi nếu chỉ sinh không thôi thì vạn vật phát triển đến hỗn loạn, rồi tự diệt. Vì vậy phải có sự khắc chế để kìm hãm, chế ngự. Nhờ đó sự phát triển hài hòa được tạo lập. Sự hiện diện hai mặt đối lập: không có cái này thì không có cái kia và ngược lại không có cái kia thì không có cái này. Cứ thế, hai vế dựa vào nhau làm cơ sở cho sự phát triển của vạn vật trên thế gian. Như vậy, trong sinh có khắc, trong khắc có sinh. Sinh khắc không ngừng thì đương nhiên sẽ là sự phát triển không ngừng. Cái này sinh cái kia nhưng lại bị cái kế tiếp khắc chế. Một chuỗi mối liên quan tạo ra sự phát triển cân đối và hài hòa. Một lúc nào đó quy luật tương sinh và tương khắc bị vi phạm sẽ xảy ra quá sinh và quá khắc.
Quá sinh sẽ dư thừa
Quá khắc sẽ bị triệt tiêu
Sự dư thừa dẫn đến nội sinh theo quy luật sinh tồn Âm Dương mà cố gắng trở lại thế cân bằng. Sự triệt tiêu sẽ ra đời thực thể khác tự sinh cũng theo quy luật sinh tồn của tạo hóa.
Tương sinh tương khắc là sự tương đồng, sinh khắc để thúc đẩy sự vật phát triển sinh trưởng bình thường giữ sự biến hóa không ngừng. Không có sinh thì sự vật không phát triển. Không có khắc thì không thể duy trì thế cân bằng được
– Sự sinh khắc trong ngũ hành
+ Tương sinh là bổ trợ cùng thúc đẩy phát triển và trợ giúp nhau.
Trong tương sinh gồm các quan hệ hành là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Như vậy tương sinh là một vòng khép kín tạo sự liên quan tương hỗ cho sự sinh sôi nảy nở là liên hoàn trong tự nhiên theo ý nghĩa biểu lý chứ không phải theo nghĩa thực thể, thô thiển.
+ Tương khắc là hai Hành có nghĩa chế khắc nhau, khống chế nhau nhằm kìm hãm sự phát triển vô độ. Tương khắc cũng là sự liên hoàn khắc chế: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Như vậy sự khắc chế cũng chỉ mang ý nghĩa biểu lý hoàn toàn phù hợp chứ không phải theo nghĩa thực thể thô thiển mà hiểu vậy.
Mối liên quan biểu lý liên hoàn chứ không gián đoạn. Hiểu một cách đơn giản thực thể là: Cái sinh ra tôi là cha, cái tôi sinh ra là con. Cái ngang hàng với tôi là anh em, ví dụ Thổ sinh Kim thì Thổ là cha mẹ của Kim, Kim sinh Thủy và Kim khắc Mộc, Kim và Kim cùng loại nganh nhau là anh em.
– Mối liên hoàn liên tục còn phân ra “quan gửi” và “thê tài” đối với nam thì “thê tài” là vợ và của cải, đối với nữ thì “quan gửi” vừa là quan vừa là chồng, cho nên trong ngũ hành thể hiện quan hệ biểu lý.
Thổ sinh Kim thì Thổ là cha mẹ của Kim, Hỏa khắc Kim thì Hỏa là quan gửi của Kim. Kim lại khắc Mộc nên Mộc là thê tài (vợ của) của Kim. Kim lại sinh Thủy, thì Thủy là con của Kim.
Mối quan hệ biểu lý thứ bậc ấy mà hiểu Kim và kim là ngang vai cùng lứa.
Sự xung khắc đều là “tương” “Tương” vừa mang ý nghĩa đồng, cùng nhau, sự hỗ trợ qua lại mà có. Chứ riêng lẻ thì không có ý nghĩa gì. “Tương” còn có ý là tương đối. Cái tương sinh hay tương khắc là quy luật tương đối, không phải tuyệt đối giống như quy luật “lượng đổi thì chất đổi” trong triết học duy vật biện chứng, ở đây quy luật tương sinh tương khắc cũng phải có một lượng nào đó để đạt đến mức mới đạt được khắc và cũng từ đó mới sinh ra cái mới. Ví dụ hành Hỏa muốn khắc được Mộc thì Hỏa phải đủ mạnh mới có tác dụng. Lửa đèn, lửa nến làm sao đốt được rừng rậm (đại mộc lâm) để rồi sinh ra thổ. Cái nghĩa tương đối là như vậy. Hỏa khắc Mộc sinh Thổ. Như vậy Hỏa phải đủ lượng mới làm được việc “khắc” và sinh, vì vậy mà thuyết ngũ hành còn có quy luật phản ngược.
Quy luật phản ngược của ngũ hành
Trong ngũ hành có quy luật tương sinh và tưng khắc song đấy là mối quan hệ thuận chiều. Đây là nói “Lượng đổi” để “chất đổi” sức mạnh của khắc chế chỉ thực hiện được khi bản thân nó đủ mạnh. Nhưng trong phạm trù sinh khắc rất rộng lớn giữa các hành và trong từng hành ví dụ Hành Thủy có biển, sông, suối, ao, đầm, giếng. Hành Thổ có đại địa thổ, bích thượng thổ v.v… Tức có đất đường cái, đất nền nhà, vách đất v.v…
Đừng nghĩ thiển cận thổ khắc thủy là khắc được đâu; mà vách đất thì sẽ bị nước lũ làm rữa cuốn trôi đi mà thôi. Như vậy không phải “mạnh” khắc “yếu” mà cũng xuất hiện cái “yếu” xung khắc ngược lại, suy khắc vượng, “yếu” khắc “mạnh” là thế.
Ớ đây mạnh yếu, suy vượng chỉ các hành với ý nghĩa biểu lý, nó không hàm chứa nghĩa thô thiển, cái nghĩa biểu lý. Thổ vượng thì Mộc suy chứ không thuần tuý Mộc vượng thì Thổ suy, mà ở đây là Mộc bị Thổ khắc rồi. Thuận và nghịch tương quan. Cũng như vậy theo quy luật khắc chế đảo của ngũ hành ta có: Mộc vượng thì Kim suy. Kim vượng thì Hỏa suy, Hỏa vượng thì Thủy kiệt. Thủy vượng thì Thổ tàn. Thổ vượng thì Mộc úa. Cứ thế vòng phản ngược của ngũ hành cũng liên hoàn giống quy luật tương sinh tương khắc.
Quy luật thịnh quá hóa thừa
Thuyết Ngũ Hành còn quy luật thịnh làm thừa, trong ngũ hành thì bất cứ hành nào cũng bị quy luật này chi phối. Sự phát triển cực thịnh sẽ dẫn đến thừa và thừa sẽ đưa đến suy. Như vậy trong thịnh đã tàng ẩn mầm suy vong.
Phàm vật quá rắn thì dễ vỡ, thứ cứng quá thì dễ gẫy… sự thịnh phát quá là thừa mà dư thừa sẽ dẫn đến suy là vậy.
Ngũ hành có quy luật này để làm rõ thêm nghĩa phản ngược nội ứng cơ sở của nghĩa suy khắc vượng. Yếu khắc mạnh.
Bàn về quy luật tương sinh tương khắc trong ngũ hành
Ngũ hành tương sinh tương khắc kế tiếp thuyết âm dương làm cho cơ sở luận lý thêm sáng tỏ và việc ứng dụng trở nên có ý nghĩa bao trùm.
Hai thuyết song hành bể trợ. Lý thuyết âm dương như là gốc là nguyên lý để các quy tắc ngũ Hành có thể phát huy trong nhiều môn, ngành một cách hiệu quả mà người xưa (Trung Hoa) đắc dụng.
Trong thực tế, khi nói đến ngũ hành người ta thường nghĩ ngay quy luật sinh khắc của thuyết này. Chẳng thế mà trong dân gian chỉ hiểu đơn thuần một chiều “sinh” hay chiều “khắc” mà ứng dụng, hay giải thích. Người ta thường quên rằng ngũ hành còn có quy luật phản ngược và thịnh quá hóa dư. Hai quy luật này mới đủ bộ ba để ứng dụng thêm phong phú và lý giải được nhiều vấn đề thực tiễn xảy ra. Hãy đừng nghĩ là cứ Thủy thì không làm bạn với Thổ vậy Thủy thì không lấy được Hỏa. Phát biểu như vậy là không hiểu thấu lý thuyết ngũ Hành và cũng không phù hợp nhiều hiện tượng thực tiễn hiện có. Nhờ tính hữu dụng của thuyết lý mà nó vẫn được ứng dụng trong nhiều môn, ngành. Nó vẫn cuốn hút sự quan tâm của nhiều học giả đam mê nghiên cứu các môn gọi là “Huyền học”.
Hành: Thủy
Loại: Thiện Tinh
Đặc Tính: Vui vẻ, may mắn về công danh, hôn nhân, giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ
Tên gọi tắt thường gặp: Long
Là một Phụ tinh. Là sao thứ 3 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Tướng Mạo: Sao Thanh Long ở Mệnh thì gương mặt tuấn tú, phương phi, cốt cách sang trọng.
Tính Tình: Vui vẻ, hòa nhã.
Lợi ích cho việc cầu danh, thi cử.
May mắn về hôn nhân.
May mắn về sinh nở.
Giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ.
Long, Kỵ ở Tứ Mộ: Thanh Long được ví như rồng xanh ẩn trong mây ngũ sắc, nghĩa là như rồng gặp mây, người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử.
Thanh Long, Lưu Hà: Người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử (được ví như rồng xanh vùng vẫy trên sông lớn).
Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái: Cách này gọi là Long Hổ Cái, cũng rực rỡ về tài quan.
Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các: Cách này gọi là Tứ Linh, cũng rực rỡ về công danh, tài lộc.
Thanh Long, Quan Đới: Người gặp thời, đắc dụng.
Thanh Long, Sát tinh: Mất hết uy lực, trở thành yểu và hèn nhát.
Sao Thanh Long rất đẹp nếu ở hai cung Thủy là Hợi, Tý, hoặc ở cung Thìn (Long cư Long vị) cũng rực rỡ như trường hợp Long Kỵ, Long Hà.
Ngoài ra, các cách tốt kể trên, nếu có tại cung Mệnh, Thân, Quan, Di, Tài hay Hạn đều đắc dụng, đắc lợi cho đương số.
Mặt khác, nếu Mệnh hay Quan giáp Long, giáp Mã thì cùng hiển đạt về công danh, chức vị.
Tóm lại, tuy là sao nhỏ nhưng sao Thanh Long vốn là bản chất rồng xanh nên rất uy dũng, cao thượng, đem lại sự may mắn về nhiều phương diện thi cử, công danh, hôn nhân, sinh nở. Kết hợp phong phú với nhiều cát tinh và ở một số cung thuận vị, Thanh Long càng phát đạt rực rỡ cho phái nam cũng như phái nữ miễn là đừng gặp sát tinh.
Nhà gần đê hoặc gần những con đường cao hơn so với nền nhà ở được coi là không tốt theo phong thủy. Những phương án tôn nền nhà cho cao bằng cốt nhà thường không mấy khả thi. Trường hợp này, chủ nhà nên thiết kế một tầng hầm (có thể sử dụng làm hầm rượu, gara…) cho ngôi nhà sao cho sàn tầng 1 tối thiểu cao bằng nền đường.
![]() |
![]() |
Ngoài các khu quy hoạch mới có thiết kế không gian nghiêm chỉnh, lề thông hè thoáng, hạ tầng ngầm hoá, vẫn có rất nhiều các khu dân cư cũ, khu ngoại ô có hiện trạng phức tạp, trước nhà khấp khểnh đủ thứ cột đèn ống cống gốc cây vừa thiếu thẩm mỹ và không an toàn. Điều này hình thành trong giới kinh doanh nhà đất các đánh giá thấp về nhà bị “dị vật” xuất hiện, cản trở ở phía trước, cộng thêm các truyền tụng trong dân gian mang màu sắc mê tín khiến nhiều gia chủ hoang mang, lo ngại. Cần nhìn nhận vấn đề này dưới khía cạnh phong thuỷ và thẩm mỹ như thế nào?
Có thể bố trí tiểu cảnh trên nắp cống.
Xét về quan điểm hình và thế của một cuộc đất – ngôi nhà, phần phía trước của chủ thể luôn cần quang đãng (mà phong thuỷ truyền thống gọi là khu vực Minh đường), tránh các vật che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).
Nếu có cây to trước nhà thì phong thuỷ xưa lập luận rằng đó là thế mộc khắc thổ, cây to ắt sẽ có rễ lớn ăn vào làm hỏng nền sân, đi lại dễ bị va vấp, lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu độ sáng sủa, âm tính nhiều, nhất là những cây có hình dáng um tùm rũ rượi.
Vì đa phần nhà ở truyền thống xưa kia đều quay về hướng nam để đón gió mát, cây to trước nhà sẽ chắn mất gió, nên ta thấy quan niệm “trước cau sau chuối” của kiến trúc truyền thống chính là để giữ cho phần minh đường được quang đãng.
Một miệng cống, trụ điện… nếu nằm ngay trước cửa nhà thì cũng gây nhiều khó chịu về thẩm mỹ và sử dụng hàng ngày. Vì thế, các khu dân cư mới hiện nay luôn bố trí hố ga, gốc cây, cột điện… tại điểm giữa của hai nhà. Còn nếu như hiện trạng sẵn có cây to án ngữ giữa cửa mà cây đó thực sự ảnh hưởng đến đi lại thì có thể xử lý bằng cách chuyển bộ cửa chính về một bên sao cho lối đi ra vào và tầm nhìn không bị cản trở là được.
Dị vật trước nhà là cái cột điện với dây nhợ chằng chịt.
Tuy nhiên, đừng “quan trọng hóa” vấn đề khi cho rằng nhà bị như thế thì giảm giá trị, vì thực chất khoảng lùi, hướng nhà, mức độ ồn ào bụi bặm của con đường bên ngoài… vẫn quan trọng và ưu tiên xem xét hơn là chỉ một trụ điện, gốc cây hay miệng cống.
Thực tế có không ít nhà biến nhược thành ưu, tận dụng những cây cối, trụ điện phía trước để làm điểm “mốc” nhằm xác định, phân biệt nhà mình với nhà khác, hoặc làm thành một dạng bình phong để che chắn bớt tác động xấu từ ngoài vào nhà mình bằng cách đặt thêm cây cối, tạo lối vào không trực diện với cửa hay cổng, thậm chí có thể bố trí tiểu cảnh dạng linh động trên nắp cống.
Tóm lại, phần “dị vật” trước nhà xấu hay tốt không quan trọng bằng cơ cấu sử dụng, quan hệ với đường sá và công trình lân cận. Tốt nhất là mỗi nhà (nhất là dạng nhà phố) nên xác lập cho mình một khoảng lùi và cấu trúc phần tiếp cận sau cửa cổng đủ kín đáo, tiện dụng (chỗ để xe, sân nhỏ, bậc thềm lùi sâu, khoảng đón tiếp khách…) để cho dù có gì trước nhà thì cũng không ảnh hưởng đến sinh hoạt và tính chất phong thuỷ của nhà. Đôi lúc gặp trường hợp bất khả kháng thì việc dùng vật phẩm phong thuỷ như hồ nước nhỏ, cây cảnh, tượng đá… cũng có thể giải quyết phần nào tâm lý bất an.
Ảnh: Khánh Phương
Bài: KTS Vọng Bình
Hướng bếp hợp người sinh năm 1978:
– Năm sinh dương lịch: 1978
– Năm sinh âm lịch: Mậu Ngọ
– Quẻ mệnh: Tốn Mộc
– Ngũ hành: Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Sinh Khí); Đông (Diên Niên); Đông Nam (Phục Vị); Nam (Thiên Y);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Hoạ Hại); Đông Bắc (Tuyệt Mệnh); Tây Nam (Ngũ Quỷ); Tây (Lục Sát);
Thời gian: tổ chức vào ngày 20 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: làng Đoạn Xá, xã Đông Hải, huyện An Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn đức Phật, đức thánh Trần (Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).
Nội dung: Hằng năm cứ đến ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch, nhân dân địa phương lại tổ chức hội chùa để tưởng nhớ đến công lao của Trần Hưng Đạo. Trong những ngày lễ hội, người ta thường chuẩn bị hoa quả, đèn hương và đặc biệt là bánh đa. Tục truyền rằng ngày xưa Trần Hưng Đạo thường cho rắc hạt vừng lên bánh tao thành hình bản đồ để gửi cho binh sỹ, theo đó binh sỹ vừa biết được tình hình lại có lương ăn. Lễ hội chùa Vẽ thường kéo dài trong vòng 10 ngày với rất nhiều trò vui nhộn thu hút được sự tham gia của đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương về dự.
Thời rất xa xưa, khi loài người chưa tìm ra lửa để nấu nướng thức ăn, để soi sáng chỗ ở của mình trong đêm dài tối tăm thì ánh trăng quý lắm. Người cổ xưa thấy trăng đi lại trong vòng 29 ngày, khi tròn khi khuyết, nhưng rất đểu đặn, như một người bạn trung thành không bao giờ lỗi hẹn và lấy đó làm đơn vị chính để đo thời gian. Cuốn lịch cổ nhất của loài người tính theo tuần trăng là âm lịch Ba-bi-lon (Trung Đông) sáng chế cách đây 7- 8 nghìn năm.
Âm lịch Trung Quốc có từ cách đây 42 thế kỷ, mỗi năm 12 tháng, trọn 354 hoặc 355 ngày. Lịch cổ Hy Lạp cũng là âm lịch, mỗi năm có 354 hoặc 355 ngày. Nhưng nếu số ngày trong mỗi năm chỉ có thế thôi thì chỉ năm trước năm sau là thời tiết không đúng với lịch nữa rồi, qua 3 năm thời tiết chênh lệch với lịch hàng tháng, qua 6-7 năm thì lịch là mùa hè mà trời vẫn đang xuân. Tuy nhiên cũng phải qua vài trăm năm liên tục nghiên cứu những sai lệch kỳ quặc ấy, các nhà thiên văn xưa kia mới tìm được cách làm cho âm lịch tương đối khớp với thời tiết: trong 3 năm phải có một năm thêm một tháng-(năm nhuận), 5 năm có 2 năm nhuận, 19 năm có 7 năm nhuận. Gọi là âm lịch, thực ra lịch này không còn hoàn toàn là âm lịch nữa, mà đã phối hợp âm lịch với dương lịch, vì tháng thì tính theo trăng, còn năm thì bám theo thời tiết, mà thời tiết thay đổi từng mùa xuân, hạ, thu, đông nối nhau là do quả đất vận chuyển quanh mặt trời, lúc gần lúc xa, theo một quỹ đạo hình bầu dục.
Chỉ có lịch Hồi giáo mới thuần túy là âm lịch, cứ theo tuần trăng mà tính một năm 12 tháng, trọn năm 354 ngày. Cho nên nếu một người Hồi giáo khoe là 102 tuổi rồi thì đúng ra chỉ là 96 năm.
Người Ai Cập sáng chế ra dương lịch từ cách đây hơn 6.000 năm. Bấy giờ, người ta tính năm theo chu kỳ nước lũ của con sông Nin, con sông quyết định vận mệnh của nhân dân AI Cập. Nhưng những người làm lịch chỉ tính mỗi năm có 365 ngày, mà thực ra năm dương lịch là 365 ngày và 2,422/10.000 giây (tức là gần 1 phần 4 ngày). Cho nên, theo lịch này thì cứ 4 năm thiếu mất một ngày: qua 1.000 năm, lịch và thời tiết sai nhau 250 ngày: qua một chu kỳ 1.460 năm, lịch và thời tiết mới gặp nhau, rồi lại dần dần sai lệch mãi cho đến hết chu kỳ khác. Tính hỗn độn này ở Ai Cập kéo dài hơn 4.000 năm. Mãi đến năm 240 trước Công nguyên (cách đây 2.211 năm) người ta mới sửa lại lịch, cứ 4 năm có một năm nhuận 366 ngày (thêm một ngày).
Người La Mã làm dương lịch từ cách đây khoảng 3.500 năm, buổi đầu cũng giống lịch Ai Cập, mỗi năm 365 ngày. Năm 46 trước Công nguyên, hoàng đế La Mã ià Giuyn Xê-da nhờ nhà thiên văn Hy Lạp Xi-xô-gien nghiên cứu sửa đổi lịch. Xi-xô- gien quy định mỗi năm 12 tháng, gồm 7 tháng 31 ngày, 4 tháng 30 ngày, riêng tháng 2 có 28 ngày, cộng lạí là 365 ngày và cứ 4 năm thì có 1 năm nhuận, tháng hai 29 ngày. Lịch này gọi là lịch Xê-da.
Nhưng rồi người ta lại phát hiện ra cái sai khá to cũa lịch Xê-da. Bởi vì, trung bình mỗi năm lịch Xê-da so với thời gian quả đất đi một vòng quanh mặt trời thì dài hơn 78/10.000 ngày, tức là 11 phút 14 giây. Mỗi năm sai lệch như vậy có là bao đâu? Qua 100 năm chỉ thừa 3/4 ngày. Ấy thế mà đến năm 1582, tức là qua 17 thế kỷ dùng lịch Xê-da, người ta phải sửa đổi lịch này và quyết định rút bớt đi 10 ngày cho hợp với thời tiết. Năm 1582 như vậy chỉ còn 355 ngày thôi.
Người đứng đầu việc sửa đổi lịch Xê-da là Giáo hoàng Gơ-rê-goa 13. Một hội đồng các nhà bác học đã nghiên cứu sửa lịch Xê-da như sau: Cứ 4 năm có một năm nhuận nhưng trong 400 năm thì phải bớt đi 3 năm nhuận. Lịch sửa đổi gọi là lịch Gơ-rê-goa. Từ khi lịch này ra đời (1582) đến nay, hơn 400 năm đã bỏ 3 năm nhuận: 1700, 1800, 1900. Đó là những năm mà hai con số sau cùng là 00, nhưng hai con số đầu (17, 18, 19) thì không chia hết cho 4. Như vậy trong vòng 400 năm tới thì năm 2000 là năm nhuận còn ba năm 2100, 2200, 2300 không nhuận. Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới dùng lịch Gơ-rê-goa. Nhưng phức tạp, La Mã và Tây Ban Nha dùng lịch Gd-rê-goa trước tiên, sau ngày 4/10/1582 theo lịch Xê-da tiếp ngay đến ngày 15/10/1582. Hai tháng sau, Pháp và Hà Lan sửa đổi lịch. Đến 1584 thì Đức và Thụy Sĩ bắt đầu dùng lịch mới. Nước Anh dùng lịch cũ mãi đến năm 1752 mới thôi. Khi đổi lịch mới phải bớt đi 11 ngày, quần chúng biểu tình khắp đường phố đòi "trả lại chúng tôi 11 ngày". Nước Nga dùng lịch cũ mãi đến ngày 26 tháng 1 năm 1918 chính quyển Xô viết mới quyết định dùng lịch Gơ-rê-goa, cùng chung một quyển lịch với đại đa số nhân dân thế giới. Cho nên, năm 1917 theo lịch Xê-da thì Cách mạng Vô sản nổ ra ngày 25/10. Từ năm sau 1918, theo lịch mới kỷ niệm Cách mạng vĩ đại thành công vào ngày 7/11.
Lịch Gơ-rê-goa chúng ta đang dùng cũng còn một tí sal lệch. So với 100 lần trái đất đi vòng quanh mặt trời thì 100 năm lịch thừa mất 3/100 ngày. Có nghĩa là 100 thế kỷ tới sẽ sai lệch 3 ngày, phải sửa lại, Nhưng đó là việc của hàng trăm thế hệ sau. Còn ngay bây giờ thì đã có nhiều nhà khoa học thế giới nêu vấn đề bỏ lịch Gơ-rê-goa mà thay bằng một thứ lịch mới, gồm các tháng, các quý có số ngày làm việc, ngày nghĩ đều nhau, cho hợp với kế hoạch sản xuất đại công nghiệp
Theo truyền thống xưa, lễ Tạ năm mới được tiến hành khi kết thúc Tết, còn gọi là lễ Hoá Vàng được tiến hành vào ngày mồng ba Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết.
Sắm lễ tạ năm mới
Lễ vật dâng cúng trong lễ tạ năm mới gồm:
Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả).
Trầu cau;
Rượu;
Đèn, nến;
Lễ ngột, bánh kẹo;
Mâm cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.
Văn khấn tạ năm mới
Nam Mô A Di Đà Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật!
Kính lạy:
– Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
– Ngài Đương niên, Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, các Ngài Thổ Địa, Táo Quân, Long Mạch Tôn Thần
– Các Tổ Khảo, Tổ Tỷ, nội ngoại tiên linh.
Hôm nay là ngày mồng Ba tháng Giêng năm…….
Tín chủ chúng con ……………………..
Ngụ tại ……………………………………
Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cúng dâng trước án. Kính cẩn thưa trình: Tiệc xuân đã mãn, Nguyên Đán đã qua, nay xin thiêu hoá kim ngân, lễ tạ Tôn Thần, rước tiễn tiên linh trở về Âm giới.
Kính xin: lưu phúc lưu ân, phù hộ độ trì, dương cơ âm mộ, mọi chỗ tốt lành. Cháu con được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng. Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
![]() |
Chuông gió 6 thanh rất tốt trong việc mời gọi quý nhân phù trợ |
Chuông gió có nhiều tác dụng kỳ diệu. Nó có khả năng giúp tiêu tán và hóa giải hung khí đang án ngữ hoặc chiếu đến vị trí nào đó trong ngôi nhà, biến hung thành cát, đem lại sự an lành và may mắn ngôi nhà của bạn.
Chuông gió đón quý nhân thường có 6 ống kim loại, đại diện cho sao Lục Bạch Kim Tinh (thuộc hành Kim). Loại chuông này được dùng để tiết bớt khí xấu của Thổ, nhất là khi sao Ngũ Hoàng chiếu đến. Ngoài ra, nó cũng có khả năng hạn chế khí xấu của Hỏa (vì Hỏa khắc Kim). Nắp chuông gió nên thiết kế theo hình hồ lô để hóa giải tác hại của sao Nhị Hắc Bệnh Phù.
Nếu biểu tượng con rồng, rùa hoặc kỳ lân được đặt ở giữa thì chuông gió này có tác dụng mời gọi và đón quý nhân đến để trợ giúp cho gia chủ.
Theo kinh nghiệm dân gian, bạn có thể treo, đặt chuông gió đó ở cửa chính hoặc cửa sổ. Tốt nhất, bạn nên đặt chuông ở chỗ có gió vì âm thanh chuông gió phát ra sẽ rất hiệu quả trong việc mời gọi quý nhân và hóa giải khí xấu.
(Theo Nguoilanhdao)
![]() |
Các nhà xem bói tướng thuật khi bàn về vấn đề vận hạn thường lấy 2 mắt chủ quản cho 6 năm vận hạn, tức là mắt trái quản 3 năm là 30, 31 và 32 tuổi; mắt phải quản 3 năm là 33, 34 và 35 tuổi.
Xem mắt biết tai họa
Xung quanh mắt có nốt ruồi đen là người có tính tình tham lam, thường hay ăn trộm. Người sát dưới mắt có nốt ruồi đen tất sẽ gây ra họa hại đối với người khác. Mắt bỗng xuất hiện khí sắc màu đen, cho đến vùng quầng mắt xuất hiện màu đen rất rõ rệt, người như thế trong vòng 10 ngày có thể sẽ vì miệng lưỡi của phụ nữ truyền đến điều thị phi khiến trong nhà không được yên ổn. Nếu sắc đen tương đối mờ nhạt, như thế trong vòng 14 ngày cũng phải chịu điều thị phi mà không được yên ổn.
Người có khí sắc mắt là màu hồng tất sẽ có hỏa hoạn giáng xuống. Người mà có mắt là màu xanh sẽ gặp phải chuyện thị phi đồn đại mà bị liên lụy. Nếu xuất hiện màu đỏ sẽ gặp tai họa liên quan đến chuyện quan trường, nếu khí sắc ở mắt có xuất hiện màu đen thì tài sản bị mất mát. Nếu mắt có xuất hiện màu vàng là tướng tốt lành. Nếu nữ giới trên mắt xuất hiện màu xanh thường vận mệnh người chồng chẳng thể dài lâu. Nếu người nữ mà trên mắt có xuất hiện màu đỏ, chủ về khó khăn trong chuyện sinh nở. Nếu người con gái có khí sắc ở đuôi mắt trắng sáng chủ chồng được thăng quan phát tài.
Xem bói 2 mắt lộ sắc cả đời hung ác
Hai mắt lộ sắc tức là mắt tựa như đám lửa cháy, mắt sắc. 2 viền mắt tựa như phun lửa, tức là trên dưới mắt lộ sắc đỏ hồng, tựa như đám lửa cháy bốc cao hướng ra bên ngoài. Người có hình tướng như thế thường lòng lang hiểm độc, gian trá, cả đời hung ác. Trong khoảng 5 năm từ 30 đến 35 tuổi, người đó được phát tài, nhưng trong khoảng 4 năm từ 37 đến 40 tuổi có thể sẽ gặp nhiều hung họa, nguy hiểm. Hứa Phụ nói: Người mà trong mắt có lộ sắc đỏ tất gặp họa hình thương mà qua đời, mắt như thế được gọi là mắt đỏ như mắt rắn.
Xem bói mắt đen rạng rỡ, cả đời hưởng phúc
Trong sách xem bói tướng Quảng giám tập có chép: Trong 2 mắt có lộ sắc đen, tựa như điểm sơn, rất rõ ràng, ánh mắt rạng rỡ là tướng quý nhân, cả đời được hưởng phúc. Trong khoảng 6 năm từ năm 30 đến năm 35
tuổi sẽ thành công, nối danh thiên hạ. Trong Nguyệt Ba động trung ký chép: Người có mắt to, đoan trang ổn định, không lồi không lộ, trắng đen rõ ràng thường là người có trí tuệ hơn người, sự nghiệp thành công.
Xem bói người có mắt liếc xéo trong lòng không ngay thẳng
Người có ánh mắt hay liếc xéo thường là người có tính cách kiên cường, nhưng lại là người hay cò kè, nhỏ nhen, lời nói hành động thô tục, tương đối tham lam, thường làm những việc tổn hại đến người
khác để mưu lợi cho mình. Người như thế, cho dù là có phú quý, tài hoa hơn người nhưng bản tính cò kè khó thay đổi được. Không chỉ như thế, họ thường có khẩu phật tâm xà, trong ngoài khác nhau. Trong Quảng giám tập nói: Mắt là cửa sổ của tâm hồn, vì thế khi quan sát nhãn thần của một người có thể biết được trong tâm người đó nghĩ gì. Mạnh Tử từng nói rằng: Người có tâm ngay thẳng, ánh mắt rất rạng rỡ; ngược lại, người có tâm không ngay thẳng, mắt sẽ mờ tối không trong sáng. Một người có tâm bên trong ác độc, ánh mắt không thể che giấu được.
Thông qua nhãn thần có thể phán đoán thiện ác của một người.
Mắt nhìn ngay chính, thần khí thanh sảng, ánh mắt ổn định, người đó tâm địa lương thiện. Một người mắt hay liếc xéo, nhãn thần không ổn định, ánh mắt mờ tối, thường là người có tâm hiểm độc. Trong Thái thanh thần giám có nói: Ngưòi có nhãn thần không bình thường, trong tâm mưu mô ác độc. Tóm lại, nhãn thần lương thiện, tâm địa cũng tốt, người có nhãn thần độc ác, tâm địa cũng độc ác. Trong Đại thống phú có nói: Người có ánh mắt liếc xéo thường làm những việc ác độc tổn thương người khác, dù người đó rất giàu có, tâm địa cũng không được ngay thẳng, như thế cũng chỉ là đám tiểu nhân mà thôi.
Mất to lộ sắc hung, tai họa không ngừng
Thuật xem tướng cho rằng người mà mắt to tròn, đột xuất lộ sắc hung thường là người có tính cách hung bạo, cuộc đời thường gặp nhiều tai họa, có khi phải chịu ngục tù, giam cầm. Người như thế cả đời hung ác. Trong những năm từ 28 đến 35 tuổi họ thường gặp phải những chuyện không may. 37, 38, 39 tuổi cũng khó thoát khỏi chuyện hung họa. Người này cho dù sinh ra trong gia đình phú quý nhưng cũng trở thành người tham lam, hiểm độc. Nhưng nếu có thể tĩnh tâm đọc sách, thường xuyên kết giao với những người quân tử có đức hạnh cao quý thì cũng có thể tạo được một khoảng cách nhất định, tránh xa được đám tiểu nhân hiểm ác và vì thế những tai họa giáng xuống cũng giảm đi được một nửa. Trong Nguyệt Ba động trung kỷ có nói: Không nên kết hạn với người mắt lộ sắc hung nếu không sẽ gặp phiền phức, thậm chí tai họa giáng xuống. Lại nói: Người có mắt lộ rõ ra ngoài, tâm vì thế cũng khó giấu kín. Mắt gà mắt chuột, tham lam vô liêm Si. Trong Nguyệt Ba động trung ký có nói: Người có mắt tựa như mắt gà là người thích chuyện tranh đấu với người khác, có tính phong lưu đa tình. Người có mắt tựa mắt rắn, thịt trên mắt dày thường là người có tâm hiểm độc. Người có mắt nhỏ như mắt chuột, hai bên mắt trái phải khác nhau, mắt trái nhỏ hơn mắt phải, người như thế có tâm trộm cướp, tham lam vô liêm sỉ. Người có tướng mắt được trình bày như những đặc điểm trên đây, dù được sông trong nhà giàu sang phú quý cũng là phường trộm cướp, gian dâm, bản tính thích tranh đấu khó thay đổi được.
Hay nhìn trộm người khác, có nhiều nghi ngờ
Nhìn trộm là chỉ khi nói chuyện với người khác, hoặc khi cùng tụ tập đông người, mắt thấp trầm ngâm, thường hay nhìn trộm người khác. Người có tướng mắt như thế đa phần có tính tình không an định, sinh nhiều mốì nghi ngờ trong tâm. Chính vì như thế, gặp chuyện gì họ cũng chắng đưa ra được đối sách tốt.
Xem bói mắt như mất phượng, cả đời phú quý
Người có thần thanh sảng, thanh tú, nhãn thần sáng bóng tinh khiết, nhãn châu trắng đen rõ ràng, chính là nói ánh mắt như sao tỏa sáng ra bôn phía. Người có mắt dài như mắt phượng, tức là mắt nhỏ dài nhập vào gần tóc mai, độ dài của mắt quá 1 tấc 5 phân. Người có tưỏng mắt như thế, bất luận là nam hay nữ đều là người phú quý. Quan Vân Trường thời Tam quốc, Phòng Huyền Linh thời Đường đều có tướng mắt này.
Tri cầu lợi cầu danh bất thức tác nhân tác thiện kim sinh khủng ngộ can chi bất thuận mỗi nhật trần lao cốt cốt vị năng nhất tính viên minh …
GIẢI CÔ THẦN QUẢ TÚ
Phục dĩ
Kim nhân ứng thế độ khai quyền thực chi môn bảo bối di văn phổ giải căn nguyên chi trái tiêu trừ tam độc đoán giải cô thần
Viên hữu việt nam quốc
Thượng phụng
Phật thánh cúng dàng đương thiên bái đảo sám tạ lễ giải cô thần quả tú cờ an bản mệnh diên sinh sự kim thần tín chủ
Ngọc bệ phủ lịch nhất tâm ngôn niệm thần đẳng mệnh sinh trần thế số bẩm thiên cung hoặc ư gia tiên sinh tiền phúc bạc mệnh hậu thâm khiêm đồ
Tri cầu lợi cầu danh bất thức tác nhân tác thiện kim sinh khủng ngộ can chi bất thuận mỗi nhật trần lao cốt cốt vị năng nhất tính viên minh
Chung chiêu nghiệp trọng mang mang mạn tứ lục căn tham dục kim bằng sám tạ giải cô thần quả tú chi tai ương kim nhật đầu thành
Đoan túc trái hàm oan chi nghiệp chướng do thị kim nguyệt cát nhật tu thiết hương hoa kim ngân lễ vật cụ trần sớ văn bái tấu
Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn bạch y quan thế âm Bồ tát
Hồng liên toạ hạ
Trung thiên tinh chúa bắc cực tử vi đại đế. Ngọc bệ hạ
Đại thánh Nam tào Bắc đẩu nhị vị tôn tinh. Vị tiền
Thiên đình cứu cung bát quái ngũ hành cửu diệu nhị thập bát tú tinh quân. Vị tiền
Thiên đình thượng thanh thiên tào bản mệnh nguyên thần chân quân. Vị tiền phục nguyện
Cửu thiên xá tội thập địa trừ khiêm bát hải phá mê minh đồ tiếp hoá sử nghiệp chướng dĩ băng tiêu dương quyến vĩnh tồn tỷ cô thần
Quả tú nhi tuyết tán sinh nhân đắc ngộ lương quyến hảo hợp cầm sắt tảo thành sử gia thất đĩnh sinh tử hiếu tự thừa phu phụ song toàn
Quang hiển tông đường ân chiêm
Thánh đức đãn thần hạ tình vô nhậm khích thiết bỉnh doanh chi chí cẩn sớ
Thiên vận niên nguyệt. Nhật thần khấu đầu thượng sớ.
1/- Đường Sanh đạo :
Đường Sanh đạo còn được gọi là đường đời, sinh lão bệnh tử đều nhìn theo đường chỉ dài ngắn để đoán số mệnh yểu hay thọ. Tuy nhiên có những đường chỉ Sanh đạo quá ngắn hay bị đứt khoảng, người này vẫn sống thọ, là vì còn có đường trí đạo, tức Minh đường còn gọi đường người (2), đường Thiên đạo (3) còn gọi đường trời, và ngón tay cái tốt, hỗ trợ cho đường Sanh đạo, chế phục nét xấu.
Như đã nói các đường chỉ tay dù có tên riêng, tính chất riêng, nhưng không mang tính đôc lâp hoàn toàn, chúng luôn liên kêt hô trợ, chê ngự tính cát hung cho nhau qua các phân phúc đức từ quá khứ cho đên hiên tại.Bình thường đường Sanh đạo xuất phát từ giữa ngón cái với ngón trỏ, nên :
– Nếu đường Sanh đạo bị cắt đứt nhiều khoảng, hoặc có nhiều đường chỉ phụ nổi bật đâm ngang, là biểu hiện về sức khoẻ, có bệnh từ bộ máy tiêu hóa.
– Nếu bắt nguồn từ ngón tay trỏ là người có tính kiêu căng, tự phụ, nhiều quỷ kế để đi đến mục đích của sự tham vọng; còn dưới chừng 3 đến 5m/m thì tính tình ngược lại.
– Nếu kết thúc gần cổ cườm tay là người thích phiêu lưu, ưa mạo hiểm, thích đối đầu với rủi ro, sống thọ, nhưng không tiền của, hậu vận bi đát. Nếu gặo dấu ngôi sao hay chữ thập có thể gặp tai ương khủng khiếp.
– Đường Sanh đạo bao quanh gò Hỏa tinh dương thuộc người nhiệt tình với mọi công việc, tính nhân hậu, giàu tình cảm và hay đa cảm. Nếu chỉ vào không sâu gò này thì tính ti tiện, ích kỷ và tham lam.
– Nếu đường Sanh đạo xoăn như ruôt gà, là có bênh về măt, cân thị, hay mù măt; có nhánh rẽ tức từ thân đường Sanh đạo có thêm nhánh phát sinh, có bệnh động kinh. Nếu từ đầu nguồn có nhiều đường chỉ đi qua, hay có cù lao, trong thời thơ ấu có nhiều bất hạnh, hoặc con ngoài giá thú.
– Nếu có nhiêu đường cắt ngang, trong công việc thường thât bại; nếu giống sợi xích thì suốt đời gian nan, có số lao tù; nếu không đều, đường chỉ lúc to lúc nhỏ là người bất nhất, ươn hèn; nếu rộng có màu đen thẫm có tính tàn bạo, thường là kẻ đâm thuê chém mướn, còn nhạt thì hoang dâm, hồng hào là được âm phù dương trợ.
– Nếu có đường Sanh đạo đôi, đường này sẽ chế ngự hay hay hỗ trợ thêm cho tính hung kiết của đường chỉ chính, nếu có dấu ngôi sao, tam giác chế ngự được tính hung mà đường chỉ chính không có.
Tác giả: Lương Trâm
- Thứ nhất là khác nhau về hình thức, bói dịch dùng thi thơ để giảng còn Chu dịch dùng văn xuôi để giảng.
- Thứ hai là bói dịch có nhiều lọai gồm :
8 Quẻ ba hào như Liên Sơn dịch đời Hạ có quẻ đầu là Cấn, Qui tàng dịch đời Thương có quẻ đầu là Khôn.
32 Quẻ năm hào như “Tam Bửu Hiệp nhứt” người Việt hay thường sử dụng
64 Quẻ sáu hào “ Bói dịch cổ truyền” người Việt hay thường sử dụng
Khác với bói dịch, Chu dịch chỉ có một lọai là 64 quẻ sáu hào, được ghi chép có hệ thống dạng kinh điển , còn dùng để nghiên cứu, không như những sách bói “diệc” chỉ dùng cho việc chiêm bói được lưu hành trong dân chúng.
Trước hết xin nói về cách trình bày của các lọai bói dịch người Việt hay xử dụng
Quẻ năm hào:
Ví dụ: quẻ Giá sắc
Nội dung: Dịch nghĩa:
Thả thủ quân tử phận. Quân tử nên giữ phận
Vật dụng tiểu nhân ngôn. Chớ nghe lời tiểu nhân
Phàm sự giai đương cẩn Mỗi việc nên cẩn thận
Tác phước bảo an nhiên Làm lành vậy mới yên
Quẻ sáu hào:
Ví dụ: Phong Sơn Tiệm ( Hồng nhạn phi cao)
Ý nghĩa: Chim Hồng nhạn được sổ lồng bay xa.
Tiến từ từ bay lên mây trong sự thông đạt thong dong.
Không có gì cản trở.
Nhưng không thể bay vụt từ trong lồng lên mây ngay được.
Giải đoán: Vận khí thịnh đạt dần dần. Công việc mỗi ngày đều phát triển đều đặn. Không gặp trở ngại. Thành quả rất to lớn so với lúc khởi sự.
Lời khuyên: Giữ tiết hạnh thanh cao. Ung dung không vội vả.
Phụ chú : Giải trừ mọi tai ương. Tuy tiến chậm nhưng rất yên ổn.
Hào 1 : trung bình, tiến hơi chậm
Hào 2 : rất tốt
Hào 3 : trung bình
Hào 4 : tốt
Hào 5 : tốt
Hào 6 : rất tốt, đại cát
Ứng hạp : Tuổi Bính : Thìn, Ngọ, Thân
Tuổi Tân : Mão, Tỵ, Mùi
Tháng 1
Hành thổ
Lời giảng của của quẻ này viết theo văn xuôi nhưng được ngắt ra 4 đọan, có lẽ vào đời Tần bị cấm thi thơ, các lọai sách đều phải chép lại bằng văn xuôi.
Tiếp đến là cách trình bày quẻ trong Kinh Dịch : Quẻ Phong Sơn tiệm ( xin không trích giảng hào từ)
Thóan từ: Tiệm, nữ qui cát, lợi trinh.
Dịch: Tiến lần lần, như con gái về nhà chồng, tốt; giữ đạo chính thì lợi.
Giảng: Quẻ này là Tốn ( cây), dưới là Cấn( núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt là Tiệm.
Tiến mà lần lần, không nóng nảy, vẫn tỉnh như nội quái cấn, vẫn hòa thuận như ngọai quái Tốn thì không bị vấp váp, không bị khốn cùng.
Hào từ:
- Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn vô cửu.
Dịch: Hào âm 1, con chim Hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại cho là nguy, than thở nhưng không có lỗi.
- Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.
Dịch: Hào 2 âm, chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi, tốt
- Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung lợi ngự khẩu.
Dịch: Hào 3 dương, chim hồng tiến tới đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang không nuôi, xấu, đuổi cướp thì có lợi.
- Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắ kỳ giốc, vô cửu.
Dịch: Hào 4 âm, chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.
- Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dụng, chung mạc chi thắng, cát.
Dịch: Hào năm dương, chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng cuối cùng không có gì thắng nổi điều chính, tốt.
- Thượng cửu: Hồng tiệm vu qui, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Dịch: Hào trên cùng dương, chim hồng bay bổng ở đường mây. Lông nó có thể dùng làm đồ trang sức, tốt.
Hai loại dịch trên mặc dù có khác nhau về hình thức, nhưng nhìn chung tất cả đều có đặc điểm là có hào âm,hào dương. Âm dương được hình thành do sự vận động của vũ trụ. Sự vận động này thuận theo chiều hướng sinh của ngũ hành hình thành bát quái. Đó là học thuyết Âm dương- Ngũ hành của người xưa.
1/ Thuyết Âm dương - Ngũ hành:
a - Sự hình thành Âm dương:
Thái cực vận động sinh ra lưỡng nghi, tức là hai khí : Âm và Dương. Phần dương thì động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên sinh ra khí dương và nơi tích lũy nhiều khí dương là bầu trời được ký hiệu là ( ). Dương được sinh ra từ cực Bắc và bên trái chủ dương.
Phần âm thì tỉnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới sinh ra khí âm và nơi tích lũy nhiều khí âm là đất được ký hiệu là ( ) . Âm được sinh ra từ cực Nam và bên phải chủ âm.
Cực Nam
Cực Bắc
Hình lưỡng nghi
Âm dương có sự liên hệ thần bí, đó là sự hấp dẫn lưỡng tính thần kỳ. Theo Lôi Đạc, trong tác phẩm Mỗi ngày 10 phút với Chu Dịch, nhà ảo thuật Trung quốc nổi tiếng là Tàng quốc Chân đã phát hiện điều này khi đem hai con thạch sùng đực, cái ném mạnh xuống đất. Khi đuôi của hai con thạch sùng bị đứt, chúng nhảy nhót trên mặt đất, rồi hai chiếc đuôi ngày càng gần lại với nhau, dựa sát vảo nhau sau đó bám chặt lấy nhau thành hình “bánh quấn thừng: Thế nhưng dùng hai con thạch sùng cùng giống thì không thấy có hiệu ứng này. Một thử nghiệm khác nữa là bắt vài con thạch sùng có bốn chân, phân biệt đực – cái, chặt đuôi và lột da chúng ra, sau khi đốt cháy nghiền thành bột, đổ vào hai cây nến rỗng ruột, đặt trên bàn cách nhau 30 cm, châm lửa trên hai cây nến đó. Điều kỳ dị đã xuất hiện, hai ngọn lửa hấp dẫn nhau, dần dần dựa sát vào nhau, cuối cùng dính lại tạo thành một tuyến lửa nằm ngang như chiếc cầu vồng được đặt tên là “cầu lửa”.
Qua phát hiện đó có thể thấy được tuy âm dương là hai yếu tố tương phản nhau nhưng trong mọi vật hai yếu tố âm dương luôn dung hòa lẫn nhau, tương giao cùng nhau, bổ túc cho nhau, liên kết với nhau rất mật thiết. Cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của muôn vật, tất cả sự biến hóa trong vũ trụ đều có thể giải thích bằng hiện tượng chuyển biến của âm dương. Âm trưởng thì dương sẽ tiêu, dương trưởng thì âm sẽ tiêu, âm tăng đến chỗ cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thóai dần, khi dương tăng đến chỗ cực thịnh thì âm sẽ phát sinh và dương sẽ thóai dần, đó là lẽ tuần hòan của âm dương trong trời đất như : Mùa đông âm khí nhiều khí hậu lạnh. Cuối đông âm khí thịnh, dương khí bắt đầu phát sinh. Qua xuân dương khí mới phát sinh còn non, khí hậu ấm áp dần dần. Đến mùa hạ dương khí tăng trưởng, khí hậu nóng. Cuối hạ dương khí cực thịnh khí hậu nóng bức và âm khí sẽ phát sinh. Qua mùa thu âm khí mới phát sinh còn non khí hậu mát, âm khí dần dần tăng trưởng lại bước qua đông.... cứ như thế mà tiếp diễn ; hoặc cũng như chuyển biến âm dương trong ngày đêm : từ nửa đêm – sáng sớm – giữa trưa – buổi chiều – lại nửa đêm. Sự âm tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng tiếp diễn nhau rất cần thiết để điều hòa sự tuần hòan của trời đất, nếu dương cực thịnh mãi mà âm khí không phát sinh hoặc ngược lại thì trời đất bất hòa và sự sinh hóa của của muôn vật sẽ rối lọan như : chỉ có đêm mà không có ngày hay ngược lại, thời tiết nóng mãi hoặc lạnh mãi đều bất lợi cho sự sinh trưởng của vạn vật. Mặt khác, trong sự chuyển hóa để tương giao với nhau, dương khí có khuynh hướng thăng cao lên tức ly tâm, âm khí có khuynh hướng giáng xuống thức hướng tâm. Đó là dương thăng, âm giáng.
Ví dụ: không khí nóng có khuynh hướng bay lên cao, không khí lạnh có khuynh hướng hạ xuống thấp. Sự kiện không khí vùng lạnh thay thế vùng nóng sẽ sinh ra gió.
Sự vận động của âm dương sẽ sinh ra 4 khí gọi là tứ tượng : Thái âm – Thiếu dương – Thái dương – Thiếu âm
Hình tứ tượng
Từ bốn khí này giao hòa thăng giáng với nhau, tạo ra sự đối kháng, chuyển dịch. Đây chính là động lực phát triển cũa sự vật, hiện tượng, con người. Động lực ấy thể hiện ra 8 dạng thức trong không gian, đó là bát quái. Bát quái với 5 thuộc tính ngũ hành đã tạo ra vũ trụ, vạn vật, trong đó có con người với hành vi của họ.
Bát quái với tính chất gắn liền với bầu trời xin được tạm gọi là “Thiên Bát Quái”
Bát quái có tính chất gắn liền với trái đất xin được tạm gọi là “ Địa Bát Quái”
b- Ngũ hành:
Ngũ hành được cho là 5 dạng vật chất gồm :
- Hành Thủy tượng trưng cho nước
- Hành Mộc tượng trưng cho cây cối
- Hành Hỏa tượng trưng cho lửa
- Hành Thổ tượng trưng cho đất
- Hành kim tượng trưng cho kim lọai.
Căn cứ vào tính chất các hành trên có sự sinh, khắc với nhau
Ngũ hành tương sinh :
Thủy sinh Mộc
- Mộc sinh Hỏa
- Hỏa sinh Thổ
- Thổ sinh Kim
- Kim sinh Thủy
Ngũ hành tương khắc :
- Thủy khắc Hỏa
- Hỏa khắc Kim
- Kim khắc Mộc
- Mộc khắc Thổ
- Thổ khắc Thủy
Năm hành trên được xếp thành các phương vị trên Hà Đồ, Lạc Thư.
c/ Thuyết Thiên Địa Nhân:
Thuyết Thiên Địa nhân nói lên sự chi phối của trời đất đối với con người.
- Thiên: Thiên can là tọa độ không gian được thể hiện ở 10 vị trí: Giáp , Ất , Bính , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Tân , Nhâm , Quí. Thiên là khỏang không gian bao la, trong Thiên có ba yếu tố hợp thành là Nhật ( mặt trời) ; Nguyệt ( mặt trăng) ; Tinh ( các vì tinh tú). Vạn vật con người chuyển dịch trong không gian theo 10 thiên can, được Nhật, Nguyệt, Tinh chiếu vào tác động ảnh hưởng suốt cả cuộc đời, do vậy yếu tố năm, tháng, ngày, giờ sinh được người xưa cho là có thể quyết định được vận mệnh của từng người.
- Địa: Địa chi là tọa độ thời gian được thể hiện ở 12 vị trí thời gian trong năm , tháng, ngày, giờ gồm : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Địa được cấu thành bởi 3 yếu tố thủy , hỏa , phong. Từ yếu tố địa , người xưa hình thành nên môn địa lý phong thủy dùng để xem xét sự vận động hài hòa của thủy hỏa phong, nếu mất cân bằng trong vận động của ba yếu tố này ở một địa điểm mà một người đang sinh sống thì người đó sẽ gặp trở ngại và tai họa.
Tóm lại, nói Thiên Địa Nhân là nói con người luôn luôn bị chi phối bởi Thiên và Địa, ba yếu tố này tương tác lẫn nhau, con người muốn tồn tại, sinh sống bình thường phải có sự cân bằng giữa bản thân với thiên địa. Không gian Dịch là không gian Thiên Địa Nhân, là thế giới của âm dương giao hòa, chuyển hóa cho nhau, thế giới giữa hai mặt đối lập tồn tại và bổ xung cho nhau nên khi nắm bắt được chuyển động đó người xưa đã lập ra mô hình trạng thái không gian gọi là âm, dương ( lưỡng nghi). Âm, dương vận động sinh ra bốn khí gọi là tứ tượng, lại tiếp tục vận động thành ra bát quái
2/ Hà đồ – Lạc thư:
Hà đồ – Lạc thư đã được người Trung hoa xem như nguồn gốc của bát quái có nghĩa là sự hình thành của bát quái phải được gợi ý của Hà đồ – Lạc thư, thánh nhân mới dựa vào đó mà phỏng theo. Hình dạng của Hà đồ – Lạc thư ra sao không ai biết được , chỉ nghe nói đến từ cháu của Không Tử là Khổng An Quốc nhưng mãi đến đời Tống hai đồ hình đó mới thấy phổ biến.
Căn cứ vào “ Dịch học Tượng số luận” của Hòang Tông Nghi thì Trần Đòan đã truyền cho Chủng Phóng, Chủng Phóng truyền cho Lý Khái, Lý Khái truyền cho Hứa Kiên, Hứa Kiên truyền cho Phạm Ngọc Xương, Ngọc Xương truyền cho lưu Mục. Lưu Mục căn cứ vào Hà đồ-Lạc Thư trước tác ra “ Dịch số câu ẩn đồ”, bức đồ của ông mới được đông đảo người biết đến. Cho đến nay người ta cũng chưa hiểu được, vào đời Tống, vị đạo sĩ ở Hoa Sơn là Trần Đòan đã lấy ở đâu ra được những hình Hà đồ-Lạc Thư ấy.
Sau khi Hà đồ-Lạc Thư ra đời, một bộ phận trong học phái này chia rẽ. Một số người không tin vào những thứ này, nhà Đại văn học Âu Dương Tu cho rằng : “đầu độc sai lầm vào những người học giả, gây tác hại đâu có nhỏ”. Cuộc tranh luận này kéo dài tới cuối đời Thanh, Dân quốc, thậm chí đến sau ngày giải phóng.
a - Hà đồ: Theo ghi chép của người Trung Hoa, Hà đồ là vật mà Hòang Đế được trời ban cho từ sông Hòang Hà, trên lưng con long mã, đồ hình có 5 cặp số được sắp xếp như sau: 1 với 6 ở dưới là số sinh thành của thủy ở phía Bắc
2 với 7 ở trên là số sinh thành của hỏa ở phía Nam.
3 với 8 ở bên trái là số sinh thành của mộc ở phương Đông
4 với 9 ở bên phải là số sinh thành của kim ở phương Tây
5 với 10 là số sinh thành của thổ ở trung ương.
Hà đồ là bức đồ đầu tiên của kinh dịch, sự vận hành của nó theo chiều hướng sinh của ngũ hành. Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông.
Hình Hà đồ
b - Lạc thư: Theo truyền thuyết Lạc thư do thần qui mang trên lưng nên có tượng con rùa đầu đội 9, đuôi mang 1, bên trái mai mang 3, bên phải mai mang 7, vai bên trái mang 4, vai bên phải mang 2, chân trái mang 8, chân phải mang 6, giữa lưng mang 5
Hình Lạc thư
Theo các nhà nghiên cứu thì Lạc thư là một dạng Cửu tinh Đồ, là Cửu trù Hồng Phạm, nếu đọc theo chiều nghịch kim đồng hồ là biểu đồ phương vị ngũ hành được vận hành theo hướng khắc.
Do vậy, theo thiển nghĩ, bát quái phải được dựa vào Hà đồ để thiết lập vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới được sinh hóa, nói lên sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch.
Thử vẽ Bát quái:
1/ Thiên Bát quái: ( biểu đồ tiết khí)
Bốn mùa
Từ 4 mùa âm dương lại biến đổi thành 8 tiết khí dựa trên cơ sở 2 cụm tứ tượng, bắt đầu từ điểm cực âm. Theo lẽ tự nhiên, cực âm sẽ sinh dương, cụm tứ tượng bên trái sẽ được sinh dương, khi dương thịnh đến điểm cực dương cụm tứ tượng bên phải sẽ được sinh âm, từ đó có được hệ thống bát quái gắn liền với trời như thời tiết, gió mưa, là biểu đồ bát tiết.
Xem xét biểu đồ trên, có thể thấy các tiết khí chuyển biến theo hướng sinh, bắt đầu từ điểm cực âm theo chiều thuận kim đồng hồ: Bắt đầu từ thủy sinh mộc = đông sang xuân; mộc sinh hỏa = xuân sang hạ ; hỏa sinh thổ - vào trung tâm, thổ sinh kim = hạ sang thu; kim sinh thủy = thu sang đông. Hướng sinh trên thuận theo lẽ tự nhiên thành ra tám tiết khí:
![]() |
|
- Khôn : cực âm ( ) tiết đông chí - dương thủy- vị trí số 1
- Chấn : bắt đầu sinh dương ( ) tiết lập xuân - âm mộc- vi trí số 8
- Ly : âm tiêu dương trưởng ( ) tiết xuân phân - dương mộc - vị trí số 3
- Đòai : dương thịnh ( ) tiết lập hạ - âm hỏa - vị trí số 2
- Kiền : cực dương ( ) tiết hạ chí - dương hỏa - vị trí số 7
- Tốn : bắt đầu sinh âm ( ) tiết lập thu - âm kim - vị trí số 4
- Khảm : dương tiêu âm trưởng ( ) tiết thu phân-dương kim-vị trí số 9
- Cấn : âm thịnh ( ) tiết lập đông - âm thủy - vị trí số 6
Thứ tự của bát quái trên thuận theo hướng sinh là : Khôn, Chấn, Ly , Đòai , Kiền , Tốn , Khảm , Cấn, được hiểu như một hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trời như: thời tiết, khí tượng , gió mưa.... Hệ thống này được Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Bát Quái. Tuy vậy , người Trung hoa không dùng Tiên thiên bát quái để giải thích thời tiết mà dùng để giải thích về địa lý, phương hướng như sau:
- Khôn : là đất nên ở phương Bắc, vì phương bắc giá lạnh nên thuộc thủy
- Chấn : ở Đông bắc vì gió từ Tây nam thổi qua đông bắc gây tiếng động, hoặc sáng (ly) tối (khảm) cọ sát nhau sinh ra sấm.
- Ly : là mặt trời nên ở phương đông,vì mặt trời mọc ở phương đông
- Đòai : ở Đông nam vì phía Đông nam Trung hoa nhiều đầm hồ
- Kiền : là trời nên ở phương nam, phương nam nóng thuộc hỏa
- Tốn : ở Tây nam là nơi nóng (nam) và lạnh (tây) xô xát sinh ra gió
- Khảm : là mặt trăng nên ở phương Tây, vì mặt trăng hiện ra ở phương tây
- Cấn : ở Tây bắc vì tây bắc Trung hoa có nhiều đồi núi.
2/ Địa bát quái: (biểu đồ địa lý phương hướng)
Về Địa bát quái, hiện nay chưa rõ được kết cấu như thế nào nhưng cũng xin đề xuất đồ hình để tham khảo
Ví dụ: Địa Bát Quái
Hậu Thiên bát quái
Địa Bát quái, được hiểu như hệ thống bát quái có tính chất gắn liền với trái đất như : địa lý, phương hướng , được sắp xếp một cách hợp lý như sau :
- Cấn , hành thổ mượn vị trí số 1, có ba hào : âm+âm+dương= dương thổ
- Chấn ở vị trí số 8 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm= dương mộc
- Tốn ở vị trí số 3 thuộc mộc, có ba hào : dương+dương+âm = âm mộc
- Ly ở vị trí số 2 thuộc hỏa, có ba hào : dương+âm=dương = âm hỏa
- Khôn hành thổ mượn vị trí số 7, có ba hào : âm+âm+âm = âm thổ
- Đòai ở vị trí số 4 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+âm = âm kim
- Kiền ở vị trí số 9 thuộc kim, có ba hào : dương+dương+dương = dương kim
- Khảm ở vị trí số 6 thuộc thủy, có ba hào : dương+âm+dương = dương thủy
So sánh với Hậu thiên bát quái của Văn Vương:
- Cấn mượn vị trí số 8 thuôc thổ
- Chấn ở vị trí số 3 thuộc mộc
- Tốn ở vị trí số 2 thuộc hỏa
- Ly ở vị trí số 7 thuộc hỏa
- Khôn mượn vị trí số 4 thuộc thổ
- Đòai ở vị trí số 9 thuộc kim
- Kiền ở vị trí số 6 thuộc thủy
- Khảm ở vị trí số 1 thuộc thủy
Xét theo bát quái phong thủy thì Tốn phải thuộc mộc và Kiền phải thuộc kim, như vậy Hậu thiên bát quái xem ra có vấn đề. Hệ thống này chỉ đúng khi đứng ngòai Hà đồ, tuy nhiên âm dương ngũ hành khi tách rời nhau sẽ không còn ý nghĩa, do vậy suy cho cùng vẫn là sai. Một điểm sai nữa là người Trung hoa không dùng hệ thống bát quái này để giải thích về địa lý mà gọi đó là Bát tiết bát quái :
- Cấn: Tiết lập xuân,
- Chấn: Tiết xuân phân
- Tốn: Tiết lập hạ
- Ly: tiết hạ chí
- Khôn: tiết lập thu.
- Đòai: tiết thu phân
- Kiền: tiết lập đông
- Khảm: tiết đông chí
Có lẽ để thuyết minh cho vấn đề sai lệch về các hành của hệ thống này, thuyết quái truyện viết: “ Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Trí dịch hồ Khôn. Thuyết ngôn hồ Đòai. Chiến hồ Càn. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn."
Thuyết quái truyện cũng có lời giải thích cho đọan văn khó hiểu trên: “Vạn vật xuất ở Chấn , Chấn thuộc phương đông. Gọn gàng ở Tốn, Tốn thuộc đông nam, gọn gàng là muốn nói muôn vật đều sạch sẽ. Ly là sáng, vạn vật cùng thấy nhau, là quẻ ở phương Nam, đấng thánh nhân quay về phương nam mà nghe thiên hạ, hướng vào nơi ánh sáng mà trị là tượng ở đấy. Khôn là đất, muôn vật đều được nuôi dưỡng ở đó, cho nên nói là làm việc ở Khôn. Đòai là chính thu, vạn vật đều vui vẻ, nên nói vui vẻ là nói ở Đòai. Đánh nhau ở Kiền, Kiền là quẻ ở tây bắc, đó là nói về âm dương xô xát vậy. Khảm là nước, là quẻ ở chính Bắc, là quẻ khó nhọc, muôn vật đều ở đó nên nói khó nhọc ở Khảm. Cấn là quẻ đông bắc, nơi muôn vật thành ở lúc cuối và lúc đầu, nên nói thành là nói Cấn”.
Lời giải thích trên khi đọc xong lại càng thấy khó hiểu, nên xin được đề xuất lời giải thích khác như sau:
- Đế xuất hồ Chấn: là mặt trời mọc ở phương đông.
Vấn đề chính là đây. Theo tôi, vị trí mặt trời mọc là vị trí bước qua số 1 của Hà Đồ, là qua cực Bắc đã sinh dương, về thời khắc thì vào giờ Dậu nên Chấn phải ở vị trí số 8 thuộc mộc. Đối với người tạo ra Hậu thiên bát quái thì Chấn phải ở vị trí số 3 thuộc mộc là nơi mặt trời ló dạng, về thời khắc thì vào giờ Mẹo.
- Tề hồ Tốn : do mang Chấn đặt vào vị trí số 3 , là chỗ của Tốn, nên phải sắp xếp lại vị trí của Tốn.
- Tương kiến hồ Ly : Tốn bị bỏ ra phải vào vị trí số 2 thuộc hỏa, là vị trí của Ly, nên nói là gặp nhau ở cung Ly.
- Trí dịch hồ Khôn : dể Ly có chỗ phải suy tính dời Khôn đi.
- Thuyết (duyệt) ngôn hồ Đòai : Khôn được dời vào vị trí số 4 thì Đòai phải vào vị trí của Càn ở số 9 thuộc kim, đến Đòai thì thuyết phục được.
- Chiến hồ Càn : tranh cãi ở Càn. Khi Đòai vào vị trí của Càn thì Càn phải dời vào chỗ của Khảm số 6 thuộc thủy mà Càn thì thuộc kim.
- Lao hồ Khảm : mặc dù Càn thuộc kim nhưng vì muốn thực hiện việc chỉnh sửa trên nên phải ép Càn vào ở vị trí của Khảm nên nói là lao hồ Khảm
- Thành ngôn hồ Cấn : đến cung Cấn thì kết luận, đã quyết định xong.
Đọan văn khó hiểu trên có lẽ ghi lại sự tranh cãi giữa Hoa tộc và người đại diện cho Hoa Hạ là Cộng công. Cộng công được biết như là một chức quan trông coi về khoa học kỹ thuật ở thời ấy. Theo ghi chép của Trung Hoa, giữa cháu nội Hòang đế là Chuyên Húc và Cộng Công vào thời ấy đã có sự bất đồng ý kiến về khoa học kỹ thuật qua truyện kể về Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu như sau:
Cộng Công là người có công lao rất lớn trong phát triển nông nghiệp của Trung hoa được dân chúng tôn là Thủy sư tức thần nước. Con của ông là Hậu thổ cũng có năng lực trong nghề nông được dân chúng tôn là Xã thần tức thần đất, là các thần quản về thủy lợi. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình đất ở 9 châu họ đã thống nhất là phải sửa bằng đất đai, tuy nhiên ý đồ này không được Chuyên Húc đồng ý. Cộng công vì giận mà húc đầu vào núi Bát Chu.
Bát Chu là núi Côn Lôn, ngọn núi có những quái thạch nhọn hoắt, cao chạm tầng mây. Sau cú húc mạnh của Cộng Công, quả núi này lập tức gảy gập ngay, đất đá lở xuống ầm ầm, cây cối ngã nghiêng, trời đất mù mịt, tưởng như xảy ra động đất, bầu trời nghiêng ngã. Thì ra theo lời đồn đại, núi này chính là cây cột chống trời, cột trời sụp thì dây chằng đất đứt rời từng khúc, do đó phía Đông nam sụp xuống lấp bằng chỗ trũng khiến cho sông ngòi đều theo dòng chảy về phía đông rồi đổ vào biển đông. Bầu trời khi đó nghiêng về phía Tây Bắc cho nên các vì tinh tú , mặt trời, mặt trăng ngày ngày đều mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây....
Phân tích câu truyện trên có thể suy ra : núi ( Cấn) Bát Chu sụp xuống làm dây chằng đất (Khôn) đứt rời, có nghĩa trục Khôn-Cấn trở lại là trục thẳng ; phía Đông nam (Tốn) sụp xuống , bầu trời nghiêng về phía Tây Bắc (Càn), có nghĩa là trục Tốn Càn trở lại là trục ngang, các vị trí đó là Càn-Khôn-Cấn-Tốn trong tư nam thời Xuân thu chiến quốc. Cuối cùng là mặt trời lại mọc ở phương Đông là vị trí số 8 trên Hà đồ.
Nhưng tại sao Cộng Công lại phải húc đầu vào núi Bát Chu?
Bởi vì núi là tượng Cấn. Liên Sơn Dịch của Hoa hạ lấy quẻ đầu là Cấn. Nói là Cộng Công húc đầu vào núi Bát Chu có nghĩa là muốn sửa bái quái của tộc Chu cho đúng với vị trí ban đầu. Sự bất đồng này có lẽ cũng nghiêm trọng, vì sau đó những người tộc Hạ sống trên đất Tề thường lo sợ về chuyện bị “trời sập”.
Tư Mã Thiên cho rằng Hậu Thiên bát quái là sản phẩm của Văn Vương có lẽ do trong các quẻ bói mà người Việt đang dùng có một số quẻ đã đề cập đến những vấn đề liên quan đếnVăn Vương như:
Quẻ “Vị thủy phong hiền” còn gọi là Sơn Lôi di :
Khương Tử Nha là bậc đại hiền.
Ngồi câu cá chờ thời bên bờ sông Vị thủy.
Vua Văn Vương nghe tiếng đích thân đến tận nơi thỉnh ra giúp nước.
Rước về tôn làm thường phụ.
Quẻ “ Phượng minh Kỳ sơn”- Thiên trạch lý :
Phượng hòang bất thần xuất hiện ở núi Kỳ sơn cất tiếng gáy.
Báo hiệu điềm lành.
Vua Văn Vương ra đời.
Tạo dựng một thời đại thái bình thạnh trị.
Quẻ “Trảm tướng phong thần” - Thủy trạch tiết :
Đời nhà Thương có vua trụ bạo ngược.
Khương Tử Nha vì đại nghĩa diệt được Trụ vương.
Muốn cho óan khí của quân thù tiêu tán để quốc thái dân an.
Nên đã lên “Vạn phong Sơn” cầu siêu, phong thần cho tướng sĩ tử trận.
Về nguồn gốc Kinh dịch, một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Ông Hondanariyouki nhận xét “ Ở Chu dịch, các từ thóan tượng đều lấy tên từ các lọai muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có “phi long”; “tiềm long” càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở”.
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo ##/img/www.uglychinese.org thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Tọai Nhân), sau đó họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Tọai nhân, tiếp nữa là họ Fuxi ( Phục Hy) và Nuwa (Nữ Oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy.
Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của kinh dịch thì họ Tọai nhân đã phát minh ra “lửa” ; họ Phục Hy đã phát minh ra “cái lưới” và chữ viết dưới dạng “thắt nút kết thằng” (chữ Khoa Đẩu?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; họ Thần Nông phát minh ra “cái cày”, mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hòang. Ngòai ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.
Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Tọai Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khỏang 4300 tr.cn khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Tọai Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên của người Hàn Quốc đến thay thế vào khỏang 3898 tr.cn. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngòai họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù nam......v.v . Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng.
Ở Trung Hoa vào thời Phục Hy, người xưa có lẽ đã hiểu được qui luật âm dương và sự vận động của nó, đã thuận theo những qui luật ấy để phát triển nông nghiệp. Trong kinh dịch cũng có đề cập đến Phục Hy đã trông trời, trông đất, trông vạn vật mà vẽ quái, thời diểm này có thể là họ Phục Hy không chỉ vẽ quái mà ít nhất đã biết đến tứ tượng tức là bốn mùa để theo đó mà trồng trọt. Khi Thần Nông đến thì Phục Hy bị thay thế vì họ Thần Nông đã phát minh ra cái cày và phương thức tát nước vào ruộng để cải tiến và phát triển nền nông nghiệp của Phục Hy và Nữ Oa. Họ Thần Nông đã từng vượt biển nên ắt phải có kiến thức về thiên văn khí tượng và địa lý phương hướng, ắt họ phải là chủ nhân của Hà đồ.
Với các chi tiết đã trình bày trên, tôi cho rằng học thuyết Âm dương ngũ hành và thuyết Thiên Địa Nhân có nhiều hy vọng là của người tiền Việt nam. Nó được ra đời không nhằm mục đích chiêm bói mà trước tiên để tiên đóan thời tiết và xác định phương hướng nhằm phục vụ cho nghề đi biển và nghề nông , các vì sao được quan tâm trước tiên là sao Bắc Cực và sao Bắc đẩu.
“Bói diệc” là lọai sách bói được phổ biến trong dân gian tương tự như nông lịch đã được giải thích sẵn, ai xem cũng hiểu. Kinh dịch của người Trung quốc, được dựa vào quẻ bói diệc, được kết hợp với những ghi chép của các ẩn sĩ ở Giang nam thời ấy để sọan thảo ra dưới hình thức một lọai sách triết , trong bộ kinh dịch này yếu tố tương quan giữa con người với trời đất không được thể hiện đầy đủ như trong các sách bói cổ truyền người Việt thường sử dụng.
Một điều rõ ràng là việc sáng tạo ra học thuyết Âm dương Ngũ hành, Thiên Địa Nhân không phải từ trí tuệ của một người mà là trí tuệ của nhiều người được tích lũy từ thời đại này sang thời đại khác do đó trong những ghi chép của người xưa cũng không thấy khẳng định ai là chủ nhân của học thuyết này. Việc cho rằng 64 quẻ dịch là do Văn Vương sáng tạo ra và Khổng Tử biên sọan thực chất là một sự gán ghép có lựa chọn. Khổng Tử là một người đã từng nghiên cứu kinh dịch, những tài liệu ấy Khổng tử lấy từ đâu ra thì không nghe nói đến, chỉ biết rằng trước kia Khổng Tử chưa thực sự nghiên cứu bói dịch cho đến khi ông bói được quẻ “Lữ” và mời một người họ Thương Cù trong dân gian để giải quẻ cho ông. Thương Cù thị nói: “Tiểu hanh, cố bào thánh trí, nan đắc thánh vị” ý nghĩa là ôm ấp có hùng tâm xây dựng sửa sang đất nước nhưng không giành được quyền vị. Tức thì Khổng Tử rớt nước mắt, ngộ cảm thấy rằng đường đạo của mình khó được thi hành, từ đó mới bắt đầu nghiên cứu dịch. Tuy nhiên việc bắt đầu nghiên cứu dịch và việc hòan thành bộ Kinh dịch là hai việc hòan tòan khác nhau. Theo tôi, những phát minh ở đất Trung hoa đều đã có từ xa xưa nhưng việc người thời sau tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh trước chỉ ở chừng mực nào đó. Ví dụ như lịch pháp nhà Hạ lấy tháng Dần làm tháng mở đầu cho một năm, khi nhà Ân Thương lên thay, lấy tháng Sửu làm tháng mở đầu cho một năm, đời Chu lấy tháng Tý làm tháng đầu năm, nhà Tần lấy tháng Hợi làm tháng đầu năm. Đến thời Hán các biến cố như nhật thực , nguyệt thực, hạn hán lũ lụt đều xảy ra khác với thời điểm được ghi trong lịch. Đúng vào lúc Tư mã Thiên đến Giang nam tìm sử liệu được một cụ già ở đất Thương ngô tặng cho bộ sách trúc giản vớt được trên sông Tương. Đó chính là bộ “nhật thư” bí truyền của người Hạ . Hán vũ đế đã theo lời tấu của Tư mã Thiên, truyền chiêu mộ ẩn sĩ ở miền Giang nam để điều chỉnh lịch theo phương pháp của nhà Hạ, sau khi hoàn thành đặt tên là lịch Thái sơ.
Để giải thích, Chu Hy viết: “Về cách tính thời gian nên theo nhà Hạ, nghĩa là nên lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu cho bốn mùa. Hàng năm lấy thời kỳ vạn vật sinh sôi nảy nở phồn thịnh làm kỳ mở đầu cho bốn mùa. Cách tính của nhà Hạ giản tiện hơn cả vì thế nên theo… trời mở đầu cung Tý, đất mở đầu cung Sửu, người mở đầu cung Dần. Tam đại lần lượt thay đổi mà noi theo. Nhà Hạ coi cung Dần là nhân chính phù hợp với người nên lấy kiến dần chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Ân coi cung Sửu là Địa chính phù hợp với đất nên lấy kiến Sửu chi nguyệt làm chính nguyệt. Nhà Chu coi cung Tý là Thiên chính phù hợp với trời nên lấy kiến Tý chi nguyệt làm chính nguyệt. Tính tháng năm dịnh bốn mùa cốt để cho dân tiện làm ăn sinh sống, tiện hoàn thành mọi việc. Vì vậy khi tính năm tháng, định bốn mùa nên lấy sự phù hợp với người làm đầu mối. Chính vì vậy mà nhà Hạ lấy kiến Dần chi nguyệt làm tháng mở đầu của một năm”
Ngoài ra không thấy Chu Hy giải thích vì sao nhà Tần lại lấy kiến Hợi chi nguyệt làm chính nguyệt.
Như vậy đã thấy rằng việc tiếp thu tinh hoa của tộc Hạ chỉ bắt đầu vào thời Hán.Thời điểm ấy tinh hoa của Trung hoa phát ra ào ạt nhờ vào chủ trương chiêu hiền đãi sĩ của Hán Cao tổ. Vào thời này, những nhân tài Việt trên đất Hoa ban đầu sống như những ẩn sĩ. Sĩ là một từ để chỉ tầng lớp tri thức ở Trung quốc. Ẩn sĩ là những người có tri thức, hoàn toàn vượt ra ngoài vòng chính trị, có thái độ bất hợp tác và phản kháng chính quyền đương thời, họ là những nhân sĩ tinh anh sáng tạo văn hóa, giáo hóa quần chúng. Thấy được tác dụng tiềm ẩn trong lớp nhân sĩ, Hán Cao tổ Lưu Bang khi lên ngôi được 11 năm đã có chiếu viết :
“Các bậc đế vương nổi tiếng chưa ai cao hơn Văn vương, những bậc bá chủ chưa ai cao hơn Tề Hoàn đều chiêu hiền đãi sĩ mà thành danh. Kẻ hiền gỉả, bậc trí nhân trong thiên hạ ngày nay có ai được như người xưa… nay ta lấy sự linh thiêng cùa trời đất, cùng với hiền sĩ đại phu trở thành người một nhà, định đọat thiên hạ. Muốn tông miếu tổ tiên trường tồn mà không bị diệt vong, hiền nhân đã cùng ta sao ta có thể hưởng lợi một mình. Hiền sĩ đại phu có khả năng làm việc cùng ta, ta có thể tôn hiển họ”.
Như vậy đã có một số người Việt vì muốn cho tông miếu tổ tiên được trường tồn, không bị diệt vong đã ở lại trên đất của ông cha mình nay gọi là nước Trung quốc. Một điểm đặc biệt là trong nhóm dân tộc thiểu số ở Trung hoa không có tên dân tộc Việt. Nếu ai đó hỏi rằng :
- Vậy thì dân tộc Việt đã biến đi đâu ?
- Họ không biến đi đâu cả, họ đã trở thành người Hán.
- Họ đã trở thành người Hán, như vậy có phải tinh hoa của dân tộc họ cũng đã trở thành tinh hoa của Trung quốc?
- Đúng vậy!
Nguồn: www.e-cadao.com
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
Hành: ThổLoại: Phù Tinh Hoặc Hộ TinhĐặc Tính: Cứu giúp người khác, có tài, nhân hậuTên gọi tắt thường gặp: Tả
Phụ tinh. Một trong sao bộ đôi Tả Phù và Hữu Bật. Gọi tắt là bộ Tả Hữu.
Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Sao Tả Phù tại Mệnh là người có tài năng, mưu trí, hay cứu giúp người khác, có nhiều sáng kiến, đảm đang, có nhiều vây cánh, bè bạn giúp đỡ, không ở nơi quê quán, hoặc sớm xa cách một trong hai thân.
Công Danh Tài Lộc
Tả Phù rất thích hợp nếu đóng ở các cung Mệnh, Thân, Quan sẽ có nghĩa như những người phò tá đắc lực, những người hậu thuẫn, giúp đỡ. Tả Phù tượng trưng cho sự giúp đỡ của người đời, còn Quang Quý tượng trưng cho sự che chở của linh thiêng. Trong ý nghĩa này Tả Phù đồng nghĩa với Thiên Quan Quý Nhân và Thiên Phúc Quý Nhân.
Cung Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nên suốt đời được hưởng phúc, gặp nhiều may mắn và sống lâu.
Cung Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, dù gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, hay gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, cũng phải sớm ly tổ hay sớm lìa bỏ gia đình, tự tay lập nghiệp ở phương xa.
Phúc Thọ Tai Họa
Tả Phù là phù tinh hay hộ tinh, làm tăng ý nghĩa tốt hay xấu của những sao đi kèm. Do đó, Tả Phù là sao trung lập, không thuộc loại tốt hay xấu. Nếu đi với sao tốt thì tốt thêm, với sao xấu thì xấu thêm.
Tả, Hữu nếu gặp nhiều sao mờ ám xấu xa, hay sát tinh hội hợp, thì trong người có nhiều rỗ xẹo, thường mang tật, tính gian trá, hiểm độc, hay lừa đảo, hại người, cuộc đời cùng khổ, cô đơn, khó tránh tai họa, tuổi thọ bị chiết giảm.
Những Bộ Sao Tốt
Tả, Hữu gặp Tử, Phủ, Xương, Khúc, Khôi, Việt hội hợp cùng Khoa, Quyền, Lộc thì trong mình có nhiều nốt ruồi kín, hợp với quý tướng. Vậy cho nên được hưởng phú quý trọn đời, có danh tiếng lừng lẫy, tuổi thọ cũng gia tăng.
Tả, Hữu hội với Cơ Nguyệt Đồng Lương, Long, Phượng tất chuyên về nghề thuốc và sau rất khá giả.
Những Bộ Sao Xấu
Cung Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp sao Trinh, Dương hộp hợp, nên hay mắc tù tội và suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng.
Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Phụ Mẫu
Cha mẹ khá giả, giúp đỡ con cái, có nhiều khả năng, nghề đặc biệt. Mình ra ngoài hay có quý nhân giúp đỡ, người lớn tuổi yêu thích, có cha mẹ đỡ đầu.
Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Phúc Đức
Nếu gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Suốt đời hay gặp may mắn. Càng xa quê hương lại càng khá giả. Họ hàng quý hiển, giàu sang nhưng không được gần nhau.
Nếu gặp nhiều sao mờ ám xấu xa: bạc phúc, giảm thọ. Khó tránh được tai họa. Phải lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, hay phải sớm xa gia đình, may ra mới được yên thân. Trong họ có người cùng khổ, phiêu bạt. Họ hàng ngày càng ly tán, lụn bại.
Ý Nghĩa Tả Phù Ở Cung Điền Trạch
Ảnh minh họa
Luận bàn về phong thủy thì không thể tách rời được vấn đề môi trường. Vậy thì đất nào là đất có sinh khí. Chúng ta có thể biết được thông qua những vấn đề cảm quan thông thường như quan sát, cảm nhận. Có một câu chuyện này đã từ rất lâu rồi. Câu chuyện này được ghi chép lại trong các tài liệu chính sử nước ta.
Xưa kia, tổ tiên của vua Lê Thái Tổ là cụ Lê Hối. Cụ Lê Hối là một người nhân từ, lại có nhãn quang sáng suốt, trí tuệ sắc bén. Một lần ông đi chơi thấy một đàn chim bay lượn hội tụ tại một chân núi. Ông nhân ra rằng khu vực đó là nơi sinh khí hội tụ. Vì thế cho nên ông quyết định dọn nhà đến nơi này để sinh cơ lập nghiệp.
Quả đúng như sự suy đoán của công. Một thời gian sau, cơ đồ sản nghiệp của ông ngày càng vững mạnh và giàu có. Ruộng vườn rộng rãi, gia súc đông đúc, tôi tớ rất nhiều kể đến hàng nghìn người làm thuê cho nhà ông ấy và ông ấy trở thành một hào trưởng địa phương. Bốn thế hệ sau vào giờ Tý ngày Nhâm Tuất, tháng Ất Dậu năm Ất Sửu (tức là ngày 06 tháng 08 năm 1385), một bậc anh hùng dân tộc đã được sinh ra trong gia tộc đó. Bậc anh hùng đó chính là Vua Lê Thái Tổ, người đã đứng lên lãnh đạo dân tộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh đô hộ bạo tàn, đem lại nền thái bình, no ấm cho cả dân tộc.
Tượng đài anh hùng dân tộc Lê Lợi
Bởi vậy mới biết điều quan trọng nhất trong phong thủy đó chính là môi trường. Sinh khí của đất đai có hội tụ hay không, tất biểu hiện ra bên ngoài, mà con người có thể cảm nhận được bằng trực quan, và giác quan đặc biệt. Ở khu vực đó cây cối ra sao, các loài muông thú có quy tụ hay không. Một ví dụ điển hình cho vấn đề phong thủy địa lý đó chính là những khu vực tuy rằng địa hình đẹp, nhưng cây cỏ khô héo, vàng úa thì dù địa hình đẹp, sơn hướng tốt cũng chưa chắc đã có lợi. Vì dưới lòng đất có thể có các loại khoáng sản, khí độc, ở trên những mảnh đất đó, sức khỏe bị ảnh hưởng nặng nề vậy thì làm sao có thể phát lên được.
Ở khu vực Tây Nguyên, có một câu chuyện như sau. Người dân đi làm rẫy ở một khu vực, khi người dân đi làm, uống nước ở đó, khi về đến nhà bệnh tật ập đến và cướp đi sinh mạng của con người. Với trình độ dân trí và khoa học thời đó còn quá thấp, người ta cho rằng đất đó là đất nghịch, nhiều yêu ma, quỷ quái tà khí, hễ xâm phạm tất không được chu toàn. Thêm vào đó những kẻ như thầy mo, thầy cúng, thầy phù thủy là được dịp phao tin đồn nhảm huyễn hoặc quần chúng nhân dân. Nếu như việc cúng bái tâm linh mà có thể trừ được tà khí thì những nạn nhân đó đã không qua đời đột ngột trong niềm đau thương mất mát như vậy. Bí mật chính là ở chỗ dưới khu vực đó có khoáng sản kim loại chì, hơi độc từ mỏ quặng bốc lên, hoặc nhiễm lẫn trong nước, người dân uống nước đó, lao động vất vả, hô hấp tăng cường nên khí phải các loại khí độc đó, và đương nhiên họ đã bị nhiễm độc chứ chẳng phải ma quỷ nào hết. Mãi đến khi những nhà khoa học địa chất bắt tay vào nghiên cứu thì sự thật mới được phơi bày ra ánh sáng.
Bởi thế cho nên, những vùng đất tốt, cây cỏ tươi tốt lạ thường, chim muông quy tụ. Ở những vùng đất cát lợi nhiều sinh khí như vậy sức khỏe con người mới bảo đảm, canh tác, chăn nuôi mới được mùa, trúng lớn, phát triển và hướng tới cuộc sống giàu có, vinh quang.
Luận bàn về phong thủy mà không tiếp cận với đối tượng của nó thì thật đúng là trò bưng mắt bắt chim, dối mình dối người. Cũng như chúng ta đi khám bệnh, mà bác sỹ không trực tiếp, bắt mạch, đo nhịp tim, huyết áp, tiến hành các xét nghiệm rồi đưa ra kết luận, mà chỉ dựa vào mô tả, khám bệnh kiểu đó là một điều tệ hại, không những không chữa được bệnh mà còn có thể hại chết bệnh nhân.
Gần đây dưới sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin. Các dịch vụ tư vấn phong thủy nhà ổ, phong thủy sân vườn, mặt tiền,... qua điện thoại, hoặc qua các website online, khiến cho nhiều người tách rời hẳn khỏi đối tượng nghiên cứu. Những việc làm trên nảy sinh rất nhiều bất cập. Viết bài này không có tính chất, phê bình cá nhân, tổ chức, hay tập thể nào. Tuy nhiên, để nhấn mạnh tính chất quan trọng của thực tiễn thì cách làm tốt nhất vẫn là trực tiếp, tiếp cận đối tượng nghiên cứu, quan sát bằng trực quan kết hợp cảm nhận, để đưa ra quyết định cuối cùng giải quyết vấn đề.
Bên cạnh đó, để có được một bảo địa đắc lợi về phong thủy, tạo nên môi trường sống hài hòa, trong lành, tốt cho sức khỏe và vận thế thì con người ta càng cần nêu cao ý thức bảo vệ môi trường, tránh gây ô nhiễm, môi trường có được trong lành thì cuộc sống con người mới đảm bảo, đất có lành thì chim mới đậu.
Hải Triều
Câu ca dao về địa danh Lạng Sơn gắn liền với Chùa Tam Thanh mà câu ca dao này đã gắn bó với bao nhiêu thế hệ người Việt Nam:
“Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh”
Chùa Tam Thanh nằm tại địa phận phường Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Lễ hội chùa Tam Thanh được tổ chức hàng năm vào ngày 15 tháng giêng với nhiều nghi lễ truyền thống đặc sắc của nhân dân các dân tộc Lạng Sơn như: tế lễ, cầu mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Phần hội với nhiều trò diễn xướng dân gian và trò chơi như hát sli, hát lượn, múa sư tử, ném còn, đánh cờ người… trong không khí đông vui, nhộn nhịp.
Chùa Tam Thanh còn được gọi tên khác là Động Tam Thanh (nằm trong dãy núi đá vôi phía tây bắc thành phố Lạng Sơn). Với diện tích trên 52ha, nơi đây có những hang động tự nhiên kỳ thú. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, đây là vùng thuộc hệ Triat, phiến thạch, các hang động này được tạo nên từ lâu đời cách ngày nay từ 360 đến 245 triệu năm.
Theo sử sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa Tam Thanh có từ thời nhà Lê, thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, Châu Thoát Lãng. Tam Thanh là quần thể 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh nằm trong Chùa Tam Thanh. Ðộng Tam Thanh nằm trong một dãy núi có hình đàn voi phủ phục trên mặt cỏ xanh.
Hang động Tam Thanh ở lưng chừng núi. Cửa hang nhìn về hướng đông cao chừng 8m có lối lên là 30 bậc đá đục vào sườn núi, có nhiều cây cối um tùm che khuất ánh nắng. Vách động bên phải có khắc bài thơ của Ngô Thì Sĩ (1726-1780) khi ông làm đốc trấn Lạng Sơn. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Ý của bài thơ là:
Suối trong tuôn chảy trên hàng trăm mỏm đá như đang trò chuyện
Quay lưng lại nhìn sang ngọn núi phía trước thấy hòn Vọng Phu
Tam Thanh được mệnh danh là “Đệ nhất bát cảnh Xứ Lạng” (gồm 4 điểm là: động Nhị Thanh, động Tam Thanh, thành nhà Mạc và Nàng Tô Thị).
Chùa Tam Thanh có một tượng phật A Di Đà màu trắng với nét mềm mại , uyển chuyển được tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ 15. Pho tượng này mang phong cách nghệ thuật thời Lê – Mạc (thế kỷ 16-17) tạc theo thế đứng trong hình một lá đề. Tượng cao 202 cm, rộng 65 cm, mặc áo cà sa buông chùm xuống tận gót, hai tay chỉ xuống đất trong thế ấn cam lộ, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao.
Phía dưới tượng là cung Tam Bảo, hồ Âm Ti nước trong xanh quanh năm không bao giờ cạn cùng với muôn trùng nhũ đá được kiến tạo từ thiên nhiên tạo nên những hình thù vừa hung vĩ vừa tự nhiên, sinh động.
Trong động có hồ Cảnh, nước luôn trong xanh. Chiều dài lòng động khoảng 50m với nhiều nhũ đá tạo những hình thù đẹp mắt, hấp dẫn du khách. Phía sau động, có cửa Thông Thiên thông lên đỉnh núi. Bia Tam Thanh ghi: “Động này là kỳ quan do trời đất tạo ra, nơi đây là thắng cảnh của vùng
Bước qua cửa động rộng khoảng 8m, cao trên 10m, ta vào lòng động thứ nhất dài khoảng 60m, rộng đến gần 30m, tiếp đến là vòm động thứ hai – động Nhị Thanh. Danh thắng Nhị Thanh được phát hiện và tôn tạo bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII bởi Ngô Thì Sĩ, biến nơi đây thành một nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân.
Hiện nay trong chùa còn lưu giữ được hệ thống tượng thờ khá phong phú. Ngoài giá trị danh thắng, chùa Tam Thanh còn được biết đến bởi những giá trị văn hóa. Trong động chùa còn lưu lại hệ thống văn bia khá phong phú của các văn nhân, thi sĩ qua các thời kỳ lịch sử. Trong đó, tấm bia số 4 là tấm bia có niên đại cổ nhất (bia Ma Nhai), được tạc vào thời Lê Vĩnh Trị năm thứ 2 (1677), ghi lại chi tiết việc xây dựng tôn tạo chùa. Bia khắc thơ quan đốc trấn Lạng Sơn Ngô Thì Sĩ vào năm Kỷ Hợi (1777) đã khắc lại bài thơ ngợi ca cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của động Tam Thanh. Năm 1962, Chùa Tam Thanh được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích quốc gia.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)