Bất kỳ một sự vật nào tồn tại trong thế giới đều không ngừng biến đổi, hoặc phải trải qua một quá trình phát triển gọi là thời gian, đều có giai đoạn khởi điểm và kết thúc gọi là thời không.Sựbiến đổi của thời gian, sự chuyển dịch của thời không đều tuân theo sự vận hành quỹ đạo của tinh cầu.Sự phát sinh của bất kỳ một sự vật nào đó hay là một hoạtđộng của một người nào đó đều không thể tách rời một thời không nhất định.Thời không là vô hình.Đối với sự phát sinh của sự vật hoặc hoạt động của con người đều có sự tác động tương ứng.Từ trường Nhân đạo của con người là cố định, bất biến.Khi từ trường Thiên đạo biến động sẽ làm cho từ trường Địa đạo biến đổi theo, tác động lẫn nhau, nếu tương sinh tất cát, nếu tương khắc tất hung.Cho dù là cát hay hung thì thời gian vẫn là yếu tố chứng thực tốt hơn tất cả, do vậy dựa vào thời gian khởi quẻ là hợp lý nhất.
-Bày ra các ô vuông tương ứng với tứ trụ:năm, tháng, ngày, giờ.Xem hình:
Tứ trụ
Năm
Tháng
Ngày
Giờ
Tiên thiên
Hậu thiên
-Lần lượt điền vào số năm, tháng, ngày, giờ vào hàng tiên thiên, đối xung là hậu thiên.
VD:Năm Bính Tuất, tháng 2, ngày 6, giờ Dần xem quẻ, ta được:
Tứ trụ
Năm
Tháng
Ngày
Giờ
Tiên thiên
11
2
6
3
Hậu thiên
5
8
12
9
-Đối với số ngày lớn hơn 12, ta dùng phép phân tách như sau:VD:23=2-10-3(số 23 phân thành ba số, vậy nên ta có tổng cộng sáu trụ.
-Tám con số trên gọi là số thực, trong đó 11,5,2,8 gọi là số tĩnh và 6,12,3,9 là sốđộng.
-Toàn bộ tứ trụ(tiên thiên và hậu thiên) là bản cung.
-Tiếp theo ta vẽ các ô biến, xem hình:
-Vùng màu xanh là bản cung, vùng màu đỏ là số biến.
-Theo nguyên tắc “sinh tăng khắc giảm”, nghĩa là hai số tương sinh ta cộng lại với nhau, hai số tương khắc ta trừ cho nhau.
-Lưu ý:Số 1+1->1 và những số cộng quá 12 thì ta trừ.Tương tác giữa ba số 3,8,9 ở phần trước đã trình bày rõ, quan hệ là tương khắc chứ không tị hòa.Những số giống nhau trừ cho nhau sẽ bằng 1(vd:7+7->1).
-Hình trên là một quẻ Thời Không hoàn chỉnh, ngoài ra người đến dự đoán có thể đưa ra hai con số, một con là nội, một con là ngoại, cũng có thể đưa ra hàng loạt các con số liên tiếp.
VD:Báo ra hai số 5 và 9 thì viết ra 5-9.Số viết trước là trong, số viết sau là ngoài.
-Tuy nhiên, lập quẻ Thời không vẫn là phương pháp tối ưu và chính xác nhất.
2.Phương pháp khởi quẻ Ngoại ứng:
Dựa vào những sự kiện biến đổi xung quanh ta, ta có thể dùng nó để lập quẻ, đó gọi là phương pháp khởi quẻ Ngoại ứng.
Phương pháp này là phương pháp lập quẻ nâng cao, chuyên dùng để dự đoán thể thao, hoặc đoán nhanh một sự kiện nào đó.
VD:Nhìn thấy việc tặng sách cho người nam ta lập được tượng quẻ:6-3, đương đó ta muốn dự đoán việc gì ta sẽ dựa vào tổ hợp số trên để dự đoán.Việc lựa chọn sự việc cần phải được chọn lọc, không phải cứ nhìn thấy việc gì là lập ngay, nhất thiết phải xem sự việc đó có ngẫu nhiên không hoặc là đường đột xảy đến,....
VD:Có người nói tối nay Việt Nam gặp Hàn Quốc, hỏi xem thắng thua thế nào, nhìn thấy con gà chạyngang qua lập được tượng:10-12, xét qua thấy 10 nội là Việt Nam sinh 12 Hàn Quốc nên quả quyết rằng trận này Việt Nam thua.
3.Bàn về quẻ Thời không:
A.Nội ngoại:Trên bản cung, khu vực năm, tháng là nội và khu vực ngày, giờ là ngoại.
B.Thập thần:Sau khi khởi lập xong quẻ ta an 10 thần:Tỉ, Kiếp, Quan, Sát, Ấn, Kiêu, Thực, Thương, Chính Tài, Thiên Tài.
Thập thần trong Thần Số Học và trong Tứ trụ có điểm tương đồng và cũng có điểm khác biệt.Những điểm khác biệt ở đây chúng ta không đề cập đến, mà chỉ quan tâm đến thập thần trong Thần Số Học dùng dự đoán như thế nào, hung cát ra sao?
Quan Sát:khắc ta, có tính công ph1.Trong Thần Số Học , Quan Sát có quan hệ tương khắc, nên thông thường sẽ xuất hiện các loại điềm hung như:bệnh tật, thương tích,tai nạn xe cộ, ly hôn, tù ngục,...nhưng xen giữa là số trung gian thì sẽ ứng việc thăng chức, học vụ thuận lợi,...
Cách an 10 thần hoàn toàn giống như trong tứ trụ(lấy trụ thánh làm tôi), ở đây không nói thêm.
C.Quan hệ lục thân và thứ bậc:
Năm:cha mẹ, cấp trên.
Tháng:bản thân.
Ngày:vợ chồng, anh em.
Giờ:con cái, cấp dưới, bạn bè.
D.Thiên bàn, Địa bàn:
Địa bàn:tính cố định, là địa lý, vùng đất,....
Thiên bàn:tính di động, dụng thần đều lấy thiên bàn.
E.Dụng thần:việc cần dự đoán ứng với 10 thần.
VD:Xem mất vật lấy Tài tinh làm dụng thần, xem thi cử lấy Ấn tinh,.....
F.Nhiều dụng thần:
Khi có nhiều dụng thần ta nên ưu tiên chọn lấy dụng thần trong bản cung, thứ đến là động tĩnh, tránh lấy số hư, tương tuyệt, xung, khắc, lấy dụng thần được sinh, tam hợp.Trường hợp chỉ có một dụng thần mà dụng thần này bị khắc, xung, tuyệt, phá ta đều phải lấy.Việc chọn dụng thần nên tính toán thật kĩ, tránh chọn nhầm dụng thần, việc dự đoán sẽ sai.
G.Không có dụng thần:
Xem thi cử mà không thấy Ấn trên thiên bàn, ta lấy Văn Khúc-Xương làm dụng thần hoặc xem mất vật mà không có Tài tinh, ta sẽ lấy dụng thần theo TƯỢNG VẠN VẬT hoặc mượn Thời thần(số giờ).
H.Thể-Dụng tổng quyết:
Lấy nguyệt trụ là THỂ, thời thần là DỤNG, dụng là sự việc cần xem, có thể vận dụng khi người dự đoán không nói rõ việc cần xem, xem địa bàn để tường cát hung, phép vận dụng như Mai Hoa Dịch Số. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Rồng là một con vật thần thoại xuất hiện trong nhiều nền văn hóa khác nhau từ Đông sang Tây và được tôn thờ ở nhiều nước châu Á. Chúng là biểu tượng sức mạnh tuyệt vời, hay được dùng để đại diện cho hoàng đế. Con rồng tượng trưng cho quyền lực, năng lượng dũng mãnh. Rồng phong thủy đến năng lượng dương, giúp thu hút tiền tài và khả năng sinh sản.
Rồng phương Tây hay được khắc họa là loài vật hung dữ, khạc được lửa và hay gây tai họa.
Khác với hình ảnh khắc họa trong văn học phương Tây, rồng ở các nước châu Á là loài linh vật đáng yêu, tốt bụng và rất trượng nghĩa, cứu giúp dân lành.
Âm và Dương
Trong tâm linh, rồng hay xuất hiện lúc mặt trời mọc, vào khoảng giữa mùa xuân và mùa hè, tượng trưng cho sự thịnh vượng, dồi dào. Rồng là biểu tượng đẹp mang lại sức tái sinh mạnh mẽ. Con rồng hay được khắc họa miệng ngậm một viên ngọc. Ngọc này tượng trưng cho vũ trụ, sấm sét mang lại mưa cho mùa màng tốt tươi.
Rồng thời Lý thường ngẩng đầu lên, miệng thì há to, mép trên của miệng không có mũi, kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại, vươn lên cao, vuốt nhỏ dần về cuối.
Rồng phong thủy còn hay được ghép đôi với phượng hoàng để đại diện cho sự hòa quyện chặt chẽ giữa năng lượng âm và dương chỉ tình trạng hôn nhân lâu bền. Từ thuở xưa, long - phụng tượng trưng cho sự gắn kết của vua và hoàng hậu.
Những đứa con của rồng
Trong truyền thuyết, rồng có 9 đứa con với hình dáng và sở thích khác nhau, được sử dụng khác nhau trong phong thủy với ý nghĩa riêng.
Bị hí là con trưởng của rồng, có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Bị hí có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá.
Li vẫn, con thứ hai của rồng, là linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Tương truyền li vẫn thích ngắm cảnh và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài... ngụ ý cầu trấn hỏa, bảo vệ bình yên cho công trình.
Li vẫn
Bồ lao, con thứ ba, là linh vật thích âm thanh lớn, thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn.
Bệ ngạn, con thứ tư, có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo truyền thuyết, bệ ngạn rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.
Bệ ngạn
Thao thiết, con thứ năm, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự.
Thao thiết
Công phúc, con thứ sáu, là linh vật thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè... với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân.
Công phúc
Nhai xế, con thứ bảy, có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh, thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà... ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc.
Nhai xế
Toan nghê, con thứ tám, có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.
Tiêu đồ, con út có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Tiêu đồ được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.
Tiêu đồ
Long Quy
Ngoài chín con nói trên thì các con rùa lớn linh thiêng cũng được gọi là Long Quy. Long Quy thích mang vật nặng, ngụ ý giúp con người chống lại SÁT KHÍ giảm tai họa , nên thường dùng để trấn trạch hưng gia. Các nhà kinh doanh và doanh nhân rất trưng bày long quy để thúc đẩy tài lộc.
Long quy là linh vật tốt lành, mang hàm nghĩa vinh quý , ngụ rằng vinh hoa phú quý.
Vị trí đặt Long Quy
Long quy đặt tại tài vị thì thúc đẩy tài lộc, đặt tại vị trí Tam Sát thì tác dụng hóa giải rất lớn. Vậy Tam Sát là gì?
Trong phong thủy có quy định:
Dần, Ngọ, Tuất : Sát Bắc.
Thân, Tý, Thìn : Sát Nam
Hợi, Mẹo, Mùi : Sát Tây
Tỵ, Dậu, Sửu : Sát Đông.
Ví dụ:
Năm nay là năm Giáp Ngọ, theo câu quyết: Dần, Ngọ, Tuất: Sát Bắc. Có nghĩa là nhà ta ở hướng Bắc là phạm phải tam sát.
Nếu gặp phải tam sát, người nhà mắc nhiều bệnh, gặp hạn. Phương pháp hóa giải là đặt 3 con long quy xếp liền một chỗ, hướng ra ngoài cửa. Ngoài việc giúp hóa giải tam sát khiến người nhà mắc nhiều bệnh, gặp hạn mà còn thu hút nhiều tài lộc. Hơn nữa, rùa có hàm nghĩa nhân thọ, cho nên sử dụng long quy ít khi phạm cấm kị.
Vị trí đặt Rồng
- Hướng Đông: đặt rồng phong thủy xanh lá cây để kích hoạt năng lượng cung Gia Đạo giúp sức khỏe mọi người trong gia đình được tốt hơn, tăng tình cảm gia đình và cải thiện tích cực cuộc sống người con trai trưởng.
- Hướng Đông Nam: Một tượng rồng vàng ở hướng này giúp tăng tài lộc, giàu có cho cả gia đình.
Rồng vàng ở hướng Đông Nam giúp tăng tài lộc cho gia chủ
- Hướng Tây Nam: bố trí rồng chung với phượng hoàng để gia tăng hạnh phúc hôn nhân.
NÊN:
- Đặt ở nơi có không gian rộng, mở; không bị chắn bởi các vật cản.
- Đầu rồng hướng về cửa nhà để mang lại tài lộc.
- Đặt ở hướng may mắn dựa theo "quái số" của bạn.
- Chỉ nên đặt tối đa 5 vật phẩm rồng và các con trong nhà.
KHÔNG NÊN:
- Không đặt ở các khu vực có năng lượng thấp như phòng tắm, tủ quần áo, nhà để xe,v.v.
- Tránh đặt quá cao so với tầm mắt.
Đặt ở chiều cao cách mặt đất khoảng 1.45m để vừa tầm mắt
- Cấm kị để tinh thể ngọc trai ở móng vuốt của rồng chĩa thẳng vào cửa sổ hoặc cửa ra vào.
Phương pháp hóa giải các loại phong thủy sát (Phần 1) –
Căn cứ vào ghi chép của các thầy phong thuỷ học truyền thống nổi tiếng, có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để hoá giải các loại sát khí. Dưới đây là một số ví dụ: 1. Âm tà sát Một người bình thường cùng biết rằng nếu nhà ở đối diện với những vậ
Căn cứ vào ghi chép của các thầy phong thuỷ học truyền thống nổi tiếng, có thể áp dụng các phương pháp khác nhau để hoá giải các loại sát khí. Dưới đây là một số ví dụ:
1. Âm tà sát
Một người bình thường cùng biết rằng nếu nhà ở đối diện với những vật kiến trúc “không tốt lành” như bãi tha ma hay nhà xác là không tốt. Sát khí loại này được gọi là âm tà sát, nhà ở gần lò giết mổ cũng thuộc sát này, rất dễ dẫn khí tà âm vào nhà, dễ gây bệnh tật cho các thành viên trong gia đình hoặc xảy ra sự cố ngoài ý muốn, thậm chí trong quan hệ giao tiếp với mọi người cũng diễn biến xâu đi. Muốn hoá giải âm tà sát có thể đặt một đôi hình rồng hướng về phương sát khí, đồng thời đặt ở hướng chịu sát một đôi kỳ lân hoặc một loài thú dữ.
2. Cô khắc sát
Nhà ở đối diện với những kiến trúc không cát lợi là không tốt, trái lại, đối diện với những nơi trang nghiêm như miếu mạo, đền tự, nhà thờ cũng không tốt, điều này là do nơi đó thường xuyên có người đến lễ bái, dâng hương, tự nhiên dễ chiếu những cô hồn đã quý đến. Do có những âm linh tụ tập mà 4 xung quanh dễ sản sinh khí cô sát làm cho vận thế của các thành viên trong nhà xuống thấp, khó có được quý nhân phù trợ. Cách hoá giải là đặt một đôi rồng ở hướng phạm sát quay ra ngoài cửa sổ hoặc bố trí đèn liên hoa chuyển vận, đồng thời đốt trầm hương lâu ngày để hoá giải.
3. Quan môn sát
Nhà đối diện với cục cảnh sát thuộc quan môn sát ra, đối diện với các cơ quan chính quyền, doanh trại quân đội, trại giam, nhà tù đều thuộc quan môn sát. Quan môn sát ảnh hưởng đến vận thế gia trạch, làm cho thành viên trong nhà làm việc gì cũng không thuận lợi. Muốn hoá giải quan môn sát có thể đặt một đôi rồng hoặc một đôi sư tử ở hướng hoá sát, đồng thời phải hướng chúng ra phía ngoài cửa sổ.
4. Âm độc sát
Nhà ở đối diện với công trường công cộng hoặc bãi đổ rác là thuộc âm độc sát. Âm độc sát thường ảnh hưởng đến các phòng từ tầng 6 trở xuống, vì vậy nếu ngoài phạm vi này thì không cần lo lắng; đồng thời, những thứ đó càng ở gần nhà thì sát khí càng hung, ảnh hưởng dến sức khoẻ và tài vận của người trong nhà. Cách hoá giải là đặt hồ lô và một xâu tiền làm bằng đồng, hoặc túi gấm ngân nguyên ở hướng chịu sát.
5. Tiêm giác sát
Có những tạo hình kiến trúc nhiều cạnh và có góc nhọn, góc nhọn đó có khi đối diện với cửa nhà lân cận, trường hợp này gọi là phạm tiêm giác sát. Tiêm giác sát ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe các thành viên trong gia đình, dễ sinh ra một số bệnh mãn tính lâu dài, đặc biệt là rất dễ tái phát các bệnh có tính đau nhức và tính xuất huyết, đồng thời dễ bị tổn thương do dao kiếm. Gặp trường hợp này có thể đặt ở cửa sổ một tượng mặt sư tứ miệng đang cắn kiếm bài và một xâu tiền bằng đồng bạch ngọc lục đế để hoá giải.
6. Đỉnh tâm sát
Đỉnh tâm sát là chỉ sát khí hình thành do nhà ở đối diện với cột đèn hoặc cột điện. Nhà gặp đỉnh tâm sát có thể làm cho tì khí của các thành viên trong gia đình nóng lên, dễ sinh bệnh mất máu hoặc tổn thương thị lực. Muốn hoá giải đỉnh tâm sát có thể sử dụng tiền bằng đồng bạch ngọc lục đế.
Chùa Muống là một trong những ngôi chùa được xây dựng sớm ở Kim Thành, đến thời Trần do sư Tuệ Nhẫn, một môn đệ của thiền phái Trúc Lâm chủ trì xây dựng
Chùa Muống có tên chữ là Quang Khánh tự, trước Cách mạng thuộc xã Dưỡng Mông, tổng Phù Tải, nay là một thôn thuộc xã Ngũ Phúc, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương, Chùa ở tả ngạn sông Văn Úc.
Tương truyền, vào thời vua Lý Công Uẩn, dân đến khai khẩn vùng đất Dưỡng Mông, lúc đầu đất chua phèn, chỉ có rau muống là nguồn thức ăn chính. Sau cải tạo, đất trồng được hoa mầu và cây lương thực, cư dân đông đúc, lập thành làng. Để nhớ những ngày đầu gian khổ sống nhờ rau muống, những già làng đề nghị đặt tên là Dưỡng Mông, còn nghĩa là nhờ cây rau muống mà tồn tại.
Chùa Muống là một trong những ngôi chùa được xây dựng sớm ở đất Kim Thành, đến thời Trần do sư Tuệ Nhẫn, một môn đệ của thiền phái Trúc Lâm chủ trì xây dựng, mở rộng khang trang. Đến thời Nguyễn chùa có trên 120 gian, có tài liệu ghi là 124 gian, 32 tháp sư, hàng trăm pho tượng cổ và nhiều bia ký có giá trị. Chùa được quy hoạch trên khuôn viên rộng 15.000m².
Chùa Muống là ngôi chùa lớn và nổi tiếng của Hải Dương. Lê Thánh Tông hai lần viếng thăm đều có thơ khắc vào bia đá. Năm 1947, do chiến tranh, chùa bị phá hủy hoàn toàn. Sau ngày miền Bắc giải phóng, chùa bắt đầu được khôi phục, đến nay cũng chỉ đạt một phần nhỏ của kiến trúc cũ. Riêng hệ thống tháp vẫn được bảo tồn như xưa.
Hội chùa Muống bắt nguồn từ kỷ niệm ngày mất của sư Tuệ Nhẫn, một cao tăng đồng thời còn là một lương y, người công xây dựng nhiều chùa lớn như: Vĩnh Nghiêm (Chí Linh), Siêu Loại (Bắc Ninh), Đông Khê, Do Nha (Hải Phòng). Nhà sư viên tịch ngày 27 tháng giêng, năm Ất Sửu, Khai Thái thứ hai (1325). Sau khi mất, nhà sư được nhân dân tôn làm Thành hoàng làng.
Hội chùa Muống là lễ hội lớn của Hải Dương, thu hút hàng vạn người tham gia.. Hiện nay, lễ hội chùa Muống vẫn được duy trì nhưng không được như xưa. Tuy nhiên, một số thuần phong mỹ tục vẫn tồn tại như: vào những ngày hội, các cụ bà phân công nhau đứng hàng dài trước cửa chùa, bưng cơi trầu, niềm nở mời khách thập phương, gây thiện cảm từ đầu cho khách đến dự hội.
Ngày nay, trong các gia đình, đèn điện không chỉ đơn thuần được dùng để thắp sáng mà còn có tác dụng trang trí, tô điểm thêm cho vẻ đẹp của ngôi nhà, vì thế khi chọn mua đèn, để đạt được hiệu quả cao nhất, bạn cần chú ý đến yếu tố nghệ thuật của nó c
ũng như các yếu tố khác của ngôi nhà bạn đang ở như kết cấu, kích thước, màu sắc… xem chúng có thể kết hợp hài hòa thống nhất với nhau hay không. Hãy đảm bảo rằng chiếc đèn bạn sắp mua không những có thể thắp sáng mà còn có tính nghệ thuật cao. Những ngôi nhà, những không gian khác nhau thì phải dùng các loại đèn khác nhau:
– Đèn treo làm cho không gian trang hoàng lộng lẫy, hợp với phòng khách.
– Đèn trần to nhã, thích hợp dùng trong phòng ngủ.
– Đèn sát đất tạo ánh sáng muôn hình muôn vẻ, chủ yếu dùng để trang trí như một thứ đồ thủ công mỹ nghệ, có thể để trong phòng ngủ, nhưng thường dùng bày cạnh ghế sopha trong phòng khách.
– Đèn bàn tĩnh tạo cảm giác huyền bí, là vật thắp sáng chuyên dụng trong thư phòng, cũng là một vật trang trí không thể thiếu trên mỗi bàn học.
Ngoài ra, bạn có thể vận dụng ánh sáng để trang trí căn phòng của mình tùy theo sở thích và nhu cầu. Chẳng hạn, lắp bóng đèn huỳnh quang trên một mép tường, dùng một tấm chắn để che ánh sáng phát ra, làm ánh sáng chỉ chiếu dọc theo mép tường, tạo nên một không gian huyền bí, hấp dẫn. Hoặc cũng có thể thắp một bóng đèn dây tóc nhỏ trong tủ kính để làm nổi bật các vật trang trí bày bên trong.
Thắp một bóng đèn nhỏ màu xanh da trời đậm trong phòng, khi xem phim sẽ có tác dụng tránh cho đôi mắt của bạn bị mỏi mệt.
– Đèn trong phòng ngủ
Ánh đèn trong phòng ngủ không được quá sáng và mạnh mà phải dịu nhẹ, dễ chịu và có hồn. Hãy thắp những bóng đèn mang màu sắc khác nhau ở nhiều vị trí để tạo nên những mảng không gian khác nhau trong phòng ngủ. Ngoài ra, còn có thể thắp một chiếc đèn tường phía trên đầu giường, đầu đèn có thể chuyển động theo nhiều hướng khác nhau, rất tiện cho việc đọc sách.
– Đèn trong phòng bếp
Do trong phòng bếp có nhiều hơi nước, bụi bặm và dầu mỡ, nên phải chọn loại đèn có kết cấu đơn giản và có thể lau chùi dễ dàng. Thông thường nên chọn loại đèn trần.
– Đèn trong phòng vệ sinh
Nên chọn loại đèn tường hoặc đèn trần có khả năng chịu được hơi nước.
– Kết hợp màu sắc của đèn và đồ dùng gia đình
Màu của đèn và các đồ dùng gia đình phải được kết hợp hài hòa để tạo cảm giác dễ chịu. Với các đồ dùng gia đình màu đậm, nếu kết hợp với loại đèn màu hồng hay màu tím thì không gian căn phòng sẽ trở nên lộng lẫy, sống động, nhưng nếu kết hợp với các bóng đèn màu kem hay màu vàng nhạt thì căn phòng sẽ toát lên một vẻ trang nhã và phóng khoáng. Đồ dùng gia đình màu nhạt kết hợp với đèn màu xanh lá cây hoặc xanh da trời nhạt sẽ tạo nên một vẻ đẹp nho nhã dễ chịu cho căn phòng.
Chùa Hải Vân toạ lạc trên triền núi Nhỏ, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đi theo con đường Hạ Long ngoằn nghèo uốn lượn, một bên là núi một bên là biển, khi đến gần khu vực Bãi Dâu, ngước nhìn lên sườn núi bạn sẽ tìm thấy đường lên chùa. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Hải Vân được Ni trưởng Thích Nữ Như Thanh khai dựng vào năm 1966. Chùa tiếp tục cho trùng tu, mở rộng vào các năm 1969, 1972, 1974. Chùa có phòng phát hành kinh sách và phòng đọc sách hoạt động rất tốt.
Ngôi Quan Âm bảo điện được xây dựng năm 1990 và hoàn thành năm 1992 do sự phát tâm cúng dường của hai Phật tử Mạch Văn Kỳ và Nguyễn Thị Ánh (Canada). Đại lễ khánh thành được tổ chức vào ngày 22 – 3 – 1992, với sự chứng minh của nhiều Sư thầy cùng sự tham dự của hàng ngàn chư tôn giáo phẩm, Tăng Ni và Phật tử. Đây được coi là ngôi bảo điện Quan Âm lớn nhất của Phật giáo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay.
Cổng Chùa Hải Vân được xây dựng dưới chân núi lúc nào cũng rộng mở chào đón khách thập phương đến thăm Hải Vân tự. Chùa Hải Vân thiết kế rất công phu với những hoạ tiết, chạm khắc trang trí tinh xảo. Ngay từ bậc cổng đầu tiên đã thấy các hàng chữ, các bài thơ được đắp nổi rất công phu, cầu kì tỷ mỉ trên các vách tường. Lần lượt leo qua các bậc thang vừa đi vừa nhẩm đọc các bài thơ: Bát nhã Tam Đức (nói về thiền), Tịnh độ tam hạnh (nói về tông tịnh độ, một pháp môn của Phật giáo). Các bài thơ do chính nữ sư trưởng ở đây sáng tác và cho chạm khắc trên tường như Minh nguyệt cô huyền; Cao trung độc chiếu Ngũ thập tam tham (53 lần cầu đạo) của thiện tài đồng tử.
Bên phải lối lên còn có bức tranh tường lớn, miêu tả Đức quan âm bồ tát thu phục núi Phổ Đà. Bên trái là bài thơ: Sóng nước đàm bàn và Trời biển nghị luận. Có thể nói tất cả các bài thơ đều là lời khuyên mọi người làm điều lành, tránh điều dữ, khuyên con người làm việc thiện… Phía trước chùa có tượng Quan Âm lộ thiên cao 6 mét đứng trên đài sen cao 1,2 mét tay phải bắt quyết, tay trái cầm bình nước cam lồ, hướng ra biển Đông như luôn mong mỏi bình an cho dân biển. Chung quanh chùa, khung cảnh thật thanh tao, giản dị, gần gũi với tự nhiên giữa đất trời, núi rừng và biển cả.
Chùa Hải Vân là điểm du lịch lý thú của du khách thập phương cũng như phật tử trong và ngoài nước.
Sáng ngày 13-8, thông tin bé Nhật Minh (hơn 1 tuổi) ở Thanh Hóa với khả năng đặc biệt hiếm gặp, có thể làm bóng đèn phát sáng khiến cư dân mạng xôn xao.
Được biết, khả năng của bé Nhật Minh được gọi là hiện tượng tĩnh điện, một hiện tượng rất hiếm gặp, trong triệu người chỉ có 1 - 2 người "mắc phải". Hiện tượng này xảy ra ở những người cơ thể có cường độ điện tương đối mạnh mới dễ gặp và gây ra những hiện tượng kiểu như thế.
2. Cô bé 2 tuổi biết đọc, 3 tuổi biết làm toán, đọc tiếng Anh
Bé Đặng Thị Quỳnh Anh ở Thanh Hoá có khả năng bẩm sinh và trí nhớ hơn người khi em biết đọc, biết viết một văn bản, câu đoạn một cách diễn cảm, nắm được hồn cốt của truyện và kể lại cho bố mẹ nghe.
Không chỉ biết đọc biết viết, ham thích vẽ, hát... kể từ khi 3 tuổi Quỳnh Anh còn biết làm toán với 3 phép tính cộng, trừ, nhân. Không những vậy, bé đã thuộc bảng chữ cái bằng tiếng Anh, gọi tên đồ vật, con vật bằng tiếng Anh, có thể viết, đọc được một câu tiếng Anh hoàn chỉnh.
3. Cậu bé 3 tuổi biết đọc chữ, làm MC, ca sĩ
Bé Nguyễn Thanh Sơn sinh ngày 2.10.2010 có khả năng nghe đọc truyện và nhận biết con chữ từ khi 2 tuổi. Đến khi lên 3 tuổi bé có thể đọc thông thạo truyện tranh, thơ và sách giáo khoa.
Bé còn có thể đọc và nhớ các con số, sử dụng thành thạo các đồ điện tử của gia đình như ti vi, đầu kỹ thuật số, điện thoại. Sơn có thể đọc trôi chảy sách, báo thậm chí là chữ thư pháp, hát thuộc lòng 30-40 bài và nhớ tên từng tác giả, từng dòng nhạc.
Sơn có trí nhớ rất tốt, nếu nghe ai đó hát một bài nào đó từ 2-3 lần là cháu đã bắt chước giai điệu và hát hoàn chỉnh bài hát đó. Bé Sơn còn là MC dẫn chương trình, ca sĩ nhí ở các lễ hội, triển lãm, đám cưới ở quê với danh hiệu "ca sĩ Thanh Sơn".
4. Bé trai 2 tuổi nói tiếng Anh sõi hơn tiếng Việt
Bé Nguyễn Nhật Minh ở Hà Đông (Hà Nội) dù mới 2 tuổi đã có thể giao tiếp tiếng Anh một cách lưu loát. Dù tiếng mẹ đẻ Nhật Minh nói còn ngọng líu ngọng lô, nhưng tiếng Anh lại phát âm khá chuẩn. Nhật Minh còn biết cách tính toán, nhận biết màu sắc, hình khối khá tốt.
5. Bé vừa biết nói đã biết đọc
Năm 2014, thông tin bé Nguyễn Quốc Đạt sinh ngày 15.1.2010 ở xã Phú Định, huyện Bố Trạch (Quảng Bình) sinh ra đã chậm nói.
Năm bé lên 3 tuổi mới bập bẹ tập nói và tròn 4 tuổi vẫn nói ngọng nhưng lại biết đọc rất sớm. Năm 3 tuổi, bé đọc vanh vách tên các hãng sữa dán trên tủ lạnh, đi đâu hễ thấy vật gì có chữ bé lại đọc say sưa. Không chỉ đọc được chữ in, chữ viết tay của Đạt cũng cũng tiến bộ.
6. Bé 16 tháng tuổi đọc 4 thứ tiếng
Bé Nguyễn Ngọc Tuệ Nhi ở Lê Chân, TP.Hải Phòng mới 16 tháng tuổi đã đọc sõi 4 thứ tiếng, nhận biết trên 50 cờ các quốc gia, biết làm toán, thông thạo các số đếm trong phạm vi 100.
Bé Nhi có thể đọc vanh vách những chữ trong cuốn truyện cổ tích Việt Nam. bé còn đọc được các từ tiếng Anh với phát âm tròn và rất chuẩn. Nhi có thể đọc rất to các số đếm bằng tiếng Trung, Nhật một cách thích thú.
7. Thần đồng 6 tuổi ở Bắc Ninh
Bé Phạm Tuấn Minh (sinh năm 2008, Từ Sơn, Bắc Ninh) được mệnh danh là cậu bé có bộ óc máy tính. Lên 4 tuổi, Minh đã ghi nhớ lịch vạn niên.
Khi hỏi bất cứ một ngày nào đó trong năm ở quá khứ và tương lai, Minh đều quy đổi đó là ngày thứ mấy, thuộc năm gì và ngày âm là bao nhiêu. Ngoài ra, Minh có thể đọc rõ vanh vách can chi của từng năm ở bất kỳ thế kỷ nào.
Người tu Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù tu theo bất cứ pháp môn nào thì tâm tịnh và trí sáng là mục tiêu quan trọng cần phải đạt được trong đời sống tu hành. Tuy nhiên trong thực tiễn, dù đã hết sức cố gắng nhưng tâm mình thì lúc tịnh lúc không, trí mình thì khi sáng khi tối.
Chúng ta thường quy kết mọi thứ cho cái nghiệp của mình. Thì đúng là tất cả đều do nghiệp, nghiệp từ quá khứ xa cho đến quá khứ gần, nghiệp đang tạo ra trong hiện tại, nghiệp sắp tạo ở tương lai làm cho tâm trí mê mờ. Nhưng cụ thể thì do những nghiệp gì? Thế Tôn dạy, do “tham, sân, si, lợi” che lấp tâm trí của chúng ta.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nay mặt trời, mặt trăng có bốn thứ che lấp nặng nề khiến không phóng được ánh sáng. Bốn loại nào? Mây, gió bụi, khói và A-tu-la, khiến mặt trời, mặt trăng bị che không phóng ánh sáng được. Đó là, này Tỳ-kheo, mặt trời, mặt trăng có bốn thứ che đậy, khiến mặt trời, mặt trăng không phóng ánh sáng lớn được. Đây cũng như thế, Tỳ-kheo có bốn kết che đậy tâm người không được cởi mở. Thế nào là bốn? Dục kết che đậy tâm người không được khai mở, sân nhuế, ngu si và lợi dưỡng che đậy tâm người không khai mở được.
Đó là, này Tỳ-kheo, có bốn kết che đậy tâm người không khai mở được. Hãy cầu phương tiện diệt bốn kết này. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Thanh văn, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.52)
Trong bốn món kết “tham, sân, si, lợi” che tâm mà Thế Tôn đã dạy, thì ba độc (tham, sân, si) là căn bản phiền não, là bản chất của chúng sanh, sanh ra nơi đời là đã sẵn có trong tâm và bị chúng chi phối nặng nề. Để xua tan sự che phủ ba độc, phải dùng đến ánh sáng tuệ giác của “vô tham, vô sân, vô si”. Nhưng đây không phải là chuyện dễ làm, nhất là đối với hạng người phước mỏng nghiệp dày như chúng ta.
Còn món kết sau cùng, đó là lợi, tuy không phải là căn bản phiền não nhưng cũng rất khó dứt trừ. Dân gian thường nói, thấy lợi thì tối mắt, chính là đã thừa hưởng sâu sắc ý pháp này của Phật. Cũng vì chút lợi danh mà nhắm mắt làm càn, vong ân bội nghĩa, gây ra biết bao đổ vỡ và khổ đau. Để không bị lợi danh che mắt, chúng ta cần thường xuyên giác tỉnh, vận dụng tuệ giác vô thường để quán chiếu lợi danh như huyễn, có đó rồi không đó, nhằm giữ tâm thư thái, nhẹ nhàng.
Phương châm của người học Phật là “duy tuệ thị nghiệp”, phải thành tựu tuệ giác. Sở dĩ chúng ta dụng công tu hành đã lâu mà tuệ giác không hiển lộ chính vì tâm còn bị bụi mờ “tham, sân, si, lợi” che phủ. Khoan nói đến tham sân si, vì chỉ riêng một món “lợi” thôi mà đã gây đảo điên thế sự. Không chỉ người đời, mà ngay cả người tu nếu không khéo cũng rơi vào chướng nạn này. Vậy nên, hãy bắt đầu từ việc dễ nhất, xả bỏ lợi danh để từng bước khai mở tuệ giác, tự tại thong dong.
Say đắm lợi danh, rõ ràng là đi ngược với đạo giải thoát. Người tu mà vướng vào lợi danh càng nhiều thì tâm trí bị che phủ và u ám càng nặng, vì như Thế Tôn đã dạy, “bốn kết che đậy tâm người không khai mở được”. Từ xa xưa, Thế Tôn đã từng tha thiết: “Này các Tỳ-kheo, hãy cầu phương tiện diệt bốn kết này”. Đến tận ngày nay, nhìn vào hiện trạng tu học của bốn chúng đệ tử, lời dạy của Ngài vẫn còn cấp thiết, đồng vọng quanh ta.
Những tuổi đại kỵ với tuổi Ất Mão là: Canh Thân, Giáp Tý, Bính Dần, Nhâm Thân, Giáp Dần, Nhâm Tý, Mậu Thân nếu kết hợp sẽ tuyệt mệnh hoặc rơi vào cảnh ly biệt, buồn phiền.
Các năm đại kỵ trong cuộc đời người Ất Mão là tuổi: 16, 22, 28, 34, 38, 40. Những tuổi này cần đề phòng bệnh tật, tai nạn.
Tính cách: Là người hiền hòa, khôn khéo, sâu sắc, có ý chí, đáng tin cậy nhưng đôi lúc tính khí thất thường, thích sự tĩnh lặng.
Tình duyên: Thời trẻ gặp nhiều trắc trở, buồn phiền, về sau mới có hạnh phúc.
Để có hôn nhân hòa hợp, gia đình sung túc nam giới tuổi Ất Mão không nên kết hôn với người tuổi Mậu Thân, Canh Thân, Nhâm Dần; nữ tuổi Ất Mão tránh các tuổi: Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Quý Hợi.
Công danh sự nghiệp: Tuổi Ất Mão thuở nhỏ vất vả, từ 29 tuổi sẽ tạo lập được công danh. Năm 32 tuổi sự nghiệp vững chắc, triển vọng tươi sáng lâu dài.
Để việc làm ăn thuận lợi, tốt đẹp nam Ất Mão nên kết hợp với tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Kỷ Dậu; nữ nên kết hợp với tuổi: Bính Thìn, Kỷ Mùi, Nhâm Tuất.
(Theo 12 con Giáp, tính cách con người qua năm sinh, tuổi Mão)
Từ hơn 3500 năm về trước, người ta đã vận dụng phong thủy để đón tài lộc, may mắn và sức khỏe. Bố trí phong thủy tài lộc nhằm thu hút các sinh khí, hay còn xem là hơi thở vũ trụ của rồng. Đó đơn giản chỉ là một quan niệm cho rằng, một số thế đất trông giống hình ảnh của rồng chính là nơi loại khí quý báo đó được tạo ra và tích lũy và có khả năng thu hút vận may. Việc bài trí nội thất trong nhà bên cạnh việc xem xét địa thế cũng giúp hút các năng lượng tích cực, đơn cử như việc bày tranh thêu chữ thập.
1. Tranh cây tre
Phong thủy cho rằng, tre đại diện cho sự sinh sôi nảy nở và tăng trưởng bền vững. Đối với bài trí nội thất, tranh cây tre đem đến rủng rỉnh tiền bạc cũng như thành đạt trong sự nghiệp.
2. Tranh cá
Khí thường tích tụ hoặc dừng lại khi bị nước vây quanh. Do đó, những nơi có nước thường được coi là nơi nhiều may mắn, vượng khí. Vỗn dĩ những bức tranh có nước đã may mắn, khi gắn kết với cá chép Koi thì càng thu hút nhiều tiền bạc vào văn phòng hoặc gia đình.
Nhiều gia đình yêu thích tranh thêu chữ thập Cửu ngư quần hội
3. Tranh Đức Phật
Đức Phật là một tượng trưng cho sự thịnh vượng và yên bình. Phong thủy quan niệm, tượng Đức Phật ngồi tòa sen sẽ thu hút tiền tài cho gia chủ.
4. Tranh hoa đào
Hoa đào biểu tượng của sự tái sinh mãnh liệt, có thể mang tới cho gia chủ may mắn trong tiền bạc như tiền thưởng, tăng lương. Nhất là cây hoa đào mang yếu tố Mộc, làm tăng thêm tài lộc. Theo đó, những bức tranh thêu chữ thập hoa anh đào cũng có ý nghĩa tương tự.
Ngày tết, gia chủ treo bức tranh đào sẽ mang lại sự sinh sôi, nảy nở
5. Tranh màu xanh
Màu xanh lá cây tượng trưng cho tính Mộc, làm thu hút phong thủy tiền tài. Trong năm mới này, một bức tranh màu xanh lá cây chủ đạo chắc chắn sẽ đem đến sự giàu có cho gia đình.
6. Tranh hổ
Một bức tranh hổ ở bàn làm việc sẽ giúp thu hút cơ hội thăng tiến trong công việc. Phong thủy cho rằng, hổ sẽ giúp tăng tài lộc bởi nó thu hút sự chú ý tích cực của mọi người tới bạn.
7. Tranh rồng
Từ thời xa xưa, rồng là biểu tượng cho sự thành công và thịnh vượng lâu dài. Thu hút tiền bạc nhiều nhất nhờ một tác phẩm nghệ thuật hình rồng. Vì thế, luôn có ít nhất một đồ vật liên quan đến con Rồng trong các văn phòng của Trung Quốc.
Tranh rồng giúp thu hút thành công và thịnh vượng
(Theo Khám phá) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Trúc Loan (##)
Tư vấn phong thủy về cách đặt bàn thờ ông Táo - Phong thủy - Xem Tử Vi
Tư vấn phong thủy về cách đặt bàn thờ ông Táo, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tư vấn phong thủy về cách đặt bàn thờ ông Táo, tu vi Tư vấn phong thủy về cách đặt bàn thờ ông Táo, tu vi Phong thủy
Vào những ngày cuối năm hay dịp lễ tết thì người ta thường dọn dẹp nhà cửa và lau dọn bàn thờ ông bà tổ tiên, bàn thờ thần tài và cả bàn thờ táo quân nữa. Nhiều người vẫn còn thắc mắc là không biết chọn vị trí tốt để đặt bàn thờ táo quân như thế nào, cách đặt ra sao và cần có những gì. Thì hãy tìm tới đọc những bài viết sau để biết cách đặt bàn thờ táo quân nhé.
Trong phong thủy thì việc đặt một bàn thờ ông công ông táo không phải là làm tùy tiện được. Bởi nếu muốn gia đình trong năm mới có nhiều điều may mắn thì nên biết cách đặt một bàn thờ ông táo cho đúng chỗ để tránh vận đen đủi đi tới.Theo chuyên gia phong thủy, vấn đề thờ cúng ông bà tổ tiên, thần linh là vấn đề thuộc tín ngưỡng dân gian, không phải là vấn đề của tôn giáo cũng như khoa học phong thủy. Tín ngưỡng dân gian có tính vùng miền nên có dân tộc thờ thần tài có dân tộc không thờ, có vùng thờ ông Công ông Táo nhưng có vùng thì không. Thực chất, không thờ cúng cũng không ảnh hưởng gì tới gia chủ. Người châu Âu không có ông thần tài trong nhà và cũng chẳng có ban thờ ông Táo nhưng không vì thế mà họ kém giàu hơn người châu Á.Các cụ có câu "Linh tại ngã, bất linh tại ngã", việc thờ cúng cần phải có niềm tin, có tin thì mới có linh, không tin thì không linh ứng. Nếu việc thờ cúng ông Táo đem lại niềm tin cho bạn thì bạn nên thờ. Nếu vẫn còn nghi ngờ thì cũng không nhất thiết phải thờ vì điều này cũng không ảnh hưởng gì tới cuộc sống của bạn.Việc đặt ban thờ ông Táo thông thường theo dân gian đặt luôn trong khu bếp, hướng có thể xoay cùng hướng với bếp nấu. Nhưng, nếu nhà nào không có ban thờ Táo quân riêng thì phải thắp hương ở ban thờ thần linh hoặc gia tiên chứ không nên cúng lễ ở bếp vì từ xưa đến nay, ban thờ luôn được coi là ăng ten để giao tiếp giữa hai thế giới âm dương, giữa người trần thế và thần linh.Trên đây là một số lời khuyên dành cho người muốn đặt bàn thờ ông táo sao cho chuẩn. Tuy nhiên cũng nên lưu ý cách bày trí sao cho thật sự đẹp mắt và hợp với phong thủy để đem về những điều tốt lành về cho gia chủ. Tuy nhiên trên thực tế nếu không có bàn thờ thần tài cũng không ảnh hưởng gì nhiều tới gia chủ chỉ là theo phong tục gia đình của mỗi cá nhân. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Biểu hiện của viêm phế quản là thường ho có đơm về ban đêm. Bệnh này có liên quan đến tâm lý, do mẫn cảm cao độ, bị kích thích từ bên ngoài. Có người đau đến phát ngạt, phải dùng thuốc mới chuyển biến được. Tâm lý người bệnh thể hiện sự lo lắng, ỷ lạ
5 cái bánh bao – 5 câu chuyện đáng ngẫm để thấu tỏ lòng dạ con người
Qua câu chuyện những chiếc bánh bao, ta có thấy được trong những bối cảnh khác nhau thì lại dẫn con người đến những suy nghĩ hoàn toàn khác trong cuộc đời
Trong cuộc sống này, đôi khi chỉ một hành động nhỏ thôi, nhưng nếu đặt trong những bối cảnh khác nhau thì nó lại đưa người ta đến những suy nghĩ hoàn toàn khác. Câu chuyện từ 5 cái bánh bao này sẽ cho bạn biết sự “bất thường” trong suy nghĩ của con người.
1. Cái bánh bao thứ nhất
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân trống trơn không có gì cả, anh ta cảm động rơi nước mắt, quỳ gối không dậy nổi. Từ đó về sau, người này thân mang ơn cứu mạng, đem hết tấm lòng trợ giúp cho người đã cứu mạng.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân bày biện rất nhiều đồ ăn ngon. Người này từ cảm thấy mang ơn rất nhanh chuyển sang phẫn nộ. Anh ta giương đao giết chết người nông dân, bởi vì, anh ta phát hiện người nông dân có nhiều đồ ăn ngon như thế mà lại không cho anh ta.
Suy nghĩ 1: Cùng một hành vi mà kết quả hoàn toàn khác nhau, cũng bởi cái đôi mắt này. Nếu tự mình chứng kiến những gì mình có được, sẽ thấy biết ơn; còn một khi thấy những gì mình không có, sẽ sinh tâm oán hận.
Suy nghĩ 2: Việc nông dân cứu người bằng bánh bao với nước, và việc anh ta chỉ có hai bàn tay trắng vốn không có liên hệ. Thế nhưng, theo cách giáo dục hiện nay, sự hào hiệp chỉ được đánh giá cao khi người đó trắng tay, và đó mới là cao thượng. Trên thực tế, tấm lòng lương thiện tồn tại ở mọi nơi trong cuộc sống, là điều rất đỗi bình thường, mỗi người đều có thể chia sẻ sự thiện lương, chứ không phải cần chờ đến khi trắng tay như người nông dân trong trường hợp A.
Suy nghĩ 3: Cảm ơn hay oán hận thường do tiểu tiết quyết định mà quên đi bản chất. Nếu chịu nhìn vào bản chất, dẫu tình huống A hay B, kết quả đều nên là sự biết ơn người cứu mạng, có lẽ sự hàm ơn này chỉ giữ được khi con người còn lý tính.
2. Cái bánh bao thứ hai
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Thế nhưng về sau, mọi người mới phát hiện người được cứu này là một tham quan đang bị truy nã. Thế là, rất nhiều người oán hận người nông dân, cho rằng anh ta đang “trợ Trụ vi ngược”.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Thế nhưng về sau, mọi người mới phát hiện người được cứu này là một người lương thiện đã từng nhiều lần giúp đỡ người khác. Thế là, rất nhiều người tán thưởng người nông dân, cho rằng anh ta đã làm được một việc thiện to lớn.
Suy nghĩ 1: Cứu người còn muốn chất vấn xem thân phận người được cứu, rồi dựa trên tiêu chuẩn của chính mình mà quyết định nên cứu người nào, người nào không. Thế nên, rất nhiều người có suy nghĩ “thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện”, gặp người nào cũng không cứu.
Suy nghĩ 2: Nếu như mọi người dưới hai tình huống này, đều có thể duy trì tâm thái ngưỡng mộ đối với người nông dân thì sự thiện lương sẽ được phát triển bền bỉ. Ngược lại, dưới sự ảnh hưởng của nịnh bợ, cảnh giác, dè chừng… sẽ khiến sự thiện lượng ngày càng lụi tàn.
3. Cái bánh bao thứ ba
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân này, chỉ tay qua nhà một người nông dân khác và nói: “Nhìn đi, nhà đó là chuyên làm bố thí cứu người, sang đó mà xin!” Người đói khát vất vả lắm mới đến được nhà người đó, người nông dân nhà này mở cửa ra, áy náy nói: “Tôi không có gì để ăn cả”. Thế là, người trong cả thôn đều oán hận người nông dân này, mà không có ai chỉ trích người nông dân đầu tiên cả.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân này, chỉ tay qua nhà một người nông dân khác và nói: “Nhìn đi, nhà đó là chuyên bố thí cứu người, sang đó mà xin!” Người đói khát vất vả lắm mới đến được nhà người đó, người nông dân nhà này mở cửa ra, nói: “Tôi chỉ có nửa cái bánh bao thôi”. Thế là, người trong cả thôn đều khinh bỉ người nông dân này, mà không có ai chỉ trích người nông dân đầu tiên đến mà không cứu cả.
Suy nghĩ 1: Đối với người có tâm lương thiện, tiêu chuẩn của người đó sẽ tự nhiên không ngừng nâng cao lên.
Suy nghĩ 2: Đối với người có tư tâm, sự kỳ vọng của người đó sẽ hạ xuống thấp nhất, cho nên sẽ dẫn đến thất vọng.
Suy nghĩ 3: Người không có nhân cách đạo đức sẽ tự khắc đánh rơi sự thiện lương, thẳng tay đóng cửa đối với kẻ đói khát.
4. Cái bánh bao thứ tư
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân trống trơn không có gì cả, anh ta cảm động rơi nước mắt, quỳ gối không dậy nổi. Từ đó về sau, người này thân mang ơn cứu mạng, đem hết tấm lòng trợ giúp cho người đã cứu mạng. Đồng thời, đối với bất kể hành vi nào của người nông dân, anh ta đều không cần biết thiện ác, toàn lực hỗ trợ. Người nông dân mất đi tấm gương, cho rằng hết thảy những gì mình làm đều là đúng. Về sau, vì phạm sai lầm lớn mà hủy hoại một đời.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân trống trơn không có gì cả, anh ta cảm động rơi nước mắt, quỳ gối không dậy nổi. Từ đó về sau, người này thân mang ơn cứu mạng, đem hết tấm lòng trợ giúp cho người đã cứu mạng. Thế nhưng, đối với hành vi của người nông dân, anh ta chỉ ủng hộ việc thiện, còn việc ác thì thẳng thắn chỉ ra, người nông dân vất vả chăm chỉ cày cấy, không ngừng trau dồi đạo đức, dần trở nên thịnh vượng, quảng bá sự thiện lương đến muôn người.
Suy nghĩ 1: Cách trả ơn khác nhau sẽ dẫn đến kết quả khác nhau.
Suy nghĩ 2: Tư duy chính thường bất cứ lúc nào cũng muốn bảo trì; nói thẳng, góp ý thường là cách tốt hơn.
Suy nghĩ 3: Kỳ thật, sau khi ăn xong cái bánh bao, uống một chén nước, rồi quay người rời đi, cũng là một kiểu cảm ơn. Rất nhiều khi, người cứu người, chỉ là một việc nên làm thôi, cũng không có ý hy vọng nhận được tán thưởng, ca ngợi hay là hồi báo.
5. Cái bánh bao thứ năm
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người trong thôn chứng kiến được nên ca ngợi anh ta đã làm được một chuyện đại thiện. Về sau, ngay cả gặp phải chuyện chính mình không thể giúp được, người nông dân này cũng chủ động ra tay tương trợ.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Có người nghi ngờ hành động đẹp của người nông dân, thậm chí nghi ngờ người đói khát này là do người nông dân tìm người đóng vai. Về sau, anh ta gặp người cần giúp đỡ, đã nhanh chóng lẩn mất từ phía xa xa, sợ lại bị chửi bới.
Suy nghĩ 1: Ca ngợi hay chửi bới, thường sẽ ảnh hưởng đến hành vi của người khác, hành vi của những người tâm trí không đủ thành thục.
Suy nghĩ 2: Nếu như muốn một hành vi nào đó nhận được một đánh giá thống nhất, chỉ có thể khiến chính mình bị điên đầu thôi.
Suy nghĩ 3: Người gặp chửi bới liền muốn trốn tránh, vĩnh viễn chỉ có thể là người nhu nhược.
Suy nghĩ 4: Người nông dân nên nhanh chóng quên đi chuyện cái bánh bao và chén nước kia, cũng nên quên hẳn đi những gì người khác nói, tĩnh tâm làm việc của chính mình, làm một người nông dân vui vẻ.
Người sinh 1933, Quý Dậu có Ngũ hành năm sinh là Kiếm Phong Kim, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung TỐN, hành MỘC, hướng Đông Nam, quái số 4, sao Tứ Lục, Đông tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Bắc, Nam, Đông, Đông Nam ). Đeo đá màu Đen, Xanh
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn cha mẹ, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Các lễ hội ngày 10 tháng 11 Âm Lịch -Hội Làng Mạnh Tân, Hội Làng Cả
Vào ngày 10 tháng 11 âm lịch có các lễ hộiHội Làng Mạnh Tân và Hội Làng Cả, Hội làng Mạnh Tân tổ chức tại Hà Nội và Hội làng Cả tổ chức tại tỉnh Phú Thọ
Treo xu Ngũ đế hóa giải phòng tắm "nép mình" trong phòng ngủ
Ngày nay nhiều gia đình hay để phòng tắm nằm trong phòng ngủ. Thiết kế này không những chẳng hợp phong thủy mà còn dễ khiến vi khuẩn lây lan từ nhà vệ sinh sang khu sinh hoạt.
Xu hướng thiết kế nhà hiện nay hay có kiểu phòng ngủ "cõng" phòng tắm, phòng bố mẹ "chăm" phòng trẻ con,...Thế nhưng theo phong ngủ nên tránh kiểu thiết kế phòng ngủ như vậy (房 中 房) vì nó biểu trưng cho một người thứ ba san sẻ phòng ngủ của bạn. Bố trí nhà ở như vậy sẽ có xu hướng thu hút bên thứ ba xen vào giữa mối quan hệ tình yêu và vợ chồng.
Thế nào là thiết kế Phòng "cõng" Phòng?
Nếu bạn có một căn phòng bên trong phòng ngủ và có cửa ngăn cách hay khung cửa.
Làm thế nào để hóa giải cấm kị Phòng "cõng" Phòng?
- Gỡ bỏ cửa và khung cửa để nó không tượng trưng cho một cánh cửa ngăn cách.
- Nếu không thể gỡ bỏ, bạn có thể treo một dải tiền xu Ngũ đế ở trên cửa, nhằm hóa giải tà khí.
Tiền xu đục lỗ hình tròn tượng trưng cho trời, giữa là lỗ hình vuông tượng trưng cho đất. Cát khí của nó không những làm gia tăng tài lộc mà con đem lại nhiều may mắn về công danh, sự nghiệp và giải trừ tai họa, tiểu nhân…
Tiền xu Ngũ đế là một dải gồm năm đồng tiền cổ của 5 vị Hoàng đế cường thịnh nhất triều đại nhà Thanh là: Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long và Gia Khánh. Theo phong thuỷ, các đồng tiền của các thời đại càng cường thịnh thì khí trường của nó càng mạnh. Mọi người thường hay treo xu ở bàn thờ thổ thần, bỏ trong túi xách, hay treo ở quầy thu ngân, cửa ra vào.
- Ngoài tiền xu, bạn cũng có thể treo một bình hồ lô ở trên khung cửa.
Hồ lô phong thủy là vật khí không thể thiếu để hoá giải hung khí và tăng cường sức khoẻ. Chúng ta thường thấy ông Thọ luôn luôn đeo hồ lô trên người. Vì vậy hồ lô phong thủy là biểu tượng của sự an lành và sức khoẻ.
Hồ lô phong thủy có tác dụng chế sát bằng việc hút “sát khí” kỳ diệu của quả hồ lô. Quả hồ lô sẽ có quỹ đạo hút khí theo hình chữ S, quả hồ lô sẽ hút và phá hủy “tà khí”.
Trong mỗi cử chỉ, lời nói, cách ăn uống, phụ nữ phong trần luôn có vẻ yểu điệu rất kiểu cách. Đại thể, tướng người phụ nữ phong trần được thể hiện qua 1 số nét tướng sau: - Khuôn mặt nhỏ nhắn nhưng dáng người to thô, da trên người thô ráp hơn da mặt
Mỗi nốt ruồi ở ngón chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấu, cũng có những nốt ruồi ở ngón chân không mang ý nghĩa gì cả. Bài viết dưới đây Phong thủy số giới thiệu tới bạn những ý nghĩa mà nốt ruồi ở vị trí ngón chân.
Mỗi vị trí nốt ruồi trên cơ thể mang một ý nghĩa khác nhau có ảnh hưởng tới cuộc đời hay vận mệnh của bạn. Có thể là một điềm báo xấu hoặc tốt đối với vận mệnh của bạn. Mỗi nốt ruồi ở ngón chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấu, cũng có những nốt ruồi ở ngón chân không mang ý nghĩa gì cả. Bài viết dưới đây Phong thủy số giới thiệu tới bạn những ý nghĩa mà nốt ruồi ở vị trí ngón chân.
Nốt ruồi ở ngón chân cái:
Ngón chân cái là ngón tượng trưng cho quyền lực, vì thế đối với những người có nốt ruồi ở ngón chân cái là những người có tố chất lãnh đạo, có khả năng quán xuyết tất cả mọi việc. Những người này có thể đảm nhận được những vai trò cao sự nghiệp và được nhiều người mến phục. Những người có nốt ruồi ở ngón chân cái bên phải hay bên trái đều là người có tố chất lãnh đạo, là người có quyền thế.
Nốt ruồi ở ngón chân út và ngón áp út:
Những người có nốt ruồi ở vị trí này nên cẩn thận với bệnh thận, thiếu dương khí hay vị váng đầu, chóng mặt, hay bị tê liệt hay chân, những người có nốt ruồi ở vị trí này không phù hợp với các công việc cần trí nhớ tốt.
Nốt ruồi trên ngón chân thứ hai:
Với những người có nốt ruồi ở ngón chân thứ hai thường hay bị đau đầu, giấc ngủ không sâu. Phương diện tình cảm, hôn nhân cũng không được như ý.
Nốt ruồi trên ngón chân khác:
Những vị trí nốt ruồi trên ngón chân khác đều mang ý nghĩa là người này phải đi xa, cuộc sống tha phương cầu thực, khá chật vật. Kể cả đến lúc qua đời cũng có thể không thề về nơi chôn rau cắt rối mà phải nằm lại nơi đất khách quê người.
Nốt ruồi ở kẽ ngón chân:
Với những người có nốt ruồi ở kẽ ngón chân thường là người có của, có tiền đồ, cuộc sống khá sung túc.
Trên đây là những ý nghĩa của vị trí nốt ruồi ở ngón chân, cũng như vị trí nốt ruồi ở kẽ ngón chân. Để xem thêm những bài viết liên quan khác, bạn có thể tham khảo thêm những bài viết dưới đây:
+ Bí ẩn nốt ruồi sau gáy phụ nữ
+ Nốt ruồi trên môi có ý nghĩa gì?
+ Nốt ruồi ở yết hầu là tốt hay xấu
+ Nốt ruồi ở vai phải có ý nghĩa gì?
Key liên quan: nốt ruồi ở ngón chân cái, nốt ruồi ở ngón chân cái bên phải, nốt ruồi trên ngón chân, nốt ruồi ở kẽ ngón chân
Người tuổi Tỵ mệnh Mộc là người sinh năm Kỷ Tỵ 1929, 1989...
Nhiệt tình, hào phóng và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người là điểm riêng của họ so với người tuổi Tỵ thuộc các mệnh khác.
Đa số họ thường có vẻ ngoài ưa nhìn, dễ tạo được thiện cảm với người xung quanh. Đây cũng là người khá hoạt bát, năng động. Tuy nhiên, có khi họ tỏ ra nóng vội, dễ dẫn đến bất lợi trong công việc.
Là người tuổi Tỵ, họ không tránh khỏi tính cách đa nghi cũng như luôn đặt ra những yêu cầu cao đối với người khác. Ngoài ra, họ cũng có khát vọng lớn về tiền bạc, danh tiếng và quyền lực.
Giống người tuổi Tỵ mệnh Thủy, họ luôn kiên trì với mục tiêu đã lựa chọn. Một số người có tính cách bảo thủ, ít chịu lắng nghe mà chỉ thường áp dụng các nguyên tắc, phương thức hành động của bản thân vào việc đánh giá, phê bình người khác. Chính vì điều đó nên họ đã vô tình tự cô lập bản thân. So với nam giới, nữ giới tuổi Tỵ mệnh Mộc thường dễ phát tài, có thể giúp đỡ chồng con về cả sự nghiệp và cuộc sống.
Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Mậu Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi
Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Mậu Tý, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Mậu Tý, tu vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Mậu Tý, tu vi Phong thủy bàn thờ
Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Mậu tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.
– Năm sinh dương lịch:1948, 2008, 2068
– Năm sinh âm lịch: Mậu Tý
huong-dat-ban-tho-than-tai-tuoi-mau-ty
– Theo phong thủy, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Mậu tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.
– Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Mậu tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo. Tốt nhất là tại góc chéo bên trái hoặc bên phải đối diện với cửa chính, mặt bàn thờ hướng ra cửa để đón tài lộc (trong phong thủy đây là vị trí tụ khí vì thế sẽ thu hút được vận may, tài lộc vào nhà).
– Gia chủ tuổi Mậu tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được. Ngoài ra, bàn thờ thần tài phải có chỗ tọa vững chắc vì vậy lưng bàn thờ nên dựa vào tường hoặc tủ kệ cố định.
– Gia chủ tuổi Mậu tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng tốt là: Nam (Diên Niên); Đông Nam (Sinh Khí); Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y). Đối với tuổi Mậu tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng tốt là: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y).
– Gia chủ tuổi Mậu tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng xấu là: Tây (Họa Hại);Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Tuyệt Mệnh).Đối với tuổi Mậu tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng xấu là:Nam (Họa Hại);Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh).
*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy
– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.
– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ
– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.
– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.
– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.
– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.
– Bên cạnh đó, gia chủ tuổi Mậu tý cũng cần quan tâm thêm đến trạch khí của ngôi nhà cũng như bố cục của phòng ốc để có lựa chọn tối ưu.
– Trong nhiều trường hợp, bàn thờ thần tài vẫn có thể xoay chéo 45 độ so với tường. Khi đó, phía sau lưng cần có bức vách che góc nhọn của tường hoặc những đồ trang trí như lọ lộc bình… để làm vững lưng ban thờ.
Trong Ngũ hành, mỗi con giáp tương ứng với mỗi hành khác nhau. Theo đó, nên lựa chọn đồ nội thất có những màu sắc tương sinh với 12 con giáp để mang lại sức
Trong Ngũ hành, mỗi con giáp tương ứng với mỗi hành khác nhau. Theo đó, nên lựa chọn đồ nội thất có những màu sắc tương sinh với 12 con giáp để mang lại nhiều sức khỏe và tài lộc cho chủ nhân ngôi nhà.
Tuổi Tý và tuổi Hợi
Màu sắc nội thất cho người tuổi Tý và Hợi
Hai con giáp này thuộc hành Thủy trong Ngũ hành. Theo đó, nên sử dụng những đồ nội thất bài trí trong gia đình có màu sắc thuộc hành Thủy như màu trắng, màu ghi, đen, xanh đen…để tạo thế tương sinh trong phong thủy. Điều này giúp thúc đẩy sức khỏe và tài vận của người tuổi Tý và tuổi Hợi trong suốt cuộc đời họ. Tuổi Sửu, Thìn, Mùi và Tuất
Màu sắc nội thất cho người tuổi Sửu, Mùi, Thìn và Tuất
Trong Ngũ hành, thuộc tính của 4 con giáp này đều mang hành Thổ. Theo nguyên lí tương sinh của Ngũ hành, những đồ nội thất có màu đỏ, tím, cộng thêm với màu vàng sẽ giúp họ tạo nguồn năng lượng tích cực cho ngôi nhà của mình. Các màu sắc này đều thuộc hành Hỏa. Hỏa và Thổ tương sinh nên mang lại nhiều lợi ích cho người tuổi Sửu, Thìn, Mùi và Tuất. Tuổi Dần và tuổi Mão
Người tuổi Dần và Mão đều thuộc hành Mộc trong Ngũ hành. Bài trí ngôi nhà với những màu sắc xanh và đen làm chủ đạo, sẽ giúp cuộc sống của 2 con giáp này thêm hạnh phúc và giàu có. Tuổi Tỵ và tuổi Ngọ Xét theo Ngũ hành, người tuổi Tỵ và Ngọ thuộc hành Hỏa. Do đó, nên trang trí ngôi nhà của các bạn bằng những món đồ nội thất có màu xanh (xanh lá, xanh ngọc…) để tạo điều kiện Mộc sinh Hỏa, mang lại cuộc sống thịnh vượng cho chủ nhân ngôi nhà. Ngoài ra, người tuổi Tỵ và tuổi Ngọ cũng nên bài trí xen kẽ đồ nội thất có màu đỏ hoặc tím, màu của bản mệnh, để cuộc sống được hài hòa, sung túc. Tuổi Thân và tuổi Dậu
Màu sắc nội thất cho người tuổi Thân và Dậu
Đối với 2 con giáp thuộc hành Kim này, nên trang hoàng nhà cửa bằng những màu sắc mang hành Thổ, vì Thổ sinh Kim. Những màu sắc như vàng, cam rất phù hợp với bản mệnh của người tuổi Thân và Dậu. Ngoài ra, sự kết hợp khéo léo giữa màu trắng, màu ghi (màu bản mệnh) và những màu sắc thuộc hành Thổ trên sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho 2 con giáp này. Theo Xingzuo Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Bản tính ngay thẳng thật thà, nhạy bén nhưng hơi lãng mạn. Mẫu người mưu lược, tạo được quyền lực. Nếu là con út trong gia đình thì lớn lên có thể gần mẹ xa cha hay gần cha xa mẹ. Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh, tài ba tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“Tuổi trẻ hôm nay ráng học hành
Ngày mai rạng rỡ bước công danh
Chuyên cần chăm chỉ lo đèn sách
Hiếu thảo đền ơn đấng sinh thành”.
Năm nay, đúng chương trình là chuyển lên lớp 11. Cố gắng thi SAT cao điểm để xin được học bổng và dễ được các đại học nổi tiếng tuyển mộ, không cần đợi cọng điểm GPA khi tốt nghiệp lớp 12. Hạp màu trắng. Hướng nhà cửa tốt nhất là Bắc, Nam và Đông Nam. Muốn đổi chỗ ở, chuyển trường đều thực hiện được.
NỮ: Cung Khôn sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người thích nghiên cứu, tìm tòi, có óc quan sát. Mưu cầu sự hoàn mỹ nên hơi mơ mộng. Nếu là con út trong gia đình thì lớn lên có thể gần cha xa mẹ hay gần mẹ xa cha. Ở đời có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh, tài ba tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Chỉ cần chăm chỉ học hành 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm trong cuộc đời sau này.
“ Cơm cha áo mẹ công thầy
Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo
Ngày mai vinh hiển ấm no
Yêu cuồng sống vội hẹn hò không nên”
Năm nay đúng chương trình là chuyển lên lớp 11. Cố gắng thi SAT cao điểm để dễ xin học bổng, dễ vào các đại học nổi tiếng, không cần đợi cọng điểm GPA khi tốt nghiệp lớp 12. Hạp màu trắng. Hướng mở tiệm, văn phòng thương mại là Tây và Tây Bắc. Chọn chồng hợp những tuổi sau: Qúy-Dậu ( 1993), Giáp-Tí ( 1984), At-Sửu ( 1985), Mậu-Thìn (1988), Canh-Ngọ (1990). Bất luận lấy chồng năm nào, nên chọn ngày giờ tốt trong tháng 6 hay 12 âm lịch.
GIÁP-TÍ 30 TUỔI: ( Sinh từ 2/2/1984 đến 20/1/1985)
Mệnh: Hải Trung Kim ( Vàng giữa biển)
NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Ngũ-Mộ : Mẫu người hiếu học, thông minh, nhanh nhẹn, mưu lược, chịu khó, bộc trực, nóng nảy nhưng rất lương thiện. Sinh vào mùa Thu phú qúi, một đời vật chất sung túc, khá giả về tiền bạc. Tính tự lập với nhiều cá tánh mang nhiều tham vọng, tự tin và gánh vác trách nhiệm, một đời hiên ngang. Gieo nhân lành thì quả tốt. Thi cử dễ có bằng cấp cao; nhờ đó mà tương lai sáng lạn. Tiền vận khó khăn thăng trầm. Hậu vận rất thành công. Sinh mùa Xuân, Hạ, Đông, gian nan:
“Tự tin xây dựng cuộc đời
Tuổi xuân chăm chỉ, thảnh thơi về già
Một đời ngang dọc phong ba
Hiển vinh hậu vận thăng hoa sáng ngời”
Tình duyên lận đận: Vui chưa lâu thì nỗi buồn chợt đến. Hạp với tuổi Giáp-Tí (1984), Nhâm-Tuất (1982), và Qúy-Dậu (1993). Đại kỵ tuổi Bính-Dần (1986), Đinh-Mão (1987). Rất kỵ màu đỏ. Hạp màu vàng. Phương hướng nhà cửa và thương mại tốt nhất là hướng Tây và Tây Bắc. Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm Tam-Địa Sát, không thích hợp cho việc xây cất hay chỉnh trang nhà cửa. Tháng 4 tháng 8, trong gia đình có người bệnh hoạn, hay tang chế bà con xa.
NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức, hạn Ngũ-Mộ: Mẫu người rất thông minh, lanh lẹ, chịu khó, tử tế, tốt bụng, nên cuộc đời thành công. Với tài giao tế, đắc nhân tâm nên dễ thăng tiến trên thương trường. Khó nhờ vả anh chị em. Tình duyên lận đận nếu sinh vào mùa Xuân, Hạ, Đông. Nhiều cá tánh và thích gánh vác giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, ly hương lập nghiệp lại rất giàu có sau 40 tuổi.
“ Mệnh Hải Trung Kim số chẳng nghèo
Mẫu người năng nỗ vững tay chèo
Thông minh tốt bụng, đời sang cả
Đường tình lận đận lắm gieo neo”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm Tam Địa Sát, không tốt cho việc xây cất, chỉnh trang nhà cửa. Tuy nhiên, việc làm ăn rất phát đạt, thịnh vượng. Làm công chức sẽ được lên chức lên lương. Tốt nhất trong mùa Đông. Rất hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Dễ có tình cảm tốt với người bằng tuổi và Qúy-Hợi (1983), At-Mão (1975), Giáp-Dần (1974), Ất-Sửu (1985) và Mậu-Ngọ (1978). Bất luận năm nào, khi cưới hỏi phải chọn ngày giờ tốt trong các tháng 6, hay 12 âm lịch là tốt nhất. Làm ăn nên chọn hướng Tây Nam và chánh Tây. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6; để sinh con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ đựợc 20 năm. ( Nếu là con út.)
NHÂM-TÍ 42 TUỔI: (Sinh từ 15/2/1972 đến 2/2/1973)
Mệnh: Tang Đố Mộc (Gỗ cây dâu).
NAM: Cung Khảm, sao Vân-Hớn hạn Thiên-La: Nam “ nhâm” là số phú qúi, nhờ thông minh năng nỗ tháo vác, giỏi ứng phó trước mọi hoàn cảnh. Luôn tự tin, không ỷ lại vào người khác. Đa mưu túc trí, tránh đụng chạm. Ly hương lập nghiệp dễ dàng phát đạt giàu sang. Rất có năng khiếu về quản trị kinh doanh. Tương lai sang giàu bền vững.
“Tang Đố Mộc số thành công
Tình tiền danh lợi một vòng vẻ vang
Suốt đời phát đạt giàu sang
Công danh sự nghiệp vững vàng ấm êm”
Tất cả mọi thay đổi như chỗ ơ, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại trong năm nay đều thành công. Tài lộc phát đạt đem lại một năm thịnh vượng. Tuy nhiên cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong tháng Giêng và tháng 7. Bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Ốc” thành thử không nên xây cất nhà cửa. Người độc thân, rất hạp và có thể tiến tới hôn nhân với các tuổi Giáp-Dần (1974), Qúy-Sửu (1973), Canh-Thân (1980), Nhâm-Tuất (1982) và Qúi-Hợi (1983). Kỵ tuổi Bính-Thìn (1976). Về màu sắc nên chọn màu xanh nhạt. Phương hướng nhà cửa và làm ăn thương mãi tốt nhất là Đông Nam và chánh Bắc. Dự tính có con năm nay cũng tốt.
NỮ: Cung Cấn, sao La-Hầu, hạn Diêm-Vương: Mẫu người thông minh tháo vát năng động, với một đầu óc biết tính toán sáng suốt. Tánh tình chu đáo hiếu thảo, thủy chung biết nhìn xa và thật thà nhưng có ý chí, đầy nghị lực, tạo được sự quan hệ tốt với xã-hội. Con cái ngoan hiền. Khó nhờ vả anh chị em. Muốn tự kinh doanh, nên chọn hướng Tây và Tây Bắc, dễ phát đạt, thịnh vượng. Hạp màu xanh nhạt. Hôn nhân thường trở ngại lúc đầu, sau phải lấy chồng hợp tuổi mới hạnh phúc bền lâu.
“Thông minh chẳng có ai bằng
Nữ nhi hiếu đạo tâm hằng sáng soi
Góp công làm đẹp cho đời
Trăm năm bền vững rạng ngời an vui”
Hôn nhân hạp với những tuổi Giáp-Dần (1974), Ất-Tị (1965), Giáp-Thìn (1964), Canh-Tuất (1970), Quí-Sửu (1973), Quí-Mão (1963) và Nhâm-Dần ( 1962). Kỵ tuổi Kỷ-Dậu (1969). Bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Ốc” không nên xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tuy nhiên, mọi thay đổi chỗ ở, chỗ làm, đi xa xuất ngoại đều thành công như ý. Một năm rất phát đạt và thịnh vượng. Cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong tháng Giêng và tháng 7.
CANH-TÍ 54 TUỔI: (Sinh từ 28/1/1960 đến 14/2/1961)
Mệnh: Bích Thượng Thổ (Đất trên tường)
NAM: Cung Tốn, sao Mộc-Đức, hạn Hùynh-Tuyền: Mẫu người sáng trí thông minh nhanh nhẹn và chịu khó. Hành sự đơn độc, âm thầm lo toan mọi việc trong cô đơn nhưng có tinh thần kỹ luật, trọng nghĩa khí; đôi khi khoan dung và từ tâm bác ái. Nhiều khi nóng nảy hấp tấp, cho nên hôn nhân cách trở khó khăn. Đi xa lấy vợ, hay cưới vợ khác xứ khác quê càng tốt. Tiền vận trước 26 tuổi thường gặp gian nan. Hạp màu đỏ và vàng. Tạo mãi nhà cửa hay kinh doanh tốt nhất trên hướng Bắc, Nam, và Đông Nam. Bạn đời lý tưởng nhất là các tuổi Mậu-Ngọ (1978), Quý-Mão (1963), Canh-Tí (1960), Ất-Mão (1975), và Bính-Ngọ (1966). Kỵ tuổi Kỷ-Dậu (1969) và Đinh-Mùi (1967).
“ Mẫu người sáng trí thông minh
Siêng năng chịu khó, tự tin chính mình
Tha phương kỳ ngộ duyên tình
Gặp người tri kỷ trọn tình trăm năm”
Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát” không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tuy nhiên việc làm ăn có nhiều biến chuyển thuận lợi trong mùa Đông. Trong hãng xưởng dễ được thăng quan tiến chức. Kinh doanh thương mãi, tài lộc rất khả quan. Con cái thi cử đỗ đạt.
NỮ: Cung Khôn, sao Thủy-Diệu, hạn Tán-Tận: Mẫu người sáng trí, thông minh, ứng phó tài tình trước nghịch cảnh. Có tài năng và kiến thức sâu rộng, dễ thủ đắc tiền tài. Cho nên đôi khi quá tự tin và hành sự độc đoán gây đụng chạm. Một đôi khi tỏ ra hấp tấp vội vàng nhưng nhờ tâm tốt, hay làm việc thiện nên cũng dễ quên những nỗi khổ trong lòng.
“Tính người vì quá tự tin
Trước bao nghịch cảnh tại mình xem khinh
Trường đời khéo léo giữ gìn
Khiêm cung từ tốn gia đình mới yên”
Làm ăn nên chọn hướng Tây và Tây Bắc. Hạp màu đỏ và vàng. Người hợp tác cũng như bạn trăm năm rất hợp với các tuổi Ất-Tị (1965), Canh-Tí (1960), Ất-Mùi (1955), Giáp-Thìn (1964), Giáp-Ngọ (1954), Quý-Mão (1963), Mậu-Tuất (1958), Canh-Dần ( 1950) và Mậu-Tí (1948). Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Tam Địa Sát”, không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8 gia đình có người bệnh hoạn hay tang chế bà con. Lái xe cũng phải cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong 2 tháng nói trên.
MẬU-TÍ 66 TUỔI: (Sinh từ 10/2/1948 đến 28/1/1949)
Mệnh: Tích Lịch Hỏa (Lửa sấm sét).
NAM: Cung Đoài, sao Thủy-Diệu, hạn Thiên-Tinh: Số ly hương xa xứ, thông minh lanh lẹ và mưu lược. Tự tay lập nghiệp mà thành, không nhờ vả người thân. Nếu là con út trong gia đình thì sớm bị mồ côi. Tính tình khí khái cương trực, dứt khoát, nhưng cũng thích triết và đạo lý, có tâm hồn hướng thượng, tin tưởng vào các sự kiện tâm linh. Cho nên một khi đã “tri thiên mệnh” thì lại tu hành bất chợt. Tình duyên lận đận, trắc trở nhiều phen. Hôn nhân không mấy khi hợp ý toại lòng. Nhưng nếu gặp những tuổi Mậu-Tuất (1958), Canh-Tí (1960) hay Bính-Thân (1956), tình duyên được vững bền.
“ Tự tay lập nghiệp mà thành
Nên tri thiên mệnh tu hành quán thông
Tâm hồn hướng thượng thong dong
Đạo đời hòa hợp, thoát vòng khổ đau “.
Đại kỵ màu đen, đi xe đen. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc và Chánh Tây. Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Lục Hoang Oc”, không tốt cho việc xây cất nhà cửa hay tạo lập cơ sở kinh doanh. Công việc làm ăn cứ giữ nguyên tình trạng cũ, không nên mở mang rộng lớn, sẽ lâm và tình trạng lớn thuyền lớn sóng, tiếng có miếng không. Lái xe phải cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ, nhất là trong tháng 4 và 8.
NỮ: Cung Cấn, sao Mộc-Đức hạn Tam-Kheo: Nữ nhân mà nam tính, thích tự lập với nhiều tự ái. Rất thông minh, tài giỏi, cương trực, thích ly hương dựng nghiệp. Chấp nhận hiện tại và có tinh thần trách nhiệm. Tình duyên trắc trở, lận đận nhiều phen và hôn nhân ít khi hợp ý toại lòng. Khi “ ngũ thập tri thiên mệnh”(50 tuổi biết được ý trời) thì gia tăng khuynh hướng thích triết, đạo lý và tu hành hướng thượng. Tuy nhiên, khi đã lập gia đình với những tuổi Canh-Dần (1950), Quý-Mùi (1943), Mậu-Tí (1948), Đinh-Hợi (1947) gia đạo lại an vui. Nếu quí bà là con út, thường sớm bị mồ côi.
“Nữ nhân nam tính sống ngang nhiên
Mệnh Trời hòa hợp mối thiên duyên
Triết lý đạo đời tâm hướng thựợng
Thiên di cẩn thận mới bình yên”
Tối kỵ màu đen, nhất là đi xe đen ! Hướng tốt để làm ăn là Tây Bắc, và Chánh Tây. Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Lục Hoang Oc”. Không nên xây cất nhà cửa hay văn phòng thương mãi. Mọi việc làm ăn cứ theo đường xưa lối cũ, tránh mở mang rộng lớn, để khỏi bị tình trạng lớn thuyền, lớn sóng, tiếng có miếng không. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại.
Nguồn Vietstar
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
NAM: Cung khôn sao Kế-Đô, hạn Địa-Võng: Mẫu người thông minh đa tài, nhiều tham vọng. Đôi khi thiếu khiêm tốn và không chấp nhận hiện tại nên chức phận không bền. Tiền vận gian nan, trung vận lao đao, nhưng ly hương tự lập lại phú qúi giàu sang về hậu vận. Cuối đời có khuynh hướng tu hành, thích triết, thích đạo lý và tâm hồn hướng thượng. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ bị mồ côi. Sau này xây nhà cửa hay mở cơ sở làm ăn, nên chọn hướng chánh Tây hay Tây Bắc. Làm người có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại bây giờ không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng do những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Vậy tương lai được xây dựng bởi những gì ta đang cố gắng xây dựng hôm nay:
Năm nay tốt nghiệp lớp 9, nên bắt đầu luyện thi SAT. Hạn chế tối đa việc đi xa.
“Tuổi nhỏ hôm nay ráng học hành
Mai sau rạng rỡ bước công danh
Siêng năng chăm chỉ lo đèn sách
Đỗ đạt rạng danh, sự nghiệp thành.”
NỮ: Cung Tốn sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người luôn phấn đấu, nhiều tham vọng, đôi khi háo danh, nóng nảy cố chấp và hơi lý tài. Tuy nhiên rất quán xuyến đảm đang, trở thành rường cột của gia đình. Tình duyên trắc trở buổi ban đầu, về sau lấy chồng hạp tuổi mới yên. Về già thích triết, thích đạo lý và có tâm hồn hướng thượng tu hành. Nếu bạn là con út trong gia đình, dễ bị mồ côi. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam và Đông Nam. Làm người có ba điều đáng trách: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, chỉ ân hận suốt đời mà thôi. Ngay cả thiên tài cũng là những cố gắng lâu dài. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Vậy giờ nào việc ấy. Năm nay nên bắt đầu luyện thi SAT và hạn chế tối đa việc đi xa, xuất ngoại.
“ Cơm cha áo mẹ công thầy
Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo
Tương lai vinh hiển ấm no
Yêu cuồng sống vội, hẹn hò không nên”
BÍNH-DẦN 28 TUỔI (Sinh từ 9/2/1986 đến 28/1/1987)
Mệnh: Lộ Trung-Hỏa ( Lửa trong lò)
NAM: Cung Khôn, sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người can đảm, tự tin. Lúc nhỏ hay bệnh, hơi khó nuôi. Mặc dù có óc lãnh đạo, có tài chỉ huy, dám nói dám làm nhưng không gặp thời nên tiền vận gian nan. Nếu bạn là con út trong gia đình thì đời sống tình cảm của song thân không mấy vui; nhiều khi gần cha xa mẹ, gần mẹ xa cha, đó là nghịch cảnh. Tuy nhiên, đôi khi nhờ nghịch cảnh trui rèn mà mai sau ứng phó được với khó khăn ngoài xã hội. Mua nhà đất hay làm ăn nên chọn hướng Tây và Tây Bắc. Tối kỵ màu đen, đi xe đen. Bản tánh hào hoa phong nhã, khi yêu thương thì rất đam mê, nồng nàn. Cưới vợ hợp với tuổi Kỷ-Tỵ (1989), Tân-Mùi (1991) và Ất-Hợi (1995).
“Mẫu người can đảm tự tin
Có tài lãnh đạo nhưng tình trái ngang
Tiền vận thật lắm gian nan
Hậu vận tốt đẹp đàng hoàng an vui”
Năm nay hạn chế đi xa, xuất ngoại bất lợi, công vụ trắc trở. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng tránh nằm đường. Uống rượu lái xe sẽ gây tai nạn nguy hiễm. Mọi việc ráng giữ nguyên tình trạng cũ mới có thể tránh bớt những xui xẻo rủi ro. Không nên đầu tư chứng khoán. Xấu nhứt là tháng 1, tháng 7 trong gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hoặc tang chế bà con.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Mẫu người tự tin, nóng nảy nên dễ bị đụng chạm. Tuy nhiên rất nhiệt tình, thích giúp đỡ người khác. Nhờ đó có sự hồi báo mà thành tựu về hậu vận. Nếu bạn không phải là con út trong gia đình thì đang ở trong thuận cảnh. Nếu là con út trong gia đình thì có khi gần mẹ xa cha, hay gần cha xa mẹ. Làm ăn hợp với hướng Đông Nam và chánh Bắc. Lấy chồng hạp với những tuổi Đinh-Mão (1987), Đinh-Tỵ (1977), Quý-Sửu (1973), Quý-Hợi (1983), Tân-Dậu (1981) và Mậu-Ngọ (1978). Tối kỵ tuổi Giáp-Tí (1984). Cưới hỏi nên chọn ngày giờ tốt trong tháng 2 và 8 âm lịch, bất luận năm nào. Hạp màu đỏ, tối kỵ màu đen, đi xe đen.
“Trẻ lo nỗ lực học hành
Mai sau đỗ đạt xứng danh gái tài
Gia đình xây đắp tương lai
Ngôn từ dè dặt tháng ngày thảnh thơi”
Năm nay tối kỵ đi xa xuất ngoại, công vụ gặp nhiều trắc trở. Không nên thay đổi chỗ ở chỗ làm. Mọi việc ráng giữ nguyên tình trạng cũ. Trước khi lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh nằm đường. Rất dễ bị phạt hay tai nạn xe cộ dễ xảy ra trong tháng 3, tháng 9. Cũng trong 2 tháng nói trên, trong gia đình có người bệnh hoạn, hay tang chế bà con. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để sinh con tuổi Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.
GIÁP-DẦN 40 TUỔI: (Sinh từ 23/1/1974 đến 10/2/1975)
Mệnh: Đại-Khê-Thủy ( Nước của khe lớn)
NAM: Cung Cấn, sao Thái-Bạch hạn Thiên-Tinh: Mẫu người thông minh hào hiệp, tự tin, tự lập, có óc lãnh đạo, có tài chỉ huy. Cuộc đời gặp nhiều may mắn, khá giả về tiền bạc. Thấy chuyện bất bình ra tay tương trợ. Thiếu niên tiền vô tay trái ra tay phải. Tuy nhiên tha hương lập nghiệp lại gặp nhiều cơ hội tốt để tiến thân. Tình duyên lận đận. Bạn trăm năm nên chọn các tuổi Giáp-Tí (1984), Canh-Tuất (1970), Tân-Hợi (1971), Nhâm-Tí (1972), Tân-Dậu (1981), Nhâm-Tuất (1982) và Qúi-Hợi(1983). Tuy nhiên tối kỵ tuổi Đinh-Tị (1977), Bính-Dần (1986) và Đinh-Mão (1987). Hạp màu trắng. Hướng nhà cửa và kinh doanh tốt nhất là Tây Bắc, và chánh Tây.
“Có tài lãnh đạo chỉ huy
Cuộc đời may mắn ước gì có ngay
Tình duyên đôi lúc lá lay
Chọn người thích hợp tương lai sáng ngời”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” rất tốt cho việc xây cất nhà cửa, hay chỉnh trang cơ sở thương mãi làm cho tài lộc hưng thịnh hơn lên. Nếu có sự thay đổi chỗ ở, chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại đều tốt. Bạn nào làm việc hãng xưởng sẽ được thăng quan tấn chức. Bạn nào kinh doanh thương mãi cũng thành công trên thương trường. Gia đình hỉ sự trùng phùng, như sanh qúi tử…
NỮ: Cung Đoài, sao Thái-Am, hạn Tam-Kheo: Mẫu người thông minh tự lập, dám nói dám làm. Rất cao số nên thường gặp trở ngại về hôn nhân. Tuy nhiên biết chiều chồng, lo cho con, hiếu thuận cha mẹ đôi bên. Nếu ly hương lập nghiệp lại gặp nhiều may mắn, nhất là kinh doanh thương mãi dễ làm giàu. Rất hạp với màu trắng. Tuổi chồng lý tưởng nhất là Quý-Sửu (1973), Quý-Mão (1963), Ất-Mão (1975), Tân-Hợi ( 1971). Hướng làm ăn tốt nhất là Tây Nam, Đông Bắc, và chánh Tây.
“Hôn nhân trở ngại ban đầu
Tuổi người cao số về sau mới bền
Tài ba tự lập tiến lên
Ly hương sự nghiệp vững bền mai sau”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” rất tốt cho công cuộc xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi có thể giúp hưng thịnh thêm lên. Nếu có sự thay đổi chỗ ở chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều được thành công như ý. Bạn nào kinh doanh thương mãi, tài lộc thịnh vượng. Bạn nào làm công chức sẽ được thăng quan tấn chức. Năm nay sinh con cũng tốt. Tuy nhiên bạn nào làm việc nhiều bằng computer sẽ dễ bị đau mắt. Nếu muốn sinh con út, thì nên có thai sau tháng 6, để sinh con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.
NHÂM-DẦN 52 TUỔI (sinh từ 5/2/1962 đến 24/1/1963
Mệnh: Kim bạc Kim ( Vàng pha kim khí trắng).
NAM: Cung Khôn, sao Vân-Hớn hạn Thiên-La: Mẫu người ngay thẳng, dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Nhờ tài lãnh đạo không nề gian khổ nên sau cùng đã chiến thắng được gian nan. Số phú quí giàu sang khi xa quê hương. Tình duyên trở ngại buổi đầu, nhưng về sau lại hạnh phúc vững bền. Chọn vợ lý tưởng trong các tuổi Giáp-Dần (1974), Quý-Sửu (1973), Nhâm-Tí (1972), Tân-Hợi (1971), Canh-Tuất (1970), Tân-Sửu (1961), Canh-Tí (1960), và Nhâm-Dần (1962). Tối kỵ tuổi Giáp-Thìn (1964) và Mậu-Ngọ (1978). Hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây, và Tây Bắc.
“Tình duyên trở ngại ban đầu
Kiên tâm xây dựng về sau vững bền
Vợ chồng phúc đức tạo nên
Giàu sang phú quí chớ quên ơn Trời “
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm“Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa, cơ sở thương mãi, có thể tiến hiện được. Nếu dự tính có con năm này cũng không kỵ. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán. Cuối năm dễ bị ngộ nhận gây miệng tiếng thị phi. Công vụ dễ gặp trắc trở. Phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng, tránh bị nằm đường.
NỮ: Cung Tốn, sao Thái-Dương, hạn Địa-Võng: Mẫu người ngay thẳng, cứng rắn với nguyên tắc nên nữ nhân mà nam tính, khó bị chi phối thuyết phục. Lòng đầy tự tin nhưng hơi cao số, dễ bị chậm trễ về chồng con. Tuy nhiên nhờ thông minh, luôn được tín nhiệm, được giao phó quyền cao chức trọng. Xa xứ ly hương sẽ giàu sang về hậu vận. Tuổi chồng thích hợp là Ất-Tị (1965), Quý-Mão (1963), Nhâm-Dần (1962), Đinh-Dậu (1957), và Ất-Mùi (1955). Kỵ tuổi Giáp-Thìn (1964), Kỷ-Hợi (1959), Canh-Dần (1950). Nếu gặp 3 tuổi này, rất hiếm muộn con cái! Hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Bắc, chánh Nam, và Đông Nam.
“Thông minh đầy đủ niềm tin
Nhân duyên chậm trễ do mình mà thôi
Hy sinh thương khó cho đời
Giàu sang hậu vận gặp thời thăng hoa.”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhứt Kiết” nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi có thể thực hiện được. Lái xe đi xa phải bảo trì xe cộ kỹ lưỡng tránh bị nằm đường. Việc làm ăn có chiều hướng thành công, nhất là trong những tháng 6, 10. Tuy nhiên tránh thưa kiện đáo tụng đình sẽ hoàn toàn bất lợi, hoặc thất bại.
CANH-DẦN 64 TUỔI: (Sinh từ 17/2/1950 đến 5/2/1951)
Mệnh: Tùng Bách Mộc (Gỗ cây tùng bách).
NAM: Cung Khôn sao La-Hầu, hạn Tam-Kheo: Mẫu người tự tin, khôn ngoan, ứng phó được nghịch cảnh. Tuy nhiên nóng nảy, hành sự độc đoán, cho nên phải âm thầm lo liệu trong cô đơn. Nhờ sáng trí thông minh, có tài lãnh đạo nên rồi tiền hung hậu kiết. Tiền vận trước 30, tình duyên trắc trở, hạnh phúc gia đạo cũng như công danh đều bất như ý. Ly hương lập nghiệp lại sung túc thành tựu trong thập niên 40. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Tây và Tây Bắc.
“Người thường nóng nảy độc tài
Tự mình lo liệu đêm ngày cô đơn
Thông minh sáng suốt ai hơn
Tình duyên trắc trở chớ hờn, số thôi”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn Tài” rất tốt khi xây cất, chỉnh trang nhà cửa. Không nên bỏ qua cơ hội tốt này, vì kết qủa có thể giúp việc làm ăn thăng tiến, phát đạt hơn. Tuy nhiên không nên đầu tư chứng khoán sẽ gặp khó khăn về tài chánh. Say rượu lái xe sẽ gây thảm họa. Xấu nhứt là tháng 1 và 7. Cũng trong 2 tháng này, những việc bất như ý dễ xảy ra như bệnh hoạn hay tang chế bà con.
NỮ: Cung Khảm, sao Kế-Đô, hạn Thiên-Tinh: Rất cao số, dễ tin người, tình duyên trắc trở, nên hay chậm trễ về chồng con. Thiếu niên tân khổ, tự lực cánh sinh. Tiền vận vất vả nhưng ly hương thì sau 30 tuổi được phú quí an nhàn. Qúy bà là người an phận thủ thường trong hạnh phúc của một người tìm được sự yên ổn của tâm hồn khi đã chu toàn bổn phận. Có số nhờ chồng nếu phu quân nhằm vào tuổi Ất-Dậu (1945) hay Tân-Mão (1951). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Nam, và chánh Bắc.
“ Tánh người an phận thủ thường
Chu toàn bổn phận nhịn nhường chồng con
Tâm trung một tấm lòng son
Giữ gìn hạnh phúc vuông tròn thủy chung
Đạo đời hậu vận thung dung
Như Lai Bản Mục vui cùng hư không”
Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Tứ Tấn tài” : không nên bỏ qua cơ hội rất tốt để xây cất nhà cửa, chỉnh trang cơ sở thương mãi; có thể giúp việc làm ăn thành công, thịnh vượng hơn lên. Tình trạng tài chánh được cải thiện tốt hơn. Muốn đi xa, xuất ngoại, sẽ có cơ hội thực hiện. Tuy nhiên, tháng 3, tháng 9 trong gia đình có người bệnh hoạn, hay tang chế bà con.
Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.
Cha mẹ nào cũng thương con, luôn quan tâm đến từng giấc ngủ của con, để mong cho trẻ luôn được sức khỏe tốt, vì vậy việc quan tâm đến phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ là điều rất cần thiết, không thể bỏ qua.
1. Ánh đènPhong thủy căn phòng tốt đến đâu nhưng ánh đèn trong phòng quá chói sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ nhỏ sau này. Đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ mới sinh, ánh sáng quá chói mang đến Sát quang, sức khỏe của của bé sau này sẽ giảm sút. Sau khi đưa trẻ từ bệnh viện về nhà, các bậc cha mẹ nên sử dụng chụp đèn, điều này từ phương diện phong thủy sẽ rất có lợi cho bé.2. Vị trí giường Trong phong thủy phòng ngủ cho trẻ nhỏ, giường của trẻ nhỏ nên được đặt bên trái giường của cha mẹ do dựa theo nguyên tắc "trái Thanh Long, phải Bạch Hổ". Nếu giường trẻ đặt tại bên phải sẽ tạo nên trạng thái Bức Hổ, điều này dễ dẫn đến việc gặp ác mộng của trẻ. Cũng dựa trên nguyên tắc trên nếu gia đình để bé ngủ cùng cha mẹ, bé cũng nên nằm phía bên tay trái. 3. Đồ trang trí Đồ trang trí của phòng ngủ thường dựa vào sở thích của cha mẹ hoặc sự phù hợp với phong cách của cả ngôi nhà, tuy nhiên nếu trẻ nhỏ và cha mẹ ngủ chung phòng thì cần phải đặc biệt chú ý. Ngoài các đồ vật sắc nhọn, góc cạnh, thì ảnh hoặc tranh người cũng không nên treo, kể cả ảnh cưới của cha mẹ do có khả năng làm trẻ nhỏ giật mình, thất thần. Đồng thời, trong phòng ngủ chỉ nên đặt ít búp bê hay tượng nhỏ, nếu không sẽ khiến bé có cảm giác bực bội, lo âu.
4. Nạp khí
Nạp khí chính là con đường để khí trường hài hòa có thể vào phòng giúp trẻ phát triển khỏe mạnh, hay chính là cửa và cửa sổ. Vậy nên, trên cửa phòng ngủ, cha mẹ nên treo Hồ lô phong thủy. Ngoài ra, nên tránh việc cửa phòng ngủ đối diện phòng vệ sinh, dễ khiến bé thu nạp khí ô uế, không tốt cho sức khỏe. Cửa sổ và ban công là nơi quan trọng để nạp khí, vậy nên không nên để bé ngủ tại căn phòng không có cửa sổ. Nếu bên ngoài cửa sổ là ống khói, cột điện, công trường, bãi rác, bãi đậu xe, ngã tư…sẽ mang sát khí đến cho trẻ nhỏ, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, các bậc cha mẹ nên tránh căn phòng đó. Nếu vô tình phạm phải lỗi phong thủy đó, nên treo vật phẩm phong thủy cầu bình an giải sát khí, sau đó mới chuyên gia đến điều chỉnh, phá giải tai họa ngầm phong thủy.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất