Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Thư tịch về khoa Tử-vi

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Xem tiếp
Thư tịch về khoa Tử-vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

I.- Thư tịch về khoa Tử-vi
    Khoa Tử-vi bắt nguồn từ thời nào ? Ai là người khai sáng ra nó, cho đến nay sử sách không ghi lại. Các Tử-vi gia thường chỉ chú ý đến việc giải đoán Tử-vi hơn là đi tìm hiểu lịch sử. Bởi vậy cho đến lúc này, lịch sử khoa này vần còn lờ mờ. Thậm chí có người còn lầm lẫn khoa Tử-vi với những chuyện truyền kỳ chí quái ma trâu đầu rắn đầy hoang đường của tiểu thuyết Phong- thần hoặc Tây du ký và nói rằng: Khoa Tử-vi do một ông tiên tên Trần Đoàn đặt ra, và Trần Đoàn lão tổ là một Tiên ông trường sinh bất lão, có tài hô phong hoán vũ, phép tắc nhiệm mầu. Nhiều vị còn thờ Trần Đoàn lão tổ. Khi xem số cho thân chủ còn thắp hương khấn vái, để lão tổ linh ứng cho một quẻ, thật là nhảm nhí và vô lý hết sức.
    Kể từ khi khoa Tử-vi được đắc dụng vào niên hiệu Càn-đức nguyên niên, đời vua Thái-tổ nhà Tống (863), cho đến nay trên một ngàn năm chưa có sử gia nào chép về lịch sử cả. Trên đường nghiên cứu, chúng tôi tìm được một số thư tịch rải rác sau đây, biên tập sơ lược về khoa này. Tôn trọng đúng nguyên tắc sử gia Đông phương, những gì nghi ngờ thì để nguyên, mà cổ nhân gọi là nghi dĩ truyền nghi.

1.- Tử-vi chính nghĩa
    Bộ này do Hy Di tiên sinh truyền cho Tống thái-tổ là Triệu Khuông Dẫn. Bản chúng tôi có là bản chép tay của Hoa-yên tự. Bản này được tàng trữ tại Quốc sử quán triều Nguyên, năm 1955 trong một cuộc chính biến lật đổ Quốc trưởng Bảo-Đại chúng tôi sưu tầm được.

2.- Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh
    Chúng tôi có hai bản. Bản chép tay gia truyền, cũng chép từ chính bản của Hoa-yên tự.
Một bản nữa của Cẩm-chướng thư cục Thượng-Hải ấn hành năm 1921. Hai bản không khác nhau là bao. Bởi gốc của bộ sách này là bộ Tử-vi chính nghĩa. Sau khi được Hy Di tiên sinh truyền cho, Triệu Khuông Dẫn và con cháu nhà Tống nghiên cứu rộng ra mới đặt cho một tên mới là Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. Có nghĩa là họ Triệu giảng giải rõ ràng về bộ Tử-vi kinh. Bộ này được Hoàng Bính truyền sang Việt Nam vào niên hiệu Nguyên phong thứ 7 đời vua Trần Thái Tông (1257), Hoa-yên tự chép lại và lưu truyền tới nay.

3.- Đông-a di sự
    Bộ này không phải là bộ sách nghiên cứu về Tử-vi, mà là bộ sách chép các học thuật đời Trần, trong đó có phần chép về Tử-vi. Bộ sách do ba người liên tiếp chép, đó là Huệ Túc phu nhân vợ của Trần Thái Tông; Đoàn Nhữ Hài, một vị Tể tướng đời Trần, học trò của Huệ Túc; Trần Nguyên Đán, một vị bác học cuối đời Trần.
Bản chúng tôi có là bản do Trần Nguyên Đán khắc bản mộc năm 1388.

4.- Tử-vi đại toàn
    Bộ này do các văn thần nhà Thanh nghiên cứu, tổng hợp hết các sách cổ kim về Tử-vi, chép lại. Đây không phải là bộ biên tập, nghiên cứu mà chỉ là bộ sao chép lại mà thôi. Bản chúng tôi có là bản sao, đề rằng do Cẩm-Chướng thư cục Thượng-hải xuất bản năm 1921.

5.- Tử-vi đẩu số toàn thư
    Do La Hồng Tiên biên soạn rất giản lược, nhưng giống bộ Tử-vi chính nghĩa. Có thể nói đây là bộ Tử-vi chính nghĩa yếu lược. Bộ này do Cẩm Chướng thư cục xuất bản năm 1921 tại Thượng-hải. Sau này ông Vũ Tài Lục có dịch nhưng dịch một phần rất ngắn, và không chú giải. La Hồng Tiên sống vào đời Minh.

Trên đây là 5 bộ Tử-vi được coi là chính thư hay do chính phái biên tập. Ngoài ra còn một vài bộ dưới đây bị coi là tạp thư, tá phái nhưng chúng tôi vẫn nghiên cứu đầy đủ.

6.- Tử-vi Âm-dương chính nghĩa
    Bộ này do Lã Ngọc Thiềm và các tử-vi gia thuộc Bắc phái biên tập, nên thường thêm chữ Bắc-tông để phân biệt với Nam-tông. Bản chúng tôi có là bản chép tay.

7.- Tử-vi Âm-dương chính nghĩa
    Do Ma-y biên soạn vào đời Tống, sau được các Tử-vi gia thuộc Nam-phái bổ túc sửa đổi, nên thường thêm chữ Nam-tông để phân biệt với Bắc-tông. Bộ này khắc bản in vào đời Thanh triều Khang-Hy, nhưng không ghi rõ năm nào.

8.- Tử-vi thiển thuyết
    Bộ tổng luận về Tử-vi do Lưu Bá Ôn, một đại thần khai quốc nhà Minh biên soạn. Bản chuúng tôi có là bản khắc in vào đời Thanh triều Khang Hy, nhưng không ghi rõ năm nào.

9.- Lịch số tử-vi toàn thư
    Bộ này do Hứa Quang Hy đời Minh biên soạn. Bản chúng tôi có là bản chép tay. Ngoài ra chúng tôi sưu tầm được khoảng trên hai mươi bộ sách khác, nhưng tựu trung mô phỏng các bộ sách trên đây cả nên không bàn tới.

  1. Thư tịch về khoa Tử Vi
  2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
  3. Khoa Tử Vi đời Tống
  4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
  5. Tử Vi vào Việt Nam
  6. Khoa Tử Vi đời Trần
  7. Khoa Tử Vi đời sau
  8. Dị biệt chính, Nam phái
  9. Kết luận


  10. Quay về | Trở về đầu | Xem tiếp



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thư tịch về khoa Tử-vi

Luận đoán tiểu hạn trên lá số tử vi - Phần 2

Tiểu hạn trên lá số tử vi của mội người cứ 12 năm lại trùng nhau một lần, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu xem làm cách nào tìm ra điểm khác biệt giữa sự trùng lập này nhé! (Phần 2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Luận đoán tiểu hạn trên lá số tử vi - Phần 2

Luận đoán tiểu hạn trên lá số tử vi - Phần 2

 

Ảnh hưởng của gốc đại hạn tới tiểu hạn như thế nào? (Phần 2)

2. Các sao Lưu niên (hoặc Phi tinh)

Nếu muốn giải đoán tinh vi về tiểu hạn hơn, ta cần căn cứ vào các sao lưu niên mà một số nhà tử vi quen gọi là phi tinh là các sao không thể an sẵn trên lá số nhưng cứ mỗi năm ta cần ghi thêm bằng bút chì trên lá số nếu muốn đoán kỹ lưỡng thêm, để biết những điểm dị biệt giữa các tiểu hạn trùng nhau.

Các phi tinh thông thường là Lộc tồn, Kình Dương,  Đà La, Thái tuế, Thiên Mã, Thiên Khốc, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khôi, Thiên Việt mà cách an có ghi trong nhiều sách tử vi nên tôi không nêu ra đây nữa. Nhiều nhà tử vi khi an Lưu Thái Tuế hoặc Lưu Lộc Tồn thường an luôn cả các sao khác thuộc chùm đó, nhưng theo tôi nghĩ thì chỉ cần xét đến các phi tinh nêu trên, cũng đủ vì những sao còn lại không giúp được nhiều cho việc giải đoán mà còn có khi làm ta phân vân không biết đi tới kết luận nào.

Ngoài ra, trong các phi tinh kể trên, Lưu Thái Tuế cần được chú trong nhiều nhất vì nó luôn luôn tọa thủ tại cung của năm nhập hạn (tức là địa bàn, còn lưu tiểu hạn là thiên bàn).

Tôi lại cũng xin nêu ra nhiều thí dụ điển hình dưới đây chứ không thể nêu ra nguyên tắc giải đoán được:

-Khi đại hạn có Cự môn hãm địa hội Phục binh, Tuế phá, tiểu hạn lại có Cô Quả, Tang Hổ, Kình Đà, Hỏa Linh, Thái tuế mà Lưu Thái tuế lại gặp Thiên Hình, Hóa Kỵ, Kình hoặc Đà lưu niên (nhất là Kình hãm địa) thời ta có thể quyết đoán là đương số bị tù tội hoặc bị đánh đập khá nặng, nếu không cũng phải đau yếu nguy nạn. Nếu lưu Thái tuế không gặp Kình hoặc Đà, tức là Lưu Lộc tồn chạy sang cung khác, thì bao nhiêu sự nguy nan cũng chỉ còn một phút. Do đó quý bạn thấy mỗi 12 năm là Lộc tồn lưu niên lại thay đổi vị trí, kéo theo Kình Đà luôn chứ không thể nào cho rằng địa bàn nhập hạn luôn luôn giống nhau mỗi 12 năm.

-Nếu đại hạn có Hóa Khoa, Quang Quý (Sửu Mùi), tiểu hạn có Xương Khúc, Khôi Việt mà Lưu Thái Tuế lại gặp phi tinh Khôi Việt Hồng Hỉ thì thuận lợi nhất về công danh, đi thi chắc chắn phải đậu, nhất là khi thấy Mệnh có Thiên Lương, Thiên Tướng đắc địa hội Tả Hữu, Quyền Lộc nữa. Nhiều khi tiểu hạn hơi xấu mà Lưu Thái Tuế hội nhiều sao tốt đẹp vẫn được hanh thông, tuy vẫn có trở ngại lúc đầu, tỷ dụ như thi đậu kỳ nhì, hoặc buôn bán thua lỗ đầu năm nhưng giữa năm trở đi lại phát tài.

-Về phương diện Lưu Thiên Mã, nhiều nhà Tử vi cho rằng những người nào Mệnh, hoặc Thiên Di hay “Thân” cư tại Dần Thân Tỵ Hợi hay phải di chuyển, xuất dương, xuất xứ vì Thiên Mã cố định luôn luôn ở 4 cung đó và cả Thiên Mã lưu niên cũng vậy. Còn đối với những người khác, nhất là những người có cách làm việc cố định không bao giờ quý bạn nên đoán là họ sẽ thay đổi công việc mỗi khi gặp Lưu Thiên Mã vì cứ vài năm thế nào chẳng gặp trực tiếp hoặc gián tiếp Lưu Thiên Mã hoặc Thiên Mã cố định. Đối với những người này phải có thật nhiều yếu tố thay đổi mới có thể đoán được, tỷ dụ như đại hạn có Thiên Đồng, Thiên không rồi tiểu hạn có Mã cố định gặp Lưu Thiên Mã, mà lại phải chiếu về cung thuộc về mình, tức là Mệnh, Quan lộc, Tài bạch, Thiên Di, “Thân” chứ nếu chiếu về Phụ Mẫu, Tử tức thì cũng vẫn chưa thể quả quyết được. Ngoài ra, còn cần 2 đại hạn liền nhau thật khác nhau, để cho có sự thay đổi mạnh mẽ mỗi khi chuyển đại hạn.

Sau hết, ngoài các phi tinh kể trên, ta còn cần chú trọng đến Lưu Tuần, Triệt mà ít sách đề cập tới mặc dầu rất quan trọng (Cách an 2 sao lưu động này cũng như cách thông thường, tỷ dụ như năm nay Giáp Dần thì Tuần ở Tý Sửu và Triệt ở Thân Dậu). Thực thế, nhiều khi Lưu Tuần, Triệt còn ảnh hưởng mạnh mẽ hơn Tuần Triệt cố định, nếu luận đoán về tiểu hạn. Tỷ dụ như cung nhập hạn có Tử Phủ cư Thân hội nhiều sao tốt đẹp và hợp với đại hạn cũng như Mệnh nhưng vẫn không thấy hanh thông, đó cũng chỉ vì Lưu Tuần hoặc Lưu Triệt đã án ngữ làm mất gần hết cách tốt đẹp đó đi. Nhưng gặp trường hợp hạn quá xấu nếu may mắn được Lưu Tuần, Triệt án ngữ thời vẫn có thể chắc qua khỏi được. Như vậy quý bạn thấy mỗi tiểu hạn trùng nhau đã có khá nhiều yếu tố khác nhau.

3. Thời gian

Sau hết, ta cần phải lưu ý đến yếu tố thời gian tuy không có tính cách lý thuyết về tử vi, nhưng nhiều khi ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc giải đoán. Thí dụ như:

-Hai sao Tả Hữu thường thường chỉ ứng nghiệm trong thời đương số còn trẻ vì có trẻ mới hăng say hoạt động cho phù hợp với đặc tính của Tả Hữu, chứ khi đã lớn tuổi dù có muốn tích cực chăng nữa Tả Hữu cũng “già nua” rồi khó lòng giúp cho đương số được phong độ như trước. Về sao Đào Hồng cũng tương tự như vậy, nếu nằm trong những đại hạn ta còn thanh niên mới đúng môi trường chứ từ 60 tuổi trở đi 2 sao đó không những không giúp ích gì lại còn làm cho ta yếu đuối thêm và có khi đưa đến tận số. Còn sao Triệt thì từ năm 30 tuổi trở đi cũng bớt hẳn ảnh hưởng đi, nếu cung nhập hạn từ 30 năm trở về trước đang tốt trở thành xấu vì Triệt án ngữ thì từ 30 năm trở về sau phải đoán là tốt nếu gặp sao đó nữa.

-Về các hung tinh (như Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp) nói chung thường hay hoạt động sớm nếu ở Đại hạn thì hay ứng vào mấy năm đầu và ở tiểu hạn ứng vào đầu năm, nhất là khi gặp chính tinh có ảnh hưởng sớm (tức là bắc đẩu tinh). Hoặc có khi trong đại hạn còn trẻ bị hung tinh này quấy phá nhưng đến đại hạn cách đó mấy chục năm sau cũng gặp hung tinh đó sự phá hoại lại quá nhẹ.

Qua các thí dụ trên, quý bạn hẳn nhận thấy việc đặt ra nguyên tắc hoặc hệ thống để giải đoán tiểu hạn rất khó thực hiện vì có quá nhiều yếu tố kết hợp không giống nhau và để kết luận tôi chỉ xin nhắc quý bạn là sự tốt xấu của tiểu hạn không phải hoàn toàn do đặc tính tốt xấu của các sao nhập hạn mà do sự tương hợp giữa tiểu hạn, đại hạn và Mệnh Thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận đoán tiểu hạn trên lá số tử vi - Phần 2

Muốn may mắn vượt qua tháng cô hồn, xem 3 mẹo phong thủy mang bình an

Tháng 7 âm lịch hàng năm còn gọi là “tháng cô hồn”. Xác suất tai nạn và rủi ro khá cao nên bạn hãy cẩn thận trong mọi tình huống.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng tháng bảy âm lịch (dương lịch là tháng tám) thường là một tháng kém may mắn nhất trong năm. Trong tháng cô hồn, không hề thích hợp cho những công việc trọng đại như cải tạo nhà cửa, đầu tư, mua tài sản, bay ra nước ngoài,.... Đây là lý do tại sao các doanh nghiệp thường đưa ra những khuyến mại hời cho khách hàng trong tháng này.

Bên cạnh những kiêng kị cần tránh trong tháng cô hồn, mọi người có thể 'duy tâm' một chút với những mẹo phong thủy hút vận may, cũng như bảo vệ bản thân bạn.

1. Bày lễ cúng xá tội vong nhân

Theo kinh Phật, Phật tổ đã chỉ dạy cho đồ đệ thân tín giải cứu mẹ ông khỏi kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) bằng cách vận động chư tăng dâng lễ cúng. Theo lời Phật, mẹ của vị đồ đệ được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sinh muốn báo hiếu cho cha mẹ thì làm theo cách này. Từ đó ngày lễ Vu Lan ra đời. Ngoài ra, ở nhiều nơi, dân gian hiểu rộng ra thành lễ cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái.

Thông thường, mọi người hay cúng thịt lợn, thịt gà, hoa quả, bánh kẹo, rượu bia,...Các vật phẩm sẽ được bày trên mâm để trước cửa nhà hoặc văn phòng để các vong nhân không vào bên trong. 

2. Bày vật phẩm phong thủy

Các vị thần Hộ pháp, theo truyền thuyết, có thể chiến thắng các thế lực tà ác. Do vậy, những cửa hàng, công ty, thường thích thờ cúng tượng thần Hộ pháp để bảo vệ cơ nghiệp của mình.


Đối với cá nhân, các bạn có thể đeo một chiếc vòng mặt thần Hộ pháp hoặc bùa hộ mệnh để bảo vệ mình trong tháng này.

3. Bảo vệ cửa trước

Cửa trước luôn là nơi quan trọng nhất được các chuyên gia phong thủy chú ý. Trong tháng này, bạn có thể bật một chiếc đèn nhỏ để thắp sáng cửa nhà suốt dêm. Nếu có đủ không gian, hãy đặt một cặp chó đá để trấn yểm.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn may mắn vượt qua tháng cô hồn, xem 3 mẹo phong thủy mang bình an

Chuyện tình nàng Lộng Ngọc

Không chỉ nói lên hiện thực cuộc sống, chuyện tình về nàng Lộng Ngọc còn mang đến một bức tranh thế giới dân gian cổ xưa làm say đắm lòng người.
Chuyện tình nàng Lộng Ngọc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong dòng sông dài lịch sử, vô số câu chuyện đã được lưu giữ lại, truyền lại từ đời đời. Phảng phất đâu đó là hiện thực cuộc sống, những câu chuyện này mang đến một bức tranh thế giới cổ xưa làm say đắm lòng người.

Thời Xuân Thu, Tần Mục Công nước Tần có một cô con gái; lúc cô bé mới được sinh ra, có người đem dâng Tần Mục Công một viên đá ngọc bích, ông sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc xanh biếc trông rất đẹp.

Ðến hôm con gái Mục Công tròn 1 tuổi, trong cung bày bàn tiệc tổ chức ngày lễ “chọn đồ vật đoán tương lai” cho cô bé. Đây là một tập tục của người xưa, đến ngày tròn 1 tuổi, cha mẹ sẽ bày lên một cái đĩa bao gồm các đồ vật để con tự do lựa chọn theo sở thích của mình. Lúc này, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.

Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại sẵn tính thông minh trời ban, rất có tài thổi sáo, không cần học ai cả, mà tự thành âm điệu, hơn nữa nàng không cứng nhắc theo chỉ dạy của nhạc sỹ, mà tự thả hồn theo âm nhạc, tiếng sáo nghe rất tuyệt diệu. Mục công sai thợ làm một cái sáo bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi cái sáo ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.

Mục Công rất yêu quý con gái, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là “Phượng lâu”, trước lầu có xây một cái đài cao gọi là “Phượng đài”. Năm Lộng Ngọc mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kén rễ cho nàng, Lộng Ngọc nói với cha rằng:

“Con muốn tìm người có tài thổi sáo và có thể họa xướng cùng với con, khi đó con sẵn lòng lấy người ấy làm chồng, còn không thì con cũng chẳng thiết tha gì”.

Mục Công sai người đi tìm nhưng chẳng được một người nào vừa ý. Một hôm, Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, nàng gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi lấy cái sáo bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sáo véo von vọng lên vòm trời, gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không khỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, cố ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn vang vọng không dứt.

Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nửa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sáo để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trai trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:

“Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy!”

Chàng trai trẻ tuổi ấy nói xong, lấy tay cởi bỏ ống ngọc tiêu đeo bên hông xuống, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.

Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm hồn, hỏi rằng: “Ca khúc này là gì?”

Chàng trai trẻ tuổi ấy nói: “Đây là khúc ‘Họa Sơn Ngâm’ đó!”

Lộng Ngọc lại hỏi: “Ca khúc này có học đưọc không?”

Chàng trai ấy nói: “Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được”.

Chàng trai trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt, cầm lấy tay của Lộng Ngọc; Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục Công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Người nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:

“Hôm rằm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không rõ là người ở đâu”.

Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:

“Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?”

Mạnh Minh nói:

“Tôi là đại thần nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi sáo, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công sai tôi đến đón!”

Tiêu Sử nói: “Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết đôi chút về nhạc điệu mà thôi, tôi đâu dám vâng mệnh”.

Mạnh Minh nói: “Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công”.

Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục Công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục Công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng: “Chúng thần ở nơi dân giã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho”.

Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh tú, không phải là người thường, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng: “Ta nghe nhà ngươi có tài thổi tiêu, chắc là cũng tài thổi cả sáo nữa!”

Tiêu Sử nói: “Thần chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi sáo”.

Mục công nói: “Ta định tìm một người có tài thổi sáo, nếu chỉ biết thổi tiêu thì không sánh đôi với con ta được!”

Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử đi ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục Công rằng:

“Tiêu với sáo cũng là một loài, người ta đã có tài thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài”.

Mục Công lấy làm có lý, bèn bảo Tiêu Sử thổi tiêu. Tiêu Sử mới dạo một khúc thì thấy có gió mát hây hây; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít; một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục Công rất lấy làm hài lòng.

đôi hạc bay trong hoàng hôn
Khi thổi đến khúc thứ ba thì chợt xuất hiện một đôi hạc trắng múa lượn trên không,

truyền thuyết, tiêu sử, tiêu, tiếng sáo, mục công, lộng ngọc, chuyện tình,

Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng: “Người ấy thật xứng làm chồng ta!”

Mục Công lại hỏi Tiêu Sử rằng: “Nhà ngươi biết sáo và tiêu làm ra từ đời nào không?”

Mục Công nói: “Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguồn gốc cho ta nghe”.

Tiêu Sử tâu rằng:

“Kỹ năng của thần là ở ống tiêu, vậy thần xin kể nguyên lai của ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu.

Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa”.

Mục Công lại hỏi: “Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?”

Tiêu Sử nói:

“Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là dẫn đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác!”

Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục Công càng thấy bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:

“Ta có một người con gái, tên gọi Lộng Ngọc, cũng có biết âm nhạc, không muốn gã cho người ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên”.

Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

“Thần vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý!”

Mục Công nói:

“Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi sáo thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi sáo nhiều lắm. Vả lại con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ”.

Tiêu Sử lạy tạ. Mục Công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:

“Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn”.

Tần Mục Công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục Công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được thần thái của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm.

Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau chừng được nửa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.

Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:

“Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống làm họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi”.

Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng: “Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng!”

Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục Công. Mục Công thở dài mà than rằng:

“Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vị nữa !”

Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, công tôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục Công đều cho làm quan đại phu.

Một hôm, Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón. Mục Công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cảm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục Công đã đắc đạo thành tiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tình nàng Lộng Ngọc

Mơ thấy cắt tóc –

Con người ai cũng nằm mơ khi ngủ, thường trải qua 1-4 giấc mơ mỗi đêm. Mơ là hiện tượng do những gì trong tâm thức mình hướng đến. Khi ngủ bộ não sẽ ngừng hoạt động và sẽ dẫn bạn đến một thế giới, thế giới của những giấc mơ tiềm thức kể cả vô thức. Đ
Mơ thấy cắt tóc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cắt tóc –

Mơ thấy lừa: Nỗ lực đi lên –

Lừa cả ngày lao động chăm chỉ, tượng trưng cho con người tiến bước đi lên bằng chính nỗ lực của mình. Mơ thấy lừa, dựa vào sự cô' gắng của mình, dần dà thoát khỏi cảnh khó; mơ thấy hình ảnh lừa đang thồ nặng, cố nghĩa là nỗ lực của bản thân sẽ thu đư
Mơ thấy lừa: Nỗ lực đi lên –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy lừa: Nỗ lực đi lên –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Kiêng kỵ vị trí đặt giường –

Chúng ta đều biết, trong cuộc đời con người chúng ta 1/3 thời gian là ở trên giường ngủ vì thế vị trí đặt giường chính xác có liên quan mật thiết đến sức khỏe và vận thế của chúng ta. do dó vị trí kê giường tuyệt đối không được coi thường. Phương phá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta đều biết, trong cuộc đời con người chúng ta 1/3 thời gian là ở trên giường ngủ vì thế vị trí đặt giường chính xác có liên quan mật thiết đến sức khỏe và vận thế của chúng ta. do dó vị trí kê giường tuyệt đối không được coi thường.

phong-ngu1

Phương pháp đặt chính xác đại khái có vài điểm sau đây:

Đầu giường phải dựa tường.Đầu giường không được có cửa sổ.

Phía trên đầu giường không được đặt máy điều hòa hay máy làm mát không khí.

Đầu giường không được   treo khung ảnh, khung tranh. Đầu giường không được áp sát cửa, Đầu giường không được bị dầm ngang ép. Cửa không được xông thẳng giường (Vào cửa không được nhìn thấy giường ngay). Gương không được chiếu vào giường. Phía bên trên  bề mặt giường không được có đèn. Cửa nhà vệ sinh không   được   xông thẳng với giường. Đầu giường  không được quay vào tường nhà vệ sinh hay tường phòng bếp. Dưới giường không được hướng ra cửa sổ. Đệm giường không được trực tiếp đặt trên đất. Đầu giường nhất định phải có thành đầu giường hoặc tủ đầu giường. Phía sau đầu giường nhất định không được là cầu thang, cầu thang máy cũng không được. Phía trên mặt giường không được có quạt trần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ vị trí đặt giường –

Đoán tài vận thông qua nốt ruồi ở nách

Có những nốt ruồi sinh ra mang lại điềm xui xẻo cho chủ nhân, có nốt ruồi lại tố cáo bản tính đào hoa, không chung tình họ. Vậy nốt ruồi trong nách nói lên điều gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những nốt ruồi sinh ra mang lại điềm xui xẻo cho chủ nhân, có nốt ruồi lại tố cáo bản tính đào hoa, không chung tình họ. Nhưng bên cạnh đó có những nốt ruồi mà chỉ cần nhìn vào người ta đã có thể đoán được hậu vận của người ấy. Đó chính là nốt ruồi ở nách. Vậy nốt ruồi trong nách nói lên điều gì? Cùng Phong thủy số tìm câu giải đáp trong bài viết dưới đây nhé.

Đoán tài vận thông qua nốt ruồi ở nách

 

Theo Nhân tướng học nghiên cứu và tổng hợp, những người có nốt ruồi ở nách thường là những người mà có thể không kiếm được nhiều tiền như nhiều người khác nhưng họ lại là người gặp may khi rất hay được trao tay các cơ hội vàng hiếm có và bất chợt. Từ đó mà họ có thể phát triển sự nghiệp, danh vọng của mình.

Khi có trong tay các cơ hội đó, họ cũng sẽ khôn ngoan nắm bắt và không bao giờ để nó vuột ra khỏi tầm tay. Họ sẽ tìm cách để tận dụng triệt để và phát triển nó cho đến khi thành công, mà phải là thành công rực rỡ.

Họ cũng là người giỏi quản lý tiền bạc, biến nó trở thành những khoản chi tiêu hợp lý và có ích.

Ý nghĩa của nốt ruồi trong nách này có vẻ hợp lý với nam giới là nhiều. Đối với nữ giới, nốt ruồi ở nách được biết đến nhiều hơn với ý nghĩa là người có tài vận tốt, đào hoa mà đa phần là các mối đào hoa tốt đẹp.

Theo một luồng ý kiến khác, người ta cho rằng nốt ruồi ở nách chính là nốt ruồi Kim Quỹ. Với nốt ruồi trong nách mà mọc lệch về phía bầu ngực thì nó được coi là nốt ruồi Kim Quỹ - nốt ruồi chỉ tài vận và tiền bạch.

Có câu nói này là vì ở thời xa xưa, ở các tiệm cầm đồ hay các gia đình giàu có, quyền quý, họ thường cất giữ tiền của trong một chiếc túi vải và nhét nó vào nách cho kín đáo và đỡ bị trộm cắp, có thể phòng thân bất cứ đâu. Cho đến nay, ý nghĩa của nó trở thành nốt ruồi chỉ tài vận, của cải giàu có. Nhiều người ví rằng, có nốt ruồi ở nách không khác gì có mọt chiếc ví dày cộp ở trong người vậy.

Về tướng số của những người có nốt ruồi trong nách thì đa phần họ được sinh trưởng trong gia đình giàu có, quyền quý. Về sau họ có cuộc sống sung sướng từ của cải của gia đình để lại và từ những thành quả từ điều kiện gia đình mang lại. Hầu như họ không phải lo lắng đến chuyện tiền nong, tài chính.

.Như vậy, nhìn chung những người có nốt ruồi ở nách thường có hậu vận tốt đẹp, nhất là về tài lộc, tiền bạc. Từ đó mà các vấn đề về tình duyên, cuộc sống, nghề nghiệp của họ cũng phần nào trở nên tốt đẹp hơn. Nếu bạn là cả nam và nữ, đang có nốt ruồi trong nách thì chúc mừng bạn đang sở hữu một nốt ruồi kim tiền, tương lai bạn sẽ có cuộc sống giàu sang, phú quý và sung sướng!

Tìm kiếm liên quannốt ruồi ở nách, nốt ruồi ở nách phải phụ nữ, nốt ruồi ở nách phải, nốt ruồi ở nách trái phụ nữ, nốt ruồi ở nách trái, nốt ruồi trong nách

Những bài viết liên quan:

Nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì?

+ Nốt ruồi ở vùng kín nói lên điều gì?

Nốt ruồi tài lộc là gì? Nốt ruồi tài lộc ở vị trí nào?

+ Xem bói nốt ruồi đoán vận mệnh tương lai của bạn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tài vận thông qua nốt ruồi ở nách

Tuần - Triết và những dấu hỏi

Sao Tuần Không và Sao Triệt Lộ (Tuần và Triệt) là hai sao đặc biệt quan trọng trong lá số tử vi, nó ảnh hưởng tới cung, chi phối các sao, thay đổi cường độ mạnh yếu, tốt xấu của mỗi sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến)

Trong Tử Vi, khi luận bàn về ảnh hưởng của các sao, người luận giải thường lúng túng khi gặp 2 sao Tuần - Triệt bởi lẽ quan điểm của cổ nhân về 2 sao này bất nhất về ngũ hành và cường độ, thời gian ảnh hưởng nên còn rất nhiều tranh cãi và nghi vấn khi luận giải lá số. Chính vì sự bất nhất đó mà người coi số phải lưỡng lự rất nhiều khi đưa ra lời kết luận trong nhiều trường hợp.

Dù sao thì đây cũng là hai sao đặc biệt quan trọng trong các sao của Tử Vi vì Triệt - Tuần không chỉ chi phối các cung mà còn chi phối các sao, biến tốt thành tương đối xấu, xấu thành bớt xấu... nên Triệt - Tuần cần được cân nhắc cẩn trọng khi đưa ra lời luận giải.

sao tuần triệt trong tử vi

Có 4 quan điểm về ngũ hành của Triệt - Tuần:

  • Quan điểm thứ nhất cho rằng: Triệt hành Kim (đới Thủy), Tuần hành Hỏa (đới Mộc)
  • Quan điểm thứ hai cho rằng: Triệt - Tuần không mang hành cố định mà phụ thuộc vào hành của cung mà Triệt - Tuần án ngữ.
  • Quan điểm thứ ba cho rằng: Triệt hành Kim, Tuần hành Thủy.
  • Quan điểm thứ tư cho rằng: Triệt hành Hỏa, Tuần hành Thổ.

Trong 4 quan điểm trên thì phần nhiều người xem số chọn quan điểm thứ nhất cho Triệt hành Kim, Tuần hành Hỏa, sau đó là quan điểm thứ hai cho rằng Triệt - Tuần mang hành của cung án ngữ, còn quan điểm thứ ba, thứ tư rất ít người chọn (nhất là quan điểm thứ tư).

Trong phạm vi bài viết này, người viết trình bày sơ lược một số điểm về Triệt - Tuần mà người học Tử Vi cần lưu ý.

1. ẢNH HƯỞNG CHUNG CỦA TUẦN - TRỆT

Tuần, Triệt án ngữ hai cung và có cường độ ảnh hưởng lên hai cung khác nhau theo nguyên tắc được ước lượng như sau:

Người Dương Nam, Dương Nữ thì cung Dương bị ảnh hưởng hơn cung Âm, cụ thể cung Dương chịu 70%, cung Âm chịu 30% cường độ.

Người Âm Nam, Âm Nữ thì cung Âm bị ảnh hưởng nhiều hơn cung Dương, cụ thể ước lượng cung Âm chịu 70%, cung Dương chịu 30% cường độ.

Khi bị ảnh hưởng mạnh thì ta thường nói bị đương đầu, bị ảnh hưởng yếu thì ta nói bị chận (chặn) đuôi.

Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời gian 30 năm đầu, tùy theo Cục mà có khác biệt (như Thủy nhị cục thì 32 năm đầu), sau đó thì từ từ yếu đi nhưng không thể coì là không có ảnh hưởng. Tại các cung Kim, Triệt có tác động mạnh nhất.

Tuần thì ngược lại, ảnh hưởng không đáng kể vào khoảng 30 năm đầu, nhưng sau 30 tuổi sẽ mạnh dần lên nhưng không ảnh hưởng mạnh mẽ bằng ảnh hưởng của Triệt khi Triệt ở 30 năm đầu. Tại các cung Hỏa, Tuần có tác động mạnh nhất.

Cường độ ảnh hưởng của Tuần Triệt tạm sắp xếp theo thời gian như sau:

- Dưới khoảng 30 tuổi:

  1. Triệt đương đầu: Mạnh nhất
  2. Triệt chặn đuôi: Mạnh nhì
  3. Tuần đương đầu: Yếu nhì
  4. Tuần chặn đuôi: Yếu nhất

- Trên khoảng 30 tuổi:

  1. Tuần đương đầu: Mạnh nhất
  2. Tuần chặn đuôi: Mạnh nhì
  3. Triệt đương đầu: Yếu nhì
  4. Triệt chặn đuôi: Yếu nhất

Trong từng trường hợp trên cũng có biến động riêng, bởi quá trình thay đổi của Tuần Triệt là quá trình biến đổi: Tuần thì từ từ mạnh lên, Triệt thì từ từ giảm xuống. Như vậy trong trường hợp nếu Tuần chặn đuôi thì nhẹ nhất vào lúc 1 tuổi và mạnh nhất vào khoảng 30 tuổi, còn Triệt đương đầu thì mạnh nhất vào lúc 1 tuổi và giảm dần ảnh hưởng theo thời gian, đến ngoài 30 tuổi thì ảnh hưởng của Triệt giảm đáng kể.

2. ẢNH HƯỞNG CỦA TUẦN - TRIỆT VỚI CÁC CUNG

Thông thường khi đóng tại cung nào thì Tuần - Triệt sẽ gây trục trặc cho cung đó bất kể là đương đầu hay chặn đuôi, trừ khi đóng tại cung Vô chính Diệu trong trường hợp không có hung tinh đắc địa hoặc tại cung Tật Ách thì lại tốt. Chưa cần coi các sao trong cung, chỉ cần căn cứ vào sự án ngữ của Triệt - Tuần người coi số cũng có thể nêu sơ lược được vài điểm trong cuộc sống của đương số.

MỆNH: Tuần - Triệt đóng tại Mệnh thì thuở nhỏ cực khổ gian nan (nhưng nếu gặp chính tinh lạc hãm thì sẽ đỡ hơn), Tuần - Triệt đóng tại Thân (cung an Thân) thì khi lập nghiệp sẽ gặp khó khăn ban đầu, nhưng nếu chặn đuôi thì đỡ hơn. Thân Mệnh đồng cung gặp Tuần - Triệt đương đầu thì nếu trước 30 tuổi đã có sự nghiệp thì tất sự nghiệp đó bị gãy đổ rồi mới bắt đầu lại trong giai đoạn lập thân.

Nhìn chung khi Tuần - Triệt đóng tại Mệnh (Thân) thì đương số là người chật vật trong cuộc sống (hoàn cảnh sống không may mắn, công lao được hưởng không xứng đáng...), hoặc lúc sinh ra mình cha mẹ thường làm ăn vất vả, nghèo hèn (nhất là lá số có Tuần - Triệt liên cung tại Mệnh - Phụ Mẫu). Đồng thời đây cũng là mẫu người lười biếng, kém thông minh, yếm thế, thiếu tự tin, không có ý chí vươn lên trong cuộc sống... nếu không được nhiều cát tinh, văn tinh hội chiếu về Mệnh (Thân) hóa giải.

QUAN: Tuần Triệt đóng tại Quan thì gây trục trặc cho quan trường, nghề nghiệp như lận đận, hay phải thay đổi, không bền vững, thăng giáng thất thường... Tùy theo bị chặn đuôi hay đương đầu và gặp Tuần hay Triệt mà lận đận nhiều hay ít.

Vì quan trường có ý nghĩa nổi bật trong giai đoạn lập thân nên cần chú ý phân biệt giữa Tuần và Triệt vì Tuần có tác dụng mạnh hơn về hậu vận còn Triệt chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ giai đoạn trước 30 tuổi nên khi cung Quan gặp Triệt sẽ đỡ hơn gặp Tuần khá nhiều.

TÀI BẠCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Tài thì tiền bạc tụ tán, lúc có lúc không (trừ khi vào đại vận tốt) và thường bị gặp khó khăn khi kiếm tiền. Cho dù sự hội tụ của các sao thế nào (ngoại trừ trường hợp cung Tài vô chính diệu, được Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu về) thì Tuần - Triệt đóng tại cung Tài cũng khẳng định đương số không thể giàu có lớn được, nhất là khi cung tài bị Tuần án ngữ.

THIÊN DI: Tuần - Triệt đóng tại cung Thiên Di thì đương số ra ngoài thường không được lợi, tuy nhiên nếu ly hương thì lại tốt hơn nhiều.

ĐIỀN TRẠCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Điền thì không được hưởng di sản của cha mẹ để lại, phải tự lập và thường bị trục trặc trong vấn đề mua bán điền sản. Cũng như cung Tài, nếu tại cung Điền có Tuần Triệt án ngữ thì chắc chắn đương số không thể có nhiều điền sản lớn được, ngoại trừ trường hợp cung Điền vô chính diệu được Nhật Nguyệt sáng sủa chiếu về.

PHÚC ĐỨC: Tuần - Triệt đóng tại cung Phúc thì khiến họ hàng ly tán, không ở gần nhau, thường phải ly hương

PHU THÊ: Tuần - Triệt đóng tại cung Phu Thê thì gây trục trặc cho tình duyên hôn nhân như tình đầu tan vỡ, lập gia đình trễ... Nếu lập gia đình sớm thì gia đạo bất hòa dễ đưa đến chia ly. Tuần - Triệt đóng tại cung Phu Thê cũng là yếu tố đưa đến số phận không chồng không vợ nếu cung Phúc vô chính diệu và hội tụ nhiều sao xấu.

Cung Phu Thê xấu xa mờ ám thì nên gặp Tuần hơn là gặp Triệt vì nếu gặp Tuần thì về sau gia đạo dễ hạnh phúc hơn gặp Triệt, còn cung Phu Thê đẹp đẽ nếu gặp Triệt thì tuy có bị trục trặc ban đầu nhưng về sau thì vợ chồng cũng sống được với nhau đến đầu bạc răng long ...

NÔ BỘC: Tuần - Triệt đóng tại cung Nô thì bạn bè, người giúp việc lúc tụ lúc tán, không bền, khó kiếm được người giúp việc trung thành, cũng khó có được những người bạn tri âm tri kỷ.

TỬ TỨC: Tuần - Triệt đóng tại cung Tử thì gây trục trặc cho đương số về vấn đề con cái như không có con, muộn có con, hoặc sinh con đầu lòng khó nuôi, hoặc con không hợp với cha mẹ…

HUYNH ĐỆ: Tuần - Triệt đóng tại cung Huynh Đệ thì anh (chị) trưởng nếu không đoản thọ thì cũng là người cùng khổ cô đơn, hoặc anh chị em không sống gần nhau, hoặc bất hòa, không giúp được nhau mà còn hại nhau...

TẬT ÁCH: Tuần - Triệt đóng tại cung Tật Ách bất kể là đương đầu hay chặn đuôi thì đương số suốt đời mạnh khoẻ, ít bệnh tật, ít gặp tai họa, nếu có tai hoạ cũng tránh được họa lớn... Trừ khi có sao kỵ Tuần - Triệt như Thiên Tướng, Tướng Quân thì nếu Đại vận xấu sẽ dễ đưa đến cái chết bất ngờ nhanh chóng.

PHỤ MẪU: Tuần Triệt đóng tại cung Phụ Mẫu thì chắc chắn đương số không hợp với cha hay mẹ, hoặc dễ sớm xa cách cha mẹ do: Hoặc cha (mẹ) mất sớm, hoặc cha mẹ ly hôn, hoặc làm con nuôi nhà khác... Vì Phụ Mẫu có ảnh hưởng trong giai đoạn thiếu niên nên gặp Triệt có khác biệt khi gặp Tuần vì lúc đó Triệt đang mạnh mẽ còn Tuần thì sự ảnh hưởng hầu như không đáng kể.

HẠN: Tuần Triệt đóng tại cung hạn thì phải có khó khăn trong hạn đó, nhưng cần phải xét kỹ về thời gian và tỷ lệ ảnh hưởng, nhất là khi Tuần, Triệt đồng cung thì phải nhớ ảnh hưởng tăng gấp đôi và kéo dài hơn chứ không thể suy luận theo quan điểm là Tuần và Triệt tháo gỡ cho nhau trong trường hợp này.

3. ẢNH HƯỞNG CỦA TUẦN-TRIỆT TỚI CÁC SAO

Theo lý thuyết của Tử Vi thì hai sao Tuần, Triệt sẽ làm thay đổi giá trị ảnh hưởng của các sao đồng cung mà Tuần, Triệt án ngữ. Nhưng cũng cần lưu ý rằng: Tuần - Triệt không làm thay đổi tính chất các sao, mà chỉ làm tăng lên hoặc giảm đi ảnh hưởng của các sao. Thực chất Tuần - Triệt chỉ làm thay đổi cường độ hành khí của sao, sự sáng tối của sao tức là thay đổi tính đắc hãm của sao. Tuy nhiên cho dù sao hãm địa có được sáng lại do ảnh hưởng của Tuần - Triệt thì cũng không được toàn vẹn như một sao bản chất là sáng sủa và ngược lại một sao bị tối đi do ảnh hưởng của Tuần - Triệt cũng không tối tăm như một sao bản chất là tối hãm.

Sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt như thế nào tới các sao ở các cung xung chiếu, tam hợp chiếu vẫn là tranh cãi chưa có lời kết của các tác giả, các nhà nghiên cứu Tử Vi.

Có quan điểm cho rằng Tuần, Triệt chỉ làm thay đổi sự sáng, tối của các sao đồng cung chứ không đủ sức ảnh hưởng tới các sao ở các cung xung chiếu hoặc tam hợp chiếu, như thế là không tưởng, phi lý (đại diện là tác giả Nguyễn Phát Lộc). Còn quan điểm thứ 2 (đại diện là tác giả Việt Viêm Tử) thì rộng hơn, cho rằng hai sao này còn ảnh hưởng tới cả các cung trong thế hợp chiếu và mức độ ảnh hưởng của Triệt-Tuần còn phụ thuộc vào tuổi Âm hay Dương của đương số. Quan điểm này không nhận được sự ủng hộ của một số tác giả, tiêu biểu là ông Nguyễn Phát Lộc nhưng lại nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà nghiên cứu, “thầy Tử Vi”, chẳng hạn như nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm (Ông là nhà nghiên cứu, cũng là người hành nghề coi lá

 số Tử Vi) nhận xét: Triệt - Tuần là 2 sao đặc biệt trong hệ thống các sao của Tử Vi, nhưng vẫn tuân thủ theo nguyên tắc: Ảnh hưởng tới các cung khác ngoài cung án ngữ và cũng chịu ảnh hưởng lại của các sao, các cung mà Triệt - Tuần trấn thủ.

Qua những tranh luận của các tác giả, và từ thực tiễn kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu về Tử Vi, đặc biệt là kinh nghiệm của những người hành nghề coi lá số Tử Vi.. thì Triệt - Tuần không những ảnh hưởng mạnh tới các sao ở 2 cung án ngữ mà còn ảnh hưởng tới các sao ở cung xung chiếu, tam hợp chiếu. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó chỉ có ảnh hưởng gián tiếp chứ không trực tiếp như ở hai cung án ngữ.

Cũng cần lưu ý thêm rằng: Sao tại cung bị Tuần - Triệt án ngữ bị thay đổi tính chất nên khi chiếu về cung khác cũng khác khi không bị Tuần - Triệt án ngữ. Vì thế khi luận giải phải gia giảm sự tốt, xấu của sao tùy theo sự án ngữ của Tuần hay Triệt và Triệt - Tuần ở thế đương đầu hay chặn đuôi.

Sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt tới các tinh đẩu cũng không giống nhau. Thường thì các chính tinh bị ảnh hưởng mạnh hơn các phụ tinh khi gặp Tuần - Triệt, trong đó Sát - Phá - Liêm - Tham bị ảnh hưởng mạnh nhất

Về tính chất thì hung sát bại tinh (như Sát, Phá, Liêm, Tham, Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa Linh, Kiếp Sát, Thiên Không, Kiếp Sát...), tài tinh (Vũ Khúc, Thiên Phủ, Lộc Tồn, Hóa Lộc), quí tinh, quyền tinh (Thiên Tướng, Hóa Quyền, Quốc Ấn...), đào hoa tinh hay dâm tinh (Hồng, Đào, Riêu, Thai...) bị ảnh hưởng mạnh mẽ hơn các tinh đẩu khác như phúc thiện tinh (Quang Quí, Quan Phúc...), trợ tinh (Tả Hữu)...lục bại tinh (Song Hao, Tang Hổ, Khốc Hư)

Xét về phương diện Ngũ hành thì nhìn chung hành Kim, Hỏa và Mộc bị ảnh hưởng nặng nhất, hành Mộc bị ảnh hưởng của Triệt hơn Tuần (vì Triệt (Kim) khắc Mộc trong khi đó Mộc sinh (Tuần) Hỏa) và hành Kim chịu ảnh hưởng của Tuần hơn Triệt (vì Tuần (Hỏa )khắc Kim trong khi đó Triệt (Kim) và Kim đồng hành), hành Thủy ít bị ảnh hưởng hơn (vì Triệt (Kim) sinh Thủy và Thủy khắc (Hỏa) Tuần), hành Thổ bị ảnh hưởng ít nhất (vì Tuần (Hỏa) sinh Thổ và Thổ sinh (Kim) Triệt).

4. NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CỦA TUẦN-TRIỆT

1. Chính tinh hoặc hung tinh đắc địa tối kỵ gặp Tuần - Triệt vì gặp Tuần - Triệt làm cho các tinh đẩu bị giảm hết ý nghĩa tốt đẹp hoặc đôi khi trở thành hãm địa. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, rất cần có Tuần Triệt án ngữ, chẳng hạn như cung Vô chính Diệu hoặc Chính Diệu tọa thủ lạc hãm, xấu xa, ví như trường hợp Liêm - Tham hãm địa tại Tỵ, Hợi nếu gặp Tuần - Triệt án ngữ lại trở nên tốt đẹp, trường hợp này còn được gọi là Phản vi kỳ cách hay Bộ Âm Duơng lạc hãm rất cần gặp Tuần, Triệt để trở thành sáng sủa, thông minh học giỏi. (Trường hợp này nếu thêm Hóa Kỵ đắc địa đồng cung thì thật hoàn mỹ.)

Hoặc Cung gặp nhiều sát tinh hội chiếu nếu được Tuần - Triệt án ngữ sẽ trở thành yên ổn rất nhiều!

2. Chính tinh sáng sủa hợp Mệnh thì không nên gặp Tuần - Triệt vì sẽ đưa đến phá cách nặng, ví dụ như cung sinh sao, sao sinh Mệnh mà gặp Tuần, Triệt thì càng xấu vì sao sinh Mệnh khiến Mệnh tốt lên hẳn mà lại bị Tuần, Triệt phá hỏng. Trong trường hợp này nếu Mệnh không hợp với sao thì gặp Tuần, Triệt cũng đỡ xấu hơn trường hợp trên.

Chính tinh lạc hãm khắc Mệnh thì lại cần được Tuần - Triệt án ngữ, trường hợp này lại hay hơn là được chính tinh lạc hãm hợp Mệnh gặp Tuần, Triệt. Nói chung là nếu càng xấu về vị trí (bị hãm) và tương quan Ngũ hành (bị khắc) thì gặp Tuần, Triệt càng tốt, hễ càng tốt về vị trí và tương quan Ngũ hành thì gặp Tuần, Triệt càng xấu.

3. Thiên Tướng, Tướng Quân tối kỵ gặp Tuần, Triệt cho dù là đắc địa hay hãm địa.

4. Thiên Phủ kỵ gặp Tuần hơn gặp Triệt, vì gặp Tuần ví như kho trống không, trong khi gặp Triệt thì chỉ bị hao hụt. Thiên Khôi kỵ gặp Triệt hơn gặp Tuần nhưng cần phối hợp các yếu tố khác khi luận đoán sự tốt xấu của cung đó.

5. Bộ Cự Nhật ở Dần gặp Tuần, Triệt không sợ, vì bản thân Thái Dương miếu vượng ít ngại Tuần, Triệt, trong khi đó Cự Môn vượng lại rất cần gặp Tuần, Triệt để cho Cự Môn được ánh sáng của Thái Dương chiếu vào mà tỏa sáng (Tuần Triệt như sấm sét làm vỡ đá ra).

Bộ Nhật Lương gặp Tuần, Triệt cũng không đáng ngại lắm, tuy nhiên khi gặp Tuần, Triệt rất cần có Tả Hữu Xương Khúc phù trì thì mới vượt qua được sự ngăn cản phá hoại của Tuần, Triệt.

Bộ Ân Quang Thiên Quý đồng cung (Sửu, Mùi) chiếu về Mệnh hoặc thủ Mệnh thì Tuần, Triệt không còn tác dụng nữa, chỉ là sự cản trở nho nhỏ không đáng kể.

6. Tuần, Triệt đứng bất cứ đâu nếu bản Mệnh là hành kim thì không đáng ngại (hành Hoả cũng đỡ hơn, nếu Triệt lâm Hỏa địa). Ví dụ mệnh gặp Thiên Tướng + Tuần Triệt án ngữ rất xấu xa mờ ám chủ tai nạn hình thương nhưng nếu bản Mệnh thuộc Kim thì không đáng ngại những nguy hiểm do Tuần, Triệt gây ra.

7. Tuần, Triệt giải họa Không Kiếp hãm rất mạnh, họa tuy có xảy ra nhưng cũng qua được. Triệt tại bản cung thì không sợ tai họa do Không Kiếp chiếu về. Tuần cũng có tác dụng như vậy nhưng yếu hơn.

Mệnh (Thân) có Không, Kiếp thủ chiếu mà gặp Triệt - Tuần thì không sợ tai nguy.

8. Mệnh Tuần hay Triệt thì khi đến đại hạn gặp Tuần hay Triệt sẽ tháo dỡ ảnh hưởng của Tuần hay Triệt.

Tuần, Triệt đồng cung tại tiểu hạn gặp Lưu Tuần, Triệt thì ảnh hưởng của Tuần, Triệt đồng cung sẽ giảm đi.

Triệt tại tiểu hạn gặp Lưu Triệt thì ảnh hưởng của Triệt tăng lên, Tuần tại tiểu hạn gặp Lưu Tuần thì ảnh hưởng của Tuần giảm đi.

5. NHỮNG CÂU PHÚ VỀ TUẦN - TRIỆT

- Mệnh Triệt Thân Tuần, tu cần vô hữu chính tinh, vãn niên vạn sự hoàn thành khả đãi.

Có nghĩa: Cung Mệnh có Triệt án ngữ, cung Thân cũng ngộ Tuần thì không nên có chính diệu mới được xứng ý toại lòng, về già mới được an nhàn, sung sướng và tăng thêm tuổi thọ.

- Mệnh Tuần Thân Triệt, hỷ đắc vân đoàn tương hội, phú quý văn tài cách phát trung niên.

Có nghĩa: Mệnh có Tuần án ngữ, Thân có Triệt trấn thủ, lại vô chính diệu, rất mừng gặp được văn tinh như Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, gặp như vậy là người có văn tài, học vấn và khi đứng tuổi tất sẽ được an nhàn, phú quý.

- Mệnh Tuần Thân Triệt, tối cần Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương miếu vượng, phú quý vinh hoa đến vãn niên.

Có nghĩa: Mệnh có Tuần, Thân có Triệt án ngữ, rất cần có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa, tốt đẹp hội họp thì cuộc đời mới được xứng ý toại lòng, nhất là khi về già mới được an nhàn, sung sướng.

- Phúc vô chính diệu, tu cần Không tý, kỵ ngộ Triệt Tinh.

Có nghĩa: Cung Phúc đức vô chính diệu rất cần có sao Tuần án ngữ nhưng lại rất kỵ sao Triệt trấn đóng.

- Phúc tại Tý cung. Đồng Âm Kiếp Tử, Triệt Tuần xâm, hữu học vô lương, tiện yểu cách.

Có nghĩa: Cung Phúc đức cư tại Tý, có các sao Đồng, Nguyệt, Kiếp, Tử gặp Tuần, Triệt thì đương số là người có học nhưng bất thành danh và là người bất chính, thường là người đa hư tiểu thực, nghèo hèn và chết non.

- Thân cư Phúc vô chính diệu, tối kỵ Kiếp Dương Triệt Sát. Cái ngộ Đà Không thi vị cứu cánh chi tinh.

Có nghĩa: Cung Thân cư Phúc vô chính diệu mà gặp các sao Kiếp, Kình, Triệt, Sát thì rất lo ngại. Nhưng nếu gặp được Đà La, Tuần lại hay, ví như hai vị cứu khổ phò nguy, giải tỏa được các tai biến.

- Tử Phủ đồng cung, Đế vô quyền sở, nan giải tai ương do như Tuần Không xâm nhập.

Có nghĩa: Tử Phủ lâm Mệnh tại Dần, Thân là 2 sao giải cứu được hung nguy khi đáo nhị hạn. Nhưng nếu bị Tuần Không án ngữ, ví như 2 ông vua bị mất hết quyền hành nên không giảm thiểu được tai kiếp khi hạn ngộ sát tinh, cũng như trường hợp Tử Vi đóng ở cung Tý vậy.

- Sát tinh hung diệu, Triệt đầu cư lai bất cập a hành, nan phùng tai ách vận lai.

Có nghĩa: Cung Mệnh dù có tứ sát, tứ hung, lục bại đi nữa, nhưng nếu được Triệt án ngữ tại bản cung cũng không e sợ lũ sát tinh hoành hành vì sao Triệt đủ ảnh hưởng khắc chế được mọi hung nguy.

- Thân cư Thê vị, Tuần Triệt lai xâm, thiếu niên ai lệ nãi thất tình. Nhược gia cát tú, lương duyên mãn kiếp dữ phụ nhân.

Có nghĩa: Thân cư Thê mà bị Tuần, Triệt xâm phạm tất là người tuổi thiếu niên bị tình phụ mà nước mắt buồn rơi khi nhớ tới người xưa. Nếu gia hội cát tinh cũng được mãn kiếp xum vầy với người góa phụ.

- Kiếp Kình Đế Cự suy Triệt lâm Mệnh, Tý hương, ác nhân đãng tử mãn kiếp nan toàn.

Có nghĩa: Cung Mệnh an tại Tý, 2 sao Tử Vi hay Cự Môn nếu hội với các sao Kiếp, Kình, Suy, Triệt là người phải chết bởi tai nạn nhưng khi chết rồi thể xác vẫn phải bị mổ xẻ.

- Thân cư Quan, kiến Triệt Tuần Kiếp Kỵ nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát diệu, vũ lộ thừa ân, khả đãi vãn niên dĩ hậu.

Có nghĩa: Nam nhân có Thân cư Quan, nếu gặp Triệt, Tuần, Kiếp, Kỵ đồng cung, tất phải lận đận, bôn ba thủa thiếu thời vì không gặp thời cơ. Nếu như được cát tinh củng chiếu, cũng phải đợi tới vãn niên mới được hưởng phúc lộc và tạo thành cơ nghiệp.

- Phản Hữu Hồng Loan sắc Không giác ngộ.

Có ngĩa: Thiên tướng nếu hội họp đầy đủ với 2 loại sao là sắc (Đào, Hồng, Hỷ) và Không (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) là người ví như kẻ lạc giữa bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư trong sáng, thường có duyên với cảnh tu hành.

- Quý tinh Tướng Phủ Tuần Triệt lao đao.

Có nghĩa: Thiên Phủ, Thiên Tướng là quý tinh, cư Mệnh rất đẹp, nếu độc thủ cũng không đáng lo ngại lắm khi gặp lũ Kình, Đà, Hỏa, Linh vì tính dung hòa của 2 quý tinh này. Nhưng nếu Phủ, Tướng ở cung âm, gặp Tuần, Triệt (Thiên Không, Địa Không cũng vậy) thì cách đẹp bị phá hết, thành kẻ lao đao, lận đận giữa đời.

- Thân cư Quan Lộc hội sát diệu Triệt Tuần, nữ Mệnh nan bảo thân danh. Gia kiến Tang Bạch cô thân chi nhảnh, chi gia vãn tuế tất thành.

Có nghĩa: Nữ nhân Thân cư Quan Loock, ngộ Triệt, Tuần và sát tinh là người khó bảo toàn được danh tiết. Nếu lại gặp 2 sao Tang Môn, Bách Hổ tất bị phòng loan gối chiếc, phải đến tuổi xế chiều mới thành được gia thất.

- Nhật, Nguyệt Sửu Mùi tối cần Kỵ, Không phả vi đại cát.

Có nghĩa: Nhật Nguyệt đồng cung tại Sửu Mùi là thế hỗn độn, nếu gặp được Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) sẽ tạo thành một cách đẹp, nếu thêm cả Hóa Kỵ nữa thì thật là một kỳ cách.

- Thân hội Di cung, Triệt Tuần hãm nhập, vãn tuế hồi hương phương cát. Nhược hữu kiến sát tinh, sự nghiệp viên thành ư ngoại xứ.

Có nghĩa: Người có Thân cư cung Thiên Di gặp Tuần, Triệt hãm địa, tất phải tha hương lập nghiệp cho tới khi tuổi già mới được về quê và hưởng phúc lộc dồi dào. Nhưng nếu Di cung lại bị sát tinh củng chiếu thì chỉ có thể thành cơ nghiệp nơi đất khách quê người.

- Thìn Tuất Không Vong Cơ Lương tăng đạo.

Có nghĩa: Cơ Lương ở Thìn Tuất là rất đẹp nhưng nếu Mệnh ở đấy mà gặp một trong các sao Không (Tuần, Triệt, Địa Không, Thiên Không) thì lại là người thất chí, dễ chán đời đi tu.

- Nhật Nguyệt Tật Ách Mệnh phùng Không yểu dà mục cổ.

Có nghĩa: Mệnh hoặc cung Tật Ách có Nhật, Nguyệt gặp Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không), tất phải mang tật lưng vẹo, mắt hư.

6. TUẦN - TRIỆT VÀ NHỮNG DẤU HỎI

Khi coi số, người luận giải sợ nhất trường hợp các cung cường gặp Tuần, Triệt án ngữ bởi lẽ lý thuyết Tử Vi về Tuần, Triệt còn nhiều mơ hồ, chưa có sự thống nhất (thậm chí còn nhiều nghi vấn, nhiều tranh cãi gay gắt)… để làm căn cứ cho việc xem số nên lời luận giải đưa ra thường thiếu cơ sở để khẳng định. Vì thế, người học Tử Vi, người muốn tìm hiểu về Tử Vi đều bất lực trong nhiều trường hợp khi gặp Tuần, Triệt án ngữ, quy tụ lại bởi một số nghi vấn sau:

1. Tuần, Triệt ảnh hưởng tới các sao như thế nào?

Theo lý thuyết thì Tuần, Triệt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các sao đồng cung: Biến tốt thành kém tốt, biến xấu thành bớt xấu nhưng thực tế thì có những trường hợp chỉ chính tinh bị ảnh hưởng còn phụ tinh lại không bị tác động bởi Tuần, Triệt hoặc phụ tinh bị đảo nghĩa khi gặp Tuần, Triệt trong khi chính tinh lại không thay đổi về cường độ, hoặc chỉ một số tinh đẩu bị đảo nghĩa chứ không hẳn tất cả các tinh đẩu đồng cung đều chịu sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt...

Để trả lời cho câu hỏi này, chưa có sách Tử Vi nào đề cập đến nên sự luận giải đôi khi trở nên mơ hồ, võ đoán.

Đấy là nói về các sao đồng cung, còn những sao ở tam hợp chiếu, xung chiếu thì sao?

Về vấn đề này vẫn còn nhiều tranh cãi, chưa có sự thống nhất hoặc quan điểm vẫn còn mơ hồ, không cụ thể.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tuần, Triệt chỉ ảnh hưởng tới các sao đồng cung chứ không đủ sức để ảnh hưởng tới các sao ở các cung xung chiếu, tam hợp chiếu.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Tuần, Triệt không những ảnh hưởng trực tiếp tới các sao đồng cung mà còn ảnh hưởng gián tiếp tới các sao ở các cung khác như xung chiếu, tam hợp chiếu... nhưng lại không chỉ ra sự ảnh hưởng gián tiếp ấy cụ thể như thế nào? Và đây cũng là điểm mơ hồ cố hữu trong hệ thống lý thuyết của Tử Vi.

2. Tuần, Triệt có chịu sự khắc chế, ảnh hưởng của các sao khác không?

Lý thuyết Tử Vi không đề cập đến sự ảnh hưởng hay khắc chế của các sao khác tới cường độ của Tuần, Triệt như thế nào nên vô hình chung đã đẩy Tuần, Triệt lên vị trí tối quan trọng, cao hơn tất cả các tinh đẩu trong hệ thống các sao của Tử Vi, khiến người coi số như xuống biển mò kim mà trở nên lúng túng, bế tắc khi đưa ra lời luận giải.

Trong thực tế, không phải mọi tinh đẩu đều chịu ảnh hưởng của Tuần, Triệt như nhau: Có sao chịu ảnh hưởng nhiều, có sao chịu ảnh hưởng ít và thậm chí có sao không hề bị ảnh hưởng ... Vậy thì tại sao lại có sự khác biệt đó? Phải chăng do Tuần, Triệt cũng chịu ảnh hưởng của các tinh đẩu khác mà sức ảnh hưởng của Tuần, Triệt mới không đồng đều, không đủ mạnh? Sách Tử Vi không đưa ra lời giải đáp khiến người coi số bị hụt hững, phân vân vì thiếu cơ sở lý thuyết nên dễ đưa ra những lời luận giải rơi vào ngộ nhận, không chính xác.

Một số nhà nghiên cứu Tử Vi, hoặc những người coi số Tử Vi cho rằng Tuần, Triệt cũng chịu sự ảnh hưởng, tác động của các sao khác như những sao khác nhưng không chỉ ra được Tuần, Triệt chịu ảnh hưởng từ các sao khác như thế nào? Những sao nào sẽ vô hại khi gặp Tuần, Triệt, thậm chí còn tác động, làm thay đổi cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt? Đây chính là nghi vấn, dễ gây ra sự ngộ nhận khi luận giải lá số.

3. Tuần, Triệt có làm thay đổi được cung an Mệnh khi ở thế bại địa, tuyệt địa?

Chúng ta đều biết lý thuyết Tử Vi cho rằng Tuần, Triệt làm thay đổi cường độ ảnh hưởng của các sao chứ không làm thay đổi tính chất của các sao, có nghĩa một sao thể hiện sự gian tà, độc ác thì khi gặp Triệt, Tuần sẽ vẫn là kẻ gian tà, độc ác nhưng ở mức độ thấp hơn, nhẹ đi chứ không thể trở thành người nhân hậu, bác ái. Hay một cát tinh khi hãm địa được Tuần, Triệt án ngữ cũng chỉ làm cho cát tinh đó tốt hơn lên chứ không thể biến cát tinh hãm địa đó đẹp bằng cát tinh khi đắc địa được.

Chúng ta cũng biết lý thuyết Tử Vi chỉ rằng: Tuần, Triệt chỉ gây trục trặc, cản trở cho cung Tuần, Triệt án ngữ chứ không thể làm thay đổi tính chất ngũ hành của cung, càng không làm thay đổi bản chất của cung: Sinh - khắc hay bình hoà với hành bản Mệnh (Thân)? Phù trợ như thế nào cho Mệnh (Thân)?...

Nhưng khi coi số, nếu gặp trường hợp cung an Mệnh ở vào thế lợi địa, tuyệt địa…mà gặp Tuần, Triệt án ngữ ở đó thì luận giải sao đây? Không thể đưa ra lời khẳng định nếu cung an Mệnh ở thế lợi địa mà gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ trở thành bại địa, hoặc cung an Mệnh ở thế bại địa khi gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ trở nên vượng địa vì thực tế ngay cả các sao đồng cung Tuần, Triệt còn không đủ sức ảnh hưởng đồng đều thì làm sao ảnh hưởng, thay đổi tính chất lợi địa hay tuyệt địa của cung an Mệnh được. Hơn nữa, lý thuyết của Tử Vi về Tuần, Triệt cho rằng Tuần, Triệt chỉ gây trục trặc, cản trở một phần, một giai đoạn cho cung án ngữ nên càng khó đưa ra lời luận giải cho những trường hợp như thế này.

Đây chính là khó khăn và thách đố với những ai muốn tìm hiểu, ứng dụng kiến thức của Tử Vi vào cuộc sống.

4. Thời gian và cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt như thế nào?

Mặc dù lý thuyết Tử Vi cho rằng: Tuần ảnh hưởng nhẹ hơn Triệt và mạnh dần ảnh hưởng sau 30 tuổi, còn Triệt ảnh hưởng mạnh những năm đầu đời và giảm dần hiệu lực sau 30 tuổi. Nhưng Tử Vi không chỉ ra sự mạnh dần (Tuần) hay giảm dần (Triệt) diến ra như thế nào? Cường độ nặng nhẹ là bao? Nên người coi số rất khó đưa ra lời phán đoán. Hơn nữa, những khái niệm về cường độ ảnh hưởng của Tuần, Triệt tưởng như rất cụ thể mà lại rất mơ hồ, trừu tượng nên người coi số thật khó luận giải. Chẳng hạn, sách Tử Vi nói: Người Dương nam, Dương nữ khi gặp Tuần, Triệt thì ở cung Dương sẽ chịu 70%, còn cung Âm chịu 30% cường độ, nhưng 100% cường độ được thể hiện như thế nào? Ảnh hưởng ra làm sao? Để qua đó hiểu được

 mức nặng nhẹ của 70% hoặc 30% cường độ thì rất tiếc không thấy sách Tử Vi nào đề cập đến.

Hoặc bàn về sự ảnh hưởng của Tuần, Triệt tới số phận con người cũng nhiều ý kiến trái chiều, bất nhất. Ví dụ ở người Mệnh Kim, có 3 quan điểm:

  1. Quan điểm 1: Mệnh Kim không sợ Tuần, Triệt.
  2. Quan điểm 2: Mệnh Kim vô hại khi gặp Triệt, còn gặp Tuần thì vẫn bị ảnh hưởng như các tuổi khác, tuy nhiên cũng không đáng lo ngại lắm.
  3. Quan điểm 3: Mệnh Kim nên tránh xa Tuần, Triệt vì nếu gặp sẽ thiệt thòi nặng hơn so với các tuổi khác.

Trong 3 quan điểm trên thì phần lớn những người coi số Tử Vi đồng nhất với quan điểm thứ nhất: Mệnh Kim không sợ gặp Tuần, Triệt nhưng sự bất nhất về lý thuyết, đặc biệt khi sự bất nhất đó lại có nội dung đối lập 100% như quan điểm 3 với quan điểm 1, thì vẫn gây khó khăn, nghi vấn cho người luận giải lá số.

5. Vấn đề Tuần, Triệt đồng cung thì thế nào?

Đây cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi trong lý thuyết của khoa Tử Vi.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tuần, Triệt đồng cung không tháo gỡ nhau mà cộng hưởng cả mặt tốt, mặt xấu và ảnh hưởng sâu rộng hơn tới cuộc đời của đương số.

Quan điểm thứ hai lại cho Tuần, Triệt tháo gỡ nhau nếu khi đồng cung, làm giảm cái xấu và tăng cái tốt cho đương số.

Mặc dù quan điểm thứ nhất là quan điểm của số đông, được nhiều người chấp nhận vì tính thực tiễn nhưng sự không đồng nhất về quan điểm như thế trong hệ thống lý thuyết của Tử Vi sẽ gây khó khăn rất lớn cho người tiếp cận.

LỜI KẾT

Tuần - Triệt là hai sao còn rất nhiều nghi vấn về giá trị, phạm vi và mức độ ảnh hưởng tới số phận con người mà người nghiên cứu Tử Vi khó tìm được câu trả lời thỏa đáng, càng đặc biệt và thách đố với những người muốn ứng dụng kiến thức Tử Vi vào cuộc sống.

Khi biên soạn về ảnh hưởng của Tuần - Triệt tới lá số (cung, sao), người viết rất băn khoăn, lo lắng vì kiến thức và kinh nghiệm về Tử Vi của người viết chỉ ở mức mày mò tự học trong khi môn học Tử Vi đòi hỏi người tiếp cận phải có kiến thức uyên bác về Dịch lý, về Âm - Dương Ngũ hành... mới có thể truyền tải được những cốt lõi mà linh hoạt và thỏa đáng về hiệu lực của Tuần, Triệt nên những kiến giải của người viết trong bài sẽ không tránh khỏi sự phiến diện, chủ quan và nông cạn, khiến những bậc cao minh sẽ cau mày vì phải đọc những kiến giải “ngây ngô” của kẻ “ếch ngồi đáy giếng”...

Dù thế nào thì người viết vẫn hy vọng bằng những cố gắng của mình sẽ giúp ích ít nhiều cho những ai lần đầu làm quen và tiếp cận với kiến thức mênh mông mà tinh tế, linh hoạt đến phức tạp... của khoa Tử Vi sẽ bớt khó khăn và thời gian tìm hiểu.

Nếu được vậy, người viết mãn nguyện lắm rồi.

* * *

Viết tại Đỗ Hạ, Quang Vinh, Ân Thi, Hưng Yên.
Tháng 07 năm 2006
ĐẶNG XUÂN XUYẾN


(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

tử vi kiến giải

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuần - Triết và những dấu hỏi

12 con giáp: Hợp tuổi hay Xung khắc trong tình yêu

Chọn xem tuổi hợp để tiến tới hôn nhân.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có mười hai con giáp và mỗi người sinh ra dưới các năm khác nhau lại mang tính cách đặc trưng của con vật bảo hộ. Theo quan niệm phong thủy Trung Quốc, tất cả mọi việc xung quanh cuộc đời như làm ăn, tình yêu,...đều cần chọn những người hợp mệnh để mọi việc được suôn sẻ, may mắn.

Theo chiêm tinh học Trung Quốc, nói chung những người đẻ cách nhau bốn năm thường tương thích (tam hợp), nhưng cách nhau sáu năm thì không nên (tứ hành xung). Bạn có thể kiểm tra tuổi hợp trước khi bắt đầu một mối quan hệ.

Tam hợp:

Mười hai con giáp có thể được chia thành bốn nhóm ba. Các nhóm này được dựa trên sự phỏng đoán rằng mỗi một trong ba loài động vật có liên quan đều có những cách suy nghĩ hay tính khí tương tự, hoặc ít nhất là phong cách tư duy và hiểu biết.

- Nhóm thứ nhất: Tí, Thìn, Thân

Họ có những định hướng, hành động và biểu hiện rất thông minh. Họ có thể bổ sung trong trí tuệ và tương thích với nhau. 

- Nhóm thứ hai: Sửu, Tị, Dậu

Họ là những nhà tư tưởng sâu sắc và luôn có ý thức về việc đạt được mục tiêu của họ. Họ đều bổ sung cho nhau trong trí tuệ và thói quen. 

- Nhóm thứ ba: Dần, Ngọ, Tuất

Họ nghiêng tự do và có ý thức mạnh mẽ của cái tôi cá nhân. Họ có thể hiểu nhau nhưng đôi khi cũng xảy ra tranh luận để bảo vệ quan điểm riêng của mình.

- Nhóm Bốn: Mão, Mùi, Hợi

Họ yêu hòa bình và tin tưởng lẫn nhau khi hợp tác. Họ có thể thông cảm lẫn nhau và thường tạo nên những cặp đôi.




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 con giáp: Hợp tuổi hay Xung khắc trong tình yêu

Những bảo bối phong thủy mang lại tài lộc, may mắn –

Bảo bối phong thủy: Các chữ thư pháp như Song Hỷ, Phúc, Lộc, Thọ, Thành, An… cũng thường được ưa dùng để trang trí trong nhà, mang lại may mắn cho gia chủ 1. Cá cảnh, rùa “Núi điềm quý, nước điềm tài”, bể cá có tác dụng tăng cường tài vận. Tuy nhiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bảo bối phong thủy: Các chữ thư pháp như Song Hỷ, Phúc, Lộc, Thọ, Thành, An… cũng thường được ưa dùng để trang trí trong nhà, mang lại may mắn cho gia chủ

1. Cá cảnh, rùa

1301283634-phong-thuy-1

“Núi điềm quý, nước điềm tài”, bể cá có tác dụng tăng cường tài vận. Tuy nhiên bạn cần biết cách bài trí đúng vì nếu không có thể dẫn đến việc phá tài. Điều quan trọng nhất là xác định phương hướng đặt bể cá cho thích hợp. Nuôi rùa vừa có tác dụng hóa sát vừa có tác dụng tăng tài vận. Bạn nên lưu ý đến số lượng rùa và hướng đặt chậu nuôi rùa.

2. Hồ lô

1301283826-phong-thuy-2222

Hồ lô có tác dụng trừ bệnh tật và thường được treo bên giường của người bệnh. Có nhiều loại hồ lô theo chất liệu khác nhau. Hồ lô đồng vừa có tác dụng trừ bệnh vừa có tác dụng tăng cường tình cảm vợ chồng.

3. Lọ hoa, bình hoa

1301283741-phong-thuy-3

Chữ “bình” trong từ “bình hoa” có cùng ý nghĩa với chữ “bình” trong từ “bình an”. Vì vậy, bài trí bình hoa trong nhà hoặc ở công ty mang ý nghĩa tốt đẹp. Tuy nhiên, tránh bài trí bình hoa tại hướng đào hoa, trừ khi bạn muốn tăng cường vận đào hoa.

4. Đồng tiền

1301283634-phong-thuy-4

Đồng tiền có tác dụng hóa sát. Có 3 cách sử dụng đồng tiền theo phong thủy: để dưới ngưỡng cửa để hóa giải cửa chính đối diện với thang máy; lấy dây vàng xâu đồng các đồng tiền lại rồi treo bên phải cửa chính, có thể phòng chống việc phụ nữ trong nhà hay tranh cãi; để 2 đồng tiền dưới gối vợ chồng có thể giữ được tình cảm tốt đẹp. Riêng với tiền ngũ đế là đồng tiền do 5 vị hoàng đế đời Thanh (Trung Quốc) tạo ra, có tác dụng hóa giải, tránh tà. Để tiền ngũ đế dưới ngưỡng cửa có thể hóa giải 1 số thế sát trong phong thủy như thương sát, phản cung sát, khai khẩu sát và góc nhọn đối diện với cửa chính; treo tiền ngũ đế trong nhà hoặc mang theo người cũng có tác dụng tăng cường khí vận và tránh tà.

5. Pha lê, gỗ đào, đá thiên nhiên

1301283634-phong-thuy-5

Pha lê gồm có pha lê tự nhiên và pha lê nhân tạo. Tùy vào màu sắc mà pha lê cũng có tác dụng khác nhau, có thể hóa sát hay chiêu tài. Gỗ đào từ xưa đến nay đều được coi là vật đại diện cho sự cát tường, là vật có năng lượng. Đá thiên nhiên là do tự nhiên sinh thành, như đá Thái Sơn đã có lịch sử hơn 25 ngàn năm, do vậy năng lượng tập hợp không có gì có thể so sánh được. Nếu gỗ đào kết hợp với kính đen bát quái thì sẽ rất hiệu quả.

6. Các loại thú phong thủy

1301283634-phong-thuy-6

Kỳ lân, tỳ hưu, thiềm thừ, rùa đầu rồng, cóc ba chân, rồng, phượng… cũng là những biểu tượng cát tường có thể hóa sát và chiêu tài.

7. Chuông gió – gương bát quái

Chuông gió, gương bát quái là những pháp khí mạnh trong phong thủy có tác dụng hóa sát.

1301283741-phong-thuy-8

8. Biểu tượng 12 con giáp

Tùy theo tuổi của mình bạn có thể chọn con vật cầm tinh để trưng bày trong nhà, có thể là dựa theo công thức tính tam hợp, lục hợp và tùy vào mục đích muốn tăng tài vận hay đào hoa vận.

1301283741-phong-thuy-9

9. Thư pháp

Các chữ thư pháp như Song Hỷ, Phúc, Lộc, Thọ, Thành, An… cũng thường được ưa dùng để trang trí trong nhà, mang lại may mắn cho gia chủ.

1301283741-phong-thuy-10

10. Các loại tượng

Các tượng thần, phật như bộ tượng tam đa (Phúc, Lộc, Thọ), tượng Phật Di Lặc, tượng Phật Bà Quan Âm, tượng các vị thần tài… cũng là những vật thích hợp để bài trí trong ngôi nhà của bạn. Tuy nhiên, cần đặc biệt chú ý tới phương vị bài trí.

1301283741-phong-thuy-12


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những bảo bối phong thủy mang lại tài lộc, may mắn –

Cách lựa chọn tầng chung cư theo phong thủy –

Mỗi một nguyên tố ngũ hành không tồn tại độc lập mà dựa vào nhau, chi phối lẫn nhau. Đây chính là quy luật tương sinh tương khác. Lựa chọn tầng nhà nên dựa vào tính tương sinh, tương trợ của ngũ hành. Ngày nay khi các chung cư mọc lên như nấm, việc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi một nguyên tố ngũ hành không tồn tại độc lập mà dựa vào nhau, chi phối lẫn nhau. Đây chính là quy luật tương sinh tương khác. Lựa chọn tầng nhà nên dựa vào tính tương sinh, tương trợ của ngũ hành.

Ngày nay khi các chung cư mọc lên như nấm, việc mua nhà tầng để ở, thuê văn phòng trong các chung cư, tòa nhà cũng vô cùng phổ biến. Trong phong thủy, nếu ngũ hành của tầng nhà tương sinh với mệnh của gia chủ thì cát tường, ngược lại thì không tốt cũng không xấu chứ không đến mức hung sát.

Ngũ hành của tầng nhà như sau:

Tầng 1 và 6 thuộc Thủy; tầng 2 và 7 thuộc Hỏa; tầng 3 và 8 thuộc Mộc; tầng 4 và 9 thuộc Kim; tầng 5 và 10 thuộc Thổ. Nếu số tầng lớn hơn 10 thì dựa vào phần đuôi đẻ tính, ví dụ: tầng 19 có số 9 thuộc Kim, vậy tầng 19 thuộc Kim.

chung-cu-phong-thuy

Căn cứ vào năm sinh để xác định tầng nhà:

Người sinh năm Tý (cầm tinh con chuột) có ngũ hành thuộc Thủy: Hợp Kim (tầng 4 và 9), Thủy (tầng 1 và 6), bình thường Hỏa (tầng 2 và 7).

Người sinh năm Sửu (cầm tinh con trâu) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Dần (cầm tinh con hổ) có ngũ hành thuộc Mộc: Hợp Thủy (tầng 1 và 6), Mộc (tầng 3 và 8), bình thường Thổ (tầng 5 và10).

Người sinh năm Mão (cầm tinh con mèo) có ngũ hành thuộc Mộc: Hợp Thủy (tầng 1 và 6), Mộc (tầng 3 và 8), bình thường Thổ (tầng 5 và 10).

Người sinh năm Thìn (cầm tinh con rồng) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Tỵ (cầm tinh con rắn) có ngũ hành thuộc Hỏa: Hợp Mộc (tầng 3 và 8), Hỏa (tầng 2 và 7), bình thường Kim (tầng 4 và 9).

Người sinh năm Ngọ (cầm tinh con ngựa) có ngũ hành thuộc Hỏa: Hợp Mộc (tầng 3 và 8), Hỏa (tầng 2 và 7), bình thường Kim (tầng 4 và 9).

Người sinh năm Mùi (cầm tinh con dê) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Thân (cầm tinh con khỉ) có ngũ hành thuộc Kim: Hợp Thổ (tầng 5 và10), Kim (tầng 4 và 9), bình thường Mộc (tầng 3 và 8).

Người sinh năm Dậu (cầm tinh con gà) có ngũ hành thuộc Kim: Hợp Thổ (tầng 5 và 10), Kim (tầng 4 và 9), bình thường Mộc (tầng 3 và 8).

Người sinh năm Tuất (cầm tinh con chó) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Hợi (cầm tinh con lợn) có ngũ hành thuộc Thủy: Hợp Kim (tầng 4 và 9), Thủy (tầng 1 và 6), bình thường Hỏa (tầng 2 và 7).

Tuy nhiên mỗi nhà đều có nhiều người cầm tinh khác nhau, nên mệnh gia chủ là tính mệnh của người đứng tên căn nhà (thường là người đàn ông trong nhà) hoặc là người quản lý chi tiêu trong nhà (nếu không lấy theo người đứng tên).

Cách này khi chọn tầng văn phòng, lấy theo mệnh của người đứng đầu công ty (trên giấy tờ, hoặc là người quản lý trực tiếp ở vị trí cao nhất).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lựa chọn tầng chung cư theo phong thủy –

Cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn

Bạn dành 1/3 cuộc đời để ngủ nên đừng tiếc tiền đầu tư cho không gian này đẹp và tiện nghi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tông màu xanh-trắng luôn đem lại cảm giác dịu mát, thư giãn bởi gợi tới màu của biển trời.

  cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Một trong những yếu tố quan trọng nhất khi thiết kế phòng ngủ là quyết định tông màu chủ đạo.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Những chi tiết nội thất nhỏ như gương mang thiết kế cổ điển tăng tính sang trọng của phòng.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Nếu vợ chồng bạn có màu sắc yêu thích khác nhau, bạn có thể lựa chọn màu trung tính, phù hợp với cả hai.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Tông màu đơn giản cũng giúp bạn có thể dễ dàng bổ sung thêm đồ trang trí theo mùa hoặc các dịp lễ hội.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Trên nền nhạt của căn phòng, màu sắc tươi sáng như vàng hay một vài họa tiết vui mắt sẽ khiến nhà ấm áp hơn.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Tranh ảnh treo trong phòng nên đơn giản, màu sắc dịu nhẹ, tránh các bức có sự nổi loạn, sôi động.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Trong trường hợp không sử dụng tranh ảnh, bạn cũng có thể dùng giấy dán tường để tạo phần đầu giường ấn tượng.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Trong phòng ngủ của các khách sạn, màu sắc được sử dụng rất hạn chế, thường là sự kết hợp đơn sắc hoặc bổ sung thêm một màu ấm để tạo ấn tượng.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Để nơi ngủ nghỉ thoải mái và đẹp hơn, bạn nên hạn chế số lượng đồ đạc và chọn các thiết kế tối giản.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Đồ dùng, tranh ảnh có sắc cam và họa tiết lấy từ màu của ga gối.

 
cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn  

Chủ nhà có sự kết hợp táo bạo giữa tông cam và tím vừa đem tới sự quý phái vừa có nét trẻ trung.

 Lam Huyền (Theo Freshome)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bài trí phòng ngủ đẹp như khách sạn

Hướng dẫn những điều kiêng kị vào ngày tết của 3 miền

Ngày Tết sắp tới chúng ta cùng nhau tìm hiểu tập tục kiêng kị ngày Tết của các vùng miền nha. Miền Bắc kiêng treo tranh xui xẻo, miền Trung kiêng ăn tôm vì sợ việc làm ăn đi... giật lùi, riêng miền Nam cất chổi rất kỹ vì lo mất chổi sẽ bị trộm vét sạch của cải... Nếu có tới thăm bạn bè ở các vùng miền khác nhau chúng ta cũng không bị... phạm uý!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Miền Bắc:

* Kiêng quét nhà: Trong ba ngày Tết, kiêng quét nhà vì sợ quét hết vận đỏ đi. Vì thế, ai cũng quét dọn nhà cửa, vườn tược trước lúc giao thừa.


Miền Bắc là nơi có nhiều tục lệ kiêng kỵ nhất

* Kiêng đổ rác: Tục kiêng đổ rác xuất phát từ câu chuyện trong Sưu thần ký.

Chuyện kể rằng, có một người lái buôn đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy thần tặng nàng hầu tên là Như Nguyệt. Ông trở nên giàu có, tiền bạc đầy nhà.

Năm ấy, vào ngày mồng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi nhỏ, bị ông chủ đánh đập nên biến vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ đấy, ông lại nghèo như xưa.

* Kiêng không treo những tranh "xui xẻo" như: đánh ghen, kiện tụng... mà phải tìm treo tranh mang ý tài lộc như lợn, gà, cậu bé...

* Kiêng cho lửa ngày Tết: Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình. Vì quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió. Các bạn chớ có nên đi xin lửa nhà người khác ngày Tết nha!

* Rắc vôi bột ở 4 góc vườn: Ở nông thôn, nhà nào cũng rắc vôi bột ở 4 góc vườn rồi vẽ hướng ra phía cổng để xua đuổi ma quỷ. Vì thế, dân gian có câu: "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi". Đầu năm bạn mua muối tặng cho mọi người cũng chính là lời chúc năm mới làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn đó!

* Xông nhà: Những người "nặng vía", không hợp tuổi với gia chủ đừng nên đến xông nhà ngày đầu năm. Người có tang không nên xông đất nhà người khác để tránh xui xẻo.

* Tránh nói giông: Ngày đầu năm, ta phải hết sức tránh những ngôn ngữ, hành động có thể đem lại sự không may, còn gọi là nói giông hoặc nói xui như: "Chết rồi!", "Tiêu rồi!".

* Kiêng cho nước đầu năm: vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúc tiền vào như nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc


Người ta kiêng cho nước, hay lửa đầu năm để không bị mất lộc

* Kiêng làm vỡ bát đĩa: Bát đĩa tượng trưng cho gia đình, vì thế, trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.

* Kị mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc.

Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà nào có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.

Miền Trung

* Kiêng ăn một số món: Người dân miền Trung có tục kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt trong ngày Tết và cả tháng đầu năm. Người ta cho rằng ăn thịt vịt sẽ gặp xui xẻo. Một số vùng không ăn tôm vì sợ... đi giật lùi như tôm. Nếu ăn trong ngày Tết, công việc sang năm sẽ lùi chứ không thể tiến tới.


Một số nơi ở miền Trung, người ta không ăn tôm vì sợ công việc sang năm sẽ lùi chứ không thể tiến tới ... đi giật lùi như tôm.

* Kiêng mua quần áo màu trắng, vải trắng suốt tháng Giêng Âm lịch.

Miền Nam:

* Ở một số vùng quê Nam bộ còn có tục kiêng không để cối xay gạo trống vào những ngày đầu năm. Điều này tượng trưng cho việc thất bát, mất mùa năm tới. Chính vì vậy, người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.

* Ngày Tết có lệ ai đến nhà, bất kể giờ giấc nào, gia chủ cũng dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.

* Đi đâu xa cũng phải về nhà trước giờ Giao thừa. Ai không về kịp xem như cả năm sau người ấy phải bôn ba vì công việc làm ăn.

* Sau khi quét dọn phải cất hết chổi. Nếu trong ngày Tết để mất chổi nghĩa là năm đó gia đình sẽ bị trộm vét sạch của.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn những điều kiêng kị vào ngày tết của 3 miền

Chùa Cổ Loa - Hà Nội

Chùa Cổ Loa có tên thường gọi là Chùa Bảo Sơn hay Bảo Sơn Tự. Chùa nằm trong khu di tích Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội, một dấu tích vật chất về kiến trúc
Chùa Cổ Loa - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Cổ Loa có tên thường gọi là Chùa Bảo Sơn hay Bảo Sơn Tự. Chùa nằm trong khu di tích Cổ Loa – Đông Anh – Hà Nội, một dấu tích vật chất về kiến trúc quân sự và đô thị cổ cách nay khoảng hai thiên niên kỷ. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông, Nơi đây gắn liền với nhiều di tích lịch sử của dân tộc.

Kiến trúc chùa theo kiểu nội Công ngoại Quốc. Chùa còn giữ được những bức cốn tứ linh thế kỷ XIX, 134 pho tượng có giá trị nghệ thuật bài trí ở chánh điện, hậu cung, hành lang và nhà Mẫu. Đó là các pho tượng Tam Thế Phật, tượng Phật A Di Đà, tượng Bồ tát Quan Âm, bộ tượng Hộ Pháp, bộ tượng Kim Cương, bộ tượng La Hán, bộ tượng Ngọc Hoàng, tượng Thái Thượng lão quân, tượng Trần Hưng Đạo… Chùa còn có 5 tấm bia đá từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, hai đại hồng chung đúc vào năm Gia Long thứ 2 (1803), một khánh đồng và nhiều pháp khí có giá trị khác.

Chùa nằm ngay sau Khu di tích Cổ Loa nên thuận tiện cho việc chiêm bái của du khách đến tham quan Cổ Loa, một trung tâm chính trị – quân sự, một trung tâm nông nghiệp lúa nước, một trung tâm luyện kim lớn thời cổ đại ở nước ta. Cổ Loa còn là quê hương của truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy.

Chùa Cổ Loa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1993.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Cổ Loa - Hà Nội

Mẹo cực dễ hóa giải lỗi phong thủy phòng khách để rước lộc

Phòng khách là nơi nghênh đón tài lộc và phúc khí của ngôi nhà nên nếu phạm lỗi phong thủy phòng khách dưới đây thì sẽ không hay chút nào đâu. Nhanh tay hóa
Mẹo cực dễ hóa giải lỗi phong thủy phòng khách để rước lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

giải bằng những phương pháp cực dễ mà ## bày sẵn cho bạn nhé. 


Meo cuc de hoa giai loi phong thuy phong khach de ruoc loc hinh anh
 
1. Bàn ăn trong phòng khách  
Meo cuc de hoa giai loi phong thuy phong khach de ruoc loc hinh anh 2
 
Nhiều gia đình do không gian hạn chế nên bếp và phòng khách thông nhau, bàn ăn ở trong phòng khách, vừa mở cửa liền nhìn thấy bàn ăn. Đây là lỗi phong thủy phòng khách khiến gia đình tán tài, hao của. 
  Nên điều chỉnh vị trí bàn ăn không đối thẳng ra cửa hoặc dùng bình phong cản tầm nhìn để hóa giải. Bằng không, ở lối vào cửa chính bày thất tinh trận đồ phong thủy, không chỉ tiêu tan nỗi lo mà còn nghênh tài đón lộc.   2. Sàn phòng khách nhấp nhô  
Meo cuc de hoa giai loi phong thuy phong khach de ruoc loc hinh anh 3
 
Phòng khách mà có sàn nhà cao thấp khác nhau, không bằng phẳng thì tất sinh họa. Trái cao phải thấp thì gia đình lức hưng lúc suy, lao đao vất vả; phải cao trái thấp, cẩn thận họa huyết quang ngoài ý muốn, người nam vận kém. Trước cao sau thấp thì gia vận lụn bại, hậu vận xấu; sau cao trước thấp, gia vận nháp nhô, có họa chảy máu.
  Cách hóa giải lỗi phong thủy phòng khách này tốt nhất là sửa chữa lại sàn nhà cho bằng phẳng. Nếu không thể sửa thì ở phía tường bên thấp hơn treo một xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế hoặc Thập Đế để hóa sát. Đặt một bức tượng Kim Thiềm Cửu Chuyển Càn Khôn cũng là cách để xua tà khí, nghênh tài lộc, thu hút vận may cho gia đình.
Những người chắc chắn sinh quý tử trong năm 2016
Sinh con trai năm 2016 không khó nếu bạn nắm được quy luật. Những người số mệnh có con trai trong năm nay sẽ được ## liệt kê

3. Đèn chùm phòng khách treo quá cao hoặc quá thấp
 
Meo cuc de hoa giai loi phong thuy phong khach de ruoc loc hinh anh 4
 
Phòng khách thường được trang trí bằng đèn chùm, vừa mang lại ánh sáng lại đẹp mắt nhưng treo thế nào cho chuẩn thì khong phải ai cũng biết. Đèn treo cao quá thì chủ nhân tinh thần không tốt, sĩ diện, háo tài. Đèn treo quá thấp lại tạo cảm giác bí bách, áp bức, ảnh hưởng tới hệ hô hấp và sự minh mẫn, vận thế lụn bại, không tiến triển.
  Nếu phòng khách phạm phải lỗi này thì nên điều chỉnh lại cho phù hợp, đèn treo cao không quá 390cm, không thấp hơn 260cm. nếu đặt đèn cố định, không thể thay đổi thì áp dụng cách  đặt đôi Kỳ Lân ngọc ở phòng khách hoặc tài vị, có tác dụng trấn trạch, vượng sự nghiệp.   4. Phòng khách tối ám  
Meo cuc de hoa giai loi phong thuy phong khach de ruoc loc hinh anh 5
 
Đại kị trong phong thủy phòng khách là u tối, thiếu sáng. Phòng khách là nơi đón khí trong nhà, phải dương thịnh, sáng sủa thoáng đãng thì nạp khí mới tốt, gia đình mới hưng vượng. Phòng khách tối tăm không chỉ khiến suy giảm tiền đồ mà còn khiến người trong nhà thị lực kém, nảy sinh tâm lý bi quan, chán chường, tự ti.
  Tăng thêm đèn chiếu sáng, trổ cửa sổ để đón ánh sáng vào nhà. Nếu vẫn chưa đủ thì đặt một pho tượng Long Quy bằng ngọc để bổ trợ dương khí, xua tan u ám. 
► Xem phong thủy nhà ở cầu tài lộc, tránh tai ương

Trần Hồng

Xem Clip Giá trị của lòng tin
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo cực dễ hóa giải lỗi phong thủy phòng khách để rước lộc

Xem tình duyên người tuổi Dần hợp với tuổi nào để hôn nhân mỹ mãn

Trong tình yêu hôn nhân, tuổi Dần hợp với tuổi nào? Người tuổi Dần nên lấy con giáp nào để hạnh phúc viên mãn? Tuổi nào kết hôn với tuổi Dần thì phù hợp?
Xem tình duyên người tuổi Dần hợp với tuổi nào để hôn nhân mỹ mãn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dần rất mạnh mẽ, nhạy cảm và quyến rũ song lại bướng bỉnh, cố chấp và hay nghi ngờ người khác. Trong hôn nhân tình yêu, tuổi Dần hợp với tuổi nào? Nên chọn đối tượng ra sao để cuộc sống hòa hợp và hạnh phúc?
Tính cách người tuổi Dần
mạnh mẽ, chính trực, luôn coi trọng chính nghĩa. Đàn ông tuổi này bề ngoài cương nghị nhưng nội tâm ấm áp, còn phụ nữ thì ngược lại, trông dịu dàng, yếu đuối nhưng kì thực lại là người mạnh mẽ, độc lập.  Người sinh năm Dần thông minh, có tài lãnh đạo, suy nghĩ sáng tạo, độc đáo, làm việc nhiệt tình, công tâm. Theo quan niệm dân gian, người tuổi Dần thường cao số, lận đận chuyện tình duyên. Có người cho rằng, quá thông minh và mạnh mẽ chính là lý do khiến tuổi Dần cao số. Vậy trong 12 con giáp, tuổi Dần hợp với tuổi nào? Đâu mới là đối tượng kết hôn hoàn hảo của con giáp này?
  Người tuổi Dần hợp nhất với tuổi Ngọ, tuổi Tuất, tuổi Hợi. Ba con giáp này là bạn đời lý tưởng của người cầm tinh con Hổ, hôn nhân giữa họ cực kì mỹ mãn, đại cát đại lợi, sự nghiệp thành công, phúc lộc đầy tràn. 
 
Tuổi Dần không nên kết hôn với tuổi Tị, tuổi Thân, nếu không vợ chồng tương khắc, gia đình bất hòa, ảnh hưởng đến tâm tình và sức khỏe, có thể vì buồn chán, cô đơn mà suy nhược, thậm chí đoản mệnh vì bệnh tật.


Tuoi Dan hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh
 
 

1. Nữ tuổi Dần hợp nam tuổi nào?

 

Nữ tuổi Dần + Nam tuổi Hợi = Lục hợp

  Cặp đôi này rất biết cách thu hút đối phương, hiểu rõ làm thế nào để tạo được niềm vui cho một nửa của mình. Khi ở bên nhau, giữa họ toát ra tình yêu thương nồng nàn, cháy bỏng không thể che giấu nổi. Tình cảm của nữ tuổi Dần và nam tuổi Hợi có nền tảng rất vững chắc, họ sẽ vì mục tiêu chung mà dốc sức phấn đấu, không quá để tâm đến khuyết điểm của đối phương.   Đàn ông tuổi Hợi thẳng thắn, chân thành, thường khi nguy cấp lại càng thể hiện bản lĩnh vững vàng, hữu dũng hữu mưu. Cô nàng tuổi Dần vui vẻ, phóng khoáng, nhanh nhẹn, đảm đang. Người chồng luôn bình tĩnh trước những cơn sóng tình cảm dội lên bất ngờ của vợ, biết lấy bất biến ứng vạn biến, không làm những chuyện xốc nổi, thiếu lý trí, vì thế luôn giành được sự khâm phục và ngưỡng mộ của người bạn đời.  

Nữ tuổi Dần + Nam tuổi Tuất = Tam hợp

  Đây quả đúng là cặp đôi trời sinh. Họ đều là những người bẩm sinh theo chủ nghĩa hoàn hảo, luôn nhiệt tình, lạc quan, có trái tim lương thiện, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Nếu đến với nhau, hai con giáp này sẽ có cuộc sống khá là mỹ mãn. Hai người có thể chung sống hạnh phúc mà vẫn được tự do thư thái, tận hưởng sự bình an trong tâm hồn.   Người tuổi Dần hợp với tuổi nào? Phụ nữ tuổi này tính tình sôi nổi, sự vui vẻ, lạc quan của họ có thể lan tỏa khắp mọi ngóc ngách trong tổ ấm gia đình. Còn đàn ông tuổi Tuất lại có phần xốc nổi, tuy nhiên lại rất biết cách ăn nói, có thể khéo léo an ủi, khuyên nhủ bạn đời mà không làm tổn thương đến đối phương. Nét quyến rũ, đáng yêu của phụ nữ tuổi Dần cũng là điều luôn hấp dẫn, thu hút bạn đời.

 

Nữ tuổi Dần + Nam tuổi Ngọ = Tam hợp

  Hai con giáp này có rất nhiều điểm chung, có thể hỗ trợ nhau về nhiều mặt trong cuộc sống. Sự nhiệt tình và thành công của cả hai sẽ giúp cho cặp đôi thêm vững bước tiến về phía trước. Cuộc sống hôn nhân của họ cũng luôn tràn ngập niềm vui.   Đàn ông tuổi Ngọ chín chắn, dày dạn kinh nghiệm, cũng rất tự tin, cô nàng tuổi Dần thì sôi nổi hoạt bát, xinh xắn đáng yêu. Trong cuộc sống gia đình, 2 con giáp này đều rất có trách nhiệm, cũng phối hợp rất ăn ý trong mọi chuyện. Người chồng vì hạnh phúc gia đình mà làm việc không biết mệt mỏi, còn người vợ lại khéo léo vun vén tổ ấm lứa đôi, là một bà chủ gia đình xinh đẹp, đảm đang, luôn khiến chồng được hãnh diện với mọi người.  


Tuoi Dan hop voi tuoi nao trong tinh yeu hon nhan hinh anh
 
 

2. Nam tuổi Dần hợp nữ tuổi nào

 

Nam tuổi Dần + Nữ tuổi Hợi = Lục hợp

  Cặp đôi này luôn động viên, khích lệ nhau trong cuộc sống, sẵn sàng hy sinh vì đối phương. Hai người đều là mẫu người năng động, tràn trề nhựa sống, song luôn coi trọng đối phương hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Họ có thể vì mục tiêu chung mà phấn đấu hết mình, cũng vì hạnh phúc gia đình mà bỏ qua cho nhau những điều khác biệt về tính cách. Khi ở bên nhau, hai con giáp này sẽ cảm thấy cực kì tự do tự tại, họ cũng cực kì hợp nhau trong chuyện phòng the. Tuổi Dần và tuổi Hợi kết đôi sẽ có hạnh phúc dài lâu.   Đàn ông tuổi Dần rất có trách nhiệm, luôn cố gắng phấn đấu hết mình cho gia đình và sự nghiệp. Phụ nữ tuổi Hợi thì hết lòng vì chồng vì con, lại chăm chỉ đảm đang, luôn tạo điều kiện cho chồng phát triển sự nghiệp. Đôi bên tin tưởng, ngưỡng mộ lẫn nhau, chung tay góp sức vì mục tiêu chung là hạnh phúc gia đình.
 

Nam tuổi Dần + Nữ tuổi Tuất = Tam hợp
 

Đây là cặp đôi cực kì tình cảm, luôn sẵn sàng thể hiện tình yêu thương với đối phương. Họ đều có tính cách thân thiện, nhẹ nhàng, lại vô cùng quyến rũ. Đôi bên luôn suy nghĩ cho nhau, biết cách thỏa mãn đối phương mà vẫn để cho nhau có không gian riêng. Đây quả thực là cặp đôi hoàn hảo.
 
Đàn ông tuổi này giỏi giao tiếp, tuy nhiên tính tình có phần nóng nảy, bộp chộp. Tình cảm nồng nàn, cháy bỏng của con giáp này dành cho một nửa của mình đôi lúc cũng khiến cho đối phương sợ hãi, đó có thể là một trong những lý do vì sao mẹ dặn "không yêu" người tuổi Dần chăng? Cô gái tuổi Tuất lại dịu dàng, hiền thục, thấu hiểu lòng người, nhiệt tình giúp đỡ người khác, vừa hay bù đắp cho những khuyết thiếu của tuổi Dần. Người chồng ngưỡng mộ sự phóng khoáng, thông thái của vợ, còn người vợ lại biết khéo léo đối xử, giúp chồng không vì cơn nóng giận mà phạm phải sai lầm.
 

Nam tuổi Dần + Nữ tuổi Ngọ = Tam hợp
 

Hai con giáp này cùng có tính cách sôi nổi, hoạt bát, cũng rất hòa nhã, thân thiện. Họ là những người giỏi giao tiếp, trong mối quan hệ vợ chồng cũng rất linh hoạt, biết tự tìm thú vui khác cho mình trong cuộc sống, không quá chiếm hữu đối phương, luôn để cho đối phương có không gian riêng. 
 
Chàng trai tuổi Dần nhiệt tình, lương thiện, tính tình trầm ổn, tạo cảm giác tin cậy cho mọi người. Còn cô gái tuổi Ngọ lại hiền thục, dịu dàng, thông minh lanh lợi. Cả hai đều là những người có hoài bão và luôn phấn đấu vì mục tiêu đã định. Người chồng sẽ dồn hết tâm sức để làm việc, hết mình vì sự nghiệp và gia đình. Người vợ thì bao dung cho những khiếm khuyết của chồng, khéo léo hài hòa sức mạnh của cả hai người để đôi bên có thể cùng nhau vững bước trên đường đời và chung tay xây dựng cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc.    Hy Vũ   
Tổng quan tử vi 12 tháng năm Đinh Dậu 2017 cho người tuổi Dần Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Dần Người tuổi Dần nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tình duyên người tuổi Dần hợp với tuổi nào để hôn nhân mỹ mãn

Ngũ hành để xem đất đai

Khoa học Phong thủy được hình thành và xây dựng trên cơ sở triết lý văn hóa Đông phương với căn bản lý luận là Âm Dương và Ngũ hành. Do vậy việc vận dụng Ngũ hành trong xem xét hình thế nhà đất xưa nay luôn được coi trọng, nhất là khi xem xét thế đất và hình dáng nhà cửa.
Ngũ hành để xem đất đai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyên lý Ngũ hành sinh khắc và khả năng ứng dụng
Nguyên lý Ngũ Hành Sinh Khắc xác định vạn vật trong vũ trụ được cấu tạo – phân tích – tổng hợp từ 5 yếu tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thực ra, bản chất của Hành là sự vận động, tương tác và biến chuyển. Do vậy, những vật chất cụ thể như nước, lửa, đất, cây cối… chỉ là ký hiệu bề nổi để người sử dụng dễ nhận diện, dễ nhớ mà thôi.

Quan hệ Sinh-Khắc của Ngũ hành có tính tương đối. Ví dụ Thủy sinh Mộc tức là nước giúp cho cây tươi tốt. Cây hút chất màu của đất nên Mộc khắc Thổ. Quặng kim loại khai thác từ lòng đất (Thổ sinh Kim)… Các hành trong Ngũ hành là những khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng và được tổng hợp từ mối các quan hệ vật chất trong thiên nhiên. Ngũ hành được ứng dụng khá nhiều trong Phong Thủy khi chọn hình thế nhà đất, phương hướng, sử dụng vật liệu, màu sắc sao cho Ttương sinh hòa hợp.

Theo Ngũ hành, thế đất được phân thành các hình như sau: ngoằn ngoèo (Thủy), hình dài (Mộc), hình nhọn (Hỏa), hình tròn (Kim) và hình vuông (Thổ). Mỗi thế đất tương ứng với mỗi hành đều tương sinh và tương khắc với các hành khác. Từ đó, có thể phối hợp – chỉnh sửa sao cho phù hợp. Ví dụ: khi ta gặp một khu đất vuông vức bằng phẳng có nhiều nhà mái bằng chung quanh, tức là địa điểm mang tính chất Hành Thổ, thì nên xây cất thế nào cho phù hợp Ngũ hành? Các khả năng sau đây sẽ xảy ra:

- Nếu kiến trúc làm có dạng Mộc (cao ốc vươn lên), thì do Mộc khắc Thổ, cao ốc này sẽ ảnh hường xấu đến chung quanh như lún nền , che khuất nắng gió, ồn ào… Do đó, cao ốc thường được quy hoạch thành khu riêng, không nên xen cấy giữa các nhà thấp.

- Làm theo dạng Hỏa, hình chóp nhọn, do Hỏa sinh Thổ nên khu lân cận được lợi. Khu đất này phù hợp để xây trường học, công trình công ích, biệt thự có mái ngói đỏ.
-  Làm theo dạng Thổ, hình nhà vuông vức, tức là Song Thổ Đồng Cung, ngôi nhà này hòa nhập với môi trường Thổ chung quanh.
- Làm theo hành Kim, nhà sẽ có hồ nước tròn, bồn cây tròn, hoặc mái vòm, cửa tròn… Do hành Kim tượng trưng cho tiền bạc, nên các trung tâm tài chính, ngân hàng hay xây theo dạng có mái hoặc cổng có dạng vòm (thuộc Kim).
- Làm dạng Hành Thủy, hình ngoằn ngoèo, uốn khúc với đất hành Thổ là bất lợi, vì Thổ khắc Thủy, các góc cong khó sử dụng, ít khi dùng cho nhà ở. Thường hành Thủy phù hợp với dạng khu vui chơi giải trí như nhà hát Opera Sidney là một công trình đặc trưng hành Thủy.

Nguồn: Tuvi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành để xem đất đai

Thao tác phong thủy của kiến trúc cổ đại –

Trong kiến trúc học cổ của Trung Quốc, khi làm nhà, chọn nơi ở và chọn ngày là việc hết sức quan trọng. Bất luận từ Quân vương, quan lại đến những người dân bình thường, trước khi xây cất nhà, dù là sửa chữa hay xây mới đều phải tìm đến thầy phong th

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

uỷ nhờ thăm dò, chọn nơi, chọn ngày. Người xưa rất chú ý đến phương diện thao tác thực tế.

06_DOOL_101007_K1_2
Chọn ngày, cần lấy tứ trụ của con người và hướng nhà làm tiêu chuẩn nhận biết.

Chọn ngày là một môn học uyên thâm, ngày tốt hay xấu không thể mới xem là kết luận được, mà là phải căn cứ vào từng người, tình hình cụ thể mới có thể quyết định chọn được ngày tốt.

Trong sách phong thuỷ học truyền thống người ta đặc biệt coi trọng việc chọn ngày, bởi vì vạn sự cần được bắt đầu cẩn trọng, có sự khởi đầu tốt, mọi sự tất thành công. Vì vậy, có một ngày tốt có thể mang lại những ảnh hưởng của từ trường tốt cho những ngày đầu tiên, tạo đà cho sự phát triển của sự việc.

Chọn ngày với mỗi người có sự khác nhau. Chủ trương của người xưa căn cứ vào lá số tử vi, cụ thể tìm ra năm sinh, tháng sinh, ngày sinh và giờ sinh, phong thuỷ học gọi là “tứ trụ”, tiếp đó kết hợp với toạ hướng cụ thể của long mạch và gia trạch của khu đất đó để tính ra được ngày cát hung. Ví dụ như ở thời cổ đại, vua xây dựng cung điện cần chọn ngày cát thì nhất định phải căn cứ vào lá số tử vi của vua và hướng toạ cụ thể của cung điện và long mạch của cung điện để tính ngày cần có; nếu là xây dựng nhà ở của người dân bình thường, thì dựa vào lấy lá số tử vi của gia chủ và hướng cụ thể của ngôi nhà để tính.

Trong phong thuỷ học, ngày tốt xấu kỳ thực không thể là tuyệt đối, mà nó thay đổi theo mỗi người. Như vạn sự vạn vật đều có hai mặt tương phản, chỉ cần sử dụng đúng mục đích, nắm bắt được thiên thời, địa lợi và nhân hoà thì có thể biến hung thành cát, tránh được điều hại. Người xưa cho rằng, cũng một ngồi nhà, mỗi người ở trong đó có lá số tứ vi khác nhau nên ngày cát giờ cát với họ cùng khác nhau.

Lý lẽ giản đơn này có thể giải thích bằng ví dụ trong y học. Ví dụ nhân sâm ngàn năm là một loại dược liệu rất tốt, nó đại bổ nguyên khí, sử dụng rất có hiệu quá đối với cơ thể, tuy nhiên đối với những người bị mắc bệnh mạch vành tim, bệnh cao huyết áp, bệnh thiếu máu lên não, bệnh tiểu đường thì dùng nhân sâm lại hết sức thận trọng, bởi vì protein trong nhân sâm lắng xuống thành chất béo khó có thể phân giải được, từ đó khiến máu nhiễm mỡ làm cho bệnh tình của bệnh nhân càng thêm nghiêm trọng. Cũng như vậy, mọi người đều biết, thạch tín là một chất cực độc. Vậy mà trong y học lại có thể sử dụng thạch tín để diều trị bệnh ung thư và các loại bệnh suyễn ở động vật. Vì thế chí cần tuỳ bệnh bốc thuốc thì có thể biến chất độc thành thuốc tốt, nói vậy có nghĩa là “lấy độc trị độc”.

Từ đó việc chọn ngày không chỉ dựa vào cát hung được ghi chép trong Hoàng lịch đang lưu truyền trong xã hội ngày nay, mà phải lấy tứ trụ và hướng nhà gia chủ để nhận biết tiêu chuẩn. Vị trí và ngày giờ của phong thuỷ đẹp giống như củ nhân sâm ngàn năm kia, mọi người phải biết sử dụng nó thích hợp. Ngày đẹp được ghi chép trong Hoàng lịch giống như con dao hai lưỡi, với người tiều phu nào đã biết sử dụng thành thục con dao đó thì nó sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc của anh ta, nhưng với người chưa biết sử dụng thì nó có thể làm hại chính người sứ dụng.

Tục ngữ có câu: “Đất có phúc chọn người có phúc”, người xưa cho rằng một mảnh đất có phúc phải có một người có phúc khí ở thì mới có thể phát triển thịnh vượng. Người và đất đều có phúc, hai nhân tố này có duyên phận với nhau có thể cùng nhau phát triển thịnh vượng. Giả dụ mà mệnh không nhận được thì đó là có duyên mà không có phận, như vậy thì dù có ở nơi phong thuỷ tốt đến đâu cũng chỉ là tốn công vô ích, nghiêm trọng còn có thể bị huỷ hoại tiền đồ, gia đình ly tán, người bị thương vong. Cũng giống như thạch tín vậy, vị trí và ngày giờ của phong thủy không tốt, cũng không hẳn là tất cả mọi người không thể dùng nó, được tính là “ngày đại hung” như trong ghi chép của Hoàng lịch nhưng nếu như mệnh của người đó phù hợp thì dùng ngày này lại mang đến thuận lợi. Vì vậy chỉ cần vận mệnh người ở và mảnh đất đó phù hợp, duyên phận hợp nhau, thì đó sẽ là một nơi tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thao tác phong thủy của kiến trúc cổ đại –

Điều cần chú ý khi nuôi con vật trong phong thủy –

Chó là con vật cưng được yêu thích trong những năm gần đây, mọi người đều có thể nuôi được chó. Nhưng không phải gia đình nào cũng thích hợp nuôi một con chó: Một số con chó nuôi trong nhà rất dễ sinh bệnh tật, cho dù ban đầu chú chó đó rất khỏe mạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

, nhưng khi nuôi trong một số nhà ở thì sẽ nhanh chóng yếu đi; nhưng có một số gia đình dù nuôi thế nào thì con chó nuôi cũng đều rất khỏe mạnh. Vấn để này chì có phong thủy học mới tìm được đáp án.

Chó trong 12 địa chi thuộc vào chữ “Tuất”. Mà tương hợp địa chỉ của chó lại có “Dần” và “Ngựa”, tiếp đó là “Mão”.

388695_10151446411941785_1422089396_n

Phương vị của “Tuất” ở Càn phương, tức là phía Tây Bắc.

Phương vị của “Dần” ở Cấn phương, tức là phía Đông Bắc.

Phương vị của “Ngọ” ở Ly phương, tức là phía chính Nam.

Phương vị của “Mão” ở Đông phương, tức là chính Đông.

Bốn phương kia chính là hướng hợp với chó, nếu cửa chính của nhà bạn quay về những phương hướng đó, nuôi dưỡng chó sẽ rất khỏe mạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điều cần chú ý khi nuôi con vật trong phong thủy –

3 chòm sao nữ biết yêu chính mình

Các cô gái trong tình yêu thường mềm yếu và có chút mù quáng. Nhưng 3 chòm sao nữ mạnh mẽ dưới đây thì khác nhé, họ tự tin, độc lập, biết yêu thương bản thân.
3 chòm sao nữ biết yêu chính mình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các cô gái trong tình yêu thường mềm yếu và có chút mù quáng. Nhưng 3 chòm sao nữ mạnh mẽ dưới đây thì hoàn toàn khác nhé, họ tự tin, độc lập, biết yêu thương bản thân nên càng khiến cho người khác cảm thấy hấp dẫn.

=> Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao được cập nhật mới nhất

3 chom sao nu biet yeu chinh minh hinh anh 2
 
Nhân Mã
Cô gái Nhân Mã sinh ra đã phóng khoáng và tràn đầy sức sống, bản năng của họ là sự tự do và vui vẻ. Vì thế, không giống những cô gái khác khi yêu thường có giận hờn, buồn bã hay quá dựa dẫm vào tình cảm, Nhân Mã rất rõ ràng và thoải mái. Yêu thì phải hạnh phúc, không hạnh phúc thì không yêu nữa, đơn giản vậy thôi.   Sự thú vị của một nàng Nhân Mã
Cự Giải
  Cự Giải vốn là chòm sao nữ hiền lành, nhưng lại khá mạnh mẽ và biết cách làm bản thân thỏa mãn. Tuy biết cách quan tâm tới người khác, nhất mực chăm sóc và mong muốn được đối phương hồi đáp nhưng nếu không như ý thì Cự Giải cũng không lấy đó làm suy sụp. Họ cam tâm tình nguyện nên sau quãng thời gian trầm mặc sẽ tự mình rút lui, bảo vệ bản thân và tự đối tốt với mình.
Cự Giải - Cự Giải: cưới ngay kẻo lỡ
3 chom sao nu biet yeu chinh minh hinh anh 2
 
Ma Kết
  Ma Kết từ trước đến nay đều là chòm sao nữ mạnh mẽ, khi yêu họ có ý thức trách nhiệm cao với bản thân và đối phương nên biết cách cân bằng trong cuộc sống. Kết Kết đối xử tốt với người họ yêu và yêu cầu được đáp lại như vậy một cách hết sức tự nhiên, mối quan hệ sẽ trở nên thuận lợi và cả hai cùng cảm thấy vui vẻ. Họ còn có bản lĩnh tự điều tiết cuộc sống theo ý mình, nên không bao giờ vì yêu mà bỏ bê bản thân.   Tuy rằng hiền dịu nhu mì không có gì sai những nếu vất vả miễn cưỡng bản thân, vì tình yêu mà khiến mình phải chịu đựng thì thật không đúng. Vì càng yêu thì càng phải trân trọng và đối tốt với nhau.   Khám phá tính cách của Ma Kết theo ngày sinh
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ biết yêu chính mình

Tết này cẩn thận khi cắt tóc mái, coi chừng xui xẻo đeo bám mà không hay biết

Cùng một kiểu tóc mái nhưng có người lại hợp có người lại không. Vì vậy không phải cứ kiểu tóc hợp thời trang hay hợp khuôn mặt sẽ tốt cho chị em phụ nữ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo sự tiến bộ của xã hội, kiểu tóc cũng ngày càng đa dạng hơn. Bằng sự phát triển của xu hướng thời trang, các công cụ và kỹ thuật làm tóc, thời nay bất cứ ai cũng có thể có được một kiểu tóc theo đúng ý bản thân với đủ hình thức đa dạng.

Tuy nhiên đa phần mọi người đều chỉ quan tâm đến kiểu tóc xấu đẹp, hợp thời trang hay không mà quên mất rằng kiểu tóc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến vận may của mỗi người. Trong thời buổi hiện nay, mốt để tóc mái đang được nhiều người yêu thích vì tạo cảm giác trẻ trung hơn so với tuổi thực đồng thời đây cũng là kiểu thời trang được các sao Hàn yêu thích. Tuy nhiên cùng một kiểu tóc mái nhưng có người lại hợp có người lại không. Vì vậy đôi khi không phải cứ kiểu tóc hợp thời trang hay hợp khuôn mặt sẽ tốt cho chị em phụ nữ. Vì vậy cần lưu ý những điều sau đây:

1. Không nên để tóc mái quá dài

Tết này cẩn thận khi cắt tóc mái, coi chừng xui xẻo đeo bám mà không hay biết - Ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Nếu để tóc mái quá dài là điều không tốt chút nào, đặc biệt là những người trẻ tuổi. Theo nhân tướng học trán, lông mày hay tai đều có liên quan đến tài vận của mỗi người. Tóc mái dài che mất những bộ phận này sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến vận mệnh của mỗi người.

Ngoài ra tóc quá dài che tầm mắt lâu ngày sẽ khiến tâm lý sinh ra cảm giác hoang mang, lạc lõng và dễ dàng đánh mất phương hướng.

Kiểu tóc này cũng khiến bạn dễ tạo thành cảm giác u ám, cô độc và lạnh lùng, ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội, không tốt trong việc kết bạn.

2. Người dưới 30 không nên để tóc mái

Tết này cẩn thận khi cắt tóc mái, coi chừng xui xẻo đeo bám mà không hay biết - Ảnh 2.

(Ảnh: Internet)

Theo các chuyên gia nhân tướng học, trán là một trong những bộ phận quan trọng ảnh hưởng đến vận may, hạnh phúc và thành công của mỗi người. Giai đoạn trẻ tuổi là giai đoạn đặt nền tảng cho sau này của mỗi người, trán cũng vì thế mà có khá nhiều sự thay đổi. Để tóc mái che kín trán đồng nghĩa với việc che khuất vận may của bản thân, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sau này.

3. Người ế không nên để tóc mái

Tết này cẩn thận khi cắt tóc mái, coi chừng xui xẻo đeo bám mà không hay biết - Ảnh 3.

(Ảnh: Internet)

Đối với những người thường không gặp may mắn trong chuyện tình cảm hay sống độc thân lâu năm dù cố gắng tìm kiếm một nửa còn lại thì rất có thể tóc mái là một phần nguyên nhân.

Theo các chuyên gia nhân tướng học, trán cũng là một trong những bộ phận quan trọng trong chuyện tình duyên của mỗi người. Để tóc mái che trán sẽ làm mất đi vận đào hoa hoặc dễ gặp chuyện không vui khi hẹn hò.

Ngoài ra chúng ta cũng nên lưu ý đến những điều sau:

Trong ngũ hành, tóc thuộc hành Mộc. Vì vậy độ dài của tóc cũng ảnh hưởng đến số mệnh của mỗi người. Nếu ngũ hành của bạn hợp với Mộc thì để tóc dài rất tốt. Nhưng nếu ngũ hành kị với Mộc thì tốt nhất nên cắt tóc ngắn.

Khi đi nhuộm tóc cũng nên lưu ý đến ngũ hành của mình. Nếu như ngũ hành của bạn kị Hỏa thì đừng nhuộm màu đỏ hay hồng. Cũng đừng nên chọn màu nhuộm tóc quá quái dị, dù nổi nhưng không tốt cho số mệnh. Không nên nhuộm quá 3 màu trên tóc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết này cẩn thận khi cắt tóc mái, coi chừng xui xẻo đeo bám mà không hay biết

Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Văn Khấn Tết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch) được dùng vào Tiết Thanh Minh. Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ).
Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch) được dùng vào Tiết Thanh Minh. Ông bà ta xưa chọn Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ấm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.

Nhân lúc đi Thanh Minh tảo mộ, để tưởng nhớ tổ tiên, người thân đã khuất, mọi người có thể dạo chơi ngắm cảnh cỏ cây tươi tốt, nên còn gọi là Đạp Thanh. Nguyễn Du có câu:

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh

Sắm lễ cúng tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch)

Lễ trong tiết Thanh Minh gồm có: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt (chân giò, gà luộc hoặc một khoanh giò nạc độ vài lạng), hoa quả.

Khi đến nghĩa trang hay khu vực có để mộ phần của gia đình mình thì gia chủ đặt lễ vào chỗ thờ chung. Sau đó thắp đèn, nhang, vái ba vái vị Linh thần Thổ địa rồi khấn.

Văn khấn tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch)

1. Văn khấn lễ âm phần Long Mạch, Sơn thần thổ phủ nơi mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.

Hôm nay là ngày: ………………..
Tín chủ (chúng) con là:…………

Nhân tiết Thanh minh (hoặc là nhân tiết thu, tiết đông, hoặc nhân ngày lành tháng tốt.. .) tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám.

Gia đình chúng con có ngôi mộ của…………………..

Táng tại xứ này, nay muốn sửa sang xây đắp (hoặc tảo mộ, bốc mộ…) vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản trong khu vực này, chúng con kính mời các vị chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

2. Lễ vong linh ngoài mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương

– Con kính lạy Hương linh………(Hiển khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo…)

Hôm nay là ngày. . ………….

Nhân tiết:……………………..

Tín chủ (chúng) con ……….

Ngụ tại:………………………

Chúng con và toàn thể gia đình con cháu, nhờ công ơn võng cực, nền đức cao dầy, gây dựng cơ nghiệp của………….. chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân linh……. . lai lâm hiến hưởng.

Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi xa, bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái. Con cháu chúng con xin vì chân linh . . ……..Phát nguyện tích đức tu nhân, làm duyên, làm phúc cúng dâng Tin Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.
Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế hờ tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.
Sau khi khấn xong, đợi hết 2/3 tuần hương thì đi lễ tạ các nơi, hóa vàng, xin lộc và mọi người trở về nhà làm lễ gia thần và gia tiên ở nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

4 nguyên tắc phong thủy hôn nhân cần biết

Ngoài tình yêu còn cần rất nhiều sự nỗ lực, trong đó nỗ lực cải thiện phong thủy hôn nhân, giảm thiểu những tác động xấu từ bên ngoài khá quan trọng.
4 nguyên tắc phong thủy hôn nhân cần biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có một cuộc hôn nhân hoàn mỹ lâu dài, chung sống với nhau tới đầu bạc răng long, vợ chồng hòa thuận, con cái tốt đẹp là hi vọng của tất cả mọi người. Hôn nhân là sự ràng buộc về tình cảm, trách nhiệm, không ai mong muốn gãy vỡ nhưng đâu phải muốn là được. Ngoài tình yêu còn cần rất nhiều sự nỗ lực, trong đó nỗ lực cải thiện phong thủy hôn nhân, giảm thiểu những tác động xấu từ bên ngoài cũng là một yếu tố quan trọng.

4 nguyen tac phong thuy hon nhan can biet  hinh anh
 

1. Không để trước cửa có vũng nước

  Từ góc độ phong thủy hôn nhân, nơi cửa lớn tuyệt đối không được xuất hiện vũng nước, nước bẩn thì lại càng không thể có. Bởi nước tượng trưng cho sự đào hoa, tính lẳng lơ nên dễ khiến cho người trong nhà có thái độ quá trớn trong tình cảm, đi quá giới hạn, không biết kiềm chế bản thân.   Đặc biệt, nếu là nước bẩn thì mọi chuyện sẽ càng nghiêm trọng hơn, xuất hiện người thứ ba chen chân vào hôn nhân, tỉ lệ li hôn vô cùng lớn. Vì thế, tốt nhất là nên giữ trước nhà sạch sẽ, khô ráo, không đọng nước, không tù túng, có hệ thống thoát nước tốt và không thấp hơn so với đường.   Không nên bày lọ, chậu, đồ vật chứa nước lớn ở trước cửa nhà, dễ phạm phong thủy lại mất vệ sinh, nước tù đọng là môi trường sinh sôi nảy nở của các loại vi khuẩn, kí sinh trùng gây bệnh, ảnh hưởng tới sức khỏe của người trong nhà. 
Xem thêm bài viết Những lưu ý phong thủy cửa chính năm 2017 đón Đinh Dậu thuận buồm xuôi gió
 

2. Không bố trí nhà vệ sinh đối diện cửa

  Nguyên tắc phong thủy mà hầu như ai cũng biết là nhà vệ sinh tuyệt đối không được đối diện với cửa lớn, cửa chính trong nhà. Nếu nhà bố trí phạm phải lỗi này thì trong nhà sẽ gặp nhiều việc xúi quẩy, năng lượng xấu dễ dàng xâm nhập khiến vợ chồng cãi vã, tranh chấp, không hòa hợp nên dễ xuất hiện li hôn, phải trải qua hai lần hôn nhân.
4 nguyen tac phong thuy hon nhan can biet  hinh anh
 
Vì thế, khi bố trí nhà, tốt nhất là không nên để nhà vệ sinh đối diện cửa chính. Nếu trót phạm phải lỗi phong thủy hôn nhân này thì hãy hóa giải bằng cách đặt bình phong ở khoảng không gian giữa cửa chính và nhà vệ sinh, trước cửa nhà vệ sinh treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, treo mành rèm hoặc đặt chậu cây xanh trước cửa nhà vệ sinh.  

3. Không trang trí quá nhiều đèn trong nhà

  Trong nhà quá nhiều đèn theo phong thủy là không hề tốt, chỉ nên vừa đủ. Lỗi này sẽ mang tới những rắc rối không đáng có trong đời sống hôn nhân, những bí mật đang che giấu đối phương dễ dàng bị phát hiện, những điều nho nhỏ mà đôi bên muốn giữ cho riêng mình dễ dàng bị vạch trần nên dễ xuất hiện ồn ào, không hợp, thậm chí còn có thể nảy sinh cãi cọ, động chân động tay, rất dễ trải qua nhiều lần hôn nhân.   Tốt nhất là chỉ nên trang trí đèn vừa phải, nếu đã bày trí quá nhiều đèn trong nhà thì hoặc là loại bỏ bớt, hoặc là hạn chế sử dụng, không nên bật tất cả các đèn cùng một lúc để tránh ảnh hưởng tới hôn nhân của người trong nhà.
Xem thêm bài viết Cải thiện phong thủy phòng khách nhờ dùng chuẩn đèn
 

4. Không treo nhiều tranh ảnh người khác phái


4 nguyen tac phong thuy hon nhan can biet  hinh anh
 
Nếu nói trong nhà không nên treo nhiều tranh ảnh thì không có nghĩa là không được treo ảnh trẻ nhỏ mà nên hạn chế ảnh mỹ nữ, mỹ nam, những người khác phái có dung mạo đẹp. Vì theo phong thủy hôn nhân điều này dễ dàng khiến vợ chồng không hòa thuận, ảnh hưởng tới cuộc sống sinh hoạt của hai người. Vì thế, nếu trong nhà có treo tranh ảnh như vậy thì nên mau mau hạ xuống kẻo hôn nhân thất bại. Tham khảo thêm bài viết Chỉ rõ 5 loại tranh tổn hại phong thủy khi treo trong phòng ngủ   Phong thủy hôn nhân còn nhắc nhở không nên treo tranh hoàng hôn, tranh hoa mẫu đơn trong phòng ngủ, ngụ ý chia li, có người thứ ba xen vào hạnh phúc gia đình. Tốt nhất hãy chọn những bức tranh vui vẻ, sáng sủa, thể hiện sự tích cực, lạc quan, tranh có đôi có cặp thì cuộc sống gia đình sẽ ngày càng tốt đẹp và hài hòa.
Bí kíp phong thủy giúp nàng ế thoát kiếp độc thân hiệu quả nhất Bật mí mẹo phong thủy hâm nóng đời sống vợ chồng cho 12 con giáp Dự đám cưới - dịp tốt để thúc đẩy đào hoa cho bản thân Dùng cây xương rồng đuổi đào hoa dữ, tìm lại bình yên

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 nguyên tắc phong thủy hôn nhân cần biết

Tên gọi mang ý nghĩa hạnh phúc cho Con

Là cha mẹ, ai cũng mong muốn cho con mình được hạnh phúc, thành công. Hãy tham khảo một số tên mang ý nghĩa hạnh phúc và xem có phù hợp với con không nhé?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong muôn vàn ước muốn trên cuộc đời của con người, có lẽ điều mà ai cũng muốn hướng tới chính là được hạnh phúc. Cha mẹ có thể tham khảo những cái tên đẹp, ý nghĩa cho cả bé trai và bé gái, gửi gắm những ước muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho con. Nhưng quan trọng hơn cả khi lựa chọn tên cho con hãy xem tên có phù hợp với con mình hay không?

ten-hanh-phuc

Đối với tên con trai:

Tên "Đăng Phúc" mong con sẽ có cuộc đời tươi sáng, nhiều phúc lộc.

Tên "Tuấn Lộc" mang ý nghĩa là chàng trai khôi ngô, sống hạnh phúc và gặp nhiều tài lộc.

Tên "Cát An" mong con cuộc sống may mắn, bình an.

Tên "Hoàng Long" sẽ là một chàng trai có tinh thần mạnh mẽ, cuộc sống vẻ vang và sung túc.

Tên "Đăng Khánh" là ước mong con có cuộc sống với nhiều niềm vui và vinh quang.

Tên "Hoài Phúc" để con sẽ có cuộc sống luôn luôn hạnh phúc.

Tên "Khải Minh" là tương lai của con sẽ luôn sáng sủa, gặp nhiều thuận lợi.

Tên "Duy Tuấn" là chàng trai có dung mạo tuấn tú, tính cách tài giỏi.

Tên "Bảo Khang" cho con một tương lai có cuộc sống hưng vượng, phú quý, ấm no.

Tên "Tuấn Khải" là mong muốn con có cuộc sống nhiều niềm vui, vạn sự như ý.

Đối với tên con gái:

Tên "Hồng Hạnh" mang ý nghĩa hạnh phúc màu hồng, chỉ niềm vui và điều tốt lành

Tên "Cát Tiên" là mong ước một cô gái nhanh nhẹn, tài năng, gặp nhiều may mắn.

Tên "Hạnh Ngân" mang ý nghĩa cuộc sống của con tràn ngập hạnh phúc, sung túc.

Tên "Bảo Vy" là mong muốn cuộc đời của con nhiều vinh hoa, phú quý, tốt lành.

Tên "Khả Hân" là mong con cuộc sống đầy niềm vui.

Tên "Cát Thảo" sẽ là một cô gái mạnh mẽ, phóng khoáng, gặp nhiều may mắn.

Tên " Diệu Tú" để con trở thành cô gái xinh đẹp, khéo léo, tinh anh.

Tên "Diệu Khánh" là con sẽ có cuộc sống luôn vui tươi, và nhiều điều kỳ diệu.

Tên "Hân Nhiên" ước muốn con sẽ là cô gái luôn vui vẻ, và vô tư.

Tên "Uyên Thư" một cô gái xinh đẹp, học thức cao, có tài.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên gọi mang ý nghĩa hạnh phúc cho Con

Giải quyết ngay những lỗi phong thủy phòng tắm thường gặp

Những lỗi phong thủy phòng tắm nhiều người mắc phải sẽ nhanh chóng được hóa giải bởi các mẹo rất dễ thực hiện. Kiểm tra ngay phòng tắm nhà mình và làm theo
Giải quyết ngay những lỗi phong thủy phòng tắm thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lỗi phong thủy phòng tắm nhiều người mắc phải sẽ nhanh chóng được hóa giải bởi các mẹo rất dễ thực hiện. Kiểm tra ngay phòng tắm nhà mình và làm theo nhé. 


Giai quyet ngay nhung loi phong thuy phong tam thuong gap hinh anh
 
1. Phòng tắm đối diện cửa chính   Khi bước vào nhà liền nhìn thấy phòng tắm, đập vào mắt là nơi có uế khí, khiến cho gia đình gặp vận xấu.   Phương pháp hóa giải:   (1) Treo rèm hoặc đặt bình phong trước cửa phòng tắm.   (2) Treo gương Bát Quái hổ phù ở trong phòng tắm hoặc trên cửa phòng tắm.   (3) Đặt một xâu tiền Ngũ Đế, tiền Lục Đế, tiền Thập Đế dưới thảm chùi chân trước phòng tắm.   2. Phòng tắm đối diện phòng đọc sách   Cửa phòng đọc sách đối diện với cửa nhà vệ sinh, mùi hôi từ nhà vệ sinh sẽ xộc thẳng vào phòng khiến người ngồi trong đó cảm thấy khó chịu. Hơn nữa, văn chương rất kiêng kỵ khí uế, làm mất đi tính chất thanh lịch, tao nhã của việc đọc sách, ảnh hưởng đến chất lượng học tập và công việc.
Phương pháp hóa giải:   (1) Cửa phòng tắm treo rèm chắn, đồng thời ở cửa hai phòng treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để giải trừ các khí xấu.   (2) Trong phòng đọc sách nên đặt Kim Thiềm Thừ vận chuyển càn khôn, giúp gặp quý nhân, trừ bỏ tiểu nhân.   3. Phòng tắm nằm trên bếp   Bếp ngay dưới nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tràng vị của gia chủ và tài vận của gia đình. Lỗi phong thủy phòng tắm này bị rất nhiều người bỏ qua.   Phương pháp hóa giải:   (1) Tốt nhất là chuyển vị trí nhà bếp, đồng thời treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế trên cửa nhà vệ sinh để hóa hung.   (2) Đặt trong phòng tắm một chén muối thô và giữ gìn phòng tắm sạch sẽ.

Hóa giải chỗ hung trong phòng tắm nhà bạn
Đây là không gian góp phần điều hoà khí vượng cho ngôi nhà của bạn.

4. Phòng tắm đối diện cầu thang
  Cầu thang là nơi vận khí chảy qua, nếu nhà vệ sinh đối diện cầu thang thì dòng chảy vận khí không ổn định, uế khí tỏa ra khắp nhà, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn tác động tới tài vận của gia đình. Cách khắc phục lỗi phong thủy phòng tắm này không khó.   Phương pháp hóa giải:   (1) Trên cửa phòng tắm treo rèm, hai bên cửa đặt chậu cây cảnh, đồng thời treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để hóa hung.   (2) Đặt trong một chén muối thô trong phòng tắm và giữ cho phòng tắm sạch sẽ.   5. Phòng tắm đặt trong phòng đọc sách, phòng làm việc   Nhiều gia đình có thói quen thiết kế luôn phòng tắm, phòng vệ sinh khép kín trong phòng đọc sách, phòng làm việc cho tiện mà không biết rằng đây là lỗi phong thủy phòng tắm nghiêm trọng. Làm như vậy sẽ ô uế văn chương, tài vận bế tắc, khiến thành tích học tập của trẻ nhỏ trong nhà không tốt, sự nghiệp của người lớn thì gặp khó khăn.   Phương pháp hóa giải:   (1) Trên cửa phòng tắm treo rèm, đồng thời để xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để hóa hung.   (2) Đặt trong một chén muối thô trong phòng tắm và giữ cho phòng tắm sạch sẽ.  
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Ngô Yến (Theo 14944)
Xem Clip Phong thủy nhà tắm đúng chuẩn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải quyết ngay những lỗi phong thủy phòng tắm thường gặp

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd