Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những con giáp lập nghiệp lớn từ hai bàn tay trắng –

Trong 12 con giáp Con giáp nào giỏi lập nghiệp? Nếu người tuổi Thìn hay tuổi Tuất là những con giáp có lòng bao dung thì những người tuổi Hợi, họ là những người vô cùng tài giỏi, nỗ lực và có ý chí hơn người. Củ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 con giáp Con giáp nào giỏi lập nghiệp? Nếu người tuổi Thìn hay tuổi Tuất là những con giáp có lòng bao dung thì những người tuổi Hợi, họ là những người vô cùng tài giỏi, nỗ lực và có ý chí hơn người. Củ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu về những con giáp lập nghiệp lớn trong bài viết đây nhé!

Nội dung

  • 1 Những con giáp lập nghiệp lớn
    • 1.1 Quán quân: Tuổi Hợi
    • 1.2 Á quân: Tuổi Dần
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Ngọ
    • 1.4 Thứ 4: Tuổi Dậu

Những con giáp lập nghiệp lớn

Quán quân: Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi, đặc biệt là người sinh tháng 3 âm lịch, sẽ có thành công vang dội trong sự nghiệp bằng chính tài năng, khối óc và đôi tay của mình. Dù không sinh ra trong gia đình giàu có, không có nền tảng tài chính cơ bản nhưng người tuổi Hợi lại biết dựa vào trí tuệ và sự nỗ lực của mình để vượt qua mọi gian nan, thử thách và giành vinh quanh cho bản thân.

hoi-2-3796-1403718382

Thông thường, người tuổi Hợi có được đại nghiệp vững chắc và hưởng vinh hoa phú quý khi bước sang độ tuổi trung niên. Lúc đó, họ sẽ đền đáp xứng đáng những người đã giúp đỡ họ chân thành và nhiệt tình lúc khó khăn.

Á quân: Tuổi Dần

tuoi-dan-4194-1403718382

Người tuổi Dần sinh tháng 7 âm lịch thường có cuộc sống khó khăn khi trẻ, bởi không được thừa hưởng tài chính từ phía gia đình. Đổi lại, họ có ý chí kiên cường, tinh thần cầu tiến cao độ, khả năng xử lý tình huống khéo léo, nên đến trung vận họ sẽ gây dựng sự nghiệp đỉnh cao khiến ai ai cũng phải ngưỡng mộ.

Thứ 3: Tuổi Ngọ

tuoi-ngo-5007-1403718382

Những ai sinh trong tháng 5 âm lịch thuộc con giáp này cũng sẽ lập nên đại nghiệp vinh quanh cho bản thân mình khi đến tuổi trung niên. Thời thơ ấu của những người tuổi Ngọ sinh trong tháng này thường không được thuận lợi và trải qua nhiều gian khổ. Chính lẽ đó, họ luôn nỗ lực không ngừng, dùng chính trí thông minh và sự chăm chỉ của mình để đạt được thành công như mong đợi.

Thứ 4: Tuổi Dậu

Thời niên thiếu của người tuổi Dậu cũng đầy khó khăn, vất vả và không được người thân trợ giúp về khoản tiền bạc. Nhưng bằng sự nỗ lực không ngừng, cộng thêm trí tuệ thông minh, nhạy bén và lối sống lạc quan, có hoài bão, họ đã tự tạo dựng cuộc sống giàu sang, phú quý cho bản thân từ đôi bàn tay trắng.

dau-7251-1403718383

Đặc biệt, những người sinh vào tháng 8 âm lịch thường có số giàu sang, cuộc sống sung túc, được cả danh và lợi khi bước sang tuổi trung vận. Họ thường chủ động lập kế hoạch rõ ràng và cố gắng đến sức lực để đạt được mục tiêu đã đề ra.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp lập nghiệp lớn từ hai bàn tay trắng –

Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu –

Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu là gì? Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Nhóm máu A, B .. Thì sao? Củ thể như thế nào các bạn cùng đọc bài viết sau để có câu trả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu là gì? Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Nhóm máu A, B .. Thì sao? Củ thể như thế nào các bạn cùng đọc bài viết sau để có câu trả lời một cách chính xác nhất nhé!

Nội dung

  • 1 Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu
    • 1.1 Nhóm máu A: Cần những cô gái ấm áp
    • 1.2 Nhóm máu B: Cần những cô gái chỉ đường
    • 1.3 Nhóm máu AB: Cần những cô gái chín chắn
    • 1.4 Nhóm máu O: Cần những cô gái biết đồng cảm

Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu

Nhóm máu A: Cần những cô gái ấm áp

Những chàng trai nhóm máu A luôn giúp đỡ người khác, thích cho đi, biết hy sinh và có tinh thần trách nhiệm. Họ không giỏi trong việc biểu đạt những nhu cầu của bản thân. Mặc dù nhìn họ rất kiên cường, cởi mở và điềm tĩnh nhưng thực ra họ vô cùng mong muốn người khác hiểu và quan tâm tới mình.

Nếu có một cô gái thiện lương, thật lòng yêu họ xuất hiện, dùng sự vui tươi và ấm áp chiếu rọi cuộc sống của họ, khích lệ họ nói ra những nhu cầu chôn giấu ở trong lòng, khiến họ biết cách đáp ứng các nhu cầu đó thì cuộc sống của họ sẽ vui vẻ hơn rất nhiều.

Nhóm máu B: Cần những cô gái chỉ đường

Tư duy của các chàng trai thuộc nhóm máu B rất lung tung. Chẳng hạn như họ sẽ có cảm hứng bất tận với những thứ rộng lớn, không có giới hạn, nhưng cũng thường lãng phí sức lực của mình cho những thứ đó. Mặc dù họ cũng ý thức được điều này nhưng lại không thể khống chế được bản thân.

Vì thế, các chàng trai nhóm B cần một người bạn đồng hành sáng suốt có thể dẫn họ thoát khỏi màn sương mù dày đặc, có thể chỉ hướng cho họ trên đại dương mênh mông, hoặc đưa họ trở về đúng hướng khi bị chệch khỏi đường ray.

0-2268-1394011926

Nhóm máu AB: Cần những cô gái chín chắn

Trong tình yêu, mặc dù không nhất thiết sẽ thể hiện ra, nhưng những chàng trai thuộc nhóm máu AB có tính ỷ lại rất lớn. Bất kể ở độ tuổi nào, bên trong họ vẫn ẩn giấu một bộ mặt trẻ con và chưa hoàn toàn trưởng thành. Tư duy của họ khá nhanh nhạy, nhưng lại không được chắc chắn, thậm chí nhiều lúc còn mâu thuẫn với nhau.

Nếu có một người bạn gái chín chắn, biết quan tâm, hiểu được rằng họ cảm thấy không an toàn với cuộc sống, bảo vệ, che chở, yêu thương họ thì họ sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

Nhóm máu O: Cần những cô gái biết đồng cảm

Mẫu bạn gái mà các chàng trai nhóm máu O cần là những người cùng chung chí hướng, chung sở thích với họ. Mặc dù ăn ý với nhau nhưng hai bên vẫn phải cho đối phương những không gian riêng tư. Các chàng trai nhóm máu O ghét nhất là nói chuyện vòng vo, phiền phức. Với họ, nói chuyện hợp nhau là điều kiện quan trọng để bắt đầu mối quan hệ.

Nếu thấy những người khác giới nói chuyện không suy nghĩ, dù các mặt khác có hấp dẫn thế nào đi chăng nữa thì họ cũng sẽ tìm cách tháo chạy. Các chàng trai thuộc nhóm máu này khiến người khác yêu thích bởi khả năng kiểm soát và làm chủ của họ, nhưng họ lại muốn mình và người yêu giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau vun đắp tình yêu.

Xem thêm: 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn gái lý tưởng của các chàng trai theo nhóm máu –

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà - Phong thủy - Xem Tử Vi

Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà, tu vi Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà, tu vi Phong thủy
Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà - Phong thủy - Xem Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà

 Tiền xu dễ lôi kéo ma quỷ, quần áo cũ dễ mang tới điều chẳng lành nếu bạn thường xuyên để chúng trong nhà. Cùng xem phong thủy nhà ở và khám phá nguyên nhân khiến những thứ này sẽ mang lại xui xẻo khi bạn trang trí trong nhà nhé!

1.Tiền xu

Không ít người cho rằng, tiền xu là vận cát tường, mang lại nhiều phúc khi. Tuy nhiên, nó chỉ đúng khi bạn mang theo tron người. Trường hợp bày biện tiền xu trong nhà sẽ mang lại vận xui cho chủ nhân, đặc biệt là tăng âm khí, dễ lôi kéo ma quỷ.

Từ xa xưa, phong thuy các thầy bói đã biết dùng tiền xu để phục vụ công việc bói toán, xem âm dương. Do đó, theo quan điểm phương Đông, tiền xu có thể tập hợp các linh hồn lại với nhau. Nếu không muốn có thêm nhiều “vị khách vô danh” tới thăm, bạn cần bỏ sở thích tích trữ và trưng bày tiền xu trong nhà nhé.

2. Cây xương rồng

Bày biện cây xanh là cách tạo phúc khí tốt lành. Tuy nhiên, không phải loại cây nào cũng phù hợp để trang trí trong nhà.

Theo Phong thủy học cổ xưa, xương rồng là loại thực vật rất dễ sống trong mọi hoàn cảnh. Nó chỉ phát huy tác dụng trong trường hợp ngôi nhà vừa mới bị hỏa hoạn hoặc có tang. Sức sống mãnh liệt của loài cây này sẽ làm giảm âm khí, xua đuổi tà ma. Do đó, xương rồng bị liệt vào danh sách vật trưng bày xui xẻo cho ngôi nhà.

Nếu yêu thích xương rồng, bạn có thể đặt chúng ở ngoài ban công. Tốt nhất, bạn chỉ nên dùng hoa lan hoặc hoa hướng dương để tăng vận khí tốt lành nếu muốn trang hoàng nhà cửa.

3. Quần áo cổ

Không ít gia đình thích bày biện đồ cổ, đặc biệt là quần áo cũ của người cổ xưa trong nhà. Điều đó không mang lại may mắn, thậm chí còn tạo xui xẻo cho chủ nhân. Bởi quần áo cũ chứa âm khí của người đã khuất còn vương lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở những thứ xui xẻo không nên trang trí trong nhà - Phong thủy - Xem Tử Vi

Dấu hiệu báo trước của người bị rơi xuống địa ngục

Địa ngục là chốn đau khổ đọa đày mà không một ai muốn phải rơi vào sau khi chết. Những biểu hiện khi sắp chết sau báo hiệu địa ngục đang rộng cửa đón chờ.
Dấu hiệu báo trước của người bị rơi xuống địa ngục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa ngục là nơi con người trả nghiệp khi sống, là chốn đau khổ đọa đày mà không một ai muốn phải rơi vào sau khi chết. Những biểu hiện khi sắp chết sau báo hiệu địa ngục đang rộng cửa đón chờ.


Dau hieu bao truoc cua nguoi bi roi xuong dia nguc hinh anh
 
Biểu hiện khi sắp chết mà đưa hai tay quờ quạng trên hư không là quỷ địa ngục đang tới chuẩn bị dẫn xuống.
 
Có người trước khi chết, kêu gào la khóc, là đang cố báo cho người thân kêu cầu tránh khỏi kiếp địa ngục.
 
Có người trước khi chết, đi đại tiểu tiện ra ngoài mà không hay không biết.
 
Có người trước khi chết, hai mắt nhắm lại không dám mở ra là vì nhìn thấy quỷ địa ngục tới đón mà sợ hãi.
 
Có người trước khi chết, thường xoay mặt vào vách, hoặc úp mặt xuống giường.
 
Có người trước khi chết, cố nằm nghiêng mà ăn, mình mẩy, miệng mồm hôi hám.
 
Có người trước khi chết, hai chân run rẩy, sống mũi siêu vẹo, là thể hiện sự sợ hãi, biếng dáng đổi hình, sắp sa lầy vào chốn ngục sâu.
 
Có người trước khi chết, hai mắt đỏ ngầu, ấy là sắp biến thành quỷ dưới dịa ngục.
 
Có người trước khi chết, thân hình co rút lại, dần bị rút sự sống mà bước xuống địa ngục.
 
Khi đó, hơi lạnh từ trên đầu xuống đến bàn chân người bệnh, rồi hơi ấm trụ nơi bàn chân. Trường hợp đó, ta biết người này sẽ đọa vào cảnh giới địa ngục xấu ác.
 
Phải rơi vào địa ngục sau khi chết là do khi sống đã tạo nghiệp ác, chết rồi phải trả nghiệp ấy, phải bị trừng phạt. Vì vậy, hãy sống phúc đức, làm điều lành, tránh điều ác để khi sống thì vui vẻ, khi chết thì thanh thản với đời.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Theo Xuân giao

 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dấu hiệu báo trước của người bị rơi xuống địa ngục

Ý nghĩa của các loài cây –

Trong thực tế ứng dụng phong thủy học, mỗi loài cây khác nhau có những ý nghĩa tượng trưng riêng. Quất Là loại cây được mọi người yêu thích nhất vào mỗi dịp tết đến xuân về. Do chữ “quất” đọc lên gần giống chữ “cát” trong từ “cát tường”, nên cây quất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong thực tế ứng dụng phong thủy học, mỗi loài cây khác nhau có những ý nghĩa tượng trưng riêng.

Quất

Cay-quat-ngay-tet-nguyen-dan-45

Là loại cây được mọi người yêu thích nhất vào mỗi dịp tết đến xuân về. Do chữ “quất” đọc lên gần giống chữ “cát” trong từ “cát tường”, nên cây quất đựợc cho là mang ý nghĩa may mắn.

Cây hoa mai

Hoa mai nở vào thời khắc giao mùa giữa mùa đông và mùa xuân, được xem là “độc thiên hạ nhi xuân”, vì thế còn được gọi với một cái tên khác là “hoa báo xuân”. Ngưòi ta cho rằng, năm cánh hoa mai tượng trưng cho năm vị thần may mắn, cũng là tượng trưng cho “ngũ phúc” là vui vẻ, hạnh phúc, trường thọ, thuận lợi và bình an. Bởi thế mới có bức tranh gọi là tranh “mai khai ngũ phúc”. Không chỉ thế, năm cánh hoa mai còn có mối liên hệ với ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ trong âm dương. Trên các câu đối chúc thọ thường có câu “mai khai ngũ phúc, trúc báo tam đa” (vì trúc có ba nhánh) với hàm ý chúc mọi sự may mắn. Trồng mai ngoài vườn hay trong chậu cảnh đều có giá trị thưởng thức như nhau.

Cỏ cát tường

Còn gọi là cỏ đoan. Chỉ một cái tên đã đủ cho thấy đây là một loài cây có ý nghĩa may mắn. cỏ cát tường nhỏ xinh, quanh năm xanh rờn, tươi tôt. Dù sống trong bùn đất hay trong nước, cây đều có thể sinh trưởng một cách dễ dàng. Loài cây này tượng trưng cho khát vọng “cát tưòng như ý” của con ngưòi.

Cây linh chi

Từ xưa vốn được coi là điềm may mắn. Trong tranh cát tường thường có hình ảnh con hươu hoặc thiên nga ngậm một cành linh chi. Tranh này thường dùng để làm quà chúc thọ.

Cây hoa sen

Cây hoa sen là giống cây sống dưới nước, cùng họ với hoa súng. Cây này còn nhiều tên gọi khác như: phù dung nước, phù dung, thủy hoa, thủy vân… Ngó sen có thể ăn được, cũng có thể dùng để làm thuốc chữa bệnh, bổ trung ích khí; hạt sen có tác dụng tĩnh tâm, giải nhiệt.

Cây hoa mẫu đơn

51-hoa-mau-don

Mẫu đơn là loài hoa phú quý quốc sắc thiên hương, vẫn được các văn nhân nho sĩ ngày xưa trồng trong vưòn nhà hoặc trong thư phòng. Mẫu đơn không chỉ có sắc mà ngay cả cái tên cũng rất đẹp, nó mang ngụ ý chỉ sự may mắn. Vì thế khi thiết kế vườn, ngưòi ta thường đặt hoa mẫu đơn cạnh đá trường thọ để tạo thành một cặp “trường thọ phú quý”, hoặc đặt chung với cây hoa trường xuân tạo thành “phú quý trường xuân”.

Cây táo tàu

Gỗ cây cứng, có thể dùng để chế tạo khí cụ, cũng có thể dùng làm bản khắc gỗ. Quả táo tàu có thể ăn được, có tác dụng “bổ trung ích khí, cửu phục thần tiên”.

Cây đào

t332038

Cây đào trong phong tục tập quán, trong tôn giáo hay quan niệm thẩm mĩ đều có vị trí khá quan trọng. Hoa đào có nhiều màu: màu đỏ, màu trắng, màu phớt hồng. Hương hoa man mác, dáng hoa yêu kiều thướt tha.

Người xưa thường lấy gỗ cây đào để chế tạo các vật đuổi tà khí, như con dấu đào hay kiếm đào… Ngoài ra, quả đào còn có những tên gọi mĩ miều khác như “đào tiên” hay “đào trường thọ”. Hoa đào đẹp, quả đào ngon, cây đào trong quan niệm truyền thống vẫn được coi là có thể đem lại may mắn và tránh được tà khí. Không chỉ có thế, do dễ trồng và ít bị sâu bệnh nên cây đào thường được trồng trong vườn nhà của các gia đình.

Cây tùng

Xưa nay vẫn được người đời ca ngợi. Cây tùng chịu được lạnh, có thể sống ở mọi địa hình, từ nơi ẩm thấp cho đến nơi khô cằn nhất; quanh năm xanh tốt, chịu được sương giá. Cây có khả năng “trường thọ bất lão”. Dân gian khi chúc thọ nhau thường có câu: “Phúc như Đông trường lưu thủy, thọ tỉ Nam sơn bất lão tùng” (có nghĩa là: Phúc dồi dào như dòng nước biển Đông, thọ cao hơn cả cây tùng trẻ mãi không già trên đỉnh núi Nam). Trong thư họa thường có bức tranh “Tuế hàn tam hữu” (ba người bạn mùa đông, bao gồm tùng, trúc, mai) dùng để chỉ sự may mắn. Trong các đồ khí cụ hay vật trang trí khác thường có các tranh “tùng bách đồng xuân”, “tùng cúc diên niên” hay “tiên hồ tập khánh” (tức cành thông, thủy tiên, linh chi và hoa mai, tất cả cắm trong cùng một cái lọ…). Có thể nói, tùng được coi là một loài cây tượng trưng cho sự may mắn.

Cây trúc

Theo phân loại của môn thực vật học hiện đại, họ nhà trúc (bao gồm trúc, tre, nứa…) thuộc loài cây thân đốt. Có thể nói trong kho tàng thơ từ ca phú từ xưa đến nay có rất nhiều tác phẩm ca ngợi loài cây này. Chúng có quan hệ mật thiết với đời sống của người dân. Thân cây có thể dùng để làm vật liệu xây nhà, làm bút viết, làm giấy, làm đồ dùng gia đình hoặc làm tranh điêu khắc… Trong các bức tranh quốc hoạ, thường có hình ảnh “tuế hàn tam hữu”, tức ba ngưòi bạn mùa đông là tùng, trúc, mai. Còn trong tranh Ngũ thanh thì đó là hình ảnh của tùng, trúc, mai, trăng và nước.

Họ nhà trúc có rất nhiều chủng loại, khoảng 100 loài trở lên, trong đó mỗi loài trúc gắn với một hàm nghĩa văn hóa riêng. “Trúc” gần âm với “chúc”, nên cây trúc có ý nghĩa như một lời chúc tốt đẹp.

Cây bách

“Bách” gần âm với “bách” trong chữ “bách niên”. Theo quan niệm truyền thông, 100 là con số cực điểm. Mọi vật đều gắn liền vối chữ “bách” như “bách sự”, “bách điểu”, vì thế trong loạt tranh cát tường, cây bách thường đi liền với tranh “như ý” tạo thành “bách sự như ý” (mọi sự đều như ý muôn), cây bách và cây quất đứng cạnh nhau tạo thành “bách sự đại cát” (mọi sự đều may mắn).

Cây quế

Quế có nhiều loại bao gồm đơn quế, kim quế, nguyệt quế, ngân quế, quế lá liễu… Trong đó, đơn quế, kim quế và ngân quế nổi tiểng nhất vối các màu hoa đỏ, vàng, trắng. Cây quế bắt đầu ra hoa từ tháng Tám âm lịch, vì thế tháng Tám âm lịch còn gọi là “quế nguyệt” (tháng quê). Hoa quế rất thơm, có thể dùng để pha trà, cũng có thể dùng làm vị thuốc.

“Quế” gần âm với “quý”, có ý nghĩa chỉ sự vinh hoa phú quý. Ở một số vùng có phong tục cô dâu đội hoa quế, vừa thơm, lại vừa quý phái. Một bức tranh vẽ quế và hoa sen, có ý nghĩa “liên sinh quý tử”, tức sinh nhiều quý tử. Nếu là tranh vẽ quế và đào thọ thì có nghĩa là “quý thọ vô cực”, tức phú quý và trường thọ mãi mãi. Vì thế có thể nói cây quế là một loài cây may mắn.

Cây ngô đồng

Thuộc giống cây trẩu. Cây trẩu có nhiều loại: dầu trẩu, trẩu hoa tím, trẩu hoa trắng, cây bao đồng, cây ngô đồng… Gỗ cây ngô đồng, chặt ra không có sâu mọt, bị ẩm ướt cũng không mục nát, giãi nắng dầm mưa cũng không hề hấn gì, thiếu nước cũng không bị khô héo, phẩm chất không thay đổi, trường thọ mãi mãi. Các giống cây trẩu có rất nhiều tác dụng: cây dầu trẩu có thê ép lấy dầu, cây bao đồng cho bóng dâm, gỗ cây ngô đồng có thể dùng để chế tạo đàn.

Cây ngô đồng được xem là cây thiêng, có thể linh nghiệm trong thực tế. Một loài cây có thể thu hút được cả chim thần – chim Phượng Hoàng – như cây ngô đồng thì đương nhiên là rất thần kì, linh thiêng. Một bức tranh vẽ cây ngô đồng và con chim khách báo hỉ có ý nghĩa “đồng hỉ”. Cây ngô đồng vì thế cũng được coi là loại cây may mắn.

Cây lựu

Cây lựu, còn gọi là “an thạch lựu”. Nói về cây lựu, dân gian có câu “thạch lựu bách tử’, tức quả lựu có nhiều hạt. Lại có câu “đa tử đa phúc”, tức hạt càng nhiều thì phúc càng lớn. Trên thực tế, hoa và quả lựu có màu đỏ rực như lửa, quả lựu có tác dụng giải khát và giải rượu, vì thế cây lựu vừa có giá trị thưởng thức lại có giá trị sử dụng, là loài cây quen thuộc trong vườn nhà của mỗi gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của các loài cây –

Những kiêng kỵ trong đám cưới của người Việt

Chẳng ai kiểm chứng hay dám khẳng định nếu không thực hiện sẽ mang lại điều rủi ro, nhưng trong quan niệm từ xưa đến nay của người Việt Nam và đặc biệt là người Miền Bắc thì những tập tục này đã đi sâu và tiềm thức. Các cụ nói "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", vậy nên dù tin hay không thì mọi người ít nhiều cũng cố gắng thực hiện cho đúng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1, Kiêng ngày giờ xấu để đón dâu:

Trong lễ ăn hỏi, rước dâu, hay là chạm ngõ thì việc xem ngày, giờ tốt xấu là rất cần thiết. Người Việt rất kiêng kỵ việc chọn ngày và kén giờ. Nếu cưới hỏi mà vào những ngày có sao Cô thần, Quả Tú, Không phòng cô dâu sẽ cô quạnh suốt đời...Không những thế, sau khi đã chọn được ngày đẹp để đón dâu, còn phải chọn giờ Hoàng đạo để chú rể xuất phát. Sau đó đến nhà cô dâu lại cũng phải nằm trong giờ Hoàng Đạo mới được vào đón. Đón xong về đến nhà chú rể lại phải chờ giờ Hoàng Đạo mới được vào nhà.

2, Kiêng chuẩn bị bàn thờ gia tiên sơ sài:

Trước giờ đón dâu, cả gia đình nhà trai và nhà gái đều phải chuẩn bị một mâm cỗ cúng gia tiên bao gồm các vật phẩm tối thiểu như gà luộc, xôi, rượu, hoa quả, vàng mã đặt trên bàn thờ. Bàn thờ tổ tiên cũng chính là thể hiện sự chu đáo của gia đình mỗi nhà nên đa số các bậc phụ huynh đều riêng việc chuẩn bị sơ sài mà phải lo liệu chu đáo, để tới giờ đón dâu, cô dâu chú rể sẽ cùng bố mẹ hai bên cùng thắp hương trên bàn thờ báo cáo với tổ tiên.

 

3, Kiêng mẹ chồng đi đón con dâu:

Trong phong tục cưới miền Bắc, mẹ chồng không được góp mặt trong lễ đón dâu. Trước đó, mẹ chú rể chỉ được cùng một người họ hàng thân cận nhất tới nhà cô dâu, làm lễ xin dâu. Sau đó khi đoàn nhà trai tới đón dâu, mẹ chồng phải tránh mặt không được đi cùng. Người ta cho rằng để sau này mối quan hệ mẹ chồng con dâu không bị mâu thuẫn thì tốt nhất mẹ chồng không nên đi đón nàng dâu

4, Kiêng những người gia đình không hạnh phúc, những người không thuận trong cuộc sống đi đón dâu:

Những người gia đình chỉ còn vợ hoặc chồng( đã chết) hoặc những người lấy nhau xong những mãi không có con, con hiếm muộn. Hoặc những người gia đình không hạnh phúc, hay cãi vã đều không nên đi đón dâu. Người ta sợ dớp của những người này nên đều muốn kiêng kỵ những điều tốt nhất cho đôi trai gái.

5, Kiêng cô dâu khóc hoặc ngoái lại nhà mẹ đẻ:

Khi chú rể đã hoàn thành nghi lễ, đón cô dâu theo chồng về nhà trai, cô dâu phải hướng thẳng mặt, đi thẳng về phía trước, không được ngoái lại nhìn hay có thái độ quyến luyến, khóc lóc không muốn chia tay gia đình nhà mẹ đẻ. Rất nhiều gia đình kiêng việc này bởi họ cho rằng con dâu đã theo chồng mà còn vương vấn gia đình thì sau này sẽ sớm bỏ chồng về nhà mẹ đẻ hoặc không chu toàn với công việc nhà chồng

6, Kiêng để mẹ đẻ đưa con gái về nhà chồng

Thông thường, sau khi gia đình nhà trai làm lễ đón dâu, cô dâu mới sẽ theo chồng về nhà. Lúc này, mẹ đẻ không được đưa con gái về nhà chồng mà chỉ có bố cô dâu, cùng các bậc cao tuổi trong nhà đưa con gái lên đường về làm dâu.

7. Cô dâu không được xuất hiện cho đến khi chú rể vào đón:

Vào ngày đón dâu, tân nương sẽ phải ngồi trong phòng, đóng kín cửa và không được ló mặt ra ngoài cho tới khi chú rể bước vào, tặng hoa cưới và đón cô dâu ra chào họ hàng. Nhiều gia đình kiêng không để cô dâu xuất hiện sớm vì cho rằng nếu gia đình nhà trai thấy mặt cô dâu trước chú rể, tân nương sẽ mất duyên và không còn được coi trọng sau đám cưới.

8, Kiêng không để cô dâu có bầu đi vào nhà từ cửa chính

Cô dâu đang mang bầu thì khi về nhà chồng không được danh chính ngôn thuận đi vào từ cửa chính mà phải đi vòng ra cửa sau để vào. Trường hợp nhà không có cửa hậu, cô dâu sẽ phải bước qua một chiếc chậu bồ kết nướng với than hồng, hàm ý xua đi điều xui vẻ. Một số nơi giải thích rằng cô dâu có bầu mà đi về nhà chồng bừng cửa trước sẽ làm cho nhà trai sau này không ăn nên làm ra.

9, Mang theo tiền lẻ, gạo muối để rải dọc đường:

Khi đón dâu đi qua các cây cầu, ngã 3 ngã 5, ngã 7 cô dâu phải vứt gạo muối, tiền lẻ xuống. Phong tục này hàm ý, đoạn đường sắp tới của đôi uyên ương sẽ luôn suôn sẻ, giàu sang.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ trong đám cưới của người Việt

Giun đũa với cảnh tượng trong mơ –

Y học phương Đông cho rằng, các loại giun cũng là một nguyên nhân tạo ra những giấc mơ. Trong Sách vấn - tác phẩm Trung Hoa cổ đại có chép: "Đoản trùng nhiều sẽ nằm mơ nhiều, trường trùng nhiều thường nằm mơ thấy đánh nhau bị thương". Có thể giải thí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Y học phương Đông cho rằng, các loại giun cũng là một nguyên nhân tạo ra những giấc mơ.

Trong Sách vấn – tác phẩm Trung Hoa cổ đại có chép: “Đoản trùng nhiều sẽ nằm mơ nhiều, trường trùng nhiều thường nằm mơ thấy đánh nhau bị thương”.

1346893312171_image023

Có thể giải thích: Nếu cơ thể có nhiều ký sinh trùng loại dài thì sẽ nằm mơ thấy đánh nhau bị thương; nếu trong cơ thể có nhiều ký sinh trùng loại ngắn thì sẽ mơ thấy tụ tập nhiều người.

Danh y Cao Sĩ Tông đời Thanh cho rằng: “Đoản trùng nhiều sẽ tụ tập thành bầy, cho nên nằm mơ thấy nhiều người tụ tập. Trường trùng nhiều chầu miệng vào nhau nên thấy đánh nhau bị thương”.

Ngày nay người ta xác định “đoản trùng” là sán.

Trong Thuyết văn giải tự có viết:

“Sán là loại trùng ngắn, sống trong bụng”.

Danh y Đào Nguyên Phương đời Tùy trong sách Thư bệnh nguyên hầu luận có viết:

“Sán là một trong chín loại ký sinh trùng sống trong ruột, hình nhỏ, như sán kim”.

Còn “trường trùng” chính là giun đũa.

Ngoài trường trùng và đoản trùng, các loại ký sinh trùng khác cũng có thể gây nên những giấc mơ.

Sách Thái Bình quảng ký có chép: “Đêm Tấn Dương ra lệnh cho Lưu Văn Tỉnh thủ mưu để lật Lý Thế Dân, Thế Dân nằm mơ thấy mình ngã vật ra giường, có nhiều con sâu đến đục khoét rất đau đớn”.

Lúc đó, thiền sư Tri Mãn ở chùa An Lạc, người Tây Hà, đã trai giới thanh tịnh nói: “Có thể mừng được”, người nằm trên giường sẽ làm hoàng đế. Ăn uống tập thể đó là biểu hiện tiệc ăn mừng, nhân dân ngưỡng mộ hoàng đế”.

Các số liên quan đến giấc mơ:

Giun: 11 – 94


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giun đũa với cảnh tượng trong mơ –

Mơ thấy tay: Làm gì được nấy, sự nghiệp thành công –

Đôi tay tự do hoạt động, nên nó là dự báo của sự thành đạt. Nếu mơ thấy tay mình vừa dài vừa rắn chắc, nghĩa là sự nghiệp của bạn chắc chắn sẽ gặt hái thành công. Mơ thấy tay mình đỏ hơn so với trước, dự báo số làm quan của bạn sẽ xuôi chèo mát mái.
Mơ thấy tay: Làm gì được nấy, sự nghiệp thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tay: Làm gì được nấy, sự nghiệp thành công –

Xem tướng mặt đoán tính cách qua vẻ mặt

Có thể đoán tính cách qua việc xem tướng mặt nhờ quan sát vẻ mặt hay thần thái, người xưa nói tâm thế nào thì tướng thế đó ý chỉ xem tướng thấy tính cách
Xem tướng mặt đoán tính cách qua vẻ mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tâm thế nào, tướng thế đó, người xưa xem tướng mặt có thể đoán biết được tính cách của một người ấy là nhờ vẻ mặt toát từ nội tâm bên trong mà biểu hiện ra tướng mặt.

Người xưa cho rằng con người sống trên đời không thể tách rời 3 yếu tố lớn đó là: Tinh, Khí, Thần, người ta thường nói: “Được thần thì sinh, mất thần thì tử” do đó tướng học luôn xem xét về góc độ thần thái , nhãn thần của con người đó cũng là bước đầu tiên vô cùng quan trọng trong bộ môn xem tướng.

Nếu như dùng ngôn từ hiện đại để miêu tả thì việc đầu tiên của xem tướng là phải quan sát diện mạo, tinh thần, nhãn thần, khả năng phản ứng và tư duy. Bởi vì vẻ mặt của con người là một bức vẽ chân thực nhất về thế giới tinh thần và đặc trưng cho tính cách của người đó, là thế giới nội tâm khó che dấu được.

Đoán tính cách qua việc xem tướng 10 thần thái khuôn mặt

Căn cứ vào lý luận của tướng học khi xem một tướng mặt của một con người ta có thể xem xét một số trọng điểm dưới đây:

1. Tàng thần (vẻ mặt ẩn dấu)

“Ẩn tàng như sắc ngọc minh châu, ánh sáng của nó được ẩn dấu vào trong, phải ngồi thật lâu mới có thể thấy được”.

Như vậy, người có vẻ mặt ẩn dấu phần lớn là người có tính cách ổn định. Làm việc cẩn thận, mỗi khi có công việc là có chủ kiến, khả năng sống độc lập cao, khi còn nhỏ ít khi bộc lộ cảm súc với thế giới bên ngoài. Nhưng đến tuổi trung niên trở về sau thì có thể là tâm trí cùng quẫn, tư tưởng thái quá, dễ dẫn đến bệnh nặng, bệnh cấp tính, cho nên tuổi này cần chú ý tới sức khỏe của bản thân.

2. Lộ thần (vẻ mặt bộc lộ)

“Lộ thần là không ẩn dấu, mắt trừng lên nhưng không giận giữ, giống như là giận giữ nhưng lại không hiện ra mặt”.

Hoặc: “Hổ nhìn con mồi, mắt của nó nhìn thẳng một hồi lâu mà không ngoảnh lại (nghĩa là không linh hoạt)”.

Vẻ mặt bộc lộ là loại người mạnh mẽ nhưng bên ngoài lại khô khan, trông diện mạo rất mạnh mẽ, ngoài thực trong hư, không hề bị mê hoặc bởi những giả tưởng.

3. Tĩnh thần (vẻ mặt bình thản)

“Tĩnh là ánh mắt trong trẻo, sáng như mặt trăng mùa thu”, “Thoắt tĩnh, thoắt lặng nhìn lâu mới có thể thấy được, bình thản như không”

Vẻ mặt bình thản đó là một người bình tĩnh nhân từ, nhưng tính cách lại khá yếu đuối dễ mắc bệnh mãn tính.

4. Cấp thần (vẻ mặt gấp gáp)

“Cấp nghĩa là nói nhanh, đi nhanh, ăn nhanh, vui nhanh, giận nhanh”.

Những người mang vẻ mặt gấp gáp này phần lớn là những người gầy, lông mày rậm đen (can khí không đủ nhưng đảm khí có thừa), thường là đoán nhiều, mưu tình ít, việc ít thì thành công, nhưng việc nhiều thì thất bại, không hiểu rõ đầu đuôi sự việc. Nhưng người có vẻ mặt gấp gáp, thường là những người tinh ranh, mắt sâu, tròn có ánh sáng lấp lánh (đôi mắt đặc biệt có thần, và có sự chuyển động linh hoạt) có thể trở thành người có ích.

5. Uy thần (vẻ mặt có uy)

“Uy có nghĩa là không giận giữ mà vẫn uy phong, to, có thế khép mở”.

Người toát ra vẻ mặt có uy là người khi vui và giận đều biết kiềm chế, dù sợ hãi cũng không chớp mắt, nên nhìn họ rất uy nghi, trông rất kính nể. Là người có phong độ, ít khi chịu ưu phiền bởi tình cảm, ít bệnh tật, thọ lâu.

6. Hòa thần (vẻ mặt hài hòa)

“Hòa: nghĩa là ánh sáng mắt, bình tĩnh vẻ mặt hài hòa và điềm đạm, không vui cũng như là vui, tuy có giận dữ , nhưng niềm vui vẫn trường tồn.”

Có vẻ mặt hài hòa là người thoạt nhìn đã thấy tính cách hiền hòa, thật sự là người có tấm lòng rộng lượng, không đố kỵ, không có tính quái gở.

7. Hôn thần (vẻ mặt u tối)

“Hôn: có nghĩa là hai con người tuy lớn nhưng lại mờ mịt không có ánh sáng”

Người thường có vẻ mặt u tối là người phú bẩm không đầy đủ, hoặc tinh thần hoảng hốt, là người không có một chút chủ kiến nào.

8. Kinh thần (vẻ mặt kinh sợ)

“Kinh nghĩa là vẻ mặt khiếp sợ, mặt biến sắc”

Mang vẻ mặt kinh sợ là người mắt thường thể hiện ra, mắt lệch lên trên hoặc xuống dưới, hoặc trái hoặc phải, là người thiếu thần khí, ít quyết đoán.

9. Thoát Thần (vẻ mặt không linh hoạt)

“Thoát nghĩa là thoát ra nhưng không có khí, trạng thái như pho tượng bằng đất, bằng gỗ”.

Người mang vẻ mặt không linh hoạt, mặt mày cứng đơ người thể hiện sắc mặt khi có, khi không, tinh khí ngũ tạng đã cạn kiệt, cho nên có thể gọi là “Hành xác”.

10. Túy thần (vẻ mặt say):

“Túy có nghĩa trông mắt như người say, mắt chuyển động một cách mỏi mệt, đã lâu mà không khỏi bệnh, đó là người gnu muội và sáng xuất”.

Người có vẻ mặt say thường mê mẩn không tỉnh ngộ, ánh mắt cuồng dại nhìn lên, hoặc hai mắt cách xa nhau, phần lớn đây là những người thuộc dạng ngu muội, hoặc là người phải chịu vết thương tinh thần quá lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt đoán tính cách qua vẻ mặt

Đền Phù Đổng - Hà Nội

Đền Phủ Đổng nằm tại xã Phù Đổng, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Đền Phủ Đổng còn được biết đến với tên gọi khác là đền Gióng thờ Thánh Gióng - Phủ Đổng Thiên
Đền Phù Đổng - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Phủ Đổng nằm tại xã Phù Đổng, Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Đền Phủ Đổng còn được biết đến với tên gọi khác là đền Gióng thờ Thánh Gióng – Phủ Đổng Thiên Vương.

Đền Phù Đổng còn được gọi là đền Thượng, tương truyền được dựng trên nền nhà cũ của Thánh Gióng, bên trong đê sông Đuống, còn đền Hạ thờ mẹ của Thánh Gióng nằm ngoài đê, gần nơi được cho là có dấu chân khổng lồ mà bà đã ướm thử rồi sinh ra Thánh Gióng. Năm 1010 khi rời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho dựng đền.

Trải qua nhiều lần trùng tu, ngôi đền hiện tại chủ yếu là những mảnh ghép của những công trình thời Lý, thời Lê Trung Hưng, thời nhà Nguyễn và có cả những phần mang màu sắc đương đại.

Đền Gióng gồm nhiều công trình trên một diện tích rộng. Tam quan đền khá lớn, trên có gác, mở thêm hai cửa nhỏ hai bên. Trên bậc thềm là hai con rồng đá, tạc vào năm 1705. Trước cổng là một sân rộng, nhìn sang một thủy đình ở giữa một hồ nước, cạnh một gốc đa cổ thụ. Thủy đình là nơi diễn ra các trò chơi dân gian và múa rối nước.

Sau cổng chính là một phương đình tám mái, dưới chân còn hai con sư tử đá. Tiếp đến là tiền đường rộng là nơi cử hành các nghi lễ. Nhà thiêu hương bày đồ nghi trượng, tiếp đến là hậu cung. Trong hậu cung có tượng Thánh Gióng và các tướng hộ vệ, cũng là nơi giữ các đạo sắc phong của các triều đại phong kiến. Trong hậu cung cũng giữ một đôi chóe sứ là cổ vật, chỉ dùng trong dịp lễ hội. Bậc thềm của hậu cung còn giữ được những viên gạch chạm rồng, được cho là có từ đời Lý.

Trong đền còn có một bia đá dựng năm 1660. Phía sau đền có một giếng nước trong, gọi là giếng Ngọc. Từ cổng vào, bên phải của khu đền chính còn các nhà việc, dành cho những người đến dự lễ hội, chia ra các ban tế của các xã xung quanh. Bên trái của đền là chùa Kiến Sơ.

Lễ hội chính của đền là hội Gióng, Được diễn ra từ ngày 6-9 tháng 4 Âm lịch. Nhưng chính hội là ngày mồng 9 tháng 4(AL) hàng năm.

Về với đền Gióng hôm nay không chỉ là để nhớ về lịch sử của cậu bé làng Gióng, cậu bé sau ba năm đã vụt lớn để trở thành người anh hùng vung gậy sắt, nhổ từng khóm tre đánh giặc mà hơn hết còn tìm lại những phút lắng hồn của riêng mình. Đi – Đến – Cảm nhận và lắng hồn cùng lịch sử cùng thời gian giữa nhịp sống hiện đại ồn ào, xô bồ và tất bật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Phù Đổng - Hà Nội

Vợ chồng xưng hô với nhau thế nào ?

Người Việt Nam ta từ nhỏ đến lớn, đến già nói chuyện với nhau đã quen tai nhưng nếu diễn giải cho người nước ngoài biểu đạt được đầy đủ sắc thái ngôn ngữ kể thật lý thú . Ví dụ: "Nhà tôi" dịch ra tiếng Pháp là "Ma maison" thì người Pháp làm sao hiểu nổi.
Vợ chồng xưng hô với nhau thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời nay vợ chồng trẻ xưng hô với nhau "anh anh em em" âu yếm thân thiết biết bao! Dẫu chồng ít hơn dăm ba tuổi vẫn là anh. Lùi lại bốn mươi năm trước, những gia đình ít nhiều được Âu hoá, vợ chồng gọi nhau bằng "mình" cũng thể hiện được tình cảm đậm đà, gọi nhau bằng "cậu, mợ" cũng thanh nhã, nhưng những từ đó còn xa lạ với nông thôn, một số tân tiến muốn gọi nhưng vẫn còn ngượng ngùng với hàng xóm, chỉ thầm kín tỏ tình với nhau trong buồng, thỏ thẻ chỉ đủ hai người nghe với nhau.
Cách gọi nhau bằng tên "trống không" cũng là một bước cải tiến lớn, chứ các cụ ngày xưa, thời trẻ chỉ gọi nhau bằng "bố thằng cu", "u nó", "mẹ hĩm"... Người mới lấy nhau chưa có con, chồng chẳng có chức vị gì mà gọi thì làm sao? Bí quá, có cô mới về làm dâu, muốn gọi chồng đang chơi bên nhà hàng xóm về, chẳng biết xưng hô ra sao bèn ra ngõ gọi thật to "ai ơi! Về nhà ăn cơm". Từ "ai" ở đây không phải là đại từ nghi vấn, hay đại từ phiếm chỉ mà có nghĩa là "chồng tôi ơi".

    Còn khi nói chuyện với người khác thì giới thiệu vợ mình hay chồng mình là "nhà tôi". Từ "nhà tôi" thật là đậm đà gắn bó, "mình " và "tôi" tuy hai nhưng một. "Nhà tôi" tức là "chồng tôi" hay "vợ tôi" chứ không thể nói "vợ anh", "chồng nó" là "nhà anh nhà nó".

    Vợ chồng nói chuyện với nhau thường hay nói trống không: "Này! Ra tôi bảo!" hoặc: "nào ai bảo mình"...  

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ chồng xưng hô với nhau thế nào ?

Top 3 chòm sao nam bị ế mặc dù chuẩn "soái ca"

Những chòm sao nam bị ế không phải vì họ không soái ca, càng không phải họ không có tiền. Chẳng hiểu sao mãi vẫn chẳng thoát kiếp FA nhỉ.
Top 3 chòm sao nam bị ế mặc dù chuẩn "soái ca"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chòm sao nam bị ế không phải vì họ không soái ca, càng không phải họ không có tiền. Chẳng hiểu sao bề ngoài tiêu chuẩn, phong độ ngời ngời, biết kiếm biết tiêu, hào hoa phong nhã là vậy mà họ mãi vẫn chẳng thoát kiếp FA nhỉ.


Top 3 chom sao nam bi e mac du chuan soai ca hinh anh
 

Nhân Mã

  Chòm sao nam bị ế là Nhân Mã á? Có nhầm không vậy? Không sai đâu. Vốn họ rất đào hoa, mối quan hệ với người khác phái vừa nhiều vừa tốt, lại có nhan sắc, có tài chính, nhìn qua nhìn lại thì điểm nào cũng rất thu hút. Nhưng cái tính phong hoa tuyết nguyệt của chàng trai này quá nổi tiếng rồi, làm bạn thì được chứ tiến xa hơn thì các cô gái rất e ngại, thành ra mãi vẫn ế thôi. Ai mà có thể mạo hiểm đặt tình cảm vào một chàng trai lúc nào cũng cười nói với cô gái khác, đi chơi quên ngày quên tháng lại còn vô tâm như Nhân Mã chứ. Phải điều chỉnh đi thôi.  

Sư Tử

  Nói là chòm sao nam bị ế thì hơi oan cho Sư Tử vì thực chất, họ khá cao ngạo, ngông cuồng, tự đại nên người khác e ngại. Chứ xét về tất cả các phương diện thì chàng trai Sư Tử có thua kém ai đâu, muốn bề ngoài có bề ngoài, muốn nội tâm có nội tâm, lại rất phóng khoáng, chịu chi nữa chứ. Nhưng cũng chính vì điều kiện tốt quá mà tính tình lại phô trương, không để ai vào mắt nên Sư Tử ế dài, người vừa ý thì chẳng thích sự phách lối của Sư Tử, người hâm mộ thì Sư Tử chê chưa xứng tầm. Tìm đâu ra cô gái tài năng, xinh đẹp, nóng bỏng, học thức mà lại chịu quỳ gối trước một chàng trai cơ.
Top 3 chom sao nam bi e mac du chuan soai ca hinh anh
 

Ma Kết


Chòm sao nam lạnh lùng Ma Kết lần nào cũng bị xếp vào danh sách hàng tồn dù điều kiện của họ cực kì lý tưởng. Vì sao ư? Vì họ có biết chuyện lãng mạn ngọt ngào là gì đâu, lúc nào cũng chỉ vùi đầu vào công việc, toàn tâm toàn ý hết lòng phát triển sự nghiệp, bỏ bạn gái một góc luôn ấy chứ. Thế nên, dù đẹp trai, có tiền, nội tâm phong phú thì cũng ít có cô gái nào nguyện ý phát triển tình cảm với cái cọc gỗ biết đi này. Mà Ma Kết cũng chả ưa gì mấy cô gái ăn diện ưỡn ẹo, họ thích nữ cường nhân, cùng nhau hô mưa gọi gió cơ. Người như thế đâu có nhiều.
Bật mí 4 chòm sao nam cực siêu chuyện chăn gối Điểm danh 4 ông chồng số 1 trong vòng tròn hoàng đạo 3 chòm sao nam khi yêu và cưới khác nhau một trời một vực

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 chòm sao nam bị ế mặc dù chuẩn "soái ca"

Sở thích ngắm cảnh sông nước nói lên điều gì về bạn?

Sở thích ngắm cảnh thiên nhiên có thể nói lên phần nào tính cách của bạn. Hãy cùng khám phá nhé!
Sở thích ngắm cảnh sông nước nói lên điều gì về bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thích ngắm biển cả

 
Về mặt tình cảm, bạn là người khá mạnh mẽ, thông minh, sáng suốt và thích tự do. Trong xử thế, ngay cả khi người khác có thái độ hoài nghi đối với bạn nhưng bạn vẫn tỏ lòng bao dung. Khi gặp người mình không thích, bạn sẽ tìm cách né tránh, không trực tiếp gây mâu thuẫn với họ.

Yêu những dòng suối nhỏ

Bạn biết cảm thông và chia sẻ với người xung quanh, đời sống nội tâm phong phú và sâu sắc. Tuy nhiên, đôi khi bạn dễ trở nên buồn bực và không dễ dàng tha thứ cho lỗi lầm của người khác. Bạn thiếu quyết đoán và thường thích dựa dẫm vào người thân, bạn bè...

Thích thú với thác nước

Từ sâu thẳm tâm hồn, bạn có nhiều ham muốn. Với tính cách thẳng thắn, bạn dám nói ra những điều mình suy nghĩ mà có lúc thiếu cân nhắc. Chính vì sự biểu đạt tình cảm quá nhanh mà đôi khi bạn phạm sai lầm và rồi lại cảm thấy hối hận. Điểm mạnh của bạn là khiếu hài hước, tinh thần lạc quan nhưng bạn lại không biết cách khống chế tình cảm của mình.

Thả hồn theo cảnh hồ

Về mặt tình cảm, bạn luôn cảm thấy an toàn. Cuộc sống của bạn thường không có sự xung đột với người khác. Điều đáng quý ở bạn là tấm lòng bao dung với người thân và bạn bè. Bạn cho rằng, điều quan trọng nhất giữa người với người là phải biết sống hài hòa. Có thể nói, cuộc sống của bạn khá yên bình.

Say sưa ngắm cảnh sông nước

Bạn có tư duy phóng khoáng, yêu tự do, ghét sự trói buộc. Bạn rất mạnh dạn trong việc biểu đạt ý kiến nhưng lại không thích dùng phương pháp phân tích để giải quyết vấn đề. Bạn có nhiều bạn bè song các mối quan hệ này dường như không thân mật. Bởi bạn thích kết giao bạn bè nhưng lại không thích chia sẻ mọi thứ với họ, ngay cả chuyện tình cảm cũng vậy.

(Theo Socola)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sở thích ngắm cảnh sông nước nói lên điều gì về bạn?

Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Một câu chuyện tử vi vui chia sẻ với mọi người
Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngày tự kỷ chả đi chơi đâu, hắn ngồi một mình ở xó nhà, hắn nghĩ ngợi:

- Khỉ thật! Nếu cái phần mềm giải lá số "hâm dở" Tử vi Xem Tướng trả về một đống dữ liệu dài như rác thế này thì mình muốn dùng cũng khó. Đọc thì chả biết bao giờ xong một lá số hơn 100 trang giấy. Mà yêu cầu giải tức thì loay hoay kéo lên kéo xuống cái màn hình điện thoại thì cũng chả nhớ nổi. Vậy có cách nào giải quyết không?

Một câu hỏi đặt ra là: "có cách nào giải quyết không?".

Hắn cần một câu trả lời! Hắn thấy căng thẳng, hắn đi đi lại lại, hắn lầm lầm lì lì. Hắn gặp ai cũng than thở. Rồi hắn khó chịu quá, đành mang sách ra gõ lấy một đoạn "Thái âm, Thiên đồng" trong sách "Tam Hợp Phái" ra để hạ nhiệt tư duy. Cũng không ổn mấy. Hắn lăn quay ra ngủ. Ngủ được một lúc hắn bắt đầu tỉnh. Và hắn nghĩ:

- Nếu trước mặt hắn là một cô gái hắn gặp lần đầu, nói chuyện được vài câu mà phải mô tả chi tiết thì khá căng: chiều cao, cân nặng, số đo vòng, màu da, giọng nói, tính cách,... Kể mãi chả hết giống như cái phần mềm của mình "liên miên bất đoạn". Nhưng nếu mô tả nhanh mà chỉ dùng chừng vài từ là mô tả thì ai cũng hiểu, ví dụ như: "hiền dịu, thông minh, tiếng nói hay, xinh khéo". Có liên hệ gì với cái phần mềm Tử vi Xem Tướng của mình không?

Một câu hỏi đặt ra là: "Liệu phần mềm có tóm tắt lá số ngắn lại giống như mô tả một cô gái chỉ dùng vài từ không?".

Hắn ồ lên một tiếng:

- Chả khó! Nếu một đống dữ liệu lời giải tử vi được trả ra thì tụ quanh chừng hơn chục chủ đề cần trả lời thôi. Nhưng do lặp môn phái sinh ra rối loạn kết quả. Nếu mỗi chủ đề mình nhặt ra một câu trả lời đúng nhất, thì cũng chỉ có chừng hơn 10 câu trả lời thôi. Đó chính là "tóm tắt lá số".

Hắn lại nghĩ thêm:

- Mình sẽ tóm tắt thành các chủ đề:

1. Lá số này tốt hay xấu? Tốt thì tốt cái gì, xấu thì xấu cái gì?
2. Định hướng về tâm tính của mệnh tạo?
3. Tố chất của lá số là gì?
4. Tính cách, các cư xử thế nào?
5. Lời khuyên gì dành cho lá số này để sửa đổi, cải vận?
6. Một số nhận diện nhanh đặc thù lá số: vận hạn, quan hệ hôn nhân, sức khỏe,...

Hắn tạm nghĩ ra được "6 thức" tóm tắt lá số. Hắn thấy khá hài lòng. Hắn vơ vội quyển sổ trong ngăn bàn ra, cầm vội cái bút viết nhanh ý tưởng và phác họa giao diện. Rồi hắn lăn quay ra ngủ tiếp.

Sáng hắn dậy sớm, mở sổ ra đọc, mang máy tính ra code. Hắn làm một loắng là xong.

Đầu tiên hắn update trường "sticky" cho các lớp luật độ chính xác cao là 1. Hắn bổ xung thêm một số luật "bí mật" mà thầy hắn dạy riêng cho hắn vào hệ thống, ẩn riêng cho chức năng này. Và hắn đã code xong. Hắn chạy thử, hắn hài lòng. Một lá số dài nhằng hơn 100 trang giấy, tóm gọi lại chưa tới một trang, nói đủ thông tin hắn cần. Test thử với lá số hắn và một người khác, hắn khá ưng ý.

Hắn vội viết nhanh lên Facebook để khoe - hắn là người thích khoe khoang. Nhưng hắn không công khai tính năng này cho mọi người. Tính năng này dành riêng cho mình hắn, và có thể là thêm một người nữa thôi. Tại thời điểm này hắn chưa muốn public tính năng. Hắn cần suy nghĩ thêm việc công khai tính năng "nâng cao" này cho tất cả mọi người sử dụng. Việc đó nghĩ sau, giờ không phải lúc.

...

Hắn phải đi test tính năng "tóm tắt lá số này". Hắn tính ra một kịch bản hoàn hảo:

Ngày chủ nhật, hắn đi chơi Chùa Hà một chuyến. Hắn cầm một chiếc bút viết bảng, 2 tờ giấy A4 và một lọ hồ dán giấy. À quên cả Iphone 4 cũ có dùng gói VTTRE của Viettel nữa. Hắn dạo một vòng, thăm thăm, ngắm ngắm toàn bộ rồi sau đó chọn lấy một cái xó nào đó ngồi mà đông chị em qua lại.

Hắn "nối tiếp" hai tờ giấy A4 lại rồi viết nguệch ngoạc: "Xem Tử Vi miễn phí. Sai ăn tát, đúng cầm tay" dán lên tường trên đầu hắn rồi hắn ngồi ngáp ruồi, không quên ngón cái tay trái giữ cung Tí truyền thống của ông thầy xem bói.

Hắn nghĩ: xác suất đúng cho tử vi là 70%. Nếu xem cho 10 em thì hắn sẽ được cầm tay 7 em, và bị ăn tát 3 cái là nhiều. Nếu chọn lựa em nào đó hiền dịu để xem thì khả năng "sưng mặt do ăn tát" là giảm đi đáng kể. Hắn sẽ phải chuẩn bị câu từ chối cho trường hợp này đại loại như: "Em gái à? Lá số của em rất khó xem, nó cần phải mất nhiều thời gian hơn bình thường. Em cho anh suy nghĩ thêm. Email em là gì nhỉ? Em ghi lại cho anh: ngày tháng năm giờ sinh và địa chỉ email, tối về anh giải và gửi lại cho em". Nói vậy là ổn, tránh được một lớp khách hàng nữ có "đôi tay khỏe mạnh".

Hắn bắt đầu hành nghề. Đầu tiên là bật điện thoại lên, mở sẵn trang Tử vi Xem Tướng ra và vào sẵn tính năng "tóm tắt lá số". Sau đó đợi khách hàng.

Một em gái khá xinh hỏi hắn:

- Anh xem tử vi ạ? Anh xem cho em được không?

Hắn ngước mắt điêu luyện của ông thầy hạng ruồi. Hắn nói:

- Được! Em ngồi xuống đi!

Đợi em gái ngồi xuống, hắn hỏi tiếp:

- Em cho anh ngày tháng năm sinh, giờ sinh dương lịch.

Cô gái trả lời:

- Em sinh...

Hắn thao tác nhanh nhập thông tin vào phần mềm rồi đọc lướt kết quả tóm tắt. He he! Rõ như ban ngày, cô gái này mệnh có sao Phúc Đức, cục Mệnh là Tang Đố Mộc, Lai nhân cung ở Tật Ách, Thân cư phu,.. Tóm tắt lời giải ngắn này đọc loắng là xong.

Hắn ngẫm nghĩ:

- Xinh thế này không cầm tay không được. Ăn tát cũng phải cầm tay đã. Hắn nghĩ ra cách.

Hắn thao tác tay trái bấm bấm kiểu an lá số bằng tay, tay phải cũng bấm tiếp. Bấm một tí hắn nói:

- Em à? Anh an lá số Thiên Bàn ở tay trái, Địa Bàn ở tay phải. Giờ còn lá số Nhân Bàn thì phải an ở tay đương số mới đúng được em ạ. Em đưa tay cho anh xem.

Cô gái cũng vui vẻ đưa tay cho hắn. Hắn "nắm chặt" tay cô gái rồi mở lòng bàn tay cô gái ra chỉ vào các đốt ngón tay tương đương 12 cung để an lá số Nhân Bàn (an lại sao dựa vào cung Phúc Đức).

Thật là đã đời! Giờ thì hắn luyên thuyên nói theo chức năng "tóm tắt lá số" để rồi em gái gật đầu khen đúng.

...

Một buổi test phần mềm thành công. Chức năng "tóm tắt lá số tử vi" done!

(Phù Cừ Cổ Học)

----

Tập viết một đoạn văn ghi chép sự kiện "viết xong tính năng tóm tắt lá số ngày 25/12/2016". Viết vội chưa kịp soát chính tả, câu cú.

Xem lá số Tử Vi theo Trung Châu Phái có sử dụng Tam Bàn: Thiên Địa Nhân để giải lá số thêm phần chính xác.

Nguồn: tuvi.cohoc.net


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện tử vi tháng 12/2016

Bí quyết phong thủy trong tình yêu

Những bí quyết phong thủy trong tình yêu chỉ ra những cách cụ thể để thu hút tình cảm và sự lãng mạn trong cuộc sống của bạn.
Bí quyết phong thủy trong tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Áp dụng những bí quyết phong thủy trong tình yêu được chỉ ra khá cụ thể dưới đây để thu hút tình cảm lãng mạn, tình yêu viên mãn trong cuộc sống của bạn.     Tình yêu đẹp là điều mà ai trong chúng ta cũng mơ ước, mong muốn và tưởng rằng ai cũng xứng đáng có được. Tuy nhiên sự thật là trong khi có những người có tình yêu hạnh phúc thì lại có những người mải miết tìm kiếm và phấn đấu không mệt mỏi để tìm tình yêu nhưng vẫn không thể với tới. Vì đâu mà có sự khác biệt đến vậy?
 
Có phải ông trời phân biệt đối xử hay là ngẫu nhiên mà người này gặp may người kia xui xẻo? Thay vì cam chịu hay than vãn số phận thì tại sao không thử áp dụng một số mẹo về phong thủy trong tình yêu để nhờ những năng lượng tích cực này mang lại cuộc sống hạnh phúc và lãng mạn cho mình?
 
Nếu bạn đã có gia đình cũng cần phải nuôi dưỡng tình yêu đôi lứa hay thậm chí bạn đang đi tìm một nửa đích thực cũng hãy thử áp dụng những mẹo nhỏ sau để may mắn hơn trong chuyện tình cảm.  

 

Bí quyết phong thủy trong tình yêu – Nên
 

Để cải thiện cuộc sống hôn nhân, giảm căng thẳng và mâu thuẫn trong gia đình cần kiểm tra môi trường sống xung quanh mình và áp dụng các bí quyết phong thủy trong tình yêu để cuộc sống thêm phần thăng hoa, lãng mạn.
 
1. Nên treo những bức hình tươi cười, vui vẻ của vợ chồng hoặc gia đình ở hành lang, nhà bếp và những chỗ hay qua lại. 
 
2. Trong phòng ngủ, chỉ nên treo hình ảnh của vợ chồng hoặc các đôi lứa (nếu bạn chưa kết hôn).
 
3. Để có tình yêu nhiều hơn, phòng ăn là không gian quan trọng thứ hai sau phòng ngủ. Sắp xếp bàn ăn để mọi người có thể nhìn thấy nhau, đặt ghế đủ cho tất cả mọi người ngay cả khi gia đình không thể ăn cùng nhau mỗi tối.
 
4. Nên đóng kín bất cứ căn phòng liền kề như phòng tắm, phòng làm việc, phòng tập… nếu không có cửa, hãy thay nó bằng rèm. 
 
5. Nên có khu dành riêng ngồi tán gẫu, xếp ghế gần nhau. Khi không gian trở nên lớn hơn, con người sống xa nhau và tình cảm cũng xa rời.   6. Màu sắc rất quan trọng trong phong thủy. Màu hồng là một trong những màu sắc tốt nhất để trang trí phòng ngủ vì nó tượng trưng cho tình yêu, niềm vui, hạnh phúc và lãng mạn.    7. Không quên bố trí đèn màu đỏ hoặc vàng ở góc Tây Nam của phòng ngủ.
 
8. Nếu giường hiện tại đang hơi chật thì nên chọn mua một chiếc giường lớn cho thoải mái.
 
9. Không khí trong phòng ngủ phải thật trong lành và có ánh sáng mặt trời chiếu vào.
 
10. Luôn duy trì sự cân bằng năng lượng âm - dương trong phòng ngủ. Vì thế, nếu sơn phòng ngủ thì không nên hoàn toàn màu hồng hoặc màu xanh mà phải có sự pha trộn hài hòa hai màu sắc này.
 
11. Phải đảm bảo rằng những đồ đạc trong phòng của hai vợ chồng phải ở thế cân bằng. Ví dụ không gia cho đồ dùng cá nhân, tủ quần áo, tủ đứng, kệ để đồ... đều phải tương đương nhau.   12. Mọi đồ vật trong phòng ngủ phải có đôi có cặp: Ví dụ như có 2 đèn, 2 gối,... điều này tạo nên cảm giác bình đẳng.
 
13. Luôn đảm bảo góc Tây Bắc nhà của bạn sạch sẽ, không được luộm thuộm, vứt đồ linh tinh và đủ ánh sáng và thông thoáng. Trong thực tế thì toàn bộ nhà cửa phải sạch sẽ, gọn gàng.
 
14. Hãy để quá khứ chôn vùi quá khứ, vì thế, đừng quên tặng, bán hoặc cho đi tất cả mọi thứ liên quan đến người yêu cũ, không để cho bất cứ thứ gì khiến bạn gợi nhớ về người yêu cũ.

15. Những con ngỗng là biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Đối với những người đã lập gia đình, hãy mua một đôi ngỗng trang trí, còn đối với những người còn chưa tiến tới hôn nhân, hãy treo một bức tranh đôi ngỗng ở phòng ngủ của mình để gia tăng sự gắn kết tình cảm và đưa mối quan hệ bước lên một giai đoạn mới.

16. Nếu nữ đang độc thân nên tăng cường năng lượng dương để lôi kéo phái mạnh đến với mình. Hãy treo một bức tranh mặt trời và đảm bảo thắp thật nhiều đèn trong nhà.

17. Cho dù là nam hay nữ, bạn nên thắp sáng góc Tây Nam trong phòng để giúp mối quan hệ luôn ấm áp và đem tình duyên đến cho bạn.

18. Nếu phòng ngủ quá tẻ nhạt nên thêm vào những đồ vật khiến bạn mỉm cười ví dụ như bức ảnh một cặp đôi đang cười vui vẻ. Những thứ này sẽ mang lại năng lượng tích cực vào căn phòng và cải thiện các mối quan hệ.
   
 

Bí quyết phong thủy trong tình yêu - Không nên
 

1. Cắm vài bông hoa trong nhà sẽ giúp ích trong việc đem đến vận may đào hoa tuy nhiên nên tránh dùng hoa giả, dễ gặp phải người không thật lòng.   2. Trong nhà tránh đặt những bình hoa rỗng. Nếu không cắm hoa, tốt nhất nên đặt những bình hoa rỗng ấy ở những nơi khuất tầm nhìn. Bình hoa rỗng tượng trưng cho sự ảo tưởng, vận đào hoa sẽ tiêu tan, chuyện tình cảm dễ vấp phải tình đơn phương.   3. Nhà vệ sinh đối diện với giường ngủ rất dễ khiến vận đào hoa suy yếu. Cho dù bạn may mắn gặp vận đào hoa thì những mối tình đều không có kết cục tốt đẹp. Vì thế, trong tình huống này nên thay đổi vị trí của giường là tốt nhất
 
4. Không bao giờ mua hoặc thuê một ngôi nhà khuyết góc Tây Nam hoặc Tây Bắc.
 
5. Không nên mua hoặc thuê căn nhà có bếp đặt ở vị trí góc Tây Bắc. Bạn có thể tham khảo thêm về phong thủy nhà bếp để áp dụng cho ngôi nhà của mình nhắm thu hút vượng khí vào nhà.
 
6. Không được treo ảnh gia đình, bạn bè hoặc hình ảnh liên quan tới tôn giáo trong phòng ngủ 
 
7. Ánh sáng trong phòng ngủ nên điều chỉnh thích hợp. Quá u tối sẽ khiến tình yêu của bạn mất đi những cung bậc cảm xúc, tình cảm giữa hai bên sẽ có nhiều phiền muộn. Quá sáng sẽ khiến mối quan hệ giữa đôi bên mất đi sự cân bằng, tình cảm dễ nảy sinh xung đột. Vì thế phòng ngủ có đèn mờ ảo, tạo cảm giác gợi cảm là tốt nhất.
 
8. Gam màu xanh nước biết có thể làm giảm ham muốn của hai bạn trong chuyện chăn gối vì thế tránh màu sắc này trong phòng ngủ.
 
9. Tránh sử dụng màu sắc thuộc hành thủy như đen, xám, xanh sẫm vì chúng có xu hướng gây ảnh hưởng xấu đến chuyện tình duyên.   10. Nếu đang độc thân không nên ngủ giường đơn mà thay vào đó hãy sử dụng giường đôi.
 
 
Bi quyet phong thuy trong tinh yeu hinh anh
 
11. Treo những bức tranh/chân dung miêu tả sự cô đơn như một cô gái nhìn chằm chằm trên bầu trời sẽ chỉ thu hút cảm giác cô đơn hơn. Vì thế tuyệt đối không nên treo những hình ảnh này trong nhà.

12. Không được treo tranh miêu tả cảm xúc tiêu cực như giận dữ, nỗi buồn, khóc, đấu tranh, chiến tranh,...
 
13. Hãy chỉ giữ lại những hình ảnh đẹp, vừa ý, mang lại cảm hứng và nâng cao tinh thần. Bên cạnh đó, hãy loại bỏ tivi, máy tính xách tay, điện thoại hay các thiết bị điện tử ra khỏi giường ngủ. Hãy để phòng ngủ là nơi dành cho đam mê và sự trẻ hóa. Tránh treo những hình ảnh hoặc đồ nội thất liên quan tới người ngoài gia đình trên tường.   14. Phòng ngủ nên bài trí đơn giản và lãng mạn. Không nên trang trí quá phức tạp. Phòng ngủ càng bừa bộn càng khiến con người có tâm lý buồn phiền, do đó cũng khiến chuyện tình cảm ít nhiều nảy sinh xung đột.   15.  Phòng ngủ tránh đặt bể cá vì tình yêu vốn là sự ấm áp. Nếu đặt bể cá trong phòng ngủ chẳng khác nào dập tắt lửa yêu, dễ khiến tình cảm rơi vào sự bấp bênh, thậm chí còn nảy sinh nhiều vấn đề trong tình cảm.   16. Trụ cột trong phòng ngủ tránh ép chặt vào giường. Lý do chính là không có lợi cho người ngủ, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý.   17.  Gương trong phòng ngủ tránh đặt đối diện với giường. Gương vốn là phản chiếu lại một mặt khác, và điều này nghĩa là nó phản ánh theo chiều hướng ngược lại. Nó sẽ dẫn đến những hiểu lầm, khiến chuyện tình cảm nảy sinh lòng hoài nghi.

18. Khi đi ngủ không nói chuyện công việc
  19. Nếu bạn muốn bắt đầu một mối quan hệ, đừng để xung quanh mình là hình ảnh của những thứ đơn độc. Tránh đặt một chiếc ghế lẻ loi trong góc phòng, bức họa gợi tới sự cô đơn. Đó là điều quan trọng để tạo ra năng lượng cho mối quan hệ xung quanh. Vì thế, hãy để đồ đạc xung quanh hay trên giường có đôi có cặp.

HaTra
Hiểu ý nghĩa con số trong phong thủy sẽ đem lại tài lộc vô biên Phong thủy cho cửa chính: Những điều nên và không nên 3 mẫu phòng ngủ phạm phong thủy tuyệt đối phải tránh
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết phong thủy trong tình yêu

Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Để Tam tinh Phúc Lộc Thọ luôn ngự trị trong nhà, mang lại nhiều may mắn thì gia chủ bày tượng Tam Đa cần tuân thủ những cấm kị phong thủy, không đặt tuỳ tiện
Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để Tam tinh Phúc Lộc Thọ luôn ngự trị trong nhà, mang lại nhiều may mắn thì gia chủ cần bày tượng Tam Đa tuân thủ những cấm kị phong thủy, tuyệt đối không được tùy tiện thích đặt đâu thì đặt.


► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm dương để thuận lợi công việc

Trong nhiều gia đình Việt, bên cạnh Thần Phật nhiều gia đình hay thờ cúng hay bày tượng ba ông Tam Đa, hay còn gọi là ba ông Phúc - Lộc - Thọ. Ba ông luôn đi với nhau, đại diện cho những tham vọng không thay đổi của con người dù thời gian có trôi qua - giàu có (Lộc), may mắn (Phúc) và trường thọ (Thọ). 
Bay tuong Tam Da dung chuan, Tam Tinh luon ngu tri trong nha hinh anh
Ảnh minh họa
- Ông Phúc làm đến chức Thừa tướng đời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm và có một gia đình hạnh phúc. Đến năm 83 tuổi là đã có ngũ đại đồng đường. Vì vậy, trên tay ông Phúc thường bế một đứa bé trai. Ông Phúc mang đến sự may mắn, an lành.    - Ông Lộc làm quan Thừa tướng nhà Tấn. Vàng bạc, châu báu trong nhà chất cao như núi. Ông thường mặc áo màu xanh lá cây vì "lộc" phát âm gần với "lục". Ông Lộc tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng.    - Ông Thọ làm Thừa tướng đời Hán, sống thọ đến 125 tuổi. Ông tượng trưng cho sự trường thọ với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm quả đào hoặc gậy chống.   

1. Chất liệu tượng Phúc - Lộc - Thọ

  Cũng giống như nhiều tượng Phật khác, tượng Tam Đa được làm từ rất nhiều chất liệu khác nhau như gỗ, đá, gốm sứ, mạ vàng, ngọc thạch, đồng nguyên chất… Do đó, gia đình có thể chọn mua bất kì loại tượng nào phù hợp với điều kiện tài chính. 
Bay tuong Tam Da dung chuan, Tam Tinh luon ngu tri trong nha hinh anh
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, tượng được làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất trong phong thủy.  

2. Thứ tự bày tượng Tam Đa

  Tượng ba ông Tam Đa luôn luôn phải đặt theo đúng thứ tự.    - Tượng Phúc Tinh: đặt bên phải   - Tượng Lộc Tinh: đặt ở giữa   - Tượng Thọ Tinh: đặt bên trái  

3. Vị trí đặt tượng Phúc - Lộc - Thọ 

  - Đặt ở vị trí hợp tuổi gia chủ   Tượng Thần tiên tất nhiên nên đặt ở vị trí may mắn để thờ cúng. Tượng Thần Phật nếu đặt ở vị trí hung, kị với tuổi của chủ nhà sẽ gây hao tài tốn của và dính vào nhiều chuyện thị phi.   - Đặt ở hai bên cửa chính   Bạn nên đặt tượng Phúc - Lộc - Thọ ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính. Nếu đặt đối diện cửa chính sẽ khiến Thần tiên ra khỏi nhà.   - Đặt tượng hướng vào trong phòng
Bay tuong Tam Da dung chuan, Tam Tinh luon ngu tri trong nha hinh anh
Ảnh minh họa
Cũng giống như việc không đặt tượng đối diện cửa chính, mặt tượng không được hướng ra ngoài. Mặt tượng hướng vào trong tức là đem tiền tài đến cho người trong nhà, nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.   - Đặt tượng trong phòng khách   Bạn nên đặt tượng ba ông Tam Đa trong những căn phòng chính của ngôi nhà như phòng khách; tránh phòng bếp, phòng ngủ, nhà tắm... Theo chuyên gia phong thủy, gia đình nên đặt tượng trên một cái bàn cao, trước một bức tường vững chắc.   - Đặt tượng trong phòng làm việc   Đặt tượng Phúc - Lộc - Thọ trong văn phòng mang đến cho gia chủ nhiều vận may trong công việc. Tượng Phúc - Lộc - Thọ cần phải được đặt phía sau bàn làm việc.   - Đặt trong ô tô   Trong ô tô, bạn cũng có thể đặt bộ tượng Tam Đa nhỏ ở phía đằng trước, quay mặt lại phía người lái. Ba ông sẽ giúp bảo vệ sự an toàn của bạn trên những cung đường.  

4. Những chú ý cần nhớ khi đặt tượng Tam Đa

  - Cần có lư hương và đèn chong khi thờ cúng   Nếu muốn thờ cúng thì cần có lư hương và đèn chong thờ cúng làm bằng đồng. Đồ cúng ba ông Tam Đa nên dùng đồ ngọt, hoa tươi.   - Không đặt tượng thấp hơn đầu người   Cũng giống như Phật, ba ông Phúc - Lộc - Thọ là thần tiên trên trời. Do đó, nên cần đặt ở vị trí cao hơn đầu người, nếu không sẽ mạo phạm đến thần linh.   -  Không thờ cúng tượng Phúc Lộc Thọ chưa khai quang   Nếu như muốn Tam tinh phù hộ thì nhất định nên dùng tượng đã được chính thức khai quang, nếu không nó chẳng khác gì một món đồ trang trí cả. Khai quang là một nghi thức bỏ lớp vải đỏ trên mặt tượng ra để bắt đầu thờ cúng. Gia đình nên chọn ngày đẹp để làm lễ khai quang.

ST.
Thờ Tam đa đúng chuẩn để Phúc - Lộc - Thọ vào nhà Tam đa gia tăng Phúc Lộc Thọ Tam Đa mang lại vận may phúc, lộc, thọ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày tượng Tam Đa đúng chuẩn, Tam Tinh luôn ngự trị trong nhà

Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với "đào hoa vị"

Theo phong thủy, để tăng may mắn trong đường tình cảm, người ta có thể sử dụng các phương pháp “đào hoa vị”. Cắm hoa trong phòng ngủ là phương pháp “đào hoa
Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với "đào hoa vị"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vị” xưa truyền lại rất hiệu quả.

De dang nam tron hanh phuc voi dao hoa vi hinh anh
 
Cách làm này đòi hỏi phải xác định chính xác vị trí, màu sắc lọ hoa và số lượng hoa cắm trong lọ.
 
Trong Tử vi, ngôi sao tượng trưng cho đời sống tình dục và quan hệ tình cảm trai gái là sao Mộc Dục. Bảng dưới đây cho biết ngày, giờ, tháng năm ngôi sao Mộc Dục vượng theo tuổi âm lịch. 
 
Tuổi Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
Sao Mộc Dục Dậu Ngọ Mão Dậu Ngọ Mão Dậu Ngọ Mão

Sau đó, dùng la bàn phong thủy xác định vị trí đặt bình hoa sẽ thúc đẩy vận đào hoa của chủ nhân. Cung Ngọ ở phía Nam (quẻ Ly), cung Tí ở phía Bắc (quẻ Khảm), cung Mão ở phía Tây (quẻ Đoài) và cung Dậu phía Đông (quẻ Chấn. Sao Mộc Dục vượng ở phương nào thì đặt lọ hoa ở phương ấy.
  Đoài thuộc chính Tay, nên chọn phòng ngủ phía Tây nhà. Giờ Dậu (5- 7 giờ chiều), năm Dậu, tháng 8 (tháng Dậu) sao Mộc Dục cực vượng, nên tiến hành bày lọ hoa thì phương pháp “đào hoa vị” càng hiệu quả. 
 
Màu sắc bình và số hoa trong bình dựa trên tuổi âm và ngũ hành như sau.
 
Tuổi Ngũ hành Màu sắc bình hoa Số lượng hoa
Thủy Xanh lam 1
Sửu Thủy Xanh lam 1
Dần Mộc Xanh lá cây 4
Mão Mộc Xanh lá cây 4
Thìn Mộc Xanh lá cây 4
Tỵ Hỏa Đỏ 9
Ngọ Hỏa Đỏ 9
Mùi Hỏa Đỏ 9
Thân Kim Trắng 7
Dậu Kim Trắng 7
Tuất Kim Trắng 7
Hợi Thủy Xanh lam 1

Theo
Phong thủy Cát tường
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dễ dàng nắm trọn hạnh phúc với "đào hoa vị"

Đền Bạch Mã - Hà Nội

Đền Bạch Mã là một trong tứ Trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh; Đền Kim Liên; Đền Voi Phục; Đền Bạch Mã
Đền Bạch Mã - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Bạch Mã tọa lạc ở địa chỉ 76 phố Hàng Buồm, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền Bạch Mã là một trong tứ Trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành).

Đền Bạch Mã được xây dựng từ thế kỷ 9 để thờ thần Long Đỗ (Rốn Rồng)- vị thần gốc của Hà Nội cổ. Năm 1010, khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành nhưng nhiều lần thành đắp lên lại bị sụp đổ. Vua cho người cầu khấn ở đền thờ thần Long Đỗ thì thấy một con ngựa trắng từ đền đi ra. Vua lần theo vết chân ngựa, vẽ đồ án xây thành, thành mới đứng vững. Thần được vua Lý Thái Tổ phong làm Thành hoàng của kinh thành Thăng Long.

Văn bia hiện còn ở đền cho biết, đền Bạch Mã được tu bổ lớn vào niên hiệu Chính Hòa (1680-1705) đời Lê Hy Tông, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) lại được tu bổ thêm: sửa lại đền, dựng riêng văn chỉ, xây Phương đình, quy mô ngày càng rộng rãi, cảnh quan tôn nghiêm, nổi tiếng ở chốn đất thiêng.

Kiến Trúc: Hiện tại ngôi đền có qui mô kiến trúc lớn, quay theo hướng Nam gồm có Nghi môn, Phương đình, Đại bái, Thiêu hương, Cung cấm và nhà hội đồng ở phía sau. Các mục hạng này được bố trí theo chiều dọc, trong một không gian khép kín.

Kiến trúc đền còn lưu lại hiện nay chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ 19). Nổi bật trong kết cấu kiến trúc của đền là toàn bộ khung nhà gỗ với hệ thống cột gỗ lim lớn, các bộ vì đỡ mái được làm kiểu “giá chiêng chồng rường con nhị”, đặc biệt là “hệ củng 3 phương” tại nhà phương đình vừa có tác dụng chịu lực, vừa là tác phẩm nghệ thuật và sử dụng để treo đèn trong các ngày lễ hội và kết cấu “vòm vỏ cua” đỡ mái hiên nhà thiêu hương. Trên các cốn gỗ, xà lách, xà ngang, các vì chồng rường đều có nhiều mảng trang trí với các đề tài phong phú và nét trạm chắc, khỏe.

Trong nội thất của đền, phương đình ở phía trong, bên trái có cây hương, bàn thờ, phía ngoài có miếu thờ Tề Vương Phi, bên phải phương đình thờ Bể Núi. Thiêu hương và cung cấm có ban thờ và đồ tế lễ.

Hiện đền còn lưu giữ nhiều di vật cổ có giá trị như: bia đá, sắc phong, kiệu thờ, hạc thờ, đôi phỗng, Cùng với các giá trị về kiến trúc nghệ thuật, di tích đền Bạch Mã là một nguồn tư liệu quí để nghiên cứu, tìm hiểu Thăng Long-Hà Nội về nhiều mặt. Có hơn một nghìn năm lịch sử, Đền Bạch Mã là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của thủ đô Hà Nội.

Đền Bạch Mã liên tục tiếp đón các du khách trong và ngoài nước đến viếng, tìm hiểu về một trong những di tích lịch sử văn hóa của Thăng Long-Hà Nội, nơi có vị thần Long Đỗ Thành hoàng quốc đô Thăng Long ngự trị, đã và đang phù trợ cho nhân dân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Bạch Mã - Hà Nội

Tín ngưỡng “diệt trừ ma quỷ” khi xây nhà ở một số nước

Mỗi nền văn hóa khác nhau lại có những biện pháp “diệt trừ ma quỷ” khác nhau, theo quan niệm của riêng mình. Cùng điểm qua một vài tín ngưỡng "diệt ma, trừ quỷ" khi xây dựng nhà ở của người châu Á và phương Tây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều cách tính toán trong thiết kế để xây dựng thành công một căn nhà mơ ước. Bên cạnh đó, theo tín ngưỡng, việc tránh cho ngôi nhà gặp phải những nguồn năng lượng xấu, hay nói theo cách "đời thường" là những vị khách “không mời mà đến” (như hồn ma) cũng không là điều ngoại lệ.

Nhật Bản: Bỏ trống kimon (cửa quỷ)

Ở Nhật Bản, có truyền thuyết kể rằng các linh hồn đều đến từ hướng Đông Bắc hay "kimon" (cửa quỷ). Đó bị coi là một hướng không may mắn trong ngôi nhà vì linh hồn ma quỷ có thể đi vào, ăn cắp tất cả vận may của gia đình bạn và đi ra từ đó.

 

Theo quan niệm này, họ không thể làm cửa, đặt bếp, nhà vệ sinh, phòng tắm hay thậm chí là bồn rửa ở góc này. Tất cả những thứ liên quan đến lửa và nước đều có thể dẫn ma quỷ vào ngôi nhà của bạn từ góc kimon. Để bảo vệ ngôi nhà, người ta thường đặt tủ quần áo hay treo những lá bùa viết bằng chữ Phạn ở góc Đông Bắc đó.

Thậm chí, họ còn dựng một mô hình thành Hiji (một tòa thành cổ được xây theo hướng kimon ở Nhật Bản) làm tháp bảo vệ ở hướng Đông Bắc. Nếu có thể, họ sẽ bỏ trống hoàn toàn khu vực này. Nhiều người Nhật tin rằng, việc làm đó sẽ giúp ngăn chặn triệt để và không cho những linh hồn ma quỷ có cơ hội xâm nhập vào nhà.

"Lối thoát ma quỷ" của người Philippines

Trong một số nền văn hóa ở Philippines, tầng hầm và những căn phòng dưới lòng đất được xem là nơi trú ẩn của các linh hồn ma quỷ. Cách duy nhất bạn có thể "hóa giải" là xây dựng một lối ra trong ngôi nhà thấp hơn so với căn phòng đó. Đây được coi là “lối thoát ma quỷ”.

 

Một đặc điểm nữa là khi xây cầu thang trong nhà, họ thường đếm những bậc thang đó với "oro, plata, mata" (có nghĩa là vàng, bạc, cái chết) cho mỗi bậc.

Nếu bậc thang cuối cùng ứng với “oro” - có nghĩa là cuộc sống của bạn sẽ rất tốt; nếu kết thúc bằng “plata”, bạn sẽ có một cuộc sống bình thường. Bậc cuối cùng mà mang tên “mata”, bạn hoặc ai đó trong gia đình có thể sẽ phải đối mặt với cái chết, bởi đó là bậc thang chết chóc. Chính vì vậy, rất ít cầu thang ở đây được xây theo con số lẻ.

“Nhà hồn” ở Thái Lan

Trong khi rất nhiều nền văn hóa cố gắng xua đuổi, thậm chí là tìm cách diệt trừ những linh hồn xung quanh họ thì người Thái lại xây dựng “ nhà hồn” cho linh hồn ma quỷ.

 

Người Thái cho rằng, những linh hồn sống ở khắp mọi nơi xung quanh bạn, họ không có chỗ để nương thân nên mới vây quanh bạn và quấy nhiễu. Do đó, người Thái đã nảy ra ý tưởng xây dựng ngôi nhà nhỏ mang tên “nhà hồn”.

Chúng sẽ được dựng lên bên cạnh nhà người sống đang ở. “Nhà hồn” chính là nơi để các linh hồn có thể cư trú ở trong đó, vì thế sẽ không làm phiền đến cuộc sống của bạn. Người Thái tin đây không chỉ là cách để xoa dịu các linh hồn, mà từ đó các linh hồn này sẽ giúp đem lại may mắn cho họ trong cuộc sống.

Mái nhà cong trong kiến trúc Trung Hoa

Xây dựng và thiết kế mái nhà sao cho phù hợp là một phần quan trọng trong kiến trúc của người Trung Quốc. Điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt kiến trúc mà còn mang ý nghĩa tín ngưỡng sâu xa.

 

Mái nhà của người Trung Quốc, đặc biệt là trong các thiết kế cung đình hay chùa chiền đều có dạng hình cong. Theo quan niệm của đạo Phật, linh hồn chỉ có thể bay theo đường thẳng, không thích những thứ có hình dáng cong.

Nhiều người cho rằng, những linh hồn ma quỷ sẽ bị rơi ra khỏi mái nhà khi gặp phải những đường cong trên mái, hay ngay cả khi chúng bay xuống từ phía trên cũng sẽ bị bật trở lại nếu va phải đường cong này. Do đó, người Trung Quốc tin, mái nhà cong sẽ giúp xua đuổi những hồn ma và khiến linh hồn tà ác tránh xa nơi ở của họ.

Sơn “Haint blue” ở Phương Tây

“Haint blue” là tên gọi chung cho toàn bộ các sắc thái của màu xanh. Theo một số quan niệm của phương Tây, những sắc xanh này có tác dụng xua đuổi ma quỷ.

 

Nhiều người tin câu chuyện về “Haint blue” có nguồn gốc từ nền văn hóa của người Gullah ở miền Nam nước Mỹ. Họ cho rằng, ma quỷ không thể đi qua nước, vì vậy nếu sử dụng màu có sắc tố xanh giống như màu nước (haint blue) sẽ đánh lừa được ma quỷ là ngôi nhà bao phủ bởi một dòng sông. Do đó, chúng không thể vượt qua để vào nhà được.

 

Theo giả thuyết này, nhiều người đã sơn một phần hoặc thậm chí toàn bộ ngôi nhà của mình màu xanh của nước để đẩy lùi ma quỷ, giữ cho ngôi nhà tránh khỏi sự phá rối của các hồn ma.

(Theo Một thế giới)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tín ngưỡng “diệt trừ ma quỷ” khi xây nhà ở một số nước

13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy

Không phải đi hỏi những người bậc thầy, bạn cũng có thể đảm bảo nhà bếp hợp phong thủy bằng những cách đơn giản nhất nhưng cũng rất quan trọng sau.
 13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải đi hỏi những người bậc thầy, bạn cũng có thể đảm bảo phong thủy cho nhà bếp bằng những cách đơn giản nhất nhưng cũng rất quan trọng sau.

  Bếp là nơi nấu những món ăn ngon, bổ dưỡng, mang lại cho bạn và gia đình bạn năng lượng làm việc mỗi ngày. Khó có thể bỏ qua phong thủy cho nhà bếp vì nơi đây có nhiều năng lượng hỏa nên nó liên quan trực tiếp tới sức khỏe, tiền bạc của từng thành viên trong gia đình. Ai cũng dễ dàng nhận ra rằng kiểm soát yếu tố hỏa là điều có lợi vì một ngọn lửa vô ý cũng có thể phá hủy mọi thứ mà nó đi qua. Điều này cũng đúng cho "yếu tố hỏa” trong nhà bếp.  
 
Nhà bếp đúng phong thủy là nhà bếp có thể hạn chế những năng lượng tiêu cực đồng thời, tăng cường năng lượng tích cực trong nhà. Năng lượng tích cực này lan rộng vào căn nhà của bạn làm các thành viên sống hạnh phúc, khỏe mạnh và lạc quan hơn. Do đó, điều quan trọng là luôn luôn phải đảm bảo phong thủy cho nhà bếp của bạn.  
 

13 điều nên làm:

  1. Bếp phải được bố trí phía sau cửa nhà.
 
2. Phải luôn giữ cho nhà bếp luôn sạch sẽ và gọn gàng.
 
3. Nhà bếp phải sáng sủa và thoáng khí.
 
4. Khi đứng nấu trong nhà bếp mặt bạn phải hướng về phía Đông.
 
5. Hãy bố trí cửa sổ ở phía Đông hoặc phía Tây của nhà bếp.
 
6. Hãy đảm bảo để những đồ vật có trọng lượng nhẹ ở phía Đông và Bắc phòng bếp.
 
7. Bạn có thể có bồn rửa ở phía Bắc hoặc Đông Bắc của căn bếp.
 
8. Bếp phải để cách tường vài centimet.
 
9. Giữ khoảng cách giữa bếp lửa và bồn rửa tay ít nhất 50-60 cm. Nếu không cách nào khác có thể đặt cây, bình trồng rau thơm hoặc cái gì đó màu xanh lá ở giữa bếp và bồn rửa. 
 
10. Những điều trên cũng áp dụng cho tủ lạnh đặt trong bếp; cũng phải giữ khoảng cách 50-60 cm giữa bếp và tủ lạnh.
11. Sửa chữa tất cả các vòi nước bị rò rỉ trong nhà bếp (hoặc bất cứ nơi nào trong nhà của bạn) vì điều này đồng nghĩa với việc nhà bạn bị thất thoát hết tiền, của cải.
 
12. Nếu bếp đủ rộng, có thể đặt bàn ăn ở phía Tây Bắc hoặc phía Tây của bếp.
 
13. Nên dùng màu vàng, cam, hồng, sôcôla hoặc màu đỏ làm màu sàn và tường của nhà bếp.
 
 
 

13 điều cần tránh:


1. Tránh đặt bếp gần cửa chính.
 
2. Tránh bếp ở giữa nhà.
 
3. Không bao giờ bố trí bếp dưới nhà vệ sinh. 
 
4. Tránh bếp để bếp dưới phòng ngủ.
 
5.Tránh để đồ đạc và nền nhà bếp bẩn qua đêm.
 
6. Không bao giờ được xây bếp ở phía Tây Bắc ngôi nhà. Nếu không còn cách nào khác thì sơn nhà bếp bằng màu xanh lam hoặc màu đen hoặc thay đổi gạch lát nền sang màu đen.
 
7. Không bao giờ để bếp trực tiếp lối vào cửa nhà bếp.
 
8. Tuyệt đối không để bếp ga ở phía Tây Bắc của căn bếp.
 
9. Tránh cửa nhà bếp đối mặt với phòng ngủ, nhà vệ sinh hoặc cửa chính; Nếu không còn cách khác có thể đặt cái gì đó làm phân vùng sao cho từ bếp không nhìn thấy được các cửa ra vào khác.
 
10. Tránh để bếp nầu nằm dưới xà ngang; Nếu không có lựa chọn nào khác thì làm một trần giả để hóa giải lỗi này. Cách khác đơn giản hơn rẻ hơn là đặt hoặc treo tranh đám mây, chim bay phía trên xà nhà.
 
11. Đảm bảo rằng người đứng nấu không quay lưng của mình về phía cửa bếp; Nếu phạm phải thì đặt một tấm gương như thế nào đảm bảo người nấu có thể nhìn thấy cửa nhà bếp trong khi nấu nhưng lửa bếp không được phản chiếu trong gương. 
 
12. Lối vào bếp không nằm ở góc nào của ngôi nhà.
 
13. Người đứng nấu mặt không được hướng về phía Tây vì nếu không người này sẽ có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Nếu người nấu đối mặt với phía Nam trong khi nấu thì gia đình phải đối mặt với tổn thất về tiền bạc.
 
Đây là tất cả các nguyên tắc chung mà bạn phải làm theo để có một nhà bếp hợp phong thủy. Tất cả những gì bạn cần bây giờ là áp dụng các mẹo trên cho nhà bếp và cảm nhận những thay đổi tích cực sẽ xảy ra trong cuộc sống của bạn.

HaTra

Lưu ý phong thủy cho từng loại phòng ngủ để hạnh phúc viên mãn 19 điều nên và không nên đối với phong thủy phòng ăn Cách chọn đá phong thủy hợp tuổi phát tài phát lộc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy

Tướng người gian ác –

Trong xã hội, người thiện thì ít mà kẻ ác lại qúa nhiều. Tướng ác làm sao mà ra cho hết, các nhà tướng số đã tạm xếp tướng ác nhất của đàn bà vào 9 đặc điểm sau đây, gọi là“cửu ác nữ” : * Chin tướng tiện ác đàn bà : 1- Quyền cao mắt lộ 2- Hầu gồ cao
Tướng người gian ác –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người gian ác –

Quẻ Quan Âm: Vương Mãn Cầu Hiền, Vương Mãn cầu hiền tài

Quẻ Quan Âm thứ 72 Vương Mãn Cầu Hiền đoán rằng dù trước mặt cố con đường khác có thể đi, nhưng ẩn giấu trong đó là gai góc mọc đầy.
Quẻ Quan Âm: Vương Mãn Cầu Hiền, Vương Mãn cầu hiền tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 72 được xây dựng trên điển cố: Vương Mãn cầu hiền hay Vương Mãn tìm hiền tài.

Quẻ trung bình thuộc cung Thìn. Hành sự cần cẩn trọng, dù trước mắt có nhiều con đường để lựa chọn nhưng ẩn dấu trong đó là những điều chưa lường trước được.

Thử quái kết phong thái mật, cầu điềm đắc khổ chi tượng. Chư sự lao tảm phí lực. Phàm sự phòng phạm tai ương dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Vương Mãn Cầu Hiền

Vương Mãng (45 tr. CN – 23 CN), tự Cự Quân, là cháu của hoàng hậu vua Hán Nguyên Đế, người huyện Nguyên Thành, quận Ngụy, là người lập nên nhà Tân.

Cha của Vương Mãng mất sớm, còn chưa được tấn phong, thì tiếp đến anh trai của Vương Mẫng cũng qua đời, Vương Mãng gánh vác trách nhiệm nuôi sống toàn bộ gia đình. Vương Mãng hiếu thuận với mẹ, tôn kính chị dâu, chăm sóc các cháu, sống rất giản dị; ông là người học rộng, lịch lãm, tay không lúc nào rời quyển sách, học tập “Lễ Kinh”; khiêm nhường cung kính, giữ lễ với người khác, kết giao với những người tài giỏi, hiển đạt trong xã hội, nhận được sự tin tưởng của người thời bấy giờ.

Năm mười sáu trước Công nguyên, Vương Mãng được phong làm Tân Đô Hầu đã có thể gia nhập vào trung tâm quyền lực trong triều. Sau đó ông nhằm trúng thời cơ, vạch ra âm mưu của Vương Trường và Vương Xúc đồng lõa với hoàng hậu Hừa thị đã bị phế truất, nhằm lấy lại ngôi vị cho hoàng hậu, nhờ đó ông được làm Đại Tư Mã. Từ đó, Vương Mãng dần dần nắm được thực quyền trong thiên hạ của nhà Hán.

Sau khi Vương Mãng nắm được thực quyền, ông đã dùng lễ đối đãi với người hiền, khiêm nhường với kẻ sĩ, tìm kiếm những người tài giỏi. Mỗi lần ông được hoàng đế ban thưởng, đều đem phân phát toàn bộ cho môn khách và thuộc hạ của mình, bản thân không lấy gì cả. Trong cuộc sống, Vương Mãng lại càng tỏ ra cần kiệm, ăn mặc giản dị như dân chúng. Một lần, mẹ của Vương Mãng bị bệnh, ông túc trực ở nhà. Sau khi các vương hầu công khanh khắp triều dinh biết chuyện, liền sai phu nhân và gia quyến đến thăm hỏi. Các quý phu nhân này người mặc lụa là gấm vóc, trên đầu giắt đầy châu ngọc. Vợ của Vương Mãng ra ngoài cửa nghênh đón, mặc quần áo vải thô, xiêm váy chỉ dài quá đầu gối. Khách đến đều cho rằng bà là người hầu củạ nhà họ Vương, sau khi biết được thân phận của bà, rất kinh hãi. Vì thế mà lời khen ngợi lan truyền không dứt.

Không lâu sau, Hán Ai Đế do hoang dâm nên mắc bệnh mà chết, Thái hậu liền lệnh cho Vương Mãng vào triều. Vương Mãng nắm bắt thời cơ, phế truất Đổng Hiền, kẻ vốn bị dân chúng vô cùng oán hận, buộc hắn phải tự sát. Sau khi bàn bạc với thái hậu, vào tháng mười năm Nguyên.

Thọ thứ 2, đã lập Lưu Khán mới chín tuổi làm Hán Bình Đế. Từ đó Vương Mãng nắm giữ tất cả quyền lực triều chính.

Để thu phục lòng người, ông vừa treo biển thu nạp hiền tài, lại dựa vào thủ đoạn để tạo dư luận. Một lần, Vương Mãng mua chuộc những người Man Di ngoài biên ải, để họ giả xưng là Việt Thường thị, mang chim trĩ trắng vào triều dâng tặng. Bời vào thời vua Chu Thành Vương, từng có Việt Thường thị vào triều dâng chim trĩ trắng. Quần thần đều biết ý đồ của Vương Mãng, liền dâng thư nói rằng Vương Mãng có phẩm đức bao trùm Tứ Di (*), vượt qua cả Chu Công, do đã an định được nhà Hán, nên gia phong làm An Hán Công. Dưới sự xúi bẩy của quần thần, hoàng đế liên tục gia phong cho Vương Mãng, Vương Mãng cũng liên tục từ chối, thậm chí là giả bệnh không vào triều, cuối cùng mới miễn cưỡng nhận danh hiệu đó. Đây chính là sự kiện “mua chuộc dâng lễ” nối tiếng trong lịch sử.

(*) Tứ Di: Các dân tộc xung quanh Trung Nguyên, bao gồm Di ở phía đông, Địch ờ phía bắc, Nhung ở phía tây và Man ở phía nam.

Hán Bình Đế cũng là một hoàng đế hoang dâm, chết vào năm Nguyên Thủy thứ 5 (năm 5 sau CN). Cũng có thuyết cho rằng Hán Bình Đế bị Vương Mãng đầu độc chết. Nhà Hán đến đây, thực chất chỉ còn là hữu danh vô thực. Nhưng để che tai mắt mọi người, Vương Mãng vẫn lập Lưu Anh chỉ mới hai tuổi lên làm vua, còn mình lấy danh nghĩa nhiếp chính để chiếm cứ vị trí thiên tử. Sau đó, Vương Mãng lại thông qua việc gia phong “Cửu Tích”, tạo Phù đoan, vào năm Sơ Nguyên thứ nhất để phế truất vua nhà Hán, đổi tên nước là “Tân”, niên hiệu là “Thủy Kiến Quốc”.

Năm Thiên Phượng thứ 4 (năm 17), cả nước xảy ra nạn châu chấu và nạn hạn hán, đói kém khắp nơi, dân đói nổi lên làm loạn, quân Xích Mi và quân Lục Lâm nối tiếp nhau dựng cờ khởi nghĩa. Năm Địch Hoàng thứ 4 (tức năm 23), quân Lục Lâm đánh vào Trường An, Vương Mãng bị giết, nhà Tân do ông lập nên diệt vong.

Nha Tân do Vương Mãng lập nên không được chính sử công nhận, trong lịch sử, triều đại này vẫn được nhập vào nhà Hán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Vương Mãn Cầu Hiền, Vương Mãn cầu hiền tài

Bố trí một số vật dụng nội thất giúp gia chủ tuổi Thân đón tài lộc

Theo các chuyên gia phong thủy thì ngoài việc chọn hướng nhà, sắp xếp các phòng cho hợp lý thì các gia chủ nên cân nhắc kỹ lưỡng một số những yếu tố về màu sắc, vật dụng nội thất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo thuyết ngũ hành, ngay cả chuyện màu sơn của ngôi nhà cũng tác động tới tài vận, sức khỏe của cả gia đình nên cần thiết phải có cái nhìn đúng đăn về vấn đề này.

Tuổi Bính Thân: Tuổi này sinh vào những năm 1956 và 2016. Quẻ mệnh: Cấn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh, Ngũ hành: Sơn hạ hỏa (Lửa dưới chân núi). Các hướng tốt: Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên)l; Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị). Hướng xấu: Nam (Họa Hại); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Đông (Lục Sát); Bắc (Ngũ Quỷ). Riêng về năm 2015, tuổi Bính Thân tuy không phạm phải Tam tai nhưng lại phạm vào Kim lâu và Hoàng ốc vì vậy mà không nên tiến hành xây dựng.

Xét theo tuổi này, cách bày trí nội thất cũng có những đặc điểm khác so với những người cùng tuổi Thân khác. Mang mệnh Hỏa nên màu sắc hợp với bản mệnh là màu đỏ, tím, hồng, tuy nhiên, nếu như gia chủ không thích những màu này thì có thể chọn màu xanh để thay thế. Màu xanh tượng trưng cho mệnh Mộc, trong Ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa sẽ rất tốt cho gia chủ. Bên cạnh đó, để có được màu sơn thích hợp với gia đình mình, các gia chủ cũng có thể pha trộn các màu với nhau miễn sao đảm bảo được tông màu gốc.

Về bày trí nội thất, tốt nhất là gia chủ nên sử dụng các vật dụng bằng gỗ làm chủ đạo. Ví dụ như việc làm cầu thang, tốt nhất là nên sử dụng gỗ mà không nên sử dụng inox hay kính vì không tương thích với bản mệnh. Ngay cả những vật phẩm phong thủy cũng nên tuần theo nguyên tắc này, sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, hồng, cam, tím, xanh lá. Còn về việc bày trí phòng bếp, phòng ngủ, phòng thờ thì cứ căn cứ theo các hướng tốt của bản thân để quyết định.

Tuổi Canh Thân: Tuổi này sinh năm 1980. Quẻ mệnh Không (thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ câu lựu). Các hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y). Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Họa Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát). Về năm 2015, tuổi Canh Thân không phạm phải Tam tai và Kim lâu nhưng lại phạm Hoàng ốc. Do đã đạt được hai yếu tố căn bản nên có thể cân nhắc việc xây dựng nhưng tốt nhất là nên làm lễ cẩn thận, nếu được thì tìm người tuổi đẹp để động thổ giúp.

Trong việc bày biện nội thất, Ngũ hành tương sinh tương khắc, Thủy sinh Mộc (nước nuôi cây) nên các màu của nước sẽ hợp với Mộc như màu đen của đất hay màu xanh dương, màu xanh da trời của nước. Tiếp đến là các màu bản mệnh của mộc như xanh lá cây, màu gỗ, và các gam màu thuộc hỏa như đỏ, hồng, tím. Mệnh Mộc cũng hợp với các chế phẩm từ gỗ, hoa cỏ và những hình trang trí như hổ, thỏ, mèo…

Không nên sử dụng màu trắng trong trang trí nhà cho người mệnh Mộc. Người mệnh Mộc hợp với các đồ dùng có màu xanh lá cây và màu gỗ. Người mệnh này cũng có thể bổ sung thêm các vật dụng màu đỏ, hồng, tím để tô điểm cho không gian nhà nhưng chỉ với số lượng vừa phải. Những người tuổi Canh Thân nói riêng và mệnh Mộc nói chung nên hạn chế tối đa các vật dung bằng kim loại khi bày trí nội thất trong gia đình vì theo Ngũ hành Kim sẽ khắc Mộc, không có lợi.

 bo tri mot so vat dung noi that giup gia chu tuoi than don tai loc - 1

Nội thất màu vàng phù hợp với người tuổi Mậu Thân. 

Tuổi Giáp Thân: Người tuổi này sinh năm 1944. Quẻ mệnh: Khôn Thổ thuộc Tây Tứ Mệnh nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch. Ngũ hành: Tuyền Trung Thủy (Nước trong suối). Các hướng tốt gồm: Tây Bắc: Diên Niên; Đông Bắc: Sinh Khí; Tây: Thiên Y; Tây Nam: Phục Vị. Còn hướng xấu sẽ là: Hướng Bắc – Tuyệt mệnh: Chết chóc. Đông – Họa Hại: Nhà có hung khí. Đông Nam – Ngũ Quỷ: Gặp tai họa. Nam – Lục Sát: Nhà có sát khí. Năm 2015, tuổi này không phạm Tam tai, không phạm Kim lâu nhưng phạm Hoàng ốc, có thể xây dựng được.

Theo phong thủy ngũ hành bạn có thể bài trí nhà cho người mệnh Thủy theo tương sinh, tương hợp. Nghĩa là những màu sắc thuộc hành Thủy, hành Mộc và hành Kim sẽ tốt cho người mệnh Thủy nhất. Màu sắc chủ đạo của mệnh Thủy là các tông màu xanh, đen, còn màu sắc của hành Kim là trắng, ánh kim và không nên dùng màu nâu, vàng, đỏ thuộc hành Thổ và hành Hỏa. Bởi vì chủ nhà mệnh Thủy, nên các chất liệu kim loại, gỗ, thủy tinh rất phù hợp để sử dụng. Đồ vật nên dùng hình tròn, hình trụ, hình lượn sóng thuộc Kim, Mộc, Thủy, tránh những đồ vật hình nhọn thuộc Hỏa khắc Thủy. Trong nhà luôn có cây xanh, treo chuông gió bằng kim loại hoặc các bức tượng bằng đồng, bằng gỗ.

Một lời khuyên là những gia chủ mệnh này nên sử dụng nhiều vật dụng bằng kim loại, kính và ngược lại chỉ nên sử dụng các loại đồ gỗ một cách có chừng mực. Theo Ngũ hành, Kim sinh Thủy mà hai chất liệu kia lại tượng trưng cho mệnh Kim vì vậy sẽ bổ trợ cho bản mệnh của gia chủ, đồ gỗ nhiều sẽ khiến cho gia chủ thêm ưu tư lo phiền.

Tuổi Mậu Thân: Năm sinh dương lịch: 1968, 2028. Quẻ mệnh: Khôn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Đại trạch thổ (Đất thuộc khe lớn). Các Hướng tốt: Đông Bắc (Diên Niên); Tây (Thiên Y); Tây Nam (Phục Vị). Hướng xấu: Đông (Họa Hại); Đông Nam (Ngũ quỷ); Nam (Lục Sát); Bắc (Tuyệt mệnh). Năm 2015, tuổi này phạm phải Kim lâu và Hoàng ốc nên việc xây dựng có thể lui lại đến thời gian sau, trong tình huống bắt buộc thì phải nhờ người động thổ giúp, tránh mặt trong những lúc khởi công và đổ mái.

Theo quan điểm phong thủy, một số nền văn hóa cổ xưa tôn sùng màu vàng bởi đây là màu của sức mạnh, quyền năng và duy trì sự sống. Căn phòng cho người mệnh Thổ được sơn vàng hoặc các vật dụng trang trí màu vàng luôn tỏa ra một niềm vui như mùa thu tỏa nắng, khi được trang trí căn phòng sẽ toát lên niềm lạc quan, yêu đời. Nội thất phòng khách dưới đất là một gợi ý cho người mệnh Thổ với bức tường gạch nung, sofa màu vàng, vật liệu gỗ nâu trầm, đèn chùm trang trí pha màu vàng và các đồ vật trang trí khác bằng gốm sứ…Những gam màu tối của không gian Thổ luôn tạo ra sức mạnh của uy quyền và do đó, gợi lên sự sang trọng, tinh tế nên không gian Thổ thường được đưa vào nội thất phòng khách của những người đã có sự thành đạt nhất định trong cuộc sống.

Tuổi Nhâm Thân: Người này sinh năm 1992. Quẻ mệnh: Cấn (Thổ) thuộc Tây tứ mệnh. Ngũ hành: Kiếm phong kim (Vàng đầu mũi kiếm). Hướng tốt: Tây Nam (Sinh khí); Tây (Diên Niên); Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị). Hướng xấu: Nam (Họa Hại); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Đông (Lục Sát); Bắc (Ngũ Quỷ). Năm 2015, người tuổi này phạm phải Kim lâu và Hoàng ốc nên không nên xây dựng, tốt nhất là lui lại thời gian khởi công vào những năm sau.

Màu sắc chính của người mệnh Kim là màu trắng. Do đó mệnh Kim có thể sử dụng màu trắng là gam màu chính cho các đồ dùng trong gia đình. Ngoài ra, theo tương sinh thì Thủy sinh Kim, mà màu xanh lam và đen đại diện cho thủy nên người mệnh này cũng có thể sử dụng các vật dụng màu này để bổ sung cho mình. Cũng theo ngũ hành thì Hỏa khắc Kim, nên nếu trong nhà đã lựa chọn màu trắng làm chủ đạo thì nên hạn chế hoặc không sử dụng đến các màu đỏ và tím. Những gia chủ có mệnh Kim thì nên hạn chế hoặc tránh sử dụng đồ nội thất hoặc trang trí nhà với gam màu đỏ, tím.

Người mệnh Kim nên chọn các vật liệu trang trí nhà bằng kim loại như thép, nhôm, vàng, bạc… Đặc tính kim loại của chúng có thể thúc đẩy sự lưu thông không khí. Vì vậy, với các vị trí kín trong nhà, nên trưng bày các vật bằng kim loại. Về các loại cây trồng, người mệnh Kim nên trồng hoặc trang trí các loại cây, hoa sau trong nhà: hoa ngọc lan, cửu lý hương, kim bách hợp, hàm tiếu, mễ lan, kim quế và hoa kim ngân.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí một số vật dụng nội thất giúp gia chủ tuổi Thân đón tài lộc

Bạn và người ấy có tướng phu thê không, soi ngay những điểm này

Tướng phu thê là điều vô cùng kì lạ trong nhân tướng học, khi mà hai vợ chồng có những nét tương tự nhau về khuôn mặt. Cùng xem những nét tướng nào thể hiện
Bạn và người ấy có tướng phu thê không, soi ngay những điểm này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tướng phu thê nhé.   Tướng phu thê là một trong những nét tướng rất đặc biệt trong nhân tướng học. Người ta thường chỉ hiểu đơn giản tướng phu thê là hai vợ chồng có tướng mạo có nhiều điểm tương đồng hoặc có nhiều nét tương tự nhau.   Tuy nhiên, nếu bạn bỏ thời gian quan sát những cặp vợ chồng được coi là có tướng phu thê, so sánh những đặc điểm trên ngũ quan của họ thì bạn sẽ phát hiện ra, phần lớn những cặp vợ chồng đó không hề có ngũ quan giống nhau.    Kì thực, có thể đánh giá được tướng phu thê qua những đặc điểm sau đây, cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu ngay nhé.  

1. Gương mặt trái xoan dài

  Đây là một trong những nét tướng để đánh giá hai người có tướng phu thê hay không. Khuôn mặt hơi dài, cằm nhọn ra rõ ràng, đó chính là khuôn mặt thường gặp ở những cặp đôi có tướng phu thê. Hai con người dù xa lạ nhưng nếu có đặc điểm hình dáng khuôn mặt tương đồng như này thì chỉ cần gặp gỡ là họ sẽ nhanh chóng rơi vào lưới tình.

tuong phu the qua nhung net nay
 
  Người đàn ông có tướng khuôn mặt như trên thường có nội tâm phong phú, tình cảm dạt dào, cũng rất biết cách thể hiện tình cảm và suy nghĩ của bản thân. Họ là những người giỏi xã giao, cũng có nhiều bạn bè, đối tác làm ăn là nữ giới.   Cặp đôi có tướng khuôn mặt hình trái xoan nếu nên duyên thì cuộc sống sẽ vô cùng hạnh phúc, bên nhau ân ái tới già. Tình cảm bền lâu, họ chẳng bao giờ tranh cãi đến mức không nhìn mặt nhau, hai người nhường nhịn và quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Càng bên nhau lâu, họ càng thêm thấu hiểu và chia sẻ, tình yêu luôn nồng thắm như thủa ban đầu.  

2. Tỷ lệ Tam đình tương đương nhau

  Những người am hiểu về nhân tướng học đều biết trên khuôn mặt con người được chia làm ba phần, gọi là Tam đình, gồm 3 phần: từ trán xuống lông mày, từ lông mày xuống mũi, từ mũi xuống cằm. Mỗi một phần này đều sẽ tương ứng với vận thế của con người trong từng giai đoạn cuộc đời.

nhung net tuong phu the
 
  Nếu bạn và người ấy có tỷ lệ Tam đình tương đương nhau thì chắc chắn sẽ có những trải nghiệm khá giống nhau, quá trình trưởng thành cũng có nhiều điểm tương đồng. Hai người có nền tảng cuộc sống giống nhau, có chung sở thích và ước mơ, còn nghi ngờ gì nữa, hai bạn chính là có tướng phu thê.   Tính cách giống nhau, quan điểm sống tương đồng, chỉ cần gặp gỡ là tình cảm sẽ trào dâng như cuộn sóng, mức độ tăng tiến trong vận trình tình cảm cũng cực kì nhanh. Tình yêu tăng tốc, đốt cháy giai đoạn, nhưng không vì thế mà thiếu đi sự ngọt ngào lãng mạn, thậm chí họ còn có thể dành cho nhau tình cảm dạt dào nồng thắm, sẵn sàng hy sinh vì đối phương.  

3. Một người mắt to, một người mắt nhỏ

  Điều này có nghĩa là tướng phu thê ở hai người được thể hiện qua đôi mắt, trong đó một người có đôi mắt khá nhỏ, mà người kia mắt lại to. Cặp đôi có tỷ lệ đôi mắt chênh lệch nhau lớn, ngược lại là tướng trời sinh một cặp. Tính cách hai người có thể có nhiều khác biệt, song lại bổ sung khá nhiều cho nhau. Giữa họ có một lực hút vô hình, hai người cùng cuốn hút nhau, chính vì thế mới gọi là tướng phu thê.

nhan tuong hoc tiet lo tuong phu the
 
  Đàn ông mắt nhỏ tính tình trầm ổn, mạnh mẽ, có khả năng quan sát vô cùng tốt, cho đối phương có cảm giác an toàn. Còn những cô gái với đôi mắt to tính cách vui vẻ hòa đồng, vô cùng quyến rũ với người khác giới. Sự kết hợp giữa hai người này quả là hoàn hảo. Họ không vì tính cách trái ngược nhau mà nảy sinh mâu thuẫn, ngược lại còn rất tôn trọng sự khác biệt của nhau. Cặp đôi mắt to – mắt nhỏ này thậm chí còn được coi là tướng phu thê vô cùng tốt, là cặp vợ chồng hoàn hảo, chẳng gì có thể tách rời.
Thiên Thiên

Soi đặc điểm chỉ ra bạn và người ấy có tướng phu thê từ kiếp trước Tướng phu thê: Song Joong Ki và Song Hye Kyo đều có

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn và người ấy có tướng phu thê không, soi ngay những điểm này

Mơ thấy dự tiệc: Giàu có, an khang –

Bữa tiệc phong phú là tượng trưng của sự giàu có an khang. Trong mơ xuất hiện một bữa tiệc ồn ào náo nhiệt, chứng tỏ cuộc sống hiện tại của bạn khá tốt. Giấc mơ này dự báo năng lực giao tiếp xã hội của bạn sẽ ngày một nâng cao. Mơ thấy bữa tiệc long
Mơ thấy dự tiệc: Giàu có, an khang –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy dự tiệc: Giàu có, an khang –

Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Cách yểu thọ ở trẻ con, cách tính các giờ kim xà thiết tỏa, giờ tướng quân, bàng giờ, giờ quan sát, giờ diêm vương, giờ dạ đề trong lá số tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Cách yểu mệnh ở trẻ con (kim xà thiết tỏa, bàng giờ, giờ quan sát, giờ tướng quân, giờ diêm vương, giờ dạ đề):

Giờ kim xà: Phạm giờ kim xà, triển vọng của đứa trẻ rất bấp bênh. Cho dù có sống cũng hết sức khó nuôi vì đau yếu luôn luôn. Nếu Bản Mệnh đứa trẻ bị cha (hay mẹ) khắc hành, thì càng khó sống.

Cách tính giờ kim sà rất phức tạp:

- dùng cung Tuất, kể là năm Tý, đếm theo chiều thuận đến năm sinh;

- đến cung nào, kể cung đó là tháng giêng, đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh;

- đến cung nào, kể cung đó là mùng một, đếm theo chiều thuận đến ngày sinh;

- đến cung nào, kể cung đó là giờ Tý, đếm theo chiều nghịch đến giờ sinh thì dừng lại ở cung này.

Nếu là trai, mà cung này là cung Thìn hoặc cung Tuất thì phạm giờ kim sà. Còn nếu cung này là cung Sửu hay Mùi thì phạm vào bàng giờ.

Nếu là gái, mà cung này là cung Sửu hoặc Mùi thì phạm giờ kim xà, còn nếu rơi vào cung Thìn hay Tuất thì chỉ phạm bàng giờ.

Trong các trường hợp phạm giờ kim xà, trai hay gái, dễ yểu trước 13 tuổi. Còn nếu chỉ phạm bàng giờ thì có cơ may tồn tại, nhưng sẽ hết sức khó nuôi. Tuy nhiên, nếu Bản Mệnh đứa trẻ bị Bản Mệnh người mẹ hoặc người cha khắc thì ít hy vọng, đứa nhỏ sẽ có thể yểu, sau nhiều lần đau yếu. Tuy nhiên, trong trường hợp có hy vọng tồn tại, còn phải xem thêm các sát tinh thủ Mệnh đứa trẻ để quyết đoán cho chắc chắn.

Giờ quan sát: Phạm giờ quan sát, trẻ con hoặc hay đau yếu, hoặc bị tai nạn bất ngờ đe dọa sinh mệnh. Cách tính chỉ dựa theo giờ, tháng sinh theo bảng dưới đây:

 Tháng Sinh  Giờ Quan Sát
 1  tỵ
 2 ngọ 
 3 mùi 
 4 thân 
 5 dậu 
 6 tuất 
hợi 
tí 
sửu 
10  dần 
11  mão 
12  thìn 

Cần lưu ý rằng tai nạn sơ sinh có ảnh hưởng sâu rộng đến tính nết đứa trẻ. Thông thường, tai nạn đó khiến đứa trẻ sau này rất ngỗ ngược, liều lĩnh, ngang tàng.

Giờ tướng quân: Phạm giờ này, trẻ hay bị bệnh, đặc biệt là ghẻ lở và thần kinh không quân bình, thẻ hiện bằng tính khóc hoài không nín, khóc rất dai. Tuy nhiên, tính mạng đỡ lo, có hy vọng tồn tại nhiều hơn hai giờ kim sà và quan sát. Cách tính giờ tướng quân theo mùa và giờ sinh theo bảng dưới đây: 

 Mùa sinh  Giờ Tướng Quân
 Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3  Thìn - Tuất - Dậu
 Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6  Tý - Mão - Mùi
 Thu: 1-7 tơi tháng 9  Dần - Ngọ - Sửu 
 Đông: 1-10 tới 30 tháng 2  Thân - Tỵ - Hợi 

Giờ Diêm vương: Phạm giờ này, trẻ con thường có nhiều chứng dị kỳ, như hay giật mình, hốt hoảng, trợn mắt, lè lưỡi, hầu như bị một ám ảnh nào lớn lao trong tâm trí mà đứa trẻ cơ hồ như ý thức được. Cách tính giờ Diêm vương theo tháng và giờ sinh như sau: 

 Mùa sinh  Giờ Diêm Vương
 Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3  Sửu - Mùi
 Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6  Thìn - Tuất
 Thu: 1-7 tơi tháng 9  Tý - Ngọ
 Đông: 1-10 tới 30 tháng 2  Mão - Dậu

Giờ dạ đề: Phạm giờ này, trẻ chỉ hay khóc về đêm. Cách tính cũng dựa theo tháng và giờ sinh âm lịch:

 Mùa sinh  Giờ Dạ Đề
 Xuân: 1-1 tới 30 tháng 3  Ngọ
 Hạ: 1-4 tới 30 tháng 6  Dậu
 Thu: 1-7 tơi tháng 9  Tý
 Đông: 1-10 tới 30 tháng 2  Mão

Trường hợp Mệnh Không, Thân Kiếp: cho dù cả hai sao đắc địa cũng nguy kịch đến tính mạng, nhất là cung Mệnh hoặc cung Thân có Thiên Đồng, Thiên Lương hoặc Phá Quân tọa thủ, cho dù có cát tinh nào tốt đi cùng cũng vậy. Càng có thêm hung tinh, hao tinh, bại tinh, hình tinh, càng chắc yểu. Cung Phúc ở đây không quan trọng vì đối với trẻ mới sinh, 1 tuổi thì xem cung Mệnh. Dù Phúc có tốt cũng không đỡ nổi vì cung Phúc chỉ ứng vào 5 tuổi.

Trường hợp Mệnh Kiếp, Thân Không: Gặp Thiên Đồng hoặc Thiên Lương hoặc Phá Quân ở Mệnh hay Thân hội với Kiếp, Không thì yểu. Ngoài ra, nếu Mệnh vô chính diệu mà có Đào, Hồng và sát tinh khác hội tụ thì cũng chết non hoặc yểu sinh.

Trường hợp xung khắc Bản Mệnh với người mẹ: Nếu Bản Mệnh của Mẹ khắc Bản Mệnh con sơ sinh thì càng nguy kịch cho đứa trẻ. Nếu gặp thêm hai trường hợp trên thì chắc chắn không thọ. Nếu bị Bản Mệnh người cha khắc, không nguy kịch bằng.

Những xung kỵ khác:

Sinh năm Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu vào bốn giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc.

Sinh năm Dần, Hợi, Tỵ vào giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì khắc cha, cha chết trước lúc con còn nhỏ tuổi nhưng nếu qua 16 tuổi mà chưa mồ côi cha thì sự hình khắc đó coi như tiêu tán và cha con có thể chung sống lâu dài được.

Sinh năm Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi vào giờ Tý, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu thì khắc mẹ trước.

Ba loại xung khắc này phải được tính chung với ba cung Mệnh, Phúc và Phu để có thêm yếu tố xét đoán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách yểu mệnh ở trẻ con - Giờ kim xà thiết tỏa

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd