Bạn có phải là người biết giữ bí mật?

![]() |
![]() |
A. Chóp mũi xuôi xuống | B. Chóp mũi đi lên (mũi hếch) |
Mộc Trà (theo Lol)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
![]() |
![]() |
A. Chóp mũi xuôi xuống | B. Chóp mũi đi lên (mũi hếch) |
Mộc Trà (theo Lol)
![]() |
Ảnh minh họa |
Cuộc đời: tinh thần không thoải mái, về già nhiều lộc, con cháu học hành đỗ đạt.
Những tuổi đại kỵ với tuổi Nhâm Tuất nlà: Giáp Tý, Ất Sửu, Canh Ngọ, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Ngọ.
Tính Cách: Là người ôn hòa, tính tình ngay thẳng, công bằng, cương trực, sống có đạo lý thường được mọi người quý mến. Tuổi này thông minh, siêng năng, làm việc cẩn thận, tuy nhiều tham vọng nhưng lại biết kiềm chế nên dễ thành công trong sự nghiệp.
Tình duyên: Tuổi Nhâm Tuất tình duyên thuận lợi, cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc.
Nam sinh vào các tháng: 8, 12; nữ sinh vào các tháng: 4, 9, 12 phải chịu nhiều lỡ dở, buồn phiền trong tình cảm sau mới có hạnh phúc.
Công danh sự nghiệp: Tuổi này sự nghiệp không thuận lợi, đến năm 47 tuổi mới có cơ hội phát triển.
Để công việc làm ăn phát đạt, người tuổi Nhâm Tuất nên kết hợp với các tuổi: Ất Hợi, Mậu Dần, Tân Tỵ.
(Theo 12 con giáp, tính cách con người qua năm sinh)
Tháng 7 âm lịch – tháng cô hồn được coi là một trong những dịp lễ tâm linh cực kì quan trọng của người phương Đông. Những truyền thuyết ma quỷ về tháng này được lưu truyền từ đời này qua đời khác, cùng với đó là những điều không nên làm trong tháng cô hồn.
► Tham khảo thêm: Những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Lịch sử Lịch vạn niên: Dưới triều Nguyễn cuốn Lịch vạn niên dùng để chọn ngày, chọn giờ thông dụng nhất là Ngọc hạp thông thư, ngoài ra có cuốn Tăng bổ tuyển trạch thông thư quảng ngọc hạp kỷ. ( 2 quyển Tăng bổ tuyển trạch thông thư quảng ngọc hạp ký, một bản do Phúc Văn Đường in năm Đinh Dậu triều Thành Thái (1897), một bản do Phúc An Hiệu in năm Qúy Hợi triều Khải Định (1923). Ngoài ra một số bản khác rải rác ỏ các tủ sách gia đình nhà nho cũ ở các tỉnh miền Trung, miển Bắc. Tên đề và nội dung thống nhất với Ngọc hạp thông thư nhưng các quyển này ngoài phần Ngọc hạp thông thư còn kèm theo nhiều tạp thuật khác như bùa trấn yếm, trong việc chọn ngày có cả những thuyết đã bị bãi bỏ ỏ Trung Quốc từ thời vua Càn Long. Ở nước ta dưới triều Nguyễn còn có Khâm định vạn niên thư và Hiệp kỷ lịch. Theo Phan Kế Bính trong bài “Xem ngày kén giờ” trích trong cuốn Việt Nam phong tục có đoạn viết:
“Mỗi năm ngày mồng một tháng Chạp, Hoàng đế ngự điện khai trào, các quan toà Khâm Thiên giám cung hiến Hiệp kỷ lịch, rồi khâm mạng vua mà ban lịch đi khắp nơi… Ban lịch trọng nhất là để cho thiên hạ biết chính xác khí tiết, tháng thiếuI tháng đủ, ngày tốt ngày xấu để tuân hành được đều nhau…”
Xem cuốn “Lịch hai thế kỷ (1802- 2010) và các lịch vĩnh cửu” của GS. Lê Thành Lân cũng có nói đến Vạn niên thư và Hiệp kỷ lịch triều Nguyễn, nhưng nội dung chủ yếu so sánh giữa lịch ta và lịch triều Thanh Trung Quốc, về ngày tốt xấu, tháng nhuận, tháng thiếu, tháng đủ. Đó là những khoản mục có tính pháp định, không thấy đề cập đến ngày tốt, ngày xấu. GS. Lê Thành Lân có trích một đoạn} trong Đại Nam Thực lực nói về chức trách của Khâm Thiên Giám triều Nguyễn (trang 84): “… Phàm suy tính để chiêm nghiệm sai độ của từng năm, bình trật để phân đều khí hậu, ghi chép lịch sử lịch số để nêu đúng năm và mùa, miêu tả sắc mây và hình vật để xem đoán tượng trời, xem ngày giờ để chọn tốt lành, coi giọt lậu để báo trống canh. Mọi sự có quan hệ về cách suy tính ấy đều giao cho Khâm thiên giám. Đại thẩn quản lý Khâm thiên giám do đặc cách kén chọn cử ra, không nhất định là viên quan nào. Qua đó ta có thể nhận định rằng: Ngọc hạp thông thư (tức Lịch vạn niên để xem ngày tốt ngày xấu dưới triều Nguyễn) là loại lịch cũng do Khâm thiên giám ban hành nhưng không hẳn có tính pháp đinh như Khâm định vạn niên thư hay Hiệp kỷ lịch.
Ngọc hạp thông thư liệt kê các loại sao tốt và xấu theo ngày hàng can (ở giữa) hàng chỉ (chung quanh theo 12 cung) của từng tháng, gổm 12 tờ, mỗi tháng một tờ. Có một bản kê riêng sao tốt sao xấu tính theo ngày âm lịch từng tháng và một bản kê các sao xếp theo hệ lục thập hoa giáp cả năm. Cuối sách là bản kê các sao tốt, tính chất tốt của từng sao, bản kê các sao xấu cũng vậy.
Nếu theo Lịch vạn niên Trung Quốc thì có 4 loại Thần sát (Niên Thần sát: sao vận hành theo năm, Nguyệt Thần sát: sao vận hành theo tháng, Nhật Thẩn sát: sao vận hành theo ngày và Thời Thần sát: sao vận hành theo giờ). Xem trong Ngọc hạp thông thư chỉ ghi 3 niên thần sát: Tuế đức, Thập ác Đại bại, Kim thần Thất sát thay đổi theo từng năm hàng can (khác với Trung Quốc, có đến 30 niên Thần sát, trong đó có trên 10 niên Thần sát trùng tên với Nguyệt Thần sát của Việt Nam). Còn giờ tốt giờ xấu, Ngọc hạp thông thư chỉ ghi giờ Thiên cẩu hạ thực, giờ con nước (thủy triều lên xuống). Chọn giờ tốt xấu chủ yếu dựa vào giờ Hoàng đạo.
Đối chiếu Ngọc hạp thông thư với một số tư liệu khác như Vạn bảo toàn thư, Tuyển trạch thông thư. Đổng công tuyển trạch nhật, Thần bí trạch cát, v.v… Chúng tôi đã rút ra được quy luật vận hành của các Thần sát, phân loại lập thành các bản kê sau đây:
A. Bản kê tính chất sao và quy luật vận hành các sao tốt xếp theo ngày hàng can, hàng chi từng tháng âm lịch.
B. Bản kê các sao xấu cùng nội dung trên.
C. Bản kê các sao tốt xấu vận hành theo ngày kết hợp can chi cả năm.
D. Bản kê các sao tốt xấu vận hành theo ngày âm lịch cả năm và từng mùa, từng tháng.
Xuất hành di chuyển Hôn nhân giá thú Xây dựng sửa chữa nhà cửa Khai trương, cầu tài lộc An táng, xây dựng, sửa sang mồ mả Tế tự, cầu phúc, kiện tụng… Trích Ngọc hạp thông thư: xếp sao theo tháng theo ngày: Mỗi tháng theo ngày can, ngày chi, ngày trực, ngày sao, ngày lịch âm liệt kê các sao tốt xấu.
Tuổi Ngọ chủ về hành Hỏa, do đó để phong thủy nhà cửa phù hợp cho người tuổi Ngọ, chúng ta cần chú trọng về phương diện Hỏa.
Về phương hướng.
Nên lấy hướng Nam là hướng chủ đạo cho căn phòng của bạn và tìm cách tăng hỏa khí hướng này. Cách tăng hỏa khí dễ nhất là dùng ánh sáng. Hãy để ánh sáng tự nhiên vào đầy đủ khu vực này. Bên cạnh đó, cố gắng đừng cho các công trình phụ (toilet, nhà kho, nhà bếp…) chắn ở hướng Nam. Tốt nhất bạn nên sắp đặt ban công và cửa sổ quay về hướng Nam để đón thật nhiều ánh nắng vào phòng. Ngoài ra, bạn cũng nên bố trí để tăng hỏa khí ở khu vực hướng Tây – Tây Bắc (Tuất) và Đông – Đông Bắc (Dần).
Về màu sắc.
Màu của hành Hỏa là màu đỏ. Thông thường màu đỏ với ý nghĩa may mắn là biểu tượng của tình yêu lãng mạn, là can đảm nhiệt huyết, là màu của thách thức, đam mê, là màu của sự sống và sự sung túc, giàu có. Nên người tuổi Ngọ cũng nên lấy màu này làm tông màu chủ đạo.
Hãy dùng những gam màu đỏ cho rèm cửa, ga giường và bàn ghế trong phòng. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể xen kẽ một số đồ vật màu trắng (Kim) hoặc xanh lá (Mộc) để tăng thêm độ hài hòa cho không gian quanh mình. Đồ nội thất nên có chất liệu chính bằng gỗ, tránh chất liệu kim loại vì Hỏa khắc Kim, có rất nhiều biến tấu để bạn chọn như gỗ ép, gỗ vân, gỗ phủ sơn mài… Vật phẩm phong thủy cũng nên tuân theo nguyên tắc này sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, cam, xanh. Trong và ngoài căn nhà nên có cây xanh vì Mộc sinh Hỏa. Đương nhiên nếu kích hoạt quá tay yếu tố Hỏa thì cũng không tốt cho gia chủ, vì thế nên sử dụng gương, bể cá để kích hoạt Thủy khí, cân bằng Hỏa khí cho căn nhà.
Về hình tượng Ngọ
Bên cạnh hướng Nam và màu đỏ chủ đạo, yếu tố không thể bỏ qua khi bày trí phong thủy cho người tuổi Ngọ là các hình tượng. Bạn nên trang trí nhà bằng cách trưng bày hình ảnh ngựa (bộ tranh “Mã đáo thành công” chẳng hạn). Bên cạnh đó là các hình tượng ngựa bằng gỗ hoặc kim loại cũng là một sự lựa chọn tốt. Đặt hình ảnh con ngựa trang trí ở khu vực Ngọ trong nhà. Để tăng cường năng lượng của khu vực này, hãy trưng bày hình ảnh con ngựa màu trắng và màu đỏ – đây được cho là gam màu dương. Bạn cũng có thể chọn ngựa gỗ, vì theo ngũ hành thì Mộc sinh Hỏa.
Ta nhiều lần cùng các sĩ tử đi thi, cứ mỗi lần thấy một hàn sĩ nào mà diện mạo, dung quang biểu lộ lòng tự khiêm của họ một cách rõ ràng như tỏa ra một ánh hào quang có thể nắm bắt được thì biết ngay người ấy sẽ đỗ đạt.
Năm Tân Mùi, mở khoa thi hội ở kinh thành, bọn chúng ta gồm có 10 người đồng hương thuộc huyện Gia Thiện cùng đi, duy chỉ có Đinh Kính Vũ, tên Tân, tuổi trẻ nhất bọn mà cực kì khiêm tốn. Ta nói với Phi Cẩm Pha, một người bạn đồng hành, là anh bạn họ Đinh này năm nay tất nhiên trúng cử. Họ Phi hỏi thấy sao mà biết được, thì ta bảo rằng chỉ có khiêm hư là được phúc. Huynh coi xem trong bọn 10 người chúng ta không ai thành tín chất phác, thực thà, nhường nhịn người, không làm mất lòng người như Kính Vũ cả; không ai cung kính, thuận hòa cẩn thận để ý khiêm nhường như Kính Vũ cả, không ai bị chế nhạo, cười chê, chỉ trích mà chẳng hề đối đáp, tranh cãi, lại cứ thản nhiên chịu đựng như Kính Vũ cả. Con người được như thế thì thiên địa quỷ thần đều trợ giúp cho, há chẳng phát đạt hay sao! Kịp đến khi yết bảng quả nhiên họ Đinh được trúng cử.
Năm Đinh Sửu, ta ở kinh cùng với Phùng Khai Chi, thấy con người của họ Phùng cực kì khiêm hư, nghiêm chỉnh, cung kính, là do thói quen tập từ thời thơ ấu biến thành. Phùng Khai Chi có người bạn tốt tên Lý Tệ Nham thực thà, trực tính, hễ gặp điều gì mà Khai Chi làm trái là nói thẳng ngay, chê trách ngay tận mặt mà Khai Chi vẫn bình tâm an hòa, thuận chịu không một lời phản đối, không để bụng giận. Ta có bảo cho biết là họa phúc đều có triệu chứng, người được hưởng phúc nhất định là do đã có sẵn căn nguyên của phúc rồi, có họa cũng do triệu chứng báo trước mà có; chỉ cần tâm thực khiêm hư thì trời đất ắt sẽ tương trợ. Huynh năm nay nhất định cập đệ. Sau thực quả nhiên đúng như vậy.
Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, người huyện Quán, tỉnh Sơn Đông, lúc trẻ thi hương mãi không đậu. Thân phụ của Dụ Phong được bổ làm Tam Doãn ở huyện Gia Thiện nên y tháp tùng. Ở huyện có Tiền Kính Ngô là người có văn tài, học thức rộng. Dụ Phong ngưỡng mộ đem văn bài của mình tới nhờ chỉ giáo. Kính Ngô xem và gạch xóa, sửa bỏ nhiều chỗ. Dụ Phong không những không buồn lòng mà còn bội phục, để ý đổi cách hành văn ngay nên năm sau đi thi được trúng cử. Đó cũng là do biết khiêm tốn, nhũn nhặn, sửa mình mà đạt thành quả.
Năm Nhâm Thìn, nhân dịp vào kinh yết kiến hoàng đế, ta gặp Hạ Kiến Sở, thấy người này cực kì cung kính, nhún nhường, lòng khiêm hư biểu lộ rõ ràng khiến ai cũng phải nể; khi về ta nói cùng các bạn hữu là phàm người nào được trời giúp thì khi chưa được phát phúc, trước hết trí tuệ sẽ được khai mở; khi trí tuệ đã mở mang thì người phù phiếm trôi nổi, bất định sẽ tự nhiên biến thành thiết thực, sự phóng túng tự nhiên giảm thiểu. Kiến Sở là người ôn hòa, hiền lương như vậy nhất định sẽ được trời cho phát phúc. Đến khi yết bảng quả nhiên trúng tuyển.
Trương Úy Nham, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là người học rộng, đọc nhiều, văn hay nổi tiếng, năm Giáp Ngọ đi thi hương ở Nam Kinh ngụ tại một ngôi chùa nọ; khi yết bảng không có tên nên lớn tiếng nhục mạ khảo quan là mắt không tròng, không biết người. Lúc đó có một đạo sĩ ở bên cạnh nghe được bèn cười. Úy Nham liền trút cơn giận ngay sang vị đạo sĩ nọ thì đạo sĩ nói: Chắc văn bài của ông nhất định không được hay.
Lời nói này lại càng làm cho Úy Nham thêm giận mắng lớn: Ngươi có đọc văn của ta đâu mà biết là không hay? Đạo sĩ nói: Ta nghe nói hành văn quý nhất ở chỗ tâm bình, khí hòa, nay thấy ông hết lời mạ lỵ khảo quan, lòng bất bình cao ngạo thật quá đáng thì văn làm sao mà hay được? Úy Nham nghe lời bất giác phục thiện, nhân đấy xin thỉnh giáo đạo sĩ nọ.
Đạo sĩ nói: Trúng cử hay có công danh hoàn toàn do số mệnh định, số chưa được đỗ thì dù văn có hay cũng vô ích thôi, nên tự mình sửa đổi biến cải. Úy Nham nói: Đã do số mệnh như vậy thì làm sao sửa đổi? Đạo sĩ nói: Sáng tạo ra mệnh là do trời, lập mệnh là do ta, gắng sức hành thiện, tích âm đức cho thật sâu rộng thì phúc nào mà chẳng cầu được. Úy Nham lại hỏi: Tại hạ là học trò nghèo thì làm sao làm được?
Đạo sĩ bảo: Làm việc thiện, tích âm đức đều do tâm tạo ra, thường phải giữ vững tấm lòng hành thiện này thì công đức vô lượng, chẳng hạn như chỉ một việc khiêm tốn nhũn nhặn thì không phải phí tiền gì cả, sao ngươi không tự phản tỉnh, tự trách lấy mình, mà lại mạ lỵ khảo quan ư?
Do đó, Úy Nham tự hạ mình giữ gìn tu sửa, gia công hành thiện ngày một nhiều, gắng sức tu đức ngày một dày; đến năm Đinh Dậu mộng thấy đi tới một tòa nhà phòng ốc cao, được một quyển sổ ghi danh sách các thí sinh được trúng tuyển trong kỳ thi, thấy nhiều hàng bỏ trống mới hỏi người ở kế bên: Xin hỏi danh sách khóa thi này, sao lại có nhiều hàng tên bỏ trống vậy? Thì người đó đáp rằng: Ở cõi âm đối với danh sách thí sinh của khóa thi thì cứ mỗi ba năm lại cứu xét một lần, người nào tu hành, tích đức không tội lỗi gì thì có tên trong sổ, còn những hàng bỏ trống đều có liên quan tới việc trước đây thí sinh đáng lẽ đã được ghi tên vào sổ nhưng sau vì phúc bạc, phạm lỗi lầm nên bị loại bỏ ra; sau đó lại chỉ một hàng mà bảo: Nhà ngươi trong ba năm tới nên giữ thân tu tỉnh cẩn thận, họa may có thể được điền tên vào đấy, mong rằng nhà ngươi nên lưu tâm đừng phạm lỗi lầm. Khóa thi năm đó, Úy Nham trúng cử vào danh sách một trăm lẻ năm người.
II– Lòng khiêm tốn, nhún nhường, nguồn gốc của phúc
Theo đấy mà xét , chỉ ngửng đầu cao ba thước ắt đã có thần minh soi xét, muốn tránh hung hiểm họa tai, hay muốn mong được sự việc tốt lành, hẳn nhiên đều do tự ở nơi ta biết giữ lấy thiện tâm, một mực làm lành tránh ác, không một chút nào đắc tội với thiên địa quỷ thần, lại biết khiêm tốn nhũn nhặn, không tự cao, tự đại, khiến thiên địa quỷ thần thường có lòng thương mới mong có được hưởng phúc. Người mà đầy lòng kiêu ngạo, tự mãn, nhất định khí lượng hẹp hòi, dù cho có phát đạt cũng chỉ một thời mà thôi, chẳng được lâu bền và cũng chẳng được phúc. Người đã có chút kiến thức ắt phải có độ lượng rộng rãi, bụng dạ không hẹp hòi mới không tự mình bỏ lỡ cơ hội được hưởng phúc, huống chi người khiêm tốn tự hạ mình thường hay được người đời vui lòng chỉ đường hay lẽ phải cho, lợi ích thực vô cùng tận. Đây là điều mà những người tu học không thể không hiểu biết và không thể thiếu được vậy.
Lời người xưa có nói: người có chí hướng cũng như cây có gốc rễ thì mới sinh trưởng ra hoa, ra trái. Người có chí muốn lập công danh thì nhất định sẽ được công danh, muốn được phú quý ắt hẳn sẽ được phú quý. Đã lập chí thì nên thường tự nhắc nhở lấy mình cần phải khiêm hư nhún nhường dù có chuyện thật nhỏ nhặt, đối với mọi người cũng phải để ý cư xử nhũn nhặn thì mới cảm ứng được với trời đất, và cũng nên hiểu rằng việc tạo phúc là do tự mình thành tâm mà tạo nên, chẳng hạn như muốn cầu được đỗ đạt ắt phải giữ vững ý chí chân thành buổi ban đầu, chứ không phải chỉ nay hứng chí thì cầu, mai không hứng thì lại thôi.
Mạnh phu tử nói về Tề Tuyên Vương: Nhà vua rất ưa nghe nhạc mà vui thích, đại để có thể làm cho nước Tề được thịnh vượng. Đó là câu trích dẫn trong sách Mạnh Tử, Thiên Lương Huệ Vương, chương cú hạ, đại ý nói nhà vua ưu thích nhạc mà lấy làm vui, đó là niềm vui cho riêng mình, sao bằng biết đem cái lòng vui thích nhạc đó chuyển đổi sang làm cho bách tính cũng được hoan hỷ cùng với nhà vua, thì dân ắt sẽ vì vua tận lực phụng sự, nước Tề ắt phải thịnh.
Ta đối với việc khoa cử đề danh cũng tựa như vậy, nghĩa là cũng đem lòng chân thành cầu danh đó với ý định thiết thực tận tâm, tận lực làm việc thiện và giúp đỡ mọi người ngõ hầu mới biến đổi được số đã định để được hưởng phúc bởi một vận mệnh do mình tự tạo ra.
Bố mẹ bao tuổi sinh con thông minh nhất?
Xem tuổi sinh con thấy độ tuổi của mẹ khi thụ thai ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển não bộ của trẻ. Nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp cho thấy con của những người đàn ông ở độ tuổi từ 30-35 là những trẻ thông minh và lanh lợi nhất bởi ở độ tuổi này nam giới có chất lượng tinh trùng đạt đỉnh, sau tuổi 35 chất lượng tinh trùng bắt đầu giảm dần và điều này sẽ ảnh hưởng đến việc kết hợp với trứng tạo ra những em bé trong tương lai.Không giống như nam giới, các nhà nghiên cứu chỉ ra, phụ nữ ở độ tuổi 20-30 có khả năng sinh sản lý tưởng nhất. Trong độ tuổi này, phụ nữ đã đủ trưởng thành nên chất lượng trứng cũng đạt giá trị cao, xem tuổi sinh con thấy nếu mang thai em bé cũng phát triển tốt nhất và bớt gặp rủi ro như sảy thai, sinh non, thai chết lưu, thai nhẹ cân hay những biến dạng có thể xảy ra.
Để sự kết hợp của trứng và tinh trùng đạt hiệu quả tốt nhất, xem tuổi vợ chồng thấy các cặp vợ chồng nên cách nhau khoảng 7 năm là đẹp nhất. Điều này có nghĩa khi người vợ đang ở tuổi 20-30 thì người chồng khoảng 30-35. Nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp cũng chỉ ra, sự chênh lệch 7 năm của các cặp vợ chồng sẽ dễ sinh ra những thiên tài nhất.
Chăm sóc trước sinh: Việc cần làm!
Ngoài độ tuổi sinh nở, việc chăm sóc trước sinh cũng rất quan trọng để giúp các ông bố, bà mẹ sinh ra những đứa con khỏe mạnh, thông minh.
Ngay từ trước khi có kế hoạch mang bầu, các cặp vợ chồng cần có 3-6 tháng để chuẩn bị về cả mặt tinh thần, tài chính cũng như sức khỏe. Người mẹ cần tiêm phòng những mũi cần thiết như cúm, rubella, thủy đậu và có chế độ ăn uống cân bằng, khoa học, bổ sung đầy đủ axit folic.
Trong thời gian mang thai, mẹ cũng cần bổ cung thêm khoảng 300-500 calo mỗi ngày. Việc cung cấp đủ axit folic, sắt, canxi là vô cùng quan trọng để thai nhi phát triển tốt nhất trong bụng mẹ.
Bên cạnh việc bổ sung dinh dưỡng, khám thai cũng rất cần thiết. Các bác sĩ sản khoa khuyên chị em bầu nên khám thai khoảng 15 lần trong thai kỳ bao gồm từ đầu đến 28 tuần là 4 tuần/lần, từ 29-36 tuần là 2 tuần/lần và từ 37 tuần là 1 lần/tuần để đảm bảo thai nhi đang phát triển ổn định.
Hành: HỏaLoại: Phù Tinh, Hình TinhĐặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén
Tên gọi tắt thường gặp: Phù
Phụ tinh. 1 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.
Ý Nghĩa Quan Phù Ở Cung Mệnh
Tính tình
Đi với sao tốt:
1.Hội Phủ Giầy
Thời gian: thượng tuần tháng 3 âm lịch (chính hội là ngày mùng 3 tháng 3).
Địa điểm: xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: thờ đức thánh mẫu Liễu Hạnh, người mẹ linh thiêng của dân tộc Việt Nam.
Nội dung: Phủ Giầy có tên cổ là Kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được sắc phong công chúa thì gọi là phủ.
Du khách trẩy hội Phủ Giầy vừa để dự giỗ mẹ, vừa để thỏa nguyện tâm linh và vừa để ngắm nhìn một quần thể kiến trúc lăng chùa truyền thống vô cùng độc đáo.
Xưa kia, hội Phủ Giầy kéo dài trong 10 ngày bắt đầu từ ngày 30 tháng 2 âm lịch. Ngày đầu hội là nghi thức cúng tế, ngày cuối hội rước Thánh Mẫu, ngoài ra còn có các trò chơi dân gian vui khác. Tiêu biểu nhất trong hội Phủ Giầy là nghi lễ Thánh Mẫu từ phủ chính lên chùa Gôi và hội kéo chữ.
Nói tới hội Phủ Giầy - ngày giỗ Thánh Mẫu không thể không nói tới hình thức hát văn và hầu đồng đây là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu.
Trong những ngày hội, nhân dân còn tổ chức nhiều hình thức vui chơi khác như xem hát tuồng, hát chèo, trống quân, kể cả hát xẩm, ca trù, các hình thức thi đấu mang tính chất võ thuật như đấu vật, múa võ, kéo co, đánh cờ, chọi gà... Ngoài các nghi thức tế, rước sách, kéo chữ, xem biểu diễn... hội Phủ Giầy còn gọi là ngày hội chợ.
2. Hội Rước Thần Nông
Thời gian: tổ chức vào ngày 1 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vị Thần Nông.
Nội dung: Mở đầu hội là lễ rước cầu thần Nông cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu. Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa.Lễ rước Mục Đồng - lễ hội dành cho trẻ chăn trâu - ngày xưa được tổ chức ở làng Phong Lệ, Hòa Châu, Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
3. Hội Am Chúa
Thời gian: tổ chức vào ngày 1 tới ngày 3 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: Am Chúa, núi Đại An, thôn Đại Điền Trung 1, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vị Thánh Mẫu Thiên Y Ana (Po Nagar), còn gọi là Bà chúa Ngọc.
Nội dung: Theo truyền thuyết thì Thánh mẫu Thiên Y A Na là người có công dạy dân cày, cấy, trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải, chăm lo cuộc sống. Vì vậy Lễ hội là dịp để người dân nơi đây bày tỏ lòng thành kính tri ân Thánh mẫu và cũng là dịp để cầu mong quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhà nhà no đủ…
Lễ hội diễn ra với các nghi lễ gồm: tế lễ, dâng hương, biểu diễn múa bóng… mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Đặc biệt trong lễ hội, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Khánh Hòa sẽ tổ chức biểu diễn nghệ thuật dân gian phục vụ người dân và du khách đến tham dự lễ hội.
Hướng kê giường Tuổi Ất Tỵ 1965 Nam
– Năm sinh dương lịch: 1965
– Năm sinh âm lịch: Ất Tỵ
– Quẻ mệnh: Cấn Thổ
– Ngũ hành: Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh
– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);
– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);
Phòng ngủ:
Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.
Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)
Gia chủ mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;
Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.
Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.
Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.
Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.
![]() |
Ảnh minh họa |
Hướng bếp cho người sinh năm Tân Dậu 1981:
– Năm sinh dương lịch: 1981
– Năm sinh âm lịch: Tân Dậu
– Quẻ mệnh: Khảm Thủy
– Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu)
– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);
– Hướng xấu: Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);
Hành: MộcLoại: Cát TinhĐặc Tính: Vui vẻ, mau mắn, tốt lànhTên gọi tắt thường gặp: Đào
Phụ tinh. Một trong nhóm sao Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ. Gọi tắt là bộ Tam Minh (Đào Hồng Hỷ). Phân loại theo tính chất là Đào Hoa Tinh. Sao này là sao tốt.
Vị Trí Ở Các Cung
Sao Đào Hoa có bốn vị trí: Tý, Ngọ, Mão, Dậu, theo trục Bắc Nam Đông Tây.
Đào Hoa đắc địa nhất ở cung Mão.
Cung Mão ở chính Đông, tượng trưng cho bình minh. Tại đây sao Đào Hoa được ví như đóa hoa nở lúc hừng sáng, hội tụ tất cả vẻ đẹp đang lên, lại được thêm hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi. Cụ thể là đóa hoa chẳng những có vẻ đẹp cố hữu mà còn được người ngắm soi, chiêm ngưỡng. Đó là trường hợp của những người đắc thời về ái tình, kiểu như những bậc quốc sắc thiên hương, minh tinh tài tử, có hấp lực quyến rũ, lại được nhiều người biết và tôn thờ.
Đào Hoa ở cung Tý (vào lúc nửa đêm). Đào Hoa ở đây ví như đóa hoa nở về đêm, trong hoàn cảnh rất hữu tình nên không kém lộng lẫy. Tuy nhiên vì hoa nở đêm nên ít người biết đến. Điều này ám chỉ người có duyên ngầm, đối với một số người thân cận, ít được mọi người hay biết. Đây cũng là trường hợp những mối tình kín đáo (yêu trộm, được yêu trộm, biết bảo mật trong tình yêu).
Đào Hoa ở cung Ngọ (giữa trưa). Đào Hoa ở cung Dậu (tối trời). Tại hai vị trí Ngọ, Dậu. Đào Hoa kém thi vị, bớt nhiều sức hấp dẫn. Đó là trường hợp những người vô duyên, chậm duyên hoặc có duyên mà không gặp thời hay chậm phát. Nếu Tuần, Triệt đồng cung thì mơí sáng lên và có triển vọng được.
Ý Nghĩa Đào Hoa Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Sao Đào Hoa đắc địa thì có nhan sắc và có duyên, nếu hãm địa thì kém hơn.
Tính Tình
Cung Mệnh có sao Đào Hoa thì tính người vui vẻ, mau mắn, ham vui, đa tình, lẳng lơ, hoa nguyệt.
Công Danh Tài Lộc
Nếu Đào Hoa đóng ở bốn cung Di, Quan, Tài và Nô thì có sự may mắn về công danh, tài lộc do người khác phái mang đến, cũng như có thể bất lợi về công danh tài lộc vì đặc tính đào hoa của mình.
Sự hay dở còn tùy thuộc việc hội tụ với cát hay hung, sát tinh. Đi với cát tinh, Đào Hoa mang lại nhiều may mắn nhờ ở người khác phái giúp đỡ. Ngược lại, nếu gặp hung hay sát tinh thì sẽ bị liên lụy bởi ái tình vì người khác phái.
Phúc Thọ Tai Họa
Cung Mệnh có Đào hay Hồng tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh hội hợp tất không thể sống lâu được.
Những Bộ Sao Tốt
Thương quan gặp quan thì không những khắc chồng mà thân còn vất vả, nếu không làm hại chồng thì cũng là người bệnh hoạn, người ít phúc đức, cuộc sống không yên ổn.
Thiên can thấu quan sát , địa chi không có quan sát lại còn gặp đất tử tuyệt, đó là người làm suy kiệt chồng, cuối cùng đi làm vợ lẽ.
Nữ tài phải ít, nếu tài nhiều thì dâm loạn.
Tài và quan cả hai đều có thì khi hành vận gặp cả quan lẫn kiếp tài sẽ khắc chồng, qua vận mới nên lấy chồng
(hoặc nên lấy chồng muộn).
Thương quan trùng trùng tất sẽ khắc chồng và tính cách ngang bướng.
Nữ mà quan tinh nhiều thì làm hại chồng.
Nữ mà thực quan ít thì chồng suy, con vượng.
Nữ vận hành đến đất tỉ kiếp thì làm trở ngại chồng, khắc cha.
Quan tuyệt hưu tù thì cô quả, đơn đọc.
Nữ có kình dương là khắc chồng, chắc chắn sẽ tái giá.
Nữ Tứ trụ gặp thương nếu lấy chồng gần thì sẽ khắc chồng, gặp xung, kiêu, ấn nếu không ly dị thì dễ chết.
Nữ chỉ có 1 quan tinh là tốt, nhiều quan tinh là tượng tái giá lấy chồng nhiều lần.
Kiêu, ấn trùng trùng là người vợ dễ tử biệt sinh ly.
Trong Tứ trụ không có quan tinh, không làm vợ lẽ thì cũng là vợ kế.
Tài quan nhập mộ là người không là hại con thì cũng khắc chồng.
Tài quan lâm tử tuyệt là người phụ nữ cô quả đói nghèo.
Tài quan đều rơi vào tuần không vong là gây hại cho chồng, phải bỏ đi phương xa.
Trong Tứ trụ có cả kiêu thực cùng với thương quan là hại con, khắc chồng.
Mậu sinh vào ngày quý là quan, tuổi trẻ đã lấy chồng già. Trong Tứ trụ nếu gặp cả hợi, dậu thì không lấy chồng là tốt nhất.
Nữ không có tài, quan, thực ấn thì người đó cuộc sống không vất vả cũng là làm nghề ca kĩ.
Mệnh nữ trong Tứ trụ đinh gặp nhâm nhiều đó là người dâm loạn.
Phu tinh vượng, tử tinh suy, tất khắc con ; tử tinh vượng. Phu tinh suy, tất làm hại chồng.
Trong Tứ trụ chỉ một phu tinh, hai tài tinh thì gọi là người tranh chồng ; nếu chính tài vượng, thiên tài suy thì mình làm vợ cả, người kia làm vợ lẽ, ngược lại là mình làm vợ lẽ.
Phu tinh không vượng lại còn bị khắc chế là người lấy chồng muộn, hoặc lấy chồng bất minh, lén lút.
Tham tài, làm hỏng ấn là người phụ nữ bất lương ( tài nhiều, ất ít).
Tài tinh nhiều là khắc chồng : thân ở vượng địa là giàu mà khắc chồng con.
Tứ trụ có quý nhân còn gặp trạch mã là người đẹp, phong lưu, khéo.
Người hợp quý nhiều thì người đẹp, đa tình nhưng thấp hèn.
Ðào hoa mờ, mộc dục rõ không là người đi tu cũng là người ở chùa.
Tí, ngọ, mão, dậu đều có là người ham mê tửu sắc, hoang dâm. Dần , thân, tị, hợi đều có là người phụ nữ thông minh.
Ấn tin nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
Mệnh nữ nhiều là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
Mệnh nữ có quan tinh khi hành đến quan vận thì sẽ khắc chồng.
Trong Tứ trụ kim thanh, thủy lạnh là người khó lấy chồng.
Thổ táo, hỏa mạnh thì phòng không lạnh lẽo.
Quan nhiều, ấn nhiều là người cô đơn.
Tài suy, ấn tuyệt là lấy chồng sớm ( tảo hôn).
Tứ trụ gặp tam hình, gặp quan quỷ là khắc con hại chồng.
Thủy tụ vượng là người con gái lẳng lơ.
Lục hợp cùng với tam hình là người hại chồng, làm bại gia nghiệp.
Phá tài, phá ấn là người khó lấy chồng.
Xung quan hợp thực ( thần ) thì hình phạt chồng, sống nương tựa vào con.
Quan tinh được lệnh mà gặp thương là người làm ni cô.
Trụ ngày là kình dương là gặp sát là người không làm vợ lẽ thì cũng đi tu.
Chỗ ngang vai trong lục thân mà lộ ra chị em tất có chuyện tranh chồng.
Trong Tứ trụ toàn tỉ kiếp, quan địa thì chắc chắn có chuyện tranh chồng.
Phu tinh vượng, quan tinh được lệnh, kiêu thần mạnh thì hại con.
Năm và ngày tương xung thì không nên sinh đẻ.
Mệnh đào hoa là người phụ nữ rất dâm.
Thân vượng, quan tinh hung thì người đó không đi tu cũng làm nghề ca kĩ.
Thực thần gặp kiêu thần nhiều, can của năm sinh là thương quan, giờ là kình dương , hình xung khắc hại, lưu niên và các vận xung hợp kiêu thần, kình dương thì nhất đinh sinh đẻ khó khăn, trắc trở.
Phạm tam hình lục hợp, vong thần kiếp sát, cô thần quả tú là người khắc chồng, khắc con.
Nữ gặp quan đế vượng là người còn trinh nguyên.
Quan tinh gặp tuần không vong, ngày sinh vô khí là người không có chồng, nếu có thì cũng luôn luôn sợ chết chồng.
Kim thần gặp giáp là người khắc chồng.
Người trong Tứ trụ có thân tí thìn gặp nhâm quý là người không tiết hạnh.
Người đào hoa gặp kiếp sát là người cô độc, dâm ô, phá hại gia nghiệp, trẻ thì làm nghề linh tinh, già thì cô đơn nghèo khổ.
Hàm trì và đại hao cùng cung với nhau là người độc ác, gian dâm.
Người gặp mão dậu nhiều là người hay sẩy thai, khắc con. Hay đau nhức về bệnh máu.
Phu tinh đắc địa là người nhiều con.
Nhất đóng ở thương quan là người hay chửi chồng. Người như thế nên lấy chồng già làm mẹ kế hay vợ lẽ.
Trong Tứ trụ tân là quan tinh, có sửu là phu ( chồng ) kho nếu gặp nhiều tân là người đã chết chồng.
Nữ gặp tí ngọ mão dậu là người theo trai làm vợ .
Nữ ngày giờ sinh gặp khôi canh là hại chồng khắc con.
Nữ mệnh thủy gặp thổ nhiều là người sống cô đơn.
Cung phu có khắc là lấy vợ muộn, cung thê có khắc là lấy chồng muộn.
Nữ phạm thương quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
Nữ phạm thượng quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
Nữ phạm thương, thiên, ấn thì không lợi cho chồng con.
Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ không kính chồng. Cướp quyền chồng.
Quan tuyệt, hưu tù là người cô đơn quả tú.
2. LY HÔN
Ví dụ 1. Khôn tạo
Tháng 3 năm 1984 người phụ nữ này nhờ đoán. Tôi xem trong Tứ trụ thấy kiêu thương tỉ kiếp đều có, lại còn thêm âm dương sai lệch, trụ ngày có khôi canh, đại vận lại gặp khôi canh nên chắc chắn phải kết hôn hai lần. Năm ất tị 1965 đúng là thương quan gặp thương quan có hại, vì kỉ thổ quan tinh ở vượng địa, chồng khoẻ không đến nỗi chết cho nên đoán ly hôn. Quả nhiên đúng thế.
Ví dụ 2. Khôn tạo
Tứ trụ này thương quan hai rõ ba mờ, thương vượng nhiều, chắc chắn là khắc chồng. Quả nhiên năm 1975 cô đó ly hôn. Năm 1975 cô ta 41 tuổi, hành đại vận giáp tí, gặp lưu niên ất hợi, kiêu ấn đều vượng, đó là năm ly hôn, chính ứng câu " Kiêu ấn trùng trùng là người phụ nữ tử biệt sinh ly".
Ví dụ 3: Khôn tạo
Tháng 2 năm 1985 cô Mai nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thân ở đất đế vượng, thân vượng, kiêu ấn lại nhiều, kình dương nhiều chắc chắc là người phụ nữ khắc chồng, tái giá. Cho nên đoán : năm nhâm tí 1972 có ly hôn. Sự thực đúng thế
Ly hôn năm 1972 là vì đại vận nhâm dần, lưu niên là nhâm tí, tiểu vận là ngang vai, thân gặp đế vượng tất khắc chồng, lại kình dương trung lặp với tuế quân, "kình dương gặp tuế quân là đột nhiên hoạ đến". Nếu không ly hôn thì nhất định gặp hoạ.
Ví dụ 4. Khôn tạo
Mùa thu năm 1985 cô Trương đến nhà nhờ đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ thân vượng, sát vượng là vợ chồng xung khắc, cung phu sửu thổ là dậu sửu bán hợp , lục hợp với tí sửu là cuộc hôn nhân trước nóng sau lạnh, trước hợp sau tan. Nên năm 1972 ly hôn, năm 1978 ly hôn lần thứ hai.
Ly hôn năm nhâm tí 1972 là vì : đại vận đinh sửu ngang vai khắc chồng, lưu niên nhâm tí chính là hai sửu hợp với 2 tý, tức là chồng hợp với người khác. Năm 1978 lại ky hôn vì đại vận mậu dần là đất thương quan, lưu niên mậu ngọ là chỗ thương quan, "thương quan vượng địa là người khắc chồng".
Ví dụ 5. Khôn tạo
Tháng 11 năm 1988 khi tôi đang giảng bài ở Nam Kinh có một vị đại sứ nước ngoài nhờ tôi đoán vận cho ông ta và người nhà. Khi tôi sắp xếp Tứ trụ con gái của ông, thấy trong Tứ trụ tỉ kiếp rất nhiều, cung phu tương hình nên khắc chồng rất nặng. Do vậy đoán năm 1975 nhất định phải ly hôn. Quả đúng tháng 5 năm 1975 vừa lấy chồng thì tháng 7 đã ly hôn.
Năm 1975 ly hôn là vì: trong Tứ trụ rất nhiều tỉ kiếp, điều đó ứng với câu : " Tỉ kiếp trùng trùng là chồng không còn tình nghĩa với mình".
Ví dụ 6 . Khôn tạo
Tháng 7 năm 1987, tôi đến núi Phổ Ðà là một thắng cảnh của Phật giáo có 1 nữ thanh niên biết tôi đã nhờ tôi đoán giúp. Tôi thấy trong Tứ trụ, tỉ, kiếp mỗi bên 1 nửa, cung chồng khắc thân đó là tượng người phụ nữ lấy chồng muộn nhưng lại sớm chia tay. Do đó tôi nói với cô ta: cô lấy chồng muộn, nhưng không suôn sẻ. Theo Tứ trụ của cô thì năm kết hôn cũng là năm ly hôn. Năm 1986 có tai hoạ đó, cô ta thừa nhận : đúng như thế!
Năm 1986 ly hôn là vì : gặp đúng đại vận bính thìn, lưu niên bính dần là ấn thủ vượng địa cho nên có việc ly hôn. Ðúng là "tỉ kiếp trùng trùng là kết hôn 2 lần".
Trong 2 ví dụ 4 và 5, tỉ kiếp rất nhiều, nhưng là hai cô ở hai nước khác nhau thế mà tai hoạ trong hôn nhân lại giống nhau nên có thể nói Tứ trụ dự đoán học đoán ở đâu cũng đúng.
Ví dụ 7. Khôn tạo
Ðây là Tứ trụ của một diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Trung Quốc, mùa xuân năm 1990 khi tôi ở Thượng Hải đã khẩn thiết nhờ tôi đoán. Tôi xem trong Tứ trụ không thấy quan tinh, tức là "không phải là vợ lẽ thì cũng là vợ kế, nên ly hôn tái giá là điều chắc chắn". Xem đại vận thấy gặp thương quan, lưu niên bính dần lại là lúc "thương quan gặp quan" nên khắc chồng, do đó tôi nói: năm 1986 có chuyện ly hôn, nếu không ly hôn thì chồng chết. Cô ta nói: năm 1986 đã ly hôn. Xem ra đó là điều may mắn vì đã cứu được một sinh mạng.
Ví dụ 8. Khôn tạo
Tháng 4 năm 1991 khi ở Singapo người phụ nữ này nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ quan tinh hai lần lộ ra, thương quan mở, năm giáp tí 1984 thì ba quan hội ở vượng địa là người vợ có rắc rối trong hôn nhân, lại gặp phải "thương quan gặp thương quan là sẽ có tai hoạ bất ngờ ập đến", cho nên tôi đoán cô ta năm 1984 phải ly hôn. Lời đoán rất ứng nghiệm.
3. MẤT CHỒNG
Ví dụ 1 . Khôn tạo
Mùa xuân năm 1984, một thầy thuốc nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều lại gặp đế vượng, phu tinh tí thuỷ lại gặp hưu tù, thương quan laị vượng, tức là phu tinh có khắc không có sinh nên chắc chắn là chết. Do đó tôi đoán chồng chết năm 1969 tức là năm kỉ dậu thương quan. thực tế đúng như thế.
Ví dụ 2 . Khôn tạo
Mùa đông năm 1986 một diễn viên kịch nói nổi tiếng của Trung Quốc đến nhà nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ của bà có "Tứ trụ thuần âm là tượng khắc chồng tái giá", "thực kiêu cũng gặp thương quan là nếu có chồng thì chồng chết", nên tôi đã đoán : nếu chồng bà không chết năm 1970 thì chết năm 1971. Bà nói: đúng, chồng mất năm 1970.
Chết năm 1970 là vì đúng với câu : "Kiêu ấn trùng lặp là người phụ nữ có tử biệt sinh ly".
Ví dụ 3. Khôn tạo
Tháng 1 năm 1986 có 1 phụ nữ thông qua Lô Chí Tần nhờ tôi đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ của bà, thương quan trùng lặp nhiều nên nói: cuộc đời của bà khổ nhất là việc hôn nhân không thuận, chồng mất liên tiếp, vừa tái giá lại tái giá. năm 1984 lại vừa gặp tai nạn mất chồng. Bà ấy vừa khóc vừa nói : người chồng thứ nhất của tôi mất năm 1959, người thứ hai mất năm 1984.
Chồng mất năm 1984 là vì nguyên nhân: ba thương hội tụ ở vượng địa.
Ví dụ 4. Khôn tạo
Ðầu năm 1984, có 1 người Hồ Bắc đến nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thực nhiều, kiêu mạnh, kiêu thực đều có đó là thông in chồng mất rất rõ. Hiên nay đại vận canh ngọ gặp đát kiêu, năm giáp tí 1984 là năm có 3 thực, 4 kiêu tranh đoạt thực rất kịch liệt, nên năm 1984 có tai họa mất chồng. Tôi đã trình bày cho cô ta cách giải, nhưng cô không làm theo. Về sau tháng 8 năm 1984 thì báo thấy có tang : ngày 3 tháng 3 người chồng bỗng nhiên bị chết.
Ví dụ 5. Khôn tạo
Mùa xuân năm 1987 khi tôi lên Bắc Kinh gặp 1 người phụ nữ có chức vụ khá cao đã nhờ tôi đoán vận với thái độ xem thường việc đoán. Tôi thấy bà rất tự phụ, vốn không muốn đoán nhưng để muốn chứng minh rằng Chu dịch dự đoán học và Tứ trụ dự đoán học là có cơ sở nên tôi cũng sắp xếp Tứ trụ và đoán luôn. Vừa vào đầu đã nói đúng yếu điểm của bà ta : năm 1974 bà bị chết chồng. Nghe xong bà ta rất phục.
Ðại vận của bà ta là Giáp dần, lưu niên cũng là giáp dần, là tam quan cùng tương ngộ, hội tụ, tức ứng với câu " Nữ có quan tinh lại gặp quan vận, tất sẽ khắc chồng".
Ví dụ 6: Khôn tạo
Tháng 5 năm 1991 khi tôi ở Băng Cốc -Thái Lan có 1 bà họ Từ là đại thương nhân, tuy tuổi đã quá 60 nhưng tinh thần vẫn rất sung mãn, cười nói hoạt bát có duyên, tiếp khách nhiệt tình, cởi mờ. Bà ấy đã đưa Tứ trụ ra nhờ tôi đoán. Xem xong Tứ trụ tôi nói luôn : Tứ trụ của bà không có quan tinh là suốt đời tự do thoải mái, đi về một mình. Trong hôn nhân bà trước hết là tì thiếp sau mới làm vợ. Năm 1969 thì mất chồng. Bây giờ giàu có và quyền thế đã ràng buộc bà. Nghe xong bà liền giơ ngón tay cái: Thầy Thiệu là người thần, đoán đúng hết. Về hôn nhân thì bà là người vợ thứ 3 và chồng bà đã mất năm 1969.
Chông mất năm kỉ dậu (1969) là vì : kiêu, ấn, đều vượng lại gặp tuế vận, lại còn gặp kiêu thần. Ðiều đó ứng với câu " Tứ trụ không có quan tinh không làm vợ lẽ thì cũng làm mẹ kế".
Mục 2 và mục 3 ở trên đều nói về những tiêu chí thông tin và các sự việc khắc vợ, khắc chồng. Hoạ khắc vợ khắc chồng là điều mọi người rất quan tâm. Nhưng tai hoạ có thể hóa giải được không ? Ðiều đó phải xem hoàn cảnh cụ thể của người ấy, có người hoá giải được, có người không. Ví dụ về ly hôn mà nói, ai cũng hy vọng không việc gì xẩy ra việc đó và xem nó như một tai hoạ trong đời người, nhưng thực tế có lúc ly hôn lại cũng không phải hoàn toàn là xấu.
Vì hai vợ chồng khí âm dương ngũ hành bất hoà từ lúc khắc nhau phát triển đến giai đoạn đối kháng, trong thời gian đó hai vợ chồng ngoài những lúc bực tức, tranh cãi, đánh nhau, làm việc gì cũng không thành, tuy rằng việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn lại do cãi nhau, mà điều chủ yếu là do sự đối kháng của khí âm dương bất hòa nên cuối cùng dẫn đến hôn nhân tan vỡ. Cuộc hôn nhân bất hòa có trường hợp sức khắc mạnh mẽ, nếu không ly hôn thì một bên sẽ chết, tuy nhiên cái chết đó là nguyên nhân bên ngoài hoặc bệnh tật gây đến, nhưng thực chất là do mệnh vận tác động sai khiến. Cho nên có những cuộc ly hôn không những cứu được một mạng người mà sua khi ly hôn mỗi người đều tìm thấy những người bạn tương sinh, tương hợp với mình, làm cho hai khí âm dương trong cơ thể được cân bằng, tình cảm thoải mái, thúc đẩy sự nghiệp phát triển, có cống hiến cho xã hội.
Trong vấn đền ly hôn không phải hai bên đều tự nguyện mà thường một bên hay nói có chết cũng không ly hôn. Ðối với các trường hợp như thế có thể tìm cách hóa giải để giải hoạ. Ví dụ tôi đã dùng phương pháp giải cứu cho nhiều cuộc ly hôn có hiệu quả tốt. Dưới đây cử vài ví dụ. Càn tạo.
Tháng 3 năm 1985, gặp một trường hợp đòi ly hôn nhau, thời gian khá dài. Lãnh đạo và bạn bè đã khuyên hết lời, nói : ông đã hơn 50 tuổi, con cháu đều có, đòi ly hôn không sợ người đời cười hay sao. Nhưng ông ta vẫn một mực không nghe. Cuối cùng ông ta nghe người khác khuyên đến nhờ tôi hóa giải.
Tôi xem trong Tứ trụ ông ta thấy ngang vai nhiều, kình dương lại gặp vượng địa, nhật nguyên là mậu dần, năm và lệnh tháng xung khắc thê tinh rất nặng. Trên Bát quái thông tin khắc vợ cũng rất rõ nên từ rất sớm đã ly hôn 1 lần. Lần ly hôn thứ hai sẽ xảy ra vào năm bính dần (1986) là không nghi ngờ gì nữa.
Nhưng tôi thấy sự khắc vợ của ông ta tuy hung nhưng có thể hóa giải được và đã bày cho ông ta cách giải. Kết quả người chồng càng bình tĩnh và cuối cùng quan hệ vợ chồng tốt dần. Bạn bè người quen ai cũng rất ca ngợi.
Người có đôi có cặp hay vẫn còn cô đơn hãy cùng tử vi 2016 nhanh tay áp dụng ngay những mẹo phong thủy giúp tình yêu thăng hoa hơn nhé!
1. Trang hoàng lại phòng ngủ
Nếu muốn thu hút đào hoa trong Giáng Sinh này, hãy giành thời gian trang trí lại phòng ngủ của bạn bằng những gam màu ấm áp, vượng đào hoa như đỏ, hồng, vàng hoàng yến. Tuy nhiên, tránh dùng màu đỏ thẫm, vì không tốt cho sức khỏe của chủ nhân. Những màu trung tính như xanh lam, xanh lục không có lợi cho đào hoa.
2. Kê lại giường ngủ
Bói tình yêu có mẹo phong thủy giúp tình yêu thăng hoa trong Giáng Sinh rất đơn giản mà lại hiệu quả là thay đổi giường ngủ của bạn một chút. Cô gái còn độc thân thì kê giường dựa vào tường để mau chóng tìm được chỗ dựa cuộc đời. Chàng trai độc thân thì đổi chăn gối thành màu cà phê, nâu trầm.
3. Gia tăng đào hoa ở vị trí giữa nhà
Vị trí giữa nhà thông thường là phòng khách. Nếu Giáng Sinh này bạn muốn tìm thấy người thương thì nơi đây nên đặt một vài đồ vật trang trí nhỏ màu hồng như đèn, hoa. Những vật trang trí màu đỏ – màu của Giáng Sinh cũng rất có lợi cho vận đào hoa của bạn. Tích cực trang hoàng phòng khách không chỉ mang không khí lễ hội tới nhà mà còn mang tình yêu tới nữa đấy.
Giáng Sinh tình yêu
4. Bố trí lại đầu giường ngủ
Đến thời điểm Giáng Sinh, hãy áp dụng phong thủy tăng đào hoa vận bằng cách đổi vị trí đầu giường ngủ. Nếu đầu giường đang kê sát cửa sổ thì kê lại cho xa ra để tránh những từ trường có hại quấy nhiễu mà đào hoa vận cũng bay đi. Thêm vào đó, để tình cảm không bị hao hụt, tránh kê giường quay đầu về hướng Tây.
Nốt ruồi ở vị trí nào thì được gọi là nốt ruồi vượng phu ích tử. Nhiều người thắc mắc nốt ruồi vượng phu ích tử ở những vị trí nào? Nốt ruồi nào nên giữ, nốt ruồi nào nên phá bỏ. Bài viết dưới đây, Phong thủy số sẽ giới thiệu với bạn các nốt ruồi vượng phu ích tử trên cơ thể phụ nữ.
Theo quan niệm của nhân tướng học thì nốt ruồi vượng phu ích tử là những nốt ruồi trên cơ thể người phụ nữ mang vận mạng tốt, khi lập gia đình dù ở lĩnh vực nào cũng tốt đẹp nhất là về sự nghiệp và tiền bạc. Và theo quan niệm xưa thì người phụ nữ vượng phu ích tử là những người mang tới phúc khí tốt cho chồng và tốt cho con. Ích tử còn có nghĩa là sinh con trai tốt, làm rạng rõ gia môn, biết lo tròn đạo hiến và nốt dõng tông đường
Theo quan niệm thì nốt ruồi ở trên tai phải là nốt ruồi vượng phu ích tử, theo các nhà nhân tướng học thì đây là “tàng giả vi thượng đẳng”. Vị trí nốt ruồi nằm ở chỗ càng kín thì càng được xem là có tướng phú quý. Những nốt ruồi trên tai đều là nốt ruồi tốt. Nốt ruồi này còn được gọi là nốt ruồi “ vận bang phu”. Những người này thường khá thông minh lại hiếu thuận với cha mẹ, ngoài ra có có khả năng hỗ trợ, giúp đỡ chồng trong mọi mặt từ cuộc sống đến sự nghiệp. Những người đàn ông như vậy ắt sẽ được vinh hiển với đời.
Đây còn được gọi là nốt ruồi “Vận phú quý”. Theo các nhà nhân tướng học thì cằm còn được gọi là cung tài bạch, và cung địa các, thường được xem và dấu hiệu cho ruộng đất nhà cửa của chủ nhân. Những người con gái mà có nốt ruồi ở vị trí này thường được thừa kế được khá nhiều tài sản nhất là đất đai từ tổ tiên để lại.
Nếu nữ giới có nốt ruồi ở vị trí này thường là người chủ tài, có khả năng quản lí tiền bạc, cả đời sống trong giàu sang phú quý. Họ cũng là người vợ, người mẹ lí tưởng trong gia đình.
Đây là nốt ruồi chủ về vượng phu, tức là tốt cho chồng. Những người phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này thường vô cùng tốt, nếu nốt ruồi này mà trơn bóng rõ nét thì lại càng phú quý. Những người phụ nữ này thường sẽ là hậu phương hoặc trợ lí đắc lực cho sự nghiệp và tài chính của chồng.
Trong nhân tướng học, những nốt ruồi trên tai đều tốt, thường thể hiện sự hiếu thảo, thông minh của chủ nhân. Với những cô gái có nốt ruồi ở vị trí này thường sẽ trợ giúp nhiều cho tài vận của chồng và cả gia đình nhà chồng.
Trên đây là những nốt ruồi vượng phu ích tử trên cơ thể con gái. Bạn có thể tham khảo thêm những vị trí nốt ruồi khác tại bài viết dưới đây:
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh của bạn
+ Nốt ruồi xấu là gì? Nên là gì với những nốt ruồi xấu
+ Nốt ruồi trên đầu có ý nghĩa gì?
Tivi là đồ dùng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, khi bày đặt tivi trong nhà, bạn cần lưu ý một số điểm sau.
1. Nên đặt tivi ở nơi thoáng mát
Mức tản nhiệt của tivi tỉ lệ thuận với độ lớn của màn hình. Sự tích tụ lượng nhiệt sẽ ảnh hưởng đến sự lưu thông của khí, ảnh hưởng đến phong thủy của ngôi nhà. Do đó, nên đặt tivi ở nơi thoáng mát, thuận lợi cho việc tản nhiệt.
2. Vị trí đặt tivi nên kết hợp với mệnh tuổi của gia chủ
Ví dụ, người có mệnh tuổi thuộc hành Mộc (hoặc được Mộc tương sinh – hỷ Mộc) thì nên ngồi hướng Đông vì Đông thuộc Mộc. Như vậy, vị trí đặt tivi thích hợp chính là hướng đối diện với hướng Đông, tức là hướng Tây.
3. Tivi không nên quá to
Theo phong thủy, ti vi theo ngũ hành thuộc Hỏa. Tivi càng lớn thì tính Hỏa càng mạnh. Trường hợp Hỏa vượng, trừ khi chủ nhân là người được Hỏa tương sinh thì sẽ có tác dụng tốt. Còn không có thể khiến cho chủ nhân gặp bất lợi, dễ mắc vào chuyện cãi cọ, thị phi.
4. Chú ý khi đặt tivi trong phòng ngủ
Cần chú ý tới mệnh tuổi của chủ nhân. Trường hợp là mệnh Thổ được Hỏa tương sinh thì tốt. Nếu bản mệnh đã là Hỏa lại thêm Hỏa của tivi thì sẽ trở nên quá vượng, bất lợi trong phong thủy.
Tuy nhiên, nhìn chung việc đặt tivi trong phòng ngủ là không tốt. Diện tích phòng ngủ thường không lớn, bức xạ, từ trường của tivi sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của bạn.
Ngoài ra, khi màn hình tivi hướng về phía người nằm ngủ trong thời gian dài sẽ gây bất lợi tương tự như ảnh hưởng của gương khi đặt đối diện với giường ngủ. Nó không chỉ khiến tâm tình bất an mà còn có thể dẫn đến đào hoa sát – rắc rối trong chuyện tình cảm với người khác giới. Giải pháp cho trường hợp này là sử dụng tấm vải che màn hình tivi.
5. Chú ý bức tường phía sau tivi
– Màu sắc bức tường nên kết hợp với mệnh tuổi chủ nhân.
– Tránh đặt tivi trước bức tường góc cạnh; tránh tường bị phân cắt; tránh đặt tivi trước cửa sổ hay ô cửa.
6. Chú ý tới tủ tivi
Việc chọn chất liệu và màu sắc của tủ nên dựa vào mối tương quan ngũ hành với mệnh tuổi của chủ nhân.
Nếu bạn thích bày đặt các đồ vật trang trí nhỏ trên tủ tivi, cần chú ý một số điểm sau:
– Tránh đặt đồ chơi vì có thể thu hút sự tò mò của trẻ, không an toàn khi trẻ với tay lấy đồ.
– Nếu đặt biểu tượng con giáp thì tránh tương xung với con giáp cầm tinh tuổi mình. Ví dụ, người tuổi Tý thì tránh đặt hình con ngựa vì Tý – Ngọ tương xung.
– Bài trí thực vật có thể giúp tăng sinh khí và có tác dụng hóa sát. Nên đặt cây xanh lá sẽ rất tốt nhưng tránh đặt các loại cây hoa có gai như xương rồng hay hoa hồng…
7. Tránh mở tivi quá to
Khi mức âm lượng phát ra từ tivi quá lớn sẽ phạm vào “thanh sát” trong phong thủy, ảnh hưởng tới vận thế của người trong nhà.
Nếu tình trạng kéo dài sẽ ảnh hưởng tới tâm lý, tình cảm, thính lực có thể bị giảm sút.
![]() |
![]() |
Lại còn có một số Thần người nước ngoài xâm lăng nước ta, khi chết tạo sự bất an cho dân, như Nguyễn Bá Linh theo nhà Nguyên đánh Đại Việt, Trương phụ là tướng nhà Minh…cũng được thờ ở Ninh Bình, Quảng Ninh cho bớt sự quấy đảo… Nhưng các Thần người nước ngoài có công với chúng ta, thể hiện đạo đức phù hợp với bản chất dân tộc Việt được nhân dân tôn thờ, sùng kính. Ví như đền thờ Mỵ Ê ở Lý Nhân, Hà Nam, là vợ vua Chiêm có khí tiết đáng kính. Triệu Trung là tướng nhà Tống theo Đại Việt đánh giặc Nguyên được thờ ở Cao Đài - Mỹ Thành – Nam Định và đặc biệt Tứ Vị Thánh Nương, triều đình Nam Tống kháng chiến đế quốc Mông – Nguyên không thành, cơ đồ nhà Tống tan nát, hận mất nước mang nặng, tình nguyện âm phù cho Đại Việt đánh giặc cũng như nhân dân Việt làm ăn, phát triển sĩ, nông, công, thương… được dân gian chiêm ngưỡng rộng rãi khắp Trung, Bắc, Nam và lịch đại phong tặng danh hiệu Thượng đẳng thần.
Việc sùng bái này tuy có thời sóng gió, nhưng một vài thập kỷ gần đây được phục hồi, Nhà nước quan tâm tu bổ di tích như đền Cờn - Nghệ An, đền Mẫu – Hưng Yên, đền Lộ - Hà Nội, đền Ninh Cường, đền thờ Mẫu ở Thái Bình, đền các xã Quần Anh cũ, đền xã Trực Khang – Nam định… Phải chăng đạo nghĩa dân tộc, tầm nhìn tổ tiên đã vượt qua biên giới, nói cách khác là đã có quan điểm toàn cầu. Quý hoá thay, đáng kính thay! Riêng với Nam Định nay (vì Nam Định xưa, đầu thế kỷ 19 quản lãnh cả Thái Bình và một phần Hưng Yên) tục thờ Tứ Vị Thánh Nương còn được khôi phục ở khá nhiều nơi, đặc biệt vùng biển, nay thuộc huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh. Xin dẫn chứng lịch sử tôn thờ Tứ vị, với công trình khẩn hoang mở đất phía Nam sông Cường Giang (nay là sông Ninh Cơ) để có được phần lớn đất đai huyện Hải Hậu, huyện Trực Ninh ngày nay. Theo di tích, truyền thuyết địa phương thì các cụ tổ sáng lập đất Quần Anh là Trần Vu, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cập (địa chí ghi là Tứ tính) cùng chín họ Lại, Nguyễn, Lê, Bùi… (địa chí ghi là Cửu tộc) vượt sông Cường Giang, từ vùng Tương Đông - Trực Ninh sang khai hoang lấn biển vào cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16, khi điền địa hình thành, lập xóm trại, họ đã lập đền thờ. Phần này trong sách chép tay Quần Anh tiểu sử của Tiêu Viên Hoàng Diễn (1872-1914), do Phương Châu Đoàn Ngọc Phan dịch và chú thích năm Ất Sửu 1985, mục xây dựng đền, miếu, đàn, chùa và bi ký có ghi: “Nguyên trước đền thờ Tống Thái hậu (người họ Dương là vợ vua Tống Độ Tông, mẹ Tống Đế Bính cùng hoàng hậu và hai công chúa bị nạn giặc Mông - Nguyên chết đuối ở bể năm Kỷ Mão 1279). Đền Bóng trước tại xứ Cồn Khuôn bị xã Cát Chử chiếm mất, bèn lập lại đền Bóng tại phía Bắc sông Trệ (nay thuộc cầu Xẻ, xã Thượng). Tương truyền khi Tú Tổ khai trương, phía đông có đền xã Quần Mông, phía tây có đền thờ Tống hậu còn gọi là Tứ Vị Thánh Nương (do ai xây, xây từ bao giờ?... Các tổ nhân sẵn đền cũ tu bổ lại, đúc tượng đồng phụng sự… Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 13 mới đúc tượng đồng ở đền Bóng sông Trệ lại trang hoàng từ vũ. Diện tích khu đền rộng hơn một mẫu, nước hồ trong vắt, cây cối um tùm, nhân dân kỳ đảo linh ứng, trải qua nhiều triều đại có sắc phong… Sau khi Quần Anh phân làm ba xã (1804) đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), xã Hạ lập đền Bóng tại phía bắc chợ Đông Cường, xã Trung, xã Thượng vẫn thờ tại đền Bóng phía bắc sông Trệ. Năm Thành Thái thứ 10 (1890), xã Trung mới lập đền Bóng ở phía nam sông Trà, phía đông Cầu Đông. Từ đó các xã đều có đền Bóng riêng, tục gọi là đền Chánh. Còn đền tại Vĩ Châu do Ninh Cường phụng sự, nhưng hai xã Thượng và Trung thay phiên nhau hàng năm lên kinh tế”… Như vậy, trong vòng 5-7 km, các xã giáp nhau đều có đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương. Theo truyền thuyết đây là đời sống tinh thần của dân khai hoang mở đất Quần Anh. Sách Quần Anh dấu xưa mở đất của Trần Xuân Mậu (Hội Văn học nghệ thuật Nam Định - 2002) còn ca ngợi đền Chánh xã Trung là công trình kiến trúc tuyệt đẹp. Thợ nề Quần Anh có tài nặn, đắp, tạo hình…Đôi nghê chầu do hai phó nề quây cót đắp thi khá thành công, đã có thơ ca ngợi… Gần 4 ngôi đền phía nam sông Cường Giang, phía bắc sông có đền Lạc Chính nay thuộc xã Trực Khang, huyện Trực Ninh. Lịch sử lập đền vào cuối thế kỷ 19, xin chân nhang ở đền Ninh Cường (cửa biển Lác) về thờ và ngày càng tu bổ đẹp đẽ, lại là cơ sở cách mạng, kháng chiến của địa phương. Đơn cử một số điểm thờ Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định để chúng ta tìm hiểu về nguyên nhân cũng như ảnh hưởng của Tứ Vị Thánh Nương đối với cộng đồng dân tộc Việt. Có thể có sự đồng cảm bởi Vương hậu, Vương phi nhà Tống vì kháng chiến chống kể thù chung Mông – Nguyên. Có thể bởi đức độ giữ chư tiết nghĩa mà ngọc phả dẫn, phù hợp với chất đạo lý dân tộc, hoặc do sự âm phù vua Trần Anh Tông cho nên biển lặng, sóng yên giúp quân Trần nhanh chóng chinh phạt kẻ thù phương Nam thành công, hay có sự anh linh, một niềm tin nào đó cho sĩ, công, nông, thương Đại Việt trước kia, rồi Đại Nam, Việt Nam chúng ta ngày nay cầu được ước thấy, mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió…dẫn đến đời sống ấm no, hạnh phúc mà dân gian hết lòng tôn kính, lập đền thờ tự.
Hoặc do dân quê thuần phác, đời sống khó khăn, trong công cuộc khai hoang lấn biển, nhiều lần nước mặn phá vỡ đê biển, nhiều lần tràn ngập cướp đi hàng ngàn, hàng vạn ngày công… dân quê không còn cách nào hơn là lập đền ở Vĩ Châu, rồi sau là đền Chánh, đền Bóng thờ Tứ Vị Thánh Nương mong sự cứu độ và đây là liều thuốc an thần, giúp dân khai phá thành công, thiết lập làng xã với một nếp sống nông thôn nghĩa tình, có từ đường thờ tổ, văn đàn, võ đàn, đền, miếu, chùa cảnh, thờ Thần, Phật, Tổ lập lăng. Còn chấn hưng việc học, xây cầu, lập quán tạo cuộc sống đầy đủ vật chất, chu đáo về tâm linh cho dân. Đây là văn hoá bản địa, văn minh bản địa khá tiêu biểu ít nơi có. Và để minh chứng xin trích dịch “Tân đình bi ký” (1815) tại xã Trung, nay là Hải Trung, Hải Hậu, Nam Định. … “Đất ta cổ truyền là đất chua mặn, cát chữa nên ruộng, bằng phẳng bốn bề, chỗ cao có thể dựng nhà cửa, chỗ thấp có thể cấy dâu gai, ngàn mẫu tạo nên mà trăm nhà dựng, xanh tươi sầm uất thành vũ trụ trời Nam… từ niên hiệu Hồng Thuận chung nhau một xã, đình làng cùng chung, chợ cùng nhau họp, cầu cùng nhau leo, đều cùng nhau cúng. Năm Giáp Tý (1804) mới cắm mốc chia làm ba làng”… Văn bí chùa Phúc Sơn (Quần Phương Trung, Phúc Sơn tự ký) lập năm 1932 còn ghi: … “Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) lập thành tên xã Quần Anh, dựng đền Quốc Mẫu tối linh Thần ở thôn An Cường, nguyên trước là thôn Tây Cường, nay là xã Ninh Cường, cửa bể sông Lác bãi Vĩ Châu, dựng thêm đền Bóng ở cửa sông Trệ, dựng chùa thờ Phật gọi là chùa Phúc Lâm”. Những dòng chữ Hán của người xưa, muốn cho cộng đồng cư dân Nam Định ghi nhớ dấu tích đời sống tinh thần trong đó có tục thờ Tứ vị, cũng như đức tin của người Nam Định đối với các vị Thần Tổ lập biển lập làng, tạo an sinh xã hội”
Nhìn chung các di tích thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định khá lớn, khá nhiều, thường có hai hoặc ba toà chính, có hệ thống tường hoa, cột trụ vây quanh tạo khuôn viên nội chữ đinh, hoặc nội chữ công, ngoại chữ quốc, quy mô hoành tráng. Phần thư tịch, câu đối đều có nhắc tới nạn xâm lăng của nhà Mông – Nguyên, triều đình Nam Tống bị diệt vong, thái hậu cùn ba con bị nạn trôi đến Càn Môn - Quỳnh Lưu - Nghệ An, nêbn dân gian coi đền Cờn - Nghệ An là nơi phát tích, hàng năm vẫn có người vào đền Cờn dâng lễ tỏ rõ lòng thành, không 1uên gốc. Đơn cử câu đối đền Lạc Chính nay là xã Trực Khang ghi: Nam Hải thần phong thiên hữu sắc Cần môn ba tố địa giai binh Tạm dịch: Nam Hải thần do trời ban sắc, Cầu môn nổi sóng đất anh linh. Lễ hội ở đây, ngoài việc tế lễ, ngày 7 tháng giêng có lệ thi trâu béo, khoẻ. Để làm việc này, ngay từ ngày 6 tháng giêng các giải pháp tắm rửa cho trâu, cho trâu ăn no, lại trang trí trên đầu, trên sừng trâu. Các nhà trong giáp góp gạo thổi xôi làm lễ, tối mồng 6 thắp đuốc rước trâu. Người cưỡi trên lưng trâu giơ cao ngọn đuốc và đoàn người trống chiêng hối hả theo sau. Đoàn rước có tới hàng chục con trâu béo, trâu đẹp được tập trung để dự thi, con nào đạt thì được giải. Lệ này được duy trì cho mãi đến ngày nay, vừa khích lệ tinh thần chăn nuôi tạo sức kéo, vừa nhớ lại chuyện xưa trẻ trâu thấy đền Cửa Lác thờ, bắt chước đắp đất làm đèn, vì thế các cụ mới sang Ninh Cường xin chân nhang về thờ… Theo sách Thần tích Việt Nam của Lê Xuân Quang – Nxb Thanh Niên, 2003, thì thôn Thiện Đăng, xã Thời Mại, huyện Tây Châu, Nam Định có 2 tướng Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng dưới trướng Trần Quốc Điền, theo lệnh của Hưng Đạo Đại vương đem 500 quân vào Châu Hoan do thám tình hình địch, trong cuộc kháng chiến lần thứ II – 1285. Nhưng kế hoạch bại lộ, bị địch truy đuổi, các ông cho quân sĩ lên bờ rút lui, bỗng trông thấy đền thờ Tứ vị, liền vào đền khẩn cầu kêu xin âm phù. Ít phút sau trời đất tối sầm, sấm chớp nổi lên, gió bão ập đến làm cho thuyền giặc gãy cột buồm trôi dạt trở lại. Quân ta thừa cơ tấn công, địch rút chạy, thu được hon chục thuyền chiến… Biết chuyện đánh thắng quân Toa Đô có nhờ sự âm phù của Thần ở Càn Hải. Vua Trần ban phong “Càn Hải Tứ vị linh thần”. Lại cho vàng bạc tu sửa đền thờ… Đáng tiếc một thời, các đền thờ Tứ vị nhiều nơi bị cấm đoán, thậm chí phá công trình, tẩu tán đồ thờ. Nhưng do ý thức tôn trọng Tứ vị trong dân gian, họ vẫn ngấm ngầm tìm đi các nơi cầu đảo Thánh Nương phù hộ. Các tư liệu, câu đối còn lưu, ca ngợi sự âm phù của Tứ vị cho triều đình chống ngoại xâm thắng lợi, âm phù cho các thuyền buôn, thuyền đi trên biển, trên sông an toàn. Tài liệu của ông Lê Xuân Quang còn ghi lại đạo sắc ngày 4/12 Quang Trung thứ 5 (1793) trong văn có câu: “Phi tự Đại Tống ngật kim tích tại Tiên tảo, danh tại sử, tướng duy ngã Việt lập quốc, công ư đế thế, trạch ư dân”. Tạm dịch: - Trải từ thời Đại Tống đến nay, dấu tích ghi trong sổ người Tiên, tiếng tâm ghi tự điển. - Âm phù nước Việt ta lập quốc, công giúp nhà vua, ơn sâu với dân cũng thấm nhuần khắp mọi nơi. Đạo sắc trên đây ở đền Hương Nại, xã Yên Nhân, Yên Mô, Ninh Bình phong Tứ vị là người Tiên. Liệu đây có là nguyên nhân để trong điện Thần tứ phủ có văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu. Ảnh hưởng của Tứ vị được nhân lên, được dân gian hàon toàn đưa vào nội đạo của dân gian Việt Nam. Xin giới thiệu lại văn chầu Đại Càn Thánh Mẫu, sưu tầm trong những người hát văn ở Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng. Gương tứ đức sáng cùng nhật nguyệt, Nghĩa tam tòng tỏ hết Bắc Nam, Ngàn thu thơm nức hương lan, Đời càng ca tụng, tích càng hiển dương… Đức lồng lộng muôn dân khôn lượng, So bể, trời hình tượng cao sâu Sáng soi khắp chốn đâu đâu, Thơm danh Dương Thị hồi đầu Tống gia Trăm họ nức âu ca cổ vũ, Bốn bộ đều áo mũ đai xiêm. Khắp hoà Thuấn nhật, Nghiêu thiên, Đã vui cõi thọ lại lên xuân đài, Đang vui lúc lòng trời yên thuận, Quốc gia đều hoà khí xuân phong. Sau vì nhất quốc tam công, Người Nguyên ác độc đặt bày mưu mô. Nhà Tống phải thiên đô châu Quảng, Bóng tà dương soi rạng bể Nam. Thợ trời khôn tỏ cơ hoàn, Chúa tôi một dạ những toan phục hồi. Giang sơn Tống dẫu mười còn một, Có lẽ đâu chịu mất ngay đi. Ngoài thì tướng sĩ phù trì, Trong thì Thánh Mẫu khuê nghi luận bàn. Người son phán mà gan vàng đá Việc binh nhung vững dạ kiên tâm. Thần dân báo đáp quân ân, Nặng tình sơn hải mấy thân liễu bồ. Quyết giữ lại cơ đồ nhà Tống, Hẳn không dung những giống bất nhân. Lại khuyên võ tướng mưu thần, Gắng công vì nước đền ơn sinh thành… Nghe dụ chỉ quân dân quyết đánh, Nhưng khôn đua sức mạnh quân Nguyên Mới hay thành bại do thiên, Cơ huyền vẫn giữ, cơ huyền vẫn xoay. Cuộc thế sự hết bày trò rối, Trận Nhai Sơn hết đỗi gian nan… Lênh đênh trên biển liều thân, Quyết lòng thu thập quan quân phục thù, Nhược chẳng được mặc cho thuyền lắng, giãi gan cùng trời trắng bề trong. Ôi thôi thả lá giữa dòng, Qua ba bực sóng đều cùng thảnh thơi. Ấy mấy biết người trời khác giá, Trải gian nguy vẫn dạ trung trinh. Chí thành Phật cũng chứng minh. Bè từ đã đón thênh thênh lên ngồi Phép Phật độ tỉnh rồi mới biết, Chùa La Sơn Nam Việt là đây. Ung dung ở chốn am mây Khấu đầu lễ Phật giãi bày vân vi… Độ bốn vị đều nên Thần phúc, Hoá chân thân bốn khúc trầm hương. Gió đưa thoảng ngát một phương, Hào quang trước mắt ngư phường khô hay. Thuyền qua lại mấy ngày mới hiển, Rước lên thờ kính tiến khói hương. Nhờ ơn từ đấy mấy làng Lưới chài phong vận bạc vàng đầy chen. Đua cầu phúc lập đền tế lễ Độ cho người sông bể biết bao Kể chi giông tố ba đào Kêu cầu khắc ứng chuyện nào cũng yên… Công hộ quốc thơm ghi Nam sử, Lễ suy tôn khởi sự Đông – A Mẫu về chắc giáng điện toà Khuông phù đệ tử vinh hoa thọ trường. Như trên đã nói về ý thức người Quần Anh trong việc tôn thờ Đại Càn Thánh Mẫu. Ý thức trân trọng này được ghi vào tục lệ của làng. xin trích dẫn đôi điều cần thiết. Ngay trang đầu “tục lệ vào đám” có ghi: “Khoảng thế kỷ thứ 15, tiên tổ Quần Anh từ Tương Đông xuống khẩn điền lập ấp. Lúc đó đắp đê bể rất gian khổ nên đã lập đền thờ Tống hậu ở ngay cửa bể Lác Môn (đền Ninh Cường ngày nay) để cầu Thần ủng hộ”… “Khi xã Trung chưa làm đền Chánh, mỗi lần vào đám phải xuống xã Thượng rước kiệu Thần về đình… phải hưng công lập dịch bồi trúc con đường rước Thánh cho thật cao ráo, bằng phẳng. Ngoài ra các con đường khác cũng phải sửa chữa cho tiện đi lại và đón khách gần xa”. Theo lệ tục, những người rước Thánh phải là đàn ông, con trai đi rước, hoặc đi xem hội trên đường, còn các cụ già, đàn bà, em nhỏ thì đi thuyền dưới sông, nên sông Giữa, sông Múc nằm cạnh đường rước phải sửa, vét lại. Phàn đường, phần sông xã phân giao cho các giáp, các xóm, các tư nhân đảm nhận dưới sự kiểm soát của ban đốc công. … Đền Chánh là nơi khởi đầu cuộc rước phải tu sửa cho thật uy nghi, xứng đáng như cung điện Tống triều. Còn các đền khác cũng sửa sang cho tốt để quan khách trông vào. Xã lo phí tổn tu sửa đền Chánh, còn các đền khác các giáp tự lo… Khoản đồ rước như cờ, áo, kiệu, võng, tàn quạt, chiêng trống, gươm, roi… phải bắt tay từ năm, bảy tháng trước. Thợ thêu, thợ mộc, thợ sơn… mỗi hiệp hàng chục người phải làm liên tục…”. Tục vào đám còn ghi tỉ mỉ các khoản đóng góp, phân công cử người vào đám, đề chương trình tế lễ, đề nhật ký tiến cúng cho các giáp, quy định bầy đám, bầy điểm để phô trương văn vật địa phương. Đám do xã lo, thường bày giữa đình là gian thờ kiệu Thần nên phía trên và 4 mặt căng phủ màn thêu, hai gian bên thì đơn giản hơn, ngoài rạp cũng căng phủ màn, treo câu đối, cửa võng…Đồ thờ Thần có sập ngữ, võng ngự theo nghi thức hoàng hậu, hai bên tả hữu thiết đồ thờ theo nghi thức vương công. Điếm hát do các giáp lo nhưng cũng phải tươm tất, xứng với danh vị chủ nhân của giáp. Lại phân chia điếm văn, điếm võ,điếm thể sát để giải quyết mọi pháp lý, điếm đoàn áp (trị an, tuần phòng), điếm tổng cờ (chỉ huy thi đấu cờ), điếm tướng cờ nam, nữ… Phần rước Thần được ghi chép tỉ mỉ, nào phân công cầm “lộ bộ” (đi rước kiệu Thánh), nào người cầm mã đao, cầm cờ “thanh đạo” (dẹp đường), cầm tán, biển có chữ “tĩnh túc” (nghiêm tĩnh), “hồi tỵ” (tránh lại), cờ nhật nguyệt, bộ trống ngũ lôi (10 người), cầm thập kỳ (cờ đỏ viền xanh trắng, hoả xanh) rồi cầm tán, cờ ngũ hành “kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ”, cờ bát quái, tán, tàn… Ngay các hiệu lệnh, trống, chiêng cũng ghi chép tỉ mỉ, các phường hội sư tử, múa rồng, phường động, phường chèo, các trò đi kheo, đô vật… cũng được phân công, trước sau rất cụ thể. Nêu vấn đề trên để thấy việc tế lễ trịnh trọng như thế nào, nghiêm chỉnh như thế nào nhất là vai trò Thàn đền Chánh – Tứ Vị Thánh Nương là chủ chốt, oai linh nhất đối với dân Quần Anh – Nam Định nh thế nào. Phần cỗ rất linh đình. Có cỗ mặn, cỗ chay. Xin đề cập lễ rước cỗ chay tại xã Trung, nay là xã Hải Trung. Ngày 7 tháng giêng lễ khai hạ, lại là dịp kỷ niệm Đại Càn Thánh Mẫu cùng Tam vị, nên ngoài việc tế lễ, sang đêm ngày 8 tháng giêng tổ chức rước cỗ chay. Rước cỗ chay thường làm hai lễ, một lễ sang đền Chánh thờ Tứ vị, một lễ rước sang đền Khải xã, thờ liệt tổ khai sáng Quần Anh. Cỗ đặt trên “mân dàn” (mâm có nhiều tầng). Giữa bày hòn non bộ, bốn góc bầy tứ linh. Đi rước kiệu có đinh nam bưng mâm bồng có trầu rượu cùng cờ, quạt, chiêng trống… Cỗ chay thường có các loại bánh như bánh xu xê, nhựa mận, bánh dứa, bánh quế, bánh nhãn… Những cỗ chay cũng là nét riêng của từng địa phương, dùng sản phẩm riêng của địa phương. Ví như dùng quả đu đủ trổ thành các hoạ tiết, nấu thành mứt trong như kính rồi cắm vào tấm bánh, bày lên đĩa xung quanh có các thứ bánh chay. Mâm cỗ chính có 120 đĩa, các mâm bồng phụ, khoảng 12 đĩa làm toàn bằng ngũ cốc, nông sản, hoa quả. Điều đặc biệt là khi rước Thánh qua thôn xóm nào đèu có sự nghênh tiếp trịnh trọng. Việc này còn có câu đối lưu lại. Tạm dịch: Đền Thần mới sửa bên sông Trệ Kiệu Thánh mừng qua trạm xã Trung Hoặc câu: Âu ca một hội Xuân sau trước, Lễ nhạc trăm năm nghĩa láng giềng. Câu đối trên còn chứng tỏ đất Quần Anh sau khi tách làm ba, vẫn giữ được tình nghĩa làng cũ, nhất là ý thức đối với Tứ vị. Thần linh, coi như Thành hoàng che chở cho dân khẩn điền, lấp biển thành công. Riêng xã Hạ (nay là xã Hải Bắc, huyện Hải Hậu) lễ hội trong khu di tích thờ Phật, thờ Đại Càn Thánh Mẫu, thờ Liệt tổ, thờ Mẫu Liễu Hạnh, thờ Trần Hưng Đạo, xưa vẫn lấy ngày 6, ngày 7 tháng giêng là trọng tâm. Truyền thuyết cho ngày này là kỷ niệm Liệt tổ và Tứ Vị Thánh Nương. Ngoài việc tế lễ, rước kiệu Thánh du xuânb còn có các trò vui như tổ tôm điếm, đấu cờ tướng, cờ người, hát chèo, hát Ả Đào. Hát chèo, hát Ả Đào ở đây có truyền thống. Bởi xưa đây là xóm chuyên nghề này, sau xóm chuyển thành phố với tên phố Cô đầu, nhân dân sống nhờ nghề này và đã lập miếu thờ “Cầm ca nhĩ tổ” (Tổ nghề đàn, ca). Hiện miếu thờ không còn, nghề cũ cũng mai một, nhưng trong ký ức về rạp hát Thanh Kỳ do nghệ sĩ Quách Thị Hồ mở hàng chục năm, rồi nghệ sĩ Linh Nhâm, người con quê hương cũng ít nhiều gợi lại về một địa phương có nghề cầm ca. Xa xưa nghề cầm ca phục vụ các đám hát trong ngày hội Thánh, hầu Dương hậu, vương phi có các chức sắc, quan lại về dự, sau nghề cũ không phù hợp, nhưng truyền thống nghề nghiệp còn bảo lưu, giúp cho phong trào ca hát, đội văn nghệ địa phương trưởng thành. Và ngày hội hiện tại có các chiếu chèo, hoặc các nghệ sĩ hát ca trù dưới con thuyền trôi lững lờ trên sông nước trước đền chùa, gợi cảnh lệ vào đám xưa kia của tiên tổ Quàn Anh. Tục thờ Tứ Vị Thánh Nương ở Nam Định nhen nhóm từ thế kỷ 15-16, thịnh hành vào các thế kỷ 17, 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Đặc biệt nhân dân ở các cửa lạch, cửa sông và người làm nghề trên sông biển. Dân gian tin Tứ Vị Thánh Nương lúc nào cũng từ bi cứu độ muôn dân, như xưa đa âm phù giúp vua Trần, tướng Trần, cùng vua Lê đánh giặc, lại âm phù cho ngư dân vào lộng ra khơi đánh bắt cá, thương thuyền buôn bán sóng lặng, bể yên. Phù hộ cho việc khẩn hoang lấn biển, ngự trị được nước cường, sóng lớn cho đê biển vững bền… Sự hiển linh tạo thành đức tin và để đền đáp, kính cẩn thần linh, dân gian lập miếu tôn thờ, theo cách nhìn: Ai có công giúp nước, giúp dân thì thờ. Việc thờ tự có lễ, lễ dâng hương tưởng niệm và hàng năm hoặc 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu làng vào đám. Vào đám để biểu hiện lòng thành cao độ. Nhưng vào đám cũng bày vẽ quá đáng, khiến dân thôn phải phục vụ hao tổn sức người, sức của. Ấy vậy mà không ai bảo ai cứ cố gắng hoàn thành tục lệ tế lễ, hội hè do làng xã quy định. Bởi tâm linh mọi người; đây là giờ phút thể hiện sự thành tâm của con dân đối với liệt tổ mở đất, đối với Tứ vị thần linh âm phù cho nước bình yên, cho dân hạnh phúc theo đạo lý dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Phải chăng đây là bản chất ưu việt của cộng đồng cư dân Nam Định và như câu nói cổ nhân: “Thực kỳ tự giả, bất huỷ kỳ khí, ấm kỳ thụ giả, bất chiết kỳ chi”. (Ăn cơm không đập vỡ mâm bát, đứng dưới bóng cây không bẻ gẫy cành).
Hồ Đức Thọ - Chi hội trưởng Chi hội VHDG tỉnh Nam Định
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Màu sắc có lợi nhất cho người mệnh Thủy là màu trắng, thuộc Kim. Kế đến là các màu bản mệnh như đen, xanh lam; các màu thuộc Mộc như xanh lá cây và màu gỗ. Nếu trang trí nhà theo phong thủy, tốt nhất người mệnh này nên chọn màu trắng làm màu chủ đạo.
Để hỗ trợ cho mệnh, người mệnh Thủy nên sử dụng các đồ dùng hay các vật trang trí có màu bản mệnh là đen hoặc xanh lam. Ngoài ra, do Thủy sinh Mộc, họ cũng có thể sử dụng gam màu xanh, nhưng không nên quá nhiều.
Do Thổ khắc Thủy, người mệnh Thủy không nên trang trí nhà bằng các gam màu nâu và vàng.
Những thứ đại diện cho Thủy là nhà tắm, điều hòa nhiệt độ, bể cá, tranh vẽ về nước. Người mệnh Thủy nên đặt bể cá trong nhà, trồng các loại cây thủy sinh và bố trí một bồn tắm lớn, bởi chúng có ý nghĩa như một cái hồ chứa nước.
Các đồ vật thuộc Kim cũng có tác dụng hỗ trợ cho vận mệnh của người mệnh Thủy. Ngược lại, đồ vật có tính Thổ như gốm sứ, đá lại có ảnh hưởng xấu, nên tránh hoặc hạn chế sử dụng.
Vì Thủy sinh Mộc, người mệnh này cũng có thể sử dụng đồ gỗ, nhưng chỉ nên ở mức vừa phải bởi Mộc quá nhiều sẽ khiến Thủy sẽ bị tổn hại. Ngoài ra, khi sử dụng đồ gỗ, vải vóc, đồ da nên kết hợp với màu trắng để hạn chế những ảnh hưởng bất lợi.
Kính hay thủy tinh đều láng bóng như kim loại và nước, do đó chúng mang đặc tính của cả Kim và Thủy, là vật dụng và vật trang trí lý tưởng cho người cần bổ sung tính Thủy.
Người mệnh Thủy nên sử dụng các loại trang sức làm từ pha lê tím - loại đá phong thủy đặc trưng cho hành Thủy để tăng cường thêm sức khỏe.
Để thêm may mắn và thuận lợi trong công việc, người mệnh Thủy nên trang trí nhà bằng những đồ vật có hình khỉ và lợn - hai loài vật đại diện cho Thủy.
Các đồ vật, chất liệu thuộc Thủy không nhiều do vậy mệnh người này có thể sử dụng tranh vẽ hoặc vật trang trí có hình sóng nước để thay thế hoặc sử dụng màu sắc để bổ sung.
Người mệnh Thủy nên trồng 1 hoặc 6 chậu cây sau: thủy quỳ, dương xỉ, xương rồng tròn, thường xuân, trúc phú quý, cây đại tướng quân và lục thảo trổ để thêm có lợi trong sự nghiệp và tư gia.
1 và 6 là hai con số thuộc về phương Đông, đồng thời thuộc hành Thủy. Nếu ở chung cư, những người thuộc mệnh này nên chọn số tầng và số nhà có 1 và 6 ở đuôi. Các số thuộc Kim 4 và 9 cũng tốt cho người mệnh Thủy. Người mệnh này nên tránh các con số thuộc Thổ là 0, 5 và thuộc Hỏa là 2, 7.
Theo Tri thức trẻ
Xem tuổi hợp khắc, xung khắc để lấy vợ, lấy chồng hay xem tuổi hợp khắc để làm ăn là điều rất quan trọng quyết định đến sự thành hay bại, hạnh phúc hay chia ly mà nhiều người chưa biết khi xem tuổi hợp nhau hay không ?.
Trong cuộc sống hiện đại, những tưởng mọi thứ đều có thể giải thích được bằng khoa học và không còn đất cho những điều mê tín dị đoan hay những niềm tin tâm linh. Nhưng thật ra, cứ ngẫm từ sự vật, sự việc của cuộc đời thì quả là có nhiều tự nhiên hay ngẫu nhiên đến khoa học cũng không thể giải thích hoặc giải thích không thấu đáo được. Đối với đa số người Á Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, đức tin vào tâm linh và thần thánh dường như luôn hiện hữu trong cuộc sống.
Dẫu sao các cụ ta cũng đã dạy “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Đó đâu phải vô cớ.
Đối với các bạn trẻ ngày nay, trước khi kết hôn, lập gia đình việc xem tuổi hợp chồng vợ, xem tuổi cưới là điều không thể thiếu vì đa số có một đức tin rằng, vợ chồng có hợp tuổi, hợp mệnh thì làm ăn mới phát đạt, mới gặp nhiều may mắn, hạnh phúc và tránh được những tai ương trong cuộc sống.
Về quan điểm cá nhân, tôi không phủ nhận mỗi người có một số mệnh riêng, có người thì gặp may mằn, có người thì bất hạnh trong cuộc sống nhưng suy cho cùng thì sự thành đạt, hạnh phúc phần lớn do chúng ta gây dựng, vun đắp và nuôi dưỡng, vận mệnh nằm trong tay chúng ta, còn cái gọi là “số mệnh” chỉ là rất nhỏ vậy nên đừng bao giờ khi thất bại hay đau khổ lại đi lấy cái “ngẫu nhiên để quy cho tự nhiên”.
Sau đây là một tài liệu sưu tầm được, bạn nào nghiên cứu thấy thích thì mừng. Nếu không, thì cũng đừng bận tâm nhé… Cái này chỉ là giải trí xem để biết không mang ý nghĩa là truyền bá hay cổ súy cho mê tín dị đoan.
Để xem tuổi hợp vợ chồng hay bạn bè có xung khắc nhau không thường thì thầy bói dựa vào 3 điểm chính sau :
1. Tuổi gồm có 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi gọi là Thập nhị chi.
2. Mệnh gồm có 5 Mệnh: Kim, Hoả, Thuỷ, Mộc, Thổ gọi là Ngũ hành.
3. Cung mỗi tuổi có 2 cung, gồm có cung chính và cung phụ. Cung chính gọi là cung sinh cung phụ gọi là cung phi. Cùng tuổi thì nam nữ có cung sinh giống nhau nhưng cung phi khác nhau.
Khi xem tuổi hợp khắc, hai tuổi khắc nhau vẫn có thể ăn ở với nhau được nếu như cung và mệnh hoà hợp nhau.
Ngoài ra người ta xem tuổi hợp khắc còn dựa vào thiên can của chồng và tuổi của vợ để đoán thêm. Thiên can là 10 can gồm có Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ ,Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bây giờ ta xét về tuổi trước.
Lục Xung: Sáu cặp tuổi xung khắc nhau.
Tý xung Ngọ; Sửu xung Mùi; Dân xung Thân; Mão xung Dậu; Thìn xung Tuất; Tỵ xung Hợi. Xung thì xấu rồi.
Lục Hợp: Sáu cặp tuổi hợp nhau.
Tý Sửu hợp; Dần Hợi hợp, Mão Tuất hợp, Thìn Dậu hợp, Tỵ Thân hợp, Ngọ Mùi hợp.
Tam Hợp: Cặp ba tuổi hợp nhau.
Thân Tý Thìn; Dần Ngọ Tuất; Hợi Mão Mùi; Tỵ Dậu Sửu.
Lục hại : Sáu cặp tuổi hại nhau (không tốt khi ăn ở, buôn bán…với nhau)
Tý hại Mùi; Sửu hại Ngọ; Dần hại Tỵ; Mão hại Thìn; Thân hại Hợi; Dần hại Tuất.
Nếu tuổi bạn với ai đó không hợp nhau thì cũng đừng lo vì còn xét đến Mệnh của mỗi người (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ)
Bạn nhớ nguyên tắc này: Tuổi chồng khắc vợ thì thuận; Vợ khắc chồng thì nghịch (xấu)
Thí dụ vợ Mệnh Thuỷ lấy chồng Mệnh Hoả thì xấu, nhưng chồng Mệnh Thuỷ lấy vợ Mệnh Hoả thì tốt. Vì Thuỷ khắc Hoả, nhưng Hoả không khắc Thuỷ mà Hoả lại khắc Kim.
Sau đây là ngũ hành tương sinh (tốt):
Kim sinh Thuỷ; Thuỷ sinh Mộc; Mộc sinh Hoả; Hoả sinh Thổ; Thổ sinh Kim (tốt)
Như vậy chồng Mệnh Thuỷ lấy vợ Mệnh Mộc thì tốt; vợ được nhờ vì Thuỷ sinh Mộc. Vợ Mệnh Hoả lấy chồng Mệnh Thổ thì chồng được nhờ vì Hoả sinh Thổ.
Sau đây là ngũ hành tương khắc (xấu):
Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim (xấu)
Thí dụ vợ Mệnh Kim lấy chồng Mệnh Mộc thì không tốt do Kim khắc Mộc nhưng chồng Mệnh Kim lấy vợ Mệnh Mộc thì tốt vì theo nguyên tắc ở trên là tuổi chồng khắc vợ thì tốt, vợ khắc chồng thì xấu.
Về cung thì mỗi tuổi có một cung khác nhau. Sau đây tôi kể trước cho các bạn có tuổi Đinh Tỵ (1977) đến Đinh Mão (1987).Nên nhớ cung phi của nam nữ khác nhau còn cung sinh thì giống nhau khi xem tuổi hợp khắc.
Đinh Tỵ (1977) Mệnh Thổ – cung sinh: khảm – cung phi: khôn (nam), khảm (nữ)
Mậu Ngọ (1978) Mệnh Hoả – cung sinh: chấn – cung phi: tốn (nam), khôn (nữ)
Kỷ Mùi (1979) Mệnh Hoả – cung sinh : Tốn – cung phi: chấn (nam), chấn (nữ)
Canh Thân (1980) Mệnh Mộc – cung sinh: Khảm – cung phi :Khôn (nam), Tốn (nữ)
Tân Dậu (1981) Mệnh Mộc – cung sinh : Càn – cung phi : Khảm (nam), Cấn (nữ)
Nhâm Tuất (1982) Mệnh Thuỷ – cung sinh : Đoài – cung phi : Ly (nam), Càn (nữ)
Quý Hợi (1983) Mệnh Thuỷ – cung sinh :Cấn – cung phi : cấn(nam), đoài (nữ)
Giáp Tý (1984) Mệnh Kim – Cung sinh :Chấn – cung phi :Đoài (nam), Cấn (nữ)
Ất Sửu (1985) Mệnh Kim – cung sinh : Tốn – cung phi : Càn (nam), Ly (nữ)
Bính Dần (1986) Mệnh Hoả – cung sinh : Khảm – cung phi :Khôn (nam), khảm (nữ)
Đinh Mẹo (1987) Mệnh Hoả – cung sinh: Càn – cung phi; Tốn (nam), Khôn (nữ)
Muốn biết hai cung có xung khắc nhau hay không thì các bạn xem cách trình bày sau.
Còn các bạn nào cùng tuổi thì tất phải hợp nhau rồi. Người ta có câu nói “Vợ chồng cùng tuổi ăn rồi nằm duỗi”.
Về cung là phần rắc rối khó nhớ nhất nên mới đầu không quen ta ghi lại trên một tờ giấy để tiện tra cứu sau này.
Lại phải nhớ những từ cổ này
Sinh khí, diên niên (phước đức), thiên y, phục vị (qui hồn). Đó là nhóm từ nói về điều tốt.
Ngũ quỉ, Lục sát (du hồn), hoạ hại (tuyệt thể), tuyệt mệnh. Đó là nhóm từ nói về điều xấu.
Sau đây là tám cung biến tốt xấu , không cần học thuộc mà khi nào xem thì ta đem ra tra cứu. Sẽ cho thí dụ để các bạn hiểu cách xem tuổi cụ thể
Bây giờ nói về tám cung biến hoá.
Khi tôi viết tắt càn-càn thì hãy hiểu là người thuộc cung càn lấy người thuộc cung càn, hoặc tôi viết cấn- chấn thì hãy hiểu là người có cung cấn lấy người thuộc cung chấn v.v….
1.càn-đoài : sinh khí, tốt; càn-chấn : ngủ quỉ, xấu; càn-khôn :diên niên, phước đức, tốt.; càn-khảm; lục sát (du hồn), xấu; càn-tốn: hoạ hại (tuyệt thể), xấu; càn-cấn: thiên y, tốt; càn-ly: tuyệt Mệnh, xấu; càn-càn: phục vì (qui hồn), tốt.
2.khảm-tốn: sinh khí, tốt. khảm-cấn: ngủ quỷ, xấu. khảm-ly: diên niên (phước đức), tốt. khảm_khôn: tuyệt Mệnh,xấu. khảm_khảm phục vì (qui hồn), tốt
3.cấn-khôn: sinh khí, tốt. cấn-khảm: ngủ quỷ, xấu. cấn-đoài: diên niên (phước đức). cấn-chấn: lục sát (du hồn), xấu. cấn-ly: họa hại (tuyệt thể), xấu. cấn-càn: thiên y, tốt. cấn -tốn: tuyệt Mệnh, xấu. cấn-cấn: phục vì (quy hồn), tốt.
4.chấn-ly: sinh khí, tốt. chấn-cấn: ngủ quỉ, xấu. chấn-tốn: diên niên (phước đức), tốt. chấn-cấn: lục sát (du hồn), xấu. chấn-khôn: họa hại (tuyệt thể), xấu. chấn-khảm: thiên y, tốt. chấn-đoài: tuyệt Mệnh, xấu. chấn-chấn: phục vì (qui hồn), tốt.
5.tốn-khảm: sinh khí, tốt. tốn-khôn: ngũ quỉ, xấu. tốn-chấn: diên niên (phước đức). tốn-đoài: lục sát (du hồn). tốn-càn: hoạ hại (tuyệt thể), xấu. tốn-ly: thiên y, tốt. tốn-cấn: tuyệt Mệnh, xấu. tốn-tốn: phục vì (qui hồn), tốt
6. ly-chấn: sinh khí, tốt. ly-đoài: ngũ quỉ, xấu. ly-khãm: diên niên (phước đức), tốt. ly-khôn:lục sát (du hồn), xấu. ly-cấn : hoạ hại (tuyệt thể),xấu. ly-tốn: Thiên y, tốt. ly-càn: tuyệt Mệnh, xấu. ly-ly: phục vì (qui hồn), tốt.
7. khôn-cấn: sinh khí, tốt. khôn-tốn: ngủ quỉ,xấu. khôn-càn: diên niên (phước đức), tốt. khôn-ly: lục sát (du hồn), xấu. khôn-chấn: hoạ hại (tuyệt thể), xấu. khôn-đoài: thiên y, tốt. khôn-khảm: tuyệt Mệnh, xấu. khôn-khôn: phục vì (qui hồn), tốt.
8. đoài-càn: sinh khí, tốt. đoài-ly: ngũ quỹ, xấu. đoài-cấn, diên niên (phước đức), tốt. đoài-tốn; lục sát (du hồn), xấu. đoài-khảm: hoạ hại (tuyệt thể), xấu. đoài-khôn: thiên y, tốt. đoài-chấn: tuyệt Mệnh, xấu. đoài-đoài: phục vì (qui hồn), tốt.
Bây giờ xin nói lại về giờ âm lịch cho chính xác.
(theo tháng âm lịch)
Tháng 2 và tháng 8: từ 3giờ 40 đến 5 giờ 40 là giờ Dần.
Tháng 3 và tháng 7: từ 3g50 đến5g50 là giờ Dần
Tháng4 và tháng 6: từ 4g đến 6g là giờ Dần
Tháng5 : từ 4g10 đến 6g10 là giờ Dần
Tháng 10 và tháng chạp: Từ 3g20 đến 5g20 là giờ Dần
Tháng 11: từ 3g10 đến 5g10 là giờ Dần
Biết được giờ Dần ở đâu rồi thì các bạn tính lên là biết giờ khác. Ví dụ vào tháng 7 âm lịch từ 3g50 đến 5g50 là giờ Dần thì giờ Mão phải là từ 5g50 đến 7g50. Cứ thế tính được giờ Thìn, Tỵ…..
Bây giờ tôi cho thí dụ cách xem như thế này
Thí dụ nữ tuổi Nhâm tuất (1982) lấy nam Mậu Ngọ (1978) thì tốt hay xấu.
Xem bảng cung Mệnh tôi ghi từ 1977 đến 2007 ở trên thì thấy.
1. Xét về tuổi: Hai tuổi này thuộc về nhóm Tam Hợp, như đã nói ở trên, nên xét về tuổi thì hợp nhau.
2. Xét về Mệnh: Mậu ngọ có Mệnh Hoả, trong khi đó Nhâm Tuất này có Mệnh Thuỷ. Xem phần ngũ hành thì thấy Thuỷ khắc Hoả tức là tuổi vợ khắc tuổi chồng, vậy thì xấu không hợp.
3. Xét về cung: Mậu Ngọ có cung Chấn là cung sinh (cung chính) còn Nhâm Tuất này có cung sinh là Đoài. Xem phần Tám cung biến thì thấy chấn-đoài là bị tuyệt Mệnh, quá xấu không được.
Lại xét về cung phi để vớt vát xem có đỡ xấu không thì thấy Mậu Ngọ về nam thì cung phi là Tốn, Nhâm Tuất cung phi của nữ là Càn mà ở phần Tám cung biến thì tốn-càn bị hoạ hại, tuyệt thể.
Như vậy trong 3 yếu tố chỉ có hợp về tuổi còn cung, và Mệnh thì quá xung khắc, quá xấu. Kết luận có thể xẻ đàn tan nghé.
Hai tuổi này xem tuoi hop còn có thể kiểm chứng lại bằng phép toán số của Cao Ly (Hàn Quốc, Triều Tiên ngày nay). Tôi sẽ trình bày sau phần này, đây là một cách xem dựa vào thiên can và thập nhị chi của người Hàn Quốc xưa.
Sau đây tôi đưa 1 thí dụ khác lạc quan hơn thí dụ trước
Bây giờ giả sử nữ Kỷ Mùi (1979) lấy nam tuổi Mậu Ngọ (1978) thì tốt hay xấu.
Ta thấy:
Mậu ngọ (1978) Mệnh Hoả, cung sinh Chấn, cung phi Tốn (nam)
Kỷ Mùi (1979) Mệnh Hoả, cung sinh Tốn, cung phi Chấn (nữ)
a) Xét về tuổi hai tuổi hợp nhau vì cùng thuộc Lục Hợp, đã nói ở trên
b) Xét về Mệnh hai tuổi cùng Mệnh Hoả nên hợp nhau, khỏi bàn.
c) Xét về cung sinh thì xem tám cung biến ta thấy Chấn-tốn được diên niên (phước đức) như vậy là rất tốt
Thật ra chỉ cần hai cái tốt thì chắc hai tuổi lấy nhau là tốt rồi không cần xem cái ba
Tóm lại hai tuổi này lấy nhau rất tốt, đến đầu bạc răng long. Tại sao tôi quả quyết như vậy, bởi tôi còn dựa vào phép toán của Hàn Quốc nữa, sẽ nói sau
Sau đây là BÀI TOÁN CAO LY.
Xem cái này phải kết hợp thêm cung, Mệnh, tuổi.
*Nam GIÁP-KỶ lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được tam Hiển Vinh
Sửu Mùi bị nhì Bần Tiện
Dần Thân được nhất Phú Quý
Mão Dậu được bị ngũ Ly Biệt
Thìn Tuất được tứ Đạt Đạo
Tỵ Hợi được tam Hiển Vinh
*Nam tuổi ẤT CANH lấy vợ tuổi
Tý Ngọ bị nhì Bần Tiện
Sửu Mùi được nhất Phú Quý
Dần Thân bị ngũ Ly Biệt
Mão Dậu được tứ Đạt Đạo
Thìn Tuất được tam Hiển Vinh
TỴ Hợi bị Nhì Bần Tiện
*Nam tuổi BÍNH TÂN lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được nhất Phú Quý
Sửu Mùi bị ngũ Ly Biệt
Dần Thân được tứ Đạt Đạo
Mão Dậu được tam Hiển Vinh
Thìn Tuất bị nhì Bần Tiện
Tỵ Hợi được nhất Phú Quý
*Nam tuổi ĐINH NHÂM lấy vợ tuổi
Tý Ngọ bị ngũ Ly Biệt
Sửu Mùi được tứ Đạt Đạo
Dần Thân được tam Hiển Vinh
Mão Dậu bị nhì Bần Tiện
Thìn Tuất được nhất Phú Quý
Tỵ Hợi bị ngũ Ly Biệt
*Nam tuổi MẬU QUÝ lấy vợ tuổi
Tý Ngọ được tứ Đạt Đạo
Sửu Mùi được tam Hiển Vinh
Dần Thân bị nhì Bần Tiện
Mão Dậu được nhất Phú Quý
Thìn Tuất bị ngũ Ly Biệt
Tỵ Hợi được tứ Đạt Đạo
Thí dụ: Nam tuổi Giáp Dần lấy vợ tuổi Thìn hay Tuất thì được Đạt Đạo (gia đạo an vui)
Bần Tiện là nghèo khổ, bần hàn. Đây là nghĩa tương đối có ý nói không khá được sau này ( có thể 15 hay 20 năm sau mới ứng). Bởi con nhà đại gia lấy con nhà đại gia thì dù có bị Bần Tiện cũng là đại gia, nhưng về sau thì kém lần không được như cũ , có thể suy)
Câu trả lời sau đây.
Đàn ông tuổi Tý lấy vợ kỵ năm Mùi. ( năm Mùi không nên lấy)
………….Sửu ………….Thân.
………….Dần…………..Dậu
………….Mão…………..Tuất
………….Thìn………….Hợi
………….Tỵ……………Tý
………….Ngọ…………..Sửu
………….Mùi…………..Dần
………….Thân………….Mão
………….Dậu…………..Thìn
………….Tuất………….Tỵ
………….Hợi…………..Ngọ
Đàn bà tuổi Tý kỵ năm Mão. (không nên đám cưói năm Mão)
……………..Sửu ……….Dần.
……………..Dần………..Sửu.
……………..Mão………..Tý.
……………..Thìn……….Hợi.
……………..Tỵ…………Tuất
……………..Ngọ………..Dậu.
……………..Mùi………..Thân.
……………..Thân……….Mùi.
……………..Dậu………..Ngọ.
……………..Tuất……….Tỵ.
……………..Hợi………..Thìn.
Thí dụ:
Nam tuổi Tý lấy vợ thì năm nào cũng được nhưng tránh làm đám cưới vào năm Mùi đi. Hay nữ lấy chồng, nếu cô ấy là tuổi Thìn chẳng hạn, thì tránh làm đám cưới vào năm Hợi.
P/S: Bà con lưu ý, đây chỉ là 1 trong số những điểm tham khảo mà tôi sưu tầm đc. Nhưng nghiệm cũng đúng với một số người nên tôi thấy có thể tin đc phần nào. Mọi người xem xong ai thấy đúng sai thì góp ý nhé.
Ví dụ khác:
Nam tuổi Quý Hợi (1983) kết hôn với nữ tuổi Đinh Mão (1987) thì tốt hay xấu:
1. Thứ nhất xét về Tuổi:
Ta thấy Quý Hợi và Đinh Mão thì tuổi Hợi và tuổi Mão thuộc Tam Hợp (cặp 3 tuổi hợp nhau: Hợi-Mão-Mùi)
Kết luận: Về tuổi là Tam hợp: Tốt
2. Thứ hai: Xét về Mệnh:
– Nguyên tắc: Tuổi Chồng khắc vợ thì thuận (tốt); vợ khắc Chồng thì nghịch (xấu): Ví dụ: Vợ Mệnh Thủy lấy chồng Mệnh Hỏa thì xấu nhưng chồng Mệnh Thủy lấy vợ Mệnh Hỏa thì tốt. Vì Thủy khắc Hỏa, nhưng Hỏa không khắc Thủy mà Hỏa lại khắc Kim.
– Về trường hợp trên: Nam Quý Hợi (1983) là Mệnh Thủy; Nữ Đinh Mão (1987) là Mệnh Hỏa.
– Kết luận: Theo nguyên tắc trên thì xét về Mệnh của cặp tuổi trên là thuận (tốt).
3. Thứ ba: Xét về Cung:
Nam Quý Hợi (1983): Cung Sinh: Cấn; Cung phi: Cấn
Nữ Đinh Mão (1987): Cung Sinh: Càn; Cung phi: Khôn
Căn cứ theo tám cung biến hóa thì:
– Về cung sinh kết hợp với nhau là: Cấn – Càn: Thiên Y (tốt)
– Về cung phi kết hợp với nhau là: Cấn – Khôn: Sinh Khí (tốt)
► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát |
![]() |
Ảnh minh họa |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Theo phong thủy, cầu thang không chỉ là cầu nối giữa các tầng trong nhà mà còn là nơi lưu thông các dòng chảy năng lượng. Vì vậy, nếu đầu cầu thang xông thẳng ra cửa chính sẽ như một chiếc miệng mở to, đẩy hết sinh khí ra khỏi nhà. Gia chủ sống trong ngôi nhà như vậy sẽ khó tích tụ tài lộc. Nếu thiết kế nhà như vậy thì có thể chắn bình phong, đặt gương phản chiếu hay bày chậu cây, chuông gió trước cửa nhà. Nếu nhà dùng cầu thang xoắn cũng làm rối loạn khí trường, ức chế các dòng chảy quanh co.
Vì vậy, khi xây nhà nhiều tầng, cần phải đặc biệt chú ý đến vị trí và hình dáng cầu thang. Chúng có thể mang đến an lành hoặc tin dữ cho gia đình. Quan trọng nhất khi xây cầu thang là tính số bậc để tránh bệnh tật, xui xẻo.
Cách tính bậc được tính theo số bước chân lên xuống từ điểm đầu tới điểm cuối của cầu thang trong nhà. Nếu cầu thang có chiếu nghỉ chỗ này cũng được tính là một bậc. Số bậc thang trong nhà nên rơi vào cung “sinh” trong "sinh, lão, bệnh, tử" là tốt nhất.
Bậc đầu tiên là Sinh
Bậc thứ hai là Lão
Bậc thứ ba là Bệnh
Bậc thứ tư là Tử
Bậc thứ năm lại là Sinh
Và cứ thế tiếp tục lại là các bậc "Lão", "Bệnh", "Tử",...Như vậy, số bậc thang đẹp trong nhà theo công thức: 4n+1, trong đó "n" là số lần chu kì lặp lại.
Số chu kì | Số bậc vào cung Sinh |
1 | 5 |
2 | 9 |
3 | 13 |
4 | 17 |
5 | 21 |
n | 4n+1 |
Trong thiết kế nhà cửa thông thường, số bậc thang đẹp để có độ dốc phù hợp thường là 17, 21 hoặc 27.
Tuy vậy, trong cuộc sống không có điều gì là hoàn hảo. Sinh khí quá vượng khiến gia chủ không gánh được sẽ hóa thành sát khí. Chẳng hạn như nếu ngôi nhà có năm tầng mà chủ nhà bố trí cả bốn cầu thang đều có 21 bậc để vào cung "Sinh" thì sẽ "Tử". Trên đời nếu đã có "Sinh" thì sẽ có "Tử". Nếu đếm tổng số các bậc thang của cả năm tầng trong nhà sẽ là 84 bậc - nơi vào cung "Tử".
Theo Đông Đông (Fengshui) (Khám Phá)
ao bì bắt mắt.
Bởi vì, bao bì thể hiện hình thức của san phẩm, khách hàng khi lựa chọn hàng hóa trên quầy hàng, đầu tiên sẽ nhìn vào hình thức bên ngoài của hàng hoá. Người kinh doanh tiêu thụ hàng hoá phải thông qua hình thức bên ngoài này để nắm bắt tâm lý khách hàng, làm cho khách hàng tăng lượng cầu hàng hóa, mấu chốt là ở chỗ thể hiện ra một phần hình thức bên ngoài hàng hóa như mới mở, đẹp mắt, đặc biệt… hay không.
Xét một cách toàn diện, cửa hàng có thể thu hút được khách hàng hay không, ngoài việc coi trọng đến chất lượng sân phẩm và thái độ phục vụ tốt, thì tạo dáng bên ngoài cửa hàng cũng rất quan trọng. Theo điều tra không đầy đủ, một cửa hàng có hiệu quả kinh doanh tốt, đa số đều là các cửa hàng có hình dáng bên ngoài đặc sắc. Một cửa hàng thiên về kinh doanh, trong đối sách kinh doanh hàng hóa của họ, đều có một điểu liên quan đến nguyên tắc thiết kế tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng. Bời vì, họ coi tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng chính là một bao bì thể hiện nội dung bên trong hàng hoá, họ tin tưởng rằng một bao bì đẹp thì có thể chiếm được cảm tình của khách hàng.