Mơ thấy hoa cúc: Tượng trưng hy vọng và thu hoạch –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Kỷ Sửu nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1949, 2009 và 2069
Cung ĐOÀI
Mạng THÍCH LỊCH HỎA (lửa sấm chớp)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CHIM CÚ
Phật Bà Quan Âm độ mạng
Kỷ Sửu số mạng như vầy,
Lửa trời sấm chớp sáng đầy trời mưa.
Nếu sanh mùa Hạ thì sang,
Gái mà Kỷ Sửu số nàng như trai.
Lòng dạ cứng cỏi như trai,
Thấy mạnh hiếp yếu ra tay binh liền.
Số này chẳng chịu ở yên,
Có tay buôn bán lại chuyên nhiều nghề.
Bạc tiền như giấc chiêm bao,
Có rồi lại hết sớm vào tối ra.
Số cô phải chịu phong ba,
Ba mươi sáu tuổi mới là yên thân.
Số cô tuổi nhỏ bôn ba,
Nhưng mà cô số chẳng qua ông trời.
Làm giàu phải tự tay ta,
Chẳng cần cha mẹ cùng là phu quân.
Kỷ Sửu lập nghiệp nên nhà,
Công danh sẳn có nhờ căn tu.
Tuổi Kỷ Sửu, tuổi nhỏ vào trung vận có nhiều cay đắng, con người bao giờ cũng có nhiều ý nghĩ và ham thích những cái đẹp bề ngoài. Cuộc đời vào thời hậu vận mới có được những kết quả về công danh, tài lộc cũng như mọi khía cạnh tình cảm. Con người hay có tánh lạt lòng, nên thường bị lợi dụng về tình cảm. Tuy nhiên, sẽ có nhiều triển vọng vào những năm mà số tuổi từ 24 trở đi.
Tóm lại: Cuộc đời nhiều cay đắng vào lúc tuổi nhỏ nhưng cuộc sống có nhiều triển vọng tốt đẹp vào hậu vận và trung vận. Sự sống lên cao bắt đầu từ 24 tuổi trở đi. Trong tương lai có nhiều may mắn hơn thời tiền vận.
Cuộc sống hoàn toàn êm đẹp, trung vận và hậu vận tốt đẹp, số hưởng thọ trung bình từ 58 đến 66 tuổi, nhưng nếu làm phước, ăn ở hiền lành thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.
Về vấn đề tình duyên đối với tuổi Kỷ Sửu là cả một vấn đề nan giải. Gặp rất nhiều trở lực trong cuộc đời đối với vấn đề tình duyên và hạnh phúc. Tình duyên đối với tuổi Kỷ Sửu được chia thành ba giai đoạn như sau:
Nếu bạn sanh vào những tháng nầy, thì cuộc đời bạn đối với vấn đề tình duyên và hạnh phúc phải có ba lần thay đổi, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 8 và 10 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 2, 4, 7, 9 và 11 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn hoàn toàn hưởng được hạnh phúc và không bao giờ có thay đổi về vấn đề tình duyên, hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 5 và 12 Âm lịch.
Trên đây là diễn tiến về tình duyên và hạnh phúc của bạn xuyên qua tháng sanh và do sự nghiên cứu về chiêm tinh huyền bí học. Vậy bạn nên nhớ mình sanh vào tháng nào để biết được cuộc đời đối với vấn đề tình duyên để quyết định cuộc đời.
Phần gia đạo được đầy đủ và nhiều thương yêu. Công danh nếu có theo đuổi, thì tương lai có triển vọng đặc biệt, nhứt là thời trung vận, tức là từ khoảng tuổi 24 đến 35. Về công danh có nhiều tốt đẹp trong tương lai. Nếu không theo đuổi công danh, thì vấn đề làm ăn rất hạp với sự buôn bán.
Sự nghiệp nhiều hi vọng và đầy triển vọng vào thời trung vận, có ảnh hưởng rất nhiều đến sự sống và cuộc đời. Sự nghiệp rất hay đẹp, tạo cho cuộc sống có một địa vị vững chắc ngoài xã hội. Tiền bạc dồi dào và đầy đủ, nhờ ở khả năng và sự dễ dàng tạo lấy nhiều dịp may về tiền bạc.
Nếu cần trong sự làm ăn cộng tác hay hợp tác bằng tiền bạc hay bằng khả năng, tất cả mọi công việc tạo lấy tiền tài và danh vọng, làm cho cuộc đời có nhiều phấn khởi; trong mọi sự việc ở trên đời này, tuổi Kỷ Sửu rất hạp với các tuổi: Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ. Nếu cần bất cứ một việc gì trong việc hợp tác làm ăn thì nên hợp tác với những tuổi trên, mau phát đạt và không bao giờ sợ có thất bại.
Trong sự kết hợp lương duyên, xây dựng tình duyên và hạnh phúc, bạn cần nên chọn lựa những tuổi hạp với tuổi mình, mới có thể đẩy mạnh cuộc sống lên cao và làm cho cuộc đời đầy sung sướng. Tuổi Kỷ Sửu thuộc Nữ mạng rất hạp kết hôn với những tuổi nầy: Canh Dần, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Bính Thân, Mậu Tý, Đinh Hợi.
Hai tuổi Canh Dần và Quý Tỵ: Hợp với tuổi Kỷ Sửu về tình duyên, con cái đông đảo, hợp về đường tài lộc lẫn công danh, có thể đẩy mạnh cuộc sống lên đến tột đỉnh của cuộc đời. Với tuổi Giáp Ngọ và Bính Thân: Hợp với tuổi Kỷ Sửu về tình duyên và tài lộc, có thể tạo lấy tiền tài rất dễ dàng và có nhiều cơ hội thuận tiện để đưa đến sự giàu sang phú quý. Với tuổi Mậu Tý, Đinh Hợi: Hợp về lương duyên, hạnh phúc. Đường tài lộc có nhiều cơ hội phát đạt, cũng tạo được sự giàu sang và có đầy đủ cơ hội thuận tiện đẩy mạnh cuộc đời lên cao.
Trên đây về sự chọn lựa lương duyên của bạn được sống cao sang quyền quý, bạn nên chọn những tuổi trên mà kết hôn thì cuộc đời rất tốt đẹp.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy thì chỉ có thể tạo được cho cuộc đời bạn với một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Nhâm Thìn, Giáp Thìn. Bạn kết hôn với hai tuổi nầy chỉ hợp về đường tình duyên mà không hợp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, cuộc sống của bạn có thể sẽ trở nên và khó tạo lấy được một cuộc đời như ý, vì những tuổi nầy không hạp về đường tình duyên và lẫn cả vấn đề tài lộc, nên sẽ gặp phải một cuộc sống trong sự khó khăn của cuộc đời. Nghèo khổ luôn luôn vây lấy cuộc đời, khó tránh được, và khó vượt qua con đường đi dến tốt đẹp. Đó là bạn kết duyên với các tuổi: Kỷ Sửu đồng tuổi, Ất Mùi, Tân Sửu, Đinh Mùi.
Những tuổi nầy kết duyên không hạp, có thể phải sống trong sự nghèo khổ suốt đời.
Những năm mà bạn ở vào tuổi nầy, bạn không nên kết hôn, vì những năm xung khắc tuổi. Nếu bạn kết hôn sẽ sanh ra cảnh xa vắng triền miên hay ít ra cũng có lo âu về việc chồng, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 17, 21, 23, 29, 33, 35 và 41 tuổi.
Ở vào tuổi nầy không nên kết hôn, vì không thành hay nếu thành thì có thể phải chịu cảnh đã nói ở trên.
Nếu gặp sanh vào những tháng nầy thì tuổi Kỷ Sửu có số đa phu hay ít ra cũng nhiều lo lắng về việc lấy chồng, đó là sanh vào những tháng: 7, 8, 10 và 11 Âm lịch.
Nếu đặt vấn đề làm ăn, hợp tác hay mọi việc gì khác trong cuộc đời, thì nên tránh những tuổi nầy, vì làm ăn hay hợp tác có thể sanh ra nhiều thương đau trong cuộc đời bạn, nếu không bị tuyệt mạng thì cũng mang cảnh biệt ly ở giữa cuộc đời, đó là những tuổi đại xung kỵ với tuổi Kỷ Sửu như các tuổi: Tân Mão, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Quý Mão, Bính Tuất, Ất Dậu. Tốt hơn muốn tránh đi những đau buồn, thì không nên hợp tác hay kết hôn với những tuổi trên.
Gặp tuổi kỵ về tình duyên không nên làm lễ hôn nhân, ra mắt họ hàng thân tộc. Trong gia đình thì phải cúng sao giải hạn cho cả hai tuổi. Về việc làm ăn, kết bạn gặp tuổi kỵ nên tránh xa thì tốt hơn, đề hầu tránh sự thất bại hoặc đau khổ về sau.
Tuổi Kỷ Sửu phải bước qua những năm khó khăn nhứt là những năm mà bạn ở vào số tuổi 21, 24, 28 và 42 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng, vì gặp sự làm ăn thất bại, bịnh tật hay mọi việc khó khăn trong cuộc sống.
Tuổi Kỷ Sửu có những ngày, giờ xuất hành hạp nhứt là ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn; xuất hành làm ăn và đi đúng như trên thì cuộc đời không bao giờ có thất bại, vì giờ, ngày và tháng trên rất hạp với tuổi của bạn nên sẽ mang lại được nhiều thắng lợi.
Từ 18 đến 25 tuổi: Năm 18 tuổi, năm nhiều thử thách trong cuộc đời, nên cẩn thận việc ra đi, xuất hành nhứt là việc đi xa nên đề phòng tai nạn, toàn năm chỉ ở trong mức độ bình thường. Năm 19 tuổi, tình cảm vượng phát, có nhiều triển vọng tốt đẹp về công danh, có tài lộc bất ngờ vào tháng 8 trở đi. Năm 19 tuổi, triển vọng về tình cảm và công danh, phần tài lộc bình thường. Năm 20 tuổi, phần tình cảm phát triển mạnh mẽ, phần tài lộc bình thường, phần công danh có nhiều triển vọng hay. Năm 21 tuổi, năm nầy kỵ kết hôn và không nên đi xa hay mở rộng việc dự tính làm ăn sẽ có nhiều thất bại. Năm 22 tuổi, nhiều hay đẹp trong cuộc đời, có kỵ tháng 4, đề phòng tai nạn, bịnh hoạn bất ngờ. Năm 23 và 24, hai năm chỉ thắng lợi về tình cảm, tài lộc bình thường, công danh nếu có sẽ vượng phát mạnh. Nếu không có vấn đề công danh thì việc làm ăn sẽ thâu được nhiều thắng lợi. Năm 25 tuổi, năm phát đạt về nghề nghiệp, việc làm ăn cũng như tình cảm và công danh.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, có nhiều lo phiền, vào những tháng 5 và 6 buồn nhiều. Năm 27 tuổi, khá về đường danh vọng, năm nầy tạo được nhiều việc may mắn trong cuộc đời. Năm 28 tuổi, có khắc kỵ hay xung khắc về gia đình. Năm nầy sanh con vào tháng 8 trở đi thì khó nuôi. Năm 29 tuổi, toàn năm đều tốt đẹp, có thắng lợi về tiền bạc, nghề nghiệp. Những tháng đầu năm thì rất tốt, làm ăn, danh vọng có nhiều phát triển. Từ tháng 6 trở đi hơi xấu, tháng 11 kỵ đi xa, có hại. Năm 29 và 30, hai năm bình thường không có gì quan trọng xảy ra trong cuộc đời.
Từ 31 đến 35 tuổi: 31 tuổi tốt đẹp, tiền tài tốt đẹp, công danh hay việc làm tạo được nhiều cơ hội thuận tiện phát triển mạnh về nghề nghiệp. 32 tuổi, việc làm ăn cà công danh ngừng trệ, năm nầy có hao tài tốn của hay đau bịnh thình lình. 33 tuổi, năm nầy không được tốt lắm, nên coi chừng bạn bè phản phúc hay có người trong nhà phản, hao tốn tiền bạc nhiều, hãy cẩn thận. 34 và 35 tuổi, hai năm trung bình, không có thất bại và cũng không có thành công.
Từ 36 đến 40 tuổi: Năm 36 và 37 tuổi, hai năm tài lộc điều hòa, gia đình êm ấm, có thể phát triển thêm sự làm ăn trong hai năm nầy thì tốt. Năm 38 và 39 tuổi, hai năm nầy khá tốt về đường tài lộc và tình cảm, có thể gặp nhiều việc may mắn về tiền bạc, kỵ tháng 6 năm 38 và tháng 4 năm 39. Năm 40 tuổi, trọn vẹn và khá hay đẹp, năm nầy sinh con thì tốt, có phát tài.
Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi, không được tốt lắm, năm nầy có hai tháng đại xung khắc, đi xa thì bị nạn, đi gần thì gặp nhiều chuyện chẳng lành, đó là tháng 4 và 7, hai tháng nầy nên cẩn thận đề phòng cho lắm. Năm 42 và 43 tuổi, không được nhiều tốt đẹp, làm ăn tiền bạc hay thua lỗ, việc gia đình có hơi bê bối, hai năm nầy quá xấu, không nên phát triển nghề nghiệp, cũng như về mọi khía cạnh khác. Năm 44 và 45 tuổi, hai năm nầy có triển vọng lên cao, khá tốt đẹp về tài lộc lẫn cả tình cảm. Nếu cố tạo lấy việc làm ăn sẽ giàu to.
Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 và 47 tuổi, khá hay đẹp về vấn đề gia đình, công danh và sự nghiệp ở vào mức trung bình, tài lộc điều hòa, không có nhiều lo âu lắm. Năm 48 và 49 tuổi, hai năm nầy cũng còn khá đẹp không có việc gì quan trọng xảy ra, chỉ nên cẩn thận về bản thân và nghề nghiệp mà thôi. Năm 48 tuổi và 49, hai năm nầy thì tài lộc bình thường, đường nghề nghiệp có cơ hội phát triển, tình cảm êm ấm. Năm 50 tuổi, năm nầy yên vui nhứt, toàn năm đều tốt đẹp.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian nầy vẫn ở trong tình trạng bình thường, cuộc sống khá sung túc và đầy đủ, cuộc đời hoàn toàn sống trong sự giàu sang phú quý. Trừ năm 53 tuổi có xấu vào tháng 6 và 8 mà thôi.
Từ 56 đến 60 tuổi: Năm 56 đến 57 tuổi, có triển vọng về phần gia đình, sự nghiệp, tiền bạc dư dả, con cháu thuận hòa, gia đạo yên vui. Năm 58 và 59, tình cảm êm đẹp, gia đình có nhiều chuyện buồn lo, tiền bạc có hao tài tốn của. Năm 60 tuổi, đề phòng tánh mạng, năm nầy có xung khắc vào tháng 10 trở đi.
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Sửu
Xem tử vi năm mới
Phương Vị: Bắc Đẩu TinhTính: ÂmHành: ThủyLoại: Ám TinhĐặc Tính: Ngôn ngữ, thị phiTên gọi tắt thường gặp: Cự
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 4 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
![]() |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Sao Thiên cơ tại cung Thìn, Tuất là thế lợi, tất có sao Thiên lương nhập miếu cùng tọa thủ. Trí tuệ cao, có tài hoa, thường phải dựa vào trí tuệ để kiếm tiền, sinh tài có đạo đức, có vận thiên tài, thường có tài về kỹ thuật chuyên môn, cần phải biết nỗ lực để sáng tạo và đầu tư, vất vả thì sẽ được đền bù. Sau khi vất vả cần mẫn thì sự nghiệp sẽ thành đạt.
Sao Thiên cơ tại cung Thìn, Tuất là thế lợi, tất có sao Thiên lương nhập miếu cùng tọa thủ. Cung Mệnh không có chủ tinh, cung Thiên di là sao Cự môn nhập miếu và sao Thái dương (cung Dần là thế vượng, cung Thân là thế địa) cùng tọa thủ, cung Quan lộc là Thiên đồng, sao Thái âm (cung Tý: Sao Thiên đồng là thế vượng, sao Thái âm là nhập miếu; cung Ngọ: Sao Thiên đồng là rơi vào thế hãm, sao Thái âm là không đắc thế địa), cung Điền trạch là sao Thiên phủ thế địa.
Sao Thiên cơ trí tuệ, sáng kiến nhiều, tùy cơ ứng biến. Sao Thiên lương thanh cao, có lòng từ bi, vui vẻ khi làm việc thiện. Hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, chủ về rất biết quản lý tiền tài, hành sự có nguyên tắc, có sức hấp dẫn, vui vẻ khi phục vụ, miệt mài, cầu danh coi trọng về cầu lợi, có khi khó tránh khỏi uyên thâm quá ít người hiểu, thích khoe khoang.
Trí tuệ cao, có tài hoa, thường phải dựa vào trí tuệ để kiếm tiền, sinh tài có đạo đức, có vận thiên tài, thường có tài về kỹ thuật chuyên môn, cần phải biết nỗ lực để sáng tạo và đầu tư, vất vả thì sẽ được đền bù, thu nhập nhiều, không phải lo nghĩ về ăn mặc, thích hợp với công việc khoa học kỹ thuật cao, nhân viên nghiên cứu hoặc kỹ thuật chuyên môn, cố vấn quản trị kinh doanh cuối cùng có thể tự mình đảm đương một mặt, thể hiện được thực lực.
Cung Mệnh không có chủ tinh, cần dựa cát tinh khác của bản cung và sao Thái dương, Cự môn của cung đối diện (cung Thiên di) để tổng hợp và luận mệnh. Sao Thái dương, Cự môn cùng tọa thủ cung Thiên di, sao Thái dương quang minh bác ái, dám đảm đương, có trí tiến thủ. Sao Cự môn là ám tinh, thẳng thắn, hay đa nghi, hay tính toán.
Hai sao kết hợp với nhau thì sáng tối giao nhau, thẳng thắn lại cơ mưu, ngang ngược lại hay nghĩ ngợi, yêu ghét thực lòng, quan hệ công chúng tốt, sau khi vất vả cần mẫn thì sự nghiệp sẽ thành đạt, thăng trầm lớn, bất cứ việc gì cũng lo trước tính sau. Năng lực mưu sinh mạnh, có cơ hội thì sẽ dẫn đầu, thường vướng bận vào thị phi.
Sao Thiên phủ tọa cung Điền trạch, có tài sản tổ tiên để lại, đất đai nhà cửa nhiều, có cơ hội xây dựng nhà ở nước ngoài, cuộc sống thoải mái.
Sao Thiên đồng, Thái âm tọa cung Quan lộc, làm việc ít hao tổn tâm trí,có tiềm lực, thích hợp với công việc viết lách. Cùng tọa cung Ngọ, khả năng khai sáng tương đối yếu.
► ## cung cấp công cụ tra cứu ngày sinh con năm 2016 đẹp nhất và hợp tuổi bố mẹ |
![]() |
Sau đây là những lưu ý cơ bản và đơn giản khi bạn muốn trang trí phòng ngủ hợp phong thủy mà còn mang lại cuộc sống an yên hơn cho bản thân. Không như những phòng khác trong nhà, phòng ngủ tuy quan trọng nhưng không cần thiết phải trang trí quá cầu kỳ. Tiêu chí cho việc trang trí phòng ngủ đẹp, hợp phong thủy là để đồ đạc tối giản nhất có thể. Và chúng tôi đã rút ra 3 bước nhanh gọn để giúp bạn có thể hình dung ra cách trang trí phòng ngủ hợp lý:
![]() |
![]() |
![]() |
Đặt tháp Văn Xương trên bàn học để thúc đẩy thi cử đỗ đạt |
Đối với một công ty hay một cửa hàng ngày khai trương là ngày bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi người đều mong muốn công ty làm ăn phát đạt, nên việc chọn ngày tốt khai trương công ty, cửa hàng là điều quan trọng. Sau khi xem được ngày tốt, giờ tốt để khai trương với mong muốn công ty làm ăn thuận lợi, thuận buồm xuôi gió, thì những người chủ thường sửa soạn mân lễ và thực hiện khấn khai trương để mong Thổ thần phù hộ, giúp đỡ cho việc làm ăn của công ty, cửa hành mình. Vậy mâm lễ cúng khai trương cần chuẩn bị những gì và bài văn khấn khai trương như thế nào?
Dưới đây, ## giới thiệu cho bạn cách sắm lễ và văn khấn khai trương theo phong tục truyền thống của nước ta:
Tùy theo từng vùng miền thì có cách chuẩn bị các lễ cúng khác nhau, nhưng một mân lễ cúng khai trương cho cửa hành công ty theo truyền thống thì có những đồ vật sau:
- Một lọ hoa đồng tiền, một mân ngũ quả, 3 đĩa xôi, 3 chén chè, 3 chén nước, 2 cây đèn cầy (nến), vàng bạc đại 2 miếng, 3 nén hương, trầu cau.
- Bánh kẹo, gạo muối, tiều xâu chuỗi 1 xấp.
Nam mô A Di Đà Phật!
Kính lạy:
Quan Đương niên Hành khiển Thái Tuế chí đức tôn thần.
Các Ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
Các ngài Ngũ Phương, Ngũ thổ, Long Mạch
Tài thần định phúc Táo quân, chư vị Tôn thần.
Kính lạy các thần linh cai quản khu vực này.
Hôm nay là ngày… tháng…năm….
Tín chủ con là:…………
Ngụ tại:……………
Thành tâm sửa biện xôi, gà, hương, hoa, quả, lễ vật cúng dâng bày ra trước án. Vì tín chủ con xây cất ( thuê được) một ngôi nhà ở tại xứ này là ( địa chỉ…..)
Tên hiệu cửa hàng………….
(Nếu là cơ quan, công xưởng hay công ty thì khấn: Tín chủ con là………. (Tên người phụ trách cửa hàng, giám đốc hay thủ trưởng) cùng toàn thể công ty)
Hôm nay chúng con chọn được ngày lành tháng tốt sắm sanh lễ vật, cáo yết tôn thần, dâng cúng Bách linh… cúi mong soi xét, ngày khai trương của cửu hàng, khởi đầu việc kinh doanh (sản xuất) phục vụ nhân sinh mại mãi tài vật giúp cho sinh hoạt.
Chúng con xin kính mời Quan đương nhiên, Quan Đương cảnh, Quan thần linh, Thổ địa, Định phúc Táo quân cùng các ngài địa chúa long mạch cùng tất cả thần linh cai quản ở khu vực này.
Cúi xin: thương xót tín chủ giáng lâm hưởng án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con buôn bán hanh thông, làm ăn thuận lợi, lộc tài vượng tiến, nhân vật bình an. Bốn mùa không hạn ách tai ương, tám tiết có điều lành tiếp ứng, cầu gì cũng được, nguyện gì cũng thành.
Tín chủ lạy mời được các vị Tiền chủ, Hậu chủ cùng chư Hương linh y thảo phụ mộc phảng phất ở trong khu vực này, xin hãy tới đây chiêm ngưỡng Tôn thần thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ, vận đáo hanh xương, tài lộc như gió mây tập hội.
Giãi tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
Cẩn cáo.
Tài vị kỵ đè nén: Theo Phong thủy, tài vị không được để bị đè nén, nếu đặt ở đó những cái tủ lớn, những tủ sách nặng hoặc những tủ tường liên hợp… đè xuống tài vị thì sẽ khiến cho tài vận của căn phòng bị tổn thất.
Tài vị kỵ thủy: Có một số người thích đặt bể cá ở tài vị, thực tế như vậy là không nên bời vì vô hình chung đã đặt thần tài đi đến bể nước và biến thành “kiến tài hỏa thúy” rồi. Tài vị kỵ nước, chính vì vậy không nên đặt những thực vật được nuôi dưỡng bằng nước ở nơi đó.
Tài vị kỵ không: Đằng sau tài vị nên có một bờ tường cố định, bởi vì nó tượng trưng cho ngọn núi có thể nương tựa, bảo đảm không có những buồn phiền sau này, như vậy mới có thể tàng phong tụ khí được. Ngược lại, nếu đặt phía sau tài vị là cánh cửa sổ thủy tinh trong suốt, như vậy không những không thể tích lũy được tài phú, hơn nữa còn bị trệ khí, dẫn đến phá sản.
Tài vị ky xung: Phong thủy học kỵ nhất là những góc nhọn đối nghịch, chính vì vậy mà gần những nơi có tài vị không nên có những góc nhọn, để tránh ảnh hưởng xấu đến tài vận.
Tài vị kỵ ô bẩn: Nếu đặt nhà vệ sinh ở tài vị hoặc những đồ vật bỏ đi ở tài vị, điều này sẽ ảnh hưởng đến tài vị, khiến cho tài vị sẽ bị ảnh hưởng xấu, không những khiến tài vị không thể chiêu tài tiến bảo, ngược lại còn khiến cho tài lộc trong nhà bị tổn hao.
Tài vị kỵ âm: Tài vị nên sáng sủa không nên tối, sáng sủa thì sinh khí dồi dào; âm u lại khiến cho không khí nặng nề, dẫn đến trệ tài vận, cần phải hoá giải bằng đèn chiếu sáng.
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Trong tổ hợp tứ trụ, cách tra Thiên Ất quý nhân là lấy can ngày sinh hoặc can năm sinh làm chủ, từ đó xét đến mối liên hệ với các can chi khác của giờ, ngày, tháng hoặc năm sinh.
- Can ngày hoặc can năm là Giáp (hoặc Mậu) gặp chi Sửu (hoặc Mùi) trong tứ trụ
- Can ngày hoặc can năm là Ất (hoặc Kỷ) gặp chi Tý (hoặc Thân) trong tứ trụ
- Can ngày hoặc can năm là Bính (hoặc Đinh) gặp chi Hợi (hoặc Dậu) trong tứ trụ
- Can ngày hoặc can năm là Canh (hoặc Tân) gặp chi Dần (hoặc Ngọ) trong tứ trụ
- Can ngày hoặc can năm là Nhâm (hoặc Quý) gặp chi Mão (hoặc Tỵ) trong tứ trụ
Ví dụ
Người có ngày sinh (âm lịch) là giờ Thìn ngày 27 tháng 2 năm 1993, tổ hợp tứ trụ là: giờ Canh Thìn, ngày Canh Ngọ, tháng Giáp Dần, năm Quý Dậu.
Xét trong tổ hợp tứ trụ, căn cứ vào trường hợp thứ 4, can ngày là Canh (Canh Ngọ) gặp chi Dần (Giáp Dần) của tháng, như vậy cuộc đời người này được Thiên Ất quý nhân phù trợ.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)
Vào những năm Đường Thái Tông ở Trung Quốc có một người tên là Lý Thuần Phong, người Ung Châu, tinh thông thiên văn lịch pháp, có thể “dự đoán cát hung” cực kỳ chuẩn xác, từng nhậm chức Thái Sử Lệnh. Đến những năm Càn Nguyên thời Đường Túc Tông, dòng họ ông có một cụ già tên là Lý Tri Vi, rất giỏi thuật chiêm tinh, xem bói, xem mệnh, bói quẻ, dự đoán họa phúc cát hung, thì ắt nói trúng cả ngày, không sai tý nào. Lão Lý sống tại chợ Tây thành Trường An.
Đương thời có một người họ Lưu, đến kinh thành Trường An muốn nhờ vả cầu quan, nhưng mấy năm không được. Năm nay, họ Lưu thông đồng với bộ lại (cơ quan hành chính cấp bộ thời xưa), dựa vào quan hệ cửa sau, tự cho là có chí thì ắt nên chuyện. Nghe nói lão Lý xem bói cực chuẩn, bèn đến chợ Tây tìm lão.
- Ông lão bốc một quẻ và mỉm cười, nói: “Năm nay cầu mà không được, sang năm không cầu mà tự được.” Họ Lưu không tin, đợi đến khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên không có tên. Sang năm lại đến kinh thành tham gia đợt thi của bộ lại, nhớ lại lời của lão Lý, ông không nhờ vả quan hệ nữa, nhưng không đủ tự tin, lại đến chợ Tây hỏi lão.
- Lão Lý phán rằng: “Năm ngoái ta đã nói rồi, chức quan của ông tất thành, không phải ngờ vực.”
- Lưu Sinh hỏi: “Nếu được làm quan, thì nhậm chức tại đâu?”
- Ông lão phán rằng: “Làm quan tại đất Đại Lương, làm quan rồi hãy đến gặp ta, ta có lời muốn nói.” Khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên tuyển chọn Lưu Sinh làm huyện úy phủ Khai Phong. Lưu Sinh kinh ngạc mừng rỡ, xem lão Lý như thần, rồi lại đi gặp lão.
- Lão Lý phán rằng: “Ông đi làm quan, không cần tiết kiệm, cứ tùy ý thu nạp, ắt không gặp trở ngại. Khi nào sắp mãn nhiệm, ông có thể xin một chức quan, rồi vào kinh thành, ta muốn gieo cho ông một quẻ.”
Lưu Sinh ghi nhớ lời dặn, đến phủ Khai Phong làm huyện úy. Bởi vì xuất thân từ quan gia, được quan trên yêu mến, nhớ lời của lão Lý, ông thỏa sức vơ vét tiền tài mà không lo nghĩ gì. Quan lại trên dưới đều rất yêu mến ông. Hết nhiệm kỳ, ông tích lũy được tới một nghìn vạn quan tiền, bèn đến gặp quan Thích Sử, xin làm quan áp giải tô thuế đến kinh đô. Khi đến Trường An, ông lại tới gặp lão Lý.
- Lão phán rằng: “Trong vòng 3 ngày, ông sẽ được thăng quan.”
- Lưu Sinh không tin, lão phán tiếp: “Tuyệt nhiên không sai, thăng quan cũng tại quận này, đắc được chức quan rồi, ông có thể quay lại gặp ta.” Lưu Sinh rời đi, trong lòng bán tín bán nghi.
Ngày hôm sau ông áp tải tiền thuế đến nộp vào ngân khố, đến trước ngân khố chỉ thấy ở phía Đông Nam có một chú chim ngũ sắc bay lên trên nóc nhà, màu sắc rực rỡ, hàng trăm chú chim xôn xao, kéo đến che kín cả bầu trời.
- Lưu Sinh thốt lên: “Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ!” Nhất thời làm kinh động thái giám trong cung, người trên kẻ dưới đều vây quanh.
- Có người cho rằng: “Đây là chim phượng hoàng!” Chú chim ngũ sắc nghe thấy tiếng ồn ào liền bay đi mất, hàng trăm chú chim cũng dần tản đi.
- Chuyện đến tai Hoàng đế, Hoàng đế cho rằng đây là điềm đại cát, liền truyền lệnh: “Tìm xem ai là người thấy trước tiên, nếu là quan thì thăng một bậc.”
Tra ra thì Lưu Sinh là người thấy trước tiên, liền lệnh cho bộ lại, thăng Lưu Sinh làm tri huyện phủ Khai Phong. Quả đúng nội trong 3 ngày, cũng tại châu này. Lưu Sinh phục lão Lý sát đất, lại đến hỏi lão Lý nên làm quan thế nào.
- Lão phán rằng: “Chỉ cần giống như ngày trước.” Sau khi Lưu Sinh đến nhận chức, vẫn tham lam vơ vét tiền của, lại có được một nghìn vạn quan tiền, sau khi mãn nhiệm tới kinh thành nghe lệnh thuyên chuyển.
- Ông lại đến gặp lão Lý, thì lão phán rằng: “Lần này phải làm một vị quan liêm chính, một đồng cũng không được nhận. Cẩn trọng! Cẩn trọng!”
Lưu Sinh quả nhiên được phong làm huyện lệnh huyện Thọ Xuân. Vì đã quen tham lam vơ vét, sao có thể nhẫn nại được? Đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, bản tính lại nổi lên, ông ta bỏ mặc ngoài tai lời của lão Lý. Không lâu sau, quan trên tước chức của ông, tịch thu tài sản vì tội tham ô.
- Ông lại đến hỏi lão Lý: “Hai lần trước lão chỉ tôi thỏa sức vơ vét, nhưng nay lại bảo không được nhận hối lộ, hai lần đều ứng nghiệm, ấy là duyên cớ làm sao?”
- Lão Lý phán rằng: “Đời trước ông là một thương nhân lớn, có hai nghìn vạn quan tiền. Ông qua đời tại Biện Châu, số tiền đó lưu lạc tại nhân gian. Giờ ông ra làm quan, vốn là lấy lại tài sản của mình xưa kia, nên không coi là tham ô, và được bình an vô sự. Người dân huyện Thọ Xuân không nợ nần ông, hà cớ gì ông lại tham lam quá mức? Nên giờ ông vẫn tham lam vơ vét cho bằng được, thì coi như làm chuyện xấu rồi.” Lưu Sinh khắc cốt ghi tâm lời lão Lý, rời đi mà vô cùng hổ thẹn.
Bói toán không phải là mê tín, vốn đã có từ thời xa xưa. Vì cuộc đời một người đã được định sẵn, người tinh thông Chu Dịch, Bát quái có thể bấm tay mà bói ra được. Bói toán tồn tại chính vì muốn bảo cho con người biết rằng nên sống thuận theo tự nhiên. Các việc tốt, việc xấu con người gặp trong đời đều do nhân duyên, không phải chuyện vô duyên vô cớ. Nếu muốn kiếp sau được sống hạnh phúc, kiếp này phải làm nhiều việc thiện tích đức, không làm việc xấu việc ác. Kỳ thực đây là một bộ phận của văn hóa Thần truyền.
Kỳ thực, xem bói là dùng tiểu đạo thế gian của Đạo gia, suy đoán dựa vào tướng tay, tướng mặt, số mệnh gắn với ngày sinh (sinh thần bát tự), các tín tức mang trên thân người và thường bị hạn chế. Có thể nhìn thấy được tương lai và quá khứ một cá nhân, thậm chí là thấy được những quy luật phát triển của toàn xã hội, hoặc quy luật biến hóa của toàn thiên thể là điều có thực. Muốn vậy phải có công năng mà người ta gọi công năng đặc dị hay công năng túc mệnh thông, đây là một trong sáu công năng đã được thế giới công nhận.
Trong lịch sử có rất nhiều người thấy được thịnh suy, thay đổi của xã hội và viết thành sách, gọi là sách tiên tri, lưu truyền cho đến ngày nay. Chẳng hạn thời kỳ Tam quốc có “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng, triều Tống có “Mai Hoa Thi” của Thiệu Ung, triều Minh có “Thiêu Bính Ca” của Lưu Bá Ôn. Trong lịch sử có những bài thơ tiên tri của các vị hòa thượng, đạo sĩ tu hành đắc Đạo. Họ đều tiên tri rất chính xác về những sự kiện lớn sau này xảy ra trong các triều đại lịch sử. Trong đó đều nói đến giai đoạn mạt kiếp ngày nay khi đạo đức nhân loại bại hoại, dẫn đến cảnh tượng hỗn loạn như ngày nay… Bia đá trên núi Thái Bạch tỉnh Thiểm Tây của Lưu Bá Ôn nói rõ: “Trên đời có người hành đại Thiện, Gặp phải kiếp này không phải bói.”
Ở Việt Nam có các vị Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Qúy Đôn , Phan Bội Châu , Huỳnh Thúc Kháng , Ngô Tất Tố v v uyên thâm nho học , uyên bác Dịch Lý Số … đã dự đoán quốc vận , mệnh nhân vô cùng ảo diệu…
Tác giả của "Thọ mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) hiệu Thọ Mai người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
Trong "Thọ mai gia lễ" có trích dẫn một phần của Hồ Thượng thư gia lễ. Hồ Thượng thư tức Hồ Sỹ Dương (1621-1681) cũng người làng Hoàn Hậu, đậu tiến sĩ năm 1652 tức năm thứ 4 triều Khánh Đức, Thượng thư bộ Hình, tước Duệ Quận công.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc cách xem phong thủy hợp mệnh và tuổi của bạn |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thời gian: tổ chức vào ngày 4 tháng 6 âm lịch.
Địa điểm: huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng là ba vị: Bảo, Lang, Biền (thế kỉ 2 trước công nguyên) là những người có côn trừ ác, làm thuốc chữa bệnh cứu dân.
Nội dung: Lễ hội Nam Trì là lễ nghi tôn giáo tế Thần có từ thời thượng cổ. Lễ hội vừa mang tính tín ngưỡng dân gian vừa là văn hóa cộng đồng làng xã. Thời thượng cổ việc tế Thần phức tạp hơn như phải tế vật sống (Tam sanh). Ngày nay thủ tục này không còn nữa. Sau các Thần ở đây được tôn làm Thành Hoàng nên lễ được tổ chức theo nghi thức tế Thành Hoàng. Đây là lễ hội chung của ba làng Nam Trì, Đới Khê và Bảo Tàng. Lễ hội tổ chức vào tháng 3 âm lịch hàng năm, kéo dài năm ngày: ngày 8/3 quét dọn hai khu đền miếu, rước Thần đến sở Công đồng làm lễ yết cáo xong rước đi các nơi làm lễ tắm Thánh. Ngày 9/3 là ngày lễ chính. Ngày 10/3 làm lễ lại, lễ đón Cao Vương. Ngày 12/3 thì cả ba làng làm lễ tạ. Các ngày tế lễ là các ngày sinh, ngày hóa của các vị Thần Bảo, Lang, Biền, Công chúa, hai vị phu nhân, ngày húy nhật của Thánh phụ Thánh mẫu, ngày Khánh hạ (các ngày 4/6, 8/6 và 12/8), lễ Tam sanh (các ngày Đinh tháng 2, tháng 8). Lễ vật ngày lễ chính gồm trâu, bò, lợn, gà, xôi rượu và bánh mật (trâu, lợn đen tuyền mua của những gia đình vợ chồng song toàn). Hội là ca hát 10 ngày, đánh cờ, đấu vật. Khi rã đám thì ba làng phải cùng dọn đình Ba Xã để rước thần về đó làm lễ. Lễ vật ngày sinh của 2 vị phu nhân là lễ chay gồm hoa quả, xôi, rượu. Các lễ tế khác thì biện lễ tuỳ nghi, thỉnh cả Thánh phụ, Thánh mẫu. Ngày hành lễ cấm mặc quần áo màu tía, kiêng tên húy các vị Thần và Thánh phụ, Thánh mẫu.
Cùng giống như cửa ra vào, cửa sổ làm cho khí lưu thông vào ra nhà dễ dàng hơn. Hướng của tia sáng có thể làm thay đổi năng lượng khí trong nhà, nếu có thế để cả 4 phương 8 hướng đều có ánh sáng vào được trong nhà là lý tưởng nhất.
Thời xưa mọi người xem cửa sổ trời là “cửa long khí xung thiên”, từ nhiều di sản văn hoá dưới đất được khai quật cho thấy, phòng bếp và phòng ăn thời xưa đều được bố trí thống nhất, phòng bếp ở giữa nhà, phía trên có cửa sổ trời cho khói thoát ra.
Trong các ngôi nhà thời hiện đại, lắp một cửa sổ trời có thể cung cấp đủ ánh sáng mặt trời cho bên trong nhà, tạo tầm nhìn của mắt người rộng và thoáng hơn. Người ở trong nhà bình thường có thể cân nhắc để mở một cửa sổ trời, đây là một cách thực tế làm cho nhà có đủ ánh sáng, cách này đặc biệt có hiệu quả với những nhà không có cửa sổ. Ở giữa nhà mở một cửa số trời, nhiều ánh sáng tự nhiên, như vậy là đã sử dụng hợp lý nguồn năng lượng tự nhiên. Nhiều nhà, để thoả mãn nhu cầu ánh sáng đã phải mở cửa sổ trời trên nóc nhà mình, đây là cách làm vẫn thường gặp ở các ngôi nhà kiểu phức hợp. về phong thuỷ, mở cửa sổ trời cũng là một vấn đề cần phải có kiến thức và học vấn và cần được cân nhắc, xem xét kỹ. Trên nguyên tắc, thứ nhất là không được mở ở hai hướng Tây Nam và Đông Bắc, nếu không sẽ gặp đại hung; thứ hai là không được mở quá to, nếu không dương khí quá thịnh, người trong nhà dễ gặp chuyện bất hạnh.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Miệng chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi người, là cơ quan vừa dùng để ăn vừa dùng để nói. Thực ra, miệng cũng là một bộ phận quan trọng trong Nhân tướng học. Miệng biểu thị phúc lộc, vận thế của người đó khi về già cũng như cá tính, quan hệ xã hội, tài vận,... Ví dụ: Một người có miệng rộng thì hoan lộ hanh thông, cả đời phú quý; miệng nhỏ thì chỉ có được rất ít tiền tài; khoé miệng trễ thì sẽ không giỏi giao tiếp,... Vì vậy, trong khi tuyển dụng nhân tài, cẩn hết sức chú ý quan sát hình dạng của khuôn miệng để có sự lựa chọn đúng đắn nhất.
Tục ngữ có câu: "Đàn ông miệng rộng thì sang" nên hiển nhiên miệng rộng sẽ được đánh giá là tướng tốt. Người có miệng rộng thì tấm lòng cũng rất rộng mở, hào phóng, bao dung, thích trao đổi ý kiến với người khác. Họ cũng rất biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của mọi người xung quanh nên được nhiều người quý mến, tin yêu, họ có rất nhiều bạn và còn là một tướng soái đại tài, hữu dụng. Con đường hoạn lộ của họ rất hanh thông, thuận lợi, cả đời phú quý.
Nếu một người có miệng nhỏ, hẹp so vớ ngũ quan thì tính tình sẽ rất lương thiện, hòa đồng, lại có đầu óc hài hước và nói chuyện rất duyên dáng, cuốn hút. Họ biết lắng nghe và tìm hiểu, không tham lam lợi ích cá nhân, không đưa ra những yêu cầu vô lý đối với mọi người nên được nhiều người yêu mến, kết bạn.
Nhược điểm của họ là không giỏi trong quản lý tiền bạc, không dám mạo hiểm nên cũng sẽ không tích lũy được nhiều tiền của, cả đời chỉ có được rất ít tiền mà thôi.
Những người có cặp môi mỏng thì cùng rất thông minh, ham học, biết kết hợp giữa lý thuyết và thực tế. Họ cũng có tư tưởng thống nhất nên sẽ hình thành nên một hệ thống triết học nhân sinh của riêng mình. Kiến thức uyên bác cộng thêm khả năng ăn nói bẩm sinh sẽ giúp họ trở nên rất cuốn hút và có sức ảnh hưởng tới những người xung quanh. Họ rất phù hợp để trở thành nhân viên marketing hoặc diễn giả, những ngành nghề đòi hỏi khả năng ăn nói trơn tru, thuyết phục.
Nhược điểm của họ là khá keo kiệt, đôi khi hay so đo tính toán thiệt hơn. Điều đó sẽ khiến mọi người có cảm giác họ đang tự tư tự lợi và không muốn tiếp xúc, kết bạn.
Nhũng người có cặp môi dày thường tạo cho người khác cảm giác về sự chân thực, đôn hậu. Họ cũng không thích nổi bật, luôn hành động dựa trên cảm giác của cá nhân mình, thiếu lý tính. Họ rất coi trọng chất lượng cuộc sống, thích sử dụng những sản phẩm, đồ dùng cao cấp dù phải chi ra rất nhiều tiền, nên họ cần cố gắng kiềm chế, hơn nữa ở phương diện này. Họ khá bảo thủ trong chuyên tình cảm nhưng cũng không loại khả năng sẽ là người đa tình.
Miệng lệch không phải là tướng tốt, cho thấy người này tính tình không ngay thẳng, trầm tĩnh và có phần thâm độc. Họ có rất nhiều khuyết điểm như luôn muốn tính toán thiệt hơn với người khác, khiến mọi người lâm vào cảnh dở khóc, dở cười, dân gian có câu: "thức lâu mới biết đêm dài; ở lâu mới biêt lòng người có nhân", một thời gian, tất cả mọi người đều sẽ không muốn giao thiệp, kết bạn với họ.Khi xảy ra mâu thuẫn, họ cũng nhất định không nhượng bộ nên sẽ thường xuyên va chạm với mọi người, dẫn đến xung đột gay gắt, khiến sự nghiệp gặp nhiều trở ngại. Ngay khi thất bại, họ cũng không nghe theo lời khuyên của mọi người nên sẽ không có nhiều thành tựu lớn.
Người có hai môi bằng nhau thường luôn tuân thủ nghiêm ngặt mọi quy tắc trong khi làm việc, hành động đúng như kế hoạch đã đề ra, không bỏ qua bước khiến mọi người xung quanh rất an tâm, tin tưởng. Tuy nhiên, họ cũng khá cứng nhắc, không có khả năng ứng biến linh hoạt trong mọi tình huống, ít khi tức giận và cũng không biết điều chỉnh cảm xúc của mình.
Người có môi hình tròn suy nghĩ đơn giản, trong sáng, không toan tính, lúc nào cũng vui vẻ, lạc quan, không vụ lợi, thái độ ung dung tự tại của người này khiến mọi người ngưỡng mộ, hơn nữa người có môi hình tròn còn thích được giúp đỡ người khác, bởi vậy rất được mọi người yêu mến.
Khuyết điểm của họ chính là hơi cứng đầu, thường có tâm lý lo lắng, sợ sệt, bởi thiếu cảm giác an toàn. Thái độ dè chừng này của họ cũng sẽ khiến người khác phái ngại ngùng khi tiếp xúc với họ, từ đó ảnh hưởng sự phát triển của tình cảm.
Người có nếp nhăn ở quanh miệng thích lợi ích vật chất, do vậy họ rất tích cực kiếm tiền họ quan tâm tới bạn bè và coi trọng tình cảm tuy nhiên họ thường phải đau khổ về chuyện tiền bạc và gặp rắc rối trong chuyện tình cảm Về mặt công việc, họ thường gặp nhiêu trắc trở tuy nhiên sự nỗ lực hêt mình trong công việ' cuối cùng cũng sẽ được đền đáp, tức là họ phải trải qua nhiều sóng gió mới có thể thành công. Khi về già, họ dễ để xảy ra sai sót trong quản lý tài chính, do vậy, cần lên kế hoạch cặn kẽ, tỉ mỉ mới không rơi vào tình cảnh khó khăn.
Người có khoé miệng hướng lên thường tích cực lạc quan, gặp phải thất bại cũng sẽ không kêu ca oán thán hay nhụt chí, dù làm việc gì họ cũng rất nỗ lực và ham học hỏi, do vậy họ tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm và tài nghệ. Họ rất tốt với bạn bè, không keo kiệt chuyện tiền bạc, bởi vì mối quan hệ của họ với mọi người rất tốt đẹp. Họ thường gặp may mắn, được quý nhân giúp đỡ, do đó sự nghiệp thăng tiến rất nhanh. Đương nhiên nếu không được quý nhân giúp đỡ thì họ vẫn có thể bước những bước vững chãi trên đường bằng chính đôi chân của mình.
Người khoé miệng trễ xuống thường bảo thủ, cố chấp, không giỏi quan hệ, vụng về trong đối nhân xử thế, thích làm mọi việc một mình, tuy nhiên họ lại có thể dũng cảm phá vỡ quan niệm cũ, họ cũng có thể chịu khổ chịu khó, bởi vậy cần phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian dài mới có thể thành công trong sự nghiệp. Họ kiếm tiền không dễ dàng, do đó cần phải thận trọng trong việc quản lý tài chính, tốt nhất nên lên kế hoạch cụ thể, tránh để xảy ra tình trạng thất thoát tiền bạc do làm ăn thua
Người có nếp nhăn khoé miệng kéo dài xuống phía dưới biết phân biệt thiện làm việc quyết đoán, không thích thay đổi, bởi vậy dễ khiến người khác hiểu lần người cố chấp. Họ rất coi trọng lợi ích vật chất, bởi vậy đôi khi tỏ ra là người thích bới móc, trêu chọc người khác. Họ cũng rất coi trọng quan hệ đối nhân xử thế, có thể tốn sức lực vào việc mở rộng quan hệ tình cảm và các mối quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên, trong quá trình giao tiếp, nếu có ai đó xúc phạm tới họ thì họ sẽ không để ý. Ngoài ra, nếp nhăn khoé miệng kéo dài còn được mọi người cho đó là "nếp nhăn trường thọ", bởi vậy, có lẽ những người có nếp nhăn kiểu này là những người sống rất thọ
Người có môi mỏng, chóp mũi nhọn thích bới móc khuyết điểm của người khác Trong quá trình giao tiếp, họ thường nói những lời lẽ châm chích, giễu cợt người khác bởi vậy họ thường gây chuyện thị phi, khiến người khác có ác cảm, cũng chính vì vậy mà họ thường tự chuốc lấy phiền phức. Họ không giỏi quản lý tài chính, thường ra quyết đoán sai lầm, hơn nữa không được quý nhân giúp đỡ, bởi vậy quanh năm luôn ở trong tình cảnh túng thiếu, thậm chí còn có nguy cơ phá sản hoặc nợ nần.
Người có môi trên nhô ra có tài ăn nói lưu loát, thích tranh luận với người khác để chứng minh quan điểm của mình là đúng đắn, tuy nhiên lời lẽ của họ lại cho họ là người nhỏ nhen, ích kỷ, coi thường người khác, do vậy thường tạo cho người khác ấn tượng kiêu căng tự phụ. Vậy nên, họ không có bạn tri kỷ, quan hệ giao tiếp cũng không tốt.
Người có môi dưới nhô ra tính tình cứng rắn, kiên cường, không thích ỷ lại người khác, bởi vậy họ khá tự lập. Tuy nhiên, do quá chú trọng tới việc theo đuổi lợi ích cá nhân mà quên mất lợi ích tập thể, thiếu tinh thần đoàn kết hợp tác, bởi vậy họ khi dễ tiến xa trên con đường sự nghiệp, mà lại để lãng phí rất nhiêu sức lực. Về mặt tình cảm, họ bồng bột, thiếu chín chắn, khiến đối phương không thể chịu nổỉ, nếu không sửa được tính này thì tình cảm khó mà duy trì được lâu dài.
Người mà hai môi không thể khép khít vào nhau tính tình nóng nảy, vội vàng, dễ xúc phạm tới người khác, hơn nữa rất coi trọng lợi ích, thích giành phần lợi về mình, do vậy không được mọi người yêu mến. Trong phát triển sự nghiệp và quản lý tài chính, người có môi kiểu này thường do dự thiếu quyết đoán, do đó đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội tốt, nhẹ thì khiến cho sự việc không thể thành công, mà nặng thì gây hậu quả nghiêm trọng.
Người có hai môi đều nhô ra tính tình tuỳ tiện, thường không biết phải trái nên dễ đắc tội với mọi người khi giao tiếp, do đó thường mang lại nhiều phiền toái cho bản thân và gây rắc rối cho người khác. Họ rất coi trọng lợi ích vật chất, bị mờ mắt trước đồng tiền, họ thích đầu tư tiền bạc vào kinh doanh song lại thiếu may mắn, do vậy phải chịu thua lỗ mà không được như mong muốn. Vậy nên, việc họ cần làm là lên kế hoạch quản lý tài chính cẩn thận.
Người nghiên cứu thuật số chúng ta cần phải nắm giữ một số kiến thức, phương diện dự đoán, nhưng dự đoán và phong thủy là hai hệ thống khái niệm không giống nhau.
Dự đoán (bao gồm lục sát và ký môn) là một khái niệm thời gian, không gian định điểm, là sự việc đặc thù (cái gọi là “vô sự bất chiêm” chính là đạo lý này), thông qua lắc quẻ và phương pháp khởi cục thời gian không gian mà phán đoán ra động hướng hung cát của sự việc, có tính linh động nhất định và tính phán đoán chính xác thông tin đối với thời gian không gian. Nhưng nó chỉ là phán đoán mà không có sự lợi dụng vá bố cục đối với môi trường. Mà phong thủy học lại là thời gian không gian, địa vận, nhân vận (cũng chính là “thiên địa nhân”), ba điều đó tổng hợp nên bộ môn khoa học dẫn dắt quy hoạch bố cục, nó nặng về quy hoạch và dẫn dắt (khí, phong) mà không phải là dự đoán.
Cái gọi là phong thủy ở trên phán đoán hiện tượng cát hung cũng là đứng ở sự phối hợp ba trong một của toàn bộ môi trường: thiên, địa, nhân. Căn cứ vào sự phán đoán hợp lý của bố cục quy hoạch có ảnh hưởng đến con người, cho nên về căn bản chính là có sự khác biệt định vị lớn.
Chúng ta ngày nay không còn thắc mắc về Tứ trụ có ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân con người như thế nào. Khi đứng trước căn nhà, việc đầu tiên chúng ta phải kiếm tra Tứ trụ của mình có phù hợp với phong thủy của căn nhà hay không. Phối hợp giữa Tứ Trụ và Phong thuỷ là quan điểm của học phái Mệnh lý phong thủy. Học phái này căn cứ vào Bát tự tứ trụ để định đoán cát hung và lựa chọn cách cục phong thủy phù hợp với người cần xem. Nhưng thực ra đây là một quan điểm sai lầm, kết hợp vô căn cứ. Bởi trên quan điểm ứng dụng cá thể vào toàn cục là một cách nhìn phiến diện. Đối tượng nghiên cứu của Phong thủy là hiện tượng tự nhiên, như núi sông, triền gò…. vì thế, không thể sử dụng thông tin cá nhân để định đoán Phong thuỷ khách quan. Nếu có, chúng ta chỉ có thể lựa xem người này có phù hợp với thế cục này không thôi, chứ không thể áp dụng thông tin cá nhân và vào thế cục.
Bát tự tứ trụ là thông tin tiên thiên của mỗi cá nhân khi sinh ra, nó chịu ảnh hưởng của thời gian, không gian tiên thiên. Nếu muốn có sự tác động dễ điều chỉnh thì phương pháp duy nhất là tác động vào hậu thiên, đó là môi trường sống như nhà cửa, quan cánh… Người xưa đã vận dụng những hệ thống lý thuyết vào thực tế và chỉ ra rằng. Thiên – Địa – Nhân là ba yếu tố không thể tách rời, nhưng bản thân chúng lại có những lý thuyết tồn tại tách hạch.
Phong thủy chính là nghiên cứu về “Địa”, là một hộ môn nghiên cứu có hệ thống lý thuyết và đối tượng rõ ràng, việc ứng dụng với cuộc sống là lựa thế đất có phong thủy đẹp dể thỏa mãn nhu cầu mục đích con người.
Còn Bát Tự tứ trụ là thông tin nghiên cứu dự báo về số mệnh của con người. Chúng ta chỉ có thể tìm thế đất tốt, phù hợp với con người, chứ không thể sứ dụng thông tin cá nhân để thay đổi phong thuỷ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Tử Vi nguyên thuộc thổ Quan lộc cung chủ tinh Hữu tướng vi hữu dụng Võ tướng vi cô quân (Sao Tử Vi vốn thuộc thổ Chủ quan tước quyền vị Có bề tôi thì mới hữu dụng Như vua mà không triều đình)
Những sao tá tinh đứng ở đâu ? Ở hai bên hoặc theo tam hợp chiếu gọi là giáp hay hiệp, hoặc đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi đứng giữa hai cung bên có Tả Phụ Hữu Bật Xương Khúc. hoặc Tử Vi cùng Tả Hữu đứng chung một cung, hoặc tam hợp xung chiếu là Tả Hữu.
Tử Vi thiếu Tả Hữu là cô quân. Vua phải có quần thần mới thành quyền lực, mới uy nghi. Quần thần là những sao nào? Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên Mã.
Nếu không có quần thần lại còn gặp nhiều hung tinh tức là đế ngộ hung đồ (vua gặp kẻ cướp) hoặc “quân tử tại dã tiểu nhân tại vị” (vua bị đám gian thần tiểu quân uy hiếp). Đế tinh trở nên vô dụng còn gặp nguy hại nữa.
Hung đồ tiểu nhân là những sao nào? Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Tham Lang, Tuần Triệt. Đừng quên rằng những sao kể trên chỉ là hung đồ tiều nhân đối với Tử Vi thôi. Ở một số trường hợp khác, chúng lại thành cực tốt.
Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: Quần thần khánh hội, phú quí song toàn (vua tôi hợp hội giàu sang) Cách này là cách Tử Vi gặp đầy đủ sao phò trợ, như Tả Hữu làm tướng súy, Thiên Tướng Xương Khúc làm phụ tá, Khôi việt làm quan truyền lệnh, Thiên Phủ làm quan coi kho, binh lương, Lộc Mã làm quan giữ sổ bộ phong chức tước.
Trong “Chư tinh vấn đáp”, Trần Hi Di tiên sinh viết: “Tử Vi là đế hoa ở mọi cung đều có khả năng giáng phúc tiêu tai, hóa giải những hung ác của các sao khác, khả dĩ chế ngự Hỏa Tinh, có năng lực biến Thất Sát thành quyền, hợp cùng với Thiên Tướng, Thiên Phủ đều thành sang quí, nếu không thế lực thì cũng giàu có, dù gặp Tứ Sát phá vẫn xem là trung cục hoặc bình thường chứ không đến mức thấp kém, hạ tiện.
Sang đến “Cổ Ca” lại thấy một câu khác: “Tụ hội với Kình Dương Hỏa Linh biến thành loại ăn trộm, ăn cắp vặt”. Thế là thế nào? Hai câu mâu thuẫn nhau? Thật ra không mâu thuẫn. Tử Vi phải đi cùng với các sao tốt khác đã, rồi gặp Tứ Sát mới là trung cục. còn như gặp toàn sát tinh không tất nhiên thấp kém, hạ tiện.
Trường hợp Tử Vi đứng một mình tại Ngọ cung và Tí cung (đứng Ngọ đẹp hơn) tất có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu lên hội họp, sách gọi bằng cách Cực Ưỡng Ly Minh (Cực là tên gọi khác của Tử Vi, Ly là cung Ngọ). Cách Cực Ưỡng Ly Minh dù không đến nỗi ra cái thân phận cô quân. Chỉ xem thê cung mà thấy nhiều đào hoa tinh thì dễ bị vợ lừa. Vào số nữ thì khác, thường chỉ là chồng kém mình trên địa vị học vấn hoặc tiền bạc. Phủ, Tướng trong cách “Cực Ưỡng Ly Minh” đã góp phần nào cho sự cân bình lực lượng chống với hung sát tinh. Căn cứ vào câu phú: “Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ”, Tử Vi Tí Ngọ gặp thêm Khoa Quyền Lộc thì cán cân lực lượng ngã về Tử Vi, ác thế lực cũng phải nhường bước.
Tử Vi thủ Mệnh an ở Ngọ Không Sát tinh chức có tam công
Tử Vi Thiên Tướng đồng cung (Thìn Tuất) đương nhiên Thiên Phủ chiếu hội, nhưng cách cục này không hay bằng Tí Ngọ Tử Vi hội chiếu Phủ Tướng (Phủ Tướng triều viên). Tử Tướng Thìn hay Tuất hãm vào Thiên La địa Võng khó khăn hơn, nhất là vào số nữ không tránh khỏi vất vả.
Tử Vi Phá Quân, Tử Vi Thiên Tướng thủ Mệnh nữ, việc trăm năm không suôn sẻ, lận đận chồng con. Tử Vi Phá Quân đóng Mệnh bị Liêm Tham Tỵ hoặc Hợi xung chiếu. Tử Vi Thiên Tướng đóng Mệnh, Phu cung Tham Lang hội Liêm Trinh ở Dần hoặc Thân. Liêm Tham là hai sao mang tính chất sắc tình rắc rối, bởi vậy nên vấn đề gia thất không êm.
Bây giờ bàn riêng về Tử Vi Phá Quân. Tử Vi Phá Quân đi cặp chỉ thấy ở hai cung Mùi và Sửu. Phá Quân là sao xung phong hãm trận, đi với Tử Vi được tính như vị tướng dũng mãnh. Tử Vi ra hiệu lệnh, Phá Quân thi hành.
Muốn khống chế Phá Quân, Tử Vi cũng cần một trí lực cao. Do đó Tử Phá đóng Mệnh bất luận nam hay nữ đều là con người quyết đoán, chí phấn đấu sôi nổi, can trường lì lợm, phiêu lưu, không thủ cựu, có đời sống hiếu động nhiều màu sắc.
Số trai Tử Phá dễ đi vào chính giới hay quân giới nếu gặp cơ duyên. Được Hóa Quyền Tả Hữu Kình Dương là thành công. Tuy nhiên cuộc sống bôn ba thăng trầm. Tử Phá ra kinh doanh cũng đắc lực nhưng không bền vì nguyên tắc tiền bạc cần phải an định mới tụ để phát triển lớn.
Tử Phá nữ mệnh, người đàn bà tháo vát, ngang ngạnh, bướng bỉnh, dám làm dám chịu, riêng về tình ái rất tùy tiện, tính dục mạnh. Sách mới có câu:
Tử Phá Tham Lang vi chí dâm Kìa nữ mệnh xem tướng cách cuộc Tử Phá Tham hội ước đa dâm
Tử Phá và Tử Vi Tham Lang (tức các Đào hoa phạm chủ). Nam mạng Tử Phá mà tuổi Sửu, Mùi, Thìn, Tuất vào quân giới chính trị hay hơn các tuổi khác (Qua kinh nghiệm thôi, sách vở không nêu lý do tại sao).
Tử Phá nữ mệnh đối với hiện đại tốt hơn thời xưa vì hiện đại người đàn bà được trọng qua sự nghiệp hơn là qua hôn nhân theo quan niệm tự do phóng khoáng là hạnh phúc.
Về cách Tử Vi Tham Lang đóng Mão và Dậu, cách này cổ thư gọi bằng Đào hoa phạm chủ. Tử Vi là chủ, Tham Lang là Đào hoa. Tham Lang ví như Đắc Kỷ, Tử Vi ví như Trụ Vương. Tham Lang như Tây Thi, Tử Vi như Phù Sai.
Tử Tham nữ mạng đa tình hiếu dâm. Tử Vi nam mạng dễ rơi vào lụy tình, bẫy tình, dại gái, mê gái. Sách có câu: Tử Tham Mão Dậu gặp Kiếp Không, Kình Đà Linh Hỏa thường đi vào đường tu hành. Tu hành nên hiểu theo nghĩa khác nhau. Lão kỹ đầu thiền về già đi tu, hương nhang thờ cúng cũng kể làm thoát tục. Nhiều chồng rút cuộc nằm không cũng kể là tăng. Cả đời toàn gặp thất bại, lấy cho lắm vợ cuối cùng ngồi trơ thân cụ, đây là kết quả của Tử Tham Tứ Sát Kiếp Không trong Mệnh cung của lá số.
Tử Tham Tứ Sát tâm thần sinh ra chán nản thường trực. Không cứ phải cạo trọc đầu hay khoác áo nhà tu mới là thoát tục, mới là tăng lữ. Cách Tử Tham nếu chỉ gặp Hỏa hay Linh tinh tránh được Kình Đà Không Kiếp thì tốt hơn. Trong khi cách Tử Vi Phá Quân gặp Linh Hỏa lại không tốt mà gặp Kình Đà lại hay, như câu phú: Tử Phá thủ Mệnh ngộ Dương Đà, tiện khứ kinh thương (hội Dương Đà vào kinh thương hoạnh phát) Cổ nhân còn đưa ra câu phú sau đây:
Tử Vi ngộ Phá Quân ư Thìn Tuất Sửu Mùi tứ mộ cung, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu (Tử Vi gặp Phá Quân ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi làm bề tôi bất trung, làm con bất hiếu)
Tử Vi Thiên Tướng tại Thìn hay Tuất đều gặp Phá Quân ở Tuất hay Thìn. Còn Tử Vi Sửu Mùi đương nhiên đứng bên Phá Quân. Tử Phá Sửu Mùi vào quân giới, chính trị đạt ước nguyện, hai giới này sự phản phúc bất trung chẳng khác gì chất dẫn hỏa chỉ chờ có lửa liền bốc cháy, bởi vậy không nên dùng người mang số Tử Phá làm tâm phúc.
Tử Vi Thiên Tướng gặp Phá Quân ở cung xung chiếu cũng thế. Chỉ khác nhau ở điểm Tử Phá thì tự mình tạo phản còn Tử Tướng thì nghe theo người làm phản. Một đàng do tham vọng, mộg đàng gió chiều nào ngả chiều ấy.
Còn vấn đề làm con bất hiếu? Bản chất con người Tử Phá không bao giờ chịu ước thúc trói buộc, làm việc chỉ hoàn toàn tự ý, vì lợi hay vì vợ dụ mà bất hiếu do cái lòng ích kỷ và ba phải.
Số nữ Tử Phá thủ mệnh bậc làm cha mẹ phiền lòng hơn Tử Tướng. Số nam ngược lại Tử Phá bướng, phiêu lưu, gây tai tiếng, gây xáo trộn, phá rối kỷ cương nhưng một ngày nào đó thành công. Nam mạng Tử Vi Thiên Tướng, phụ mẫu cung Thiên Lương hãm tại Tị hoặc Hợi. Thê cung Tham Lang bất hiếu nặng hơn như mê vợ mà quên công ơn sinh thành (Thê hội chiếu Đào Hoa), hoặc bỏ quê hương gia đình lưu lạc, hoặc phụ mẫu sớm xa trần thế, muốn ân trả nghĩa đền không được. Tử Vi Thiên Tướng không thành công bằng Tử Phá. Sách ghi câu:”Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú quí hư danh”. Hư danh là không thực, hão huyền.
Nói đến Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung. Cách này hiện lên chỉ ở hai cung Dần và Thân. Phú ghi mấy câu:
Tử Vi Nam Hợi Nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh thân phú quí đồng Tử Vi Thiên Phủ toàn y Phụ Bật chi công Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu Tử Phủ, Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí Câu thứ nhất Tử Vi Nam Hợi không có Thiên Phủ đồng cung, đó là cách Tử Vi Thất Sát với cung xung chiếu là Thiên Phủ. Chỉ có Dần cung mới đứng cùng Thiên Phủ thôi.
Vậy thì số gái Tử Phủ mà tuổi Nhâm Giáp giàu sang là bởi tại tuổi Giáp Lộc Tồn đóng Dần, hội với Hóa Lộc đứng bên Liêm Trinh và Hóa Khoa đứng với Vũ Khúc. Hội đủ Khoa Quyền Lộc: tuổi Nhâm Quyền Khoa ngay tại mệnh và Lộc Tồn nhị hợp từ Hợi.
Câu hai còn như gấm thêm hoa, đã Khoa Quyền Lộc còn cả Tả Hữu càng đẹp, đã sang trọng giàu có còn quyền thế. Câu ba ý chỉ dù không phải là tuổi Giáp Nhâm cũng có đời sống bình ổn vững vàng.
Câu bốn nói Tử Phủ đồng cung tại Thân tốt hơn tại Dần, vì Thân thì Thái Dương Thái Âm đắc địa trợ giúp cho vận trình, trong khi ở Dần, Thái Dương Thái Âm vào thế hãm (chỉ riêng cho tuổi Giáp).
Có một luận cứ đáng ghi nhận nói: Tử Phủ đồng cung hội tụ cả hai chủ tinh Bắc và Nam đẩu, như vậy thái quá nên dễ cô đơn. Trường hợp Mệnh Phụ Mẫu, Phu chịu ảnh hưởng Cô Thần Quả Tú càng nặng dễ ly hôn, góa bụa hoặc sớm khuyết cha mẹ. Chuyển qua cách Tử Vi Thất Sát. Cách này chỉ hiện lên ở hai cung Tỵ và Hợi. Trần Đoàn tiên sinh viết: Tử Vi năng hóa Thất Sát vi quyền. Tử Vi đứng bên Thất Sát thế vị oai nghiêm, hùng tâm vạn trượng, như vị hoàng đế xuất chinh có bầy tướng giỏi.
Tử Vi Thất Sát khả năng hành động cũng như khả năng suy tưởng kế hoạch đều giỏi, tham vọng cao , vào bất cứ lãnh vực nào học vấn, kinh doanh, chính trị, quân sự, kỹ nghệ đều được. Thành tựu lớn hay nhỏ, cao hay thấp còn tùy thuộc các phụ tinh. Nếu nhiều phụ tinh tốt thì chức trọng quyền lớn, địa vị chức nghiệp khả kính.
Tử Vi Thất Sát có Hóa Quyền thế lực càng lớn. Phú nói: Tử Vi Thất Sát Hóa Quyền phản tác tinh tường (Tử Sát mà gặp Hóa Quyền lại thành hay đẹp). Tại sao dùng hai chữ phản tác? Bởi tại Tử Vi không Thất Sát mà chỉ Hóa Quyền tự mình không điều khiển được Quyền sẽ đưa đến hung hiểm Tử Vi hợp với Lộc Khoa Khôi Việt Tả Hữu hơn đứng riêng với Hóa Quyền. Tử Vi Thất Sát thủ Mệnh gặp Tuần Triệt ưu thế bị giảm nhiều, thành công với hư vị, không có thực quyền. Như phú nói: Tử Vi Thất Sát gia không vong, hư danh thụ ấm. Tử Vi Thất Sát vào số Nữ thường được chồng nể vì do tài điều khiển gánh vác. Nhưng Tử Sát nam mạng thì vợ quán xuyến Vai trò Thiên Phủ từ cung xung chiếu của cách Tử Vi Thất Sát chỉ là phụ họa vào cái tốt đã sẵn thôi. Về hình thái và tính nết của Tử Vi có những điểm sau: Tử Vi người đầy đặn, mặt vuông vắn hoặc tròn. Tử Vi có một sở đoản trên tính tình, ưa nghe lời phiến động, khoán nịnh, đôi lúc kiêu căng và dễ phụ hội với kẻ quyền thế, hay biến tâm, bản chất tương đối trung hậu nhưng khí lượng hẹp hòi, thiếu anh hùng bản sắc.Có khuynh hướng năm thê bảy thiếp.
Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có đoạn viết:
Tử Vi viên hội cát tinh lâm Nhị hạn phùng chi phúc lộc hưng Thương nhân đắc ngộ đa tài phú Quan quí phùng chi chức vụ thăng Tử Vi nhập hạn bản vi tường Chỉ khứng tam phương Sát Phá Lang Dân thứ phùng chi đa bất lợi Quan viên lạc hãm hưu kinh thương
Nghĩa là:”Vận hạn gặp sao Tử Vi, thương nhân phát tài, làm quan thăng chức. Tử Vi là sao đem may mắn đến. Nhưng nếu gặp thêm với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì lại không tốt. Kẻ dân giã bất lợi, người chức vị khó khăn.
Sát Phá Tham đây là Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham ở cung vận hạn. Không hẳn gặp những sao ấy sẽ bất lợi với khó khăn. Vì Tử Sát, Tử Phá thường gây ra biến động. Thời xưa con người sợ biến động, nhưng thời nay biến động là cần thiết. Thấy Tử Sát, Tử Phá ở vận trình hoặc tiểu hoặc đại vận mà hay tốt lên thì mừng chứ sao lại lo ngại. Những câu cổ ca trên không lấy gì là đúng cho hiện đại. Về sao Tử Vi còn thấy những câu phú khác không ghi trong toàn thư mà của những nhà tướng số đời sau ghi lại qua kinh nghiệm. - Đế toạ ly cung Tam Kỳ Hình Ấn Khôi Xương Hồng Bật, mỹ mạo tài hung, hạn hữu Cự Sát Đà Linh, Chu Du cam hận mệnh vong (Tử Vi đóng Ngọ hội hợp với Khoa Quyền Lộc, Hình Ấn, Khôi Xương là người tài giỏi, tướng mạo khôi ngô, nếu gặp vận hạn có Cự, Sát, Đà, Linh (Cự Môn, Đà La, Linh Tinh hoặc Thất Sát, Đà La, Linh Tinh) thì giống như Chu Du đời tam quốc nuốt hận mà chết)
- Đế lạc nhàn cung, gia Khúc Xương đa ngôn giảo hoạt (Tử Vi đóng Tí Mão Dậu hội tụ Xương Khúc thì giảo hoạt và ưa nói quá sự thực) Trong khi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: ”Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo” nghĩa là Tử Vi có Quyền Lộc nên danh có của nhưng nếu gặp thêm Dương Đà nữa thì tâm chất bất nhân vô đạo. - Tử Vi mạc phùng Kiếp Không Hồng Đào nhập Mệnh giảm thọ (Tử Vi mà gặp Kiếp Không, Hồng Đào tại Mệnh tất không thọ)
- Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, đế vô quyền nan giải hung tinh hạn ngộ (Tử Vi Thiên Phủ tại Mệnh bị Tuần Không, vua thành vô quyền khó giải cứu cho vận gặp hung tinh)
- Dần mộc, Phủ Vi hội Tam Kỳ, Kình Bật cư lai, Mệnh xuất võ do văn quyền hành cứ phục chúng nhân, mạc phùng Không Kiếp hư vô (Dần cung, Tử Vi Thiên Phủ có Khoa thêm Kình Dương Hữu Bật có văn tài nhưng lại theo nghiệp võ, thành công người đời kiêng nể, nhưng nếu bị Không Kiếp lại thành sôi hỏng bỏng không)
- Tử Phá mộ cung vô ưu họa ách, vận lai Phụ Bật nguyên vọng đắc như cầu, Thân kiêm Hồng Lộc Hóa Khoa khánh hội long vân (Tử Vi Phá Quân ở Sửu Mùi Thìn Tuất không lo những họa tai lặt vặt, tới vận gặp Tả Hữu thì mưu sự thành tựu, nếu cung Thân lại được Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hồng Loan cảnh thêm hay).
- Đế toạ Thiên La Thân cư Triệt xứ, Giáp Kỷ nhân chung niên nan toại chí đa trái thê nhi (Tử Vi đóng Thìn, cung Thân bị sao Triệt án ngữ, tuổi Giáp tuổi Kỷ suốt đời không toại chí, còn khổ vì vợ vì con)
- Tứ Sát Tốn cung, đề huề bảo kiếm, Hỏa Tuyệt nhập xâm đa sát. Hạn hội Hồng Khoa Ấn Mã dị lập chiến công. (Tử Vi Thất Sát ở cung Tỵ gặp Hỏa Tinh và sao Tuyệt thành người đa sát nếu có Hồng Loan, Hóa Khoa, Quốc Ấn, Thiên Mã hội tụ làm võ tướng dễ lập công to)
- Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Long Phượng Khoa Quyền Lộc Ấn, quần thần khánh hội chi cách gia Kình Kiếp loạn thế nan thành đại sự (Cách quần thần khánh hội Tử Phủ Vũ Tướng Long Phượng Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Ấn nếu bị Kình Dương Địa Kiếp gặp thời loạn bất thành đại sự)
- Tử Tham Tả Hữu hội trung Có người con gái trốn chồng theo trai (Ở cách này Tả Hữu biến chất, tuy nhiên Tử Tham Tả Hữu còn phải thêm cả Tang Hổ nữa thì mới liều như thế)
- Tử Tham Khôi Việt phương Đoài Long thần kỳ đảo ai ai cúng dường (Tử Tham đóng ở Dậu cung gặp Khôi Việt dễ đi vào nghề thầy chùa thầy cúng).
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Thiên Không so với Địa Không nhu hòa hơn và có tác dụng khác hẳn. Tính chất Địa Không theo cổ nhân viết: "Tác sự hư không, bất thành chính đạo thành bại đa đoan”-(làm việc coi thường, không theo chánh đạo, thành bại theo nhau).
Nói tóm lại Địa Không chẳng làm điều gì phải. Với Địa Kiếp cổ nhân viết “Tác sự cơ cuồng” (làm việc bừa bãi).
Thực tế kinh nghiệm cho thấy Không Kiếp không hẳn như những lời phê trên đây. Không Kiếp phải tùy thuộc chính tinh chúng đi cùng để mà luận đoán.
Có rất nhiều trường hợp nhờ Không Kiếp mà tốt, biến ra một cách cục kỳ lạ. Tỉ dụ: Thái Dương Thiên Lương gặp sao Xương Khúc Không Kiếp phải đoán là con người có tư tưởng mới lạ, táo bạo nhưng vững vàng, thành công qua nghiên cứu học thuật, đem những điều tân kỳ cho tư tưởng nếp nghĩ. Vậy thì Không Kiếp đâu có xấu.
Cổ nhân ngại Không Kiếp bởi lẽ Không Kiếp ưa làm đảo lộn, đột biến không hợp với xã hội bảo thủ nền nếp. Nhưng hiện tại xã hội luôn luôn chuyển dịch, bảo thủ an định có nghĩa là không phát triển thành trưởng, Không Kiếp hẳn nhiên khả dĩ mang đến lợi ích để thoát khỏi tình trạng thiếu tiến bộ.
Địa Không thuộc âm hỏa, chủ về phiêu lưu mạo hiểm, lên thác xuống ghềnh. Tâm tính bất định, thích biến đổi, đôi lúc mơ tưởng đến mức ảo tưởng, thích khác người, không chấp nhận ý nghĩ gì được coi làm khuôn vàng thước ngọc, sẵn sàng dấn thân, chấp nhận gian khổ.
Địa Kiếp thuộc Dương hỏa, chủ bôn ba, lúc cát lúc hung. Tính tình ngoan cố, cô độc, hỉ nộ vô thường, dám làm dám hành động, không do dự và toàn làm những việc trái khoáy không cần biết thành hay bại, thành thì vui, bại không buồn.
Không Kiếp đều khởi từ cung Hợi mà tính đi để đặt định vị trí. Địa Kiếp theo chiều thuận. Địa Không theo chiều nghịch. Hợi là giờ cuối cùng của một này. Tới Hợi là thời gian của ngày hôm ấy chấm dứt mọi sự mọi vật đều thành bảo ảnh, thành không hư. Không Kiếp tự chỗ không hư ấy mà dấy lên.
Hợi cung thuộc thủy. Không Kiếp thuộc hỏa. Thủy chủ trí, Hỏa cùng chủ trí. Thủy Hỏa giao chiến tất cả đều hủy diệt thành Không, đều hết Kiếp để chuyển hoán thành một tình thế mới tuyệt đối. Nếu không xong thì Kiếp Không qui ẩn tu hành như Chiêu Lý Phạm Thái sau khi thất bại với mưu đồ phù Lê, sau khi Tương Quỳnh Như đã chết.
Không Kiếp là hai sao của thành bại, chứ không phải chỉ có bại thôi. Câu phú: "Mệnh lý phùng Không Kiếp, bất phiêu lưu tất chủ bần khổ”-sai, chỉ luận đoán mới có một chiều.
Địa Không tác sự hư không, hư không đây là thái độ chống đối phủ định ẩn chứa cái can trường muốn thay cũ, đổi mới, mưu vọng này phần bại nhiều hơn phần thắng là lý đương nhiên. Thời xưa quyền lực bảo thủ cực mạnh, không ưa tư tưởng hay hành động có tính cách chống lại truyền thống cho nên nhìn Địa Không bằng con mắt hiềm thù bảo là tác sự hư không.
Địa Kiếp tác sự sơ cuồng, hành động của con người không câu nệ tiểu thuyết, tư tưởng đi ngược với trào lưu thời thượng, dĩ nhiên quyền lực bảo thủ không mấy bằng lòng mà gọi bằng sơ cuồng điên điên chẳng ra đâu vào đâu.
Như vậy những hình dung gán cho Không Kiếp “hư không” và “sơ cuồng” ta nên hiểu theo cái nghĩa “phản truyền thống”, “phản trào lưu” của những hành động không thích ứng với xã hội đã thiết lập trật tự đâu vào đó.
Người có tư tưởng triết học, có khí chất nghệ thuật ngay cả những người trong lĩnh vực khoa học nếu có được Không Kiếp mới thành công đến mức sáng tạo.
Những luận bàn về Tử vi đời nhà Thanh đưa ra thuyết : "Kim Không tắc minh, Hỏa Không tắc phát” nghĩa là Kim gặp Không như chuông đồng rỗng tạo âm thanh, Hỏa gặp Không như lửa được dưỡng khí bốc cháy mạnh. Thuyết này không xuất hiện vào đời Minh. Có thể nó xuất phát từ thời kỳ động loạn của Minh mạt chăng ?
Kim có người cho rằng Kim tứ cục và Hỏa là Hỏa lục cục. Không đúng. Các nhà Tử vi đời Thanh muốn nói về những sao Kim Hỏa gặp Địa Không đó.
Như Vũ Khúc, Thất Sát thuộc Kim hội với Địa Không thường là những số mạng cuộc đời gian khổ cuối cùng thành đạt phấn phát.
Như Liêm Trinh, Thái Dương, Thất Sát (Thất Sát vừa Hỏa vừa Kim) gặp Địa Không do nhẫn nại phấn đấu mà nên công.
Chỉ nói ngộ “Không” tắc minh, tắc phát không nói đến ngộ Kiếp, rõ ràng Địa Kiếp không cùng một tác dụng ảnh hưởng như Địa Không. Điều trên cũng chứng minh rằng cuộc đời nhiều lúc bị tỏa triết, bị đẩy vào chỗ cùng cực đến phải thay đổi lại thành hay về sau, như thi không đậu rồi đi lính mà nên tướng nên tá.
Về Địa Kiếp có những trường hợp nó rất hợp với Tham Lang Hỏa Tinh. Địa Kiếp đem đến biến động đảo lộn để Tham Linh ứng phó mà phấn phát, hoặc Tham Hỏa cũng thế. Đừng câu nệ hay thành kiến, cứ thấy Không Kiếp là đã mang ngay ấn tượng không tốt. Một trường hợp khá đặc biệt: Phúc Đức có Không Kiếp mà Mệnh cung Tham Hỏa hay Tham Linh vẫn kể làm số phát mau.
Không Kiếp đồng cung hay Không Kiếp hội tụ vào Mệnh, hay Không Kiếp giáp Mệnh ảnh hưởng ngang nhau về tốt xấu.
Câu phú Không Kiếp giáp Mệnh vi bại cục không nhất định là với số nào cũng đúng. Câu phú: “Sinh lai bần tiện Không Kiếp lâm Tài Phúc chi hưởng”, không nhất định với số nào cũng thế. Tuy nhiên Tài Bạch mà bị Kiếp Không thì thật hiếm trường hợp tốt vì tính chất keo bẩn.
Địa Không Địa Kiếp có ba thế: a) Đồng cung b)giáp c)hiệp. Không Kiếp đồng cung chỉ thấy ở Tỵ hay Hợi, còn giáp hiệp thì ở mọi chỗ.
Có câu phú: "Không Kiếp Tỵ hợi phản vi giai luận nghĩa là Mệnh có Không Kiếp kể là tốt. Tốt mức nào còn tùy chúng hội hợp với những chính tinh nào? Kiếp Không thường ăn ý với hung tinh hơn cát tinh.
Qua kinh nghiệm rồi qua chứng dẫn sách vở, nhiều trường hợp hai sao Liêm Trinh Tham Lang ở Hợi hay Tỵ mà đứng cùng Không Kiếp rất thành công khi vào lĩnh vực nghệ thuật. Liêm Tham vốn là hai sao đào hoa, Tham là chính đào hoa, Liêm là phó đào hoa, trong khi Không Kiếp lại biểu tượng cho những tư tưởng khác lạ mà nên vậy. Nhưng Thiên Riêu, Đào Hoa, Mộc Dục mà đứng với Không Kiếp lại không biến hoá như trên.
Xin nhắc lại Không Kiếp tuy hơi giống nhau trên tính chất, nhưng có một điểm khác khá tinh tế ấy là : Địa Kiếp chủ về phản trào lưu, Địa Không chủ về phản truyền thống; Địa Không dễ được tiếp thu hơn Địa Kiếp.
Riêng với nữ mệnh mà bị Không Kiếp, nếu đứng trên quan niệm Nữ chủ an định thì Không Kiếp thành phiền vì Không Kiếp vốn gây sự điêu linh do chất phản trào lưu, phản truyền thống ít hợp với đời sống nữ.
Không Kiếp Tỵ Hợi gặp Tướng Mã và hóa Khoa là người can trường, có mưu cơ, công danh càng tốt vào đất loạn thời loạn, Không Kiếp Dần Thân cũng tương tự nhưng không bằng Tỵ Hợi.
Không Kiếp Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù. Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, tâm ý thích lừa gạt. Không Kiếp hãm gặp Hỏa Linh Tuế Kị dễ bị trộm cướp. Không Kiếp Hồng Đào vào số nữ thường gian truân với duyên tình.
Không Kiếp đứng với Hóa Quyền trắc trở công danh. Tại sao đứng với Hóa Quyền lại vậy. Vì tính chất của Hóa Quyền là tích cực và ổn định. Ở đâu có Hóa Quyền thì tính tích cực và ổn định tăng cao. Tính chấp Không Kiếp ngược lại làm thành sự mâu thuẫn với Hóa Quyền.
Dưới đây là những câu phú nói về Địa Không Địa Kiếp:
- Địa Kiếp độc thủ thị kỳ phi nhân
(Mệnh Địa Kiếp đứng một mình luôn luôn cho ý mình là phải. Địa Kiếp độc thủ làm tăng tính phản trào lưu đến mức quá lạm mà nên thế)
- Dần Thân Không Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm vô độ
(Mệnh Dần Thân Không Kiếp thủ chiếu đứng cùng với cát tinh như Tử Phủ Đồng Lương Khôi Việt, Xương Khúc thường lên voi xuống chó)
- Tỵ Hợi Kiếp Không nhi phùng Quyền Lộc hoạnh đạt tung hoành
(Kiếp Không Tỵ Hợi có Quyền Lộc tài giỏi nghênh ngang nhưng cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn chóng)
- Sinh sứ Kiếp Không thủ Mệnh do như bán thiên triết sỉ
(Kiếp Không thủ Mệnh ở Tỵ Hợi Dần Thân là nơi của sao Tràng sinh lên như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen).
- Kiếp Cơ ngộ Hỏa tất ngộ hỏa tai
(Mệnh Thiên Cơ Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu hoặc đồng cung hay gặp hỏa hoạn)
- Nhan Hồi yểu tư do hữu Kiếp Không Đào Hồng Đà Linh tọa thủ
(Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp Không Đà Linh toạ thủ. Số thầy Nhan Hồi làm sao mà biết chính xác thế. Chẳng qua chỉ mượn cái chết yểu của một người tương đối tiếng tăm để đặt cách cho các sao thôi, vì vậy cũng có câu khác:”Căn Xương hãm ư Thiên thương Nhan Hồi yểu triết”)
- Kiếp Không Phục Binh phùng Dương nhẫn lột thượng kiếp đồ
(Mệnh Kiếp Không Phục Binh Kình Dương làm côn đồ kẻ cướp)
- Địa Kiếp chi đan tâm phương lẫm
(Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt son, với thị kỷ phi nhân gần nhau, lòng dạ sắt son đôi lúc cũng vì thị kỷ mà ra)
- Mệnh cung ngộ Kiếp Tham lãng lý hành thuyền
(Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi bất định. Kiếp Tham Ngọ Tí Mão Dậu không phải là Tỵ Hợi)
- Mệnh Không Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học đa thành mạc ngộ Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng hưởng
(Mệnh Không Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính tinh thì học giỏi. Nhưng Mệnh Không Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng Lương. Phá Quân hãm thì khó thọ)
- Mệnh Thân dù có lâm Không Kiếp
Gia Triệt Tuần chẳng khiếp tai nguy.
- Kiếp Không Hình Kỵ Đà Dương
Gian nan bệnh tật mọi đường lo âu
- Tử cung Không Kiếp trùng gia
Binh phùng huyết tán, thai bảo phù hoa
(Cung tử tức có Không Kiếp khó khăn khi sanh nở)
- Phúc cung hãm ngộ Kiếp Không
Họ hàng lắm kẻ hành hung ở ngoài
- Kiếp Không tan sạch ra tro
Đề phòng kẻo phải lộ đồ nam kha
(Vận hạn gặp Kiếp Không hãm phải thận trọng không thì bao thành quả đã tạo dựng mất mát hát)
- Phu Thê Không Kiếp trùng xung
Trải hai ba bộ mới xong cửa nhà.
- Kiếp Không ai nấy khá ngừa
Lâm vào huynh đệ đơn sơ một mình
(Thiếu anh em hoặc xa cách anh em)
- Đà La Địa Kiếp chiếu phương
Gặp Hỏa Linh nạn bất tường chẳng sai
- Tử phùng Không Kiếp hiển gian
Hoặc là tứ sát trong làng gian phi
- Không Kiếp Tỵ Hợi đồng sang
Công danh hoạnh phát phải tường cơ vi
- Mấy người thu ấn triệt hồi
Bởi sao Không Kiếp đứng ngồi không yên
- Cung Quan mừng được Đào Hồng
Thiên Di tối kị Kiếp Không lâm vào
- Kìa ai tiền phú hậu bần
Bởi chưng Không Kiếp chiếu tuấn vận sau
- Đất Tí Ngọ Sửu Thân bó Lộc
Hội Kiếp Không là gốc tàn suy
- Lộc ngộ Không Kiếp đồng qui
Cũng là vô dụng hóa vi cơ hàn.
- Tuế ngộ Không Kiếp vận suy
Cứu tinh Mệnh có Tử Vi mới lành
- Hồng Đào Không Kiếp đồng danh
Ấy phương yểu tử đã dành một hai
(Hồng với Kiếp Không khó công danh phú quí. Đào Hoa Không Kiếp lận đận tình duyên không phải yểu tử)
- Quyền Hao Không Kiếp chớ màng
Kẻ trên biếm loại khỏi đàng công danh
- Địa Kiếp với Hồng sanh phu vị
Cung Mệnh hay duyên ấy trăm năm
- Mệnh xấu duyên dứt tơ tằm
Sinh ly sẽ định loan phòng mười năm
- Triệt Tuần Không Kiếp giao lâm
Mối mang dang dở ba lần mới nên
(Triệt Tuần Không Kiếp vào cung phối)
- Thiên Di Không Kiếp khốn sao
Hồn qui dặm liễu gặp nào người thân.
- Không Kiếp Thiên Tướng gian truân
Khoa tinh niên thiếu giữ tuần đăng khoa
(Đây là Không Kiếp đóng cung Quan Lộc cùng với Thiên Tướng)
Qua những câu phú, qua những luận bàn của sách vở thì Không Kiếp chỉ tốt khi đóng đúng cách và hội hợp đúng cách mệnh cung, còn đóng các cung khác Tài quan Thê Tử Phúc và hiện lên qua vận hạn hoặc giáp hiệp thì không mấy tốt đẹp.
![]() |
Hướng nhà | Vị trí đặt bồn nước |
Nhâm | Tuất |
Tý | Mùi, Khôn |
Quý | Thân |
Sửu | Tỵ, Bính |
Cấn | Bính |
Dần | Hợi |
Giáp | Tuất, Càn |
Mão | Càn |
Ất | Mùi, Khôn, Thân |
Tốn | Tốn |
Bính | Nhâm, Tý |
Ngọ, Đinh | Càn, Hợi |
Mùi | Giáp, Mão |
Khôn, Thân | Cấn, Dần |
Canh | Tuất |
Dậu | Cấn, Sửu |
Tân | Cấn |
Càn | Tuất, Càn |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |