Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Bạn vừa chia tay người yêu? Bạn đang thất tình? Bạn vẫn chưa quên được tình cũ? Hãy áp dụng ngay 6 mẹo phong thủy tình yêu giúp bạn nhanh chóng gạt bỏ quá khứ
6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn vừa chia tay người yêu? Bạn đang thất tình? Bạn vẫn chưa quên được tình cũ? Hãy áp dụng ngay 6 mẹo phong thủy tình yêu giúp bạn nhanh chóng gạt bỏ quá khứ và chào đón tương lai.


6 meo phong thuy tinh yeu nhanh tien cu, don moi hinh anh
 
1. Đặt đồng tâm kết đỏ dưới gối
  Chọn một ngày tốt, tắm rửa sạch sẽ, tĩnh tâm, thành kính đem tâm nguyện của mình kể rõ rồi đặt dây đồng tâm kết đỏ dưới gối. Đềm trăng tròn, khi nằm trên giường, đem tâm sự trong lòng nói ra sẽ mau quên chuyện cũ.   2. Trồng cây xanh   Không cần phải trồng cây lớn, chỉ một chậu cây nho nhỏ cũng có tác dụng phong thủy rất tốt. Tự mình chăm sóc cái cây ấy sẽ tạo cảm giác ấm áp, hạnh phúc và mời gọi tình mới đến mau hơn.

Đeo đá hồ ly phong thủy vừa giữ chồng tốt lại tăng tài lộc
– Chị em đeo trang sức đá hồ ly không những giữ chồng tốt, tăng vận đào hoa, cải thiện tâm trạng mà còn tăng vận may về tài lộc.

3. Sử dụng quần áo, trang sức màu hồng
  Màu hồng được cho là màu của tình yêu, có tác dụng phong thủy vượng đào hoa rất công hiệu. Khi sử dụng những vật phẩm có màu hồng thì phong thủy tình yêu của chủ nhân không chỉ được cải thiện mà tâm ý cũng hiển hiện ra ngoài, tăng cơ hội đến bày tỏ cho những đối tượng đến sau.   4. Trang trí nhà cửa theo phong cách ấm áp   Nội thất nhà đẹp nhưng mang vẻ lạnh lùng, tĩnh mịch sẽ không có lợi cho vận đào hoa của chủ nhân đâu. Thậm chí, người sống lâu ngày còn bị ảnh hưởng cảm xúc, trở nên lạnh nhạt, đạm mạc, xa cách với người khác. Những màu sắc ấm áp, bố cục nồng nhiệt sẽ khiến chủ nhân ôn hòa, vui vẻ và thoải mái hơn. Chuyện buồn cũng nhanh quá, chuyện tốt cũng mau tới hơn. Nhân duyên tốt thì đào hoa mới vượng.   5. Bày trí những vật phẩm phong thủy cát tường   Những vật phẩm phong thủy tình yêu tốt lành như uyên ương, thủy tinh, đồ đôi,… sẽ tạo cát khí cho không gian sống, nâng cấp vận trình tình duyên cho chủ nhân.  
6 meo phong thuy tinh yeu nhanh tien cu, don moi hinh anh
 
6. Đeo bùa chú
  Những loại bùa chú thúc giục tình yêu, chiêu đào hoa có công hiệu phong thủy rất mạnh mẽ. Nếu kết hợp với ngũ hành của bản mệnh nữa thì đặc biệt hiệu quả, nhất định “tống cựu nghênh tân” ngay lập tức. Trần Hồng

Xem Clip Cách đơn giản cởi bỏ nghiệp chướng
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Những điều kiêng kỵ khi đặt ghế sofa

Ghế sofa là đồ dùng thường thấy trong phòng khách mọi nhà. Chính vì vậy, rất cần chú ý tới việc bài trí sofa sao cho hợp lý. Nên đặt ghế sofa trong nhà theo phong thủy để tránh gặp phải những điều không tốt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn vị trí tốt để đặt sofa

Nếu đặt sofa ở hướng cát lợi, gia chủ sẽ được an khang, thịnh vượng.

Đối với ngôi nhà hướng Đông, ghế sofa nên đặt ở hướng chính Đông, Đông Nam, chính Nam, chính Bắc của phòng khách. Đây được coi là 4 hướng tốt.

Đối với ngôi nhà hướng Tây, sofa nên đặt ở hướng Tây Nam, chính Tây, Tây Bắc và Đông Bắc của phòng khách.


Ghế sofa phải hoàn chỉnh
 

Phong thủy coi trọng sự cân đối và hài hòa nên việc lựa chọn hình dáng sofa để bài trí rất quan trọng. Không nên bày 1 nửa bộ hoặc dùng kết hợp 2 loại sofa với hình dạng khác nhau như vuông và tròn.

Phía sau sofa nên có chỗ dựa

Nếu đằng sau sofa là cửa ra vào, cửa sổ hay lối đi, có nghĩa là không có chỗ dựa -điều này đi ngược quan niệm của phong thủy về vai trò của việc "hạo sơn" (tựa núi). Ngoài ra, xét từ góc độ tâm lý học, khi phía sau sofa là khoảng trống sẽ tạo cho người ngồi có cảm giác bất an.

Nếu đằng sau sofa không có tường để dựa thì bạn có thể đặt ở đó 1 chiếc tủ thấp hoặc 1 tấm bình phong để hóa giải.

Phía sau sofa không nên có nước
 
Nếu sau ghế sofa là bể cá, tiểu cảnh ướt (không phải tiểu cảnh khô)... sẽ không tốt vì chúng thuộc hành Thủy, thể hiện sự luân chuyển, bất ổn. Trong trường hợp này, nên thay thế sự hiện diện của hành Mộc thông qua việc bài trí chậu cây cảnh sau sofa sẽ tốt hơn cho vận khí của gia chủ.


Phía sau sofa không nên để gương

Đây là điều cấm kỵ bởi khi có người ngồi trên sofa, phần gáy của họ sẽ bị người bên cạnh hay người ngồi đối diện nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu đặt gương ở bên cạnh chứ không phải đằng sau sofa thì không sao.

Không nên đặt sofa dưới xà ngang

Nếu phía trên giường ngủ có xà ngang thì chỉ người nằm trên giường bị ảnh hưởng xấu. Nhưng nếu trên sofa là xà ngang thì sẽ ảnh hưởng đến tất cả các thành viên trong gia đình.

Không nên đặt sofa dưới đèn

Nhiều gia đình thường lắp thêm đèn chùm trong phòng khách để trang trí và tăng cường ánh sáng. Tuy nhiên, không nên đặt sofa bên dưới đèn chùm vì sẽ khiến người ngồi trên ghế dễ rơi vào tình trạng căng thẳng thần kinh. Nếu không thể dịch chuyển vị trí của sofa thì nên lắp đèn treo tường thay vì đèn chùm.

Sofa không nên đối diện cửa chính

Khi sofa và cửa chính đối nhau tạo thành 1 đường thẳng, phong thủy gọi là “đối xứng”, là điều không tốt. Nếu gặp phải tình trạng này thì tốt nhất bạn nên chuyển dịch sofa lệch khỏi cửa. Nếu không thể dịch được thì nên sử dụng bình phong. Làm như vậy, khí từ ngoài qua cửa chính vào nhà sẽ không ảnh hưởng đến người ngồi trên sofa.
 

(Theo KTNX)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều kiêng kỵ khi đặt ghế sofa

30 điều kiêng kị nên tránh vào ngày đầu năm mới

Người Việt quan niệm, những ngày đầu năm mới nếu gặp nhiều điều tốt thì sẽ may mắn cả năm và ngược lại. Xuất phát từ quan niệm đó nên từ xưa trong dân gian có rất nhiều kiêng kỵ trong năm mới. Dưới đây là 30 điều kiêng kỵ trong ngày Tết bạn nên biết và tránh.
30 điều kiêng kị nên tránh vào ngày đầu năm mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2. Không đổ rác ngày mồng Một.

Phong tục này xuất phát từ câu chuyện của người Trung Quốc. Truyện kể rằng ngày xưa có một người lái buôn được Thủy thần tặng một nàng hầu tên là Như Nguyệt. Kể từ khi có nàng hầu này về nhà, ông ta bỗng trở nên giàu có. Đến một năm, đúng ngày mùng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi, bị ông chủ đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ nên nàng tủi thân, biến vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ đấy, ông ta trở lại nghèo khó. Nên người Việt Nam quan niệm nếu đổ rác ngày mồng Một thì cũng hết tài lộc của gia đình.

3. Không cho lửa đầu năm

Lửa tượng trưng cho đỏ, cho sự may mắn nên vào những đầu năm, mọi người đều kiêng kỵ cho lửa người khác.
Không cho lửa và nước trong ngày đầu năm​

4. Không cho nước đầu năm

Nước là một trong những nguyên tố khởi nguyên của vũ trụ nên người Việt Nam quan niệm, nước tượng trưng cho sự sinh sôi ” Tiền vào như nước”. Hình ảnh nước đầy ăm ắp tượng trưng cho sự may mắn, sinh sôi, mát lành

5. Không đi chúc Tết sáng mồng Một

Người Việt Nam thường tránh đi chúc Tết sáng đầu năm vì không muốn xông đất nhà người khác. Với người Việt Nam người xông đất rất quan trọng, ảnh hưởng đến cả gia đình trong một năm. Ngày mồng một Tết người Việt Nam thường chỉ đi thăm họ hàng, người thân.

6. Không làm đổ vỡ đồ dùng

Người Việt Nam quan niệm đổ vỡ đồ dùng trong nhà như bát đĩa, ấm chén, gương trong ngày đầu năm báo hiệu cho sự chia lìa, đổ vỡ nên rất kiêng kị.

7. Không tranh cãi, bất hòa

Vào những ngày Tết, mọi người thường cố giữ hòa khí, không tranh cãi, gắt gỏng dù có khó chịu đến thế nào. Người lớn tránh quát mắng, trẻ con không khóc lóc để giữ cho hòa khí một năm luôn vui vẻ, hòa thuận.8. Không mặc quần áo màu đen- trắng
Với người Việt Nam, màu đen- trắng tượng trưng cho sự tang tóc nên vào ngày Tết thường tránh mặc quần áo nhiều màu đen hoặc trắng. Những ngày Tết, mọi người thường mặc quần áo nhiều màu sắc, tươi trẻ để mong muốn một năm mới may mắn, vui vẻ.

9. Không vay mượn đầu năm

Ngày đầu năm đều tránh cho vay, đi vay, đòi nợ hay trả nợ.Vì theo quan niệm, nếu đi vay thì cả năm sẽ túng thiếu cùng quẫn còn cho vay thì tiền bạc phân tán, không được may mắn, phát đạt.

10. Không xuất hành ngày mồng Năm

Ngày mồng Năm là ngày nguyệt kị, người Việt thường không xuất hành đầu năm vào ngày này. Dân gian có câu “mùng năm, mười bốn, hai ba; đi chơi còn lỗ nữa là đi buôn”, người Việt tin rằng mùng 5 không thích hợp cho các cuộc du xuân lấy lộc.

11. Kiêng để tang vào ngày mồng Một

Ngày mồng Một là ngày vui của tất cả mọi người nên những nhà nào có tang sẽ được cất khăn tang trong vòng ba ngày, nếu có người mất đúng vào ngày mồng Một thì gia chủ sẽ không phát khăn tang ngay mà để sang sáng mồng Hai, còn nếu nhà có người mất vào ngày 30 thì gia chủ thường thực hiện tang lễ trong ngày hôm đó tránh để sang ngày mồng Một. Những gia đình có tang tránh đi chúc Tết, thăm hỏi người khác.

12. Kiêng nói những điều xui

Những phát ngôn đầu năm sẽ có ảnh hưởng đến những chuyện sẽ xảy ra trong năm. Vì vậy, bạn đừng nên nói những từ xui xẻo như “Chết mất” hay ” Tiêu rồi”,”Hỏng rồi”. Đó là những từ không may mắn, thay vào đó bạn nên nói chuyện với mọi người bằng những từ ngữ dễ chịu, vui vẻ, và những câu mang lại may mắn không chỉ cho bản thân mà cho cả người xung quanh mình.

13. Kiêng treo tranh xui

Không treo những bức tranh như đánh ghen, đi kiện, treo những bức tranh tượng trưng cho sự may mắn, sinh sôi, phát đạt.

14. Kiêng ăn món xui

Ngày đầu năm, người Việt không ăn những món như thịt vịt, cá mè, thịt chó vì theo quan niệm đó là những món ăn không tốt cho năm mới. Ngoài ra, một số vùng không ăn tôm vì sợ… đi giật lùi như tôm. Nếu ăn trong ngày Tết, công việc sang năm sẽ lùi chứ không thể tiến tới.

15. Kiêng mua đồ xui

Dân gian có câu “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”, mua gì đầu năm cũng là một việc rất quan trọng bởi nó là món hàng đầu tiên gia chủ mang về nhà. Món hàng mua đầu năm được coi là mua để lấy hên, lấy lộc, bởi “của mua là của được”. Món hàng này mang nhiều ý nghĩa tâm linh hơn thực dụng. Đầu năm kiêng mua dao, thớt, chày, cối… Người ta hay mua muối ngay sáng sớm mùng Một với hàm ý cả năm đậm đà, ý vị.

16. Xông nhà khi không hợp tuổi

Xông nhà hay còn gọi là xông đất, đây là phong tục tập quán lâu đời của người Việt. Nếu như có một người khách đầu tiên đến chúc Tết gia đình bạn trong năm mới thì người đó chính là người xông đất cho gia đình bạn. Nếu như người đó hợp tuổi với gia đình bạn, hoặc là người luôn gặp may mắn trong cuộc sống thì gia đình bạn sẽ có được nhiều điều may mắn trong năm mới. Vì vậy, những người “nặng vía”, không hợp tuổi với gia chủ đừng nên đến xông nhà ngày đầu năm. Người có tang không nên xông đất nhà người khác để tránh xui xẻo.

17. Đóng cửa sẽ đói nghèo tù túng

Trong dịp Tết, trừ khi phải ra khỏi nhà đi chơi, thăm hỏi… vì theo tín ngưỡng dân gian từ sớm mồng một đến trước ngày rằm tháng giêng, Ngọc Hoàng cùng chư vị thần tiên sẽ giáng phàm du lý từng nhà và nếu đóng kín cổng, các vị coi như sự bất kính mà giận dỗi bỏ đi và cả năm, thậm chí nhiều năm sau gia đình sẽ không được hưởng phúc, sẽ bị đói nghèo, tù túng.

18. Tắm rửa, gội đầu hao mòn kiến thức, phúc lành

Ở nhiều nơi, trong dịp Tết thường kiêng tắm rửa, gội đầu trong ngày Tết bởi e ngại thần tướng hao mòn, kiến thức, tài năng cùng phúc lành đã có trong năm cũ bị trôi sạch. Cũng kiêng giặt giũ vào mồng một Tết vì nó ứng với ngày thủy bá, vị thần của sự sinh sôi, thịnh vượng, việc xả đi nhiều nước sẽ làm tổn phúc lộc.

19. Ngủ dậy muộn, gia đình bất hòa

Ngày Tết, ai nấy thường đi chơi nhiều dẫn đến việc ngủ vùi, dậy muộn tuy nhiên kỵ khách khứa gặp mình trong phòng ngủ, nhất là ngồi lên giường của nhà vì nó dẫn tới việc phải thức khuya, bị mất các bí mật phòng the hay bất hòa, đổ vỡ hạnh phúc, hôn nhân… Cũng kỵ việc ngủ nướng vào Tết khiến đầu óc mê muội, cả năm sức khỏe suy yếu, người hay mệt mỏi, lười biếng. Vào đêm 30, trẻ em thường thức rất khuya như một lời chúc ông bà, cha mẹ sống lâu.

20. Dùng vật nhọn, sắc cắt đứt lương duyên

Đầu xuân, tránh dùng các vật nhọn và kỵ các vật sắc chĩa vào nhà bởi nó có sát khí, có thể cắt đứt lương duyên, vận hội, tuổi thọ của gia chủ. Để khắc phục, mọi người thường cất bớt dao kéo đi, chỉ chừa lại cái cần dùng. Và treo gương bát quái nhằm hóa giải hung tính, hay dán bùa phù, đặt hình tứ linh trấn địa, trừ tà, thu hút khí lành.

21. Ăn dở, bỏ thừa cả năm mất mùa, đói khát

Dù món ăn ngày Tết thế nào, cũng tránh ăn nhè, nhả bã, bỏ phí, nếu không cả năm sẽ bị mất mùa, đói khát… Đặc biệt tránh để thừa cơm, gạo khiến sau này lấy phải người chồng/vợ bị rỗ nặng. Tránh chống đũa vào bát gây sự chậm trễ trong công việc, thua lỗ khi buôn bán và nếu làm nghề nấu ăn thì rất ít khách. Để chữa lại việc bỏ dở ăn uống, ở các lần sau người ta thường ăn cam, dưa, xoài, đu đủ… nhờ có màu đỏ hồng, vị ngọt thơm sẽ mang lại sự may mắn và thành công… Trẻ con thường được khuyên không ăn chân gà tránh viết xấu như gà bới, văn phong cẩu thả, lại hay gây lộn

.22. Kiêng mở tủ vào mùng Một

Dù là loại tủ gì, kể cả tủ quần áo, cũng không nên mở vào ngày mùng 1 Tết, bởi việc này sẽ làm thất thoát tiền tài và vận may suốt cả năm. Vì thế, người xưa thường chuẩn bị sẵn quần áo cần mặc, treo ra ngoài trước giao thừa.

23. Kiêng ăn đuôi cá

Ở miền Bắc có một số nơi cầu may năm mới bằng việc ăn cá chép – loài cá vượt vũ môn hóa rồng. Nếu ăn cá chép trong ba ngày đầu năm mới thì trong năm đó sẽ được hanh thông trong chuyện học hành, thăng tiến. Tuy nhiên, nhằm tăng sự may mắn, người ta tránh ăn phần đuôi, để luôn có dư thừa, tích lũy của cải trong năm mới, chứ không chỉ đủ ăn đủ mặc.

24. Kiêng trượt chân, vấp ngã

Trẻ con, thanh niên thường được người có tuổi dặn dò phải đi đứng cẩn thận, ngay ngắn trong ngày Tết, tránh trượt chân, vấp ngã vì như vậy sẽ bị dông cả năm. Trượt chân hay vấp ngã tượng trưng cho sự xui xẻo, trục trặc trong công việc.

25. Kiêng ngồi hoặc đứng trước cửa

Việc đứng hay ngồi án ngữ trước cửa chính trong dịp năm mới không chỉ vô duyên mà còn được coi là hành động gây phương hại đến vượng khí gia đình. Luồng khí tốt lành của năm mới trên đường vào nhà sẽ bị chặn lại, hao tán đi, khiến gia đình đó không được may mắn, thành công, hạnh phúc.

26. Kiêng vỗ vai, quàng vai người khác

Hành động thân mật, bỗ bã này nếu được bạn thực hiện trong những ngày đầu năm mới thì rất có thể gây ra sự khó chịu, thậm chí phản ứng tiêu cực. Nhiều người cho rằng khi bị người khác vỗ vai, quàng vai vào dịp Tết, họ sẽ bị xui xẻo, gặp chuyện buồn về tình duyên hay hạnh phúc gia đình.

Thật ra ngay cả trong những ngày bình thường, nhiều người Việt đương đại cũng tránh tối đa việc bị người khác vỗ vai hay quàng vai.

27. Kiêng chúc Tết người đang nằm ngủ

Ngày xưa đất tuy rộng nhưng không phải gia đình nào cũng có nhà to để phân ra thành phòng ngủ, phòng ăn, phòng khách. Vì thế không hiếm trường hợp, khách đến nhà chúc Tết vào sáng mùng một, thấy vẫn có người nằm ngủ do phải thức khuya vào tối giao thừa. Đã đến nhà người ta thì phải xởi lởi mà chúc Tết, thế nhưng họ không chúc người đang nằm ngủ đó. Nếu không, lời chúc tốt đẹp lại bị xem như lời trù ẻo, muốn cho người ta phải nằm li bì trên giường bệnh.

Vì thế, nếu có lòng, khách phải đợi đến khi người đó ngủ dậy mới nói ra lời chúc với họ.

28. Kiêng đánh thức người khác trong ngày mùng 1 Tết

Gặp trường hợp đi chúc Tết nhà người ta, muốn dành lời chúc cho người đang ngủ nhưng không thể đợi lâu, tốt nhất là vị khách nên chờ dịp khác chứ không được đánh thức anh ta dậy. Không chỉ khách, ngay cả người nhà cũng không nên đánh thức ai trong ngày này, mà phải để người ta tự dậy. Nếu không, người nằm ngủ đó sẽ phải chịu sự thúc giục của người khác trong công việc quanh năm.

29. Kiêng để cối xay gạo trống vào ngày đầu năm

Một số vùng quê Nam bộ tin rằng việc để cối xay gạo trống đầu năm sẽ đồng nghĩa với việc thất bại, mất mùa trong năm tới.

30. Kiêng tặng quà

7 món quà tuyệt đối không nên biếu, tặng trong ngày tết: đồng hồ, dao, kéo, cá mực, cà phê, hạt tiêu, hay mèo… là những món quà tuyệt đối không nên tặng trong ngày Tết.

Cuối cùng, mỗi vùng miền sẽ có những phong tục, kiêng kỵ khác nhau nhưng trên là những điều kiêng kỵ chung bạn cần biết và ghi nhớ để đón một năm mới an lành, sung túc và phát tài phát lộc. Chúc bạn và gia đình năm mới hạnh phúc, an khang, thịnh vượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 30 điều kiêng kị nên tránh vào ngày đầu năm mới

Những mẹo phong thủy giúp vợ chồng hòa thuận nhà cửa yên ấm

Dưới đây là một số mẹo phong thủy, giúp hóa giải những mâu thuẫn, khúc mắc trong gia đình mà người vợ nên biết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Trong gia đình nào cũng có lúc vợ chồng cơm không lành canh không ngọt, đôi lúc thì chẳng sao nhưng hiện tượng ấy cứ tiếp diễn mãi cũng có thể là chuyện không lành. Dù người vợ có giỏi giang, đảm đang hay ngoan hiền thì vẫn chưa đủ. Vậy có cách nào khắc chế được những mẫu thuẫn, giúp người chồng luôn nghe lời vợ, luôn cảm thông và thương yêu vợ không?

Vật phẩm phong thủy

Bày trí đồ vật thiên về bên phải

Người xưa thường có câu, “ nam tả nữ hữu”. Chẳng hạn nếu như trong phòng khách nhà bạn, phía bên trái đặt một cái tủ cao nhưng bê phải thì trống không, như vậy sẽ gây nên mội mối quan hệ cảm ứng, tức là người chồng ngày càng trở nên tự phụ, coi thường vợ. Muốn hóa giải điều này thì các bà vợ nên bày biện thêm các đồ vật bên phải nhiều hơn, sắp xếp lại các vật dụng trong phòng ngủ, phòng khách, sau cho phía bên phải nhiều hơn bên trái.

Vợ nằm bên ngoài, chồng nằm bên trong.

Thông thường, người chồng hay nằm phía bên ngoài, như vậy càng tăng thêm trách nhiệm của họ là bảo vệ gia đình hơn. Nhưng nằm bên ngoài thường gần cửa, nghĩa là tiếp xúc với sự đào hoa, hay có xu hướng ở bên ngoài nhiều hơn ở nhà. Vì vậy, để người vợ quản lí mọi việc trong gia đình thì người chồng nằm phía trong, vợ nằm phía ngoài.

Bếp có chỗ dựa

Bếp là tượng trưng cho người phụ nữ trong gia đình, vậy nên đằng sau bếp cần có một bức tường vững chãi với ý nghĩa rằng người vợ luôn đáng tin và có khả năng làm chủ mọi công việc trong gia đình. Tuy nhiên, nếu đằng sau bếp có chỗ dựa mà có cả cửa sổ thì coi như cũng như không có. Khi đó lời nói của người vợ dường như không có giá trị. Vậy nên việc sắp xếp và bố trí sao cho phong thủy nhà bếp hài hòa và làm tăng vượng khí cho ngôi nhà rất quan trọng. Bạn có thể tham khảo thêm cách bố trí phong thủy nhà bếp tại đây.

Phòng ngủ tránh đối diện đường xe chạy

Nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với những gia đình có hướng phòng ngủ ngay tại tầng 1, xung quanh phòng ngủ có đường xe chạy thì người chồng có xu hướng đi ra khỏi nhà và hay rong chơi. Nếu nhà bạn có hiện tượng này thì người vợ nên dùng một số vật phẩm phong thủy như gỗ đào hay kính long phượng để giải trừ.

Phòng vệ sinh không nên làm 2 cửa

Phòng vệ sinh là một nơ khá riêng tư nên nếu có hai cửa thì khiến gia chủ có giảm giác bất an, không được an toàn, người vợ khó kiểm soát chồng. Đây là môt lỗi khá nghiêm trọng trong phong thủy nhà vệ sinh và phòng tắm.

Nên đặt quần áo của đối phương dưới gối

Những vật dụng đơn giản như khăn tay, khăn mặt hay những vật dụng nhỏ, không ảnh hưởng nhiều đến độ cao và độ mền mại của gối thì các bà vợ nên đặt vào. Việc này sẽ giúp cho khí trường của hai vợ chồng hòa hợp với nhau, càng lâu dài thì tình cảm của hai người sẽ mặn nồng hơn.

Nên đặt một cặp đá sư tử trong phòng

Khi đặt một cặp đá sư tử trong phòng ngủ thì việc người vợ giữ được chồng dễ dàng hơn, thêm nữa người chồng càng yêu vợ, và chiều chuộng vợ nhiều hơn.

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những mẹo phong thủy giúp vợ chồng hòa thuận nhà cửa yên ấm

Xem tướng người hay thất bại trong cuộc sống

Tướng người hay thất bại thể hiện ở trán nhỏ, lông mày thấp, mũi hếch. mắt lớn, Môi mím lại, khóe miệng trễ uống chủ về nghèo hèn...
Xem tướng người hay thất bại trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng người hay thất bại trong cuộc sống. Trong tướng số có nhiều dấu hiệu để nhận biết được số mệnh của người thường gặp long đong vất vả, không bao giờ có thể thành công, làm gì cũng hỏng, có tiền cũng mất, sức khỏe yếu kém, kết cuộc thảm thương.

Đứng về mặt hình tướng, tướng người hay thất bại trong cuộc sống được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây :

– Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa.

– Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn…

– Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt heo thì sẽ chết không toàn thây.

– Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chết non, lộ và có hung quang chủ về chết thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thần thái chủ về khắc thê và hay bị hình phạm.

– Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp, hoặc có gân có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuống thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại, quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ.

– Miệng nhỏ, môi mỏng thường chủ về nghèo hèn.

– Miệng rộng mà lệch, miệng lớn không khép được kín đều chủ về cô đơn, nghèo hèn.

– Môi mím lại, khóe miệng trễ uống chủ về nghèo hèn.

– Khóe miệng có nhiều đường cong chạy vào phía trong miệng, số chết đường chết chợ.

– Tai không có đường vòng tai rõ ràng, tai mỏng, nhọn thì khốn cùng, đen đủi, chết non.

– Đầu lớn nhưng cổ nhỏ: bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số goá bụa, làm vợ bé.

– Mặt lớn, đầu nhỏ: nghèo và tính nết độc ác.

– Thân thể phì nộn cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng: vãn niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng.

– Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm: hậu vận không ra gì.

– Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của cơ thể: nghèo hèn không con cái.

– Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt: hay bị hình phạm.

– Ngay giữa sống mũi có một lằn sâu chạy xuyên qua phần giao thoa giữa hai lông mày lên tới giữa trán, sống mũi cao gầy trơ xương: khổ sở, tai nạn.

– Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ: hình khắc.

– Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên: trung niên phá tán, long đong vất vả.

– Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng: bực dọc lo lắng uất ức suốt đời.

– Xương lộ, thịt xệ: thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn.

– Đầu quá nhỏ: bần tiện, ngu độn.

– Mắt dê: chết thảm hoặc đoản mệnh.

– Môi túm cong lên, răng lởm chởm: nghèo túng.

– Yết hầu lộ: khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ.

– Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi: long đong khốn quẫn.

– Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc.

– Lòng trắng mắt pha hồng từ khi còn bé.

– Lỗ mũi hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt.

– Không có bệnh tật nhưng lại hay khạc nhổ, dường như trong miệng lúc nào cũng có đờm.

– Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria.

– Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi.

– Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại.

– Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru.

– Bị bệnh hôi nách (ở đây phải hiểu là riêng nách có mùi hôi vì bệnh tật, còn các bộ phận khác không có mới tính. Nếu như vì không năng tắm gội mà toàn thân có mùi hôi hám thì không kể).

Ngoài ra, nhân tâm cũng ảnh hưởng mạnh tới số phận và những người có cách cư xử như sau chắc chắn sẽ là người luôn thất bại:

– Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý.

– Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại).

– Thích châm chích những khuyết điểm của người khác.

– Không có gì đáng cười mà lại cười điên cuồng.

– Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc.

– Hay đưa chuyện đặt điều.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng người hay thất bại trong cuộc sống

8 đại kị phong thủy khu vực bàn ăn cần tránh

Khu vực bàn ăn không chỉ biểu thị cho sự sung túc, giàu có mà còn là sự hài hòa, gắn bó của các thành viên trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong văn hóa truyền thống, bữa ăn gia đình là nơi mọi người gắn kết với nhau sau một ngày bận rộn. Năng lượng của góc ăn uống được tin rằng có mối tương quan trực tiếp đến sự giàu có của gia đình, đơn giản như khi không có tiền thì không có nhiều thức ăn trên bàn. Do đó, cùng với nhà bếp, góc bàn ăn cũng quan trọng không kém. 

 8 dai ki phong thuy khu vuc ban an can tranh - 1

- Bàn ăn đặt trong nhà bếp

Nếu có điều kiện nên chia tách phòng ăn độc lập với nhà bếp. Tuy nhiên, nếu không gian có hạn thì cũng hoàn toàn có thể kết hợp hai nơi làm một. Phòng ăn, cũng như nhà bếp, tối kị lồi lõm, méo lệch.

- Bàn ăn đặt ở cung Cát

Nếu chia phòng ăn làm 9 ô bằng nhau thì bàn ăn nên bố trí ở ô trung tâm. Nếu chủ nhà thuộc mạng "Đông tứ trạch" thì nên tránh để bàn ăn ở hướng Tây, Tây Nam, Tây Bắc và Đông Bắc. Nếu chủ nhà thuộc mạng "Tây tứ trạch" thì tránh đặt ở hướng Đông Nam, Đông, Nam và Bắc. Đặt bàn ăn ở các phương vị thích hợp mang lại tài vận, sức khỏe cho mọi người trong nhà.

- Bàn ăn kị đặt ở vị trí Tây Nam

Sao Nhị Hắc - đại biểu cho bệnh tật, nằm ở vị trí Tây Nam. Phòng ăn liên quan nhiều đến sức khỏe nên tránh đặt ở vị trí này. Nếu không thể thay đổi, chủ nhà cần hóa giải bằng cách đặt tượng kì lân, sư tử hoặc tì hưu. Đầu tượng hướng ra phía cửa phòng.

- Bàn ăn tránh đối diện cửa chính.

Xét về mặt thẩm mỹ, nếu mở cửa ra thấy cảnh mọi người đang ăn cơm thì không hề đẹp mắt chút nào. Nếu phạm phải cấm kị này, gia đình nên đặt một bình phong để tạo không gian riêng biệt.

- Bàn ăn tránh đối diện bàn thờ Phật

Mùi dầu mỡ, thức ăn, thịt cá đại kị ám lên khu vực bàn thờ, đặc biệt là nơi thờ Phật. Bàn ăn của gia đình, do vậy, nên tránh hướng đối diện trực tiếp với vị trí thờ cúng của gia đình.

- Bàn ăn kị đối diện nhà vệ sinh

Phòng tắm, nhà vệ sinh là nơi sản sinh ra nhiều uế khí nên càng kín càng tốt. Góc ăn uống của gia đình tránh trực xung với hai nơi này để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe.

- Bàn ăn tránh dùng mặt kính

Mặt bàn kính mang lại cảm giác lạnh, cứng và dễ vỡ. Mặt bàn lạnh gây cảm giác tê cóng về mùa đông, ảnh hưởng đến tì vị của các thành viên trong gia đình.

- Ghế bàn ăn tránh dùng số lẻ

Bàn ăn là nơi sum họp nên những vật có đôi, có cặp luôn mang lại may mắn. Số lượng ghế bàn ăn nên là 4,6 hoặc 8 cái. Số lẻ, không chỉ khó bài trí, mà còn hung sát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 đại kị phong thủy khu vực bàn ăn cần tránh

Có thật chuyện kiêng cắt tóc đầu năm để tránh xui xẻo?

Kiêng cắt tóc đầu năm là một trong những điều kiêng kỵ mà người xưa thường truyền tai nhau cho đến hiện tại. Vậy thực hư chuyện này thế nào?
Có thật chuyện kiêng cắt tóc đầu năm để tránh xui xẻo?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


  

► Mời các bạn xem thêm: Những phong tục kì lạ trên thế giới
 
Co that chuyen kieng cat toc dau nam de tranh xui xeo hinh anh
 
Theo quan niệm cha ông ta từ xa xưa, ngày đầu năm có khá nhiều điều cần kiêng kỵ như đổ vỡ, ăn mực, thịt chó, xuất tiền..., trong đó có cả tục kiêng cắt tóc đầu năm. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này còn có nhiều ý kiến khác nhau.   Người xưa cho rằng, nếu ai cắt tóc vào ngày mùng 1 Tết âm lịch hay đầu năm thì người đó sẽ không gặp may mắn, thậm chí nhiều tài lộc của năm sẽ tiêu hao, mất mát, gặp nhiều xui xẻo.   Với hơn 10 năm làm nghề cắt tóc, anh Vũ Quang Hiệp (thị trấn Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương) cho biết: “Tôi cho rằng, đây chỉ là quan niệm của người xưa còn trên thực tế thì cửa hàng tôi vào ngày đầu năm vẫn có người đến cắt tóc, làm đẹp. Có thể trong năm họ bận rộn với công việc làm ăn mà chưa kịp tân trang mái tóc nhưng lượng khách những ngày này vắng hơn”.   Theo ni sư Thích Diệu Ngân – Phó trưởng Ban trị sự GHPG TP. Hải Dương: “Từ trước đến nay ngoài đời hay trong đạo Phật tôi chưa thấy có một quy định cụ thể nào về vấn đề này. Đặc biệt, trong giáo lý nhà Phật cũng không nói về cắt tóc vào đầu năm mới. Thậm chí, nhiều năm ngày mồng Một chúng tôi vẫn cạo tóc cho nhau vì trong năm bận làm Phật sự".   Lý giải vấn đề này, ni sư Diệu Ngân cho hay, trong năm mọi người mải lo công việc chưa kịp cắt tóc, làm đẹp cho ngày đầu năm. Vì vậy, khi năm cũ qua đi thì gội bỏ những thứ còn vấn vương bụi trần trên người và cắt tóc gọn gàng để khi đón Xuân cho lòng thanh tịnh.  
Co that chuyen kieng cat toc dau nam de tranh xui xeo hinh anh
 
Ni sư cho biết"Tuy nhiên, có những điều thuộc về phong tục thì chúng ta nên thực hiện để tránh những điều không hay, những việc có thể xảy ra trong năm mới bất lợi cho bản thân và gia đình".
 
Đối với các nhà tâm linh thì những kiêng kỵ này chỉ là truyền miệng và không có cơ sở khoa học. Cũng có một số trùng hợp ngẫu nhiên nên nhiều người coi vấn đề này chỉ đúng một nửa.   TS. Nguyễn Ngọc Mai - Viện Nghiên cứu con người (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) cho rằng, quan điểm tâm linh của người Việt thì tóc là một bộ phận của con người, do vậy, mọi người không muốn cắt bỏ những gì thuộc về cơ thể đầu năm mới là có lý.   Trên thực tế, chưa có khảo sát xã hội học nào chứng minh việc cắt tóc vào đầu năm mới là đúng hay sai. Điều đó cũng lý giải tại sao, có nhiều người hay kiêng kị những việc không nên làm vào đầu năm, đầu tháng, thậm chí không đi thăm phụ nữ sinh nở.   Đây có thể là suy nghĩ của lớp trẻ ngày nay do chịu ảnh hưởng tác động kinh tế thị trường khiến điều được mất, sự hợp tan, thăng tiến chỉ trong giây lát. Vì vậy họ có thể đi lễ, giải hạn và kiêng kỵ nhiều hơn để tìm được sự thăng bằng về tinh thần.   Đi chùa đầu năm vào những ngày này thì cả năm tiền bạc rủng rỉnh, tình duyên viên mãn
Đi chùa lễ Phật đã trở thành một nét đẹp tâm linh của người Việt bao đời nay. Đi chùa không phân biệt nam nữ, nhưng thông thường các bà các mẹ là những người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có thật chuyện kiêng cắt tóc đầu năm để tránh xui xẻo?

Tướng người giàu sang –

Khí trong, tiếng nói vang, trán cao, mắt sáng, mày thưa, tai dày, môi hồng, mũi thẳng, mặt vuông, lưng đầy đặn, thẳng. + Da trơn, bụng to, răng trâu, đi nhu ngỗng, mày thanh tú, mắt nhãn ướt át. + Ngồi vững như tảng đá, đi nhẹ như trên mây. + Người n
Tướng người giàu sang –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người giàu sang –

Gò má nói gì về vận mệnh tương lai

Người có xương gò má lõm xuống thường thiếu dương khí, có tâm địa gian xảo, làm việc dễ bỏ dở giữa chừng hoặc lợi dụng người khác để tiến thân.
Gò má nói gì về vận mệnh tương lai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người có xương gò má lõm xuống thường thiếu dương khí, có tâm địa gian xảo, làm việc dễ bỏ dở giữa chừng hoặc lợi dụng người khác để tiến thân.


► Lịch ngày tốt gửi đến bạn đọc công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Go ma noi gi ve van menh tuong lai hinh anh
Ảnh minh họa

1. Gò má cao và nhọn
  Dù là đàn ông hay phụ nữ, nếu xương gò má cao và nhìn hơi nhọn đều là tướng bần hàn, phá tài. Những người này có tính cách soi mói, thích bới lông tìm vết, phong cách làm việc hung hăng, không biết nói lí lẽ nên dễ bị mọi người ghét bỏ nên khó thành đạt trong sự nghiệp.   Cuộc sống sau hôn nhân của người này cũng không được yên ấm. Phần lớn nữ giới sẽ nắm mọi quyền hành trong gia đình, nam giới thì độc đoán, gia trưởng.   Tuy nhiên, nếu xương gò má cao nhưng thêm đặc điểm là Ấn Đường đầy đặn thì là người tài trí, nhân vật có tiếng tăm, có thể hô mưa gọi gió. Ngoài ra, trong Nhân tướng học, xương gò má chính là hình ảnh tượng trưng cho quyền lực, cho biết vận may của con người ở độ tuổi 46 hoặc 47. Nếu gò má vuông vắn tròn đầy thì tài lộc phát đạt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.
2. Gò má lõm xuống   Người có xương gò má lõm xuống thường thiếu dương khí, có tâm địa gian xảo, làm việc dễ bỏ dở giữa chừng hoặc lợi dụng người khác để tiến thân. Phụ nữ có tướng này thường có số mệnh gian nan, vất vả, cuộc sống hôn nhân gia đình không yên ấm. Đàn ông gò má lõm xuống thì tính tình nhu nhược, thiếu quyết đoán, làm việc không rõ ràng nên khó thành công trong sự nghiệp, dù có quan vận nhưng cũng lên xuống bất ổn.   3. Gò má tròn đầy, sáng sủa   Phần lớn những người có phần gò má đầy đặn, tròn trịa đều có ý chí kiên cường, nhẫn nại, nắm trong tay cả quyền lực và danh vọng, cuộc sống hạnh phúc an nhàn khi về già.    Nếu gò má tròn đầy thêm đầu mũi tròn và nhẵn bóng là tín hiệu cho thấy người này có tài vận hanh thông, được thừa hưởng khối tài sản lớn và biết gìn giữ, phát triển nó một cách bền vững.    Khánh Mai (Theo ZY)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gò má nói gì về vận mệnh tương lai

Chùa Hoằng Pháp - Thành Phố Hồ Chí Minh

Chùa Hoằng Pháp, nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày
Chùa Hoằng Pháp - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hoằng Pháp là một ngôi chùa ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa đã tồn tại hơn nửa thế kỷ. Cho đến nay, chùa Hoằng Pháp nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo ở Sài Gòn và các vùng lân cận đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Chùa Hoằng Pháp thuộc hệ phái Bắc tông.

Lịch Sử: Chùa Hoằng Pháp do cố Hòa thượng Ngộ Chân Tử sáng lập năm 1957 trên một cánh rừng chồi. Sau hai năm khai phá, năm 1959 ông mới bắt đầu xây dựng bằng gạch đinh, hai tầng mái ngói, mặt chùa xoay về hướng Tây Bắc. Năm 1965, chiến tranh tàn phá tại Đồng Xoài, Thuận Lợi làm nhiều người mất nhà cửa. Hòa thượng trụ trì đã đón nhận 60 gia đình gồm 261 nhân khẩu về chùa nuôi dưỡng trong 8 tháng, sau đó mua đất xây cất 55 căn nhà cho đồng bào định cư.

Năm 1968, hòa thượng lại thành lập viện Dục Anh ở đây, tiếp nhận 355 em từ 6 đến 8 tuổi tuổi về nuôi dạy. Nhờ những việc làm từ thiện mà từ đó Phật tử nhiều nơi tụ hội về ngày một đông. Năm 1971, để đủ chỗ lễ bái, giảng đạo, Ngộ Chân Tử xây nối thêm mặt tiền chánh điện dài 28m, tường xây bằng gạch block, mái lợp tole cement.

Năm 1974, với dự định mở làng cô nhi tiếp nhận thêm hàng ngàn trẻ thơ bất hạnh và thành lập đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương, hòa hượng mua thêm 45 mẫu đất tại ấp Phú Đức, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh. Công việc đang tiến hành thì xảy ra sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, số đất đó đã hiến lại cho Ban quản trị khu Kinh tế mới Lê Minh Xuân.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, số trẻ em được thân nhân nhận về, viện Dục Anh giải tán, chùa lại nhận nuôi dưỡng các cụ già neo đơn hoặc vì gia cảnh khó khăn. Năm 1988, Hòa thượng Ngộ Chân viên tịch. Đệ tử của ông là Thích Chân Tính lên thay. Ông thành lập một Ban Hộ tự tại địa phương và mười chúng ở các nơi với hơn 1.000 Phật tử.

Ngày 23 tháng 3 năm 1995, chùa xây lại khu chánh điện. Tháng 3 năm 1999, chùa tổ chức một khóa tu Phật thất 7 ngày đêm, với lượng người tham dự là 70 người. Từ đó đến nay đã tổ chức nhiều khóa tu tương tự, thu hút rất đông đảo Phật tử (mỗi khóa trên dưới 3000 ngừoi, có lúc lên tới 7000 người).

Năm 2005, chùa tổ chức khóa tu mùa hè dành cho học sinh và sinh viên. Năm đầu tiên có hơn 300 em. Năm thứ 2 là hớn 1600 em. Và cho đến nay, chùa đã đón nhận hàng năm gần 6000 em học sinh, sinh viên đến dự tu “Khóa tu mùa hè”. Đến nay,chùa Hoằng Pháp hiện tại được xem là trung tâm tu học Phật Pháp, trung tâm văn hóa Phật Giáo lớn nhất Việt Nam.

Chùa Hoằng Pháp nằm trên khu đất diện tích 6ha. Chùa Hoằng Pháp đã trải qua nhiều giai đoạn tái thiết, nâng cấp. Hiện nay có khuôn viên rộng lớn với nhiều cây cao bóng mát quanh năm.

640px-Tháp_Nhị_Nghiêm
Tháp Nhị Nghiêm

Chùa đã trải qua nhiều giai đoạn tái thiết, nâng cấp. Hiện nay có khuôn viên rộng lớn với nhiều cây cao bóng mát quanh năm. Từ ngoài nhìn vào cổng tam quan, cổng chính đề chữ “Chùa Hoằng Pháp”, hai cổng phụ bên trái đề chữ Từ bi, bên phải đề chữ Trí tuệ.

Kiến Trúc: Chánh điện chùa có chiều ngang 18m, chiều dài 42m, tổng diện tích xây dựng là 756m2, kiến trúc theo lối chữ “công”. Tuy hình thức có mới nhưng vẫn mang dáng vẻ cổ kính của chùa miền Bắc với góc đao cong vút, 02 tầng mái ngói màu đỏ. Toàn bộ nền móng, đà, cột, trần, mái đều đúc bê-tông kiên cố, tường xây gạch, mặt ngoài dán gạch men, mặt trong sơn nước. Nền lót gạch granite nhập từ Tây Ban Nha. Toàn bộ cánh cửa, bao lam, án thờ đề làm bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi.

Tiền điện thờ đức Thích Ca ngự trên tòa sen trong tư thế thiền định, chiều cao khoảng 4,50m. Phía trên chung quanh vách tường là 7 bức phù điêu bằng cement chạm khắc hình ảnh cuộc đời đức Phật từ lúc xuất gia cho đến khi nhập niết bàn. Phía trên và dưới bức phù điêu đối diện với tượng Phật là hai hàng chữ “Phật Nhật Tăng Huy – Pháp Luân Thường Chuyển”.

Trước án thờ là bao lam bằng gỗ điêu khắc hình “Cửu long chầu nguyệt”. Phía trên bao lam là ba cuốn thư cũng bằng gỗ khắc chữ Hán; cuốn ở giữa đề Thiên Nhơn Sư, hai cuốn hai bên đề chữ Từ bi và Trí tuệ. Hậu Tổ thờ cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử, Tổ khai sơn chùa Hoằng Pháp. Và trên tường là hai bức phù điêu miêu tả cuộc đời hành đạo của Ngài. Hai bên tả hữu là bàn thờ chư hương linh.

Đối diện với chánh điện là tượng Phật Thích Ca tọa thiền dưới gốc cây Bồ đề. Phía trước cây Bồ đề là cổng tam quan mới đựơc xây dựng vào tháng 6 năm 1999.

Bên trái chánh điện nhìn từ ngoài vào là tháp “Nhị Nghiêm”, nơi an trí nhục thân cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử. Cách một khoảng là tháp các vị Ni của chùa đã quá cố. Tiếp đến là nhà ăn rộng rãi, thoáng mát có hòn non bộ mới tạo. Song song là dãy nhà dưỡng lão nữ, gồm 10 phòng, mỗi phòng 04 người ở với đầy đủ tiện nghi. Sau cuối là nhà trù.

tam quan
Cổng tam quan chùa

Bên phải chánh điện nhìn từ ngoài vào là vườn cây với thảm cỏ xanh tươi. Sát bờ tre là một hòn non bộ cao hơn 10m rộng 20m nằm trên một hồ nước. Bên trong hồ ngay chính giữa tôn trí tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch trắng cao 5m. Tiếp đến là hòn non bộ nhỏ trong hồ tròn. Sau đó là tháp Phổ Độ, nơi để cốt của thập phương bá tánh. Phía sau chánh điện là Tăng đường, cũng dùng làm giảng đường có thể chứa khoảng trên 300 thính giả. Trước tăng đường là hai bãi cỏ xanh tươi với cây me cổ thụ.

Chùa Hoằng Pháp, nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày, rất được giới trẻ hưởng ứng.

Hàng năm vào ngày 16 tháng 10 Âm lịch, chùa Hoằng Pháp tổ chức ngày húy kỵ cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử rất trọng thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hoằng Pháp - Thành Phố Hồ Chí Minh

Văn khấn tạ năm mới - Lễ hóa vàng

Lễ Tạ năm mới được tiến hành khi kết thúc Tết, còn gọi là lễ Hoá Vàng được tiến hành vào ngày mồng ba Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết.
Văn khấn tạ năm mới - Lễ hóa vàng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo truyền thống xưa, lễ Tạ năm mới được tiến hành khi kết thúc Tết, còn gọi là lễ Hoá Vàng được tiến hành vào ngày mồng ba Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết.

Thông thường các lễ sắm hóa vàng đều đã được chuẩn bị sẵn trong ngày tết, như:

Sắm lễ tạ năm mới

Lễ vật dâng cúng trong lễ tạ năm mới gồm:

  • Hương, hoa, nước, quả (ngũ quả).
  • Trầu cau;
  • Rượu;
  • Đèn, nến;
  • Lễ ngột, bánh kẹo;
  • Mâm cỗ mặn: xôi, gà, bánh chưng, các món Tết đầy đủ, tinh khiết.

Văn khấn tạ năm mới

Nam Mô A Di Đà Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật!

Kính lạy:
– Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn Thần.
– Ngài Đương niên, Ngài Bản Cảnh Thành Hoàng, các Ngài Thổ Địa, Táo Quân, Long Mạch Tôn Thần
– Các Tổ Khảo, Tổ Tỷ, nội ngoại tiên linh.

Hôm nay là ngày mồng Ba tháng Giêng năm…….

Tín chủ chúng con ……………………..

Ngụ tại ……………………………………

Thành tâm sửa biện hương hoa phẩm vật, phù tửu lễ nghi, cúng dâng trước án. Kính cẩn thưa trình: Tiệc xuân đã mãn, Nguyên Đán đã qua, nay xin thiêu hoá kim ngân, lễ tạ Tôn Thần, rước tiễn tiên linh trở về Âm giới.

Kính xin: lưu phúc lưu ân, phù hộ độ trì, dương cơ âm mộ, mọi chỗ tốt lành. Cháu con được chữ bình an, gia đạo hưng long thịnh vượng. Lòng thành kính cẩn, lễ bạc tiến dâng, lượng cả xét soi, cúi xin chứng giám.

Cẩn cáo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn tạ năm mới - Lễ hóa vàng

Kiêng kỵ với bàn ăn

Có nhiều điều cần lưu ý về mặt phong thủy đối với bàn ăn nhà bạn.
Kiêng kỵ với bàn ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn ăn là nơi các thành viên sum họp, quây quần. Nó có ảnh hưởng lớn đến bầu không khí cũng như tâm trạng của mọi người. Vì thế, khi sắp xếp cần lưu ý một số điều sau.

1. Xà nhà không nên trực tiếp đè lên bàn ăn

Khi bàn ăn nằm trực diện ngay dưới xà nhà sẽ gây cảm giác đè nén, nặng nề, khiến tinh thần bất ổn. Vì thế, nên dịch chuyển bàn ăn khỏi vị trí đó. Trong trường bất khả kháng, nên treo quả hồ lô bên dưới để hóa giải.

2. Bàn ăn không nên thẳng với cửa lớn

Phong thủy có câu: "Hỉ hồi toàn, kỵ trực xung" (thích vòng quanh, kỵ thẳng). Nếu bàn ăn phạm phải nguyên tắc này sẽ khiến khí tốt trong nhà dễ dàng thoát ra ngoài. Ngoài ra, nếu bàn ăn thẳng hàng với cửa lớn, chỉ cần đứng bên ngoài có thể nhìn thấy mọi thành viên đang dùng bữa. Điều này cũng không hợp mỹ quan.

Cách tốt nhất là dịch chuyển bàn ăn sang vị trí khác hoặc dùng bình phong, vách chắn ngang để che chắn bớt.

3. Bàn ăn tối kỵ đối diện nhà vệ sinh

Theo phong thủy, nhà vệ sinh là nơi sinh ra khí độc. Nếu để nó đối diện với bàn ăn sẽ tạo tâm lý không tốt khi ăn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe mọi người.

Nếu không thể di dời bàn ăn, nên đặt giữa bàn bồn nước nhỏ. Trong đó đặt chậu trúc khai vận để hóa giải xú khí.

4. Bàn ăn không nên đặt đối diện với bàn thờ

Đây là không gian linh thiêng thờ phụng tổ tiên, thần thánh. Vì thế, không nên sắp đặt bàn ăn tại đây nhằm đảm bảo sự tôn nghiêm, tĩnh lặng cho nơi thờ cúng và mang lại cảm giác tự do, thoải mái cho người ăn.

5. Bàn ăn không nên quá lớn

Một số người thích bàn ăn có kích cỡ lớn. Tuy nhiên, phải căn cứ theo diện tích căn phòng để bố trí cho phù hợp. Ngoài ra, diện tích bàn quá lớn sẽ tạo khoảng cách, khó tạo không khí ấm cúng, quây quần giữa các thành viên. 

(Theo Phong thủy sắp xếp nhà ăn, nhà bếp, phòng tắm)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ với bàn ăn

Màu sắc ánh sáng mang vận may cho gia chủ?

Bên cạnh yếu tố nhà được thiết kế đẹp, thì việc sử dụng ánh sáng một cách thông minh cũng quyết định không gian của ngôi nhà. Hơn nữa màu sắc ánh sáng và đèn sẽ giúp mang vận may đến cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách chọn đèn trang trí

- Nhà có cửa chính ở hướng Đông, Nam và Đông Nam nên chọn những đèn có hình trụ, hình chữ nhật bằng gỗ, với số lượng hoặc 2 cái.
- Nhà ở hướng Tây, Bắc, Tây-Bắc nên chọn đèn có hình tròn, hình trụ bằng kim loại, với số lượng 6 hoặc 8 cái.
- Nhà ở hương Tây Nam, Đông Bắc nên chọn đèn có khung nhôm và số lượng từ 4 hoặc 9 cái.
Màu sắc ánh sáng cho các phòng



- Phòng khách nên dùng nhiều đèn có ánh sáng tốt, có độ phân tán tốt để mang đến không khí và vận may cho toàn bộ ngôi nhà.
- Phòng ngủ nên chọn màu sắc ánh sáng nhẹ nhàng và thoải mái, ấm áp. Riêng phòng ngủ của trẻ nên chọn những đèn có hình dáng độc đáo để khơi dậy trí tưởng tượng của trẻ.
- Nhà bếp vì có yếu tố lửa nên chọn ánh sáng trắng.
- Phòng tắm vì có hơi nước, yếu tố của thủy nên chọn ánh sáng vàng dịu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc ánh sáng mang vận may cho gia chủ?

Sao Thái Âm - Biểu tượng của mặt trăng, người mẹ, bà nội và vợ

Sao Thái Âm là biểu tượng của mặt trăng, người mẹ, bà nội, bà vợ. Thái Âm sẽ tăng thêm vẻ đẹp nếu gặp các sao như Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thái Âm - Biểu tượng của mặt trăng, người mẹ, bà nội và vợ

Sao Thái Âm - Biểu tượng của mặt trăng, người mẹ, bà nội và vợ

Sao Thái Âm thuộc chòm sao Bắc Đẩu tinh (tính Âm Thủy) tên thường gọi là Nguyệt.

Sao Thái Âm miếu địa tại: Dậu, Tuất, Hợi.

Vượng địa tại: Thân, Tý.

Đắc địa tại: Sửu, Mùi.

Hãm địa tại: Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.

Cung mệnh có sao Thái Âm đắc địa, vượng địa hay miếu địa tọa thủ là người có thân hình to lớn, hơi cao, da trắng, mặt vuông vắn, đầy đặn, đẹp đẽ mắt sáng, rất thông minh, tính khoan hòa, nhân hậu và từ thiện, ưa thích văn chương, mỹ thuật được hưởng giàu sang và sống lâu.

Sao Thái Âm miếu địa, vượng địa: Sinh vào ban đêm mới thuận lý, rất sáng sủa tốt đẹp. Nếu sinh vào khoảng mùng 1 tới ngày 15 vào ban đêm là thượng huyền rất rực rỡ.

Thái Âm sẽ tăng thêm vẻ đẹp nếu gặp các sao như Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỷ. Và giảm bớt tốt đẹp khi gặp các sao Thiên Riêu, Đà La, Hóa Kỵ, Kình Dương, Không, Kiếp.

Thái Âm miếu địa, vượng địa mà gặp sao Tuần, triệt án ngữ sẽ bị che lấp đi ánh sáng trở thành mờ ám và xấu xa. Nhưng ngược lại nếu Hãm địa mà gặp Tuần, triệt án ngữ thì lại trở nên sáng sủa và tốt đẹp.

Đắc địa cần Tuần, triệt án ngữ để tăng thêm vẻ sáng sủa tốt đẹp. Nếu đắc địa gặp Hóa Kỵ đồng cung thì thật là hoàn mỹ được ví như mặt trăng được tỏa sáng có mây năm sắc chầu 1 bên.

Sao Thái Âm miếu địa, vượng địa ứng hợp với âm nam và âm nữ.

Cung mệnh có sao Thái Âm mà sinh vào ban đêm thì thuận lý vô cùng rực rỡ, ngược lại sinh vào ban ngày thì trở nên kém sáng sáng sủa và tốt đẹp.

Thái Âm đắc địa nếu không gặp Tuần, triệt án ngữ tuy vô bệnh tật, vẫn có tài lộc, nhưng không thể quý hiển được.

Thái Âm miếu địa, đắc địa hay vượng địa gặp các sao xấu hội họp như: Kỵ, Riêu, Hình tất không được hưởng giàu sang trọn vẹn, mắt kém thường có bệnh về đường tiêu hóa, hay mắc tai nạn, tuổi thọ suy giảm.

Thái Âm đắc địa gặp Hóa Kỵ đồng cung và không bị sát tinh xâm phạm, chắc chắn là được hưởng phú quý.

Thái Âm bị hãm địa thì thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài và kém thông minh, tính ương ngạnh, thích giao du chơi bời, ưa ngâm hoa vịnh nguyệt, không tham cầu danh lợi suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, rất vất vả thường phải ly tổ buôn ba, lại hay đau yếu, mắt kém khó thoát được tai nạn nếu trong mình không có dị tật tất, không thể sống lâu được.

Nguyệt Hãm địa tại cung Mão, Tỵ (âm cung) cũng không đến nỗi mờ ám xấu xa lắm, vẫn được cơm no và áo ấm. Chẳng đáng lo ngại về những sự chẳng lành xảy ra trong đời.

Nguyệt hãm đại gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp như Xương, Khúc, Khôi, việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỷ tất cũng có danh tài và gia tăng tuổi thọ.

Thái âm dù đắc địa, vượng địa hay miếu địa tọa ở mệnh có thiên hình đồng cung ắt có dị tật ở mắt do kim khí, vật nhọn gây ra.

Thái âm đắc địa hay vượng địa, hãm địa gặp tuần, triệt án ngữ nên lập gia đình muộn hoặc lấy lẽ mới tránh khỏi được những ưu phiền đau đớn vì chồng con.

Sao Thái Âm hãm địa là một người dâm dật, suốt đời vất vả và có nhiều bệnh tật. Nếu gặp thêm nhiều sao xấu xa mờ ám hội họp thì thật là chung thân cùng khốn, cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, hay đau yếu chân tay không có dị tật thì mắt cũng mù lòa.

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thái Âm - Biểu tượng của mặt trăng, người mẹ, bà nội và vợ

Nhìn tướng miệng đoán sức khỏe

Miệng là nơi thông khí của tỳ, lưỡi, là mầm của tâm; răng là phần của xương. Người cơ miệng chắc, lại có tính đàn hồi thì tỳ và gan tốt.
Nhìn tướng miệng đoán sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Miệng ngậm mà vẫn hở răng hoặc khi ngủ không ngậm miệng, chủ nhân sức khỏe không tốt, đoản thọ; cộng thêm mắt có nhiều tròng trắng, ngực mọc nhiều lông là dấu hiệu cho thấy lá lách suy yếu.

- Khi ngủ, miệng có chảy nước miếng, nếu chủ nhân trung tuổi thì sức khỏe không tốt, đoản thọ; chủ nhân trên 70 tuổi thì trường thọ, sức khỏe dồi dào.

- Thừa Tương (phần tiếp giáp với môi dưới ở ngay chính giữa) không có râu mà có mụn ruồi, chủ nhân mắc chứng bệnh liên quan về tiêu hóa, dễ gặp họa liên quan đến nước.

- Miệng rộng quá mức cho thấy, khả năng ăn uống và sinh nở của chủ nhân tốt.

- Râu quanh miệng quá rậm, mọc cả ở mép cho thấy, chủ nhân có bệnh ở hệ thống đường ruột.

- Miệng nhỏ, mắt to, chủ nhân khó sống qua tuổi 50.

(Theo Tìm hiểu Nhân tướng học theo Kinh Dịch)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng miệng đoán sức khỏe

Nuôi chó phong thủy: Màu lông ảnh hưởng phong thủy

Nuôi chó phong thủy: Chúng ta thường chọn chó theo màu sắc mình yêu thích nhưng không để ý rằng màu lông chó ảnh hưởng tới tài vận của chủ nhân.
Nuôi chó phong thủy: Màu lông ảnh hưởng phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta thường chọn chó theo màu sắc mình yêu thích nhưng không để ý rằng màu lông chó ảnh hưởng tới cả vận may của mình và không phải ai cũng có thể nuôi được loài thú cưng này.



Chó là loài trung thành, dễ nuôi và đặc biệt mọi người thích nuôi chó vì nó là biểu tượng của sự may mắn. Nếu một con chó vô tình đi lạc vào nhà bạn sẽ được cho là may mắn đang tới. Vì khi chó đến nhà là nhà có kẻ canh nhà, giữ của, biểu hiện của thần giữ của nên sẽ giàu có. Thậm chí, có những người nghe tiếng sủa của chó cũng có thể dự đoán một điều là điềm tốt hay điềm lành.
 
Tuy nhiên, phải hiểu nuôi chó phong thủy là như thế nào vì không phải cứ nuôi chó tức là nhà bạn may mắn, điều mà ít ai để ý tới đó là tháng sinh và năm sinh của gia chủ hay màu sắc của lông chó cũng ảnh hưởng tới tài vận của gia đình bạn. Nuôi 
 

Màu sắc lông chó ảnh hưởng đến tài vận:


Chó có màu sắc thường gặp là đen, trắng, nâu, đỏ hoặc là sự kết hợp của nhiều màu trên phủ lên toàn bộ cơ thể của chó. 
 
Theo quan niệm thì chó nâu được cho là có nhiều đặc điểm tốt nhất, và chó trắng thì ngược lại vì thế chúng ta thường được khuyên nuôi chó có lông màu nâu.

Tuy nhiên, loại chó toàn thân màu trắng, đầu vàng, trên lưng có dấu ấn như hình mặt trăng tròn, thường có mắt và mũi màu hồng, đỏ hoặc nâu, ấn tròn phải nằm ở chính giữa lưng, gốc đuôi phải có thêm một cái ấn nữa. Chó này còn có tên là "vương cẩu" hoặc "thần cẩu", theo kinh nghiệm dân gian, nuôi chó này thì chủ nhân sẽ thăng quan tiến chức rất nhanh, tiền tài tấn phát.
 
Hắc cẩu còn gọi là chó mực, toàn thân đều đen tuyền, dân gian cho rằng loại chó này mắt thấy được ma và ma quái rất kỵ loại chó này.   "Hắc cẩu tứ bạch": Giống chó đen nhưng dưới bụng và bốn chân đều trắng, như mang tất ở chân, loại chó này cũng mang đến sự giàu sang cho gia chủ.

Bạn cũng nên tham khảo thêm bài viết sau để có sự lựa chọn hợp lý: Nuôi thú cưng hợp mệnh, chủ nhà gặp nhiều may mắn.
 
 
  Nuôi chó theo phong thủy, dễ mà khó. Để hiểu và nuôi chó theo phong thủy, chúng tôi đưa ra 1 số gợi ý sau:
 
- Gia chủ tha hồ đón may mắn khi nuôi chó xù, đặc biệt chó xù màu đen.
 
- Nuôi chó vàng có lông mày nhạt trong nhà được xem là may mắn, nhưng chó vàng có lông mày xám đậm lại bị cho là xui xẻo. May mắn có được chó vàng, đuôi trắng gia chủ sẽ không bao giờ phải lo về việc ăn mặc.
 
 - Nếu nuôi chó với mục đích giữ nhà thì tốt nhất nên chọn chó màu đen. 
 
- Để có nhiều tài lộc thì chó đen tai trắng là sự ưu tiên hàng đầu. Muốn phát về đường con cái nên nuôi chó đen có chân trước màu trắng. 
 
- Chó đen có phần bụng và phần đằng sau đuôi có màu trắng được cho là sẽ mang đến nhiều tai họa, không tốt cho phong thủy nhà bạn.  

Tháng và năm sinh gia chủ thuận lợi cho việc nuôi chó


- Trong 12 con Giáp, chó thuộc hành Thổ, dương khí rất mạnh. Do Mộc thắng Thổ nên người mệnh Mộc rất phù hợp để nuôi chó.    Tuất ở phương vị Càn tức là phương vị Tây Bắc giáp Tây.   Dần ở vào phương vị Cấn, tức là phương Đông Bắc giáp Đông.   Ngọ ở vào phương vị Chính Nam là Ly.   Mão ở vào chính giữa quẻ Chấn tức chính Đông.   Đây là bốn phương vị thích hợp với chó, nhà ở mà cửa mở vào bốn phương vị này mà nuôi chó ắt là thích hợp để chó có sức khỏe tốt.   - Do Chó khắc Rồng nên những người sinh vào tháng Ba âm lịch, tức tháng Thìn hoặc năm Thìn không nên nuôi chó, sẽ dễ gặp điều không may.
 
 

Vị trí nhà bạn ảnh hưởng đến sức khỏe của chó


- Chó nhà bạn sẽ rất khỏe mạnh nếu cửa chính nhà bạn hướng về phía Đông, Đông Bắc, Nam, Tây Bắc.
 
- Rồng khắc Chó, mà Rồng lại trấn giữ hướng Đông Nam nên, nếu cửa chính hướng phía Đông Nam thì cửa đã xung với chó nên chó nuôi trong ngôi nhà này thường xuyên bị bệnh hoặc chết.
 

Một số chú ý khác


- Tìm hiểu phong thủy khi nuôi chó là sẽ là chưa đủ khi bạn không để cho nhà cửa bộn bề, vì thế nhà cửa phải luôn được dọn dẹp sạch sẽ, mọi chất thải và đồ ăn của chó phải được bỏ đi để tạo cảm giác thoáng mát thích hợp cho dòng năng lượng tích cực chảy vào nhà.
 
- Chó thuộc hành Thổ nên chuồng chó tuyệt đối tránh làm bằng kim loại mà thay vào đó nên làm bằng gỗ và đặt theo hướng Đông, Đông Bắc, Nam hoặc Tây Bắc.
 
- Những vị trí dễ bị ứ đọng trong nhà như dưới cửa sổ hay trong góc nhà không nên để đặt chuồng chó. Nên đặt chuồng dựa vào tường, cách xa cửa ra vào.   - Vì quá yêu loài vật này nên nhiều người thích treo tranh ảnh chó trong nhà. Tuy nhiên, theo phong thủy nên tránh treo quá nhiều tranh, ảnh chó hay vật nuôi khác trong phòng. Điều này đặc biệt quan trọng với độc thân, cần tìm kiếm một mối quan hệ tình cảm.

Ngoài ra, nếu gia đình bạn cũng đang nuôi mèo thì nên tham khảo thêm bài viết sau: Nuôi mèo cũng cần phong thủy 

*Lưu ý: Bài chỉ mang tính chất tham khảo.

HaTra 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nuôi chó phong thủy: Màu lông ảnh hưởng phong thủy

'Bắt sóng' những tín hiệu phát tài trên bàn tay

Một ngày nào đó những tín hiệu này đột nhiên xuất hiện ở trên bàn tay bạn, đó là điềm lành báo hiệu bạn sắp phát tài hoặc có chuyện vui.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một ngày nào đó những tín hiệu này đột nhiên xuất hiện ở trên bàn tay bạn, đó là điềm lành báo hiệu bạn sắp phát tài hoặc có chuyện vui.


► Đoán vận mệnh, tài lộc của bạn qua việc tự xem chỉ tay


Bat song nhung tin hieu phat tai tren ban tay hinh anh
Ảnh minh họa

1. Lòng bàn tay hồng hào

 
Bình thường, lòng bàn tay bạn có sắc trắng hoặc vàng, nhưng đột nhiên xuất hiện sắc hồng hào, cộng thêm những đường màu đỏ hiện rõ là biểu hiện cho thấy tài vận của bạn đang tăng, hứa hẹn những bước đột phá trong công việc, sự nghiệp và tiền bạc.
 
Ngoài ra, nếu lòng bàn tay xuất hiện đường Tài vận cũng sẽ mang lại nhiều may mắn về tiền của cho chủ nhân.

2. Đốt thứ hai của ngón cái có nhiều đường vân

Vị trí đốt thứ hai của ngón cái còn tượng trương cho tài phúc. Nếu trên đó xuất hiện nhiều đường vân ngang, chứng tỏ vận thế của bạn khởi sắc, mọi việc đều thuận buồm xuôi gió, tiền của dồi dào.
 
3. Gò Mộc tinh nổi cao và có sắc hồng hào

Gò Mộc tinh nằm ngay gốc ngón tay trỏ. Nếu gò này nổi cao rõ ràng và có sắc hồng hào chứng tỏ tài vận tốt, gặp nhiều may mắn về tiền bạc. Người có gò Mộc tinh đầy đặn không những tiền của dồi dào mà quyền lực cũng vững bền.
 
4. Gò Thái Dương xuất hiện vân chữ Thập hoặc vân hình lưới
 
Gò Thái Dương nằm ở gốc ngón tay đen nhẫn. Nếu trên vị trí này bất ngờ xuất hiện vân chữ Thập hoặc vân hình lưới là biểu tượng của sự may mắn, đại phú đại quý và liên tiếp có nhiều tin vui của bản thân hoặc trong gia đình.
 
4. Gò Thủy Tinh có đường vân xiên thẳng

Gò Thủy Tinh nằm dưới ngón út. Nếu trên gò Thủy Tinh có những đường vân xiên thẳng, biểu hiện cho cuộc sống đang ngập tràn hạnh phúc và sẽ nhận được tiền bạc hoặc của cải bất ngờ.
 
Ngoài ra, nếu vị trí này xuất hiện những đường chỉ thẳng đứng, sâu đậm rõ nét mà không bị đường nào cắt ngang hay chặn đứng, chứng tỏ tài vận đang rất vượng, gặp nhiều may mắn liên tiếp.

5. Đầu đường hôn nhân có chữ Thập hoặc dấu sao
 
Đầu đường hôn nhân có chữ Thập hoặc dấu sao, là dấu hiệu cho thấy bạn sắp tìm được ý trung nhân và nhiều khả năng sẽ tiến tới hôn nhân hạnh phúc. Nếu cuối đường hôn nhân xuất hiện những tín hiệu này, chứng tỏ chuyện tình duyên của bạn đang phát triển thuận lợi, có nhiều hi vọng về một kết thúc tốt đẹp.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 'Bắt sóng' những tín hiệu phát tài trên bàn tay

Dọn nhà, đón Tết theo Phong thủy

Truyền thống người Việt ta xưa nay đến dịp cuối năm cũ đầu năm mới nhà nhà đều nô nức đón tết, nhiều thì trang hoàng rực rỡ, ít thì cũng dọn dẹp tươm tất, bày biện tươi tắn. Làm đẹp cho nhà cửa cuối năm khá đa dạng và do đó cũng cần có một vài lưu ý để tránh làm sai lệch về không gian cũng như phong thủy, giảm tốn kém và gây mệt mỏi.
Dọn nhà, đón Tết theo Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


(HÌNH CHƯNG pt 2)

Giữ những khoảng trống thoáng đãng, chọn lọc vật dụng, giảm thiểu chi tiết là giúp nội thất thêm quang đãng tươi tắn vào dịp năm mới.

1. Lưu ý các khoảng trống và trung cung

Đa số mọi ngươì hay chưng đồ trong tủ, đặt đồ đạc bám dọc tường nhà, đặt thành cặp, bố trí đối xứng trên các bức tường phòng khách mà quên phần trung cung, thường là những khu vực đi lại, khoảng trống giữa các phòng, giếng trời hay trục cầu thang. Chính những vùng không sinh hoạt thường xuyên này lại là điểm thu hút sinh khí và dẫn dắt tầm nhìn cho nội thất tươi mới.

Nên dọn sạch gầm thang, tăng cường chiếu sáng và có thể đặt thêm vật dụng trang trí như tượng đá, chậu hoa nhỏ cho các khu vực này. Đối với căn hộ chung cư, Trung Cung thường là phần giao điểm qua lại các phòng, nên tạo điểm nhấn như dùng thảm hoặc tranh ảnh, bình gốm (thuộc thổ, có tính trung hòa) chậu cây cảnh bề thế… cũng là biện pháp tốt tạo nên một Trung Cung sáng sủa và sinh động vào năm mới.

(hình chưng PT 3)

(hình chưng PT 4)



2. Lưu ý các vùng chuyển tiếp trong ngoài:

Bậu cửa sổ, bậc thềm, sảnh vào cửa chính… vốn là nơi nạp khí và thoát khí thường ngày, khi chưng dọn đồ mới nên tạo sắc thái mới bằng các thủ pháp trang trí hoặc tiểu cảnh.

Các vật dụng ưu tiên cho khu vực chuyển tiếp thường là chậu cây bon sai hoặc cây kiểng đẹp chịu bóng râm, tỳ hưu bằng đá hay đồng, tranh ảnh câu đối, hình dán linh vật của năm, treo đèn lồng.

Cần lưu ý yếu tố chiếu sáng và âm thanh tương ứng cho vật trưng bày, bằng cách dùng thêm đèn pha, đặt thác nước, lu nước phong thủy chảy róc rách, treo phong linh, ống sáo trúc để tăng sinh động và kích thích luân chuyển sinh khí trong nhà.

(hhi2i2nh  Pt 5  & 6)

Tiểu cảnh gầm thang, giếng trời là nhũng vị trí nên chăm chút, xếp đặt vật dụng để  tăng cường sinh khí nhiều hơn.

(H.7 & 8)

Chút lãng mạn nơi phòng ngủ, hay hoa lá điệu đà bàn ăn là điểm nhấn quan trọng cho các nơi sinh hoạt gia đình

3. Lưu ý lập lại trật tự của một số vật dụng:

Một số vật dụng trong phạm vi nhỏ bị xáo trộn hoặc bị các vật dụng khác che chắn, làm thay đổi phương vị vốn có của chúng.

Ví dụ phần đầu giường ngủ và hai bên đầu giường hay treo tranh, đặt đồ dùng lặt vặt…thì cần làm gọn. Chỉ chọn lọc những vật dụng thường xuyên dùng, có tính đặc trưng và tạo nên sự an lành hài hòa như một tấm ảnh người thân, vài quyển sách ưa thích, đồng hồ báo thức. Tủ áo nên chọn loại có gương mặt bên trong hoặc bố trí gương không chiếu thẳng đầu giường ngủ. Phòng làm việc cũng là một khu vực hay bị thay đổi phương vị nội thất do tác động của các vật dụng, thiết bị văn phòng gia tăng trong quá trình sử dụng.

Nguyên tắc Hướng Cát của bàn làm việc gia chủ cần phải tôn trọng và giữ vững, tức là phía trước mặt bàn làm việc luôn phải thoáng đãng (Tiểu Minh Đường). Nếu phải làm việc kiểu “úp mặt vào tường” thì phần trước mặt nhìn vào cần quang đãng, nếu treo tranh ảnh thì nên chọn loại tươi tắn vui vẻ, giảm áp lực công việc. Các vật dụng ưu tiên cho không gian riêng tư nên là đèn bàn, đồng hồ nhỏ, bình gốm hoặc thủy tinh, khung hình trang trí, bình hoa tươi và hoa khô.

(H.9 & 10)
Màu đỏ và vàng là những gam màu thuộc Hỏa và Thổ hợp với ngày đầu năm, màu xuân và sự may mắn.

4. Lưu ý các vị trí ăn uống, đãi khách

Đây cũng là nơi cần chỉnh trang vào dịp tết bởi khu vực này sẽ thường xuyên tập trung người trong dịp năm mới. Cần có chỗ ngồi ổn định của gia chủ để dễ dàng quán xuyến trong ngoài. Bổ sung các vật dụng vừa trang trí vừa sử dụng hiệu quả như hộp khăn giấy, giá để rượu, khay trà…

Tránh xếp đặt tùy tiện theo kiểu gặp đâu ngồi đấy, khi nhà có nhiều khách sẽ vướng víu và bất tiện. Cũng cần dự trù khoảng trống cho trẻ em vui đùa, do vậy có thể cất bớt đi một vài đồ đạc có góc cạnh sắc nhọn để giải phóng không gian và tránh nguy hiểm cho trẻ em vào dịp Tết.

Thạc sĩ – Kiến trúc sư Hà Anh Tuấn


Trích từ nguồn: Yahoo Nàng!

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dọn nhà, đón Tết theo Phong thủy

Lưu ý phong thủy cho bà bầu khỏe mạnh và hạnh phúc suốt thai kỳ

Để suốt thai kỳ được mạnh khỏe và hạnh phúc, nên lưu ý những yếu tố phong thủy cho bà bầu dưới đây.
Lưu ý phong thủy cho bà bầu khỏe mạnh và hạnh phúc suốt thai kỳ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ngoài chế độ dinh dưỡng, luyện tập thì yếu tố phong thủy cũng góp vai trò quan trọng giúp mẹ bầu mạnh khỏe và hạnh phúc suốt thai kỳ. Dưới đây là những lưu ý phong thủy mẹ bầu cần lưu ý.

 
 
1. Phong thủy phòng ngủ   - Phòng ngủ đủ ánh sáng   Theo phong thủy cho bà bầu, một căn phòng chứa nhiều ánh sáng tự nhiên sẽ giúp mẹ bầu hấp thụ tốt lượng canxi tự nhiên, giúp hệ thống xương được cải thiện, đồng thời tinh thần cũng vui tươi.    Ánh nắng tự nhiên là nguồn dương khí tốt, mang lại sinh khí, giúp mẹ bầu cảm thấy vui tươi, hạnh phúc và khỏe mạnh suốt thai kỳ. Vì thế, tránh đóng cửa kín mít, đồng thời phụ nữ mang thai nên tích cực đi dạo, tắm nắng.  
Luu y phong thuy cho ba bau khoe manh va hanh phuc suot thai ky hinh anh 2
 
- Giường ngủ tránh đối diện với gương   Một chiếc giường êm ái, sạch sẽ, gọn gàng sẽ góp phần giúp mẹ bầu cảm thấy thư giãn và ngủ ngon giấc hơn. Thêm nữa, nếu giường có gương chiếu vào, mở cửa phòng ra là nhìn thấy giường hay kê giường dưới xà nhà, dưới dao kiếm… đều không tốt về mặt phong thủy. Điều đó khiến mẹ bầu dễ bị giật mình, bất an, ngủ không sâu, mơ thấy ác mộng.    Tốt nhất nên treo ảnh em bé dễ thương thay vì gương, dao kiếm hay những bức tranh sặc sỡ, trừu tượng hoặc tranh thú dữ…   Hướng giường ngủ cho mẹ bầu khỏe mạnh Trang trí nhà ngày Tết hợp phong thủy cho mẹ bầu Chọn ngày vàng trong tháng Giêng cho mẹ bầu sinh mổ bắt con
- Hạn chế hoa tươi
  Đặt quá nhiều hoa tươi, cây trồng, nhất là những loài hút khí về ban đêm khiến không gian phòng ngủ của mẹ bầu bí bách, khó thở, khó ngủ. Nếu bà bầu nào còn dị ứng hoa nữa thì càng nguy hại.    2. Phong thủy nơi làm việc
Luu y phong thuy cho ba bau khoe manh va hanh phuc suot thai ky hinh anh 2
 
- Không ngồi ở vị trí đối diện với cửa chính   Xét về góc độ phong thủy, vị trí này đón các luồng khí cả tốt lẫn xấu, hỗn tạp. Chúng sẽ xông thẳng vào cơ thể, ảnh hưởng tới sức khỏe và sự phát triển của thai nhi.   Trong trường hợp không thể thay đổi vị trí bàn, cũng không thực hiện được một trong số cách hóa giải trên, nên sử dụng bình phong trước bàn làm việc hoặc đặt một chậu cây nhỏ trên bàn (hướng về cửa chính) để làm chệch hướng tác động của các luồng khí trực diện.
- Chỗ ngồi phải có điểm tựa   Điểm tựa này có thể là tường, tủ kê tài liệu, vách ngăn hay bình phong… miễn sao chắc chắn là được. Ngồi ở vị trí có điểm tựa tốt, thai phụ cảm thấy an toàn, vững vàng, tâm lý ổn thỏa, làm việc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.    Trái lại, nếu những chỗ ngồi không có điểm tựa vững chắc, mẹ bầu cảm thấy như bị tấn công, lúc nào cũng bồn chồn, lo lắng.   Đối với các văn phòng rộng, thông nhau hoặc làm việc trong mặt sàn diện tích trống, không có điểm tựa, mẹ bầu có thể đặt một chiếc tủ thấp ở phía sau chỗ ngồi để hóa giải.
- Kị vị trí ngồi gần nhà vệ sinh   Xét về mặt phong thủy, nhà vệ sinh là nơi chứa nhiều xú khí, uế khí. Thai phụ ngồi gần ở vị trí này lâu sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe, kéo theo các hệ lụy tới em bé trong bụng, tốt nhất nên đổi chỗ nếu như bạn rơi vào trường hợp này.   3. Kiêng kị cần nhớ   Theo quan điểm dân gian, trong thời gian mang bầu, không nên tiến hành những hoạt động như động thổ, sửa chữa nhà, di dời bếp lò, chuyển vị trí giường… Những thay đổi ấy sẽ ảnh hưởng xấu tới từ trường của ngôi nhà, trong đó có cả mẹ bầu và thai nhi.   Ngân Hà  
Đeo ngọc chỉ để ngắm hay còn chiêu nạp phúc khí
Đeo ngọc – thứ vật phẩm vô giá – vừa có tác dụng thẩm mĩ, lại giúp mang tới nhiều phúc khí, cải thiện sức khỏe con người, vận khí chủ nhân từ đó cũng tốt đẹp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý phong thủy cho bà bầu khỏe mạnh và hạnh phúc suốt thai kỳ

Mơ thấy mưa đá: Chịu tổn thất và gặp họa tai –

Mưa đá sẽ phá hỏng mùa màng, là hình ảnh tượng trưng cho sự tổn thất. Mơ thấy mưa đá dự báo buôn bán thua lỗ. Mơ thấy mình bị thương bởi mưa đá, dự báo tai họa đến gần, có thể sẽ xa rời quê hương. Phụ nữ mang thai mơ thấy mình bị thương bởi mưa đá, v
Mơ thấy mưa đá: Chịu tổn thất và gặp họa tai –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mưa đá: Chịu tổn thất và gặp họa tai –

Ý nghĩa của giấc mơ mơ thấy nước hoa

Trong giấc mơ, việc xuất hiện hình ảnh chai nước hoa khiến người ta cảm thấy thoải mái. Ngủ mơ thấy nước hoa báo hiệu điều gì?
Ý nghĩa của giấc mơ mơ thấy nước hoa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mùi nước hoa có tác động đáng kể đến trạng thái tâm lý con người khiến lòng người thư thái, dễ chịu. Ngủ mơ thấy nước hoa cũng khiến người ta cảm thấy thoải mái.


► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh

Thu vi voi giac mo ve nuoc hoa hinh anh
Ảnh minh họa
  Theo ý nghĩa này thì bạn sẽ được lòng “đối phương” nếu trong mơ thấy mình xịt nước hoa cho người yêu. Rất có thể bạn sẽ được thăng chức trong thời gian tới nếu mơ thấy mình xịt nước hoa cho người khác.   Là nam giới, nếu mơ thấy được ngửi mùi nước hoa thì bạn sẽ có sức khỏe cường tráng. Nếu mơ thấy nước hoa khi đã kết hôn thì đó là lời tiên báo rằng: bạn sẽ nắm giữ nhiều quyền lực nếu chuyên tâm vào sự nghiệp.    Là phụ nữ, mơ thấy ngửi mùi nước hoa từ thân thể chồng là điềm hứa hẹn sẽ có cuộc sống hạnh phúc.   Ngoài những điềm lành đó, mơ thấy nước hoa còn là dự cảm cho một số điều không như ý. Theo đó, nếu là nam hoặc nữ chưa kết hôn thì giấc mơ thấy nước hoa lại mang đến lời dự báo: khó tìm được một nửa như mong muốn.   Bạn sẽ nhận được nhiều tình cảm yêu mến của mọi người hơn nữa nếu mơ thấy mình đi mua nước hoa.   Giấc mơ thấy mình đi bán nước hoa sẽ đem lại sự phát tài cho bạn. 

Mơ mình đi tới hiệu nước hoa là sẽ kết bạn với cấp trên.

 
Mơ mình ngửi nước hoa là điềm lành, dự báo thu nhập tăng cao. 

 
Nam nữ chưa kết hôn mơ thấy mình ngửi mùi nước hoa là ngụ ý không thể tìm thấy ý trung nhân. 

 
Nữ đã kết hôn mơ thấy mình ngửi mùi nước hoa là ngụ ý chồng rất yêu bạn.

 
Mơ thấy mình mua nước hoa là điềm báo mình sắp được người khác thích.


Lập tức tổ chức lễ kết hôn sau khi… mơ thấy mình đi may áo
Cho dù hiện thực không xảy ra như giấc mơ nhưng mỗi giấc mơ đều ẩn chứa những ý nghĩa riêng, nó dự báo một điềm gì đó, có thể là cát mộng
Mơ thấy quần áo có nước hoa cảnh báo mức độ tiêu dùng sắp tăng cao.

 
Mơ thấy mình mở hiệu nước hoa là không chỉ mình phát tài mà bạn bè xung quanh cũng có lợi.

 
Mơ thấy mình xịt nước hoa lên quần áo người khác là chuẩn bị được thăng chức.

 
Nữ đã kết hôn mơ thấy quần áo chồng mình có mùi nước hoa là cát mộng, gia đình sắp có quý tử.

 
Mơ thấy mơ thấy mình xịt nước hoa lên người yêu là sắp có được tình yêu của người ấy.
   Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của giấc mơ mơ thấy nước hoa

Xem đường tình yêu cho người tuổi Tỵ - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Xem đường tình yêu cho người tuổi Tỵ, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem đường tình yêu cho người tuổi Tỵ, tu vi Xem đường tình yêu cho người tuổi Tỵ, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem đường tình yêu cho người tuổi Tỵ

Phải chăng bạn đang yêu một người tuổi Tỵ đầy bí ẩn nào đó? Bạn có phải là một nạn nhân của con rắn bí ẩn và quyến rủ ấy hay bạn là một nửa còn lại của họ. Cùng xem tử vi 2016 xem bói người tuổi tỵ nhé.

Xem bói tình yêu của người tuổi Tị thường thông minh tuyệt đỉnh, hào hoa và cũng rất có tài ăn nói, có thể hấp dẫn, mê hoặc được rất nhiều người, nhất là những người khác giới, trẻ tuổi và đang còn độc thân. Tuy nhiên, họ lại thường lạnh lùng, ít khi thể hiện thái độ, tình cảm của mình mà sẽ cân nhắc, so sánh thật kỹ, quan sát từ từ, giữ thái độ vừa phải, không quá xa cách mà cũng không quá nhiệt tình và vẫn tiếp tục để mắt đến những người khác giới khác.

Đường tình duyên của người tuổi Tỵ

Đường tình duyên của người tuổi Tỵ

Khi lựa chọn đối tượng kết hôn, người tuổi Tỵ thường chọn người có tính cách tương đồng với mình. Cả hai người sẽ đồng tâm hiệp lực đi trọn con đường đời còn lại. Người tuổi Tỵ cũng thường yêu rất nhiều và có nhiều kỷ niệm về tình yêu trong suốt cuộc đời mình, và đặc biệt khi muốn kết hôn bạn phải xem ngày đó là điều mà ai kết hôn cũng phải làm.

Người tuổi Tỵ sẽ dành phần lớn tình yêu cho gia đình và cùng người bạn đời của mình chung sống một cách vui vẻ.

Đường tình yêu hôn nhân của nam giới tuổi Tỵ với các tuổi khác

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Tý: Trong tình yêu, hai người rất tâm đầu ý hợp, kể cả những lần đầu làm quen, hẹn hò nhau. Trong cuộc sống hôn nhân sau này, sự hòa hợp giữa hai cá nhân giờ đây còn có thêm cả trách nhiệm với hai bên gia đình và con cái nên ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Sửu: Tình yêu và hôn nhân của hai người tương đối hòa thuận. Người chồng sẽ luôn cố gắng nghe theo những yêu cầu, đề nghị của người vợ.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Dần: Cả hai người có cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc dài lâu bên nhau. Suy nghĩ của cả hai có khá nhiều điểm khác biệt nhưng bởi sự tận tâm của người chồng tuổi Tỵ và sự khéo léo của người vợ tuổi Dần nên những khác biệt đó lại tạo thành những niềm vui trong cuộc sống hay ý tưởng tốt trong công việc.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuôi Mão: Hai người có thể sống lâu dài bên nhau bởi người vợ tuổi Mão luôn biết cách hun đúc ngọn lửa hạnh phúc gia đình.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Thìn: Người chồng tuổi Tỵ luôn luôn phấn đấu cho sự nghiệp còn người vợ tuổi Thìn rất mạnh mẽ và luôn hỗ trợ cho chồng. Cuộc sống gia đình ngày càng thịnh vượng và giàu sang.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Tỵ: Hai người có nhiều điểm chung với nhau, tính cách khá tương đồng nên thường chung chí hướng, chung lối suy nghĩ, thuận vợ thuận chồng, làm việc gì cũng nên.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Ngọ: Cặp đôi này thường bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh hơn chính hai người trong cuộc. Nếu có thể nghe theo trái tim và tin tưởng vào chính mình thì cuộc hôn nhân sẽ bền chặt và hạnh phúc dài lâu.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Mùi: Cuộc tình giữa hai người là cuộc tình với những yếu tố xáo động lẫn lộn nhưng cả hai người vẫn giữ được nhau. Nếu cả hai đều không bi quan và luôn sống với trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái thì tình yêu, hôn nhân của họ sẽ càng lâu bền hơn.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Thân: Trong cuộc sống gia đình thường khá hòa thuận, ít có mâu thuẫn nảy sinh. Hai người nên chia sẻ nhiều tâm tư của bản thân cho đối phương biết, cùng nhau giải quyết hơn là âm thầm gánh vác công to việc lớn một mình.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Dậu: Hai người là một cặp trời sinh, cả hai đều rất hiểu nhau và tình yêu giữa họ sẽ dẫn đến một kết quả rất tốt đẹp.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Tuất: Nếu người chồng có thể hoàn toàn chinh phục được người vợ thì cuộc sống của họ sẽ vô cùng tôt đẹp, hòa thuận.

Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Hợi: Người chồng thích một tình yêu nồng nhiệt và mạnh mẽ từ người vợ hơn là sự dịu dàng, nhu mì của người phụ nữ tuổi Hợi. Tuy nhiên, lạt mềm thì thường buộc chặt nên người chồng vẫn luôn thấy sức hấp dẫn kỳ lạ từ người vợ.

Đường tình yêu hôn nhân của nữ giới tuổi Tỵ với các tuổi khác

 

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Tý: Hai người có thể sống bên nhau nhưng người vợ cần phải có trách nhiệm với chồng nhiều hơn nữa thì cuộc sống mới có thể hạnh phúc, lâu bền.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Sửu: Người vợ tuổi Sửu nên chủ động chia sẻ suy nghĩ của mình cho người chồng, đồng thời người chồng tuổi Tỵ cần phải để ý và chăm lo cho gia đình nhiều hơn nữa.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Dần: Cuộc sống không phải lúc nào cũng theo ý muốn chủ quan của con người, kể cả tiền tài vật chất đầy đủ, khá giả. Quan trọng là sự thấu hiểu con người và tính cách của họ để bản thân có thể thay đổi, thích nghi với nhau.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Mão: Hai người có thể kết hợp được với nhau. Nếu hai người rất thích suy ngẫm, xem xét vấn đề lại biết thông cảm và thấu hiểu lẫn nhau thì tình yêu của họ chắc chắn sẽ rất ngọt ngào và bền chặt.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Thìn: Hai người quả thực là một cặp đôi lý tưởng. Người chồng luôn cảm thấy tự hào về vẻ đẹp của vợ mình.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Tỵ: Sự tương đồng về tính cách là chất keo gắn bó hai người lại với nhau một cách bền chặt và đầm ấm.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Ngọ: Người chồng có thể khiến cho người vợ cảm thấy vui vẻ và người vợ cũng thường xuyên quan tâm tới người chồng nên cặp đôi này khá tâm đầu ý hợp với nhau.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Mùi: Tình yêu giữa hai người có rất nhiều xung đột, khi đó, lý trí và trí tuệ của họ đều chẳng còn ý nghĩa gì cả. Tuy nhiên, những nhu cầu chung vẫn sẽ gắn kết cả hai người lại với nhau.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Thân: Nếu người đàn ông đồng ý và có tình cảm thật sự thì giữa hai người sẽ có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Dậu: Hai người là một cặp trời sinh, cả hai đều rất ngưỡng mộ kính trọng lẫn nhau và đều để ý đến thể diện của cả gia đình nên sẽ hết sức vun đắp cho mọi chuyện được trở nên tốt đẹp hơn.

 

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Tuất: Đây sẽ là một cặp đôi vô cùng hạnh phúc. Tuy nhiên người vợ tuổi Tuất cần có sự khéo léo hơn, kể cả trong lời nói hay hành động mặc dù tâm tính và ý nghĩ của họ rất lương thiện và tốt đẹp.

Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Hợi: Hai người cũng là một kết hợp hoàn hảo, người vợ tự nguyện hy sinh những hứng thú và sự tự do của mình. Trên thực tế, giữa hai người ít khi xảy ra những cuộc xung đột lớn nên về cơ bản cuộc sống khá êm ấm như ý.

Trái tim người tuổi Tỵ

Trái tim người tuổi Tỵ

Làm cách nào để theo đuổi người tuổi Tị

Khi ở bên cạnh một người tuổi Tị, bạn cần cố gắng chú ý quan sát mọi hành động, cử chỉ của họ bởi khi họ có một sự thay đổi nào đó trong tình yêu thì những người khác cũng khó mà nhận ra được nếu không quan sát tỉ mỉ. Vì vậy, chỉ khi thật sự quan tâm đên một người tuổi Tị thì bạn mới nắm bắt được tâm hồn cũng như con người họ.

Nếu yêu một người tuổi Tị, bạn hãy kiên trì, dũng cảm và nên tận dụng không khí ngập tràn tình yêu của ngày lễ tình nhân để bày tỏ tấm lòng của mình với họ.

Những điều người tuổi Tị cần tránh để không đổ vỡ trong tình yêu

Người tuổi Tị thường không có khả năng đối phó được với những tình huống khó xử trong tình yêu. Vì vậy, tuy không ghét nhau nhưng dường như giữa hai bên vẫn có khoảng cách rất lớn, khiến cả hai đều cảm thấy mệt mỏi, tổn thương. Nhưng cho dù có quyết định chia tay thì ngưòi tuổi Tị cũng không cảm thấy chán nản hay ức chế mà sẽ nhanh chóng tìm được tình yêu mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem đường tình yêu cho người tuổi Tỵ - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu "chài" đại gia

Bùa yêu vốn lưu truyền trong dân gian như một thứ bùa làm người khác mê mẩn, say đắm không dứt. Những câu chuyện ly kì xung quanh nó nhiều không kể xiết.
Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu "chài" đại gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người dân Sài Gòn những năm tiền khởi nghĩa thường bàn tán chuyện cô Ba Trà dùng bùa ngải làm bao tay trọc phú, tỷ phú đương thời phải lao đao, dẫn tới khuynh gia bại sản.


Ly ki chuyen my nhan Sai Gon dung bua yeu chai dai gia hinh anh
 
  Quyền năng nhan sắc

Cô Ba Trà tên thật là Trần Ngọc Trà, khi từ làng quê nghèo Cần Đước (Long An) đặt chân lên Sài Gòn chỉ mới mười sáu tuổi. Gia cảnh bần hàn, cha mất sớm, mẹ góa con côi bị nhà nội hắt hủi đành phải lên Sài Gòn làm thuê kiếm tiền. Chân ướt chân ráo lên đô thành, cô bị ép gả cho một tên Tây lai lắm tiền nhiều của. Từ đây, cuộc đời của cô gái “hồng nhan” rẽ sang một hướng khác. 
 
Nửa năm làm vợ hờ của một lão già, được ăn sung mặc sướng khiến Trà đẹp và “đàn bà” đến bất ngờ, khiến bao người ngẩn ngơ. Nổi tiếng, rực rỡ, Ba Trà nhanh chóng bị đẩy vào vòng xoáy phù hoa của đất Sài Gòn.
 
Chỉ trong một thời gian ngắn, Ba Trà nổi như cồn, nức tiếng trong giới công tử, trọc phú Sài Gòn. Hắc, Bạch công tử - hai công tử ăn chơi số một của đất Nam Kỳ thời ấy đã sớm là những tình nhân đầu ấp tay gối của Ba Trà. Đồng thời những ông phủ, ông hội đồng và các ông quan tòa, các tay cộm cán trong chính quyền thực dân đều chết mê chết mệt vì nhan sắc của cô gái được mệnh danh là hoa khôi không vương miện
 
Quyền năng nhờ bùa ngải?

Thời ấy, nhiều người đặt câu hỏi rằng Ba Trà quyến rũ đàn ông phải chăng chỉ nhờ nhan sắc hay còn bí quyết nào khác? Chẳng ai trả lời được chính xác nhưng họ đồn rằng cô dùng bùa yêu để mê hoặc đàn ông.
 
Để chứng minh, báo chí thời ấy đưa ra những câu chuyện được cho là có thật về cô Ba Trà. Vào khoảng thập niên ba mươi, Ba Trà bằng nhiều lần đi sang xứ Xiêm (Thái Lan). Cô chẳng buôn bán cũng không phải viên chức Nhà nước mà đi công vụ, vậy qua cái xứ lắm bùa nhiều ngải ấy ngoài đi chuộc bùa, chuộc ngải còn làm gì. 
 
Sau này, người ta kháo nhau lúc gần chết, chính cô Ba Trà đã thuật lại cụ thể những chuyến đi thỉnh bùa, rước ngải. Cố học giả Vương Hồng Sển xác nhận lại chuyện này trong một số hồi ký xuất bản trước khi ông mất. Đích thân Ba Trà đã kể với ông, cô khoe thân trong một phòng riêng với lão thầy ngải để vừa nghe lão đọc thần chú vừa xông hương (ngải) cho ngấm vào da thịt, rồi mang ngải về dùng. Bởi thế mà bất cứ người đàn ông nào, dẫu bản lĩnh đến đâu, đã bị cô “chài” đều không thoát được. 
 
Ngay như vua cờ bạc đất Sài Gòn lúc bấy giờ là Sáu Ngọ vốn chỉ mê cờ bạc và tiền hơn đàn bà, vậy mà cũng phải lụy tình với cô Ba. Người ta đồn rằng ngải mê, bùa yêu trong Ba Trà đã phát huy tác dụng đến cực điểm của nó.
 
Những lời đồn đoán mãi chỉ là đồn đại, những câu chuyện ly kì, thêu dệt về mỹ nhân Ba Trà âu cũng vẫn chỉ là của đôi kẻ hiếu kì thích chuyện tâm linh hay những người ganh ghét với nhan sắc cô hoa khôi bịa đặt ra. Chứ nếu thật có bùa yêu, sao cô gái nhan sắc nhường ấy vẫn chịu cảnh lẻ bóng đến cuối đời.     ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu "chài" đại gia

Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế

Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Mười sáu  trong quẻ Quan Âm, mang tên Diệp Mộng Hùng Triều Đế (còn gọi là Diệp Mộng Hùng Yết Kiến Nhà Vua). Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế có bắt nguồn như sau:

Diệp Mộng Hùng là một trong ba vị Thượng thư nối tiếng đời Minh, tự là Nam Triệu, cũng được gọi là Hoa Vân, là người phường Vạn Thạch, phủ thành Huệ Châu (nay là thành Huệ Chân, tỉnh Quảng Đông).

Năm Vạn Lịch thứ 20 (năm 1592), quan Tổng binh ở Ninh Hạ là Bột Bái (không rõ năm sinh, mất năm 1592, người Ninh Hạ, là tộc trưởng của bộ tộc Thát Đát của Mông cố đời Minh) làm phản, sau khi giết quan Tuần phủ, liên kết với các bộ tộc Mông cố khởi binh, đánh chiếm bốn mươi bảy thành trì của Hà Tây. Binh bộ Thượng thư Ngụy Học Tăng nhận bảo kiếm Thượng Phương, chỉ huy việc dẹp loạn ở Ninh Hạ. Ngụy Học Tăng không nắm được cơ hội, điều binh có nhiều sai lầm, khiến cho nhiều lần công thành mà không có kết quả, nhưng vẫn không từ bỏ việc chiêu hàng, bị Giám quân Mai Quốc Trinh hặc tội. Hoàng đế rất tức giận, do đó Ngụy Học Tăng bị cách chức và xử tội.

Trước đó, Diệp Mộng Hùng giúp Ngụy Học Tăng thổng đốc việc quân của bốn tỉnh, vì thế đã chủ động xin nhận nhiệm vụ. Thần Tông hoàng đế thấy Diệp Mộng Hùng thông thạo tình hình chiến sự ngoài biên ải, lại nhiều mưu trí, bèn hạ chiếu cho Diệp Mộng Hùng tiếp nhận nhiệm vụ, thống lĩnh đại quân dẹp loạn. Diệp Mộng Hùng lập tức đi suốt ngày đêm từ Tửu Tuyền lên phương bắc.

Do sứ giả đến chậm ba ngày, việc giảng hòa đã hoàn thành. Sau khi Diệp Mộng Hùng đến phương bắc, phải đối diện với tình huống là đánh hay chiêu hàng. Có người cho rằng, nếu đánh thì sẽ làm nhục quốc thể (vì không giữ hòa ước). Diệp Mộng Hùng cực lực bác bỏ ý kiến của mọi người, nhất định chủ chiến. Diệp Mộng Hùng dùng năm trăm cỗ “Hỏa xa thần khí” mang theo đế công thành, tuy có hiệu quả, nhưng chưa giành được thắng lợi hoàn toàn. Mọi người lại đưa ra ý kiến dụ hàng, Diệp Mộng Hùng vẫn quyết không nghe, dùng cách tháo nước sông Hoàng Hà nhấn chìm thành, giành được thành công lớn. Ba ngày sau, họ Bột thấy mình thất thế, thế mạnh đã mất, liền chém đầu đồng đảng là Lưu Đông Dương, Hứa Triều, để thể hiện quyết tâm đầu hàng. Phần lớn ý kiến đều chủ trương nên ban ân huệ, tránh để Bột Bái phải chết. Nhưng Diệp Mộng Hùng vẫn khăng khăng: “Chiếu thư của hoàng thượng trong tay, trước tiên phải giết họ Bột, còn họ Lưu, họ Hứa ta đâu cần hỏi đến?” Rồi vẫn tiếp tục chinh phạt, nhanh chóng thành công.

Diệp Mộng Hùng trí dũng song toàn, chỉ trong hơn một tháng đã thu được toàn thắng, công phá được thành trì, khiến cho Bột Bái phải tự thiêu mà chết. Nhưng Diệp Mộng Hùng tuy thành công vẫn không kiêu ngạo, mà nói rằng: “Hãy nhường công ấy cho Học Tăng và các tướng lĩnh đã dũng cảm chiến đấu”, rồi khắc bia đá trên núi Hạ Lan.

Diệp Mộng Hùng ban đầu làm quan văn, nối tiếng vì liêm khiết, lịch sử khen ông là “đứng đầu về đức khiêm nhường”, “rửa sạch thói tham, diệt quân phản loạn”, lưu lại danh tiếng tốt đẹp trong sử sách; ông trung dũng hơn người, dám nhận trọng trách, nhiều mưu trí, giỏi dùng pháo trong chiến đấu. về sau lại nhờ võ công mà được ghi vào “Minh sử”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm Diệp Mộng Hùng Triều Đế

3 chòm sao nữ giỏi giang gặp biến không lui

Tục ngữ có câu kế hoạch không cản nổi biến hóa, vì thế 3 chòm sao nữ giỏi giang dưới đây sống rất vui vẻ, biết cách ứng phó linh hoạt trong mọi hoàn cảnh.
3 chòm sao nữ giỏi giang gặp biến không lui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tục ngữ có câu “Kế hoạch không cản nổi biến hóa”, cuộc sống chính là thay đổi trong chớp mắt, bất chợt nảy ra những tình huống không ai ngờ tới. Vì thế 3 chòm sao nữ giỏi giang trong 12 chòm sao dưới đây sống rất vui vẻ vì các nàng ấy biết cách ứng phó linh hoạt trong mọi hoàn cảnh.

 
3 chom sao nu gioi giang gap bien khong lui hinh anh 2
 

Xử Nữ

  chòm sao nữ giỏi đưa ra các kế hoạch hoàn hảo tới từng chi tiết, nhưng Xử Nữ cũng không hề ngại ngần nếu tình huống có sự thay đổi. Đừng nhìn bình thường cung hoàng đạo Xử Nữ bộ dạng tao nhã nhưng đụng việc một cái là khí chất ngời ngời, bình tĩnh, mãnh mẽ, tìm ra lối xử lý thích hợp nhất. Vì thế, mà càng trong tình thế cấp bách, chòm sao này càng thể hiện được năng lực trời ban.   Họ cũng tính toán đầy đủ mọi nhẽ trước khi hành động nên rất có thể, những thay đổi này đã nằm trong dự liệu của Xử Nữ.   12 chòm sao đưa ra quyết định chia tay trong bao lâu?
Chia tay là quyết định không dễ dàng, với tính cách của 12 chòm sao, cần bao lâu để họ đưa ra sự lựa chọn khó khăn đó?

Sư Tử

  Thân mang khí thế nữ vương, bình thường hào phóng tiêu sái nên cô nàng Sư Tử rất đươc lòng người khác, kết giao nhiều bạn bè tốt. Nên khi vướng phải khó khăn, chòm sao nữ này thường được bạn bè giúp đỡ, tích cực cứu viện, không cần phải một mình đương đầu với sóng gió. Dù nguy khốn Sư Tử cũng bình tĩnh là như vậy.   Hơn nữ, bản chất của Sư Tử là thích đương đầu, linh hoạt và nhiều năng lượng, họ không cảm thấy thay đổi hay trở ngại là điều gì quá to tát, mà ngược lại, thử thách càng lớn thì chiến thắng càng vinh quang.  

Thiên Yết (Bọ Cạp)

 
3 chom sao nu gioi giang gap bien khong lui hinh anh 2
 
chòm sao nữ kiêu ngạo và có chút dã tâm, khác với Sư Tử nhờ bạn bè tương trợ thì Thiên Yết dù gặp khó khăn cũng tự mình dựa vào năng lực của thân mà vượt qua. Gan dạ, sáng suốt, tâm cơ, có tính toán, dù đối mặt với tình huống biến hóa cũng có thể phán đoán chính xác, nắm chắc tinh thần, liều mạng xông pha nên Yết Yết chẳng ngại gì gian khó. Càng gian khó thì sức chiến đấu của họ lại càng mạnh mẽ.
  Thêm vào đó, Thiên Yết muốn chứng minh năng lực của bản thân, mà nếu cứ đều đều thì đâu có cơ hội, phải có tình huống bất ngờ thì cuộc chơi mới hấp dẫn chứ nhỉ. 

Có thể Bọ Cạp quan tâm: Chọn nghề thích hợp để Bọ Cạp nhanh giàu? 

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ giỏi giang gặp biến không lui

Vì sao Tào Tháo xây 72 ngôi mộ?

Bí ẩn thiên cổ 72 ngôi mộ Tào Tháo đến nay vẫn chưa có lời giải. Hàng nghìn năm nay, kẻ đào trộm mồ mả có vô số, song chưa có ai đào được mộ thật
Vì sao Tào Tháo xây 72 ngôi mộ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi trẻ, Tào Tháo đã có chí lớn. Từ những việc lúc còn nhỏ đã có thể nhìn, thấy sự xảo trá và quyền biến của ông.

Chân dung Tào Tháo

Nói đến cùng, đều là những suy diễn cụ thể từ câu nói “Thà ta phụ người đừng để người phụ ta”. Từ xưa đến nay, nhiều người đã lấy câu nói đó làm điểm xấu của Tào Tháo. Tào Tháo có thể thốt ra câu nói đó biểu hiện cái “trá” của ông; cái “trá” đó cũng có thể gọi là “trí”; chỉ có mưu trí cao mới có thể “trá”; “trá” đến mức khiến người ta bất tri bất giác, không hiểu nổi, ấy mới là “trí”.

Đối với công việc hậu sự của mình, Tào Tháo có quan niệm khác hẳn với đế vương các đời. Ông là vị vua đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đã đưa ra quan niệm “bạc táng” (chôn cất đơn giản).

Trong lịch sử, Tào Tháo tuy chưa xưng đế nhưng địa vị quyền lực không kém hoàng đế. Vì sao ông không những đề xướng “chôn cất đơn giản” mà còn đích thân thi hành.

Tương truyền, Tào Tháo suốt đời đề xướng tiết kiệm. Thời nhỏ, Tào Tháo từng câu kết với bọn đào trộm mồ mả, tận mắt thấy chúng lấy hết của cải tùy táng. Vì vậy, để đề phòng bản thân sau khi chết không rơi vào thảm cảnh ấy, ông đã nhiều lần yêu cầu “chôn cất đơn giản”.

Tào Tháo còn sử dụng biện pháp xây “mộ giả” để bọn đào trộm mộ không biết đâu là mộ thật. Việc xây mộ giả đương nhiên liên quan đến tính đa nghi của ông. Khi còn sống, ông vì đa nghi nên đã giết nhầm rất nhiều người. Ngày an táng Tào Tháo, có tới 72 cỗ quan tài từ 4 hướng Đông, Tây, Nam và Bắc cùng một lúc được khênh ra các cổng thành. Dân trong thành, thậm chí lính khênh cũng không biết quan tài nào là quan tài thật.

Trong 72 ngôi mộ này, ngôi mộ nào là thật? của Tào Tháo.

Tương truyền, trong những năm quân phiệt hỗn chiến, 1 nhà buôn đồ cổ của công ty Ấn Độ muốn tìm ngôi mộ thật của Tào Tháo đã thuê dân công đào mười mấy ngôi mộ giả. Ngoài một số đồ gốm đồ sứ ra không thu được cái gì khác.

Năm 1988, tờ Nhân dân Nhật báo đã đăng bài Bí ẩn 72 ngôi mộ giả của Tào Tháo bị khám phá. Bài báo nói: “Quần thể mộ cổ ở huyện Từ, tỉnh Hà Bắc nổi tiếng gần đây được Quốc vụ viện coi là đơn vị bảo hộ văn vật trọng điểm toàn quốc lớp thứ ba. Những ngôi mộ cổ này trong truyền thuyết dân gian xưa bị coi là “72 ngôi mộ giả của Tào Tháo” nay đã được coi là quần thể mộ cổ loại lớn thời Bắc Triều. Tuy nhiên, số lượng mộ không phải là 72 mà là 134”.

Hài cốt thực của Tào Tháo chôn ở đâu vẫn là một bí ẩn. Có người căn cứ vào “thơ mộ Tào Tháo” suy đoán mộ ông ở đáy sông Chương. Theo cuốn Chương Đức phủ chí, lăng Nguỵ Vũ Đế Tào Tháo ở thôn Linh Chi, cách đài Đồng Tước 5km về phía chính Nam. Theo khảo sát, điều này chỉ là giả thiết. Mộ Tào Tháo có thể ở đâu?

Có ý kiến cho rằng, mộ Tào Tháo ở “Cô Đôi Tào Gia” (Mộ phần họ Tào) thuộc huyện Tiều. Đây là quê hương của Tào Tháo.

Chương Văn Đế trong cuốn Nguỵ thư: “Năm Giáp Ngọ (năm 220) mở tiệc chiêu đãi quân lính và dân chúng ở Ấp Đông (Thuộc huyện Tiều)”. Sách Bột Châu chí chép: “Văn Đế đến huyện Tiều, thiết đãi lớn phụ lão ở đây. Lập đàn trước nhà lập bia được gọi là bia thết đãi lớn”.

Tào Tháo mất ngày 2 tháng Giêng năm Giáp Ngọ. Nếu chôn ở Thành Nghiệp, Nguỵ Văn Đế Tào Phi vì sao không đi thành Nghiệp mà lại quay về quê hương? Mục đích chuyến đi này của Tào Phi là để kỷ niệm ngày mất của Tào Tháo? Sách Nguỵ Thư còn nói: “Năm Bính Thân, (Tào Phi) đích thân đến tế ở lăng Tiều”.

Lăng Tiều chính là “Cô Đôi Tào Gia”, nằm cách Thành Đông 20km. Nơi này từng là nhà ở của Tào Tháo, cũng là nơi Tào Phi ra đời. Ngoài ra, sách còn chép: “Bột Châu có quần thể mộ thân tộc Tào Tháo. Trong đó có mộ ông nội, cha, con cái của Tào Tháo. Từ đó suy đoán, mộ Tào Tháo cũng chôn ở đó. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không có bằng chứng đáng tin.

(Theo Toquoc)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao Tào Tháo xây 72 ngôi mộ?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd