Xem tướng cằm –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Hành: Thủy
Loại: Đài Các Tinh
Đặc Tính: Công danh, quý hiển, may mắn, quyền quý, khoa giáp
Tên viết tắt thường gặp: Long
Là một phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long Trì và Phượng Các. Gọi tắt là bộ sao Long Phượng. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là Long Phượng Hổ Cái.
Tướng Mạo: Long Trì ở Mệnh thì nhan sắc rất đẹp, da mặt hồng hào, thanh tú, nhất là đối với phụ nữ.
Long Trì là mũi.
Sao Long Trì, Kình Dương: Mũi sống trâu.
Long Trì, Thiên Khốc, Thiên Hư, Thiên Hình: Đau mũi có mổ.
Tính Tình: Thông minh, tuấn dật, có văn chất.
Ôn hòa, nhân hậu, điềm đạm, cởi mở.
Đoan trang trong nết hạnh.
Công Danh Tài Lộc:
Thi đỗ cao, có khoa giáp lớn, nhất là ở Mão Dậu.
Làm tăng thêm tài lộc, điền sản (Long Trì chỉ nhà cửa, ao hồ).
May mắn trong hôn nhân (dễ yêu, dễ cưới, vợ chồng tương đắc).
May mắn cả trong việc sinh nở (dễ sanh, sinh dễ nuôi).
Với các nghĩa trên, Long Trì là sao tương đối vẹn toàn về nhiều mặt nhan sắc, tính hạnh, tài lộc, gia đạo.
Sao Long Trì, Thai Phụ: Thăng quan, thi đỗ.
Sao Long Trì, Thiên Riêu, Thiên Hỷ hay Phi: đắc thời, có hỷ sự đến nhanh chóng về tình duyên, thi cử, quan lộ.
Sao Long Trì, Thiên Lương: Nữ mệnh có chồng danh giá, hiền.
Long Trì, Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu: Đây là bộ sao "hiền thần", chuyên phò tá cho Tử Phủ. Cách này giúp đắc quan mau lẹ, cao quí.
Ý Nghĩa sao Long Trì Ở Cung Phúc Đức:
Phú quý.
Giòng họ khá giả.
Ý Nghĩa sao Long Trì Ở Cung Điền Trạch:
Sao Long Trì, Mộ: Có nhà đất rộng rãi, có di sản.
Long Trì, Thai, Bát Tọa: Có nhà lầu cao sang, nhà có ao hồ.
Ý Nghĩa sao Long Trì Ở Cung Phu Thê:
Vợ chồng đẹp đôi, tương đắc, cưới xin dễ dàng.
Nếu ở Dậu và có Tả Hữu: Hai vợ, hai chồng.
Ý Nghĩa sao Long Trì Ở Cung Tử Tức:
Dễ sinh con, sinh con đẹp, dễ nuôi.
Sinh quí tử, thông minh, tuấn dật.
Long Trì Khi Vào Các Hạn:
Sao Long Trì, Thiên Riêu, Thiên Hỷ: Có dạm hỏi, đưa đến hôn nhân.
Long Trì, Phong Cáo, Quốc Ấn: Thi đỗ.
Sao Long Trì, Thiên Mã: Có dời nhà cửa.
Tết âm lịch chỉ còn chưa đầy một tháng nữa và mọi người đang rục rịch sắm sửa cho năm mới. Bên cạnh việc chuẩn bị cho Tết, mọi người cũng bắt đầu xem lịch để đánh dấu những ngày quan trọng, ngày đẹp trời để cầu hạnh phúc, bình an.
Một trong những ngày đẹp nhất trong năm là ngày lập xuân. Tiết Lập xuân là một trong số hai mươi tư tiết khí trong âm lịch của nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc,...Ở nước ta, ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân. Ngày lập xuân thường được cho là đem lại nhiều may mắn.
Năm nay, tiết Lập Xuân rơi vào thứ Năm, Ngày 4 Tháng 2 Năm 2016. Đây là thời điểm mở màn cho sự thức giấc, sinh sôi nảy nở của thiên nhiên sau một kì ngủ đông kéo dài. Nhiều người tin rằng nếu bạn gửi tiền của mình vào ngân hàng trong ngày này, của cải sẽ sinh sôi nảy nở cả năm dài.
Dưới đây là giờ lành tốt nhất để gửi tiền vào ngân hàng vào ngày lập xuân và nó khác nhau cho mỗi từng con giáp. Bạn có thể đến ngân hàng để gửi tiền trực tiếp hoặc chuyển qua tài khoản ngân hàng trực tuyến.

Con người sinh ra những nốt ruồi như núi sinh ra cây cỏ, đất nổi đồi gò. Núi đẹp thì cây đẹp, đất xấu thì gò đồi xấu xí.

Nốt ruồi màu nâu, đen là do những tế bào có sắc tố tập trung lớp ngoài da tạo nên.
– Nốt ruồi xanh do những tế bào sắc tố dưới lớp chân lông tạo thành.
– Nốt ruồi đỏ hồng do những vi huyết quản phình lên mà có, là những chấm nhỏ màu đỏ, thường xuất hiện nhiều ở vuùng ngực, trên da mặt.
Chúng ta có thể tẩy dễ dàng những loại nốt ruồi màu nâu, đen vì ở ngoài da. Còn màu xanh hay đỏ, nếu tẩy sẽ gây ra những vết thẹo nhỏ.
Nhiều người vì mê tín mà đem tẩy những nốt ruồi to xuât hiện trên khuôn mặt, nhưng không hiểu tính chất của từng loại nốt ruồi đâm làm tổn thương đến chính bản thân. Trong tướng pháp nói rằng :
– Con người sinh ra những nốt ruồi như núi sinh ra cây cỏ, đất nổi đồi gò. Núi đẹp thì cây đẹp, đất xấu thì gò đồi xấu xí. Nên người có tố chất đẹp thì sẽ sinh ra những nốt ruồi đẹp đẻ, duyên dáng, còn có tố chất xấu thì nốt ruồi biểu hiện tính chất xấu của nó.
Cho nên những cái xấu cần phải ẩn nơi kín đáo, không đê lộ và đôi khi trở thành nốt ruồi ẩn tướng, mọi người khó có thể suy đoán ra tính tình, cốt cách. Còn những nốt ruồi son mà ẩn thuộc quý tướng. Nốt ruồi đen mà lộ quá nhiều là điềm hung, ẩn nơi kín đáo là kiết. Mọc trên mặt nhiều là hại bất cập lợi; nốt ruồi đen thì phải thật đen tránh màu nâu hay xám tro, còn nốt ruồi son phải đỏ như chu sa mới tốt.
Đen pha đỏ là nâu, chủ về người thích tranh cãi, biện luận; pha màu trắng thành màu xám tro, chủ về tai nạn, bệnh tật; pha màu vàng ra xanh đục, chủ về đảng trí.
Tham khảo các bài viết về tướng nốt ruồi cùng xemtuvi nhé các bạn.
Sách “Thần tướng toàn biên” khi nói về nốt ruồi :
– Mọc ở đầu và mặt : mọc ngay giữa trán là chủ phú quý, gần thiên đình là cực quý. Trên trán có 7 nốt ruồi đen chủ đại phú, đại quý. Mọc ngay Thiên trung thì hại cha, ngay Ấn đường là hại mẹ, ở Tư không thì hại cả cha lẫn mẹ.
– Mọc hai bên vành tai chủ về trí tuệ, thông minh, trong tai là chủ sống thọ, nếu bên tai trái chủ về tiền của.
– Mọc ở khoé mắt làm tướng lục lâm thảo khấu, trên con mắt mọc nhiều là khốn khổ, dưới con mắt là có lộc bất ngờ, trong lông mày chủ về công danh, phú quý.
– Mọc ở Sơn căn chủ về nghiệp binh đao “sinh nghề tử nghiệp”; mọc bên mũi đau khổ đẫm lệ, trên sống mũi suốt đời truân chuyên, trì trệ; ở chuẩn đầu mũi đề phòng chết vì súng đạn, gươm đao.
– Mọc ở Nhơn trung dễ cưới vợ lấy chồng giàu sang, bên mép miệng khó giữ được của cải, mất địa vị. Trên môi chủ về lộc ăn, dưới môi là phá của. Trên lưỡi là hay loạn ngôn…
Trong tướng pháp cho rằng, nốt ruồi mọc trên thân thể con người được chia làm ba phần :
Một ở đầu và mặt, hai ở tay chân và ba ở hai phần trên dưới hạ bộ.
Về phần đầu và mặt lại chia ra những vùng nhỏ phức tạp, như cùng với tóc, nốt ruồi mọc trong tóc là ẩn, chủ về giàu sang phú phú, trường thọ, càng lên đỉnh đâu càng quý tướng. Trên trán có “thất tinh” chủ về đại phú, đại quý…
Đây là phần quan trọng, chủ yếu trong cách xem nốt ruôi, còn tay chân không quan trọng, chỉ nên thêm phần trên dưới hạ bô, tức từ rún (rốn) trở xuông bẹn là cần xem.
Sau đây là những nốt ruồi mọc trên thân thể
Toàn thân mỗi người thường hiện ra những nốt ruồi nhỏ, trong đó biểu hiện nốt ruồi son là tốt, còn đen tùy theo điểm mọc mới biết cát hung. Nốt ruồi ẩn là tốt, lộ ra là bình thường. Nốt ruồi càng to càng thể hiện tính cách trong cuộc sông; nốt ruồi càng rõ ràng là sự khẳng định, còn mờ nhạt là không chắc chắn trong dự đoán. Thông thường nốt ruồi chỉ mọc thêm chứ ít khi lặn, nếu phá đi chưa phải đã giải được hạn.
37 loại nốt ruồi được giải thích sau đây chỉ đại diện cho hàng trăm nốt ruồi mọc trên thân thể.
Hình 1 bao gồm những nốt ruồi chủ yếu, nếu nằm lệch hay sai vị trí chừng 5 ly, hoặc đối nhau mà không có số chú giải được xem có cùng một tên :
– Số 1 : Nốt ruồi có tên Trung tinh đình (trán bên phải), có quyền thế, tài lộc trên đường công danh sự nghiệp, sống lâu, gặp tai ương cũng vượt qua.
– Số 2 : Tả trung đình (trán bên trái), sống không sung sướng, thường dang dở về tình yêu và trong hạnh phúc gia đình gặp bế tắc.
– Số 3 : Hoạt sào (trên mí mắt bên trái), là nốt ruồi báo cho biết tâm lý thường hay đa cảm, đa sầu. Nhưng đường tình cảm thường bộc lộ ra mặt.
– Số 4 : Trung Thiên (ngay giữa trán), người chịu sửa chữa, phục thiện sau khi gây ra lỗi lầm.
– Số 5 : Dõng La (trên mí mắt bên phải), thường bi lụy trước những hoàn cảnh bi ai của người khác, và cũng thường tự tủi thân một mình.
– Số 6 : Tâm Hảo (dưới mắt bên trái), chịu đau khổ một mình, không muốn tâm sự cho ai biết.
– Số 7 : La Thiên (dưới mép miệng trái), người có duyên ăn nói, nhưng lại kín đáo trong bộc lộ tình cảm.
– Số 8 : Nguyệt Lão (trên vai trái), rất long đong lận đận vê tình duyên, gia đạo. Nhưng sợi dây tơ hồng đã buột đành chấp nhận khổ đau.
– Số 9 : Hoa Sơn (gò má trái), có số chết bất đắc kỳ tử, tính tình bí hiểm không bộc lộ cho người khác biết.
– Số 10 : Tuyệt Luân (bên mép trái), có đường sát phu thê, tâm tính lại nhẹ dạ tin người.
– Số 11 : Tả Phận (tay trái cận nách), thường trở thành “trai cô gái quả” sớm, nên đường tình duyên gặp trắc trở cho đến chết.
– Số 12 : Trung Phận (gần cổ tay trái), có nhiều tham vọng, thường “đứng núi này trông núi nọ”, tính tình thích đua đòi, và thích hưởng thụ.
– Số 13 : Hạ Phận (trên mu bàn tay trái), có tính bạc tình, bạc nghĩa, sống lãng mạn, nhưng làm ra của cải vật chất cũng nhiều.
– Số 14 : Trung Sơn (bên ngực sát vú trái), đẻ con nhiều nhưng vẫn sầu đau về đường gia đạo.
– Số 15 : Đỉnh Sơn (trên ngực trái), thay chồng đổi vợ dễ như thay áo.
– Số 16 : Hoa Tý (bên hông trái), con người chịu luồn cúi nịnh hót để đạt mục đích (theo dạng Hàn Tín), nhưng trong tình cảm lại ít bộc lộ cho đối tượng biết.
– Số 17 : Hiền Mẫu (năm ở vòng eo trái), tính tình hiền lành, chung thủy trong đời sống vợ chồng.
– Số 18 : Trung Vĩ (ngay rún) có tính bảo thủ, hay đố kỵ người hơn mình, cuộc sống gian nan cực khổ.
– Số 19 : Hạ Hôn (trên bẹn trái), hay ghen tuông, lãng mạn, có đời sống tình dục mạnh mẻ.
– Số 20 : Hoan Du (dưới bẹn trái) người can đảm, thích khẩu chiến, hay nói lý lẽ.
– Số 21 : Đãng Dục (ngay bộ phận sinh dục), người này thường vui say hưởng thụ thú xác thịt. Nốt ruồi son nằm trong da quy đầu lại sinh con quý tử.
– Số 22 : Thiều Manh (nơi đầu gối trái), hay gặp tai nạn, có người bị thành tật.
– Số 23 và 25 : Hạ Giới (trên cổ chân trái và chân phải), thích đi xa, phiêu lưu mạo hiểm.
– Số 24 : Lầu Xanh (trên mu bàn chân trái), tâm hồn trác táng, buông thả, cuối đời thân thể bệ rạc.
– Số 26 : Hoàn Dục (nơi đầu gối phải), thường không may mắn trên đường công danh, sự nghiệp.
– Số 27 : Vĩ Trung (dưới bẹn bên phải), thường hay đau ốm, tình cảm trở nên khô khan.
– Số 28 : Hoại phu thê (ngay ức), có số đưa vợ hay đưa chồng vào đường lầm lỗi.
– Số 29 : Ngữu Vĩ (bên hông phải), phụ nữ sinh đẻ gặp khó khăn, đàn ông gặp hiếm muộn.
– Số 30 : Trung Hòa (bên ngực gần vú phải), người có nốt ruồi này chật vật mới đủ sống, “bôn ba không qua thời nốt ruồi này.
– Số 31 : Xuất Thể (trên mu bàn tay phải), thường lo sợ viễn vông, nên có lúc như người mất định hướng.
– Số 32 : Hạ Phận (dưới khủy tay phải), hay gắt gỏng, tính tình bất nhất.
– Số 33 : Trung Phận (trên khủy tay phải), tình cảm vợ chồng như tạm bợ sống nhờ vào nhau, cho nên gia đình không có hạnh phúc.
– Số 34 : Hữu Phận (trên vai bên phải), người đa tình, tính tính lã lơi cợt nhã với người khác phái.
– Số 35 : Bạc Hào (bên mép miệng phải), luôn nghĩ đến tiền và danh phận hơn tình cảm.
– Số 36 : Thiên Căn (gò má phải), người hiên hâu nhưng không may măn trong cuôc sông.
– Số 37 : Hậu Vĩ (dưới mắt bên phải), tâm sự đa đoan, thường phải khóc thầm.
Như đã nói 37 nốt ruồi trên đây chưa đại diện đủ tính chất của mọi dự báo, về các điềm bí ẩn trên thân thể, như chỉ trên khuôn mặt đã có ít nhất trên 40 nốt ruồi khác nhau xuất hiện.
![]() |
Tính cách chuẩn cung Xử Nữ của chàng soái ca quân nhân Song Joong Ki![]() |
Phong thủy truyền thông cho rằng, trong ngôi nhà thì trần nhà đươc coi là trời còn nền nhà là măt đất, vì vậy, khi trang trí trần nhà cần chú ý:

– Màu sắc của trần nhà phải thanh nhã, nhẹ nhàng, nên dùng gam màu nhạt như màu lam nhạt, xanh da trời, trắng sữa, xám nhạt, vàng nhạt… làm màu chủ đạo. Đối xứng với tấm trần là mặt nền nhà cần phải mang màu đậm hơn một chút.
– Với những trần nhà thấp do có xà ngang, bạn hãy trang trí xung quanh tấm trần thật đơn giản, còn phần giữa trang trí bằng một chùm đèn pha lê đủ loại đẹp mắt, tuyệt đôi không được gắn gương phản chiếu lên trần nhà.
– Những phòng khách không đủ ánh sáng tự nhiên, khắc phục bằng cách lắp bóng đèn huỳnh quang khuất quanh tấm trần, phần giữa trang trí bằng một chùm đèn pha lê, ban ngày, ánh sáng gần giống với ánh sáng tự nhiên của mặt trời phát ra từ bóng đèn huỳnh quang sẽ khiến phòng khách tươi sáng hơn. Buổi tối, gian phòng khách sẽ đẹp lung linh nhờ sự kết hợp của hai chùm ánh sáng.
Ngũ tinh là chỉ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tai trái là Kim tinh, tai phải là Mộc tinh, miệng là Thủy tinh, bộ vị trên giữa 2 lông mày là Hỏa tinh, Chuẩn đầu là Thổ tinh. Lục diệu là chỉ Thái dương, Thái âm, Nguyệt bột, La hầu, Kế đô và Tử khí. Thái dương là chỉ mắt trái, Thái âm là chỉ mắt phải, Nguyệt bột chỉ Sơn căn trên mũi, La hầu là mày trái, Kế đô là mày phải, Tử khí là bộ vị Ấn đường giữa 2 mắt. Người có tướng mặt làm quan biểu hiện qua Ngũ tinh và Lục diệu thường đầy đặn và rạng rỡ.

Hỏa tinh ở trên trán, trán vuông ngay ngắn, đầy đặn là tướng làm quan.
Tử khí đầy đặn rạng rỡ cũng là tướng làm quan.
Người mà Thổ tinh dày dặn có thịt là tướng trường thọ.
Mộc tinh lộ xuất hướng ra bên ngoài mà không hướng cuộn tròn căng cứng vào trong là tướng phúc.
Người có tướng mặt như thế có thể được hưởng ngũ phúc.
Kim tinh dài mà trắng sạch cũng là tướng làm quan.
Người có La hầu dài chẳng phải vất vả, cả đời không phải lo lắng chuyện cơm ăn áo mặc.
Người có vị trí sao Kế đô dài mà tề chỉnh, gia đình được hạnh phúc, có con trai con gái, được hưởng niềm vui vẻ trời ban.
Người mà vị trí sao Nguyệt bột thẳng dài như cây bút, chuyện cơm ăn áo mặc chẳng phải lo.
Thái dương có thần, có linh khí, người như thế rất có phúc lộc.
Thái âm, nhãn châu đen tối, điểm đen như hạt đỗ, lại có linh quang rạng rỡ sẽ làm quan.
Thủy tinh dài, rộng, người có môi hồng bóng, làm quan đến tam công.
Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.
Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào ?
1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ.
Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin! 2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.
Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.
Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch.
Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt.
3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.
4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63).
Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27).
Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.
Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì ?
Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm …
Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:
Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline).
Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net).
Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline).
Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net).
Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline)
Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả).
Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Bảo thọ quan hay còn gọi là lông mày, có thể xem tướng lông mày mà đoán được tướng người có tốt lành hay không, có hành phúc và được hưởng cuộc sống tốt đẹp hay không.
Xem bói người có lông mày đen dày, trông không cân xứng với mặt, chủ vất vả cả đời.
Trong Ngũ tổng quy có nói: Lông mày rậm đen, tóc thô dày cuộc sống sẽ không thuận lợi.
Trong Vạn kim tướng nói: Nam là dương, người con trai mà có lông mày tựa mày hổ cả đời vất vả. Vậy lông mày như thế nào gọi là lông mày hổ? Lông mày đen dày đậm tức là lông mày hổ. Người mà có lông mày hổ, cả đời chẳng gặp nhiều chuyện vui vẻ. Từ 26 đến 35 tuổi vận số không tốt, chủ vất vả.

Lông mày tựa hình trạng của chim nhạn bay trên bầu trời là tướng tốt lành
Trong Quảng giám tập có nói: Lông mày tượng trưng cho vua, mắt tượng trưng cho bề tôi. Lông mày thanh tú mà dài hơn so với mắt, hình trạng của lông mày tựa như hình trạng của chim nhạn bay trên tròi là tướng tốt lành. Người có lông mày ngắn hơn so với mắt khó có anh em. Nếu có nhiều anh em, hầu hết cũng vất vả chẳng cậy nhờ được.
Trong Vạn kim tướng có nói: Người có lông mày dài hơn so với mắt sẽ có 5 - 6 anh em; lông mày dài hơn so với mắt, ;ại có hình trạng tựa như cầm chổi quét, người đó có 8 - 9 anh em. Người có lông mày và mắt dài bằng nhau, chỉ có 1 đến 2 anh em. Người có lông mày ngắn hơn so vối mắt, không có anh em, còn nếu có 1 đến 2 anh em thì cũng không phải là anh em ruột thịt. Từ 26 đến 35 tuổi về cơ bản có khoảng 4 - 5 năm vận số không tốt.
Xem bói người có xương mày nổi cao không nên kết giao
Lăng cốt nổi cao tức là người có xương nơi lông mày nối cao lớn và lộ rõ ra, cử chỉ thô lỗ, làm việc máy móc, chỉ biết hướng vể phía trước mà không biết tùy cơ ứng biến nên lùi về sau. Họ chỉ biết giữ mà không biết mất, chỉ biết thành công mà không biết đến thất bại. Kiêu ngạo, tự cao, tự đắc, rõ ràng biết việc không thể thành công nhưng vẫn theo đuổi một cách mù quáng, tính tình nóng vội, có tâm sát phạt. Người như thế không thế kết giao.
Người có lông mày tựa trăng đầu tháng, cả đời hạnh phúc
Trong Quảng giám tập có chép: Lông mày được xem là vua của mắt, mầm của túi mật, vẻ ngoài của mặt. Lông mày thanh tú tức là tựa như vầng trăng khuyết, người như thế, đầu óc thông minh, có trí tuệ, có tài năng văn học, rất phú quý, địa vị hiển hách, cả đời giàu có. Từ năm 26 tuổi đến trung niên, công danh hiển hách.
Quách Lâm Tông nói: Người có lông mày tựa như trăng khuyết, danh vang thiên hạ. Hứa Phụ nói rằng: Người có lông mày cong tựa hình trăng khuvết, chẳng phải lo chuyện cơm áo, cả đời chẳng nghèo khổ.
Trong Thái thanh thần giám cho rằng: Người có lông mày cong cong, học thức cao siêu.
Giữa 2 mày rộng thoáng, cà đời hưởng phúc
Giữa 2 lông mày là Ấn đường, cũng được gọi là cung Quan lộc, cung Tướng mạo, cung Phúc đức, cung Tử khí. Trên mặt người, Ấn đường có mối quan hệ rất mật thiết với chuyện họa phúc của đời người. Người mà giữa 2 lông mày rộng thoáng, chia ra hai bên nhập vào tóc mai, cả đời hưỏng phúc, là người quý hiển. Năm 26 tuổi mới bắt đầu vận số, đến thời kỳ trung niên mới có thế có được công danh.
Có một vị chân nhân là Vệ Lâm từng nói: Lông mày được tượng trưng bởi hai sao La hầu và Kế đô, mày rộng là tướng tốt. Mày nhập vào cung Tử khí là tướng xấu. Ngoài ra, 2 lông mày không được gần sát nhau.
Trần Đồ Nam từng nói rằng: Người mà có lông mày dựng thẳng, lòng lang hiểm độc
Người có lông mày dựng đứng có tâm thích sát phạt.
Trong Đại thống phú có chép: Người có lông mày dựng thẩng đứng, tính tình vội vàng, thần thái hung mãnh, thích tranh đấu với người khác, có sát khí, làm việc vô nguyên tắc. Lại nói: Người có lông mày dựng thẳng đứng thường là người lòng lang hiểm độc.
Xem bói lông mày giao nhau ở Ấn đường, cả đời bôn ba
2 lông mày tại vị trí của Ấn đường có sự giao hòa với nhau, tức là mọc lấn vào vị trí Ân đường. Vì Ân đường được gọi là cung Quan lộc nên người mà lông mày không mọc lấn vào Ấn đường sẽ được làm quan, lại có cuộc sống an nhàn. Người mà có lông mày giao nhau, chẳng có được quan lộc, ngược lại còn phải bôn ba vất vả kiếm sống. Ấn đường cũng được gọi là cung Mệnh, lông mày được gọi là sao La, Kế, cho nên người mà có sao La, Kế nhập vào cung mệnh, cùng không được hưởng quan lộc.
Xem bói lông mày dài sát mắt, tai họa không ngừng
Trong Quảng giám tập có nói: Lông mày là hai sao La hầu, Kế đô, tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời của mắt. Lông mày sát mắt, tức là lông mày và mắt có sự tương liên, như thế là biểu hiện của 2 sao La hầu, Kế đô xâm phạm vào Thái âm và Thái dương. Mà Thái âm, Thái dương là sự hòa hợp của mặt trăng và mặt trời, là chủ của thân. Cho nên người có tướng này, từ 26 đến 29 tuổi vận thế không tốt; 37, 38, 39 tuổi cũng không thuận lợi. Tình hình như thế, nếu có sao Nguyệt bột chiếu rộng, Nhật, Nguyệt rõ ràng thì tai họa có thể giảm đi.
Trong lông mày có nốt ruồi, tốt xấu chẳng rõ
Trong tướng thuật, 2 lông mày có thể quản vận hạn của 4 năm. Trong đó, lông mày trái quản vận hạn 2 năm từ năm 26 đến năm 27 tuổi, còn lông mày phải quản vận hạn 2 năm từ 28 đến nảm 29 tuổi. Trong lông mày có nốt ruồi hoặc có đường vân, điềm tốt xấu trong đó có thể chia thành mấy loại sau đây:
Tai đại diện cho sự may mắn, sự giàu có và sức khỏe. Người tai lớn, dái tai chảy xệ thường có cuộc sống giàu sang…Những tướng tai khác thì sao? Để xem tướng tai bạn hãy đọc bài viết xem tướng tai để biết số phận con người để đoán biết vận mệnh của mình nhé!
Nội dung
Người có một đôi tai vừa dày vừa hồng hào sẽ khỏe mạnh và sống thọ.
Tai lớn là người thông minh và may mắn.
Dái tai phẳng là người có phong cách của các nhà triết học.
Thềm thịt ở tai mỏng là người khiêm tốn.
Tai lớn là người nhiệt tình và tràn đầy năng lượng.
Tai nhỏ là người nhanh nhẹn và phản ứng mau lẹ trong mọi tình huống. Tuy nhiên, khả năng chịu áp lực của họ không cao.

Người có lông ở tai thích tự bảo vệ mình, ích kỷ và hay bỏ qua cảm xúc của người khác.
Tai lớn, dái tai chảy xệ là người có cuộc sống giàu sang.
Tai nhiều lông là biểu tượng của sự trường thọ.
Tai cứng và hồng hào là người rất giàu có.
Màu sắc của tai trắng hơn mặt là người có tướng nổi tiếng.
Vành tai không rõ ràng là người thiếu chân thành.
Người có tai đậm màu, không tươi dễ mắc bệnh về tim.
Xem thêm:
Hành: Hỏa
Loại: Hao Tinh, Bại Tinh
Đặc Tính: Phá tán, hao tán
Tên gọi tắt thường gặp: Hao
Là một sao phụ tinh, một trong sao bộ đôi Tiểu Hao và Đại Hao. Gọi tắt là Song Hao. Cũng là sao thứ 4 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).
Đắc địa: Dần, Thân, Mão, Dậu.
Hãm địa: Tý, Sửu, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất, Hợi.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo: Cung Mệnh có sao Tiểu Hao, thì lùn, đẹt, ốm.
Tính Tình: Người thường hay thay đổi chí hướng, nghề nghiệp, tính hào phóng, thích tiêu pha, ăn xài lớn, hay ly hương lập nghiệp, thích đi đây đi đó hoặc làm các nghề lưu động, di chuyển.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Với Các Sao Khác:
Đại Hao, Tiểu Hao, Cự Môn, Thiên Cơ: Rất giàu có, tiền bạc thừa thãi vô cùng.
Sao Tiểu Hao gặp Hỏa, Linh: Bị nghiện (ghiền).
Sao Tiểu Hao với Tuyệt đồng cung: Xảo quyệt. Nếu Mệnh vô chính diệu thì càng giả trá và rất keo kiệt, tham lận.
Sao Tiểu Hao gặp Tham Lang đồng cung hay xung chiếu: Hiếu sắc, dâm dật nhưng rất kín đáo.
Sao Tiểu Hao gặp Hóa Kỵ: Vất vả, túng thiếu.
Đào, Hồng, Đại, Đại Hao: Tốn tiền nhân tình.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ không được sống gần quê cha đất tổ, phải thay đổi nơi ăn chốn ở, nghề nghiệp.
Sao Tiểu Hao, Hóa Kỵ thì cha mẹ vất vả.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Phúc Đức:
Sao Đại Hao ở cung Phúc Đức có nghĩa là bần hàn, giòng họ ly tán, tha hương lập nghiệp. Đại Hao rất kỵ ở cung này.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Điền Trạch:
Không có điền sản (nếu thêm Không, Kiếp càng chắc).
Dù có cũng phải bán, hoặc phải hao tốn tài sản.
Gặp Không, Kiếp đắc địa thì điền sản được mua đi bán lại rất mau.
Hao tốn vì dọn nhà cửa, thay đổi chỗ ở, hoặc một kiểng hai hoa.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Quan Lộc:
Làm việc có tính cách lưu động, thường hay thay đổi chỗ làm hay đổi nghề nghiệp.
Tiểu Hao gặp Hóa Quyền: Người dưới khinh ghét.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Nô Bộc:
Bị tôi tớ trộm cắp, làm hao tốn của cải hoặc bị người dưới, bạn bè ăn chận.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Thiên Di:
Tiểu Hao ở cung Thiên Di có nghĩa là khi ra ngoài tốn tiền, thường phải tha hương lập nghiệp, thay đổi chỗ ở nhiều lần.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Tật Ách:
Giải trừ được tai nạn, nhưng nếu có thêm các sao xấu như Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì vì đam mê một thứ nào đó mà sinh ra bệnh tật.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Tài Bạch:
Trừ phi đắc địa, vì bản chất của Tiểu Hao là hao tán, cho nên đóng ở cung nào làm giảm cái tốt của cung đó. Đặc biệt Tiểu Hao rất kỵ những cung Tài, Điền, Phúc. Về điểm này, Tiểu Hao nghịch nghĩa với Đẩu Quân.
Sao Tiểu Hao ở cung này có nghĩa là tán tài, hao tài, nghèo túng, có dịp phải ăn tiêu luôn.
Sao Tiểu Hao gặp Đào, Hồng: Tốn tiền vì gái.
Nếu Tiểu Hao gặp Phá hay Tuyệt thì bị phá sản. Tiểu Hao gặp Không, Kiếp cũng bị phá sản.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Tử Tức:
Sinh nhiều nuôi ít.
Con cái không được ở gần cha mẹ.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Phu Thê:
Đi xa mà gặp duyên nợ, việc cưới xin dễ dàng.
Đà La, Thiên Hình, Thiên Riêu thì người hôn phối phong lưu, tài tử.
Ý Nghĩa sao Tiểu Hao Ở Cung Huynh Đệ:
Anh chị em ly tán, mỗi người một chí hướng.
Tiểu Hao Khi Vào Các Hạn:
Có dịp hao tài tốn của hoặc vì tang khó, bệnh tật hay bị mất trộm.
Có sự thay đổi hoặc nghề nghiệp, hoặc chỗ làm, hoặc chỗ ở, hoặc đi ngoại quốc.
Nếu có ốm đau, thì mau hết bệnh.
Nhiều Phật tử để dành ra một vị trí đặc biệt trong ngôi nhà hoặc khu vườn để lập bàn thờ cầu nguyện, trong đó không thể thiếu những bức tượng Phật. Bên cạnh đó, nhiều người cũng kết hợp tượng Phật vào trang trí nội hoặc ngoại thất.
Đặt một bức tượng Phật trong nhà có thể thu hút tích các chi năng lượng tích cực. Tuy nhiên, khi bày tượng trong nhà sẽ có một vài quy tắc bất di bất dịch cần tuân theo để tránh xúc phạm đến Thần Phật. Đầu tiên, trước khi bạn đi mua sắm cần hiểu được ý nghĩa và biểu tượng của mỗi bức tượng trong mối quan hệ với khu vực bạn muốn đặt nó. Hãy làm theo những hướng dẫn dưới đây và để cả gia đình luôn bình an.
Một số quy tắc về vị trí:
- Không bao giờ đặt trực tiếp trên mặt đất hoặc trong phòng tắm. Cả hai đều được coi là vị trí thiếu tôn trọng.
- Không đặt trong phòng ngủ của bạn trừ khi tượng được giữ trong tủ có cửa đóng kín.
- Luôn đặt tượng quay mặt vào trong phòng. Nếu tượng Phật đặt ở lối vào của ngôi nhà thì có thể ngoại lệ, đối mặt với những người bước vào trong nhà.
- Tượng Phật ở trong vườn cần quay mặt vào nhà để mang lại bình an cho gia đình.
Tượng Đức Phật Thích Ca ngồi thiền
Những bức tượng Đức Phật trong tư thế ngồi với cả hai tay trong vị trí thiền thường thấy ở bàn thờ Phật trong nhà. Tượng Phật Thích Ca nên đặt quay mặt về hướng Đông vì Đức Phật ngồi thiền luôn hướng về phía mặt trời mọc để giác ngộ.

Tượng Phật Di Lặc
Trong nhà ở, tượng Phật Di Lặc được sử dụng rộng rãi, dễ nhận biết và sử dụng nhiều nhất. Ông Phật cười mang lại may mắn, thịnh vượng. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy của cải, tài lộc. Mọi người thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc để mong muốn được ban tặng nhiều may mắn. Tượng ông Phật cười có thể bày trên két sắt, tủ đựng tiền hoặc góc Đông Nam của ngôi nhà.

Tượng Phúc - Lộc - Thọ
Tượng Phúc Lộc Thọ đem lại cuộc sống may mắn và trường thọ, tài vận cho gia đình.Tượng Phúc Lộc Thọ được làm từ rất nhiều chất liệu như gốm sứ, mạ vàng, ngọc thạch, nhưng tượng làm từ đồng nguyên chất được coi là linh nghiệm nhất. Theo thứ tự khi bày, tượng ông Phúc đặt ở giữa, ông Lộc đặt bên trái và ông Thọ nằm ở bên phải.
Tượng ba ông Phúc Lộc Thọ nên bày ở một trong hai vị trí bên cạnh cửa chính để mang Tam Tinh vào nhà. Khi đặt tượng, mặt tượng không được hướng ra ngoài, chỉ có thể hướng vào trong phòng. Nếu như mặt hướng vào trong tức là đem tiền tài đến cho người trong nhà, nếu như hướng ra ngoài tức là tiễn tiền tài ra ngoài.

Tượng Phật bà Quan Âm
Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều gia chủ lựa chọn bởi Phật bà khiến cho gia đạo được bình yên, cứu rỗi khi gặp khó khăn và mang điều may mắn. Tượng hoặc tranh ảnh Phật bà nên được dặt ở vị trí trang nghiêm, tốt nhất nên ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách.

1. Màu xám
Nếu bạn không phải là người ồn ào thì màu xám chính là màu sắc hợp lý dành cho bạn. Bạn có thể thiết kế phòng ngủ với màu xám để đem lại cảm giác thoải mái và kết hợp một số màu sắc nhẹ nhàng xung quanh nó.

Mặc dù oải hương được coi là một màu pastel nhẹ nhàng, nhưng theo các nhà chuyên gia đánh giá thì đây là màu sắc khá rực rỡ, nó làm kích thích tinh thần và đánh thức các giác quan của bạn. Tuy nhiên, lại có một điều thú vị là những người yêu thích hoa oải hương thì lại cảm thấy yên tâm khi sử dụng màu sắc này trong phòng ngủ của mình. Nên màu này vẫn được đánh giá cao.

Màu mận là sự biến thể của hai màu tím và xám. Màu này hơi tối hơn màu tím nên không có tính kích thích thị giác, nhẹ nhàng cho tinh thần của bạn hơn, tạo được cảm giác an toàn trong phòng ngủ.
Màu bạc là màu gần với màu nước. Bên cạnh màu xanh dương, bạc được coi là một màu sắc sang trọng nhưng nhẹ nhàng. Đây là màu sắc được ưa chuộng sử dụng cho phòng ngủ mang lại cảm giác mát mẻ và sảng khoái.
5. Màu Sapphire
Sapphire là màu của đá quý, là một màu xanh sang trọng đem đến sự tinh tế cho mọi không gian. Nói chung, màu sắc này được các chuyên gia đánh giá là làm dịu mát cho cơ thể. Chính vì thế, những người thức dậy tại một phòng ngủ được sử dụng gam màu sapphire này thường có cảm giác rất hạnh phúc.

Màu dâu được đánh giá là màu lãng mạn và màu của sự đam mê. Nhưng có một lưu ý mà các chuyên gia mới công bố đó là nếu bạn sử dụng tông màu này quá nhiều sẽ làm phản tác dụng. Vì thế, để tạo sự cân bằng bạn nên kết hợp với màu trắng hoặc màu trung tính để tạo một luồng năng lượng tích cực.

Sau khi xem xét tâm trạng của mình, bạn lại cảm thấy màu chàm là được lòng bạn nhất vì nó nhẹ nhàng, trung tính lại có thể kết hợp với nhiều màu sắc khác đến từ vật dụng trong phòng ngủ. Chính vì thế, đây cũng được coi là màu sắc được nhiều người ưa chuộng.

Màu sắc xanh ngọc giúp bạn có được giấc ngủ yên tĩnh. Điều này giúp một số người cảm thấy rất vui vẻ. Các nhà khoa học cũng chia sẻ, xanh ngọc là màu sắc tác động đến giây thần kinh não bộ nhanh và tốt nhất, nên việc sử dụng màu xanh ngọc là rất tốt cho giấc ngủ.

9. Màu hoa cà
Nếu bạn vẫn luôn bỏ qua màu sắc hoa cà vì cảm thấy màu này là màu của bà già thì bạn đã nhầm to rồi nhé. Đây là một màu sắc trung tính đem lại sự thanh thản tối đa cho người sử dụng. Nó còn là màu tôn lên được rất nhiều màu sắc khác nên rất dễ sử dụng và phối hợp.
10. Màu gạch đỏ
Màu này là màu rất kích thích thị giác nên bạn lưu ý cần sử dụng và kết hợp nó cẩn thận. Vì tính chất này nên bạn chỉ nên sử dụng màu này ở một bức tường hoặc ở vài phụ kiện đồ dùng trang trí để đạt được hiệu quả tốt nhất.

11. Màu xanh lá
Màu xanh lá được coi là màu sắc hoàn hảo cho phòng ngủ. Màu này cũng khá đa năng phù hợp trong nhiều thiết kế từ hiện đại, đến truyền thống, hay dân dã đều có thể sử dụng được. Một số màu xanh có thể được coi là màu trung tính nên rất dễ kết hợp như một nền tảng để tôn lên những màu sắc khác.

12. Màu vàng
Trong một nghiên cứu mới đây nhất cho biết màu vàng chính là màu sắc được xếp thứ hai trong những màu nên sử dụng cho phòng ngủ. Nó là màu sắc tạo được cảm giác vui vẻ và ấm áp. Nhưng tương tự màu đỏ đây là màu được khuyến cáo là nên sử dụng vừa phải hoặc với sắc thái nhẹ nhàng hơn để tạo được sự thư giãn.
13. Caramel
Không chỉ là một món ăn ngon, caramel còn là màu sắc giúp cho phòng ngủ của bạn ấm áp và thân mật hơn. Nó còn tạo được sự lãng mạn tự nhiên cho phòng ngủ.

Cam là một màu sắc tốt nhất để tạo ra một không gian ấm áp và một bầu không khí thư giãn. Nó sẽ giúp phòng ngủ của bạn trở thành một thiên đường. Bạn sẽ có một đêm ngon giấc khi sử dụng màu sắc này cho phòng ngủ của mình.

15. Màu hồng cánh sen
Các bạn nữ nên sử dụng màu hồng cánh sen này cho phòng ngủ của mình vì màu sắc này khá nhẹ nhàng, nữ tính. Một điểm hạn chế của màu sắc này là bạn không nên kết hợp nó với màu sắc trung tính hay nổi bật khác mà chỉ nên kết hợp với màu trắng để có sự thoải mái cho các giác quan và giấc ngủ của bạn.

![]() |
![]() |
| ► Mời các bạn tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung Thu theo truyền thống dân gian |
– Ai sinh ra cũng mong muốn có được phúc phận tốt và gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Có lẽ 4 con giáp trong 12 con giáp dưới đây sẽ “cầu được ước thấy” điều đó khi được Thần May mắn che chở cả đời.
![]() |
![]() |
![]() |
Tiết lộ 5 con giáp “dựa hơi” Thần Tài, kiếm tiền như hái năm Bính Thân
1. Cả hai đều có khuôn mặt hình chữ “Giáp”
Nếu bạn để ý kỹ sẽ thấy khuôn mặt của cặp đôi Huỳnh Hiểu Minh và Angelababy đều có hình chữ “Giáp” (申), theo đó cũng có sự liên kết và đồng điệu khá lớn về tính cách.
Trong nhân tướng học, con trai mặt chữ “Giáp” lúc nào cũng dạt dào tình cảm, còn con gái có kiểu mặt này thì dịu dàng, thấu hiểu người khác. Sau khi về chung một nhà, cặp đôi này sẽ có cuộc sống vô cùng hạnh phúc, lúc nào cũng “chồng hát vợ khen hay”, vợ chồng hòa hợp, hôn nhân viên mãn.
![]() |
2. Cằm tròn đầy
Chủ nhân của chiếc cằm tròn đầy thường có tài xã giao tốt, các mối quan hệ hài hòa. Nếu cả vợ và chồng đều có đặc điểm này chứng tỏ hai bên có mạng lưới bạn bè rộng rãi.
Vì thế, đây đúng là sự kết hợp của cặp đôi quyền lực trong giới Cbiz. Họ sẽ cùng nhau đương đầu với mọi thử thách trong cuộc sống, càng về già tình yêu càng gắn kết bền chặt.
Ngoài ra, nhìn kỹ sẽ thấy cằm của tài tử điển trai Huỳnh Hiểu Minh khá rộng, còn của Angela nhỏ nhắn. Xét theo sự hòa hợp trong tướng số, đây là tướng vợ chồng hòa hợp.
![]() |
3. Angelababy mặt tròn, Huỳnh Hiểu Minh mặt vuông vức
Như bạn biết đấy, hình tròn biểu trưng cho trời còn hình vuông đại diện cho đất. Sự kết hợp này khiến trời đất hòa hợp, hôn nhân sẽ vô cùng viên mãn.
Hơn thế, các chàng mặt vuông vức thể hiện đậm chất nam tính, tính cách lại chân thành, thẳng thắn. Các nàng mặt tròn xinh xắn, biết thấu hiểu người khác, cư xử khéo léo, có chuẩn mực nhất định. Sau khi kết hôn, chàng nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp còn nàng lo toan cuộc sống gia đình.
Mr.Bull (Theo Meiguoshenpo)
Chùa Thiền Quang nằm tại phố Trần Bình Trọng, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, chùa được Sư cụ Thích Đàm Tường trụ trì. Đây được xem như một trong những nét văn hóa của người dân Hà Nội.
Thiền Quang là tên một ngôi chùa ở thôn Thiền Quang do dân làng Pháp Hoa góp tiền dựng năm 1860.
Chùa hiện còn giữ được nhiều di vật, tượng cổ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 19 có giá trị. Trong chùa hiện có một tấm bia khắc năm 1882 kể về lai lịch chùa. Năm 1989, chùa được bộ Văn Hóa và Thông tin xếp hạng di tích thắng cảnh. Cụm ba ngôi chùa là Thiền Quang, Quang Hoa và Pháp Hoa nằm cạnh nhau, ở số nhà 31-33.
Đây cũng là một trong số những địa danh tâm linh tại Hà Nội dành cho các phật tử thập phương đến cúng bái đặc biệt vào dịp lễ đầu xuân năm mới.
Hiện tượng đó được giải thích như sau: Con người đang ở nhiệt độ bình thường (37oC), tự nhiên mất nhiệt thì nhiệt độ không chỉ hạ xuống tới hoà đồng với nhiệt độ môi trường mà còn tụt xuống thấp hơn, sau đó một thời gian nhiệt độ mới nhích dần lên tới thể ổn định.
Dân gian công nhận hiện tượng hơi lạnh ở nhà người chết mới chết là hiện tượng có thực, hiện tượng vướng phải hơi lạnh bị ốm cũng là hiện tượng phổ biến, nhất là đối với những người bị các chứng kinh niên như phong thấp, huyết áp cao, tâm thần... còn đối với những thanh niên mạnh khoẻ thì không mấy ai bị ảnh hưởng.
Có thuyết cho rằng: Những người đồng khí huyết (con cái với cha mẹ, anh chị em ruột hoặc gần huyết thống) thì không bị nhiễm hơi lạnh, không có phản ứng gì kể cả khi ôm ấp thi hài và khâm liệm. Tuy nhiên, để phòng xa, người ta vẫn kiêng không cho các bậc cao lão, phụ nữ có thai sắp đến ngày sinh hoặc sản phụ hài nhi đến dự khậm liệm, an táng và cải táng.
Có người hấp thụ phải hơi lạnh thì phản ứng tức thì. Có người trực tiếp khâm liệm, nhiễm hơi lạnh, bản thân khoẻ mạnh không việc gì, nhưng để phòng ngừa cho người ở nhà nên khi vaò nhà có người già, ốm yếu, trẻ sơ sinh vẫn phải xông khói rồi mới vào.
Những người hàng xóm xung quanh nhà có tang lễ, nếu có cụ già trẻ nhỏ ốm yếu thường đặt sẵn ở cửa ra vào một lò than đốt vỏ bưởi và quả bồ kết để trừ uế khí. Những người nghi bị chó dại cắn, gia đình thường tuyệt đối cách ly đám tang và nơi nghĩa trang, e rằng vướng phải hơi lạnh chưa kịp chạy chữa đã phát bệnh.
Phúc Đăng Hỏa Ất Tỵ là con rắn khiến cho người ta phải sợ hãi, cá tính thâm trầm, trí tuệ cao siêu, ngoài nhu trong cương, là người hào phóng, thích cuộc sống ẩn dật, không nhận gánh vảo tổ nghiệp. Phúc đăng Hỏa chiếu đến những nơi mà mặt trời, mặt trăng không chiếu đến, làm sáng những nơi còn tối tăm. Hỏa này là hỏa phát sáng vào ban đêm trong nhân gian.
Trong tử vi Ất Tỵ là Hỏa lâm quan, Thủy không thể khắc, được Thủy cứu tế, chủ về thuần túy. Hỏa khác trợ nó cũng tết. Hỏa này hàm khí thuần dương, rực rõ xán lạn. Sinh vào mùa xuân và mùa đông chủ cát lợi, sinh vào mùa hạ và mùa thu khó tránh điềm hung.

Lấy Mộc làm bấc, lấy Thủy làm dầu, Địa chi không ưa có xung, ví dụ như gặp Hợi e gió thổi đèn tắt, chủ đoản mệnh.
Phàm gặp Mộc đều tốt, rất ưa được quan tinh, lộc quý trợ giúp, có thể vinh hoa.
Thủy lấy Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy làm dầu thật. Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trưòng lưu Thủy là dầu giả. Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy; Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy không thể làm dầu, gặp chúng chủ về cả đời bình bình mà thôi.
Hỏa này gặp Thủy cần có Mộc giúp đõ, Thủy nhiều cũng chủ về ít cát lợi, e rằng tai họa nhiều.
Ưa Nhâm Dần, Quý Mão Kim bạc Kim, Kim Hỏa huy hoàng, chủ về thanh quý.
Ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim, gọi là Đăng hoa phất kiếm cách.
Không ưa Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim.
Gặp Canh Tý, Tán Sửu Bích thượng Thổ có thể án thân; Bính Tuất, Đinh Hợi ôc thượng Thổ cũng chủ về ăn mặc không thiếu, các Thổ còn lại vô dụng.
Hỏa ưa cùng loại, sợ gió thổi. Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa là hỏa thần long biến hóa, ắt mang gió đến, e rằng sẽ yểu thọ.
Ất lộc tại Mão, các Địa chi của trụ khác ưa Mão.
Tỵ mã tại Hợi, các Địa chi của trụ khác không ưa thấy Hợi, thấy chủ về mã bị hình, thưòng thiếu tiền tiêu.
Mệnh nữ sẽ một giai đoạn yêu đương thương tâm, tâm tình không ổn định.
Người sinh năm này thưồng thích thể hiện, làm việc có nguyên tắc, chọn điều thiện mà giữ vững.
Gặp năm Tỵ, năm Hợi, trong nhà không yên, không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.
Bạn đời Ất Tỵ không nên lấy người sinh năm Canh, Tân. Nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ.
Các Địa chi của trụ khác có Dần, thân thể có thương hại, mệnh nữ lấy 3 chồng.
Các can khác có Bính, có thể phú quý.
Các can khác có Tân, cẩn thận đề phòng phạm pháp, nhẹ sẽ phá bại.
Ât quý tại Tý, các Địa chi của trụ khác ưa Tý, chủ cát lợi.
Các Địa chi của trụ khác có Ngọ là người thông minh, có thể học đoán mệnh, giáo viên hoặc theo lĩnh vực nghệ thuật.
Đây là phần 2 trong loạt bài Thuật phong thủy xưa và nay, nêu tiếp những vấn đề về vị trí, hướng và không gian của nhà ở trong quan điểm của thuyết Phong thủy.
Nhà tránh ở ngã ba đường cái mà có lối xộc thẳng đâm vào mặt tiền. Nhà không làm nơi ngõ cụt, thường những nơi này hay có luồng gió quẩn, đưa bụi bẩn vào nhà. Không chọn vị trí nhà gần đền chùa, miếu mạo... Phong thủy có thể giải thích theo quan điểm của mình những điều cần tránh vừa nêu.

Chẳng hạn nhà làm nơi cửa núi, cửa thung lũng thì gió độc vào nhà, gia đình li tán. Nhà làm trên nền giếng cũ thì gia chủ ốm đau. Nhà làm trong ngõ cụt gia chủ đơn côi. Nhà làm gần đền miếu gia chủ tâmthần bất định. Hàng ngày con người cần lao động để tồn tại mà luôn luôn tiếp xúc với không khí thần thánh, sao mà ổn định tâm lí được. Nhà làm mà phía sau có núi cao chủ nhà cuồng chữ...
Kích thước của ngôi nhà, của các bộ phận nhà cửa theo phong thủy cũng có quy tắc khá chặt chẽ. Để đo chiều dài, người xưa sử dụng "bộ" thay cho "thước" (xích). Chín thước là hai bộ. Mỗi thước xấp xỉ 40cm ngày nay. Số lượng 'bộ" định cho từng bộ phận nhà hoặc toàn nhà cũng có phép tắc. Một "bộ" gọi là kiến, hai "bộ" là mãn, bốn "bộ" là bình, năm "bộ" là định, sáu "bộ" là chấp, bảy "bộ" là phá, tám "bộ" là nguy, chín "bộ" là thành, mười "bộ" là thu, mười một "bộ" là khai, mười hai "bộ" là bế. Đến "bộ" thứ mười ba thì lặp lại chu kỳ trên.
Kiến là kích thước cơ bản, trừ là bỏ bớt, mãn là đầy đủ, bình là vừa phải, định là không có thay đổi, chấp là nên nắm lấy, phá là tan vỡ, nguy là không ổn định, thành là đạt được điều hay, thu là nhận lấy, khai là mở mới, bế là dừng là tắc. Theo như thế mà chọn lấy điều mong muốn khi định kích thước nhà và các bộ phận nhà. Kích thước lại được luận đoán theo lành dữ rất khiên cưỡng. Chẳng hạn như kiến là nguyên cát (gốc của điều lành), trừ là sáng sủa, mãn là thiên hình, bình là quyền thiệt (uốn lưỡi), định là kim quỹ (thước vàng), chấp là thiên đức, phá là xung sát, nguy là ngọc đường, thành là tam hợp, thu là tặc kiếp (cướp giật), khai là sinh khí, bế là tai họa.
Nên chọn kích thước theo kiến, mãn, bình, thu. Kích thước chấp nhận được là trừ, nguy, định, chấp. Thành, khai dùng tốt. Hết sức tránh các kích thước trong bộ bế, phá. Chiều rộng nhà không chọn mãn, bình, thu, bế. Chiều dài nhà lấy theo trừ, định, chấp, khai. Số "bộ" của nhà hợp với quy tắc trừ, định, chấp, nguy, khai, kiến thì ở trong nhà ấy sớm sinh quý tử. Nhà có số "bộ" hợp với quy tắc trừ, định, nguy, khai, chấp, kiến thì người trong nhà mau thăng quan tiến chức.
Thuật phong thủy hết sức coi trọng sự mở cửa của nhà. Cửa, cổng, đón đưa môn khí mà như lí khí luận thì môn khí cùng với địa khí là hai tiêu chí quan trọng nhất của ngôi nhà. Cửa có thể tiếp nhiên khí nếu hướng lên trên, hướng xuống dưới thì tiếp địa khí, đón lành, tránh dữ. Để quyết định cửa của ngôi nhà, cần cân nhắc phương vị của cửa, xem cửa nên mở ra không gian nào. Chiều cao, bề rộng của cửa, vật đối diện với cửa đều hết sức quan trọng.
Cửa nhìn ra không gian thoáng đãng, để có thể khi ngước lên ngắm trăng nhìn mây, coi ngang tầm mắt thì ngắm cây, nhìn hoa, đẹp biết mấy. Sự cần thiết trong nhà cũng có những quy tắc theo phong thủy. Nơi đặt bài vị thờ cúng tránh đối diện với phương Thái Tuế. Đặt bài vị vào các năm Tí, Sửu, Dần, Hợi kiêng quay mặt hướng Bắc. Đặt bài vị vào các năm Mão, Thìn phải kiêng quay mặt về hướng Đông, Các năm Ngọ, Mùi, kiêng quay mặt hướng Nam. Các năm Thân, Dậu, Tuất kiêng quay mặt hướng Tây. Như thế, theo phong thủy, mỗi năm phải đặt lại bài vị một lần. Xưa nay, nhiều nhà chỉ đặt hướng bài vị một lần đâu đó phải họ làm ăn sa sút.
Còn tổ chức không gian trong kiến trúc mặt bằng cần theo những quy định cũng khá chặt chẽ như cần đảm bảo các quy tắc đối xứng, ngay ngắn, rộng hẹp. Cây cối trong kiến trúc sân vườn của khuôn viên nhà ở cũng cần cẩn thận. Trồng cây dâu trước nhà là điều kiêng kị vì điều đó đồng nghĩa với tang môn thần. Đó chẳng qua vì tiếng Tàu, tang là dâu, đồng âm với tang là nhà có đám nên kiêng mà thôi. Sau nhà lại không nên trồng cây hòe mà phải trồng ở nơi đón khách. Đó là vì muốn trình ra cái chí tam công nguyện ước.
Truyện xưa kể Vương Dụ thời Tống trồng ba cây hòe ở sân trước và nói: "Hậu thế của ta sẽ có người làm đến tam công (tư mã, tư đồ, tư không) thật là thỏa chí của ta". Sau đó nhà này có người làm đến chức tam công thật.
Phong thủy bắt đầu phát sinh từ Tiên Tần bên Tầu, dai dẳng kéo dài, đến bây giờ còn nhiều người bị ảnh hưởng.Thuật phong thủy, trên thì xem thiên văn, dưới xét địa lý. Lí thuyết cơ bản từ học thuyết thái cực, âm dương, ngũ hành, tinh tượng cực kì bí hiểm. Thày phong thủy thêu dệt chuyện li kỳ, gán ghép nhiều sự kiện lịch sử, thổi phồng sự trùng hợp ngẫu nhiên tô cho phong thủy màu sắc kì ảo, làm cho dân chúng cảm thấy thần bí.
Hãy hỏi có vua chúa nào xây cung, đặt mộ mà không mời thày phong thủy tham mưu chính cho mình. Nhưng có đời vua chúa nào tồn tại vĩnh hằng ?! Khi thuận thời, nhà xây cho thuê khen được thày đặt đất, coi hướng làm nhà. Khi ế ẩm khách thuê như mấy năm gần đây, gia chủ ai nỡ trách tại thày phong thủy. Thiết kế kiến trúc giải quyết tốt công năng, kết cấu bền vững, đường dáng hài hòa, gia chủ phấn khởi làm nên ăn ra. Đó là cái phong thủy tốt nhất cho người sắp làm nhà vậy !
![]() |
![]() |
4 vật phẩm phong thủy trừ tà nên tặng làm quà cho phái nữ
Chọn đuôi số điện thoại hợp mệnh, 12 con giáp tha hồ hốt bạc
Muốn buôn may bán đắt, đừng phạm đại kỵ trong phong thủy cửa hàng
Muốn phong thủy tốt - hãy làm tốt từ chính con người bạn
Bính Dần nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1926, 1986 và 2046
Cung KHẢM
Mạng LƯ TRUNG HỎA (lửa trong lu)
Xương CON CỌP. Tướng tinh CON CHIM TRỈ
Bà Chúa Ngọc độ mạng
Bính Dần cung Khảm lửa lư,
Tuổi sanh Xuân, Hạ ấm no thanh nhàn.
Thu Đông sinh gái là nàng,
Lỗi sanh cực nhọc sanh nàng âu lo.
Lỗi sanh mang giỏ hái dâu,
Cực xác mệt trí điên đầu vì đâu.
Đặng sanh an ngủ có giờ,
Kẻ hầu người hạ đợi chờ khiến sai.
Tuổi Dần bất luận là ai,
Khôn ngoan mưu trí ít ai sánh bằng.
Giận ai muốn tới ăn gan,
Ai quấy biết lỗi than van chịu liền.
Tiền vận chẳng được an thân,
Hậu vận sung sướng tròn vành mấy thân.

Tuổi Bính Dần tiền vận rất khổ cực, âu sầu, tâm trí không được yên vui, lo nghĩ triền miên, cuộc sống lên xuống không chừng đỗi. Vào trung vận cũng nhiều lao đao lắm, chưa bao giờ có được sự thảnh thơi, cho nên cuộc sống vào thời kỳ tiền vận thường bị hăm dọa, trung vận cũng có nhiều sầu khổ lo âu về cuộc sống, hậu vận mới an nhàn và thảnh thơi được.
Tóm lại: Cuộc đời của tuổi Bính Dần vào tiền vận thì khổ sở, trung vận lao đao, hậu vận mới được an nhàn về thể xác.
Tuổi Bính Dần hưởng thọ trung bình khoảng từ 55 đến 73 tuổi. Nhưng nếu ăn ở hiền lành thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.
Về tình duyên tiền vận cũng có nhiều khó khăn rồi mới thành. Theo tướng số và tử vi, tuổi Bính Dần về tình duyên chia ra ba giai đoạn như sau:
Sanh vào những tháng sau đây cuộc đời sẽ có ba lần thay đổi tình duyên và hạnh phúc, đó là sanh vào những tháng: 3, 6, 8 và 10 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 2, 4, 7, 9 và 11 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn sống hoàn toàn hạnh phúc, không có thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 5 và 12 Âm lịch.
Trên đây là diễn tiến về tình duyên của tuổi Bính Dần, căn cứ theo trên, bạn có thể quyết định số mạng theo cuộc đời của mình.
C ông danh nếu có cũng chỉ ở mức độ tầm thường, nếu không có công danh thì việc làm ăn có nhiều tấn phát. Phần gia đạo từ 40 tuổi trở đi sẽ được êm ấm không có gì xảy ra có thể làm cho gia đạo ở trong sự bão tố của cuộc đời.
Sự nghiệp được vững chắc từ lúc vừa vào tuổi 40. Tiền bạc có cơ hội phát triển vào tuổi 42 trở đi, vào tuổi nầy thì tiền bạc được dư dả, có cơ hội tạo nên sự nghiệp và tiền bạc hoàn toàn đầy đủ.
Trong việc làm ăn hay hợp tác làm ăn, bạn cần nên lựa những tuổi hạp với tuổi mình mới tạo được một cuộc sống hoàn toàn đầy đủ và mới có thể đem lại cho đời mình vui tươi, êm ấm được. Trong suốt cuộc đời bất kỳ vào lúc nào, bạn cũng có thể hợp tác làm ăn hay hùn hạp, cộng tác với những tuổi nầy: Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu. Ba tuổi nầy rất hạp với tuổi Bính Dần trong mọi sự làm ăn cũng như mọi khía cạnh của cuộc đời.
T rong việc hôn nhân bạn cần phải lựa chọn những tuổi hạp với tuổi mình, mới có thể tạo được cuộc sống vui tươi và đầy đủ. Nếu bạn chọn được những tuổi sau đây, bạn sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn giàu sang hay ít ra cũng dư dã về tiền bạc, cuộc đời hoàn toàn sung sướng. Đó là bạn chọn được các tuổi: Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu, Ất Hợi, Giáp Tý, Quý Hợi. Nếu bạn kết hôn với tuổi Đinh Mão hay Canh Ngọ: Bạn có cơ hội tạo lấy tương lai và dễ dàng tạo một cuộc sống hoàn toàn. Với tuổi Quý Dậu, Ất Hợi: Cuộc sống có cơ hội phát triển về tiền bạc và dễ dàng trong sự làm ăn. Với tuổi Giáp Tý và Quý Hợi: Có thể tạo được một cuộc đời hoàn toàn tươi đẹp và đầy đủ cho cuộc sống của bạn.
Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy bạn chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Bính Dần đồng tuổi, Nhâm Thân. Hai tuổi nầy chỉ hạp với tuổi bạn về vấn đề tình duyên mà không hạp về đường tài lộc.
Nếu bạn kết duyên với những tuổi nầy thì cuộc sống của bạn có thể sẽ gặp sự khó khăn hoặc không tạo được một cuộc sống hoàn toàn êm đẹp, cuộc đời vẫn cứ nghèo khổ triền miên, không có cơ hội tạo lấy một cuộc đời khả dĩ bảo đảm cho sự sống, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Mậu Thìn, Giáp Tuất, Canh Thìn. Bạn kết hôn với những tuổi nầy đời bạn sẽ bị nghèo khổ và không tạo được cơ hội phát triển về tài lộc.
Những năm nầy xung kỵ tuổi. Việc kết hôn sẽ không thành hay thành thì phải gặp cảnh xa vắng triền miên, sầu khổ và lo âu về việc gia đình, đó là bạn ở vào số tuổi: 22, 28, 34, 40, 46 và 52 tuổi. Những năm nầy có chồng thì sẽ phải gặp cảnh xa vắng luôn luôn.
Nếu bạn sanh vào những tháng nầy, về tình duyên của bạn phải có nhiều lần thay đổi, hay cuộc đời bạn có rất nhiều chồng. Đó là bạn sanh vào những tháng: 2, 3 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng trên, cuộc đời sẽ có nhiều chồng, hay ít ra cũng sẽ rất đa đoan về vấn đề tình duyên.
Trong cuộc đời bạn có những tuổi đại kỵ nhứt trong đời, kết hôn hay làm ăn gặp phải cảnh biệt ly hay tuyệt mạng giữa cuộc đời, đó là các tuổi xung kỵ với tuổi Bính Dần. Đó là các tuổi: Kỷ Tỵ, Tân Mùi, Đinh Sửu, Tân Tỵ, Quý Mùi, Ất Sửu và Kỷ Mùi. Những tuổi nầy là những tuổi rất xung khắc với tuổi bạn, không nên làm ăn hay kết duyên, sẽ có hại cho cuộc đời.
Trong việc hôn nhân nếu đã lỡ thương yêu nhau mà gặp tuổi kỵ thì nên kết hôn một cách âm thầm, kỵ nhất là không nên làm lễ ra mắt linh đình. Trong sự làm ăn nếu gặp tuổi kỵ nên tránh giao dịch nhiều về vấn đề tiền bạc. Trong bà con thân tộc hoặc con cái nếu gặp tuổi kỵ thì phải tùy theo sao hạn từng năm của mỗi tuổi mà cúng sao giải hạn thì mới có thể sống gần nhau được. Ngoài ra, cần phải luôn luôn nhẫn nhịn về lời ăn tiếng nói với những người kỵ tuổi với mình để tránh những sự đáng tiếc có thể xảy ra.
Tuổi Bính Dần có những năm khó khăn nhứt, làm ăn không được khá, hay cuộc sống có nhiều rối rắm. Đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 27, 33, 38 và 43 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng bịnh hoạn hay hao tài tốn của.
Tuổi Bính Dần xuất hành vào những ngày hạp nhứt là những ngày lẻ, giờ lẻ và tháng lẻ. Xuất hành theo như trên thì sẽ thâu hoạch được nhiều thắng lợi, không sợ thất bại gì cả. Việc xuất hành trên được áp dụng cho suốt cuộc đời.
Từ 18 đến 25 tuổi: Năm 18 tuổi nên đề phòng về vấn đề tình cảm, coi chừng bị lợi dụng. Năm 19 tuổi, sẽ gặp một chuyện tình rất đẹp, nhưng rồi cũng vẫn sẽ bị tan vỡ. Năm 20 tuổi, kỵ tháng 6, kỵ màu đen và kỵ đi xa. Từ 21 đến 23 tuổi: Trong ba năm nầy nhất định bạn sẽ gặp được người tình lý tưởng của bạn. Năm 24 tuổi, năm nầy có thể bạn sẽ lập gia đình và nếu có sẽ rất tốt. 25 tuổi, năm đầy đủ hạnh phúc. Đời bạn bắt đầu lên từ đây.
Từ 26 đến 30 tuổi: Đây là khoảng thời gian đẹp nhất trong đời bạn, gia đình thì êm ấm hạnh phúc, con cái đều được như ý, nếu bạn đã có gia đình, tiền bạc và tài lộc vào như nước. Bạn nên lợi dụng những năm tốt nhất nầy của đời bạn để xây dựng sự nghiệp vì đây là những năm của bạn, không hề có sự thất bại hoặc buồn phiền.
Từ 31 đến 35 tuổi: Cuộc đời con người ta như nước thủy triều, vì vậy, có khi lên thì phải có khi xuống, và đây là những năm xuống của đời bạn, vì suốt trong khoảng thời gian nầy nhất định bạn hoặc sẽ bị lừa gạt, hao tài tốn của, hoặc sẽ bị đau bịnh liên miên, làm ăn thất bại, việc gì tính cũng không thành. Tuy nhiên về bổn mạng nhờ có quý nhân phò trợ nên vẫn được vững vàng.
Từ 36 đến 40 tuổi: Khoảng thời gian nầy là khoảng thời gian yên tĩnh của đời bạn, tài lộc trung bình, tuy nhiên sẽ có một vài sự sôi nổi về vấn đề tình cảm, coi chừng hãy đề phòng, bạn có thể vì một phút yếu lòng nào đó mà có thể làm cho hạnh phúc gia đình của bạn bị sứt mẻ hoặc sụp đổ bất ngờ.
Từ 41 đến 45 tuổi: 41 tuổi, năm nầy hơi xấu vào những tháng đầu năm, vào tháng 6 trở lên thì khá. 42 tuổi, năm nầy có nhiều triển vọng tốt đẹp về nghề nghiệp, tài lộc có kết quả mỹ mãn. 43 tuổi, năm nầy có kỵ vào tháng 3 và 6, ngoài ra, những tháng khác trung bình. 44 tuổi, năm nầy tài lộc đều tốt đẹp, toàn năm thâu nhiều thắng lợi về nghề nghiệp lẫn tình cảm. 45 tuổi, năm nầy có tốt về đường tài lộc vào những tháng đầu năm, những tháng cuối năm có hơi xấu.
Từ 46 đến 50 tuổi: 46 tuổi, khá tốt và có thể làm ra nhiều việc vĩ đại trong đời, năm nầy tài lộc vượng phát. 47 và 48, hai năm nầy trung bình không lên cao cũng không xuống thấp. 49 và 50, hai năm nầy vượng phát về vấn đề tài lộc và vấn đề tình cảm, nhứt là những tháng 4 và 7 thì đại lợi.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian nầy việc làm ăn trung bình. Năm 51 tuổi, có hao tài đôi chút. 52 tuổi, có phần thâu hoạch được nhiều tiền bạc. 53 tuổi, khá hay về phần tình cảm, năm nầy có kỵ tháng 4. 54 tuổi, toàn năm đều xấu, nên đề phòng tai nạn và bịnh tật. 55 tuổi, năm bình thường, không có chuyện gì xảy ra quan trọng.
Từ 56 đến 60 tuổi: Khoảng thời gian nầy nên cẩn thận cho lắm về bổn mạng và thân thể. Năm năm khó tránh được những điều xấu làm cho thân phận có nhiều rầu buồn, hãy cố gắng sống một đời sống đạo đức, ăn ở hiền lành thì Trời Phật độ.
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Dần
Xem tử vi năm mới
Nguyên tắc đầu tiên cần đảm bảo cho gian bếp là cần có màu sắc hài hòa, thoáng khí, có ánh nắng tự nhiên. Trong trường hợp thiếu sáng, gian bếp cần trang bị đầy đủ đèn trần, đèn thả bàn, đèn chùm với ánh sáng vàng để mang đến sự ấm cúng và độ sáng cần thiết cho gian bếp. Nếu không có cửa sổ bếp cũng cần có quạt thông gió và tốt nhất là trang bị máy hút mùi, hút khói ngay phía trên bếp nấu.
Nên sử dụng các nguyên liệu thân thiện với môi trường và không quá trơn nhẵn trong gian bếp như thạch cao, đá tự nhiên, sỏi rải… Những vật liệu cách nhiệt, khó bắt lửa này vừa khiến không gian nhà bếp thoáng mát và đảm bảo độ an toàn cho người đứng nấu.
Hướng lý tưởng để đặt bếp nấu là Đông Bắc. Ngoài ra bếp nấu có thể đặt hướng chính Tây hay Nam. Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng là cần tránh tuyệt đối đặt bếp ngoảnh lưng với hướng nhà, người nấu bếp đứng quay lưng lại thẳng với cửa chính. Bếp đối diện với cửa nhà cũng là hướng xấu. Kết cấu xuyên tâm thông từ cửa chính đến bếp dễ khiến gia chủ hao tán tài sản, lục đục trong nhà. Trong trường hợp bếp đã thiết kế sẵn như vậy có thể dùng bình phong hoặc chậu cây chắn giữa hoặc chuyển bệ bếp đặt ngang lại.
Các hướng đặt bếp ngoài Đông Bắc, chính Tây hay chính Nam đều không tốt. Với các nhà chung cư, việc này khó kiêng kỵ tuyệt đối. Nếu bếp nấu ở hướng xấu có thể dùng cây xanh để hóa giải. Bếp hướng Đông nên trồng hoa cho hoa màu đỏ, tím như mào gà, đỗ quyên; bếp hướng Bắc chọn hoa có màu trắng hay cây đậm màu xanh như nhài, vạn niên thanh… Các cây rau gia vị cũng rất thích hợp trồng gần gian bếp vì hóa giải được sát khí tỏa ra. Không nên cắm hoa trong gian bếp.
Tránh kê bếp dưới xà ngang, đối diện nhà vệ sinh hay trước phòng ngủ vì điều này ảnh hưởng đến sức khỏe gia chủ. Nếu diện tích hẹp không tránh được bố trí như vậy thì cũng đảm bảo cửa đóng khi bếp nấu.
Trong gian bếp, ưu tiên những đồ có tính hỏa. Bệ bếp cần đặt cao hơn bồn rửa và tránh kẹp giữa tủ lạnh, tủ đá, bể nước…, là những đồ vật có tính thủy. Các dụng cụ nấu bếp ưu tiên tính kim loại, tránh bắt lửa và giữ sạch gian bếp.
Ngoài kích thước mắt nói chung, con ngươi cũng thay đổi từ nhỏ đến to và có nhiều điểm liên quan đến cá tính

Ngoài tính đa dạng về kích thước mắt nói chung, con ngươi cũng thay đổi từ nhỏ đến to và có nhiều điểm liên quan đến cá tính. Thông thường, con ngươi càng to thì tính tích cực của cá nhân càng tăng.
Mắt có con ngươi to
Nam giới có con ngươi to thường là người chồng tốt, người bạn trung thành và đối tác đáng tin cậy. Nếu người vợ cũng có đặc điểm mắt như vậy thì đây là cặp đôi lý tưởng.
Nếu khóe mắt to và có hình dạng tròn là dấu hiệu đặc biệt tích cực, thể hiện chủ nhân rất thành thực, khiêm nhường, chung thủy.
Con ngươi nhỏ
Người có con ngươi nhỏ và sậm màu một cách khác thường đa phần mang cá tính tiêu cực, dễ gây gổ, tranh chấp với người khác.
Mắt có con ngươi nhỏ
Nam giới có đặc điểm này thường không đáng tin cậy, hay gây chuyện. Nữ giới thường hay bất mãn với công việc và các mối quan hệ nói chung.
Con ngươi nhỏ và đen
Ở cả 2 giới đều biểu thị cho tính tự cao tự đại quá mức. Họ đều là người ít hoặc không có tinh thần xây dựng trong công việc cũng như trong cuộc sống, thậm chí còn luôn có tư tưởng chống đối, phá hoại, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hà Lan tên là De Groot thì Quan Âm Nam Hải trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.
Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự.
Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).
Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng Diệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây… Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.
Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn.
Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.