Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Lễ Tế Ngu (Văn khấn trong tang lễ)

Văn khấn Lễ Tế Ngu (văn khấn trong tang lễ) là lễ ba ngày sau khi mất hoặc ba ngày sau khi chôn cất xong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Ý nghĩa:

Lễ ba ngày sau khi mất hoặc ba ngày sau khi chôn cất xong

2. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

- Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương

- Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân

- Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ.

Hôm nay là ngày…….tháng……..năm……….

Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………

Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.

Nay nhân ngày lễ Tế Ngu theo nghi lễ cổ truyền,

Kính dâng lễ mọn biểu lộ lòng thành.

Trước linh vị của: Hiển……………..chân linh

Xin kính cẩn trình thưa rằng:

Than ôi! Trên tòa Nam cực, lác đác sao thưa; (nếu khóc cha hoặc đổi là Bắc vụ nếu khóc mẹ).

Trước chốn Giao trì, tờ mờ mây khóa.

Cơ tạo hóa làm chi ngang ngửa thế, bóng khích câu, khen khéo trêu người.

Chữ cương thường nghĩ lại ngậm ngùi thay, tình hiếu đễ chưa yên thỏa dạ.

Ơn nuôi nấng áo dày cơm nặng, biển trời khôn xiết biết công lao;

Nghĩ sớm hôm ấp lạnh quạt nồng, tơ tóc những hiềm chưa báo quả;

Ngờ đâu! Nhà Thung (nếu là cha hoặc Nhà Huyên nếu là mẹ) khuất núi, trời mây cách trở muôn trùng;

Chồi Tử mờ sương, âm dương xa vời đôi ngả.

Trông xe hạc lờ mờ ẩn bóng, cám cảnh cuộc phù sinh chưa mấy, gót tiên du đã lánh cõi trần ai.

Rồi khúc tằm. áy náy trong lòng, thương thay hồn bất tử về đâu, cửa Phật độ biết nhờ ai hiện hóa.

Suối vàng thăm thẳm, sáng phụ thân (hoặc mẫu thân) một mình lìa khơi,

Giọt ngọc đầm đìa, đàn con cháu, hai hàng lã chã.

Lễ Sơ Ngu (hoặc Tái Ngu, Tam Ngu) theo tục cổ, trình bày:

Nhà đơn bạc, biết lấy gì để dóng dả.

Đành đã biết: đất nghĩa trời kinh, nào chỉ ba tuần nghi tiết, đủ lễ báo đền

Cũng gọi là: lưng cơm chén nước, họa may chín suối anh linh, được về yên thỏa

Ôi! Thương ôi!

Chúng con lễ bạc tâm thành, thành tâm kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

Kính cáo!

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Tế Ngu (Văn khấn trong tang lễ)

Phật giáo bàn về cái kết của tự sát

Da thịt của mẹ cha cho, không may thương tổn đã là có lỗi, còn tự sát thì ắt là tội nghiệt. Phật giáo bàn về tự sát sẽ chỉ ra kết cục của việc làm không sáng
Phật giáo bàn về cái kết của tự sát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

suốt này.

 
Phat giao ban ve cai ket cua tu sat hinh anh
 
Người muốn tự sát luôn nghĩ rằng, chết là hết, chết là giải thoát. Nhưng thực chất, đó chỉ là hành vi ích kỉ, vô trách nhiệm với những vấn đề của bản thân mình. Tự sát không những khiến người thân đau khổ, sa sút tinh thần mà còn ảnh hưởng tới xã hội, khiến tư tưởng xem nhẹ sinh mạng lan tràn. Và có thực, chết là hết hay không?
Phật giáo bàn về tự sát chỉ ra rằng, tự sát là phạm tội “Đoạn diệt”, tất có nhân quả báo ứng. Tu bao nhiêu kiếp mới đầu thai làm người mà lại không coi trọng sinh mạng, tự ý quyên sinh là coi thường số mệnh. Người tuy đã chết, mạng tuy đã vong, nhưng nghiệp lực thì vẫn còn, tương lai phải gánh nghiệp báo lớn. Không chỉ không được đầu thai luân hồi về kiếp người mà người tử tự còn không thể lên cõi Niết Bàn.   Nghe lời Phật dạy, thành người vợ hiền
Người phụ nữ nào cũng mong muốn mình trở thành người vợ đoan chính, hiền đức. Cùng nghe Phật dạy về đạo làm vợ để học tập theo nhé.

Phật dạy làm người
, khuyên con người ta phải vững vàng, mạnh mẽ và yêu quý bản thân. Tự sát uổng mạng, không được đầu thai hóa kiếp lại phải nhận quả báo nặng nề. "Thiện nhân đắc thiện quả, ác nhân đắc ác quả", tự giết mình cũng là giết một sinh mạng, là tạo nghiệp ác, làm điều xấu tất phải gặp báo ứng. 
  Đời là bể khổ, sinh tồn là đấu tranh, không một ai trưởng thành và sống chỉ bằng những điều tốt đẹp, hạnh phúc. Những “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, có khổ tận mới tới ngày cam lai. Đừng vì một phút yếu lòng, bồng bột, tự ti mà hi sinh cả hiện tại và tương lai của mình, khiến bản thân sống vô ích mà người thân, xã hội cũng bị tổn thương. Phật dạy điều hay, nghe và hiểu.
 
► Mời các bạn đọc thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Trần Hồng

Xem Clip Phúc họa đời người


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật giáo bàn về cái kết của tự sát

Nhà đẹp cuối năm

Cuối năm là lúc bạn cần sắp xếp lại nội thất, bỏ đi một vài vật dụng cũng như bài trí lại để căn phòng trông mới mẻ và gọn gàng hơn cho mùa xuân mới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách    
Đây là khu vực cần sắp xếp lại nhiều nhất trong nhà. Nên thay áo gối tựa lưng hay vải bọc sofa. (Để tiết kiệm chi phí, bạn có thể may một lớp áo khoác bọc ngoài sofa mà không cần thay mới). Sau đó, cần xoay một chút hướng bàn ghế để tạo ra cảm giác một không gian mới, tất nhiên, thêm một bình hoa là điều không thể thiếu. Ở những góc chết trong nhà, bạn có thể đặt chiếc đôn gỗ rồi trang trí đèn, hoa hay các vật lưu niệm.

Phòng ngủ
 
Cần phát quang bên ngoài cửa sổ nếu có vườn. Dọn bỏ hết các vật dụng linh tinh không sử dụng, cất vào kho để phòng ngủ rộng thoáng hơn. Khi muốn thay đổi vị trí giường ngủ, bạn cần chú ý xem có thuận phong thủy không, tốt nhất là không nên quay đầu giường ra cửa chính hay cửa sổ. Hãy thay drap mới hay rèm cửa. Các vật dụng này sẽ cho bạn cảm giác mới hơn…

Bếp
 
Bếp là chỗ rất khó dọn dẹp hay thay đổi diện mạo. Các vật dụng như tủ lạnh, bếp nấu, bồn rửa, quầy bar… hầu như không thể thay đổi vì chúng đã nằm cố định. Vì thế, bạn hãy phân chia lại tất cả các vật dụng làm bếp, mỗi thứ một ngăn, các đồ vật ít dùng nên cho vào ngăn khuất nhất. Trang trí thêm các điểm nhấn cho bếp như thay đèn bàn ăn, trồng hoa ngoài cửa sổ bếp, thay khăn bàn ăn bằng màu tươi tắn hơn.

Toilet

Toilet hầu như không cần thay đổi nhiều. Chỉ cần làm thoáng khí, vệ sinh sạch sẽ là bạn đã thấy khác. Tuy nhiên, nếu không gian này rộng, bạn nên đưa mảng thiên nhiên vào như sỏi, đá, cây xanh hay những vật dụng nhỏ và dễ thương để treo ở tay nắm cửa toilet như túi thơm, hình gấu, thỏ… Nên sơn hay lót gạch lại tường toilet vì khu vực này sau một thời gian sử dụng thường bị ố vàng.

(Theo Phunuonline)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà đẹp cuối năm

Ý nghĩa và cách phân biệt thạch anh đen –

Cũng như các loại đá thạch anh khác, thạch anh đen tuy có giá không quá đắt nhưng là một loại đá quý được sử dụng nhiều trong phong thủy và làm đồ trang sức.Trong tự nhiên, thạch anh đen là loại thạch anh cực kỳ hiếm với khối lượng riêng rất nặng và

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

độ cứng cao nhất trong số các loại đá thạch anh. Bài viết sau nói về Ý nghĩa và cách phân biệt thạch anh đen.

Nội dung

  • 1 Thạch anh đen là gì?
  • 2 Ý nghĩa của thạch anh đen
    • 2.1 Ý nghĩa sức khỏe
    • 2.2 Ý nghĩa nhiệm màu
  • 3 Phân biệt thạch anh đen thật giả

Thạch anh đen là gì?

Đá thạch anh đen còn được gọi là Morion. Nó gần như không trong suốt, chỉ có ánh sáng xuyên qua những lá mỏng. Tại các nước trên thế giới, đá thạch anh đen được tìm thấy ở Ukraina, Kazacxtan. Poland. Brazil, Madagaska. Tại Việt Nam cũng đã tìm thấy loại thạch anh đen ở tỉnh Lâm Đồng nhưng trữ lượng không lớn.

Ý nghĩa của thạch anh đen

Ý nghĩa sức khỏe

Có những giả thiết cho rằng thạch anh đen có liên hệ vói thế giới bên kia nên có khả năng cai nghiện ma túy. Đưa người nghiện trở về cuộc sống hiện tại. Nhưng thạch anh đen được coi là “thầy thuốc chữa bệnh máu ” nó giúp điều trị chứng nhồi máu và chống đột quỵ chống lại những mảng sơ vữa. Thạch anh đen có tác dụng tốt đến bộ máy nâng đỡ – vận động và củng cố cột sống.

Ý nghĩa nhiệm màu

Không có gì đáng ngạc nhiên là nhờ có màu tang tóc mà Morion được nổi tiếng là có liên hệ với những thế lực hắc ám . Nó thường được gắn vào những sản phẩm để tưởng nhớ về những người vừa rời bỏ thế giới này. Có ý kiến còn cho rằng thạch anh đen có khả năng gọi hồn người chết vào những buổi chiều hôm. Thạch anh đen được coi là viên đá của phù thủy , pháp sư và những nhà tiên tri. Có niềm tin rằng nếu dùng Morion vào những mục đích tư lợi cùng với thời gian viên đá sẽ “báo ứng” chủ nhân của nó. Ở những người lương thiện Morion sẽ phát triển trí tưởng tượng và mơ ước. Có thể loại trừ năng lượng tiêu cực trong Morion bằng cách thường xuyên rửa viên đá dưới vòi nước lạnh.

Thạch anh đen đặc biệt được ưa chuộng bởi năng lượng phong thủy mạnh, có nhiều tác dụng đặc biệt. Thạch anh đen có thể chơi nguyên cây tinh thể thô, mài thành trụ, bi cầu, hoặc mài cắt thành các sản phẩm phong thủy hộ mệnh đeo trên người.

Đối với luân xa vùng đỉnh đầu: nuôi dưỡng các tuyến của não bộ giúp phát triển tinh thần, tín ngưỡng và những liên hệ với thế lực tối cao. Năng lượng cảm thụ của Âm.

Phân biệt thạch anh đen thật giả

Thạch anh đen thường tồn tại dưới 3 dạng thường thấy bao gồm:

Thạc anh đen tuyền: Thịt đá không nhìn xuyên được.
Thạch anh đen khói: Một phần hoặc toàn phần của viên đá có thể được nhìn xuyên thấu.
Thạch anh tóc đen: Có các sợi tóc bên trong thịt đá (nhìn xuyên được)

Vì vẻ đẹp cũng như tác dụng vô cùng to lớn của nó với sức khỏe và phong thủy nên thạch anh đen được rất nhiều người ưa chuộng, do đó hiện tượng làm giả thạch anh đen cũng rất phổ biến. Vậy làm cách nào để phân biệt được thạch anh đen thật, giả?

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại đá có màu đen bị mọi người tưởng lầm hoặc cố tính gọi sai là thạch anh đen nhằm mục đích thu lợi như Obsidian đen, Tektite , tourmaline đen, mã não đen hay nhựa đen. Sở dĩ những loại đá này được dùng để làm giả cho thạch anh đen vì sự dồi dào, dễ chế tác và có giá thành rẻ.

Để phân biệt thạch anh đen thật với những loại đá trên bạn chỉ cần sử dụng đèn pin rọi vào.

– Thạch anh đen thật về cơ bản là không xuyên sáng nhưng nếu rọi đèn pin sát vào mặt đá sẽ thấy đá rất trong và có nhiều vết rạn bên trong đá.

– Obsidian đen gần như là đen đặc, không cho ánh sáng xuyên qua và nhẹ hơn so với thạch anh đen. Khi Obsidian đen mài đủ mỏng có thể khiến cho ánh sáng xuyên qua được nhưng bạn sẽ không nhận thấy được độ trong và các vết rạn như ở bên trong thạch anh đen.

– Tektite có nguồn gốc từ các vụ nổ thiên thạch với đặc tính giòn và dễ vỡ, có màu đen bóng loáng và đen kịt, nhẹ hơn thạch anh đen và ánh sáng hoàn toàn không thể xuyên qua.

– Tourmaline đen: Đây là loại đá có năng lượng phong thủy rất mạnh nhưng lại có màu đen kịt và độ bóng không cao, không xuyên sáng.

– Mã não đen: Đây là loại không có trong tự nhiên mà là do mã não được nhuộm màu và rất dai, hầu như không vỡ, không xuyên sáng.

– Nhựa đen: Nhựa đen không phải đá mà là nhựa với giá rẻ vô cùng, mềm và dễ trầy xước, nhẹ hơn thạch anh thật, hoàn toàn có thể nhận biết được ngay khi lấy kính rạch thấy vết xước trên nó.

Như vậy, để nhận biết thạch anh đen bạn chỉ cần sử dụng đèn pin để phát hiện độ trong và vết rạn ở bên trong nó. Ngoài ra, đôi khi đá thạch anh đen còn được nhận biết thông qua phản xạ ánh sáng 7 màu giống màu bảy sắc cầu vồng dưới sánh sáng bình thường mà không một loại đá đen nào có được. Để chắc chắn hơn về độ thật giả của thạch anh đen, bạn có thể mang chúng đi kiểm định. Bên cạnh đó, thạch anh đen thật sẽ rất hiếm nên sẽ không có các sản phẩm làm từ nó sẵn có trên thị trường mà bạn cần có viên đá thạch anh xịn và đến thợ đá để chế tác thành vòng đeo tay hoặc mặt dây chuyền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa và cách phân biệt thạch anh đen –

Cách trang trí ngoại cảnh của một ngôi nhà cho hợp phong thủy –

1. Mỗi phong cách, mỗi loại hình trang trí ngoại cảnh cúa một ngôi nhà đều hàm chứa một mong muôn nhất định của chủ nhà như: Phúc, lộc, thọ, khang, ninh v.v... Những mong muốn đó là ý niệm phong thủy. Bỡi vì dùng các phép phong thuỷ để ngầm thực hiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mỗi phong cách, mỗi loại hình trang trí ngoại cảnh cúa một ngôi nhà đều hàm chứa một mong muôn nhất định của chủ nhà như: Phúc, lộc, thọ, khang, ninh v.v… Những mong muốn đó là ý niệm phong thủy. Bỡi vì dùng các phép phong thuỷ để ngầm thực hiện các mong muôn trên.

san-vuon-voi-loi-di-dep-4
–    Thực hiện mong muốn giàu tiền, nhiều bạc bằng cách trang trí thiên về hành thuỷ với phép phong thuỷ “dụ long”. Đó là xây trong sân vườn bể bơi mi ni, bể tắm tạo sóng, vũng nước, vòi phun nước, bồn chứa, dàn nước, đào hồ, xây giếng trời, v.v…

Nghĩa là cách trang trí, bày bố các loại hình đều có chứa nước lý do thủy mang tài lộc vào gia cư.

–    Thực hiện mong muốn sống lâu trường thọ bằng trang trí thiên về hành Mộc như bày bố các chậu bonsai cây cảnh có tính chất của Thọ trường.

Trồng trước sân, cổng hay ở vườn sau một hàng cây thông hay cây lê, bách v.v…

–    Thực hiện mong muốn cuộc sống an bình, thanh tịnh bằng các trang trí, bày đặt tuân thủ quy luật Âm Dương cân bằng và trật tự của tự nhiên với hòn non bộ, bồn hoa, các tượng chim muông cây cỏ, v.v…

Không thể liệt kê tất cả loại hình trang trí ngoại cảnh trong một tác phẩm.

Song nên trang trí tuân thủ phép phong thủy sẽ có khí lực của các loại phong thủy khí như: Mộc khí, thuỷ khí, hòa khí, kim khí, địa khí (thổ khí) và thiên khí (phong khí) sẽ đem lại hiện dụng phong thủy cho gia cư.

2. Một số vật thể, con thú tượng trưng cho các mong muốn của con người theo quan niệm phong thuý ví dụ như:

– Các con vật tượng trưng theo quan niệm kham dư (phong thủy cố).

Con cò: Tượng trưng cho trường thọ.

Con rùa: Tượng trưng cho trường xuân bất tử.

Con dơi: Tượng trưng cho sự may mắn an binh.

Chim phượng: Tượng trưng cho cao quý.

Con lân: Tượng trưng cho tài lộc.

Con cóc: Tượng trưng cho giàu có

Con rồng: Tượng trưng cho quyển uy

Con ngao (chó): Tượng trưng cho sự tín cẩn, trung thành.

Con ngựa: Tượng trưng cho sự hùng dũng, mạnh mẽ.

Con cua: Tượng trưng cho sự hoan hỷ.

Con cá chép: Tượng trưng cho sự tận tụy.

Con chim cú: Tượng trưng cho sự trấn tình, thông thái.

v.v…

– Những con vật trên đều được dùng để trang trí ngoại thất một ngôi nhà hay bày, đặt trong sân vườn.

Tuy nhiên khi sử dụng các con vật tren để trang trí hay bàv bố như cách phong thủy thời xưa không được tuỳ tiện nhất là đối với các vật thuộc “tứ linh” hay “tứ quý” như: “Long, ly, quy, phượng” (Rồng, Ngao, Rùa, Phượng) hay: “Mã, chép, rắn, rơi” v.v…

Ngôi nhà của các bậc quyền quý được trang trí rất cẩn trọng. Ngôi nhà của thường dân thường trang trí đơn giản.
3. Một số cây cối tượng trưng cho mong muốn của con người, theo quan niệm phong thủy

Các loại cây lớn, tượng trưng các ý nghĩa phong thủy, cụ thể như:

Cây liễu: Tượng trưng cho sự duyên dáng

Cây thông: Tượng trưng cho sự trường thọ

Cây tùng: Tượng trưng cho sự kiên cường

Cây lê: Tượng trưng cho sự khóe mạnh

Cây bách: Tượng trưng cho sự vương giả

Cây lộc vừng: Tượng trưng cho sự giàu có

Cây lựu: Tượng trưng cho sự phúc vượng đông con nhiều cháu.

Cây ngân: Tượng trưng cho sự trung thành

Cày trúc: Tượng trưng cho sự dẻo dai trẻ trung

Cây đa: Tượng trưng cho sự vững bền

Cây đề: Tượng trưng cho sự trường cửu

Cây si: Tượng trưng cho sự may mắn

Cây sung: Tượng trưng cho của cải dồi dào

Cây quýt: Tượng trưng cho sự giàu có

Cây sơn tra: Tượng trưng cho sự giàu có v.v…

Hoa mẫu dơn: Tượng trưng cho sự phồn vinh

Hoa đào: Tượng trung cho sự thân thiện bằng hữu

Hoa nguyệt quế: Tượng trưng cho sự thương yêu hạnh phúc

Hoa hồng: Tượng trưng cho sự diễm lệ

Hoa thủy tiên: Tượng trưng cho sự hồi xuân

Hoa lài: Tượng trưng cho sự thân hữu

Hoa trà: Tượng trưng cho sự tươi trẻ

Hoa cúc: Tượng trưng cho sự trung thành

Hoa lan: Tượng trứng cho sự trường xuân, chịu đựng

Hoa hải đường: Tượng trưng cho sự quý phái

v.v…

Các loại hoa trên được trồng trong bồn, hay trong chậu để bày bố, trang trí cho ngoại cảnh hay trong nhà nên cần theo các yêu cầu của phép phong thủy mới có thể đạt được hiệu dụng thực sự, nếu không có thể sẽ đem lại hậu quả trái ngược đối với một số loại hoa đặc biệt như: Hải dương, hoa đại, hoa huệ v.v…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách trang trí ngoại cảnh của một ngôi nhà cho hợp phong thủy –

Hướng dẫn cách hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc thường gặp

Nếu vô tình hoặc do điều kiện mà bàn làm việc không ưng ý, phạm phải cấm kị thì làm thế nào? Đừng lo, dã có phương pháp hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc.
Hướng dẫn cách hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy bàn làm việc cần được chú trọng để nâng cao vận thế, phát triển sự nghiệp. Nhưng nếu vô tình hoặc do điều kiện mà bàn làm việc không ưng ý, phạm phải cấm kị thì làm thế nào? Đừng lo, phương pháp hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc dưới đây sẽ cứu nguy cho bạn.

hoa giai loi phong thuy ban lam viec hinh anh
 

1. Bàn làm việc dựa vào cửa chính

  Nếu bàn làm việc đối lưng với cửa chính thì phong thủy cực xấu. Cửa là nơi ra vào, là cái miệng lớn của văn phòng, là nơi nạp khí bao gồm cả sinh khí và sát khí. Ngồi làm việc ở vị trí mà lưng hướng về cửa thì phía sau không có chỗ dựa, người ra người vào, tạp khí xông tới, lâu dần sẽ nảy sinh cảm giác bất an, khẩn trương, suy nghĩ hỗn độn, quyết sách sai lầm, không thể yên ổn.    Phương pháp hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc này là điều chỉnh bàn làm việc ngay tức khắc, nên chọn vị trí lưng dựa vào tường vững chãi. Nếu không thể chuyển chỗ thì hãy chọn một chiếc ghế có chỗ dựa lưng thật chắc chắn để ngăn sát khí.
Bài trí bàn làm việc để thăng tiến trong công việc Vị trí ngồi tốt nhất trong văn phòng 4 quy tắc đặt cây cảnh trên bàn làm việc

2. Bàn làm việc dựa vào cửa sổ

  Cửa sổ là nơi lưu thông khí, sinh khí có mà sát khí cũng có, người qua người lại cũng nhiều, tiếng bước chân ồn ào, âm thanh hỗn tạp, quấy nhiễu công việc. Bàn làm việc tựa vào cửa sổ chẳng khác nào đặt dưới hình sát, tự nhiên có cảm giác lo lắng sợ người nhìn trộm.   Hãy kê bàn làm việc xa cửa sổ một chút để người khác không thấy những đồ đạc, văn kiện trên bàn cũng như việc mà bạn đang làm. Nếu không thể di chuyển bàn làm việc, hãy treo bức chắn, bức rèm để che khuất cửa sổ, tránh người khác làm ảnh hưởng tới công việc và lối suy nghĩ của bạn.  

3. Bàn làm việc dựa vào cửa kính


hoa giai loi phong thuy ban lam viec hinh anh
 
Hiện nay, có nhiều văn phòng cao cấp thiết kế cửa sổ sát đất bằng kính, mang lại cảm giác cao cao tại thượng. Có người thích đặt bàn làm việc dựa lưng vào cửa kính, nhìn xuống bên dưới quả thật vô cùng thỏa mãn. Nhưng đây là lỗi phong thủy bàn làm việc tương tự như bàn làm việc dựa cửa chính. 
  Để hóa giải lỗi này, một là chuyển vị trí bàn làm việc, hai là chọn ghế có chỗ dựa cao và vững chãi để chống đỡ, ngăn sát khí.
Đặt bàn làm việc theo nguyên lý phong thủy Chọn chỗ ngồi ở văn phòng để phát Truy tìm điểm sinh tài sinh lộc trên bàn làm việc  Trần Hồng

Xem thêm 6 Đại kỵ trong phong thủy nhà cửa
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn cách hóa giải lỗi phong thủy bàn làm việc thường gặp

Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Hình ảnh em trai thường xuất hiện trong những giấc mơ của nữ giới. Một cô gái học tập xa nhà tâm sự: Em trai tôi nhỏ hơn tôi vài tuổi, hoạt bát đáng yêu, cả nhà tôi ai cũng yêu mến chú ấy cả. Nói thật, tôi rất nhớ em. Tôi mơ thấy mình trở về nhà vào
Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy em trai: Gia đình thuận hòa –

Tư vấn cách đặt tên cho con trai

Trong quan niệm truyền thống của người phương Đông, con trai được xem là người nối dõi tông đường, kế tục những ước mơ chưa tròn của cha mẹ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong quan niệm truyền thống của người phương Đông, con trai được xem là người nối dõi tông đường, kế tục những ước mơ chưa tròn của cha mẹ. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con trai yêu của mình là điều rất được coi trọng.

dat-ten-con-trai

Khi đặt tên cho con trai, bạn cần chú ý đến những phẩm chất thiên phú về mặt giới tính để chọn tên cho phù hợp.

Nếu bạn mong ước con trai mình có thể phách cường tráng, khỏe mạnh thì nên dùng các từ như: Cường, Lực, Cao, Vỹ… để đặt tên.

Con trai bạn sẽ có những phẩm đức quý báu đặc thù của nam giới nếu có tên là Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Đức, Thành, Hiếu, Trung, Khiêm, Văn, Phú…

Bạn có ước mơ chưa trọn hay khát vọng dở dang và mong ước con trai mình sẽ có đủ chí hướng, hoài bão nam nhi để kế tục thì những tên như: Đăng, Đại, Kiệt, Quốc, Quảng… sẽ giúp bạn gửi gắm ước nguyện đó.

Để sự may mắn, phú quý, an khang luôn đến với con trai của mình, những chữ như: Phúc, Lộc, Quý, Thọ, Khang, Tường, Bình… sẽ giúp bạn mang lại những niềm mong ước đó.

Ngoài ra, việc dùng các danh từ địa lý như: Trường Giang, Thành Nam, Thái Bình… để đặt tên cho con trai cũng là cách hữu hiệu, độc đáo.

Không những thế, bạn có thể dùng các biểu tượng tạo cảm giác vững chãi, mạnh mẽ: Sơn (núi), Hải (biển), Phong (ngọn, đỉnh)… để đặt cho con trai đáng yêu của mình với niềm mong ước khi lớn lên con sẽ trở thành người mạnh mẽ, vững vàng trong cuộc đời.

Chọn tên cho con như thế nào?

Ngoài ý nghĩa tên theo vần, bạn có thể xem tuổi và bản mệnh của con để đặt tên cho phù hợp. Một cái tên hay và hợp tuổi, mệnh sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho con bạn trong suốt đường đời.

Đặt tên theo tuổi

Để đặt tên theo tuổi, bạn cần xem xét tuổi Tam Hợp với con bạn. Những con giáp hợp với nhau như sau:
•Thân – Tí – Thìn
•Tỵ – Dậu – Sửu
•Hợi – Mão – Mùi
•Dần – Ngọ – Tuất

Dựa trên những con giáp phù hợp bạn có thể chọn tên có ý nghĩa đẹp và gắn với con giáp Tam Hợp. Ngoài ra cần phải tránh Tứ Hành Xung:
•Tí – Dậu – Mão – Ngọ
•Thìn – Tuất – Sửu – Mùi
•Dần – Thân – Tỵ – Hợi

Đặt tên theo bản mệnh

Bản mệnh được xem xét dựa theo lá số tử vi và theo năm sinh, tùy theo bản mệnh của con bạn có thể đặt tên phù hợp theo nguyên tắc Ngũ Hành tương sinh tương khắc:

Dựa theo Tử Vi, các tuổi tương ứng sẽ như sau:
•Thìn, Tuất, Sửu, Mùi cung Thổ
•Dần, Mão cung Mộc
•Tỵ, Ngọ cung Hỏa
•Thân, Dậu cung Kim
•Tí, Hợi cung Thủy

Bạn có thể kết hợp theo từng năm sinh để lựa chọn tên theo bản mệnh phù hợp nhất, ví dụ:
•Canh Dần (2010), Tân Mão (2011): Tòng Bá Mộc (cây tòng, cây bá)
•Nhâm Thìn (2012), Quý Tỵ (2013): Trường Lưu Thủy (nước chảy dài)
•Giáp Ngọ (2014), Ất Mùi (2015): Sa Trung Kim (vàng trong cát)
•Bính Thân (2016), Đinh Dậu (2017): Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi)
•Mậu Tuất (2018), Kỷ Hợi (2019): Bình Địa Mộc (cây mọc đất bằng)

Như vậy, nếu con bạn mệnh Mộc thì bạn có thể chọn tên liên quan tới Thủy (nước), Mộc (cây) hay Hỏa (lửa) để đặt tên cho con bởi Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa… Các tuổi khác cũng tương tự, dựa vào Ngũ Hành tương sinh, tránh tương khắc sẽ giúp mọi sự hạnh thông, vạn sự như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tư vấn cách đặt tên cho con trai

Nguyên tắc chọn địa điểm khi mở cửa hàng –

Lựa chọn phong thủy cho cửa hàng kinh doanh chủ yếu lựa chọn môi trường tốt có được nhiều khách hàng, buôn bán thuận lợi, tài lộc hanh thông. Có những thương gia sẵn sàng bỏ ra một món tiền khổng lồ để thuê hoặc mua lại cửa hàng có địa điểm tốt, nhiề

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

u khi họ cũng tham khảo nguyên tắc phong thủy rồi mới quyết định mua hay không.

Do vậy mà họ tài lộc rất tốt, buôn bán hanh thông. Lựa chọn địa điểm kinh doanh, có nơi gọi là “Tuyển mã đầu”. Vị trí tốt hay xấu quyết định đến buôn bán thuận lợi hay không, điểu này không thể không cẩn thận.

1. Chọn mảnh đất có sinh khí

Thành phố là nơi mật độ dân số đông, đây cũng là mảnh đất phồn hoa. Theo thuyết phong thủy, có người là có sinh khí, người càng nhiều sinh khí cũng vượng, sinh khí tốt sẽ đem lại sự hưng thịnh trong buôn bán.

phong-thuy-cua-hang

Xét về góc độ kinh tế học, những nơi phồn hoa của thành phố chính là nơi sầm uất nhất, buôn bán giao dịch đều thuận lợi. Ví dụ những nơi tập trung đông dân cư như trường học, bệnh viện, siêu thị… Lựa chọn mờ cửa hàng ở những nơi đó. ta có thể chủ động giới thiệu sản phẩm của cửa hàng mình với khách, có hấp dẫn được khách thì mới có tác dụng thúc đẩy kinh doanh, buôn bán phát tài, bảo đảm được doanh thu và lợi nhuận.

Ngược lại, nếu mờ cửa hàng ở nơi vắng vẻ có nghĩa lã tự đưa mình đến chỗ khó khăn. Khách hàng ít, thu nhập bán hàng cũng ít đi, thậm chí dẫn đến tình trạng sập tiệm.

Theo cách nói của phong thủy, người đại diện cho sinh khí, không có người đến cửa hàng thì cửa hàng thiếu đi sinh khí. Sinh khí ít, âm khí át sẽ mạnh lên. Một cửa hàng mà âm khí quá nhiều, không những buôn bán lỗ vốn, nghiêm trọng hơn nó sẽ làm tổn thương nguyên khí của chủ của hàng, khiến cho cửa hàng phá sản.

2. Trước mặt cửa hàng phải rộng rãi

Khi lựa chọn địa điểm mở cửa hàng, cần chú ý tới vị trí phía trước phải rộng rãi để tiếp nhận sinh khí từ bốn phương tám hướng. Điều này cũng có nghĩa là cửa hàng luôn mở rộng cửa đón khách từ khắp nơi đến.

Với nguyên tắc này, khi lựa chọn địa điểm nên suy nghĩ tới sự rộng rãi phía trước cửa hàng, yêu cầu không cho bất cứ thứ gì có thể làm vật ngáng trở, che lấp cửa hàng như tường bao, cột điện, biển quảng cáo và cây cối quá to… Mặt trước cửa hàng có rộng rải thì khách hàng và những người đi trên đường cũng có thể nhìn thấy cửa hàng từ xa. Lợi ích này khiến cho tin tức về mặt hàng kinh doanh của cửa hàng được truyền đi rất xa, sẽ càng có nhiều người biết đến. Sự lan truyền tin tức này trong phong thủy gọi là “làm khí chuyển động”, khí có chuyển động thì sức sống mới tràn trề.

Xét về góc độ kinh doanh, khách hàng có được tin tức tốt của cửa hàng, họ sẽ đến xem và mua.

3. Vận đất phải vượng

Đối với một nhà kinh doanh, cửa hàng vượng phát sẽ có sức mạnh ảnh huởng rất lớn, khiến họ đi tới quyết định có lợi, tạo nên thành công cho cửa hàng. Muốn chọn được mảnh đất vượng phát thì phải mời thầy phong thủy giỏi. Tuy nhiên ở đây cũng có một cách đơn giản: khi thuê hoặc mua lại nhà để kinh doanh, cách tốt nhất phải tìm hiểu ngôi nhà này trước đâv có ai thuê để làm kinh doanh chưa, họ kinh doanh ngành nghề gì, tình trạng ra sao rồi hãy đưa ra quyết định.

4. Tránh xa những vật không may

Hướng của cửa hàng tuyệt đối tránh đối diện với những kiến trúc mà theo phong thủy cho là không may mắn. Những kiến trúc đó chủ yếu là những kiến trúc dễ khiến cho người ta cảm thấy trong lòng không thoải mái như nhà vệ sinh, nhà tang lễ bệnh viện, ống khói… Vì chúng hoặc là có khói đen cuồn cuộn, hoặc là hơi thối bốc mùi, hoặc là khóc than, hoặc là bệnh tật.. Khí lưu của những kiến trúc này được phong thủy gọi là “hung khí”.

Tất nhiên, khi lựa chọn cửa hàng tránh được những thứ đó là điều tốt. Nhưng nếu vì một nguvên nhân nào đó không tránh khỏi thì khi mở cửa nhất định phải tránh xa vật không may, có thể đặt một tấm bình phong ngăn cách.

Phong thủy nhấn mạnh mờ cửa phải tránh xa vật không may, xét một khía cạnh khác thì có nghĩa nhấn mạnh công việc và cuộc sông sinh hoạt của con người phải cần có môi trường trong lành, sạch sẽ, tầm nhìn tốt đẹp. Trong những môi trường đó. người ta mới vui vẻ làm việc, phát huy tốt nhất khà năng của mình. Kết quả sẽ thành công ngoài sự mong đợi.

5. Chọn hướng cửa cũng quan trọng

Khi xem xét phong thủy cho một ngôi nhà yêu cầu hướng cửa phải là hướng Nam, mục đích là tránh ánh nắng chiếu vào mùa hè và gió lạnh vào mùa đông. Chọn địa điếm kinh doanh cũng cần suy nghĩ tới điểm này. Tốt nhất chọn nhà hướng Nam để điểu hòa không khí.

Nếu cửa hàng có cửa mở hướng Đông Tây, vậy thì, vào mùa hè ánh nắng sẽ chiếu vào cửa hàng từ sáng đến chiểu, ánh nắng mặt trời vào mùa hè rất gay gắt. phong thủy gọi đó là “sát khí”. Luồng sát khí này sẽ không có lợi cho cửa hàng. Nếu cửa quay về hướng Bắc, mùa đông đến sẻ hút gió Tây Bắc hoặc Đông Bắc. Hàn khí cùng là một kiểu “sát khí”. Hàn khí quá nhiều gây nên bất lợi cho con người và cho hoạt động kinh doanh của chính ngôi nhà đó.

6. Ý nghĩa may mắn

Lựa chọn địa điểm kinh doanh các yếu tố cần phải suy nghĩ rất nhiều. Ví dụ có người nghĩ đến tên đường mang ý nghĩa may mắn, hoặc có người lại chọn tên biển hiệu có thể đem may mắn lại cho mình… Những lựa chọn đó, ngoài tác dụng tạo cảm giác an ủi tâm lý cho người kinh doanh và khách hàng ra, nó còn mang ý nghĩa phong thủy.

Cửa hàng là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế của thành phố. Nó không những làm giàu kinh tế xã hội, mà còn tạo ra những giá trị kinh tế và giá trị xã hội. Mở cửa hàng ngoài việc tôn trọng quy luật kinh tế thị trường ra, người ta còn phải duy trì nguyên tắc lấy con nguời làm chủ trong một thành phố cụ thể, môi trường và ngành nghề cụ thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc chọn địa điểm khi mở cửa hàng –

Xem tướng vùng kín biết ngay giàu sang phú quý

Vùng kín trên cơ thể là chỗ riêng tư ít người để ý, song lại tiết lộ khá nhiều điều về vận thế con người. Cùng thử xem tướng vùng kín để đoán biết tương lai nh
Xem tướng vùng kín biết ngay giàu sang phú quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vùng kín trên cơ thể là chỗ riêng tư ít người để ý, song lại tiết lộ khá nhiều điều về vận thế con người. Cùng thử xem tướng vùng kín để đoán biết tương lai bạn nhé.  


Xem tướng vùng kín: "Núi đôi"

 
Xem tuong vung kin - Tuong Nguc
 

Về hình dáng "núi đôi": 


1. Tròn đầy: Trước tiên nói về vẻ bề ngoài, nếu vòng này càng tròn trịa thì càng tốt, nếu có thể tròn đầy như 2 bát ăn cơm úp ngược thì đó là tướng phụ nữ lấy được chồng “đại gia”, điều kiện kinh tế rất tốt. Còn nếu chỉ tròn dạng bán nguyệt, hai bên cân nhau thì đường hôn nhân rất tốt, quan hệ vợ chồng hòa hợp, tuy không phải tướng “quý phu nhân” nhưng vợ chồng đồng tâm, vận trình sẽ dần khởi sắc.
  2. Nhỏ, hình dáng như trứng ốp la: Người phụ nữ vận phu thê rất tốt, sẽ tìm được cho mình người chồng vô cùng tương xứng, cuộc sống sau hôn nhân thuận lợi, được chồng yêu chiều, con cái ngoan ngoãn hiếu thảo, cũng không xảy ra bất đồng với bố mẹ chồng mà ngược lại quan hệ còn rất tốt, cuộc sống bình an hạnh phúc.   3. To đầy: Nếu sở hữu "núi đôi" to đầy, viên mãn thì đó cũng chính là thân hình ma quỷ, tuy đẹp nhưng không lành. Người này đường tình cảm thường gặp nhiều trắc trở. Nếu có thể lấy người hơn mình 10 tuổi trở lên hoặc đã qua một lần đò, hoặc đàn ông nước ngoài thì cuộc sống sẽ không đến nỗi nào. Còn ngược lại, nếu kết hôn với người đàn ông không đủ mạnh mẽ thì mối quan hệ vợ chồng, con cái, gia đình đều không được tốt, cuộc sống kém hạnh phúc.
 
4. To vừa phải, hướng ra bên ngoài: Đây còn được gọi là "núi đôi" Đông Tây, hướng ra ngoài và cách xa nhau. Người này cung phu thê không được tốt, khó tìm được người chồng như ý, duyên phận với gia đình cũng không được sâu sắc. Sau khi kết hôn rất dễ có kẻ thứ ba xen vào phá vỡ hạnh phúc gia đình.   5. Gầy nhỏ: Người có "núi đôi" như thế này thì tâm địa thường hẹp hòi, tính cách có phần bi quan tiêu cực, có tâm cơ. Người này khá nhỏ mọn, hay ghi thù, các mối quan hệ xã hội không được tốt, khả năng sinh sản cũng kém, khó về đường con cái. Cuộc sống của họ thường vất vả, họ là người bảo thủ trong chuyện tình cảm, cũng không có nhiều đào hoa, tuy cũng có người theo đuổi nhưng thường gặp nhiều trắc trở, đối tượng yêu đương cũng là người gầy yếu.   6. Nhọn vểnh: Đây là người khá cứng rắn và mạnh mẽ, có tham vọng gây dựng sự nghiệp. Họ làm việc rất giỏi, giải quyết mọi chuyện đâu ra đấy, là người phóng khoáng, có quan hệ xã giao tốt. Duyên con cái khá vượng. Họ đòi hỏi cao về chất lượng cuộc sống, tuy kiếm tiền vất vả nhưng thường rất thoải mái chuyện tiền bạc. Trong chuyện tình cảm, họ khá cẩn trọng, song là người đào hoa, được nhiều người khác phái để ý. Tuy nhiên, quan hệ giữa họ thường phát triển thành tình bạn nhiều hơn là tình yêu. Người này kết hôn khá muộn, họ cũng là người nắm thế mạnh trong gia đình. Đối tượng yêu đương của họ cũng là những người khá tài giỏi, tinh anh trong xã hội.   8. Mềm phẳng: Người có "núi đôi" thế này thường khá nhỏ nhen, cũng là người nhút nhát. Họ cũng có chính kiến nhưng không được vững vàng, hay tính toán chuyện thiệt hơn, các mối quan hệ xã hội khá lạnh nhạt, duyên phận con cái cũng bình thường. Họ có cuộc sống khá sung túc và ổn định, tình cảm hài hòa. Họ cũng có người theo đuổi nhưng không dễ để họ mở lòng mình, đối tượng yêu đương của họ cũng là người khá bình thường.   9. Rủ xuống: Người có vòng này rủ xuống thường không có chí tiến thủ, tính cách chậm chạp lề mề. Họ thường ít nói, có nhiều ý tưởng nhưng không mấy khi thực hiện, chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi người khác, đường con cái không vượng. Họ sống khá bi quan, chán nản, hay dựa dẫm vào người khác. Trong chuyện tình cảm, đây là người bị động, vận đào hoa kém vượng. Họ dễ tin người và trao tình cảm cho người khác quá dễ dàng nên hay bị tổn thương. Sau khi kết hôn, họ là người vợ rất biết nghe lời. Đối tượng yêu đương của họ là người bình thường, có phần bận rộn.
Tuong nguc vua phai
 

10. Nhỏ: Phụ nữ có "núi đôi" nhỏ có tính hy sinh trong tình yêu nhiều hơn phụ nữ có "núi đôi" lớn. Họ là mẫu người mẹ hiền vợ đảm. Song nếu quá nhỏ, thậm chí bằng phẳng nên sẽ ảnh hưởng đến đường con cái.
  11. Nhỏ mà vểnh: Người này tuy không có nhiều cơ may lấy chồng đại gia, sau khi kết hôn chồng họ cũng chưa chắc đã phất lên, nhưng đó sẽ là người chồng chu đáo, chung thủy, luôn chăm sóc cho vợ.    12. To mà bẹt: Sau khi kết hôn, họ sẽ có đời sống kinh tế sung túc, giàu có, tuy nhiên tình cảm vợ chồng càng ngày càng lạnh nhạt, song quan hệ mẹ con lại rất tốt, thường vì con cái mà giữ quan hệ hôn nhân.   13. Vừa phải, to đều nhau: Nếu hai bên "núi đôi" cân, to đều nhau thì không cần phải quá to cũng thể hiện tình cảm vợ chồng rất tốt, gia đình đoàn kết, cuộc sống hạnh phúc yên bình. Ngược lại, nếu "núi đôi" không cân thì rất dễ gặp phải cảnh vợ chồng đồng sàng dị mộng.   14. Hình quả chanh: Cô gái này là người lạc quan yêu đời, hài hước tự trào, luôn khiến cho cuộc sống trở nên vui vẻ và tràn ngập tiếng cười. Họ không mong muốn gì nhiều, chỉ cần cuộc sống bình lặng, không quá nhiều sóng gió là được.   15. Hình quả dưa hấu: Nếu vòng này của phụ nữ vừa to vừa tròn như quả dưa hấu, tựa như đã làm mẹ thì đây là người phụ nữ được chồng rất yêu chiều, nâng niu, song không có quá nhiều hứng thú với chuyện gối chăn.   16. Hình quả dứa: Người này rất thông minh, có thể tự mình gây dựng sự nghiệp. Cô gái này cũng rất lãng mạn và chung thủy. Dù đối phương là người như thế nào, chỉ cần cô gái này đã xiêu lòng thì sẽ không dễ dàng từ bỏ.   17. Hình quả bưởi: Người này không quá nhiệt tình với chuyện vợ chồng. Tuy nhìn bề ngoài bốc lửa khiến người ta dễ nhầm tưởng ham muốn chuyện ấy cao song kì thực, họ là mẫu phụ nữ truyền thống, khá ngây thơ và xấu hổ với chuyện đó. Họ thương yêu bạn đời của mình, sự chu đáo dịu dàng thường sẽ lớn hơn ham muốn về chuyện đó.   18.Hình quả cam: Cô gái này khá thận trọng trong chuyện tình cảm, sẽ không nhanh chóng quyết định chuyện hôn nhân đại sự. Họ rất tự tin, cũng có mục tiêu phấn đấu của riêng mình, thích kết bạn song không dễ ngả vào lòng người khác. Đây không phải là người có nhiều hứng thú với chuyện yêu.   19. Hình quả anh đào: Người phụ nữ có núi đôi nhỏ như trái anh đào không chỉ rất quyến rũ mà còn rất vui vẻ, dễ hưng phấn. Họ thích vui chơi, cũng là người rất thông minh. Đây là một nửa tuyệt vời mà ai cũng mong muốn, ham muốn trong đời sống vợ chồng của họ cũng khá cao.


nguc nho
 
  20. Hình quả lê: Người có núi đôi này không kiên định trong chuyện tình cảm, dễ vướng vào các mối quan hệ tay ba hay chuyện ngoại tình.
 

Về nhũ hoa:

  1. Đầu núm cong: Đây là người nhút nhát, hay sợ sệt, dễ bị ảnh hưởng bởi ý kiến của người khác, không đủ quyết đoán. Không phải là một người mẹ tốt nhưng là người tình quyến rũ.   2. Đầu to mà vuông: Người này đường tài lộc vô cùng tốt, con cái khỏe mạnh thông minh, hoạt bát đáng yêu.   3. Quầng rất to: Đây là người rất coi trọng đời sống tinh thần, yêu cầu cao đối với sự hài hòa trong suy nghĩ của hai vợ chồng.   4. Đầu nhỏ mà dài: Người này làm gì cũng phải dựa vào sức mình, tự lực cánh sinh chứ hiếm khi được người khác giúp đỡ.   5. Đầu thụt vào trong: Theo Đông y thì đây là dấu hiệu của khí huyết hư tổn, nên chú ý chăm sóc sức khỏe.   6. Đầu có nhiều lông to và thô: Người phụ nữ này tính tình khá nóng nảy, không biết thông cảm cho người khác.   7. Đầu có 2 hoặc 3 sợi lông: Đây là người thông minh, có đầu óc tư duy, sống lý trí, làm việc bình tĩnh. Họ cũng là người dĩ hòa vi quý, không thích đua tranh. Con cái được nuôi dạy tốt, có khí chất nho nhã hơn người.   8. Đầu có 1 sợi lông: Người này rất có chính kiến, tuy nhiên đường tài lộc gặp vài khó khăn, trở ngại. Đường tình cảm khá trắc trở, thích hợp lấy chồng muộn.   9. Có nốt ruồi ở 2 bên trái phải quầng: Đây là người coi trọng quá trình chứ không quan tâm đến kết quả. Họ không thể sống thiếu tình yêu, thậm chí có phần si mê mù quáng nên dễ trở thành nhân vật chính trong cuộc tình ngang trái.

10. Đầu núm cứng: Đây là người thông minh và giỏi tư duy, sống tích cực, giỏi xã giao, thích hợp làm các nghề liên quan đến ngoại giao. Có tướng vượng phu, cũng được quý nhân giúp đỡ nhiều. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc mĩ mãn, ham muốn trong đời sống vợ chồng cao.

Mời bạn đọc thêm: Bí mật nốt ruồi trên ngực kiều nữ.


mong san chac
 
 


Về nốt ruồi trên núi đôi:


1. Có nốt ruồi ở phía bên trên quầng núi đôi: Sức khỏe không được tốt lắm, nên chú ý ăn uống điều độ, tránh thức khuya, nếu không có khả năng cao mắc các bệnh về gan thận.   2. Có nốt ruồi ở phía bên dưới quầng núi đôi: Chức năng sinh lý không tốt, tử cung hay bộ phận nhạy cảm dễ có bệnh.   3. Bên trái có nốt ruồi: Ngực trái tượng trưng cho dương khí, đời sống tình cảm của chồng hay người yêu của họ sẽ có nhiều trắc trở. Có thể hai người sẽ phải yêu xa.   4. Bên phải có nốt ruồi: Ngực phải tượng trưng cho âm khí, gia đình chồng hay người yêu có lục đục.  
5. Có nốt ruồi trên ngực: Đây được gọi là nốt ruồi đào hoa ở cả nam và nữ, người có nốt ruồi ở núi đôi thường dễ gặp phải đào hoa kiếp, cuộc sống tình cảm phong phú nhưng dễ phá tài phá sắc. Đây cũng là người khá háo sắc và dễ dàng đắm chìm vào chuyện tình cảm không chính đáng.
  6. Có nốt ruồi bên trên ngực phải: thường thích những người đàn ông lớn hơn mình nhiều tuổi hoặc đã từng có gia đình.   7. Có nốt ruồi trên ngực trái: Thích những người đàn ông ít tuổi hơn mình rất nhiều, coi trọng chuyện đụng chạm thể xác, thích sự thân mật gần gũi với người khác giới.    8. Có nốt ruồi đỏ trên ngực: Đây là nốt ruồi may mắn, chủ nhân của nó là người nhiệt tình phóng khoáng, đào hoa, tốt về đường con cái.  

Xem tướng vùng kín: Vòng 3

Xem tuong vung kin - Tuong mong
 
1. Vòng 3 cong đầy đặn: Người có tướng mông cong đầy, cảm giác nhiều thịt thì đường tài lộc cực kì vượng phát, ham muốn chuyện ấy cũng rất cao. Đây là người có cá tính, có sức quyến rũ lớn. Họ không thích hợp ghép đôi với những người đàn ông bảo thủ và gia trưởng, sẽ khiến cho mối quan hệ đắm chìm trong mâu thuẫn và xung đột.
  2. Vòng 3 gầy: Nhìn mông xem tướng phụ nữ, phần mông gầy mỏng, ít thịt, hai bên mông lõm vào, đây là tứớng người phụ nữ cá tính bình thường, cũng không có nhiều tài cán, sợ khó sợ khổ, lại hay so đo tính toán nên khó có được bạn bè tri kỉ, cuối cùng cũng chẳng làm nên sự nghiệp gì. Người này số cả đời vất vả, làm nhiều mà hưởng chẳng được bao nhiêu, hôn nhân nhiều trắc trở, khó khăn đường con cái, hậu vận phúc mỏng, tiền bạc thiếu thốn, sức khỏe suy yếu, nhiều bệnh tật.   3. Vòng 3 nhỏ mà chắc: Đây là tướng người vất vả khi còn trẻ, tài lộc không nhiều lại có phần nhỏ nhen, hẹp hòi. Từ trung vận, vận thế bắt đầu tốt dần lên, cũng có sự nghiệp của riêng mình, nếu có thể đem những kinh nghiệm tích lũy từ thời trẻ vận dụng vào hiện tại và kiên trì với mục tiêu đã định thì sẽ được báo đáp đủ đầy. Người này khá hẹp hòi trong chuyện tình cảm, cũng hay suy nghĩ linh tinh, ghen tuông vô cớ.   4. Vòng 3 to nhỏ không đều: Nếu một người có cặp mông độ to nhỏ mất cân đối thì cuộc đời gặp khá nhiều chuyện trắc trở, nếu là nữ giới có thể khó có con. Họ thích đầu tư, mơ về giấc mộng đổi đời chỉ sau 1 đêm. Họ không thích hợp tự mình lập nghiệp, nên hợp tác với người khác thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Mông trái to hơn mông phải, người này nên kết hôn sớm. Mông phải to hơn mông trái, cuộc đời phải đối diện với nhiều khó khăn, nhiều quyết định trọng đại (với nam giới thì là các vấn đề về sự nghiệp, với nữ giới thì là các vấn đề về sinh nở).   5. Vòng 3 phẳng bẹt: Người phụ nữ mà mông phẳng bẹt, thiếu đường cong là người có cá tính mạnh, có chủ kiến, không dễ tiếp nhận ý kiến của người khác, thích làm mọi chuyện theo ý của mình. Họ độc đoán, lại không dễ tin người, chuyện gì cũng ôm vào mình nên là mệnh khổ. Đây là nét tướng đại kị với phụ nữ, bởi người mông phẳng thường phải chịu cảnh cô đơn lẻ loi khi về già, duyên phận con cái mỏng, thậm chí không có con cái, tình thân cũng chẳng đậm đà.


mong to
 
  6. Vòng 3 dầy, có độ đàn hồi: Người này có sức sống vô cùng dồi dào, cũng là người thông minh, thường có cơ hội kiếm tiền rất tốt. Nếu mông dầy mà cong vểnh thì khá ham thích chuyện nam nữ.   7. Có nốt ruồi ở vòng 3: Dù là nam hay nữ thì người có nốt ruồi ở mông vận đào hoa đều cực vượng, xung quanh nhiều bạn bè khác giới, tuy nhiên nếu không kiểm soát tốt thì dễ gặp nhiều trắc trở trong đường tình cảm, vướng vào mối tình tay ba hoặc tình một đêm. Đường tài lộc của người này cũng khá suôn sẻ và thuận lợi. Nốt ruồi màu nhạt thì nhân duyên tốt, nốt ruồi màu càng đậm thì càng dễ bị soi mói, tiểu nhân ngáng đường. Nốt ruồi ở mông phần ngồi tiếp giáp với ghế thì tốt, tài vận sự nghiệp hanh thông. Nốt ruồi thiên về hai bên mông, gần với eo thì dễ gặp phiền phức vì chuyện tình cảm, người khác cảm mến nhưng không có duyên thành đôi lứa. Nói chung người có nốt ruồi ở mông tới trung vận sẽ dần ổn định, con cái hiếu thuận, vạn sự như ý, tuổi thọ cũng khá cao.   8. Hai bên cạnh vòng 3 có khoảng hõm vào: Dù là nam hay nữ thì đây đều là người có khả năng yêu cao, giỏi chuyện nam nữ, song khá tùy tiện trong chuyện tình cảm, dễ mắc phải mâu thuẫn trong tình cảm.

Có thể bạn quan tâm: Biết tuốt đàn ông qua tướng mông.
  9. Vòng 3 không có thịt: Người này duyên phận với con cái mỏng, thường không có nhiều con. Thời trẻ mưu sự khó thành, khó làm nên nghiệp lớn, tiền bạc cũng không nhiều, khi về già cô độc lẻ loi. Người này sức khỏe kém, thiếu kiên trì nhẫn nại. Nữ giới không có chính kiến, rất chăm chỉ làm việc nhưng không giữ được tiền trong tay. Nếu béo mà mông vẫn không có thịt thì cả sự nghiệp và tài lộc đều khó khăn, đường hôn nhân tình cảm cũng không được thuận lợi.   10. Vòng 3 to nhão: Người này tài vận không tồi, tiêu tiền cũng rất phóng khoáng. Là mẫu phụ nữ của gia đình, mẹ hiền vợ đảm, chẳng những hiền hậu dịu dàng mà còn thấu hiểu lòng người. Nhân duyên rất tốt, chuyện tình cảm vô cùng thuận lợi.    

Xem tướng vùng kín: Tam giác mật

Xem tuong vung kin - Vung tam giac
 
1. Vùng tam giác ít lông: Người mà vùng tam giác ít lông được gọi là “Tam chi tiễn”. Còn nếu không có lông, nữ giới được gọi là “Bạch hổ”, còn nam giới được gọi là “Thanh Long”. Bạch Hổ mà gặp Thanh Long thì đại cát đại lợi. Nếu gặp phải Tam chi tiễn thì vô cùng bất lợi, người này có thể hại bạn đến tán gia bại sản, tai họa liên miên.   2. Lông vùng tam giác vừa thẳng, vừa dài, vừa đen: là tướng sát chồng hoặc vợ, quan hệ tình cảm bất chính, tuy phú quý nhưng không được lâu dài.   3. Lông vùng tam giác màu vàng, mềm: Là tướng quý nhân. Theo tướng số, lông ở vùng tam giác mà rậm rạp như cỏ hay cứng như đinh thì đều là tướng thấp hèn.   4. Nữ giới có nốt ruồi ở vùng kín: Nốt ruồi ở vùng tam giác thì trái chủ quý, phải chủ lộc. Nữ giới là người có số đào hoa, cũng có ham muốn trong chuyện tình cảm cao.   5. Nam giới có nốt ruồi ở vùng kín: Người này có số sinh quý tử, nếu không có con thì là số đào hoa, tình cảm thay đổi thất thường. Ở "cậu nhỏ" có nốt ruồi dễ lăng nhăng, gửi con khắp chốn.   6. Nữ giới mà có nốt ruồi ở môi thì thường chỗ kín cũng có nốt ruồi, đường tình cảm gặp nhiều trắc trở.   7. Hậu môn: Hậu môn kín, hai mông khép lại không nhìn thấy hậu môn thì là tướng giàu, có của ăn của để. Hậu môn lộ thì nghèo, không giữ được tiền.    An An 
Bí mật gì ẩn giấu sau nốt ruồi ở cổ Nhìn ngực đàn ông đoán vận giàu 28 kiểu mông phân rõ vận mệnh sang hèn (P1)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng vùng kín biết ngay giàu sang phú quý

Chùa Cam Đan - dấu ấn hơn 600 năm của Phật giáo Tây Tạng

Phật giáo Tây Tạng có những ngôi chùa mang tầm vóc lịch sử, văn hóa và tôn giáo trải qua hàng trăm năm, nổi bật nhất là chùa Cam Đan ở thủ đô Lhasa.
Chùa Cam Đan - dấu ấn hơn 600 năm của Phật giáo Tây Tạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo Tây Tạng được coi là hệ phái lớn và có nét đặc sắc trong Phật giáo nói chung. Nơi đây có những ngôi chùa mang tầm vóc lịch sử, văn hóa và tôn giáo trải qua hàng trăm năm, nổi bật nhất là chùa Cam Đan ở thủ đô Lhasa. 


► Mời các bạn tra cứu: Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Chua Cam Dan - dau an hon 600 nam cua Phat giao Tay Tang hinh anh
 
Chùa Cam Đan là một trong nhưng ngôi chùa mang những đặc trưng không lẫn vào đâu được của Phật giáo Tây Tạng, được coi là ngôi chùa đứng đầu trong 6 ngôi chùa lớn nhất ở đất nước sùng Phật này. Chùa Cam Đan nằm ở phía Đông thủ đo Lhasa, bên trong khe núi Bhor.   Chùa Cam Đan được xây dựng từ thế kỉ thứ 15, tương truyền là vào năm 1409, do đại sư Tông Khách Ba – người sáng lập giáo phái Cách Lỗ trong Phật giáo Tây Tạng khởi xướng. Vì thế mà chùa Cam Đan có vị trí cực kì đặc biết đối với Phật giáo Cách Lỗ ở Tây Tạng.   Nơi đây tập trung hơn 8000 tăng chúng, tụng kinh khẩn nguyện, mở rộng quy mô và ảnh hưởng của Phật giáo Cách Lỗ (hay còn gọi là Hoàng giáo). Truyền thuyết xưa kể rằng, Đại sư Tông Khách Ba mang theo 3 chồng ngói, cát cùng với 8 vị học trò tới vùng núi Bhor thăm dò địa hình. Tới vị trí của chua Cam Đan ngày nay thì thấy cảnh núi non hùng vĩ, thích hợp để tu tập bèn dừng lại dùng ngói và cát xây dựng miếu. Riêng đại điện Xích Thỏa Khang, phải mất tới hơn 70 năm mới xây dựng xong.
Chua Cam Dan - dau an hon 600 nam cua Phat giao Tay Tang hinh anh
 
Sau khi khánh thành, Đại sự Tông Khách Ba đảm nhiệm vị trí trụ trì đầu tiên của chùa Cam Đan, tập hợp về hơn 500 đồ đệ, tiến hành nghi thứcThịnh Đại Khai Quang cực kì long trọng. Theo thời gian, chùa Cam Đan ngày một mở rộng về quần thể kiến trúc và số lượng tăng chúng tu tập, trở thành địa chỉ truyền bá Phật giáo Tây Tạng Cách Lỗ lớn nhất cả nước.
  Chùa có kiến trúc Raki tiêu biểu, màu đỏ thẫm đặc trưng, tất cả các điện đều xây dựng phục vụ cho việc tu tập, thanh tịnh của chúng tăng. Giới luật nghiêm ngặt, tính chất học thuật đậm nét, ảnh hưởng tư tưởng sâu rộng,  chùa Cam Đan có vị trí trọng yếu về chính trị, tôn giáo, kiến trúc và nghệ thuật.    Năm 1961, chùa Cam Đan được xếp hạng là di vật văn hóa cần bảo vệ cấp quốc gia. Hiện nay, trải qua những thăng trầm, biến chuyển của thời gian, lịch sử, nơi đây vẫn sừng sững như là biểu tượng bền bỉ, mạnh mẽ và hướng thiện của Phật giáo Tây Tạng giữa thủ đô Lhasa kì bí.
Kì vĩ thung lũng đỏ Phật giáo Larung Gar trước ngày bị phá dỡ Chiêm ngưỡng thung lũng Phật giáo lớn nhất thế giới Dấu ấn tâm linh trong tục thiên táng của người Tây Tạng

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Cam Đan - dấu ấn hơn 600 năm của Phật giáo Tây Tạng

Nguồn gốc Tết Hàn thực 3/3 và ý nghĩa bánh trôi bánh chay

Vào ngày Tết Hàn thực ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch hàng năm, người Việt có tục lệ dâng lên Phật, tổ tiên món bánh trôi bánh chay. Ý nghĩa Tết Hàn Thực là gì?
Nguồn gốc Tết Hàn thực 3/3 và ý nghĩa bánh trôi bánh chay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào ngày Tết Hàn thực 3 tháng 3 Âm lịch hàng năm, người Việt thường có tục lệ dâng lên Phật, tổ tiên món bánh trôi bánh chay. Đây không chỉ là một nét đẹp văn hóa truyền thống mà còn là cả nét đẹp trong nghệ thuật ẩm thực.


Nguồn gốc Tết Hàn thực


  Theo truyền thuyết dân gian, tết Hàn Thực bắt nguồn từ việc tưởng nhớ Giới Tử Thôi vào thời Xuân Thu ở Trung Quốc. Chuyện kể rằng: Giới Tử Thôi là bầy tôi trung thành của vua Văn Công nhà Tấn từ lúc Văn Công còn phải long đong, lận đận bôn tẩu khắp mọi nơi, hết chạy sang nước Địch, lại chạy sang nước Vệ, nước Tề, nước Sở. Suốt 19 năm trời gian nan, nhưng khi thành nghiệp lớn, Tấn Văn Công lại quên công đầu của Giới Tử Thôi.

Nguon goc Tet Han thuc 33 va y nghia banh troi banh chay hinh anh
Bánh trôi

Tử Thôi không oán hận mà tủi thân bỏ về quê nhà, cõng mẹ vào núi Miên Sơn ở ẩn. Sau này, Văn Công nhớ ra cho người tìm kiếm Tử Thôi nhưng không thấy. Vua Tấn biết Tử Thôi ở Miên Sơn không chịu ra nên hạ lệnh đốt rừng để buộc ông phải ra. Nào ngờ Tử Thôi và mẹ cùng chịu chết cháy trong rừng.
 
Nhà vua hối hận cho lập miếu thờ. Hàng năm, đến ngày 3 tháng 3 là ngày chết cháy của 2 mẹ con Tử Thôi thì cấm dùng lửa nấu ăn, ngay cả việc làm cỗ cúng cũng phải làm từ hôm trước, đây được coi là ngày Tết Hàn thực. Vào ngày này Người Hoa thường làm bánh trôi, bánh chay để hôm sau ăn tránh việc nổi lửa để tưởng nhớ một vị trung thần. Nếu năm nào Tết Hàn Thực trùng với Tiết Thanh Minh thì năm đó ngày này là chuẩn nhất.

Nguon goc Tet Han thuc 33 va y nghia banh troi banh chay hinh anh 2
Bánh chay
 

Ý nghĩa của bánh trôi bánh chay trong tết Hàn thực của người Việt

  Tiết Hàn Thực có nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng đã được Việt hóa từ lâu đời. Vào ngày này, trên ban thờ gia tiên, trên mâm cỗ tại đền thờ hay một số chùa chiền nguời ta thường dâng cúng bánh trôi bánh chay. Cũng có tích kể lại rằng bánh trôi bánh chay có từ thời Hùng Vương và tục làm hai thứ bánh này để nhắc nhớ về sự tích “bọc trăm trứng” của Âu Cơ. 
 
Thời xưa, Lạc Long Quân sau bao lần trừ yêu diệt bạo, giúp dân lành yên ổn sinh sống thì trở về biển Đông và dặn dân chúng rằng “Hễ có tai biến thì gọi ta, ta sẽ về ngay.” 
 
Lúc bấy giờ có Đế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam, mang theo cả người con gái vô cùng xinh đẹp là Âu Cơ cùng nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh hữu tình, nhiều chim muông, nhiều gỗ quý, Đế Lai liền sai quân xây thành đắp lũy, định ở lâu dài. Tuy nhiên, Đế Lai bắt người dân Lĩnh Nam phải phục dịch rất khổ, quân lính ức hiếp dân lành. Nhân dân không chịu nổi bèn hướng về biển Đông và gọi, chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã quay về.
 
Sau khi nghe người dân kể chuyện, Lạc Long Quân liền hóa thành một chàng trai tuấn tú, thân hình vạm vỡ, mang theo hàng trăm đầy tớ, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Đế Lai ở. Tuy nhiên, khi tới nơi thì lại không có Đế Lai ở đó, chỉ có một cô gái nhan sắc tuyệt trần, chính là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi nàng liền đem lòng say mê và xin đi theo. Đế Lai trở về, không thấy con gái mình bèn kéo quân đi tìm khắp nơi. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
 
Âu Cơ sống với Lạc Long Quân trên núi ít lâu thì có mang, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.”

Nguon goc Tet Han thuc 33 va y nghia banh troi banh chay hinh anh 3
50 người con theo Lạc Long Quân xuống biển, 50 người con theo Âu Cơ lên núi
  Hai người từ biệt nhau, một trăm người con tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương.    Để ghi nhớ cho sự kiện trăm trứng, mỗi năm, cứ đến tết Hàn THực, 3.3 âm lịch, nhân dân ta lại làm bánh trôi bánh chay. Trăm viên bánh nhỏ tượng trưng cho trăm quả trứng của Đức Lạc Long Quân. Bánh trôi tượng trưng cho 50 quả trứng nở ra thành 50 người con lên rừng theo mẹ. Bánh chạy tượng trưng cho 50 quả trứng nở ra thành 50 người con theo cha xuống biển.   Tết Hàn thực của người Việt chủ yếu mang ý nghĩa hướng về cội nguồn, tưởng nhớ công lao của những người đã khuất. 
 
► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc Tết Hàn thực 3/3 và ý nghĩa bánh trôi bánh chay

Tháng sinh may mắn của 12 con giáp

Tùy vào từng con giáp chủ trị của năm đó, mọi người sinh ra đã có vận thế khác nhau. Tuy nhiên, tháng sinh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tử vi tổng quan.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người sinh ra vào cùng một năm nhưng các tháng khác nhau sẽ có điểm khác nhau trong lá số tử vi. Ví dụ, người tuổi Tí sinh ra vào tháng Giêng sẽ giàu có, khỏe mạnh, hạnh phúc và thành công hơn những người sinh ra vào tháng Hai.

Có những tháng mang lại vận thế tốt hơn cho mỗi con giáp. Liệu bạn có sinh ra vào tháng may mắn? Hãy cùng tìm hiểu và tính toán tháng sinh tốt sau này cho con cái. Ngoài ra, bạn có thể nhấn vào từng con giáp để xem "Vận thế tổng quan năm 2016" của mình.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng sinh may mắn của 12 con giáp

Thân cư Phu/Thê

Dù trong thời đại nào, dù phương Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn thường nghe câu: “Sau lưng một người đàn ông thành công là một người đàn bà đảm đang tài giỏi.” Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có tầm quan trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch ? Còn đối với phụ nữ thì cung Phu Thê lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với thời phong kiến xa xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng mờ, hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như thế nào cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa “xuất giá tòng phu”.
Thân cư Phu/Thê

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao, đối với quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy mà sự quan trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế hai chữ “gia đạo” lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống con người trong bất cứ thời đại nào hay xã hội nào. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân cư Phu Thê.

Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê. Người ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ. Đàn bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng, chúng ta sẽ bàn đến sau.

Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và có tình cảm với nhau như đã quen biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp lâu đài tình ái còn đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn, tùy theo lá số của mỗi người.

Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng có thể là vì hoàn cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn cảnh điển hình nhất mà chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình ảnh của cựu Tổng Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay, hay có thể nói là “còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi”. Nhưng họ vẫn ở bên nhau, xuất hiện bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho xong vở tuồng mà họ phải diễn.

Nói một cách khác, trong lĩnh vực tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với nhau, cho dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc hay gặp những hoàn cảnh ngang trái, dường như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại với nhau, không chia ly dễ dàng như những người khác.

Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu hết họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề hay cùng chung một cơ sở thương mại với nhau. Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của hai người luôn có sự liên hệ và hợp tác hỗ trợ cho nhau.

Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê thường có thêm một nghề tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái thú tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh bởi nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu:

1. Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay không ?

Đối với người Á Đông chúng ta thì chuyện “xuất giá tòng phu” là một quan niệm bình thường. Do đó, nếu một người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng của mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là bị phán ngay là số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số.

Để giải đoán cho phân minh, chúng ta phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người có Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh nhược Thê cường) có nghĩa là người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ trong nhà cho đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần lớn đều do tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã hội ngày nay có khác, hai chữ “tòng phu” không còn nữa cho nên chúng ta cũng phải cân nhắc như vậy.

Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải là số nhờ chồng/vợ.

Trường hợp này thông thường thì hai người cùng làm chung một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với nhau trong cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với nhau như đã bàn ở trên.

2. Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không ?  
 
Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số. Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên rồi. Chẳng hạn, lá số của một ông chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao tiêu biểu cho văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm Tham là biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra ngoài cũng nhu vai trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao túng hết.

Điều này chúng ta cũng thấy rõ những đấng mày râu tuy cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu Thê lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy cũng là hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thân cư Phu/Thê

Những điềm báo về chiếc đinh trong giấc mơ

nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy những chiếc đinh nhọn, giấc mơ này ám chỉ đến những phiền toái trong cuộc sống hiện tại của bạn. Bạn dễ dàng đối đầu và
Những điềm báo về chiếc đinh trong giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy những chiếc đinh nhọn, giấc mơ này ám chỉ đến những phiền toái trong cuộc sống hiện tại của bạn. Bạn dễ dàng đối đầu và gây gổ với những người xung quanh mình.


► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát

Nhung diem bao ve chiec dinh trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
 
Cảnh đóng đinh xuất hiện trong giấc mơ dự báo về tiền đồ của bạn trong tương lai. Nếu bạn cố gắng hết mình, bạn sẽ có được những thành tích bất ngờ trong sự nghiệp.
  Bạn mơ thấy đinh mới còn sáng bóng, dự báo bạn có tin tốt lành. Bạn sẽ gặp người bạn cũ sau nhiều năm xa cách.    Ngoài ra, đây còn là điềm báo công việc của bạn còn "thuận buồm xuôi gió".   Nếu mơ thấy chiếc đinh bị gỉ sét, nó dự báo bạn mắc phải một số sai lầm. Bạn nên khắc phục ngay để tránh làm ảnh hưởng đến tiến độ công việc của mình.   Mơ thấy cây đinh đóng tường ở ngay phía trên đầu bạn, nó dự báo rằng cấp trên sẽ khảo nghiệm bạn bằng những phương thức khá phức tạp. Bạn nên chuẩn bị trước tinh thần để đối phó. Tuy nhiên, nếu bạn mơ thấy đinh đóng giày là bước đầu bạn thu được thành công từ những cuộc khảo nghiệm mà sếp mình đặt ra.
 
Nếu bạn nằm mơ thấy mình lái xe và bị trúng đinh, điều này ngụ ý đến một số vấn đề ở hiện tại khiến cho bạn rất bức xúc. Giấc mơ cũng cảnh báo những kế hoạch của bạn có thể sẽ bị gặp trắc trở, bạn cần phải cẩn trọng hơn với những vấn đề ở hiện tại.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điềm báo về chiếc đinh trong giấc mơ

Tết Nguyên Tiêu, khai vận cầu phúc trọn đời

Mỗi cái rằm trong năm nều có sự quan trọng riêng. Hãy làm theo những cách dưới đây trong ngày Rằm để cả năm vận khí dồi dào.
Tết Nguyên Tiêu, khai vận cầu phúc trọn đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Dân gian ta có câu: “Rằm tháng giêng ai siêng thì quảy, rằm tháng bảy kẻ quảy người không, rằm tháng mười, mười người mười quảy” để nói lên tập quán cùng sự hệ trọng của từng cái rằm. Hãy làm theo những cách dưới đây trong ngày Rằm để cả năm vận khí dồi dào.

Tet Nguyen Tieu, khai van cau phuc tron doi hinh anh goc
 
Tet Nguyen Tieu, khai van cau phuc tron doi hinh anh goc 2
 
► Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Nguyên Tiêu, khai vận cầu phúc trọn đời

7 dáng ngồi tố cáo tính cách

Những người ngồi kiểu một chân duỗi thẳng, chân khác co lên thường hách dịch, sinh ra đã thích ganh tỵ với người khác.
7 dáng ngồi tố cáo tính cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1-1477-1408587486.jpg 2-2233-1408587486.jpg 3-5954-1408587486.jpg 4-1838-1408587487.jpg
5-3213-1408587487.jpg 6-9777-1408587487.jpg 0-6007-1408587487.jpg

Hạnh Yunnie (theo Meigou)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 dáng ngồi tố cáo tính cách

Bạn có được kế thừa sản nghiệp của tổ tiên?

Thái dương là sao chủ về quyền quý, Thiên lương là sao chủ về thanh quý, hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, kế thừa tài sản hoặc sản nghiệp của tổ tiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thái dương là sao chủ về quyền quý, sao Thiên lương là sao chủ về thanh quý, hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, có tài lãnh đạo, tiềm lực lớn, thu nhập nhiều, có vận thiên tài, có thể kế thừa tài sản hoặc sản nghiệp của tổ tiên.

tai-san-to-nghiep

BỐ CỤC SAO

Sao Thái dương tại cung Mão, Dậu tất có sao Thiên lương cùng tọa thủ (cung Mão: Sao Thái dương, Thiên lương đều là nhập miếu; cung Dậu: Sao Thái dương là thế bình, sao Thiên lương là thế địa). Cung Mệnh không có chủ tinh, cung Thiên di là sao Thiên đồng, Cự môn không đắc thế địa, cung Quan lộc là sao Thái âm (cung Hợi là nhập miếu, cung Tỵ là thế hãm), cung Điền trạch là sao Liêm trinh lợi thế và sao Thiên phủ nhập miếu.

PHÂN TÍCH TÀI VẬN

Nếu có đặc điểm sao này, thì chủ biết cách tiết kiệm đầu tư, thường được kiêm chức, không tránh khỏi vất vả cạnh tranh hoặc rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tiền tài dễ gặp trắc trở mà sản sinh ra những phiền nhiễu. Nên kiếm tiền từ nhà nước, đảm nhiệm trách nhiệm công chức hoặc sáng nghiệp, chuyên nghiệp, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật, y học, tiến tài trong sự thanh cao.

Đồng tọa cung Mão, chí hướng cao xa, người sinh ban ngày thường sinh trong gia đình phú quý, nếu nắm được thời cơ thì có thể phát tài và vô cùng giàu có. Đồng tọa cung Dậu, thiếu định tính, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, tướng quý nhưng không hiển và không hiển thị thực, những năm trẻ tuổi thường hay vất vả nhưng có xu thế phát tài muộn.

Cung Mệnh không có chủ tinh, cần dựa vào cát tinh khác của bản cung và sao Thiên đồng, Cự môn của cung đối diện (cung Thiên di), tổng kết lại và luận mệnh.

Sao Thiên đồng độ lượng, không lưu tâm, chịu khó làm việc. Sao Cự môn thường hiếu kỳ, không chịu thừa nhận thất bại, hay suy nghĩ. Hai sao kết hợp với nhau, chủ ôn hòa nhã nhặn, tuân thủ nguyên tắc không có mưu đồ, động lực yếu, khó có đất dụng võ, có thể tự tìm được niềm vui, dễ xúc động, tinh thần thường cảm thấy trống trải cô đơn.

Sao Liêm trinh, Thiên phủ cùng tọa thủ cung Điền trạch, có thể kinh doanh đầu tư ngành nhà đất, thường lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, tụ tài thành giàu có, thích nơi náo nhiệt.

Sao Thái âm tọa cung Quan lộc, không nên làm kinh doanh, thường làm việc trong các cơ quan doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hoặc theo đuổi những ngành như văn nghệ, diễn viên, vui chơi, tính nghệ thuật, phục vụ đại chúng, biên tập, thiết kế công trình. Sao Thái âm tọa cung Hợi, thường có thể phát huy sở trường, đảm đương nhiệm vụ trọng yếu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có được kế thừa sản nghiệp của tổ tiên?

Đổi hướng bếp, cầu được con

Nhiều gia đình hiếm muộn hoặc sinh con một bề vẫn “cầu tự” khắp nơi mong có con. Mẹo nhỏ phong thủy cầu con dưới đây biết đâu sẽ giúp bạn được như ý nguyện.
Đổi hướng bếp, cầu được con

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều gia đình hiếm muộn hoặc sinh con một bề vẫn “cầu tự” khắp nơi mong có con. Mẹo nhỏ phong thủy cầu con dưới đây biết đâu sẽ giúp bạn được như ý nguyện.

Doi huong bep, cau duoc con hinh anh
 
Ngoài trừ những trường hợp vô sinh, hiếm muộn, có rất nhiều cặp vợ chồng dù không bệnh tật gì nhưng mãi vẫn chưa đậu thai. Phong thủy học cho rằng đó là do ngôi nhà họ ở có vấn đề. 
 
Việc đặt bể phốt, bể nước ngầm, đào giếng tại cung bản mệnh hoặc cung đào hoa cộng với hướng nhà không tốt đã làm cho việc hiếm con trở nên trầm trọng và khiến vợ chồng lo lắng, càng lo lắng thì càng khó có con.
 
Theo phái Bát trạch thì hướng bếp ảnh hưởng trực tiếp tới đường con cái, đặc biệt là con trai của gia chủ. 
 
Bếp, nhà quay lưng về phương vị hung so với bản mệnh chủ nhà và mặt bếp hướng về phương Sinh khí sẽ có 5 người con trai.
 
Bếp, nhà quay lưng về phương vị hung so với bản mệnh chủ nhà và mặt bếp quay về phương Thiên y sẽ có 4 con trai.
 
Bếp, nhà quay lưng về phương vị hung so với bản mệnh chủ nhà và mặt bếp quay về phương vị Diên Niên sẽ có 3 con trai.
 
Khi cầu con có thể xem xét thay đổi hướng bếp hoặc đổi nơi ở có hướng nhà như trên.
 
Phương pháp cầu con hiệu quả nhanh nhất và phức tạp nhất là quay lưng bếp về phương vị hung so với mệnh chủ và hướng mặt bếp về phương vị Phục vị. Chờ sao Thiên Ất Quý Nhân bay đến hướng Phục vị sẽ có con ngay.
 
Cách tính sao Thiên Ât Quý Nhân dựa vào sự di chuyển của sao Lưu Niên. Tức là sự di chuyển của chín ngôi sao trong Huyền Không Phi Tinh theo năm. Sao Thiên Ất Quý Nhân là sao Nhị Hắc.   ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đổi hướng bếp, cầu được con

Xem tướng qua khuôn mặt để biết giàu sang hay nghèo khó

Xem tướng qua khuôn mặt để biết giàu sang hay nghèo khó Thuật xem tướng đã đúc kết rằng khuôn mặt là phần quan trọng của cơ thể con người,
Xem tướng qua khuôn mặt để biết giàu sang hay nghèo khó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng qua khuôn mặt rất được chú trọng trong thuật xem tướng của người xưa

Thuật xem tướng đã đúc kết rằng khuôn mặt là phần quan trọng của cơ thể con người, từ đây có thể thấy thân thể khí sắc của người có tốt hay không, mệnh vận đời người như thế nào, có thể nhìn thấy chức vị của người đó và nhiều điều trọng yếu.

Nếu như trên khuôn mặt một người, xương 2 má, mũi, trán, dưới cằm (Ngũ nhạc) và tai, mắt, miệng, mũi (Tứ độc) đều cân bằng, bổ sung cho nhau, Tam đình của thân thế và Tam đình của Khuôn mặt hòa hợp, như một chỉnh thể, lại thêm tướng mạo đoan chính, tinh thần an tĩnh, khí sắc bình hòa, người như thế đã hội tụ đầy đủ nền tảng của phú quý. Là tướng người giàu có vẹn toàn.

Ngược lại, nếu như tướng mạo không ngay thẳng, thân thể khuyết thiếu, màu sắc da không sáng tươi lại mờ tối, khí sắc không tốt, mặt lộ tướng hung ác, những người này số mệnh không được hưởng phú quý, là tướng bần tiện.

Nếu một người mặt trắng như ngọc, tóc đen mượt hay tóc vàng giống như quả dẻ chín thì khí mạnh mẽ, đó là cát tướng. Nếu trên mặt một người có sắc đỏ hung bạo, giống như bị bỏng lửa thì người đó khó sống lâu. Nếu như sắc mặt u ám, lông mao xơ xác, đó là những người hạ tiện bần cùng, cũng không thể sống lâu, vì quá vất vả mà khó giữ tính mạng. Khi giận dữ mặt có màu xanh, đó là người cay độc, lòng dạ hiểm ác như lang sói, thường hại người.

Xem tướng qua khuôn mặt mà thấy mặt đầy đặn như mặt trăng, thanh tú lại có thần thái, đàn ông là tướng phú quý, tương lai có thề làm quan chức cấp cao.Phụ nữ có khuôn mặt này là tướng người vợ quý, lấy chồng giàu sang quyền thế. Màu da của khuôn mặt sáng đẹp, đó là người có tính cách mộc mạc đôn hậu, tính cách thật thà lương thiện, hiếu thuận với cha mẹ.

Khuôn mặt tương đổi mỏng, đó là người thông minh, tư duy mẫn tiệp nhưng phút chốc có thể rơi vào cảnh bần hàn.

Người béo tốt cao to mà khuôn mặt gầy, trên dưới không cân đôi, đó là người có tính cách hòa nhã, cũng là người trường thọ.

Thân thế cao gầy mà mặt to, đó là người có tính cách nóng nảy, không có tướng thọ. Da mặt trắng mà thân thể có màu đen thường dễ tính nhưng là mệnh nghèo khổ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua khuôn mặt để biết giàu sang hay nghèo khó

18 mẹo phong thủy cho đàn ông cần nhớ

Phong thủy truyền thống cho rằng, nam nữ là hai cá thể khác biệt nên có những điểm mà nam hung nhưng nữ cát. 18 lưu ý phong thủy dành cho đàn ông dưới đây là
18 mẹo phong thủy cho đàn ông cần nhớ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy truyền thống cho rằng, nam nữ là hai cá thể khác biệt nên có những điểm mà nam hung nhưng nữ cát, nữ xấu nhưng nam tốt. 18 lưu ý phong thủy dành cho đàn ông dưới đây là ví dụ điển hình.


18 meo phong thuy danh rieng cho phai manh hinh anh
 
1. Đàn ông nếu ở lâu dài trong phòng tại tầng hầm hoặc phòng của phụ nữ thì dương khí sẽ không đủ.
  2. Lưu ý phong thủy dành cho đàn ông là nếu ở nhà tọa Tây Nam hoặc giường ngủ kê hướng về phía Tây thì tình duyên sẽ gặp nhiều trắc trở.   3. Hình xăm đồng dạng (nhất là hình hai chiếc đầu, bộ ngực) sẽ làm cho tài vận và duyên vận của đàn ông giảm sút.   4. Đàn ông thường xuyên ở trong phòng có tạp vật, bừa bãi thì tài vận quanh co.   5. Người nuôi cá, trồng hoa thường xuyên không thành công hoặc chỉ nhất thời hứng khởi sẽ ảnh hưởng tới quý nhân vận.   6. Phòng treo nhiều tranh ảnh phụ nữ mà không phải người thân hay người yêu thì dễ mắc nạn đào hoa.   7. Mua hoặc thuê nhà khuyết góc Tây Bắc thì không bị nữ nhân coi thường, kết hôn xong bị vợ quản.   8. Lưu ý phong thủy đàn ông phải tránh là không được giặt nội y bừa bãi, không nên mang ra hàng giặt công cộng, dễ khiến tình cảm giảm sút.   Bốn nỗi khổ lớn của một đời người và cách để thay đổi chúng
9. Không có cốc uống nước cố định thì với người đàn ông mệnh Mộc đã tự đánh mất nhiều cơ hội tốt trong sự nghiệp.
  10. Hủy hoại hay vô tình làm hỏng, làm mất đồ trang sức mà mình từng tặng cho phụ nữ cũng là lỗi phong thủy đàn ông hay mắc mà không biết điều đó sẽ khiến tình cảm tan vỡ, tình duyên lận đận.   11. Thường xuyên quan hệ với những người phụ nữ mình không yêu sẽ tổn thương nguyên khí.   12. Thường xuyên lấy người khác ra làm trò đùa sẽ dễ gặp tiểu nhân.   13. Đàn ông có thói quen để “áo mưa” ở ngăn kéo bên trái trong phòng làm việc thì dễ bị “cắm sừng”.   14. Vị trí làm việc ở phía sau phụ nữ lại cạnh bên nhà vệ sinh thì nhất định sự nghiệp không thể phát triển.   15. Ở nhà riêng hay phòng làm việc chỉ nên đặt một chậu cây nhỏ, nếu trưng bụi cây lớn thì dễ lâm vào khốn cảnh, tự mình hại mình, vận thế giảm xuống.
18 meo phong thuy danh rieng cho phai manh hinh anh
 
16. Đàn ông khiến phụ nữ có thai sinh non, sảy thai mà không tiến hành siêu độ thỏa đáng thì về sau rắc rối càng nhiều.
  17. Thường xuyên vung vãi tiền lẻ rồi hàng tháng lại phải vay tiền, thậm chí vay tiền phụ nữ khiến tài vận và sự nghiệp không thể khởi sắc.   18.  Tùy ý nói năng, sử dụng những lời lẽ không tốt, ác ý công kích người khác sẽ khiến tài vận, tình vận cùng sức khỏe phát sinh sự cố ngoài ý muốn.  
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác

Trần Hồng

Xem Clip Ăn ở phúc đức, một đời no đủ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 18 mẹo phong thủy cho đàn ông cần nhớ

Làm thế nào để quy hoạch phòng họp (phòng hội nghị)? –

Phòng họp là một nơi nhân khí vượng nhất ở công ty, phòng họp cũng có quan hệ đến toàn thể công ty. Phòng họp ở nhiều công ty còn bao gồm cả không gian triển lãm sản phẩm mẫu của công ty, tức vừa là phòng họp củng là gian phòng triển lãm. Cho nên đứn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

g từ góc độ bố cục lớn mà xem xét, nên đặt phòng hội nghị ở phía trước của công ty, đi vào đi ra đều có những lối đi cơ bản.

hoinghihoithapkscd2

Ví dụ, những người đến từ ngoài để tham dự họp ở công ty, không cần phải đi qua các phòng nội bộ của công ty mà có thể đến thẳng phòng hội nghị, như vậy thì vấn đề có mặt của công ty cũng sẽ không phải quan tâm đến việc mất đi. Một phòng hội nghị được bố trí tốt còn có thể thúc đẩy hơn việc cử hành thành công hội nghị. Những nhà kinh doanh bên ngoài đến để đàm phán với công ty, cũng có thể có không gian đàm phán tốt.

Lựa chọn bàn hội nghị

Lựa chọn bàn hội nghị cũng cần phải công phu một chút. Bàn hội nghị hình tròn hoặc hình bầu dục tiện cho việc đạt được tiếng nói chung, khơi dậy sức sáng tạo và phát huy tinh thần đoàn kết, bởi vì bàn tròn khiến cho thành viên trong đoàn không gặp trở ngại gì về mặt giao tiếp.

634091116080996250

Nếu mà tiến hành xử lý đánh ráp những góc nhọn của bàn, những bàn vuông hoặc hình chữ nhật thì cũng có hiệu qua công việc tương đối cao.

Bàn hội nghị hình chữ U rất dễ nhìn thấy người khác, đồng thời đối với người trần thuật hội nghị ở đỉnh hình chữ U có thể cung cấp tác dụng tụ tập rất tốt.

Vật cát tường: Tràng hạt Thật (Thật châu)

Giải thích: Phật châu là tượng trưng của lực lượng thần bí, đeo tràng hạt này vào sẽ có tác dụng bảo vệ bình an. Tràng hạt Phật châu dùng gỗ từ đàn và gỗ lục đàn gia công thì mới có hiệu quả tốt nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm thế nào để quy hoạch phòng họp (phòng hội nghị)? –

Xem ngày tốt xấu tháng Sáu theo Đổng công tuyển trạch nhật

Khi muốn tiến hành một công việc đại sự nào đó như khai trương, xuất hành, xây nhà, đào giếng, an táng... cần xem ngày có tốt hay không. Việc xem ngày tốt xấu
Xem ngày tốt xấu tháng Sáu theo Đổng công tuyển trạch nhật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  là rất quan trọng, nếu phạm phải sẽ gặp thất bại, mọi sự đều không thành.

Xem ngay tot xau thang Sau theo Dong cong tuyen trach nhat hinh anh
12 con giáp 




Nguyệt kiến Mùi: Tiểu thử - Đại thử. (Từ ngày 7-8 tháng 7 DL)  Sau Tiểu thử Tam sát ở phương Tây, trên Thân, Dậu, Tuất nên kiêng tu tạo, động thổ. 
 
Trực Kiến - ngày Mùi: 
 
Ất Mùi là Sát nhập trung cung, không tốt cho các việc tu tạo, hôn nhân, nhập trạch, khai trương, thăng quan tiến chức, nếu phạm phải không tốt, bị bệnh tật, tổn hại tới người trong nhà, mất của cải, rất xấu. 
 
Trực Trừ - ngày Thân: 
Giáp Thân có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Hoàng La, Tử Đàn tinh cùng chiếu nên tốt cho việc dựng cột, khởi tạo, an táng, động thổ, khai sơn, phạt cỏ, xuất hành, khai trương, trăm việc đều tốt. 
 
Các ngày Thân còn lại (Bính Thân, Nhâm Thân) cũng rất tốt. 
 
Duy có Bính Thân là một ngày ngũ hành vô khí, kiêng mọi việc. 
 
Ngày Canh Thân nên thận trọng. 
 
Trực Mãn - ngày Dậu: 
Thiên Hỉ, Thiên Phú.  Ất Dậu, Tân Dậu : nên làm các việc chặt cây, buộc giàn, đổ móng (định tảng), khởi tạo sẽ được thứ cát.
 
Ngày Kỷ Dậu bị Cửu thổ quỷ. 
 
Quý Dậu là ngày Tiểu Táng, nhưng lại phạm Hắc Sát sở thuộc, nên cẩn thận khi làm những việc cấp bách. Ngày Đinh Dậu gặp trực Mãn cũng bất lợi, sợ rằng trong cát có hung, nên thận trọng, nói chung là không đẹp, dùng thì nên cẩn thận.    Trực Bình - ngày Tuất: 
 
Có Chu Tước, Câu Giảo chiếu nhưng lại phạm Đáo Châu tinh nên không tốt cho việc nhập trạch, hôn nhân, nếu phạm phải sẽ bị dính líu tới kiện tụng pháp đình, không tốt lắm. 
 
Duy ngày Giáp Tuất là một ngày Huyền Nữ Thâu Tu (tám phương đều thanh bạch, chư thần đều về chầu trời), là ngày có khí, có thể dùng được. 
 
Trực Định - ngày Hợi: 
Kỷ Hợi là Hỏa tinh.  Đinh Hợi có Hoàng La, Tử Đàn, Thiên Hoàng, Địa Hoàng cùng chiếu. 
 
Ất Hợi có Văn Xương trực nhật, nên làm các việc : xuất hành, nhập trạch, hôn nhân, nhập học, tu tạo, động thổ, tham quan, gặp quý nhân, chiêu tài lộc (thu hút được tài lộc), sinh quý tử làm việc lớn thì phát lớn, làm việc nhỏ thì phát nhỏ. Lại nói Văn Xương Ất Hợi tại Ngọ, Văn Xương là Thái dương ở cung Ngọ, là ngôi của Thái Dương, cho nên Có Văn Xương tinh trực nhật là đại cát.
 
Tân Hợi là Phụ Nhân Chi Kim, âm khí của Kim Thịnh.  Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, ngày ấy ngũ hành vô khí, vì vậy hai ngày Quý Hợi và Tân Hợi đều không nên dùng.    Trực Chấp - ngày Tý: 
Hoàng sa.  Bính Tý, Canh Tý tốt cho khởi tạo, hưng công, động thổ, làm kho chứa, nhập trạch, dời chỗ ở, khai trương, xuất hành. 
 
Mậu Tý là thứ cát.  Giáp Tý tuy là đầu của lục giáp, ở tháng giêng, tháng sáu có Thiên Đức, Nguyệt Đức nên không thể dùng vì Sát Tự Tử Chi Kim, ngũ hành vô khí, người bình thường không thể gặp được (bất năng dương), đó là Hắc sát ở phương Bắc, tướng quân chi khí. 
 
Nhâm Tý là mộc đả bảo bình, Bắc phương mộc dục chi địa, lại là Chính tứ phế, càng kị nhiều việc.    Trực Phá - ngày Sửu: 
Tiểu Hồng Sa, ngày đó không có cát tinh (sao tốt), không tốt cho việc kinh doanh, nếu là trường hợp vạn bất đắc dĩ  thì cần chọn giờ cho cẩn thận và nên làm những việc nhỏ mà thôi. Nếu như khởi tạo, khai trương, xuất hành, hôn nhân, thì sẽ tổn hại tới việc nuôi, dính líu đến kiện tụng. 
 
Đinh Sửu, Quý Sửu là Sát nhập trung cung, nếu phạm phải sẽ mất mạng, vì là đại hung.   Trực Nguy - ngày Dần: 
Mùa hạ là Quỷ Thần không vong. 
 
Ngày Giáp Dần có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Hoàng La, Tử Đàn, Kim Ngân Khố Lâu, Lộc Bảo Lâu cùng chiếu, nhưng không tốt cho việc đi xa, khởi tạo, nhập trạch, hôn nhân vì đây là ngày Quỷ Thần hung trạch. Còn nếu khai sơn, mai táng, kinh doanh thì trong vòng 60 ngày - 120 ngày sẽ sinh quý tử, gia nghiệp hưng vượng, có quý nhân phù sợ, sự nghiệp tiến triển, rất tốt. 
 
Các ngày Dần khác là thứ cát.    Trực Thành - ngày Mão: 
Thiên hỉ.  Ngày Ất Mão, Tân Mão có Hoàng La, Tử Đàn, Loan Dữ (xe kiệu) Bảo Cái, Lộc Âm, Mã Vãng, và Quỳnh Ngọc Kim Bảo, Thiên Đế Tụ Bảo cùng chiếu, tốt cho việc nhập trạch, khai trương, xuất hành, hôn nhân, gia đình có thêm con cháu, mùa màng bội thu, có hoành tài, có nhà mới, sinh quý tử, rất tốt. 
 
Các ngày Mão khác là thứ cát.   Trực Thu - ngày Thìn: 
Giáp Thìn có Thiên Đức, với Bính Thìn và Nhâm Thìn là ba ngày thứ cát, tốt cho các việc sửa chữa, gia tăng nông phẩm, tốt cho vật nuôi, cũng tốt cho an táng, kinh doanh. 
 
Ngày Canh Thìn bị Đằng Sà (rắn biết bay), Chu Tước chiếu nên không tốt. Không nên dùng Mậu Thìn vì cũng không tốt.    Trực Khai - ngày Tị: 
Thiên Thành, Thiên Tặc, Phúc Sinh. 
 
Ngày Ất Tị, Quý Tị thì hưng công, động thổ, nhập trạch, khai trương, là thứ cát. 
 
Các ngày Tị còn lại bất lợi, phạm Nguyệt Yểm nên rất xấu. 
 
Trực Bế - ngày Ngọ: 
Vãng vong.  Giáp Ngọ là Thiên Xá, không thuộc ngày chuyển sát, lại gặp sao Nguyệt Đức : chỉ nên làm việc nhỏ, bởi vì có Thụ Tử, khí đó không trọn vẹn. 
 
Bính Ngọ : chôn cất hoặc kinh doanh nhỏ thì thứ cát. 
 
Nhâm Ngọ, Canh Ngọ chỉ tiểu táng là thứ cát còn các việc khác thì không nên làm. 
 
Mậu Ngọ là ngày trùng tang, nên kiêng mọi việc.   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày tốt xấu tháng Sáu theo Đổng công tuyển trạch nhật

Những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài

Những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài. ## xin chia sẻ cùng các bạn những câu nói hay về cơm và phở
Những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài. ## xin chia sẻ cùng các bạn những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài sau đây nhé.

Có hai khái niệm về “Cơm” và “Phở” cũng không biết nó xuất hiện từ bao giờ, và chỉ biết bên cạnh nghĩa đen đơn thuần của nó thì nó còn có nghĩa bóng để chỉ sự ” chán cơm thèm phở ” của người đàn ông. Hay nói cách khác đàn ông “chán vợ thèm bồ”. Những câu nói hay về cơm và phở cho ta hiểu rõ lý do vì sao đàn ông lại chán cơm thèm phở và cũng từ đây “cơm” phải biết rút kinh nghiệm để làm sao đàn ông phải “thích ăn cơm, ngán phở” nhé

Những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài

1. Đàn ông thèm “phở” vì ít được ăn phở. Muốn ăn phở nhất là phở đặc biệt, phải có tiền, xe hoặc vừa có tiền vừa có xe. Trong khi cơm ngày nào cũng được ăn và phải ăn.

2. Đàn ông dùng cơm ở nhà trong không khí quen thuộc ấm áp đến nhàm chán, còn dùng phở ở xa nhà trang trí lạ mắt, đôi khi đẹp mắt và có cả âm nhạc

3. No thì rất khó ăn thêm cơm, còn phở no tới mấy cũng có thể làm thêm một tô cũng chẳng sao.

4. Ăn phở xong là đứng dậy, đi ngang hoặc ngồi, nằm một chút là tuỳ. Còn ăn cơm xong nhiều khả năng phải thu dọn và rửa bát đĩa.

5. “Phở” không quán nào giống quán nào, thậm chí là không tô nào giống tô nào. Còn cơm thì có khi bao nhiêu năm vẫn thế chỉ có nguội hơn.

6. “Phở’ có thể ăn chung với bạn bè. “Cơm” thì rất ít, phần lớn là ăn chung với… bà nấu cơm.

7. Lúc ăn phở, dễ dàng yêu cầu thêm tý hành, tý bánh hoặc thêm tý ớt cho mặn nồng. Còn cơm có gì trên mâm hãy xơi nấy, yêu sách lôi thôi còn bị mắng hoặc bị gắt gỏng “không ăn thì thôi”. Ai gắt xin tự hiểu.

8. Phở tuy cùng một chỗ nhưng có thể tái, chín, nạm, gân.. tuỳ ta quyết định. Cơm thì do mụ nấu cơm quyết định, đàn ông chỉ có chấp hành.

9. Nếu ăn phở nhiều tới mức độ trở thành khách quen, ta có thể ăn… thiếu. Còn nếu không đưa tiền lương và nộp ,”cơm” sẽ dừng ngay.

10. Cuối cùng bỏ tiệm “phở” này dễ dàng tìm tiệm “phở” khác. Còn bỏ “cơm” thì phức tạp vô cùng.”

11. Cơm khoe: tớ nhất trên đời
Phở rằng: tớ cũng tuyệt vời lắm nha!
Cơm là từ gạo mà ra
Phở cũng từ gạo nhưng mà… ngon hơn.
Cơm nhờ hương gạo mà thơm
Phở nhiều “nguyên liệu” nên thơm đủ mùi
Cơm ăn no bụng là thôi
Phở vừa no, lại muốn đòi ăn thêm
Cơm ăn hàng bữa nên quen
Phở thì thỉnh thoảng nên thèm,… đương nhiên.
Cơm ngon, chẳng lọ mất tiền
Phở “thiu”, cũng phải bỏ tiền mà mua.
Cơm chân chất, chẳng đẩy đưa
Phở trang trí đẹp, dễ lừa mắt ai!
Cơm ngoan chẳng sợ tiếng tai
Phở tuy đẹp đẽ nhưng đầy hoài nghi
Cơm quen chẳng ngại ngần gì
Phở ăn dăm bữa tức thì ngán thôi
Phụ “cơm”, chớ phụ người ơi!
Cho dù thua “phở”, nhưng thời… an tâm.

12. “Cơm ngon gạo dẻo trắng ngần
Phở ngon nhờ được góp phần hành the
Cơm ngọt nên nấu ống tre
Phở ngọt nên bỏ thêm mì chính vô”

13. Con ơi nhớ lấy câu này
Bồ bố là Phở, mẹ mày là Cơm
biết rằng Phở nó rất thơm
nhưng mà bố phải ăn Cơm vì mày.

14. Nếu ăn “phở” tới mức độ trở thành khách quen, ta có thể ăn chịu, còn nếu không đưa tiền lương, “cơm” sẽ dừng ngay,

Ngoài ra bạn có thể tham khảo những câu nói hài hước nhất trong cuộc sống để tìm thấy tiếng cười và niềm vui cho mình nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về cơm và phở cực đúng và cực hài

Sao Thiên Riêu

Hành: Thủy Loại: Dâm tinh Đặc Tính: Phong lưu khoái lạc, chơi bời, a dua, dễ tin. Tên gọi tắt thường gặp: Riêu Phụ Tinh. Luôn luôn...
Sao Thiên Riêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Dâm tinhĐặc Tính: Phong lưu khoái lạc, chơi bời, a dua, dễ tin.Tên gọi tắt thường gặp: Riêu
Phụ Tinh. Luôn luôn đồng cung với sao Thiên Y. Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).
Vị Trí Ở Các Cung

  • Đắc địa: Dần, Mão, Dậu, Tuất.
  • Hãm địa: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Hợi
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Sao Thiên Riêu ở Mệnh là người ham vui, thích chơi bời, phóng đãng, dễ tin người, nhẹ dạ, tính tình không dứt khoát, khó cầu công danh, thi cử.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Với Các Sao Khác
  • Sao Thiên Riêu ở Hợi cùng các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc thì thi đỗ và làm nên.

  • Nếu gặp các sao Hóa Kỵ, Đà La, Cự Môn, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Kình Dương, Địa Không, Địa Kiếp thì hay trầm mình.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Các Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ là người có tay nghề khéo sống bằng nghề có liên quan đến sông nước, cha hoặc mẹ có tài về nghệ thuật, mỹ thuật, có hoa tay.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Phúc Đức
  • Trong họ thường là người nữ lận đận về chồng con, có ác tật, chết non, cô độc, người nam thì phóng đãng, phong lưu, đi xa, có tài nghệ đặc biệt.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Điền Trạch
  • Chậm về nhà cửa, nếu có sớm thì cũng tầm thường, phải thay đổi.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Quan Lộc
  • Công danh hay thay đổi, nay đây mai đó, hợp nghề thuốc, nghệ thuật, đạo diễn, sân khấu, nhà giáo.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, người giúp việc nay ở mai đi, ham chơi nhưng cũng có tài nghệ đặc biệt.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài không có nơi chốn cố định, đa nghệ.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tật Ách
  • Gặp sao tốt thì có sức khỏe nhưng cũng không được lâu bền, gặp sao xấu thì cũng hay tai nạn, đau yếu.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tài Bạch
  • Tài lộc ra vào thất thường, ưa thích cờ bạc, trò chơi giải trí, nghệ thuật hoặc nghề thuốc, thầy giáo phát tài.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Tử Tức
  • Sinh nở khó khăn, hoặc khó nuôi con, hoặc có con riêng của vợ hay chồng, con cái hay chơi bời.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng ưa thích vui chơi, văn nghệ, phong lưu tài tử.
Ý Nghĩa Thiên Riêu Ở Cung Huynh Đệ
  • Có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em nuôi, trong anh chị em có người phong lưu tài tử.
Thiên Riêu Khi Vào Các Hạn
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, người già không sống lâu, trẻ con thì hay quấy. Nếu có thêm sao Phá Toái, là hạn ốm đau, khẩu thiệt.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thai, là hạn rất dễ có con riêng.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Tham Lang, Hóa Kỵ, có tai nạn về sông nước, hoặc mắc khẩu thiệt, hoặc bị kiện tụng, có sự lo buồn.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp, Thai, có chửa hoang, hoặc bị hiếp dâm, bị bắt ép làm nghề mãi dâm.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thái Dương, Đà La, Hóa Kỵ, là hạn đau mắt nặng, nếu không cũng bị đau yếu, hao tán tiền tài, nếu có quan chức chắc chắn bị truất giáng.
  • Hạn gặp sao Thiên Riêu, Thiên Hình, Bệnh, hay bị bệnh phù. Nếu có thêm sao Địa Không, Địa Kiếp, mắc bệnh phong tình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Riêu

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Đeo nhẫn cưới hợp mệnh: Vợ chồng hạnh phúc, con cái đề huề

Đeo nhẫn cưới hợp mệnh là một trong những yếu tố phong thủy mang lại cuộc hôn nhân hạnh phúc, con cái đều huề và công việc thuận lợi.
Đeo nhẫn cưới hợp mệnh: Vợ chồng hạnh phúc, con cái đề huề

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Trong trường hợp mệnh vợ và chồng khác nhau nhưng muốn đeo nhẫn cặp thì bạn có thể lựa chọn một cách tương đối căn cứ vào những yếu tố sau đây.   1. Mệnh Kim
 
Deo nhẫn cưới hợp mệnh Kim nên chọn nhẫn thuộc hành Thổ vì Thổ sinh Kim.
 
Đặc điểm nhẫn cưới: Nhẫn hình vuông, được cách điệu với những nét vuông vắn. Mặt nhẫn lồi lên được thiết kế thành hình vuông, hình chữ nhật, nạm đá quý màu vàng, xám. Trên thân nhẫn có thể gắn kết những viên đá quý có gam màu vàng, xám, ghi.
 
2. Mệnh Mộc

Người mệnh Mộc nên chọn nhẫn thuộc hành Thủy vì Thủy sinh Mộc.
 
Đặc điểm nhẫn cưới: Nhẫn tròn, mảnh được cách điệu uốn lượn. Mặt nhẫn lồi lên hình tròn hoặc bầu dục gắn đá đen, xanh tím, xanh đen hoặc màu lục. Nếu muốn gắn đá trên thân nhẫn thì chọn đá màu sẫm tương tự.

Deo nhan cuoi hop menh Vo chong hanh phuc, con cai de hue hinh anh
Ảnh minh họa
 
3. Mệnh Hỏa
 
Đeo nhẫn cưới hợp mệnh Hỏa nên chọn nhẫn thuộc hành Mộc vì Mộc sinh Hỏa.
 
Đặc điểm nhẫn cưới: Nhẫn tròn, có thể cách điệu uốn lượn. Mặt nhẫn lồi lên hình tròn hoặc bầu dục, nạm đá màu xanh. Trên thân nhẫn có thể gắn những viên đá màu xanh.
 
4. Mệnh Thổ
 
Người mệnh Thổ nên chọn nhẫn thuộc hành Hỏa vì Hỏa sinh Thổ.
 
Đặc điểm nhẫn cưới: Nhẫn hình dạng góc cạnh hoặc nhọn, được cách điệu với những cạnh cắt chéo. Mặt nhẫn lồi lên có thể là hình tam giác hoặc đa giác, nạm đá màu hồng, đỏ hoặc da cam. Trên thân nhẫn có thể nạm đá với gam màu như vậy.
 
5. Mệnh Thủy
 
Đeo nhẫn cưới hợp mệnh Thủy nên chọn nhẫn thuộc hành Kim vì Kim sinh Thủy.
 
Đặc điểm nhẫn cưới: Nhẫn màu trắng hoặc vàng, chất liệu vàng tây, bạch kim, bạc, thiết kế tròn, trơn, kiểu dáng đơn giản không có mặt lồi lên để gắn đá. Trên thân nhẫn có thể gắn chìm những viên đá quý hình tròn màu vàng, trắng.   Ngoài ra, nếu muốn trọn nhẫn đeo để làm đồ trang sức hoặc chấn phong thủy thì cũng có thể căn cứ vào những đặc điểm về mệnh theo ngũ hành ở phía trên để lựa chọn cho phù hợp.  
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Theo Kiến thức
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đeo nhẫn cưới hợp mệnh: Vợ chồng hạnh phúc, con cái đề huề

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd