Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những con giáp phá tài trong 6 tháng cuối năm

Rơi vào những cục diện không lý tưởng, lại thiếu sự may mắn, những con giáp dưới đây nên hành sự cẩn trọng trong 6 tháng cuối năm để tránh tình trạng hao tài
Những con giáp phá tài trong 6 tháng cuối năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– tốn của.

  1. Tuổi Thân   Nói tới con giáp phá tài trong nửa cuối năm 2016, phải nhắc tới người tuổi Thân, Tài vận của con giáp này như sau: mùa Hạ kém, mùa Thu bắt đầu khởi sắc, mùa Đông chuyển biến tốt đẹp. “Hung thủ” gây ra phá tài chính là cục diện Thập ác đại bại, có tài có chí nhưng không được phát huy, tiền kiếm được bao nhiêu cũng tiêu tán như cát bụi, tiêu tiền như nước.  
Nhung con giap pha tai trong 6 thang cuoi nam hinh anh
 
Bản thân con giáp này không phải không nỗ lực phấn đấu, chỉ bởi vì không gặp may mắn nên tiền của có được cứ đội nón ra đi.    Tuy nhiên, có thể hóa giải bằng cách bắt tay hợp tác với những người hợp mệnh, ví dụ như tuổi Tý và Thìn (quan hệ tam hợp), tuổi Tỵ (quan hệ lục hợp)… Như vậy cũng hạn chế phần nào sự xui rủi, mang tới vận may nhiều hơn cho bạn.   Xem lịch tránh tháng xấu không nên đi xa cho 12 con giáp Điểm mặt những con giáp dễ nổi nóng như Trương Phi Chỉ ra 3 con giáp trọng tình cảm, coi tình bạn là trên hết
2. Tuổi Tuất
  Trong nửa cuối năm 2016, tài vận của người tuổi Tuất ở mức trung bình, giảm mạnh vào giai đoạn mùa Thu. Nhìn chung, con đường làm giàu, kiếm tiền của bạn khá chật vật vì gặp phải Thiên Tuất Thực Tài, trước đó lại có Bạch Hổ gây phá tài, nên nguy cơ hao tài tốn của khá cao.   
Nhung con giap pha tai trong 6 thang cuoi nam hinh anh 2
 
Bên cạnh đó, những tháng cuối năm, nhu cầu mua sắm ngày càng nhiều, lại có nhiều việc phải dùng tới tiền, nên số tiền con giáp này tích góp được hầu như sẽ dùng hết, cảm giác như tay trắng lại hoàn tay trắng.   Ngoài ra, người kinh doanh, buôn bán cũng phải đề cao cảnh giác với các đối tác làm ăn, tránh tình trạng bị đối phương lừa gạt hết tiền của, rơi vào tình trạng phá sản.   5 con giáp có sự nghiệp thành công rực rỡ nửa cuối năm 2016 12 con giáp đón tin vui gì trong nửa cuối năm 2016? (P2)
3. Tuổi Tỵ
  Bắt đầu bước vào giai đoạn mùa Thu, tài vận của người tuổi Tỵ tụt dốc không phanh, xuất hiện tình trạng phá tài, tiền của kiếm được bỗng chốc tiêu tán vì quá nhiều việc phải dùng tới.   
Nhung con giap pha tai trong 6 thang cuoi nam hinh anh 3
 
Sang mùa Đông, việc thu chi lại mất cân bằng vì khoản chi thì nhiều mà thu về không đáng kể. Nhu cầu mua sắm tăng vào dịp lễ tết, lại thêm những việc phát sinh bất ngờ như chi tiền chữa bệnh cho bản thân, người nhà, tiền xây dựng nhà cửa…    Tuy không gặp tai họa lớn nào, nhưng vì quá nhiều chuyện nhỏ nhặt phát sinh khiến bạn cảm thấy kiếm tiền vất vả, kiếm bao nhiêu cũng không đủ tiêu, hình thành cục diện hao tài tốn của là điều khó tránh.  
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự

Việt Hoàng   Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật?
Trong tâm tưởng mỗi người đều có sự hiện hữu của Đức Phật từ bi, đức độ. Tu Phật chính là tu tâm, người hữu duyên với nhà Phật ắt hiểu được điều này. Dưới đây

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp phá tài trong 6 tháng cuối năm

Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thân 1956 –

Khỉ là đại biểu của Thân, được xếp ở vị trí thứ 9 trong 12 địa chi. Xét ở góc độ thời gian là khoảng từ 3 giờ chiều đến 5 giờ chiều. Về phương vị thì đó là hướng Tây, Tây Nam. Nếu lấy bốn mùa để phân chia là vào khoảng tháng 8 Dương lịch – tháng 7 Âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lịch.

Theo tín ngưỡng của dân gian, Đại Nhật Như Lai chính là Phật bản mệnh của tuổi Thân.

Ngoài ra tuổi này có thể dùng linh vật phong thủy, đá phong thủy để thu hút vận may cũng như là tài lộc cho mình. Hãy cùng đọc bài viết sau nói về cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thân 1955 để có thêm kiến thức phong thủy về tuổi này.

Nội dung

  • 1 Tính cách chung của người tuổi  Bính Thân
  • 2 Quan niệm ngũ hành tương sinh, tương khắc
  • 3 Sinh năm 1956 mệnh Hỏa hợp màu gì?
  • 4 Sinh năm 1956 tuổi gì, hợp với tuổi nào
  • 5 Nam sinh năm 1956
  • 6 Đá phong thủy hợp nam 1956
  • 7 Nữ sinh năm 1956
  • 8 Đá phong thủy hợp nữ 1956
  • 9 Những linh vật bằng đá đeo trên người để Hộ mệnh:

Tính cách chung của người tuổi  Bính Thân

 

Người tuổi Thân rất tò mò, cái gì cũng muốn thử cho biết. Luôn hăng hái học những kỹ năng mới, người tuổi Thân hào hứng luyện đi luyện lại cho tới khi họ thực sự thành thạo kỹ năng đó. Đó là ví do vì sao có câu nói ” người tuổi Thân thấy là làm”. Người tuổi Thân cũng rất thích cạnh tranh. Họ luôn đặt ra cho bản thân nhiệm vụ là phải luôn làm tốt hơn bất cứ ai. Họ không biết đến thất bại. Cực kỳ thông minh nhanh trí, luôn tràn đầy những ý tưởng mới mẻ, người tuổi Thân luôn thành công trong bât cứ lĩnh vực nào. Họ thực sự tin rằng mình là người dẫn đầu. Mặt tiêu cực của những người tuổi Thân là họ rất khó tin cậy. Họ có xu hướng quá coi mình là trung tâm nên ít quan tâm tới người khác.

 

Cuộc đời: Dù ở hoàn cảnh nào cũng không thiếu thốn về vật chất. Có nhiều cơ hội tốt đẹp về công danh cũng như cuộc sống. Tuổi trẻ vất vả, hậu vận hưng thịnh, an nhàn.

Tính cách: Là người thông minh, có tài năng, khả năng và nhiều cao vọng. Nếu là nữ, rất nóng tính, giỏi việc nhà, việc ngoài cũng không thua kém một ai.

Tình duyên: Tuy có số đào hoa, nhưng hạnh phúc luôn gặp phải những sóng gió bất ổn.

Sự nghiệp: Sự nghiệp đến muộn. Tuy nhiên khi thành đạt, sẽ có địa vị vững chắc.

Tiền bạc: Khi sự nghiệp lên thì tiền tài cũng vượng phát theo. Tuy nhiên, cần cẩn thận hơn với bạn bè khi giao dịch công việc, nhất là ở những người không hợp tuổi.

Chọn hướng nhà: Hướng tốt là hướng Nam. Hướng đặt bàn làm việc: Nam nhìn về hướng chính Đông, Nữ nhìn về hướng chính Tây

Ngày xuất hành hợp nhất: Ở Nam là ngày chẵn, giờ chẵn, và tháng chẵn; ở Nữ là ngày lẻ, giờ lẻ, tháng lẻ. Hướng đại lợi là phương Nam, đại kỵ phương Bắc.

Khai vận theo phong thủy: Một năm của những thành tựu tuyệt hảo. Đặt cây tài lộc ở hướng Tây Nam để có được may mắn và những cơ hội kiếm ra tiền.

Nam, nữ sinh năm 1956, tuổi BÍNH THÂN. Mệnh của bạn là Mệnh SƠN HẠ HỎA (Lửa dưới chân núi)

Quan niệm ngũ hành tương sinh, tương khắc

 

– Theo khoa học phong thủy mọi vật đều được cấu thành từ các nguyên tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chịu ảnh hưởng trong mối quan hệ tuần hoàn ngũ hành.

– Theo quan niệm tương sinh: Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim.

– Theo quan niệm tương khắc: Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ; Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim.

Sinh năm 1956 mệnh Hỏa hợp màu gì?

– Màu sắc tương sinh: Những người sinh năm 1956 mệnh Hỏa nên chọn đá phong thủy có màu xanh lá, vân gỗ để được năng lượng tương sinh. Bởi vì, đây là những màu sắc đại diện cho mệnh mộc mà mộc sinh hỏa nên khi đeo những chiếc vòng tay đá phong thủy, những vật phẩm phong thủy có màu xanh lá, vân gỗ sẽ giúp kích thích phát triển năng lượng bản mệnh từ đó giúp cho công việc, cuộc sống, tình duyên được thuận lợi và mở rộng.

– Màu sắc tương hợp: Người sinh năm 1956 mệnh Hỏa khi đeo những loại đá phong thủy có màu đỏ, hồng, tím là những màu sắc bản mệnh sẽ giúp bổ sung và cung cấp năng lượng bản mệnh Hỏa. Giúp mang lại may mắn, thu hút vượng khí cho người đeo nó.

– Màu chế khắc: Ngoài ra, người mệnh Hỏa có thể đeo những loại đá màu trắng, vàng, ánh kim. Do mệnh Hỏa có thể chế khắc mệnh Kim (Lửa nung chảy mọi loại kim loại).

– Màu sắc kiêng kỵ: Đặc biệt, người mệnh Hỏa cần tránh đeo đá phong thủy màu xanh lam, xanh dương, đen vì đây là những màu sắc thuộc bản mệnh Thủy. Thủy khắc hỏa nên đây là những màu sắc tương khắc gây cản trở, ức chế năng lượng bản mệnh của những người mệnh Hỏa.

Người sinh năm 1956 hợp màu xanh lục, đỏ, hồng, tím. Tham khảo trang sức phong thủy cho người mệnh Hỏa.

Sinh năm 1956 tuổi gì, hợp với tuổi nào

– Theo quan niệm tương sinh: Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ. Người sinh năm 1956 hợp với người mệnh Mộc hoặc mệnh Thổ.

– Theo quan niệm tương khắc: Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim. Người sinh năm 1956 không hợp với người mệnh Thủy hoặc mệnh Kim.

Nam sinh năm 1956

Cung CẤN, hành THỔ, hướng Đông Bắc, quái số 8, sao Bát Bạch, Tây tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Tây Nam, Tây Bắc, Tây, Đông Bắc)

Đá phong thủy hợp nam 1956

Đeo đá màu Đỏ, Hồng, Tím để được Tương sinh (Hoả sinh Thổ): Ruby, Tourmaline, Granat, Spinel, Thạch anh hồng, Thạch anh Tím, Mã não đỏ…

Đeo đá màu Vàng, Nâu để được Tương Hợp: Sapphire vàng, Canxedon nâu, Thạch anh mắt hổ, Citrine…

Đeo đá màu Đen, Xanh nước biển, Xanh da trời để được Tương Khắc (Thổ chế ngự được Thuỷ): Sapphire đen, Tektit, Tourmaline đen, Aquamarine, Topaz…

Kỵ: Đá màu Xanh lá cây vì Mệnh cung bị khắc (Mộc khắc Thổ): Jade, Onix, Lục bảo ngọc, Amazoline…

Không nên dùng: đá màu Trắng, Xám, Ghi vì Mệnh cung bị sinh xuất, giảm năng lượng đi (THỔ sinh KIM): Sapphire Trắng, Sapphire ghi, Thạch anh Trắng, mã não trắng, Đá mặt trăng…

Nữ sinh năm 1956

Cung ĐOÀI, hành KIM, hướng Tây, quái số 7, sao Thất Xích, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Tây Bắc, Đông bắc, Tây Nam, Tây).

Đá phong thủy hợp nữ 1956

Đeo đá màu Vàng, Nâu để được Tương Sinh (THỔ sinh KIM): Sapphire vàng, Canxedon nâu, Thạch anh mắt hổ, Citrine…

Đeo đá màu Trắng, Xám, Ghi để được Tương Hợp : Sapphire Trắng, Sapphire ghi, Thạch anh Trắng, mã não trắng, Đá mặt trăng…

Đeo đá màu Xanh lá cây để được Tương khắc (Kim khắc được Mộc): Jade, Onix, Lục bảo ngọc, Amazoline…

Kỵ: Đá màu Đỏ, Hồng, Tím vì Mệnh cung bị khắc (Hoả khắc Kim): Tourmaline, Granat, Spinel, Thạch anh hồng, Thạch anh Tím, Mã não đỏ…

Không nên dùng: đá màu Đen, Xanh nước biển, Xanh da trời vì Mệnh cung bị sinh xuất, giảm năng lượng đi (KIM sinh THUỶ) Sapphire đen, Tektit, Tourmaline đen, Aquamarine, Topaz..

Những linh vật bằng đá đeo trên người để Hộ mệnh:

Phật tổ Như Lai,
Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát,
Phật Di Lặc,
Chúa Giêsu,
Đức Mẹ,
Cô gái, người,
Rồng,
12 con Giáp,
Tỳ hưu,
Cóc Tài Lộc,
Rùa,
Các mặt dây chuyền và mặt nhẫn bằng đá quý,
Vòng dây chuỗi bằng đá tự nhiên…

Riêng Ruby:

Nữ hoàng Đá Quý
Linh vật của Đất Trời
Những giọt máu của Mẹ Đất
Màu Đỏ mang lại mọi sự may mắn
Là loại Đá Quý đặc biệt
Ai cũng dùng được, bất kể là người thuộc Cung Mệnh gì!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thân 1956 –

Xem bói tử vi tuổi Hợi

Xem bói tử vi tuổi Hợi qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Hợi, bói tử vi theo tháng sinh & giờ sinh, hợp khắc 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyên đề tử vi 12 con giáp tuần này bàn về xem bói tử vi tuổi Hợi qua tính cách, tình yêu theo nhóm máu, các cột mốc sự nghiệp của tuổi Hợi, sự xung khắc của tuổi Hợi với các con giáp còn lại. Chi tiết vận mệnh của Ất Hợi, Quý Hợi, Tân Hợi, Kỷ Hợi, Đinh Hợi theo tháng sinh và giờ sinh.

Heo là con vật cuối cùng trong mười hai con giáp của người Việt Nam, thế nên, nó là con vật kiên nhẫn vì nó phải đợi tới lượt mình. Người tuổi Hợi là người có bản tính nhút nhát và có vẻ lãnh đạm, nhưng họ rất biết thông cảm và là người đáng yêu.

xem bói tử vi tuổi Hợi
1. Tính cách người tuổi Hợi

Người tuổi Hợi thẳng tính và trung thực, và luôn cố gắng để không bao giờ bỏ rơi người khác. Đây là kiểu người hiền hòa, thích đến chốn đông người và những chỗ quen thuộc hơn là những nơi xa lạ.

Mặc dù những người tuổi Hợi không phải là những người chậm chạp nhưng họ là những người thích sự thanh thản sung túc. Trong mười hai con giáp thì con lợn được cho là con tượng trưng cho sự hưởng lạc và an nhàn. Những người tuổi Hợi thường mơ ước được sống một cuộc sống dễ dãi, xa hoa, nhưng những điều đó không nhiều để dành cho tất cả họ, biết thế nên họ đã cố gắng theo cách của họ để có được những thứ mà họ mơ ước. Những người tuổi Hợi thường là những người sống tình cảm và yêu gia đình. Nơi họ ở thường ấm cúng, thoải mái, thân thiện, tuy nhiên cũng khá bề bộn.

Người tuổi Hợi tính tình trầm lặng, chắc chắn, cương nghị, lòng dạ hiền lương, đôn hậu, không nề hà ngại khó và luôn dốc hết sức mình để hoàn thành công việc. Họ đảm nhận mọi công việc được giao với một tinh thần dẻo dai không biết mệt mỏi, dũng cảm, kiên trì và sẽ dốc toàn bộ sức lực để hoàn thành tốt công việc. Do vậy họ luôn được mọi người tín nhiệm và giao phó cho những công việc quan trọng. Họ muốn hoàn thiện bản thân mình bằng tinh thần nhẫn nại, lao động không biết mệt mỏi cũng với tinh thần này, họ có thể trở thành một nhà giáo ưu tú.

Những người tuổi Hợi thường là những người vui tính, tốt bụng và dễ hòa đồng. Họ hào phóng, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn, sẵn sàng động viên an ủi. Họ luôn là nguồn động viên khuyến khích người khác phát triển. Họ là những người rất thật thà và đôi khi trở nên quá ngây thơ vì họ nghĩ ai cũng giống họ. Nhưng một khi họ đã mất lòng tin và lên cơn thịnh nộ thì không có gì ngăn cản họ được.

Người tuổi Hợi thuộc mẫu người chất phác, ít màu mè, song lại có những kiến giải rất độc đáo. Tính tình họ ôn hòa, không bao giờ đẩy người khác vào tình thế khó xử. Người tuổi Hợi an phận không thích tranh đấu, chỉ khi bị bức bách đến đường cùng, họ mới phản kháng, nhưng họ chẳng bao giờ để bụng ai và cũng không đối chọi với người khác. Họ ghét phải tranh chấp với mọi người, giỏi tháo gỡ những gợn mắc, mâu thuẫn của người khác, sự chân thành và đáng tin cậy quả là tài sản đáng quí của họ. Họ đối xử với mọi người hòa nhã đồng thời cũng mong người khác chấp nhận những sai sót của mình.

Người tuổi Hợi được mọi người yêu mến do họ biết cách đối nhân xử thế hòa nhã, mềm mỏng giống như người tuổi Mùi, tuổi Mão. Họ khoan dung độ lượng, luôn dịu dàng trước những lỗi lầm của người khác, vì vậy luôn giữ được mối quan hệ thân thiết với mọi người.

Trong suốt cuộc đời, họ luôn trung thực, thành thật và biết nghĩ cho người khác, luôn giữ gìn thận trọng mối giao tình với bạn bè. Họ trân trọng tình bạn, trung thành với bạn dù có thể họ bị thiệt hại. Một người bạn tuổi Hợi luôn muốn giúp đỡ tương trợ khi bạn gặp khó khăn dù cho đó sai lầm của bạn thì người tuổi Hợi vẫn không hề có ý trách cứ mà dốc sức giúp đỡ. Người tuổi Hợi cũng là người dễ tin vào lời nói và việc làm của người khác. Do vậy dễ bị kẻ xấu lừa gạt, lợi dụng.

Người tuổi Hợi không thích mê hoặc người ta giống như tuổi Thìn và cũng chẳng giỏi cuốn hút mọi người như Khỉ hay Hổ, càng không nói năng ngọt ngào như Rắn, mà dần dần bộc lộ tấm lòng chân thật với bạn, khiến bạn càng lúc càng khó rời xa họ. Người tuổi Hợi thường chú trọng đến dáng vẻ đường hoàng, vừa có phong thái hào hiệp vừa có tinh thần giúp người làm vui, có thể thay người ra đảm đương những công việc khó khăn mà chẳng than phiền lấy nửa lời, khi bạn bè gặp nỗi nguy nan, họ sẽ giơ thân ra “đứng mũi chịu sào”. Chúng ta có thể hòan toàn tin tưởng họ, vì họ chẳng bao giờ tính mưu gian hay quỷ kế gì. Ngược lại, có khi còn vì quá thành thật, trong sáng mà trở thành vật hy sinh.

Thái độ chân thành của người tuổi Hợi sẽ giúp anh ta giành được sự giúp đỡ từ khắp nơi, họ chưa yêu cầu hay nhờ cậy đã có người tự nguyện đến trợ giúp. Còn khi họ có khả năng giúp đỡ ai, họ quyết không phủi tay bàng quan đứng nhìn. Nhờ phẩm chất này mà họ được mọi người tôn kính, tin tưởng. Họ sẽ không ngừng tạo ra hết kì tích này đến kì tích khác.

Người tuổi Hợi tuy đôi lúc phát cáu, giận dỗi, nhưng họ không ham cãi cọ, mỗi lần nảy sinh tranh chấp, họ thường nhường một bước để sự tình mau chóng kết thúc. Vì họ cố gắng sống hòa nhã, lại không có tính bợ đỡ lấy lòng, giành tư lợi… nên họ yêu thích công tác xã hội, lắng nghe bạn dốc bầu tâm sự hay than thở những đắng cay khổ cực và với một tấm lòng hiền từ, bao dung, họ sẽ nhiệt tình giúp đỡ bạn. Dù bạn gây ra lỗi lầm, họ cũng sẽ không tỏ ý trách cứ mà sẽ dốc sức giúp đỡ bạn, thậm chí còn nhờ cả người khác đôn đáo khắp nơi giúp bạn giải quyết khó khăn. Ở bên họ, bạn sẽ không uổng công hay nghe những lời giáo huấn cứng nhắc, bạn cứ tin rằng, với người tuổi Hợi, mọi vấn đề phức tạp đều có thể được đơn giản hóa.

Khi có một người bạn tuổi Hợi đến nhà bạn làm khách, có thể anh ta sẽ ăn uống một cách rất tự nhiên, mặc quần áo của bạn, chưa được phép song đã sử dụng cái máy ảnh bạn vừa mua, xe ôtô của bạn… Anh ta không hiểu lắm và cũng không chấp nhận cái nguyên tắc gọi là “cuộc sống riêng tư”.

Tuổi Hợi là người theo chủ nghĩa vật chất, song họ không keo kiệt mà thích chia sẻ với người khác những gì mình có. Họ luôn bảo vệ được lợi ích của mình mà không làm mếch lòng ai cả. Họ hiểu rằng phải bảo vệ quyền lợi của mình bằng thái độ nhẫn nhịn. Khi có người đè đầu cưỡi cổ họ, họ tự biết cầm cây roi lên, khi người khác còn đang dương dương tự đắc thì đã vào thế cưỡi lên lưng hổ, khó mà thoát thân. Đây quả là một sách lược đáng khen.

Người tuổi Hợi khá chú trọng đến hình thức bên ngoài dù không lấy đó là mục đích chính. Họ ưa thích các buổi tụ họp, tổ chức những buổi kỉ niệm chúc mừng ngày lễ ngày tết, hay chủ trì các buổi dạ hội. Họ vui lòng tham gia các loại tổ chức câu lạc bộ, hội nhóm…

Phụ nữ tuổi Hợi là người dịu dàng, mềm mỏng, họ luôn sắp đặt nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, mọi thứ trong nhà được bày biện ngăn nắp, gần như hết thảy phụ nữ tuổi Hợi đều như vậy, chỉ có một số ít hơi tùy tiện. Ngoài ra họ có cá tính mạnh mẽ, tôn trọng bản thân và cũng tôn trọng người khác, họ có thể dồn toàn bộ sức lực vào những công việc họ yêu thích mà chẳng cần bất cứ sự đền đáp nào. Bạn hoàn toàn có thể tin tưởng vào những hành động chắc chắn của họ. Họ có một tấm lòng cao thượng, giúp người không để lộ danh tính. Họ sẽ tiếp đón bạn bè của chồng một cách chu đáo, chẳng hề ngại ngần hay thấy phiền phức, thậm chí lấy đó làm vui. Họ xuất hiện ở đâu, nơi đó lập tức trở nên nhộn nhịp. Nhưng thế không có nghĩa là họ không biết oán thán, nhưng khi oán thán cũng vẫn rất đỗi ôn hòa.

Người tuổi Hợi khá nhẹ dạ, dễ tin vào mọi chuyện người ta kể, dù đó là người mới quen biết sơ sơ. Vì vậy họ rất dễ mắc lừa. Họ sẽ mất tiền mất bạc vì tính cả tin ấy. Không nên để họ quản lý tài vụ, vì họ hay mềm lòng, sẽ giữ tiền không mấy chặt chẽ. Mặt khác, thế giới tinh thần của họ khá nghèo nàn, nông cạn, chỉ thấy cái hiện tại, trước mắt. Có lẽ chính vì đặc điểm này nên họ ngại gặp phải khó khăn, từ nhỏ họ đã sợ hãi, né tránh tai họa.

Người tuổi Hợi có thể tự nuông chiều mình quá mức và có một lối sống không lành mạnh, nhưng họ là người tốt. Họ tin rằng mọi người đều tốt và sẽ không làm tổn thương đến bất kỳ ai. Bản chất của họ là người tốt, nhưng đừng nhầm điều đó với sợ hãi hay hèn nhát, vì nếu cần thiết, họ sẽ tự bảo vệ chính mình.

Phía sau vẻ lương thiện, người tuổi Hợi còn ẩn chứa một sức mạnh kiên định, chỉ cần có cơ hội, họ sẽ ngồi vào ngôi báu của bậc quân vương. Có điều, với các nhược điểm quá thận trọng, canh trước dòm sau lại tạo ra không ít trở ngại trên con đường tiến thân của họ. Ngoài ra họ còn thiếu lòng tin, khi bị hạn chế hoặc cảm thấy không vui, họ có thể buông xuôi, nhường hết cho đối thủ, còn mình đi lập công giành phần thưởng ở chỗ khác. Người tuổi Hợi rất thành thực, chỉ cảm thấy tự hào, hãnh diện trước những thành quả lao động vất vả của bản thân, nên ít khi trở thành kẻ lừa bịp hay trộm cắp.

Người tuổi Hợi có tình cảm mãnh liệt, họ hoàn thành công việc với sức khỏe dồi dào và tinh thần nhẫn nại tuyệt vời, đặc điểm này khiến người ta khâm phục họ. Nhưng năng lượng của họ có thể sẽ biến thành mầm họa, khi họ không phân biệt được thiện ác đúng sai của những việc đó, sẽ bị người lợi dụng nhược điểm này để hãm hại, không thể tự thoát ra.

Một người tuổi Hợi thành thực, thuần phác hết lòng yêu quí những người mình cảm mến và không bao giờ che đậy tình cảm ấy. Nếu như yêu không thành, người chịu tổn thương luôn là người tuổi Hợi.

Nhược điểm chủ yếu của họ là không nói được đến nửa chữ “không” với người thân, bạn bè của mình. Trong rất nhiều chuyện họ luôn ép người khác phải có thái độ trung dung giống họ để giải quyết rắc rối. Họ không phân biệt rạch ròi đâu đúng đâu sai, nhưng khi sự việc kết thúc không suôn sẻ, họ sẵn sàng đứng ra nhận trách nhiệm.

Trong suốt cuộc đời, ít nhất họ cũng gặp một lần phá sản, nhưng cuối cùng cũng được bù đắp trở lại, nhờ đó càng khôn ngoan, dũng cảm hơn trước. Người tuổi Hợi tin tưởng quan niệm số mệnh, khi trắng tay, họ sẽ vô cùng oán ghét thế giới, buông thả bản thân, từ đó chìm vào vực thẳm trầm luân. Nguyên nhân khiến họ rơi vào hoàn cảnh khủng hoảng là do họ quá khẳng khái. Khi họ đưa ra yêu cầu, người khác không sao đáp ứng được, hoặc không ai đủ khả năng giúp đỡ người đó, nhưng họ chịu không đối diện với hiện thực, mà chán nản, thất vọng đến cực độ.

Người tuổi Hợi có trình độ tu dưỡng văn hóa nhất định, nhưng họ không thuộc vào lớp người thật cao trong xã hội. Họ ưa thích thưởng thức giá trị bề ngoài của sự vật mà thiếu kiến thức sâu sắc.

Người tuổi Hợi luôn thích được vui vẻ và thường cho phép mình được hưởng thụ nhiều hơn mức giới hạn. Họ ăn, uống và hút thuốc quá nhiều và điều đó dẫn tới bệnh tật. Khi họ đã phát triển thói quen sống không tốt thì họ tăng cân và không khỏe mạnh nữa. Hiển nhiên là họ có thể được lợi từ việc sống một lối sống lành mạnh hơn.

2. Người tuổi Hợi và tình yêu

Tốt bụng, không đòi hỏi nhiều, vì thế họ có rất ít kẻ thù, và rất nhiều bạn. Họ có tài nấu nướng và thường thích tổ chức tiệc tùng. Người tuổi Hợi thường là người luôn có tình cảm nồng ấm, đầy yêu thương, họ là những người của hôn nhân gia đình.

Biết thông cảm và quan tâm là hai đặc điểm khiến người tuổi Hợi thành người bạn đời tuyệt vời. Đồng thời, họ cũng là người ngây thơ, ngọt ngào, nhút nhát và bảo thủ, và là kiểu người lãng mạn. Họ là người tận tâm, nhưng nếu họ chọn nhầm người thì việc đó có thể dẫn tới đau khổ và nỗi buồn, vì người tuổi Hợi rất chung thủy với người mình yêu mến. Nếu thật sự có đổ vỡ thì họ cũng sẽ hồi phục được và sẽ rút ra được bài học kinh nghiệm. Nhưng trên hết, họ là người cho, và người bạn đời của họ không nên lạm dụng điều đó, vì họ có thể nổi giận và bỏ đi.

Người tuổi Hợi đa phần phẩm hạnh đoan chính, tâm hồn thuần khiết, thành khẩn, thẳng thắn, lòng dạ hiền lương, lương thiện, vì thế mọi người đều vui thích khi ở bên họ. Người sinh năm Hợi thường chân thật trong chuyện tình cảm, ít khi có ý nghĩ đen tối hãm hại người khác. Nếu bạn yêu một người tuổi Hợi, anh ta sẽ không bao giờ lừa dối hay đùa giỡn bạn mà rất chân thành. Tuy nhiên, đôi khi người tuổi Hợi tạo cho người khác cảm giác sai lầm rằng anh ta ngốc nghếch, ngớ ngẩn, nên thường bị lừa gạt và đùa bỡn, trêu chọc. Người tuổi Hợi rất lạc quan, yêu đời, tuyệt đối sẽ không làm điều gì dại dột vì tình.

Sự đắm tình và nét đáng yêu của người tuổi Hợi sẽ giúp bạn có được những bước tiến dài trên đường tình duyên, bạn sẽ cảm nhận được tình cảm suôn sẻ, ngọt ngào. Người bạn đời của bạn dường như càng lúc càng thấu hiểu con người bạn, bạn sẽ cảm thấy nỗi vui sướng bội phần trong tình yêu. Hơn nữa họ sẽ không vì chút xíu chuyện vặt mà nổ ra cuộc đấu khẩu, điều này sẽ mang đến thật nhiều niềm vui, tình cảm khó mà rạn nứt hay nhạt phai.

Người tuổi Hợi thuộc mẫu thiên về vật chất, họ rất biết cách hưởng thụ cuộc sống. Đôi khi lại là kẻ ham mê, đắm chìm trong nhan sắc. Nói chung, người tuổi Hợi ít khi chủ động bắt quen người khác, nếu anh ta hồ hởi trò chuyện với ai, hẳn anh ta đã có cảm tình với người đó rồi.

Nam giới tuổi Hợi có phần thiếu chủ động trong chuyện tình cảm. Họ giống các chàng tuổi Mão, tuy mong có được một tình yêu đẹp và chân thành nhưng lại không biết cách chinh phục người con gái mà mình đem lòng yêu mến. Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nhược điểm chính của họ là không thể hiện thái độ rõ ràng trong tình yêu. Điều này thường khiến các cô gái cảm thấy mình không được tôn trọng. Tính cách nam giới tuổi Hợi gần giống nữ giới tuổi này, cũng là một người ôn hòa, lương thiện nhưng có một ưu điểm trội hơn họ, đó là đầu óc tỉnh táo và kiên nghị. Quan điểm về tình yêu của họ thiếu hẳn sự chủ động, song đầy ắp mộng ước. Họ thường mong có được một mối tình nồng nàn, cháy bỏng nhưng trên con đường kiếm tìm thường cảm thấy cô độc, lạnh lẽo.

Tuy họ có rất nhiều ưu điểm, song không hẳn là không có khuyết điểm. Điểm thiếu sót chính là ở chỗ Nam giới tuổi Hợi luôn có thái độ đòi hỏi sự khẳng định, chắc chắn trong tình yêu – chính bởi vì có lẽ họ thường xuyên bị lừa gạt và đùa giỡn nên phải áp dụng biện pháp tự bảo vệ đó. Họ quan niệm về gia đình khá cứng nhắc, đòi hỏi vợ con phải có thái độ chung thủy, không thờ hai chủ, tuyệt đối không được “bắt cá hai tay”, điều đáng tiếc là, những khi ấy họ thường không biết biểu đạt, khuôn mặt lạnh lùng, vô cảm, có thể khiến vợ con hiểu lầm.

Nữ giới tuổi Hợi thường có tính cách ôn hòa, lương thiện, tình cảm phong phú. Họ cũng rất coi trọng tình yêu. Với đối tượng mà mình thích, nữ giới tuổi Hợi thường không mạnh dạn bày tỏ tình cảm một cách trực tiếp nhưng lại biết cách ra hiệu ngầm hoặc cố tình tạo cho đối phương cơ hội được tiếp cận mình. Khi yêu, họ sẽ hết lòng vun đắp cho tình yêu. Tuy nhiên, một số cô gái tuổi Hợi có nhược điểm là khá thẳng tính và bướng bỉnh. Có điều họ lại thường không bộc lộ những tính cách này trước mặt người khác. Mềm yếu và cảm tính khi giải quyết công việc cũng là một nhược điểm của họ.

Trong mắt người khác phái, người nữ tuổi Hợi là một người tình đáng yêu hoặc một cô vợ bé bỏng dịu dàng, khiến phái mạnh rất muốn che chở, bao bọc, bởi vậy họ được rất nhiều chàng trai theo đuổi. Tình yêu giúp họ sau khi lập gia đình có thể trở thành một bà mẹ tốt. Họ không thích chủ động, mà thích được người khác quan tâm, và là người ủng hộ hôn nhân kiểu cũ. Khi họ đã kết hôn, chồng họ rất yên tâm về gia đinh, vì họ rất đảm đang, coi sóc việc nhà đâu ra đấy, quả đúng là một người vợ hiền đích thực.

3. Người tuổi Hợi và sự nghiệp

Người tuổi Hợi không có nhiều tham vọng lắm đến mức phải đạp đổ người khác để tiến lên. Họ cố gắng để được thành công nhưng không muốn người khác phải trả giá. Họ là người chậm chạp nhưng trung thành với công việc và sẽ làm tốt việc của mình. Họ là người tỉ mỉ và là người có thể trông cậy được – đây là một đặc điểm hữu ích nếu xét về mặt quản lý.

Dễ thích nghi, kiên nhẫn, nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc là điều dễ nhận thấy ở họ vì thế lĩnh vực nghệ thuật như ca múa, viết văn, hội họa... sẽ là mảnh đất để họ khẳng định và phát huy tài năng. Đặc biệt, những người này có thể trở thành những nhà thiết kế thời trang xuất sắc, những thợ thủ công giỏi, vì những người này thường thích những mẫu thời trang xinh xắn. Sự kiên nhẫn và chu đáo cũng giúp họ thành công trong những ngành như dạy học, y dươc.

Người tuổi Hợi khá điềm đạm, không thích cuộc sống bon chen. Do đó, những nghề nghiệp mang tính chất cạnh tranh đều không phù hợp với họ. Ngược lại, những ngành nghề phục vụ lợi ích cộng đồng sẽ tạo cho họ môi trường làm việc thích hợp và sự hứng thú cao. Người tuổi Hợi thường rất ham học hỏi và luôn cố gắng hết mình trên con đường học tập. Điều này có thể giúp họ rất nhiều trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu.

Người tuổi Hợi được đánh giá là rất “mát tay”, vì vậy các nghề như thú ý, chăn nuôi hoặc ngành lâm nghiệp cũng rất phù hợp với họ. Đây là những công việc giúp họ có được cuộc sống bình lặng như mong muốn. Nếu với nguời tuổi Tuất, quản lý tài chính được coi là sở trường thì với người tuổi Hợi có thể coi đó là sở đoản. Việc giao phó tiền tệ vào tay họ chẳng khác nào đang chơi trò mạo hiểm. Lời khuyên dành cho những người này là không nên theo đuổi ngành nghề kinh doanh, thương mại hoặc bất cứ công việc gì có liên quan đến tài chính, ngân hàng.

Điểm nổi bật của doanh nhân tuổi Hợi là tính cách ôn hòa. Điều này cũng thể hiện trong công việc kinh doanh của họ. Họ không thích tham gia vào môi trường làm ăn có tính cạnh tranh khốc liệt. Tuy không thích sự gò bó trong công việc nhưng họ cũng ngại khi phải đối mặt với những kế hoạch làm ăn có tính mạo hiểm. Trong kinh doanh, doanh nhân tuổi Hợi thường duy trì các mối quan hệ một cách hài hòa. Họ cũng sẵn sàng giúp đỡ bạn hàng khi gặp khó khăn.

Người tuổi Hợi trung thành và giỏi giao tiếp, điều này đã mang lại cho cuộc đời họ nhiều điều tốt đẹp. Họ thường làm việc rất chăm chỉ, nhưng nhiều khi lại làm qua loa, đại khái. Vì vậy, lời khuyên dành cho những người này là nên tìm người có tính cẩn thận, biết suy nghĩ thấu đáo để hợp tác trong công việc. Trong lĩnh vực kinh doanh, họ nên xem xét kỹ càng trước khi mạnh dạn đầu tư vào dự án nào đó. Vì chỉ cần bất cẩn một chút là họ sẽ bị thua lỗ lớn.

Nếu người tuổi Hợi biết cách xử lý tình huống tốt và vượt qua được những thử thách thì nhất định họ sẽ trở nên giàu có. Đến một lúc nào đó, họ sẽ có được một khoản thu dồi dào. Nếu muốn đầu tư cho việc kinh doanh thì lời khuyên dành cho họ là nên bỏ tiền vào lĩnh vực bất động sản hoặc chứng khoán. Người tuổi Hợi có bản lĩnh, không ngại khó khăn gian khổ, luôn dũng cảm đương đầu với mọi thử thách, cám dỗ. Điều này giúp họ đạt được nhiều thành công khi theo trong sự nghiệp.

Tuổi thơ của người tuổi Hợi rất bình lặng, không lo không nghĩ, nhưng đến thời kỳ thanh niên và trung niên sẽ có những thăng trầm nhỏ, chẳng hạn như phiền muộn về tình yêu – hôn nhân khiến bạn khó lòng ứng phó được. Tuy nhiên với tính cách cả thẹn và thận trọng, dù gặp bất cứ chuyện gì bạn cũng muốn giải quyết một mình. Cái tính cách quá kín đáo này trong nhiều trường hợp bắt buộc phải nói ra thì chỉ hại nhiều lợi ít mà thôi.

Dĩ nhiên tuổi già của bạn khá hạnh phúc, cuộc sống cũng rất yên ả. Do bạn luôn trọng trách nhiệm và trung thành với gia đình, nên những sóng gió trong tình yêu, hôn nhân thời trẻ đã qua đi từ lâu, bạn sẽ cảm thấy mọi việc thật mãn nguyện biết bao.

Người tuổi Hợi vốn có tài vận trời ban, bạn phải nỗ lực nắm bắt, có thể bằng sự cần cù, cố gắng của bản thân, cả đời bạn sẽ được sung túc, dư dả. Thế nhưng, nói đi rồi nói lại, dù bạn không có đủ tài vận hễ vung tay là giơ được ngàn vàng, song nhờ vào lòng tin và sự nỗ lực, tiền của sẽ đến, bạn không chỉ dựa vào những cố gắng của bản thân mà còn nhận được ân huệ người khác không sao tưởng tượng nổi. Bởi vậy nhất định bạn phải chú ý đến mối quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh. Nói chung, người sinh năm Hợi đều có tài lộ trời ban.

Nếu như bạn đang kinh doanh, buôn bán, tốt nhất hãy mạnh dạn một chút, chọn đúng thời cơ rồi thì phải mạnh dạn đầu tư, dĩ nhiên cũng cần thận trọng lựa chọn. Nếu hơi sơ sẩy tiền tài sẽ bay hết. Chỉ cần qua vài cửa ải khó khăn, việc kinh doanh sẽ ngày càng tiến triển tốt.

Thông thường, người tuổi Hợi không giỏi quản lý tài vụ, đặc biệt là không biết đặt kế hoạch phát triển trong lĩnh vực thương mại – buôn bán. Dù bản thân có lòng tin, nhưng hay thất bại. Về điểm này, bạn nên nhận thức một cách tỉnh táo. Ngoài ra, do luôn trọng nghĩa khí, nên thường mất nhiều tài sản vì bạn bè và người thân, nên bạn cũng cần chú tâm đến điều này.

4. Vận mệnh người tuổi Hợi với tháng sinh

Sinh tháng Giêng

Tiết Đầu xuân, vạn vật sinh sôi nảy nở, thông minh hiền lành, hoạt bát lanh lợi, được mọi người tôn trọng, đường lợi lộc hanh thông, có hạnh phúc tự nhiên trời ban, danh lợi vẹn cả đôi đường, có thể thành đại nghiệp, vinh tiến rạng rỡ, hạnh phúc vô tận.

Sinh tháng hai

Tiết Kinh trập, có thể thành đại công, đại linh nhân kiệt, danh gia vọng tộc, môn đệ nhà hiếm quí, bản tính thông minh có trí tuệ, thái độ chuyên quyền, tôn nghiêm, tinh lực suy mãn, hướng điều tốt lành đến hết đời.

Sinh tháng ba

Tiết Thanh minh, sức khỏe dồi dào, khí chất kiên cường, thậm chí khó hòa hợp, chí khí cao thượng, được mọi người kính phục.

Sinh tháng tư

Tiết Lập hạ, bản tính thông minh, nhanh nhạy, chức vị quyền quí cao sang, tuy gặp chút ít khó khăn, song vẫn tròn chí lớn, sự nghiệp như ý, nhiệt thành trung hậu, số mệnh vô cùng tốt lành.

Sinh tháng năm

Tiết Mang chủng, tính tình ôn nhu, có chút tài năng, song không có quyền lực. Sẽ rất thành công ở lĩnh vực văn học nghệ thuật, kỹ thuật, muốn theo nghiệp lớn, song không mạnh dạn theo đuổi, cả đời bình lặng, được hưởng phúc về già.

Sinh tháng sáu

Tiết Tiểu thử, tính tình lười biếng, thiếu thực lực, mọi chuyện đều nhu nhược, không quyết đoán, hành sự bất thành, không có tinh thần cầu tiến, phúc họa vô thường, thăng trầm bất định.

Sinh tháng bảy

Tiết Lập thu, ăn mặc dồi dào, tính tình độc lập, không thích dây dưa chuyện người, mọi việc đều thuận buồm xuôi gió, thế lực cường thịnh, ra vào tự do, tốt lành hanh thông, nếu biết dưỡng tâm nhu đức phẩm hạnh, ắt có ngày thành công.

Sinh tháng tám

Tiết Bạch lộ, quyền uy có sẵn, có thể làm lãnh tụ, sự nghiệp toại nguyện, được mọi người kính phục, nhưng phải khó khăn, dần dần thăng tiến, giống như leo từng nấc thang, ắt có ngày độc chiếm bảng vàng, uy phong lẫm liệt.

Sinh tháng chín

Tiết Hàn lộ, thức ăn dồi dào, thân hình đầy đặn, hưởng lộc trời ban, được mọi người mến mộ, nhàn rỗi thảnh thơi, tiêu dao tự tại, nhẫn nại kiên trì, sẽ được vinh hoa phú quí.

Sinh tháng mười

Tiết Lập đông, an hưởng hạnh phúc trời ban, con người đoan chính thuần hậu, được mọi người mến mộ, tuy xuất thân hàn vi, nhưng tự lập, phấn đấu thì có thể thay đổi số phận, phú quí thành công, về già càng được hưng vượng.

Sinh tháng mười một

Tiết Đại tuyết, dung mạo tươi tỉnh, ngũ quan hài hòa, thân hình đầy đặn, trung hiếu, lễ nghĩa, cố chấp khó thay đổi, ăn mặc cả đời không hết, hưởng phúc tự nhiên, danh lợi vẹn toàn, suốt đời không ưu tư sầu não.

Sinh tháng mười hai

Tiết Tiểu hàn, tuy có lộc trời ban nhưng không có quyền lực, thân hình béo tốt, cử động bất tiện, dữ nhiều lành ít, phải phòng họa cả bên trong lẫn bên ngoài, không có tài năng, uổng chí bình sinh.

5. Người tuổi Hợi và vận mệnh

Sinh năm Ất Hợi - 1995: Lợn quá vãn (thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành)

So với những người cùng sinh tiêu, người tuổi Hợi mệnh Hỏa thẳng thắn và mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, điều này đôi khi khiến họ trở nên thiếu linh hoạt trong cách nhìn nhận và xử lý công việc. Họ là người tự tin, chính trực. Họ cũng thích giúp đỡ người khác và ngược lại, họ cũng được nhiều người yêu mến và nhiệt tình giúp đỡ khi gặp khó khăn. Họ thường xác định mục tiêu rõ ràng và theo đuổi đến cùng để hoàn thành mục tiêu đó.

Tuy nhiên, cũng có một số người tuổi Hợi mệnh Hỏa thiếu kiên nhẫn và nôn nóng. Khi tiến hành công việc vì muốn nhanh chóng có được thành công nên có khi họ phải đối mặt với không ít vấn đề bất lợi do chính mình gây ra. Bình thường người tuổi Hợi mệnh Hỏa tỏ ra khá trầm tĩnh nhưng khi cần bộc lộ chính kiến, họ sẽ tranh luận rất nhiệt tình. Họ coi trọng gia đình, coi trọng luân thường đạo lý. Tuy nhiên, trong tình yêu, một số người tỏ ra khá cố chấp. Cho dù đơn phương theo đuổi ai đó họ cũng sẽ cố gắng đến cùng.

Sinh năm Đinh Hợi - 1947: Lợn quá sơn (thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành)

Người này thường hay thay đổi tâm tính. Nếu có quý nhân phù trợ, họ có thể kiên nhẫn giải quyết mọi khó khăn trong hoàn cảnh bất lợi. Nếu không có quý nhân phù trợ, cuộc sống của họ sẽ trải qua nhiều thăng trầm và ít bạn bè. Một số người tuổi Hợi mệnh Thổ thường rơi vào trạng thái tâm lí mâu thuẫn do chính bản thân tạo ra. Đó là mâu thuẫn giữa sự tự tin, quyết đoán nhất thời và tính hay do dự, lo lắng của họ. Chính vì vậy, họ hay xét lại vấn đề và cảm thấy lúng túng, thậm chí là khổ sở. Họ có lòng tự tôn cao, dễ gây cho người khác sự hiểu lầm không đáng có. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, hai bên sẽ hiểu và thông cảm với nhau nhiều hơn và tình cảm sẽ trở nên rất tốt đẹp.

Trong quá trình phát triển sự nghiệp, họ rất biết cách học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước. Họ đối xử chân thành với mọi người nên vấn đề tạo dựng được các mối quan hệ tốt, thuận lợi cho công việc trở nên khá dễ dàng. Nếu sử dụng kinh nghiệm của người đi trước một cách có hiệu quả thì sự nghiệp của họ sẽ còn phát triển thuận lợi hơn nữa. Họ rất coi trọng gia đình và sẽ luôn cố gắng để làm tròn bổn phận của mình. Họ cũng không quá nhiệt tình khi tham gia vào các hoạt động xã hội vì những hoạt động này ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân của họ

Sinh năm Kỷ Hợi - 1959: Lợn trong sân (thuộc mệnh Mộc trong Ngũ hành)

Người này thường rất khiêm tốn, có nhiều phẩm chất tốt đẹp, biết cảm thông, bao dung với người khác. Họ luôn lạc quan và rộng mở tấm lòng trong cuộc sống của mình. Vì vậy, tuy cuộc sống còn nhiều ưu phiền, trắc trở nhưng họ vẫn luôn an tâm, lạc quan tiến tới. Họ cũng thường khoan dung với chính bản thân mình.

Người tuổi Hợi mệnh Mộc rất chuyên tâm vào công việc nhưng đôi khi cũng bỏ cuộc giữa chừng, nhất là khi công việc gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở thì sự không kiên định của họ lại càng được thể hiện rõ nét hơn. Họ thích hành hiệp trượng nghĩa và cũng thích được nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến. Họ luôn tỏ ra nghị lực, đối xử thân thiện và hết lòng vì bạn bè. Người này cũng không tiếc công sức khi tham gia các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng. Đây là người biết cách lập kế hoạch cũng như xác định bước đi tiếp theo của mình là gì, luôn suy tính kỹ càng trước khi quyết định hành động.

Họ có những kiến giải rất độc đáo cũng như tính toán kỹ về mặt lợi nhuận khi quyết định đầu tư vào công việc nào đó. Tình cảm của họ rất trong sáng. Tuy nhiên, họ không thể nhận biết rõ ràng nếu trót làm tổn thương đến bạn bè nên thường bị liên lụy một cách vô thức. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì người này có thể gặp được rất nhiều cơ hội tốt và có địa vị cao trong xã hội. Nhưng nếu không được sao tốt tương trợ, họ sẽ trở thành những người dễ thay đổi, không giữ được tiết khí ban đầu của mình. Họ chỉ có thể tạo dựng được sự nghiệp nhỏ nhưng phải trải qua nhiều gian khổ.

Sinh năm Tân Hợi - 1971: Lợn trong cây (thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành)

Người này thường có chí lớn và luôn lạc quan. Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì rất có thể họ sẽ có con đường công danh hiển đạt, có địa vị cao, có khả năng giúp đỡ mọi người, được nhiều người trọng vọng, yêu mến. Tuy nhiên, nếu không được sao tốt tương trợ, họ lại thường phạm phải những sai lầm không đáng có chốn quan trường, thường xuyên lừa gạt mọi người. Tuy mọi việc tương đối thuận lợi nhưng lại không thu được nhiều lợi nhuận.

Họ là những người không câu nệ hình thức. Họ cũng có ý thức độc lập và sẽ không thay đổi quan điểm của mình vì ý kiến đánh giá của những người khác. Đôi khi, họ tỏ ra rất dũng cảm và có thể làm được nhiều việc lớn, khiến cho mọi người rất ngạc nhiên. Họ có tính cách hào phóng, thường khẳng khái giúp đỡ mọi người nếu việc đó nằm trong khả năng của mình. Đây là người có ý chí rất kiên định. Một khi đã xác định được mục tiêu, họ sẽ phấn đầu hết mình để thực hiện nó.

Tuy nhiên, đôi khi họ cũng khá nóng vội nên có thể dẫn đến thất bại. Người tuổi Hợi mệnh Kim thường không suy nghĩ kỹ càng trước khi hành động. Tuy nhiên, sự ngoan cố đôi lúc có thể giúp họ giành được thành công. Họ thích tự lực cánh sinh nhưng lại thiếu linh hoạt trong cuộc sống.

Sinh năm Quý Hợi - 1983: Lợn dưới rừng (thuộc mệnh Thủy trong Ngũ hành)

Họ thường thích hưởng thụ cuộc sống tự do tự tại ở nơi bình yên, vắng vẻ. Đây là người luôn khiêm tốn, cẩn trọng và có tấm lòng rộng mở. Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ tài hoa hơn người, thường làm nhiều việc nghĩa và được thăng quan tiến chức nhanh chóng. Nếu không có sao tốt tương trợ trong cung mệnh, họ vẫn có thể được hưởng cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng cũng phải chịu đựng nhiều nỗi ưu phiền; hoặc tuy là quan chức nhưng vì quản lý thường không yên ổn; hoặc sẽ thuộc dạng "đục nước béo cò", tuy có một số lợi nhuận ngoài ý muốn nhưng cũng tồn tại khá nhiều điều nguy hiểm và khi biết sai thì cũng đã quá muộn. Họ là những người linh hoạt, có khả năng giao tiếp xã hội tốt.

Họ cũng có trực giác nhạy bén và nếu tập trung vào lĩnh vực đầu tư thì sẽ thu được nhiều nguồn lợi lớn. Người này rất có đầu óc kinh doanh nhưng lại khá tiêu cực và bị động trong việc quản lý tài sản. Trừ khi người khác có đầy đủ lý do và thuyết phục được họ một cách tuyệt đối, nếu không họ sẽ không bao giờ chịu mở hầu bao của mình. Đường tài vận của họ khá hanh thông, thường nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà thu được nhiều tiền tài. Về cơ bản, họ là người coi trọng tình cảm, một số người dễ mắc vào lưới tình. Họ có thể dốc hết tâm sức vì người mà mình thực sự yêu thương.

6. Tương hợp và xung khắc giữa người tuổi Hợi và các tuổi khác

Tuổi Hợi và tuổi Tý

Tuổi Tí thích là trung tâm của sự chú ý trước đám đông và đối xử với người mình yêu quý bằng sự nhiệt thành và độc đáo. Còn tuổi Hợi luôn đặt bạn bè và gia đình là yếu tố quan trọng hàng đầu, nên Hợi trở thành thành viên rất tích cực trong đám đông. Điểm yếu của tuổi Hợi là quá lạc quan và lý tưởng hóa người khác. Chính vì vậy, đôi khi con giáp này không nhìn thấy một số tính xấu của tuổi Tí: sự tham lam và có lúc hơi mưu mẹo một chút.

Nhưng điều đó cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến mối quan hệ của hai người vì Chuột thông minh, dí dỏm và đặc biệt kiếm tiền rất tốt. Đây mới chính là điểm mà tuổi Hợi mong đợi. Hơn thế nữa, tuổi Hợi rất thích xài đồ hiệu và tuổi Tí rất “khoái” đặc điểm này. Bởi vậy nên cả hai này khá hòa hợp. Hai “hành tinh” này cãi cọ khi tuổi Tí “sống nhanh” không còn đủ kiên nhẫn với tuổi Hợi lúc nào cũng thích ngủ muộn và chậm trễ.

Trong kinh doanh, Tí và Hợi phải điều chỉnh thì mới có thể tiếp tục mối quan hệ. Tí nhanh nhạy và thiên hướng kiếm tiền tốt, biết cách tận dụng người khác để làm giàu. Hợi yêu sự giàu có nhưng trong mắt của tuổi Tí, Hợi lười hơn so với những gì Tí mong đợi. Điều này khiến Tí thỉnh thoảng nặng lời. Mặc khác, tuổi Hợi khá kiên định lập trường, khi đã đưa ra quyết định, khó lòng thay đổi. Tính cách này có 2 mặt đối với mối quan hệ của hai người, phụ thuộc vào hành động mà tuổi Hợi làm có trùng khớp với điều mà tuổi Tí muốn hay không.

Tuổi Hợi và tuổi Sửu

Sửu và Hợi kết hợp khá ăn ý, đặc biệt khi họ là một cặp uyên ương. Họ có thể ở bên nhau cả ngày, quanh quẩn với chiếc giường, buồng tắm, tầm quất cho nhau, cùng ăn uống và tận hưởng cuộc sống. Không phải vì hai con giáp này lười biếng mà họ rất hợp nhau ở những khoản trên. Trên thực tế, tuổi Sửu sống thực tế và rất nghiêm túc; còn tuổi Hợi thì luôn đề ra các mục tiêu cho mình. Tuổi Sửu luôn có xu hướng tạo cho ngôi nhà của mình không khí hài hòa và yên tĩnh, đây cũng chính là điều mà tuổi Hợi mong đợi. Biết rằng Sửu thường ngại ngùng, nhút nhát nên Hợi thường tìm cách kéo Sửu đi cùng mình trong các cuộc vui để Sửu mở mang và năng động hơn. Bên cạnh đó, Hợi cũng rất vui khi được ở nhà cùng Sửu vì Sửu vốn thích quanh quẩn trong nhà hơn là các hoạt động xã hội.

Nếu là đối tác làm ăn, họ sẽ kết hợp khá thành công. Tuổi Hợi làm việc rất chăm chỉ vì lý tưởng của mình. Đây là điều mà tuổi Sửu đánh giá rất cao. Người tuổi Hợi vốn khá cầu toàn nhưng cũng đánh giá rất cao khả năng của tuổi Sửu. Hợi thường có xu hướng nhìn vào điểm tốt của những người khác và thấy được rằng tuổi Sửu rất trung thực, đáng tin cậy và có năng lực. Bởi vậy, Hợi rất hài lòng. Sửu không bao giờ lợi dụng những gì Hợi có, nhất là tính cách dễ bị mắc lừa của Hợi như các con giáp khác có thể làm. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi cả hai “hành tinh” này đều bướng bỉnh, không ai chịu nhường ai. Tuổi Hợi thích làm theo cách của mình còn tuổi Sửu rất khó thay đổi ý định khi đã có niềm tin.

Tuổi Hợi và tuổi Dần

Dần và Hợi có thể trở thành một cặp ăn ý nếu cả hai cùng ứng xử linh hoạt và tin tưởng lẫn nhau. Tuổi Hợi dễ tính, rộng lượng và thường đánh giá người khác qua những điểm tích cực. Điều này khiến mối quan hệ của hai người thêm nhẹ nhàng và thoải mái. Dần lịch sự và luôn sống lạc quan. Tuy nhiên, có một số những tình huống khiến hai con giáp này chuyển từ thái độ tích cực thành tiêu cực. Với người tuổi Dần, những người muốn sở hữu và hạn chế sự tự do Dần đều khiến mối quan hệ giữa hai người trở nên xa lạ mà thôi. Tự do và quyền tự chủ là yếu tố hết sức quan trọng với Dần. Còn Hợi thích được sự hỗ trợ của người khác và muốn hướng về gia đình nhưng đôi khi không tìm thấy điều đó ở Dần.

Nếu mối quan hệ giữa Dần và Hợi là tình cảm lứa đôi, hai tuổi này cần tạo không gian riêng cho nhau để làm theo những điều mỗi người mong muốn. Hợi phải nhường nhịn Dần và ngược lại Dần cần hỗ trợ Hợi càng nhiều càng tốt. Nếu Dần cảm thấy bản thân mình không bị ràng buộc và hạn chế tự do bởi Hợi thì mối quan hệ của họ sẽ có chiều hướng phát triển tích cực. Khi là đối tác kinh doanh, Dần và Hợi sẽ tạo thành một tập thể vững vàng với điều kiện cả hai cùng đi chung một con đường. Hợi khá chăm chỉ và sự nỗ lực của Hợi sẽ tạo tiền đề thật tốt để Dần phát triển ý tưởng sáng tạo trong kinh doanh.

Tuổi Hợi và tuổi Mão

Mão và Hợi sẽ tạo thành mối quan hệ khá hài hòa. Tuổi Hợi cảm thấy thoải mái và sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ người mình yêu quý. Điều này rất cần cho Mão bởi tuổi Mão vốn cần sự hỗ trợ từ bạn bè, người thân khi gặp rắc rối để giữ được cân bằng cho cuộc sống. Bởi vậy, hai con giáp này hỗ trợ rất đắc lực cho nhau và tạo thành một cặp bài trùng ăn ý. Bên cạnh đó, có thể kể đến một số tính cách khác nữa để thấy hai tuổi Mão và Hợi hợp nhau. Hợi vốn rộng lượng và thường chỉ nhìn vào những điểm tốt của người khác. Trong khi đó, Mão khi làm bạn với ai thường rất thấu hiểu và cảm thông. Bởi vậy, hai tuổi này thường bỏ qua được lỗi lầm của nhau và cùng sống chan hòa.

Những điểm yếu của Mão như nhút nhát, bị động và thường đưa ra ý kiến chủ quan… thường vượt quá sự chịu đựng của một số con giáp. Nhưng riêng với Hợi thì những tính cách đó chẳng có ảnh hưởng gì tới mối quan hệ của hai người. Bù lại, tuổi Mão cảm thấy rất hạnh phúc vì có Hợi bảo vệ và che chở. Bởi thế nên Mão luôn trung thành và hết lòng vì Hợi. Khi là hai người yêu nhau, Mão và Hợi sẽ là một cặp trời sinh. Ngôi nhà chung của họ sẽ đầy ắp tiếng cười và không khí ấm cúng. Nếu là đối tác làm ăn, Hợi sẽ đóng vai trò là người ở tiền tuyến và Mão sẽ gửi trọn niềm tin đối cho Hợi. Hợi sẽ lắng nghe sáng kiến của Mão và hai con giáp cùng nhau xây dựng một đế chế phát triển bền vững.

Tuổi Hợi và tuổi Thìn

Thìn và Hợi là những người bạn, người tình tuyệt vời. Tuổi Thìn dũng cảm, thích sống độc lập và tin tưởng vào tình yêu. Còn tuổi Hợi rất nhẹ nhàng và sống tình cảm. Với Hợi, chẳng có gì quan trọng hơn gia đình và bạn bè. Hợi rất quan tâm tới chuyện ăn uống, chuyện tình cảm và công việc gia đình. Mặc dù, Thìn không hứng thú lắm với việc quanh quẩn bên gia đình nhưng hai con giáp này biết cách tạo sức hút để luôn quấn quýt bên nhau.

Tuy hai “hành tinh” này đem đến cho nhau những cảm giác thật tuyệt vời trong tình yêu nhưng họ vẫn cần để cho nhau có khoảng trời riêng. Tuổi Hợi cần để cho Thìn chạy theo những sở thích của riêng mình và chớ mong đợi rằng Thìn sẽ dành nhiều thời gian cho gia đình. Tuy nhiên, khoảng thời gian mà Thìn ở nhà sẽ rất “chất lượng” vì Thìn dành hết cả tâm huyết và quên cả những thú vui của mình.

Nếu hai con giáp này sống chung trong một ngôi nhà, Thìn rất thích không khí thoải mái mà Hợi mang lại. Đôi khi, Thìn phải kìm chế sự bực tức vì cảm thấy tuổi Hợi hơi lười.Trên thực tế, Hợi không hề lười khi tin vào mục tiêu của mình. Nếu hai con giáp là các đối tác làm ăn, Thìn với năng lượng dồi dào và đầy ý tưởng sáng tạo sẽ đóng vai trò là người ở tiền tuyến, thúc đẩy quá trình kinh doanh liên tục đi lên.

Thìn vốn là con giáp ưa mạo hiểm và thường gặp may mắn. Còn Hợi thì rất vui vẻ thực hiện mục tiêu chung của hai người dưới sự lãnh đạo của Thìn bởi Hợi vốn thích thú “chăm sóc” những người hoặc công việc mà mình yêu thích. Cả hai “hành tinh” đều rất trung thành và tin tưởng lẫn nhau.

Tuổi Hợi và tuổi Tỵ

Mâu thuẫn nằm ở chỗ giữa Tị và Hợi thiếu những cuộc hội thoại mang tính chất xây dựng. Tuổi Tị thường hay sống bằng trực giác hơn là dựa vào lô gíc của sự việc. Bởi vậy nên con giáp này thường hay đưa ra ý kiến chủ quan và hay nói vòng vo mà không đi thẳng vào vấn đề. Còn Hợi thì nhút nhát nhưng khá rộng lượng trong các mối quan hệ. Nhưng khi có hiềm khích xảy ra, ngôn từ của Hợi khá thâm hiểm. Khi là một cặp yêu nhau, hai “hành tinh” có quan điểm chung về bạn bè thân, về cuộc sống gia đình. Đây là điều mà cả Tị và Hợi đều rất quan tâm.

Bên cạnh đó, cả hai con giáp này đều làm việc rất chăm chỉ khi cần. Nhưng cả hai đều thích nghỉ ngơi trong điều kiện thoải mái và xa xỉ. Tị rất cuốn hút và hấp dẫn, còn Hợi sẽ là một người tình lý tưởng. Do đó, họ kết hợp với nhau khá ăn ý. Trong tình yêu, Tị hay ghen vì thường cảm thấy bất an nhưng Hợi thì có quan niệm rất trung thành với người mình yêu. Tuy nhiên, đôi khi Hợi giữ những bí mật riêng cho mình, điều này luôn làm cho Tị nghi ngờ.

Nếu Tị và Hợp cùng hợp tác làm ăn với nhau, Tị thông minh, nhanh nhẹn sẽ đóng vai trò làm “tiền tuyến” và là trung tâm của sự chú ý. Điều này rất hợp với ý của Hợp vì tuổi này vốn thích hợp với công việc của “hậu phương”. Nơi làm việc của Tị và Hợi sẽ được trang trí theo kiểu cổ điển. Những bữa ăn cùng nhau của hai người tại các nhà hàng sẽ rất thường xuyên và trang trọng.

Tuổi Hợi và tuổi Ngọ

Hai tuổi này có thể là một cặp hoàn hảo trong thời gian đầu của mối quan hệ, họ dường như khá cuốn hút nhau. Ngọ nổi bật trước đám đông bởi sự hài hước, dí dỏm và thông minh, điều này làm Hợi mê mẩn. Hơn thế nữa, tuổi Ngựa còn rất hấp dẫn tuổi Hợi bởi sự hào phóng, sự rộng lượng và xử lý tình huống nhanh. Hợi khá dễ tính và chiều Ngọ nên mối quan hệ của hai người rất ổn thỏa.

Tuy nhiên, nếu mối quan hệ của họ càng kéo dài, thì càng nảy sinh nhiều vấn đề, đòi hỏi cả hai người phải cùng nỗ lực. Nếu là một cặp đôi, hai “hành tinh” này sẽ gặp rất nhiều trục trặc, đặc biệt khi sống cùng nhau. Hợi thích sự bình lặng, thích cuộc sống diễn ra đều đều và ngại di chuyển nhiều. Vì vậy, Hợi khá nhàm chán trong con mắt của Ngọ. Ngọ thích bay nhảy, nhanh nhẹn và thích khám phá. Ngựa tán tỉnh và ga lăng khi mới yêu.

Tuy nhiên, Ngựa lại rất nhanh chán và mất hứng trước cuộc sống phẳng lặng của Hợi. Tuổi Hợi sống khá tình cảm với bạn bè và gia đình, đặc biệt rất tận tụy với người mình yêu. Nhưng khi Ngọ có ý định rời bỏ mình, Hợi sẽ tìm cách để níu kéo. Ở Hợi còn có tính thù dai, nếu bị tổn thương nhiều Hợi sẽ tìm cách trả đũa.

Trong kinh doanh, cả hai tuổi này đều rất chăm chỉ nhưng họ phải tìm công việc hấp dẫn cho cả hai người thì mới duy trì được lâu. Ngọ chỉ đạo công việc rất tốt nhờ khả năng quản lý và bao quát công việc, còn Hợi sẽ đảm nhiệm các việc cần sự tỉ mỉ, cẩn thận. Nói chung, Hợi sẽ rất tích cực là hậu phương vững chắc của Ngọ. Tuổi Hợi đánh giá rất cao sự thông minh, nhanh nhẹn và quyết đoán trong công việc của Ngọ.

Tuổi Hợi và tuổi Mùi

Mùi và Hợi có nhiều điểm chung nên tình yêu của họ rất êm dịu, ngọt ngào. Họ luôn tạo cho nhau cảm giác thoải mái. Hợi là người ham chơi, nên thích những cuộc vui chè chén, đắm chìm trong tình yêu, và nghỉ ngơi thư giãn. Mùi không phải là người quá coi trọng vật chất - họ sống trong sự giàu có về tâm hồn. Nhưng đặc biệt, trong tình yêu Mùi cũng có nhiều ham muốn về thể xác. Trong mối quan hệ giữa hai người, Hợi luôn ngưỡng mộ trí tuệ và sự thông minh của Mùi.

Mùi sẽ yêu sự hào phóng, chung thủy và đáng tin cậy của Hợi. Hợi và Mùi sẽ tạo thành một cuộc hôn nhân hạnh phúc, vì cả hai đều giàu tình cảm. Thực tế, Mùi cần nhiều tình cảm và luôn muốn được Hợi tôn trọng. Điều này sẽ giúp duy trì sự thăng bằng trong tình cảm cho Mùi. Hợi là chỗ dựa vững chãi của Mùi. Mặc dù Mùi có thể đứng một mình và xoay sở tốt mọi việc, nhưng có Hợi, Mùi sẽ cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều. Hợi cực kỳ hào phóng và nhiệt tình giúp đỡ người mình yêu vì họ cho rằng mối quan hệ tốt đẹp với người yêu là quan trọng hơn tất cả.

Trong làm ăn kinh doanh, Mùi và Hợi có thể hợp tác và xây dựng được một công ty có tiếng tăm và uy tín. Họ sẽ thành công nếu họ biết chọn lĩnh vực phù hợp với khả năng và đầu óc tinh tế của Mùi. Nhìn chung Mùi khá may mắn nên luôn có được nhưng thành công bất ngờ trong kinh doanh. Tuy nhiên, Mùi không được thực tế cho lắm vì thế nên vấn đề tài chính thường do Hợi làm chủ. Hợi là người chăm chỉ trong công việc và dễ dàng làm theo sự chỉ dẫn của người khác. Bởi vậy, Mùi sẽ là người đứng đằng sau và nắm quyền lực của công ty.

Tuổi Hợi và tuổi Thân

Thân và Hợi có nhiều niềm vui khi ở bên nhau. Cả hai đều là mẫu người vui vẻ, có suy nghĩ tiến bộ và khá nhạy cảm. Nhưng Thân có chút chơi bời hơn Hợi. Hợi thích những đồ ăn ngon, thích tán tỉnh. Những việc rất đơn giản như được ngủ trong một chiếc giường thoải mái, hay được đi tắm hơi cũng dễ làm cho Hợi cảm thấy vui vẻ. Còn Thân, Thân không thích ở nhà mà thích đến những bữa tiệc lớn, vui nhộn nơi họ có thể tự do vui đùa. Hợi quan niệm gia đình và những người bạn thân là những thứ quan trọng nhất với họ trong cuộc sống, trong khi Thân thường đặt sự sự vui vẻ lên hàng đầu.

Khi yêu nhau Thân có thể sẽ tốn thời gian để thuyết phục Hợi đi chơi đó đây. Thân là người có nhiều ham muốn về “chuyện ấy” nhưng không hẳn muốn trải qua hàng giờ trên giường ngủ. Thân đôi lúc sẽ cảm thấy chán việc cố gắng thay đổi Hợi và muốn ra ngoài chơi cho thoải mái. Hợi sẽ phải chấp nhận điều đó vì Thân không phải là người linh hoạt. Tốt nhất trong tình yêu, Hợi nên rộng lượng và chấp nhận nếu muốn làm người bạn đời được vui vẻ. Tuy nhiên đặc điểm này cũng dễ khiến Hợi trở thành người dễ bảo. Thân chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ đối xử tệ bạc với Hợi nhưng có lẽ đó do Thân không để ý đến chuyện đó.

Trong làm ăn kinh doanh, nếu biết kết hợp sức mạnh của cả hai, Thân và Hợi kết sẽ xây dựng được một sự nghiệp vững chắc và thịnh vượng. Thân thích lãnh đạo và thường là người đại diện cho công ty đi giao thiệp với khách hàng, thuyết phục mọi người vì có kinh nghiệm và khá bạo dạn. Hợi là người làm việc chăm chỉ theo sự chỉ dẫn của người khác nhưng sẽ cần biết cách để giúp Thân tránh khỏi những rủi ro không đáng có.

Tuổi Hợi và tuổi Dậu

Trong con mắt của Dậu, Hợi là mẫu người chỉ thích hưởng thụ. Dậu ghét cay ghét đắng sự bừa bãi và với Dậu điều gì trên mức cần thiết đều tạo nên sự thừa thãi hoặc bừa bộn. Hợi lại là con giáp khá dễ tính và ít để ý tới những điều trên. Bởi vậy, Dậu sẽ là người chịu trách nhiệm thu dọn mọi thứ và giữ chúng nằm trong trật tự để giữ mối quan hệ hài hòa với người tuổi Hợi thích sự xa xỉ.

Nếu Dậu và Hợi yêu nhau, mâu thuẫn giữa hai con giáp này có xảy ra hay không phụ thuộc chính vào cách ứng xử của Hợi. Khi hai hành tinh này sống cùng nhau thì chuyện cãi vã xảy ra thường như cơm bữa. Hợi thích sự tiện nghi, thoải mái như thưởng thức món ăn ngon, thích thú với “chuyện ấy” và ngủ trên chiếc giường thật êm… Ngược lại, Dậu thích những điều thực tế, thích sự hoàn hảo và không chịu được sự lười biếng.Thực chất, Hợi không hề lười biếng mà trái lại, Hợi rất chăm chỉ nhưng trong con mắt của Dậu, người tuổi Hợi vẫn rất lười nhác. Điểm giữ được mối liên hệ giữa hai con giáp này là sự hy sinh trong tình yêu. Dậu rất trung thành khi yêu và Hợi thì thường rộng lượng và yêu hết mình.

Có thể nói, khi là đối tác kinh doanh, Dậu và Hợi sẽ thành công hơn ở các mối quan hệ khác bởi họ sẽ tận dụng rất tốt những điểm mạnh của mình. Tuổi Dậu sẽ đảm nhiệm các công việc tỉ mỉ hoặc liên quan đến tài chính. Hợi vốn chăm chỉ và định hướng tốt nên rất phù hợp với việc tiến hành các kế hoạch mà Dậu đã lập. Bên cạnh đó, Hợi sẽ đảm nhiệm cả những nhiệm vụ liên quan đến khách hàng bởi ở lĩnh vực này, Hợi có khả năng làm tốt hơn Dậu.

Tuổi Hợi và tuổi Tuất

Tuất và Hợi có thể trở thành một cặp bài trùng vì những ý tưởng tốt đẹp mà họ dành cho nhau. Tuất đôi khi giận hờn và cần thời gian một mình để lấy lại tinh thần. May mắn là Hợi khá nhạy bén và tế nhị nên Hợi để Tuất hài lòng. Bởi vậy, chuyện này không gây nhiều phiền toái tới mối quan hệ của hai người. Người tuổi Hợi đôi khi để Tuất lấn tới nhưng Tuất thì lại không hề như vậy bởi con giáp này khá trung thực, thẳng thắn. Khi là một cặp uyên ương, Tuất và Hợi sẽ kết hợp rất ăn ý với nhau. Tuổi Hợi vốn thích sự tiện nghi, thích hưởng thụ cuộc sống một chút, chẳng hạn như thưởng thức những món ăn ngon, thích thú với “chuyện ấy”, ngâm mình trong bồn tắm…

Trong khi đó thì Tuất có năng lượng cơ thể dồi dào và thích những điều mạo hiểm hơn Hợi. Hai con giáp này sẽ bổ sung và hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày. Điều thú vị hơn nữa là cả Tuất và Hợi đều đặt yếu tố gia đình ở một vị trí rất quan trọng. Họ rất hợp nhau ở điểm này. Có một số vấn đề mà mối quan hệ của hai “hành tinh” này gặp phải nhưng Hợi tốt tính và Tuất có tài ngoại giao sẽ biết cách kết hợp với nhau để vượt qua sóng gió. Tuất rất biết cách bảo vệ người yêu mình và điều này được Hợi đánh giá rất cao. Vậy nên, mối quan hệ của họ ngày càng nồng thắm và bền chặt.

Nếu hai con giáp này là đối tác làm ăn, Tuất với năng lượng dồi dào và tài ngoại giao sẽ đóng vai trò là người tiền tuyến. Hợi chăm chỉ làm việc và làm việc có kế hoạch sẽ trở thành cánh tay phải đắc lực của Tuất. Tuất cũng rất chăm chỉ, đặc biệt với những công việc yêu thích. Tính thích ổn định của Hợi và tính trung thực của Tuất sẽ giúp công ty chung của họ phát triển tốt. Bởi vậy, hai con giáp này sẽ kết hợp rất tốt trong chuyện làm ăn.

Tuổi Hợi và tuổi Hợi

Hợi và Hợi có thể nói là một cặp trời sinh vì cả hai đều yêu gia đình và thích cuộc sống tiện nghi. Tuổi Hợi thích thưởng thức những món ăn ngon, đam mê “chuyện ấy” và thích nằm trong bồn tắm thật lâu để xả stress… Họ sẽ rất thích thú khi ở bên nhau. Hai người cùng con giáp này sẽ kết hợp ăn ý nhất khi họ là những người yêu nhau, là thành viên trong gia đình hoặc là bạn bè. Nếu là một cặp uyên ương, mối quan hệ giữa hai người cùng tuổi Hợi sẽ tuyệt vời nhất khi họ ở nhà vì ở đây, người này sẽ làm cho người kia cảm nhận được những điều tuyệt vời nhất.

Trong ngôi nhà chung, họ sẽ tạo điều kiện thoải mái nhất cho nhau, chẳng hạn như những món thật ngon và nơi nằm thật lý tưởng. Đồ dùng trong nhà tắm như sữa rửa mặt, sữa tắm, nước hoa… sẽ là những món quà làm Hợi rất hài lòng. Khi yêu, người tuổi Hợi dễ tính hơn nhiều và thường nhường nhịn để giữ không khí chan hòa. Điều tồn tại duy nhất trong mối quan hệ giữa hai người cùng “hành tinh” này là họ dành quá nhiều thời gian cho những hoạt động khác mà quên việc nói chuyện với nhau và thể hiện bản thân. Do đó, đôi khi giữa người cùng con giáp này xảy ra sự hiểu lầm. Mặc dù khá dễ tính nhưng khi cáu giận, hành động của họ khá gay gắt và đáng sợ.

Nếu hai người tuổi Hợi là các đối tác kinh doanh thì họ nên chọn ngành nghề nào mà cả hai cùng có niềm tin. Nếu không, họ sẽ phải làm việc rất vất vả. Tuổi Hợi không lười biếng. Hợi không phải là con giáp lười biếng, họ có khả năng nỗ lực rất nhiều với điều kiện họ phải tin vào việc đang làm. Văn phòng nơi hai người cùng con giáp này làm việc sẽ khá tiện nghi, thậm chí được lắp cả bồn tắm hơi. Khách đến công ty sẽ được phục vụ rất tận tình và chu đáo.

Xem thêm:

Tình yêu hôn nhân của người tuổi Hợi với các tuổi khác

Tử vi Lục thập hoa giáp

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tuổi Hợi

Chữ ký tiết lộ tính cách của các nhân vật nổi tiếng

Rất khó kiểm soát đặc điểm chữ viết, bao giờ chữ viết cũng tiết lộ cá tính của người viết, xem chữ cho phép vẽ chân dung tâm lý khá chính xác của người viết. Thuật xem chữ ký cũng được sử dụng trong quá trình tuyển nhân viên tại nhiều tập đoàn kinh tế và cơ quan có uy tín thế giới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ngay từ thế kỷ XIX, giáo sư tâm lý học nổi tiếng người Đức Wilhelm Preyer đã chứng minh rằng, việc phân tích chữ viết của những cá nhân bị cụt tay và buộc phải viết bằng cách khác, cũng không khác gì phân tích ghi chép bằng những cách thông thường.

“Hãy tránh xa những ai có chữ viết quay cuồng như lá cỏ lau trong không khí” – Khổng Tử đã cảnh báo. Nhà hiền triết Trung Hoa vĩ đại đã có lý. Những người sử dụng chữ viết bay bướm thái quá (nghiêng ngả đủ hướng và với nhiều góc độ khác nhau), tính khí hay thất thường, tránh giao cho họ nhiệm vụ và vị trí quan trọng, các chuyên gia tướng chữ xác nhận.

Thuật xem tướng chữ cho phép vẽ chân dung tâm lý khá chính xác của người viết. Không phải vô cớ, khi chúng ta nói về đặc điểm, thay vì nói về dạng hay phong cách chữ viết. Thông qua chữ viết, có thể xác định cách thức đối tượng được nghiên cứu cư xử với người khác và bản thân; đối tượng đi đến quyết định dựa trên cơ sở phân tích, hay linh cảm; liệu đối tượng có khả năng tự kiểm soát hay lập trường kiên định không. Vì thế, trong quá trình tuyển người, thuật xem tướng chữ được sử dụng trong hơn 50% tổng số doanh nghiệp ở Pháp, và tới 89% ở Thụy Sĩ.

Thuật xem tướng chữ cũng được sử dụng trong quá trình tuyển nhân viên tại nhiều tập đoàn kinh tế và cơ quan có uy tín thế giới, trong đó có General Motors, Renault, FBI (Cơ quan điều tra liên bang Mỹ) và Mosad (Tình báo Israel). Tất nhiên, trước tiên người ta lựa chọn ứng viên trên lý lịch cá nhân. Tiếp theo, đơn xin việc viết tay của những ứng viên được lựa chọn sẽ được các chuyên gia phân tích. Nhờ thế tuyển dụng mới có cơ may phát hiện sự khác biệt giữa hàng trăm bản sao chép từ Internet với nội dung giống nhau.

“Ứng viên muốn trúng tuyển cần phải viết thế nào? – Còn phụ thuộc vào công việc, mà ứng viên mong muốn” – TS Ellen J. Nusbaum, tác giả cuốn sách “Nghiên cứu ứng viên và nhân viên trên cơ sở chữ viết”, trả lời.

Thí dụ, sếp cần có năng lực ngoại giao, giàu ý tường, làm chủ bản thân, vậy chữ viết anh ta phải khá phẳng. Năng lực tổ chức, kế hoạch tốt sẽ bộc lộ rõ qua nhiều đặc điểm, trong đó có khoảng cách đều đặn giữa các dòng chữ, còn những chữ cái thẳng và rành mạch sẽ biểu thị trí thông minh. Nếu giám đốc có trách nhiệm quản lý những vấn đề về tài chính, quan trọng nhất là những chữ cái viết hoa “M” và “N” bắt đầu bằng cái móc nhỏ. Trường hợp muốn làm giám đốc có đầu óc sáng tạo của hãng quảng cáo, sẽ được chấm điểm cao khi những chữ “m”, “n” và “h” có góc nhọn ở trên (giống chữ viết của Mahatma Gnadhi). “Tất nhiên mỗi cá tính mong muốn cần thấy rõ qua vài đặc điểm khác nhau của chữ viết, không chỉ dựa vào những thí dụ đã đưa” – TS Nusbaum cảnh báo.

Các nhà khoa học cũng biết rõ những người bị ảnh hưởng của rượu, ma túy, cũng như bệnh nhân các bệnh thoái hóa thần kinh có đặc điểm chữ viết thế nào. GS Christina Strang đã tiến hành công trình nghiên cứu tại bệnh viện Pool ở Vương quốc Anh, nơi dựa vào đặt điểm chữ viết, nhà khoa học xác định những cá nhân bị bệnh cơ bắp – tim. Đó trước hết là những chấm nhỏ nghỉ giữa dòng (tức những vị trí người ta ngừng tay viết giây lát) thường xuất hiện nhiều nhất ở phần trên những chữ cái “a”, “e”, và “o”.

Trong cách viết cũng bộc lộ những dấu hiệu mắc các bệnh tâm thần cùng thiên hướng phạm pháp, bạo lực hoặc những hành vi chống đối xã hội khác. Đặc biệt dễ nhận ra chữ viết của người mắc bệnh tâm thần. Thường thông qua chỉ một đặc điểm, nhưng rất đặc trưng. Trong trường hợp Hitler, đó là chữ ký được viết gần như thẳng đứng. Người mẹ kẻ bị kết án đã sát hại ba con nhỏ của mình thì không có khả năng viết hai chữ “trái tim” và bà phải mô tả bằng hình vẽ…

Cho dù bạn tin hoặc không tin vào quan niệm “chữ ký thể hiện con người” thì cũng nên tham khảo xem để biết chữ ký của mình thuộc loại nào, ít ra cũng tránh được những chữ ký gây ấn tượng không đẹp.

Chữ ký được cho là có khả năng thu hút sự thịnh vượng và thành công của con người nếu nó bắt đầu bằng nét vững chắc hướng lên, kết thúc bằng nét đi lên mạnh mẽ. Bạn có thể tham khảo những nét chữ ký của những người nổi tiếng sau đây:

Barack Obama


Hành động theo logic và quy luật. Rất thận trọng. Trong mối quan hệ với người khác luôn quan tâm đến phép xã giao. Sự quan tâm vào phần dưới bên trái chữ viết đã chứng tỏ điều đó. Kết thúc kéo dài đuôi chữ bộc lộ tính cởi mở của Obama.

Bill Gates


Chữ ký Bill Gates thể hiện đặc tính nhanh nhẹn và quyết đoán, cả trong hoạt động cũng như tư duy. Đồng thời thấy rõ nội lực lớn, nhiệt huyết và ham muốn thực hiện mục đích đã đặt ra. Con người tự làm mệt mình, không bao giờ nghỉ ngơi.


Osama Bin Laden

Hành động vì tác động của mặc cảm thấp hèn. Tính hung hãn bắt nguồn từ khát vọng trả thù, nhiều khả năng cảm thấy bản thân bị ai đó hãm hại. Bin Laden lo sợ một cách hoảng loạn cái chết và có thể gặp khó khăn trong phân biệt sự thật và giả dối.


Adolf Hitler


Chữ ký đổ, gần như thẳng đứng. Điều đó cho thấy tình trạng tính khí suy sụp, thậm chí trầm cảm. Chữ đổ rõ rệt về phía bên phải là dấu hiệu cần sự gần gũi, nhiều khả năng với nhân vật cụ thể. Nét bút nhấn mạnh và làm dáng chữ “H” khẳng định nhu cầu tự chịu sự chi phối của hoàn cảnh cũng như nhu cầu thu hút sự chú ý vào mình. Họ tên khó đọc có thể là biểu hiện mặc cảm.


Albert Einstein


Những chữ cái trong chữ ký của Einstein liên kết với nhau, song cách nhau khá xa, tín hiệu cho thấy nhà bác học là con người phóng khoáng. Chữ viết nhuần và ngả về bên phải chứng tỏ Einstein quan tâm đến tất cả những gì hoạt động quanh mình. Gạch ngang chữ “t” đặt cao là dấu hiệu tự đặt cho bản thân những mục đích phấn đấu cực cao. Việc sử dụng duy nhất chữ cái đầu tên mình cho thấy tình cảm mạnh mẽ với gia đình và việc đặt nhu cầu của người thân lên trên nhu cầu của mình. 


 

  Lawrence Ellison, Giám đốc Điều hành của Tập đoàn Máy tính Oracle. Ông là người đàn ông có mọi thứ. Ông cũng được ví như một con mọt sách. Chữ ký ông cho thấy đây là một người có tài văn chương lưu loát.

Phần ngoắc của chữ cái "E" trong chữ Ellison rất điệu nghệ, nó thể hiện đây là một người linh hoạt và có khả năng tiếp thu. Các cổ đông PeopleSoft và nhà phân tích chữ ký Kurtz đều đồng ý rằng, nhiều chữ trong chữ ký của ông luôn thẳng đứng như muốn thể hiện rằng, đây là người có con mắt tinh đời và luôn thấu hiểu mọi thứ, song cũng khá bí ẩn. Hiếm ai biết được ông đang nghĩ gì, chuẩn bị làm gì.

 

Warren Buffett, Giám đốc điều hành của Berkshire Hathaway. Đây là nhân vật luôn đe dọa vị trí giàu nhất thế giới của Bill Gates. Theo Kurtz, Warren Buffett luôn là người bị thôi thúc trong công việc và cũng rất dễ bị xúc động.

Nhìn vào chữ  ký của nhân vật này chúng ta thấy phần gạch ngang sải thấp của chữ "f" thứ hai như muốn thể hiện rằng, ông  ta là một người tham vọng, và luôn bận rộn. Qua chữ ký của ông ta có thể biết rằng ông là người rất kỵ với những cổ phiếu công nghệ cao. Chữ "e" trong chữ Buffett mập mờ không rõ như muốn chứng tỏ rằng, ông là người có tinh thần mẫn tiệp song lại rất thân thiện. Các ý tưởng lớn từ người khác tới luôn được ông đón nhận, song ông lại thực hiện theo cách riêng của mình.

 

Steve Jobs, Giám đốc điều hành của Hãng Máy tính Apple. Nhìn vào chữ ký của vị lãnh đạo doanh nghiệp có mức lương cao nhất thế giới này ai cũng cảm thấy hấp dẫn và rất bất thường. Thứ nhất là chuyện ông không viết hoa chữ cái đầu của tên mình. Điều này hoàn toàn không phải là ông hạ thấp giá trị bản thân mà ông muốn tạo ra bản ngã riêng.

Một đặc điểm nữa là, qua chữ ký của Jobs mọi người dễ nhận ra những điểm  đứt dài trên đầu chữ "j" như muốn thể hiện rằng, đây là nhân vật có tính nóng vội. Chữ "t"  dài  trên đầu của vị giám đốc điều hành này cũng muốn thể hiện rằng, đây là nhân vật rất hài ước, những người viết lách hoàn toàn có thể lấy những lời châm chọc của Jobs ra để bình luận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chữ ký tiết lộ tính cách của các nhân vật nổi tiếng

Chùa Ngũ Xá - Hà Nội

Chùa Ngũ Xã có tên khác là Thần Quang tự hay Phúc Long tự. Chùa được dựng vào thời Hậu Lê, thế kỷ 18, thờ Phật và ông tổ nghề Đúc đồng Nguyễn Minh Không
Chùa Ngũ Xá - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Ngũ Xá tọa lạc ở số 44, phố Ngũ Xã, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, TP. Hà Nội. Chùa do Đại Đức Thích Chính Tín trụ trì. nên lấy tên Thần Quang theo tên một số chùa do vị quốc sư này sáng lập như chùa Cổ Lễ (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình),… Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Do bị hỏa hoạn nên năm 1949 được Hòa thượng Thích Mật Đắc cho xây dựng lại hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại, hoàn thành năm 1951.

Kiến trúc của chùa có Tam quan, chùa chính gồm 5 gian và điện thờ. Giữa điện có pho tượng Phật A Di Đà. Pho tượng đức Phật A Di Đà là một trong những sản phẩm của làng nghề đúc đồng Ngũ Xã và cũng là pho tượng thờ được nhắc đến nhiều nhất.

Tượng được đúc từ năm 1949 đến năm 1952, cao 3,95m, hai đầu gối cách nhau 3,60m, chu vi 11,60m, nặng 10 tấn. Tòa sen có 96 cánh, cao 1,45m, chu vi 15m, nặng 3,9 tấn. Chùa còn có lư hương bằng đồng nặng 300 kg, cao 0,76m và hai cây đèn bằng đồng, mỗi cây nặng 300 kg, cao 1,2m. Chùa còn lưu giữ 16 bia đá dựng từ năm 1919 đến năm 1947.

Hiện nay chùa Ngũ Xá do Đại Đức Thích Chính Tín – Ủy viên Ban trị sự THPG Hà Nội Trụ trì. Năm 1995, Chùa đã được Bộ Văn Hóa và Thông Tin xếp hạng di tích kiến trúc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Ngũ Xá - Hà Nội

Tướng mặt thoát ế trong lễ Thất Tịch có đặc điểm gì

Đâu là những tướng mặt thoát ế trong lễ Thất Tịch? Sắc trạch lông mày tốt, nhân duyên nhất định được cải thiện, vượng vận đào hoa, dễ dàng tìm được nửa kia ưng
Tướng mặt thoát ế trong lễ Thất Tịch có đặc điểm gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

–  Một trong những nét tướng mặt thoát ế lễ Thất Tịch là sắc trạch lông mày chuyển tốt. Ý chỉ màu sắc phần lông mày sáng bóng, lông mày mượt mà. Khi thấy dấu hiệu này xuất hiện, đồng nghĩa với vận đào hoa đang ngày càng khởi sắc. 

   Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm Phát hiện tướng mặt ông chồng đội vợ lên đầu

1. Sắc trạch lông mày chuyển tốt

  Một trong những nét tướng mặt thoát ế trong lễ Thất Tịch l(ngày 7/7 theo lịch âm) à sắc trạch lông mày chuyển tốt. Ý chỉ màu sắc phần lông mày sáng bóng, lông mày mượt mà. Khi thấy dấu hiệu này xuất hiện, đồng nghĩa với vận đào hoa đang ngày càng khởi sắc. Bởi lông mày còn được gọi là “Giao Hữu cung”, chủ về tình yêu và tình bạn.    Sắc trạch lông mày tốt, nhân duyên nhất định được cải thiện, vượng vận đào hoa, dễ dàng tìm được nửa kia ưng ý trong dịp lễ Thất Tịch. Thêm nữa, chủ nhân của tướng lông mày này còn sở hữu tấm lòng bao dung, rộng lượng, suy nghĩ tích cực, lạc quan, có chí tiến thủ nên chất lượng cuộc sống không ngừng tăng cao.  
Tuong mat thoat e trong le That Tich co dac diem gi hinh anh

 

2. Mắt nhìn có thần sắc

  Nếu sở hữu đôi mắt to, ánh mắt lại có thần sắc chứng tỏ nhân duyên, vận đào hoa của bạn rất vượng. Sức lôi cuốn mạnh mẽ lúc nào cũng lan tỏa từ phía bạn, ai nấy đều khó lòng mà “cưỡng” lại nổi.    Chủ nhân của tướng mắt này còn có tâm hồn trong sáng, tính cách vui vẻ, quảng giao. Nếu có thêm khuôn mặt hài hòa, ưa nhìn, dịp lễ Thất Tịch này sẽ là tâm điểm của mọi sự chú ý, không khó để thoát khỏi sự đeo bám của kiếp FA buồn tẻ. Bạn nên chủ động ra ngoài, gặp gỡ bạn bè để mở rộng quan hệ, tự tạo cơ hội kết thân với nhiều đối tượng khác giới, tình yêu sẽ đơm hoa kết trái.  

3. Xương gò má nhô cao nhưng đầy đặn

  Xương gò má đại diện cho vận trình tình cảm, nếu phần xương này nhô cao nhưng đầy đặn, nhiều thịt, chứng tỏ vận khí chủ nhân tốt, nhân duyên hài hòa, tình duyên thuận lợi. Nhất là vào dịp Thất Tịch, vận đào hoa vượng giúp bạn nhanh chóng tìm được tình yêu đích thực, chấm dứt đời độc thân buồn chán.

Tuong mat thoat e trong le That Tich co dac diem gi hinh anh

 

4. Mũi thẳng, miệng rộng

  Đàn ông mũi thẳng, miệng rộng thì tài vận và đào hoa vận đều tốt. Phụ nữ có nét tướng này đa phần có số vượng phu, giúp ích cho sự nghiệp của chồng. Đây đều là tướng mặt thoát ế trong lễ Thất Tịch, vận đào hoa rất vượng.   Người này ăn nói khéo léo, luôn giữ các mối quan hệ xã giao hài hòa, nên nhân duyên ngày càng tốt đẹp. Nếu đã ấp ủ mối tình với ai đó trong suốt thời gian dài mà chưa dám tỏ tình, Thất Tịch là dịp tốt để bạn “dốc bầu tâm sự”, thẳng thắn thể hiện tình yêu chân thành, tỷ lệ thành công rất cao.  

5. Hàm răng đều đặn

  Đa phần những ai có hàm răng đều đặn, sáng bóng thường ăn nói dễ nghe, có sức cuốn hút lạ kỳ. Hơn thế, họ còn biết lắng nghe người khác, không bao giờ có kiểu chen ngang “chặn họng”, ngược lại, nghe hết câu chuyện, tâm sự của mọi người, khiến ai nấy đều có cảm giác thoải mái, dễ chịu.    Vận đào hoa của người có tướng cách này khá vượng trong dịp Thất Tịch. Nếu bày tỏ tình cảm, tỉ lệ thành công rất cao.   
► Tham khảo thêm những thông tin về: Cúng Rằm tháng 7Lễ Vu Lan

Nam Anh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt thoát ế trong lễ Thất Tịch có đặc điểm gì

Lợi ích của thạch anh

Theo phong thủy, thạch anh được xem là vật khí tốt đẹp, mang lại nhiều ích lợi cho gia chủ.
Lợi ích của thạch anh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nên đặt thạch anh hình trụ tại góc tài lộc của phòng làm việc

Để tạo sự bình an và tăng tài vận cho gia đình, bạn có thể đặt thạch anh hình trụ ở các góc nhà. Tại góc tài lộc của phòng làm việc, nếu đặt thạch anh hình trụ sẽ có tác dụng tránh tà, chặn sát khí, giúp công việc tiến triển thuận lợi.

Nên bài trí thạch anh tím trên bàn học

Bạn nên đặt thạch anh màu tím hoặc màu phấn hồng tại quầy bán hàng để tăng tài lộc. Bài trí thạch anh tím trên bàn học giúp bạn phát huy năng lực trí tuệ và cải thiện thị lực. Thạch anh còn có tác dụng khử sóng từ phát ra từ máy tính, lò vi sóng... Bạn cũng có thể treo hoặc đặt thạch anh tại cửa nhà vệ sinh để giải uế khí.

Ngoài ra, thạch anh còn có tác dụng hóa giải hướng xấu cho ngôi nhà. Ví dụ, khi cửa nhà bạn đối diện với đường cái, trước cửa nhà có cây to, cột điện… hoặc vị trí nhà nằm ở góc đường hình chữ L, bạn có thể treo ở trước cửa ra vào một quả chuông gió được làm từ thạch anh.

(Theo Diaoconline)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi ích của thạch anh

Tử vi Nhâm Thìn phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Trong tử vi Nhâm Thìn là con rồng bay cao, thích kết giao quý nhân, khoan dung hiền hòa, vui vẻ, thích tiêu dao. Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tuyệt, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ. Thủy này nếu tọa cung Tài bạch, một đòi kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tử vi Nhâm Thìn là con rồng bay cao, thích kết giao quý nhân, khoan dung hiền hòa, vui vẻ, thích tiêu dao.

Trường lưu Thủy cuồn cuộn bất tuyệt, tất quy về phương Đông Nam, xuôi dòng tự quy về Thìn, Tỵ.

Thủy này nếu tọa cung Tài bạch, một đòi không được phú quý nhưng cũng không nghèo khổ. Tuy trong tay không có được số tiền lớn nhưng không bao giờ thiếu tiền dùng.

f0fe7e204an-2012.jpg

Nhâm Thìn là Thủy tự khố, nếu là hồ chứa nước đều ưa gặp Thủy. Duy có kỵ Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, Bính Tý Giản hạ Thủy, sinh vượng thái quá, là tượng tràn lan.

Nhân Thìn là Chính ấn, mang đức trong sáng. Ngưòi mệnh này có lòng bao dung, tâm sáng như gương. Sinh vào mùa xuân, hạ, đại phú đại quý; sinh vào mùa thu, đông, gian trá thất đức.

Thủy này ưa Kim sinh dưỡng như Tân Tỵ Bạch lạp Kim, Tân Hợi Thoa xuyến Kim, cũng ưa Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim và Nhâm Dần Quý Mão Kim bạc Kim.

Gặp Giáp Tý, Ât Sửụ Hải trung Kim; Giáp Ngọ, Ât Mùi Sa trung Kim cũng vô dụng.

Kỵ Thổ làm tắc nghẽn khô cạn, nhưng Thổ lại có công đắp đê, chỉ lấy Canh, Tân, Bính, Đinh là tốt; Mậu, Kỷ là không tốt.

Gặp Hỏa là tương hình, duy ưa gặp Đinh Mão Lư trung Hỏa, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa, ưa nhất gặp At Hợi Sơn đầu Hỏa.

Gặp Mộc, lấy Quý Sửu Tang đố Mộc làm núi, Quý Mùi Dương liễu Mộc làm vườn, tọa thời trụ là Thủy nhiễu hoa đề cách, chủ hiển quý.

Ưa Quý Hợi Đại hải Thủy, gọi là Long diệu thiên môn cách.

Trụ khác nên gặp Kim là tốt, mệnh nữ dung mạo xinh đẹp, thông minh.

Chi khác không ưa gặp Tuất, kỵ nhất Mậu Tuất là phạm hình xung, xung thì Thủy tất sẽ bị tràn lan, chủ hung tai. Mệnh nữ khắc chồng, mệnh nam một đời phiêu bạt, còn chủ con cái duyên mỏng.

Nhâm lộc tại Hợi, ưa chi khác có Hợi, chủ phú quý.

Nhâm Quý tại Mão, ưa chi khác có Mão, chủ cát lợi.

Người sinh năm Nhâm, Văn xương tại Dần, chi khác có Dần, có thể học mệnh lý, làm thầy giáo hoặc hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.

Chi khác có Thìn, phạm hình, chủ là ngưòi cô” chấp thiên kiến, nông cạn, vợ chồng duyên mỏng. Nếu tọa thời chi nên nương nhờ cửa Phật. Kỵ nhất gặp Canh Thìn, Mậu Thìn.

Gặp năm Thìn, Tuất, trong nhà không yên ổn, không hại đến bản thân cũng hại đến người nhà.

Nếu Địa chi của ngũ trụ có Thìn, nam khắc vợ, nữ khắc chồng.

Bạn đời nên tìm người sinh năm Bính, Đinh. Không nên gặp người sinh năm Mậu, Kỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Nhâm Thìn phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Luận về Cô Thần-Quả Tú

1- Cô Quả tại MỆNH + THÂN Bình thường , nếu hai sao này chiếu Mệnh, Thân thì đúng như các sách Tử-Vi đã ghi, nghĩa là chủ về cô đơn, khắt khe, lạnh lùng, kỹ tính, câu nệ, đa nghi … Nhiều khi còn phân biệt : Nam Cô, Nữ Quả cho rằng : “Nam phạm Cô Thần thê ly biệt, Nữ phùng Quả Tú độc phòng chung” . Nghĩa là : đàn ông kỵ Cô Thần, đàn bà kỵ Quả Tú đóng tại Mệnh.
Luận về Cô Thần-Quả Tú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhưng tôi nghiệm thấy rằng, vì hai sao này bao giờ cũng chiếu nhau trong thế tam hợp, nên Mệnh, Thân nếu có hai sao trên thì dù là sao nào khác cũng vẫn bị ảnh hưởng nặng nhẹ, ít nhiều theo những nghĩa trên đây. Tôi chưa thấy một người đàn bà nào cung Mạng có Cô Thần mà sung sướng, hạnh phúc về tình cảm, về hôn nhân. Cũng chưa thấy một người đàn ông nào có Qủa Tú an mệnh mà hài lòng về hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng (trừ một số trường hợp đặc biệt ). Đấy là chưa kể tới trường hợp gặp thêm sao Vũ Khúc hoặc Lộc-Tồn là những sao cũng chủ về cô đơn, lạnh lùng.
Chỉ có một sự khác biệt nhỏ là nếu gặp đúng sao kị mình thì thời gian trắc trở, hoặc xa cách dài hơn, hoặc đau thương hơn. Ngòai ra tôi cần nói thêm rằng khi Mệnh, Thân đã có một trong hai sao này thì đừng ham sao Đào Hoa đồng cung để chế hóa bớt. Vì như thế còn tăng thêm sự khó khăn về tình bạn, tình yêu, hôn nhân, đây là cách ” Đào Hồng Cô Quả ” rất không tốt, người như bị vô duyên.

Hãy mong Đào Hoa ở cung khác để vớt vát được phần nào trong lĩnh vực tình cảm như ở Thiên Di, Nô bộc. Nếu trường hợp trên có thêm Hóa Kị đồng cung nữa thì thực là bất hạnh, vì sẽ trở thành người đồng tình luyến ái …
Như vậy cho rằng hai sao Cô Qủa an chiếu Mệnh, Thân tòan là xấu chăng ?! Xin thưa ngay là không. Nếu bạn gặp trường hợp Cô-Qủa hội đủ bộ sao tốt, quyền qúy như bộ : Tử-Phủ, Vũ-Tướng, Quang-Qúy, Long-Phượng, Khôi-Việt, Khoa, Quyền, Lộc … thì phải nói rằng Cô-Qủa đã đứng đúng chỗ, đã có môi trường làm cho công danh của mình lên cao mạnh mẽ. Đó là cách Vua, chúa, lãnh tụ, chỉ huy … ( Vua, chúa ngày xưa, nhất là trong các truyện Tàu, thường tự xưng là cô-gia hoặc qủa nhân), nhưng có điều là độc tài thái qúa, vì hai sao này (Cô-Qủa) lúc đó chủ về “ duy ngã độc tôn” rồi. Còn vần đề cô đơn thì gần như không có xảy ra, vì Cô-Qủa đã có môi trường khác (Vua chúa ngày xưa có bao nhiêu cung tần mỹ nữ, không có lẽ còn bị cô đơn).

2- Cô Quả tại PHỤ-MẪU
Nhiều người coi số Tử-vi cho rằng hai sao này khi ở cung Phụ-Mẫu có nghĩa là cha mẹ ít khi sống gần nhau, hoặc dễ bị ly dị, nhưng theo kinh nghiệm riêng tôi nhận thấy trường hợp cung Phụ-Mẫu có Cô-Qủa thường chủ về :
a. Cha hoặc Mẹ có ít anh, em trai (không thể gái) nhất là khi có thêm Vũ-Khúc hoặc Lộc-Tồn đồng cung. Nếu có Thái Dương đồng cung thì chắc chắn Cha ít anh, em trai. Nếu có Thái Âm thì chính Mẹ ít anh, em trai. Nếu gặp Không Kiếp hội toạ thì cha là con độc nhất ( sinh đa dưỡng thiểu)
b. Cha hoặc Mẹ là con trưởng trong gia đình, trong trường hợp có nhiều em trai, nhất là khi có Tử-Vi hoặc Thiên Phủ hội Hóa Quyền, hoặc Khội-Việt đồng cung. Về điểm muốn phân biệt Cha hoặc Mẹ thì có vị cho rằng khi Tử-Vi hoặc Thiên Phủ cư cung Dương thì Cha là con trưởng, còn cư cung Âm là Mẹ. Tuy nhiên điểm này tôi nghiệm thấy không đúng mấy. Chỉ để đóan khi có Nhật hay Nguyệt. Nếu 4 sao trên đều không có thì hơi bí.
Trường hợp cả hai điểm trên đây đều không ứng nghiệm, thì đành phải đóan rằng lúc đương số ra chào đời, cha mẹ bị tang tóc hoặc xa cách nhau một thời gian ngắn, nhất là khi có Thiên Mã ngộ Tuần Triệt. Nếu có Thái Dương thì Cha đi xa hay có tang. Nếu có Thái Âm thì chính là Mẹ. Còn Nhật Nguyệt đồng cung thì tùy theo sinh ngày hay đêm, nhưng trong trường hợp này lại không bao giờ có Thiên Mã vì Mã chỉ cư Dần, Thân, Tỵ, Hợi chứ không cư Sửu-Mùi được.

3-Cô Quả tại PHÚC-ĐỨC

Về cung này, các sách đều nói là trong dòng họ hiếm người, nhưng tôi nghiệm thấy nhiều trường hợp, không phải hiếm người mà thực ra vì dòng họ phân tán đi các nơi khác nên mới hiếm, hoặc là có trường hợp không phân tán, thì mạnh ai người ấy sống !? chẳng ai giúp ai được điều gì, anh em “kiến giả nhất phận”. Ngoài ra cần nói thêm rằng : Nếu có thêm Đào, Hồng, Nhật, Nguyệt hội chiếu thì phải đóan rằng trong giòng họ có nhiều đàn bà hiếm con trai, hoặc sống trong cảnh góa bụa , độc thân suốt đời ! Tôi chưa nghiệm được sao gì thì chủ về đàn ông trong giòng họ bị như vậy. Tuy có vị cho rằng khi có sao Nam Đẩu tinh (chính tinh) thì chủ về đàn ông, nhưng nhiều khi sai .
Cũng vì hai sao này có ý nghĩa nêu trên, cho nên khi cung Phúc-Đức của mình, nếu có Cô-Qủa thì tuyệt đối mình không nên sống chung đụng với họ hàng, kể cả anh em ruột thịt để tránh sự hiềm khích, va chạm, có thể đi tới chỗ tuyệt tình. Ở xa thì hai sao này đã có môi trường họat động nên trong giòng họ có thể thuận hòa với nhau được, tuy không ai hết lòng với ai.

4- Cô Quả tại ĐIỀN TRẠCH
Tôi nhận thấy sách nào cũng chỉ nói rằng : Cô-Qủa rất lợi ích cho cung Điền Trạch và Tài Bạch mà thôi nhưng tôi cho rằng cần phải phân biệt lợi hại ra sao :
– Nếu Cô-Qủa hội với nhiều sao tốt như Vũ-Khúc, Thiên Phủ, Hóa Quyền, Long-Phượng, Thai-Tọa, Khôi-Việt, Đào-Hồng … (nhưng cần Mệnh là Hỏa hoặc Thổ mới tốt) thì có nghĩa là mình có biệt thự khang trang, nguy nga, đồ sộ, có vườn cây xung quanh, ở nơi thanh tịnh, biệt lập. Vì Cô-Qủa lúc đó ứng vào cô gia và vẫn có nghĩa giữ vững được nhà cửa lâu dài. Như thế mới thực là tốt đẹp. Cũng có khi ứng vào việc mua bán nhà với một người góa hoặc được thừa hưởng tài sản nhà cửa của chú bác, cô gì … không có con thừa tự (với điều kiện cung Điền có chính tinh tốt và hợp Mệnh, đồng thời không bị Tuần-Triệt án ngữ)
– Còn trường hợp Cô-Qủa hội với các sao xấu, hãm địa, khắc Mệnh và Thân. Cung Tài, Quan cũng không tốt thì thực là bất hạnh, nghĩa là mình phải ở một căn nhà lụp xụp, vừa ở nơi hẻo lánh, xa xôi (như vùng ngọai ô chẳng hạn) mà lại, không bao giờ bán đi được, như thế chứng tỏ là mình nghèo hèn suốt đời. Vì vậy đừng có thấy Cô-Qủa cư Điền-Trạch đã vội mừng.

5- Cô Quả tại QUAN-LỘC
Tôi không thấy trong các sách Tử-Vi nói đến Cô-Qủa ở cung Quan-Lộc một cách rõ rệt, do đó tôi lấy kinh nghiệm riêng mà bàn với qúy bạn như sau :
– Bình thường Cô-Qủa ở cung Quan chủ về nơi mình làm việc không có những người đồng liêu, hoặc đồng nghiệp, đồng chí hướng với mình, mà đa số đều ích kỷ, hay dấu nghề, giấu việc … Nếu không thì chính những người trên của mình đều khắt khe, tỉ mỉ qúa làm cho mình mất hết tự do, sáng kiến (Gặp trường hợp này mà xin thăng cấp, tăng lương chắc hơi khó và hơi lâu !…?).
– Bù lại, Nếu Cô-Qủa gặp các sao quyền qúy như Hóa-Khoa, Hóa-Quyền, Hóa-Lộc, Tướng-Ấn, Long-Phượng, Quang-Qúy, Thai-Tọa, Khôi-Việt, Tả-Hữu … thì lại rất tốt, như thế có nghĩa mình làm chức lớn ngồi riêng một văn phòng, đẹp đẽ, khang trang (như bây giờ thì có máy lạnh là cái chắc !?..), không phải ngồi chung với nhân viên, có gì cần là bấm chuông gọi.

6- Cô Quả tại NÔ-BỘC
Thường thường, cung Nô-Bộc, nếu có bộ sao Cô-Qủa chiếu có thể được giải đóan như sau :
– Nếu không hợp chiếu với nhiều sao tốt của mình thì nên dùng những người dưới quyền góa bụa, độc thân, thì họ trung thành hơn. Nhất là trường hợp có thêm : Thiên Hình, Đẩu Quân thì lại càng chắc nữa, những người này cần phải có mang tật gì ở thân thể (như vết thẹo ở mặt, chân tay, mắt lé, thọt chân …) thì họ sẽ trở thành những người dưới quyền có lương tâm, làm ăn cẩn thận.
– Nếu hội với nhiều sao tốt, nhất là có thêm Hóa Quyền, thì người dưới tay hay âm mưu phản phúc, lấn quyền một cách khéo léo, gián tiếp (vì lúc đó Cô-Qủa chủ về thâm trầm, ích kỷ, kín đáo … )
– Nếu hội với Nhật-Nguyệt, lúc mình xa cơ thất thế, chẳng có đàn em nào giúp đỡ, đoái hòai tới, nhất là có thêm Hóa-Kị mà không có sao nhân hậu hội chiếu như Thai-Tọa, Tả-Hữu, Quan-Phúc.

7- Cô Quả tại THIÊN-DI
Thường thường, những người có địa vị cao trong xã hội, ít khi có sao Cô-Qủa chiếu Thiên-Di, vì những sao này chủ về vấn đề ngại tiếp xúc, ít quan hệ, giao dịch, giao thiệp, ít người cộng tác hoặc là chính mình không ưa giao thiệp rộng. Ngòai ra về phương diện tình cảm, nếu Cô-Qủa chiếu Thiên-Di lại hội với Đào-Hoa, Hóa-Kị thì hết hy vọng chinh phục được những người khác phái, dù cho mình đẹp trai hoặc có nhan sắc diễm lệ (đối với nữ) chăng nữa. Tôi đã từng được coi những người Mệnh có nhiều sao thu hút được người khác phái (như Tham-Lang, Đào, Hồng, Hỷ, Quang-Quý, Thanh-Long … ) mà lúc nào cũng bị thất bại trong vấn đề chinh phục người yêu, chỉ vì cung Thiên-Di có Cô-Qủa (nếu có thêm Hóa-Kị nữa thì càng đúng). Có chàng chinh phục được thì lại bị người yêu bỏ đi lấy chồng !.., vì gia đình bắt buộc. Có nàng làm cho ý trung nhân say mê mình được thì đùng một cái bị một cô khác đẹp hơn cuớp (!?) mất chồng tương lai của mình … Vì vậy thanh niên nam, nữ bây giờ, nếu muốn có tài thu hút ở ngòai xã hội thì phải tránh được hai sao Cô-Qủa chiếu Thiên-Di. Thà rằng hai sao này chiếu Mệnh còn đỡ hơn, vì rằng như thế mình chỉ cô đơn khi ở nhà, còn khi bước chân ra ngòai là hấp dẫn (Nếu Thiên-Di có Đào-Hoa chẳng hạn).

8- Cô Quả tại GIẢI-ÁCH

Vì Cô-Qủa là các sao tiết chế, giới hạn nên khi chiếu cung Giải-Ách lại thành ra hay, có nghĩa là mình ít bệnh tật, tai nạn, nhất là khi hội với Thiên-Không lại càng tốt thêm nữa. Tuy nhiên vì hai sao này vẫn có tính cách duy trì, gìn giữ nên mình vẫn dễ bị những bệnh tuy không hiểm nghèo, nhưng triền miên suốt đời mà người ngòai không nhận thấy …!?
Ví dụ : Như hội với Hóa-Kị (tượng trưng cho bộ tiêu hóa, ruột .. trong cơ thể người) lại thêm Song-Hao thì nhất định phải đeo bịnh, đau bụng, khó tiêu … vì Cô-Qủa dù là Hỏa hay Thổ cũng đều không hợp với Hóa-Kị là Thủy.
Ngòai ra những điểm nêu trên, Cô-Qủa chiếu Giải-Ách còn chủ về vần đề ưu tư trong thâm tâm, những nỗi buồn xa xôi mà chỉ có tiềm thức của mình mới nhận thấy và nhiều khi mình lại khó khăn với chính mình.

9- Cô Quả tại TÀI-BẠCH
Trong khi Hóa-Khoa được tôn là đệ nhất giải thần thì Cô-Qủa được tôn là thần giữ của, cho nên ở cung Tài-Bạch là hợp. Đó là một nhận định chủ quan qúa, vì tôi đã nghiệm thấy những người muốn buôn to bán lớn cần phải có sự hùn hạp, hợp tác với người khác về tiền tài, nếu có Cô-Qủa thì cứ khư khư giữ tiền thì làm sao có thể khuếch trương lớn, như vậy chỉ có thể giới hạn trong một tiệm buôn nhỏ hoặc một lĩnh vực quy mô nhỏ mà thôi. Nếu may ra có Phá-Quân (cứ Tý, Ngọ mới tốt) hoặc Song-Hao hội chiếu lại rất hay, vì như thế mỗi khi mình muốn tung tiền ra kinh doanh, bao giờ cũng chắc ăn, thận trọng nhờ sao Cô-Qủa.

Tuy nhiên đối với những người không có đầu óc thương mại, nếu có Cô-Qủa lại hội với với Thiên Phủ, Vũ Khúc (đều tượng trưng cho kho chứa), Tướng-Ấn, Tả-Hữu, Thai-Tọa … thì lại chủ về những người chuyên về giữ tiền bạc, tài chính (ngày nay gọi là kế tóan viên, thủ quỹ, thu ngân, tín dụng …). Nếu có thêm Song-Lộc và một số cách tốt nữa có thể làm chủ một Ngân Hàng. Nếu qúy bạn làm giám đốc một Công ty, Xi nghiệp …. hoặc thủ trưởng một cơ quan nào đó thì nên giao cho những người có cách này giữ két bạc thì chẳng những sợ thất thóat gì, sai lầm với điều kiện đừng có : Hỏa-Linh, Không-Kiếp đi với Tham Lang chiếu cung Tài-Bạch của những người đó.

10- Cô Quả tại HUYNH-ĐỆ
Về cung này tôi chưa tìm ra được điểm gì khác lạ, chỉ có điểm là anh em không nên sống gần nhau, hoặc phải có người sống xa cách hẳn vì ngọai cảnh gây nên (như vấn đề cuộc sống anh em kẻ Nam người Bắc chẳng hạn) Ngòai ra hai sao này cũng tiết chế bớt số anh chị em. Nếu có Đào-Hồng, Thiên Không thì chị em gái dễ bị dở dang, trắc trở nhiều lần về hôn phối, hoặc lấy chồng không cưới hỏi.

11- Cô Quả tại TỬ-TỨC
Chiếu cung Tử-Tức, Cô-Quả thường chủ về một trong những điểm như sau :
– Khi sinh con nuôi dưỡng. chắm bẵm con cái vất vả, chúng khó ăn, khó ngủ, hay quấy khóc….Con cái lúc mới sanh, nhất là đối với đứa đầu lòng thường hay bị ốm đau, bệnh tật hoặc là tai nạn làm cho cha mẹ phải lao tâm, khổ sở, lo lắng. Tuy nhiên khi lớn lên ( ngoài 5 tuổi ) thì vẫn dễ nuôi, nếu không có thêm hung sát tinh. Một số trường hợp nếu thêm hung sát tinh thì con cái còn bị mắc một số tật nhẹ như là mắt lác, mắt kém, chân hoặc nách có mùi hôi, ra mồ hôi tay nhiều….
Về điểm này có câu phú :”Cô Thần Qủa Tú hai saoGian truân vất vả về phần nhi sinh”.
– Sinh con muộn nghĩa là cha hoặc mẹ lập gia đình ở độ tuổi cao ( ngoài 32 tuổi trở ra) hoặc lập gia đình ở độ tuổi trung bình nhưng thời gian lâu mới có con .
– Thận trọng và hay kiêng cữ để tiết giảm sinh đẻ. Những cặp vợ chồng nào có Cô-Quả tại cung Tử-Tức, có thể áp dụng mọi phương pháp hạn chế sinh đẻ một cách hữu hiệu mà không trái số. Nếu thêm các sao như Không Kiếp, Hoả Linh,…thì đừng kiêng cữ kẻo bị tuyệt tự.
– Nếu có nhiều sao văn học, quyền qúy, con cái khi lớn lên hay ở xa cha-mẹ, vì chức vụ hoặc ngay trong thời gian đi học cũng dễ xuất ngọai hoặc ở nội trú

12- Cô Quả tại THÊ-THIẾP (hay PHU-QUÂN)

Cũng giống như trường hợp tại cung Phụ-Mẫu, Cô-Qủa ở cung Thê-Thiếp (hay Phu Quân) chủ về người vợ (hay chồng) ít anh em trai hoặc làm con trưởng trong gia đình, chậm hôn nhân hay kén chọn bạn đời … Ngòai ra hai sao này còn có nghĩa là vợ chồng, hay có thời gian xa cách nhau. Nếu có sao tốt là vì công vụ nghề nghiệp, nếu có nhiều sao xấu vợ chồng có thể bị cảnh chia ly vĩnh viễn. Trong trường hợp có sao tốt mà vợ chồng không bao giờ xa cách nhau thì phải hiểu rằng vợ chồng giữ gìn nhau rất chặt chẽ, khó lòng có chuyện ngọai tình nổi và nhất là cả đôi bên cùng độc đóan, cương quyết và đa nghi.
Nếu có Đào-Hồng đồng cung thì rất có thể gặp phải người dở duyên (nghĩa là có vợ hoặc chồng rồi) đang ở góa hay người đó lớn tuổi hơn nhiều bị trục trặc trên vấn đề tình cảm …… (Nếu gặp thêm Không, Kiếp đồng cung, Tả-Hữu … thì càng chắc chắn) Trường hợp Đào-Hồng tại Mệnh-Thân thì rất khó kết hôn sớm, hoặc có sớm cũng không bền, như sương đọng ban mai mà thôi. Đây mới đúng là cách “Trăm mối tối nằm không“ . (Trừ trường hợp khi cung Mệnh, Thân, Phúc và có nhiều sao tốt hóa giải khác)

Tóm lại hai sao Cô Thần Quả Tú rất khắt khe, cô độc. Không nên trú đóng ở mệnh, thân hoặc các cung chỉ người như tử tức, phu thê, huynh đệ. Chỉ có Thiên Quan, Thiên Phúc cùng hội chiếu hoặc Ân Quang, Thiên Quý đồng lai mới có thể hoá giải được những bất lợi của Cô Quả.


Từ điển về tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Cô Thần-Quả Tú

Kiêng kỵ với bàn ăn

Có nhiều điều cần lưu ý về mặt phong thủy đối với bàn ăn nhà bạn.
Kiêng kỵ với bàn ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn ăn là nơi các thành viên sum họp, quây quần. Nó có ảnh hưởng lớn đến bầu không khí cũng như tâm trạng của mọi người. Vì thế, khi sắp xếp cần lưu ý một số điều sau.

1. Xà nhà không nên trực tiếp đè lên bàn ăn

Khi bàn ăn nằm trực diện ngay dưới xà nhà sẽ gây cảm giác đè nén, nặng nề, khiến tinh thần bất ổn. Vì thế, nên dịch chuyển bàn ăn khỏi vị trí đó. Trong trường bất khả kháng, nên treo quả hồ lô bên dưới để hóa giải.

2. Bàn ăn không nên thẳng với cửa lớn

Phong thủy có câu: "Hỉ hồi toàn, kỵ trực xung" (thích vòng quanh, kỵ thẳng). Nếu bàn ăn phạm phải nguyên tắc này sẽ khiến khí tốt trong nhà dễ dàng thoát ra ngoài. Ngoài ra, nếu bàn ăn thẳng hàng với cửa lớn, chỉ cần đứng bên ngoài có thể nhìn thấy mọi thành viên đang dùng bữa. Điều này cũng không hợp mỹ quan.

Cách tốt nhất là dịch chuyển bàn ăn sang vị trí khác hoặc dùng bình phong, vách chắn ngang để che chắn bớt.

3. Bàn ăn tối kỵ đối diện nhà vệ sinh

Theo phong thủy, nhà vệ sinh là nơi sinh ra khí độc. Nếu để nó đối diện với bàn ăn sẽ tạo tâm lý không tốt khi ăn, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe mọi người.

Nếu không thể di dời bàn ăn, nên đặt giữa bàn bồn nước nhỏ. Trong đó đặt chậu trúc khai vận để hóa giải xú khí.

4. Bàn ăn không nên đặt đối diện với bàn thờ

Đây là không gian linh thiêng thờ phụng tổ tiên, thần thánh. Vì thế, không nên sắp đặt bàn ăn tại đây nhằm đảm bảo sự tôn nghiêm, tĩnh lặng cho nơi thờ cúng và mang lại cảm giác tự do, thoải mái cho người ăn.

5. Bàn ăn không nên quá lớn

Một số người thích bàn ăn có kích cỡ lớn. Tuy nhiên, phải căn cứ theo diện tích căn phòng để bố trí cho phù hợp. Ngoài ra, diện tích bàn quá lớn sẽ tạo khoảng cách, khó tạo không khí ấm cúng, quây quần giữa các thành viên. 

(Theo Phong thủy sắp xếp nhà ăn, nhà bếp, phòng tắm)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ với bàn ăn

Không khó để có một phòng khách nhỏ gọn gàng

Đừng ngại nếu diện tích phòng khách nhà bạn hơi "khiêm tốn". Những lời khuyên về cách bài trí cũng như lựa chọn nội thất dưới đây sẽ giúp phòng khách nhỏ của bạn trông gọn gàng, đẹp mắt và rộng hơn diện tích thực.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Chọn nội thất kích cỡ vừa phải   Để căn phòng khách nhỏ hẹp trở nên ngăn nắp và gọn gàng, điều đầu tiên bạn cần ghi nhớ là hãy sử dụng đồ nội thất nhỏ gọn. Ví dụ, thay vì bộ bàn ghế gỗ giả cổ cồng kềnh bạn nên dùng bàn ghế có thiết kế mảnh và hiện đại, thay vì bộ sofa phong cách Châu Âu cầu kỳ, hãy sử dụng những bộ sofa nhỏ, vừa với căn phòng. Điều này sẽ giúp cho không gian của bạn trở nên thoáng và không tạo cảm giác bị "rối" mắt.   Lựa chọn cho căn phòng của gia đình một chiếc ghế sofa hiện đại, đơn giản.   Lựa chọn màu sắc nội thất   Những màu sắc rực rỡ như đỏ, cam, đen tuy nổi bật và hiện đại nhưng lại tạo ra hiệu ứng phân vùng rõ rệt và khiến căn phòng nhỏ chật hẹp hơn. Bởi vậy điều bạn cần lưu ý khi lựa chọn nội thất cho phòng khách nhỏ là nên chọn những vật dụng có màu trắng hoặc pastel. Ngoài ra, bạn cũng có thể sử dụng các họa tiết dọc bởi chúng sẽ làm cho không gian của bạn có vẻ lớn hơn một chút so với thực tế.   Chọn đồ nội thất có họa tiết kẻ để tạo cảm giác "rộng rãi" thêm cho ngôi nhà.   Thay bàn nước bằng ghế nhỏ   Một bộ bàn ghế tiếp khách truyền thống thường có 1 chiếc ghế sofa dài, một hoặc hai ghế phụ và một bàn trà nhỏ. Tuy nhiên với phòng khách nhỏ, để tiết kiệm không gian, bạn có thể thay chiếc bàn cồng kềnh bằng một chiếc ghế dài nhỏ xinh. Khoảng không gian dư ra sẽ giúp bạn dễ dàng bổ sung chỗ ngồi cho khách đến chơi nhà.   Sử dụng một chiếc ghế để đồ thay vì dùng bàn trà to và rộng.   Tăng diện tích lưu trữ bằng nội thất đa năng   Thời đại của nội thất đa năng và những ý tưởng sáng tạo đã mang lại cho bạn những giải pháp hoàn hảo cho không gian sống nhỏ. Chiếc bàn cafe tích hợp nhiều ngăn nhỏ để lưu trữ đồ hay chiếc ghế có ngăn trống ở giữa là những món đồ bạn có thể tham khảo để giải bài toán không gian lưu trữ cho phòng khách.   Chiếc ghế ngồi đồng thời cũng là hộc chứa đồ.   Sử dụng nội thất có thể gấp gọn   Không gian tiếp khách là rất cần thiết cho dù ngôi nhà của bạn có nhỏ đến thế nào. Nếu bạn không thể bố trí được một khoảng diện tích cố định để kê bàn ghế tiếp khách, hãy sử dụng các loại bàn ghế gấp để nhanh chóng bổ sung chỗ ngồi cho khách khi cần. Sau khi sử dụng bạn chỉ cần gấp gọn, cất chúng đi và tái sử dụng không gian này vào mục đích khác. Những loại bàn ghế gấp như vậy hiện có rất nhiều trên thị trường với giá không quá cao.    Những chiếc ghế xếp là lựa chọn tối ưu cho không gian nhỏ hẹp.

(Theo TTVN)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không khó để có một phòng khách nhỏ gọn gàng

Thở dài, rên la nhưng chưa chắc đã là đau khổ

Mơ thấy mình thở dài hoặc thấy tiếng rên la trong giấc mơ thì bạn chớ vội buồn, tuy phần lớn là điềm báo hung vận nhưng vẫn có rất nhiều cát mộng.
Thở dài, rên la nhưng chưa chắc đã là đau khổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

► Tham khảo thêm: Giải mã giấc mơ và những điềm báo hung cát

Tho dai, ren la nhung chua chac da la dau kho hinh anh
Ảnh minh họa
 
Đàn ông mơ thấy có người thở dài - ngụ ý có người âm thầm phá hoại sự nghiệp của bạn khiến công việc gặp trắc trở, nếu bạn muốn giải quyết vấn đề thì phải hòa giải với đối phương.


Mơ thấy mình thở dài là bạn sẽ gặp phải tình huống khó khăn, nhưng tình hình đổi hướng mang lại rất nhiều thuận lợi, khiến bạn vô cùng vui mừng, nó cũng ngụ ý mong muốn tìm bạn bè giúp đỡ của bạn.


Mơ thấy mình phát ra tiếng kêu khi đang làm chuyện đó (sex) - sẽ có hai trường hợp là:

- Nếu là tiếng rên vui vẻ thì nó ngụ ý bạn thỏa mãn với mọi việc hiện tại, tình yêu sự nghiệp đều thuận lợi;

- Nếu đó là tiếng kêu đau khổ thì nó cho thấy cuộc sống của bạn đang gặp nhiều vấn đề rắc rối.


Giải mã giấc mơ ngủ kép
Đôi khi trong giấc mơ, chúng ta mơ thấy mình đang ngủ, có thể gọi là ngủ trong ngủ hay ngủ kép, giấc mơ này có thể là cát mộng nhưng cũng có thể là ác mộng tùy

Mơ thấy mình vì bị giày vò mà phát ra tiếng than đau khổ dự báo mọi khó khăn sẽ sớm qua đi, cuộc sống tươi đẹp sắp tới, đây là lúc cần bạn bè giúp đỡ.


Mơ thấy mình bị bệnh nên phát ra tiếng rên đau đớn thì nếu bạn là người bệnh thì không lâu nữa sẽ khỏe mạnh trở lại.


Phụ nữ mơ thấy có người rên là chuyện cưới xin có đôi chút trở ngại, nên sớm đề phòng.


Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thở dài, rên la nhưng chưa chắc đã là đau khổ

Văn Khấn Nhập trạch dùng trong lễ Nhập Trạch

Văn Khấn Nhập trạch dùng trong lễ dọn vào nhà mới, có thể là nhà tự xây cất hoặc ngôi nhà mới mua là lễ quan trọng trong nghi lễ cổ truyền của người Việt.
Văn Khấn Nhập trạch dùng trong lễ Nhập Trạch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Nhập trạch dùng trong lễ Nhập Trạch (lễ dọn vào nhà mới, có thể là nhà tự xây cất hoặc ngôi nhà mới mua) là một nghi lễ quan trọng trong nghi lễ cổ truyền của người Việt. Bởi vậy khi dọn về nhà mới gia chủ phải tuân thủ các qui định cổ truyền là:

– Chọn ngày giờ tốt để dọn đến nhà mới.

– Đồ đạc phải do người trong gia đình tự tay dọn chuyển mang đến nhà mới.

– Bài vị cúng Gia Thần, Tổ Tiên phải do gia chủ tự tay cầm đến nhà mới. Còn những người khác trong gia đình thì đi theo sau, tay cầm tiền của mang đến nhà mới. Thời gian chuyển nhà tốt nhất là vào buổi sáng, giữa trưa hoặc lúc mặt trời mới bắt đầu lặn, tránh chuyển nhà vào buổi tối.

Sắm lễ cúng Nhập trạch

Mâm lễ dâng Thần linh, Gia Tiên ngày nhập trạch được bày biện trang trọng gồm: Trầu cau, hương, hoa, vàng mã, mùa nào quả ấy, bánh kẹo và mâm lễ mặn: rượu, thịt, xôi, gà…

Khi vào nhà mới, vật đầu tiên mang vào nhà là cái chiếu hoặc đệm đang sử dụng, sau đó là bếp lửa (bếp ga, bếp dầu), không nên mang bếp điện vì bếp điện có tinh và không có tướng (tức chỉ có nhiệt mà không có ngọn lửa), chổi quét nhà, gạo, nước…… lễ vật để cúng Thần linh trước để xin nhập trạch và xin phép Thần linh rước vong linh Gia tiên về nơi ở mới để thờ phụng.

Lễ vật được để lên bàn, mâm, kê theo hướng đẹp với gia chủ. Tự tay gia chủ thắp nhang vào một bát nhang làm tạm thời. Thắp nhang và khấn lễ Thần linh xin nhập vào nhà mới, tiếp ngay sau đó gia chủ châm bếp và đun nước.

Đun nước mục đích là để khai bếp, pha trà dâng Thần linh và Gia tiên. Nếu có khách, có thể lấy nước đó mời khách.

Nếu chỉ nhập trạch lấy ngày tốt chưa có nhu cầu ở ngay thì gia chủ phải ngủ một đêm ở nhà mới.
Sau khi khấn Thần linh xong, gia chủ làm lễ cáo yết Gia tiên rồi nới dọn dẹp đồ đạc.

Sau khi dọn xong, để cầu bình yên, toàn gia phải tổ chức lễ bái tạ Thần Phật, các vị Thánh thần và Tổ tiên…

Người có chửa thì tốt nhất không nên dọn nhà. Trong trường hợp cấp bách không thể không dời nhà, nên mua một cái chổi mới tinh, để đích thân người chửa quét qua các đồ đạc một lượt rồi mới chuyển.

Như vậy mới không phạm tội ”Thần thai”

Những người giúp dọn nhà không được là người cầm tinh con Hổ.

Theo ông bà ta xưa, đây là một số phép tắc giữ gìn sự hanh thông, bình an cho mọi nhà, bách bệnh không phát sinh, tài vận tiến đến, cả nhà vui vẻ.

Văn Khấn Nhập trạch

Gồm 2 phần:

1. Văn khấn Thần Linh

Nam mô a di Đà Phật! ( 3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười Phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy Các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.

Tín chủ (chúng) con là:………….

Hôm nay là ngày….. tháng…. năm…. tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án. Trước bản tọa chư vị Tôn thần tín chủ con kính cẩn tâu trình:

Các vị Thần linh,
Thông minh chính trực,
Giữ ngôi tam thai
Nắm quyền tạo hóa
Thể đức hiếu sinh
Phù hộ dân lành
Bảo vệ sinh linh .
Nêu cao chính đạo.

Nay gia đình chúng con hoàn tất tân gia, chọn được ngày lành dọn đến cư ngụ, phần sài nhóm lửa, kính lễ khánh hạ. Cầu xin chư vị minh Thần cho chúng con được nhập vào nhà mới tại:…………..và lập bát nhang thờ chư vị Tôn thần.

Chúng con xin phép chư vị Tôn thần cho rước vong linh Gia tiên chúng con về ở nơi này để thờ phụng. Chúng con cầu xin chư vị minh Thần gia ân tác phúc, độ cho gia quyến chúng con an ninh, khang thái, làm ăn tiến tới, tài lộc dồi dào vạn sự như ý, vạn điều tốt lành.

Tín chủ lại mời các vong linh Tiền chủ, Hậu chủ ở trong nhà này, đất này xin cùng về đây chiêm ngưỡng Tôn thần, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho tín chủ con sức khỏe dồi dào, an khang, thịnh vượng.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

2. Văn khấn các Yết Gia Tiên

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Kính lạy Tiên nội ngoại họ…………..

Hôm nay là ngày….. tháng….năm……

Gia đình chúng con mới dọn đến đây là: (địa chỉ):…..

Chúng con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước ban thờ Cụ nội ngoại gia tiên. Nhờ hồng phúc tổ tiên, ông bà cha mẹ, chúng con đã tạo lập được ngôi nhà mới. Nhân chọn được ngày lành tháng tốt, thiết lập án thờ, kê giường nhóm lứa, kính lễ khánh hạ.

Cúi xin các cụ, ông bà cùng chư vị Hương linh nội ngoại họ……… thương xót con cháu, chứng giám lòng thành, giáng phó linh sàng thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì cho chúng con, lộc tài vượng tiến, gia đạo hưng long, cháu con được bình an mạnh khoẻ.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam nô a di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Nhập trạch dùng trong lễ Nhập Trạch

Lành dữ việc Bát hương bốc cháy

Khi mọi người thắp hương, thi thoảng vẫn gặp hiện tượng bát hương bốc cháy, bát hương bốc cháy là điềm lành hay dữ,
Lành dữ việc Bát hương bốc cháy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi mọi người thắp hương, thi thoảng vẫn gặp hiện tượng bát hương bốc cháy. Gặp hiện tượng này, nhiều người vẫn hốt hoảng, lo lắng không biết có điềm báo hay tai ương nào không? Vậy bát hương bốc cháy là điềm lành hay dữ?

 Nếu không duy tâm thì vấn đề này được nghĩ là do không lau dọn ban thờ và nhiều chân nhang quá, hay do thời tiết hanh khô gặp gió nên dễ bắt cháy.

 Còn về Tâm linh, bát hương được coi là “căn nhà vô hình” của tổ tiên trong gia đình, do vậy đây được coi là một điềm báo trước sẽ có sự kiện gì đó sắp diễn ra trong gia đình chủ nhà đó.

Hóa bát hương được chia làm hai loại:

Bát hương cháy hoá âm, là hiện tượng cháy âm ỷ ở dưới chân bát hương

Bát hương cháy hoá dương là hiện tượng cháy đùng đùng chân nhang bên trên 

  • Bát hương hóa dương: lửa cháy đùng đùng thường báo điềm tốt, may mắn, làm ăn khấm khá.
  • Bái hương hóa âm: chỉ âm ỉ chân hương, không cháy thành lửa thường báo điềm xấu: mồ mả động hoặc bị mất tiền (cho vay không đòi được, giao trứng cho ác…)

Cách hóa giải hợp lý để các bạn an tâm hơn khi gặp phải hiện tượng này, mời các bạn tham khảo:

  •  Dọn dẹp sạch sẽ xung quanh bát và ban thờ, khi thắp hương chú ý theo dõi, để ý không là dễ dẫn đến hoả hoạn
  •  Nếu hóa âm, chân nhang còn lại tỉa bớt đem hóa riêng và rải phép ít tro trước nhà, hóa dương thì ngược lại rải sau nhà.
  •  Mua hoa quả thắp lễ. Hóa âm mua đồ chẵn, và hóa dương thì đồ lẻ….

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lành dữ việc Bát hương bốc cháy

Tướng số trẻ em |

Tướng trẻ em khắc cha - Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật bệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường. - Lông mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng. - Thân
Tướng số trẻ em |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng số trẻ em |

Xem bói tình yêu qua tướng mặt - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Xem bói tình yêu qua tướng mặt, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói tình yêu qua tướng mặt, tu vi Xem bói tình yêu qua tướng mặt, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói tình yêu qua tướng mặt

Xem Bói tình yêu theo diện mạo tướng mặt có thể giúp bạn nhận ra những người chung thủy, trọng tình cảm, chân thật trong tình yêu, hoặc người đó đòa hoa, lăng nhăng và giải dối trong tình yêu,.. Xem bói tình yêu qua tướng mặt

Xem bói tình yêu qua tướng mặt

Tướng mặt giúp bạn bói tình yêu, có thể biết được ai là người lụy tình, ai chung thủy với tình yêu, ai là người trọng tình cảm, ai một lòng chung tình. Những nhân tố khác mà Nhân tướng học quan tâm như: lạc quan, tích cực, giữ chữ tín, độ lượng, yêu gét rõ ràng cũng là những thước đo quan trọng khi xem bói tình yêu cho một người nào đó.

 

1. Tướng mặt người chung thủy và người không chung thủy trong tình yêu

– Kích thước hai mắt bằng nhau, nhìn khá cân đối, vị trí của hai con mắt tốt nhất là nằm trên cùng một đường thẳng. Đây là con người chung thủy với người yêu của họ.

– Nếu một mắt thấp, một mắt cao hẳn cho thấy người này ý chí không kiên định, rất dễ bị quyến rũ, mê hoặc bởi người khác.

– Tướng tai có vị trí cân đối, không lệch lạc: tình cảm ổn định, khó thay lòng đổi dạ dù có sự quyến rũ từ bên ngoài.

– Tai nên có vị trí cao thấp vừa phải là tốt. Nếu vị trí của tai quá cao hoặc quá thấp thì người này thường không ổn định về tình cảm, rất dễ bị kích động thậm chí thay lòng đổi dạ.

– Ngưòi có mắt to nhỏ không thường không chung thuỷ. Hai mắt to nhỏ không đều nhau, thường là tình cảm bất ổn, tâm lý không vững vàng. Người có đôi mắt như vậy rất hay thay lòng đổi dạ, tình cảm không ổn đinh, thậm chí không chung thuỷ. Tình duyên theo đó thường trắc trở, ghệp ghềnh hơn người khác.

2. Bói tình yêu người trọng tình cảm yêu đương đắm đuối

– Tướng mũi thẳng: thận trọng trong giao tiếp. Mũi thẳng là tướng tốt. Những người có mũi cong, vẹo thường hay lừa dối trong tình cảm.

– Hai cánh mũi cũng nên có đường nét rõ ràng, kích thước đồng đều. Những người có tướng mặt như vậy thường thận trọng trong tình cảm, sẽ lựa chọn người yêu một cách cẩn thận, kỹ càng.

– Nhân trung sâu và dài: trọng tình cảm. Nhân trung ngay ngắn, sâu và dài, hoặc nở rộng dần xuống phía dưới là người thường rất rộng rãi, trọng tình cảm, nhu cầu sinh lý bình thường.

– Tướng miệng ngay ngắn: lời nói thành thật. Miệng ngay ngắn là tướng tốt. Những lời họ nói ra có thể tin cậy được, không sợ bị lừa dối trong tình cảm.

– Người có miệng méo, lệch thường nói những lời không thành thực, và cũng không nghiêm túc trong tình cảm.

3. Bói tình yêu người khiêm tốn, hiền hòa, chung tình

Sống trong xã hội, dù là trong tập thể lớn hay là tập thể nhỏ thì ai cũng muốn được người khác tôn trọng và khẳng định. Được tập thể chấp nhận là một việc rất đáng tự hào. Nhưng nếu sống trong tập thể lại làm việc một mình một kiểu, tự phụ kiêu căng, coi thường người khác, hống hách ngang ngược, chắc chắn sẽ bị mọi người ghét bỏ, thậm chí còn bị trừng phạt. Đây là trường hợp không được tập thể chấp nhận. Nhưng nếu một người khiêm tốn, cư xử khéo léo, có thể nhìn thấy những điểm tốt của mọi người xung quanh, sống hoà thuận với họ, biết cách khen ngợi động viên người khác thì chắc chắn sẽ được tập thể tin tưởng, có mối quan hệ tốt với tập thể, luôn luôn có người tình nguyện giúp đỡ thậm chí dù có lâm nguy cũng được cứu giúp. Ngoài ra trong phép bói tình duyên, thống kê cho thấy những người này trong tình yêu họ sẽ thật lòng, chung tình mà không bội bạc lại người yêu.

bói tình yêu người chung tình

Tổ hợp tướng mặt tốt – khiêm tốn, khéo léo, không chê bai người khác, thật lòng trong tình yêu:

  • Ngũ quan đoan chính, kích thước trung bình, dễ chiêm được thiện cảm của người khác.
  • Miệng khép chặt, không có khe hở, môi đầy đặn, khoé miệng không bị trề Mắt không lồi không trũng mắt nhìn thẳng, có thần thái.
  • Mũi thẳng, ngay ngắn, trán cao, rộng
  • Lông mày dài quá mắt, mắt và lông mày cách nhau một khoảng thích hợp lông mày có đường nét rõ ràng.
  • Cánh mũi dày, nhìn chính diện không thấy lỗ mũi. Nhân trung sâu và dài không có nếp nhăn.
  • Tổ hợp tướng mặt xấu – kiêu cẳng tự phụ, không biết khen ngợi người khác, tình yêu đem cân đong đo đếm
  • Khuôn mặt to, ngũ quan nhỏ, thậm chí dường như ngũ quan tập trung một chỗ.
  • Khuôn mặt xương xẩu, ngũ quan nổi bật, lông mày vừa đen vừa rậm.
  • Khuôn mặt góc cạnh, vuông vức hoặc mặt tròn xoe không có góc cạnh nào
  • Tai thấp, cằm nhỏ, người có tướng mặt này thường ngoan cố, không chịu sửa đổi, mà đi theo con đường sai trái.
  • Người mắt nhỏ bụng dạ hẹp hòi, nhỏ mọn, cố chấp bảo thủ. Người miệng nhỏ môi mỏng thì tính cách rất ngoan cường háo thắng, đã nói là làm.

4. Bói tướng mặt người tự tin, lạc quan, lịch thiệp, yêu ghét rõ ràng

– Khoảng cách giữa ấn đường vừa phải: người lạc quan – là tướng mặt tốt. Không vì một chút chuyện nhỏ mà thù ghét. Không vì xích mích đơn thuần mà bỏ rơi người yêu.

 

– Những người có ấn đường nhỏ, hẹp thường là người hẹp hòi, nhỏ mọn, tiêu cực, hiểu biết nông cạn, không thể nhận biết sự việc một cách đúng đắn, làm việc không đầu không cuối, lỗ mãng xốc nổi. Coi tình yêu là trò đùa. Không tôn trọng tình cảm của bản thân và của người yêu.

– Người có ấn đường quá rộng thường là người hèn yếu, không có chính kiến, bắt chước theo người khác.

Do đó thì khoảng cách giữa ấn đường vừa phải, không rộng không hẹp thì tốt nhất. Quá rộng hay quá hẹp đều không phải là tướng mặt tốt.

- Mũi cao: lạc quan tích cực. Mũi đại diện cho cá tính, chủ kiến của một người. Nếu mũi cân đối thể hiện được là người lạc quan, tích cực và rất có tinh thần trách nhiệm, không sợ khó khăn, quyết tâm kiên trì đến cùng. Trong tình yêu thì rất chừng mực, biết quan tâm, chia sẻ và lo lắng cho người yêu.

- Miệng có kích thước vừa phải: cư xử khoan dung, độ lượng. Miệng có kích thước vừa phải chứng tỏ đó là người rất lạc quan, rộng lượng, cư xử với người khác khoan dung, độ lượng, không những có thể bỏ qua lỗi lầm mà còn không tùy tiện chỉ ra điểm yếu của người khác; nếu không cũng rất sòng phẳng ý chí kiên định, làm việc luôn kiên trì tuân theo quy tắc của bản thân, không hề thay đổi, có đầu có cuối. Trong tình yêu thì kiên trì theo đuổi đến cùng; biết tha thứ lỗi lầm của người yêu; biết nói lời yêu thương, quan tâm tới người yêu.

- Cằm đầy đặn: người giữ chữ tín. Người có cằm đầy đặn thì thường lạc quan chủ động, hành động mạnh mẽ, nói là làm ngay đồng thời rất giữ chữ tín. Những việc đã hứa thì dù có khó khăn, trở ngại mấy cũng làm bằng được. Người như vậy rất dễ thành công. Trong tình yêu, đã nghĩ là nói ra; đã nói ra sẽ giữ lời và thực hiện đúng như vậy. Nếu ai đó bói tình yêu mà tìm được những người thương như vậy quả thật là an tâm.

- Người có cằm ngắn thường tính toán hơn thiệt, làm việc tiêu cực bị động không toàn tâm cho công việc. Tâm trạng rất dễ thay đổi, thường hoang mang; làm việc gặp một chút khó khăn liền bỏ cuộc giữa chừng. Không đeo đuổi tình yêu, an phận và chấp nhận thua thiệt mà không biết giành lấy hạnh phúc cho bản thân. Thường tự trách mình và chím đắm trong nỗi buồn khổ nếu thất bại trong tình yêu và hôn nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình yêu qua tướng mặt - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

4 vật phẩm phong thủy trừ tà thích hợp làm quà tặng cho nữ

Những vật phẩm phong thủy trừ tà cho nữ giới dưới đây có thể là món quà 8/3 vừa ý nghĩa, vừa thiết thực cho những người phụ nữ mà bạn yêu thương đấy.
4 vật phẩm phong thủy trừ tà thích hợp làm quà tặng cho nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những vật phẩm phong thủy trừ tà cho nữ giới dưới đây có thể là món quà 8/3 vừa ý nghĩa, vừa thiết thực cho những người con gái mà bạn yêu thương đấy.

  1. Hắc diệu thạch  
4 vat pham phong thuy tru ta nen tang lam qua cho phai nu  hinh anh
 
Hắc diệu thạch là vật phẩm phong thủy trừ tà có hiệu quả rất cao, đặc biệt là với nữ giới. Không chỉ ngăn cản tiểu nhân hãm hại mà nó còn có tác dụng chiêu tài, vượng tài, gia tăng vận thế, thích hợp với những người phụ nữ làm việc văn phòng, công sở, công chức.
  2. Thủy tinh  
4 vat pham phong thuy tru ta nen tang lam qua cho phai nu  hinh anh
 
Thủy tinh là vật phẩm phong thủy tốt lành khá quen thuộc, vừa có tác dụng phong thủy, vừa có tác dụng trang sức. Nữ chủ nhân độc thân đeo thủy tinh bên mình không chỉ hóa sát, trợ giúp vận trình mà còn có tác dụng chiêu tài, vượng đào hoa. 
  Thủy tinh có khả năng tăng nhân duyên, cải thiện đào hoa vận, phát triển năng lực cá nhân, hỗ trợ thăng tiến; có lợi cả về tình cảm lẫn sự nghiệp. Gợi ý chọn quà 8/3 đúng điệu cho 12 cô nàng hoàng đạo
Các chàng đang đau đầu vì 8/3 đến gần mà chưa biết chọn quà gì cho nàng? Hãy để ## bật mí cho bạn món quà đúng với sở thích của


3. Tỳ hưu
 
4 vat pham phong thuy tru ta nen tang lam qua cho phai nu  hinh anh
 
Đeo tỳ hưu bên mình là một trong những cách để cải thiện phong thủy cho phụ nữ, vừa hóa sát, giải trừ tai ách lại chiêu tài, vượng lộc. Tỳ hưu là thần thú có thể trợ giúp trường khí, khởi phát tài vận, loại bỏ những điềm xui rủi cho chủ nhân. Tuy nhiên, đây là thần khí phong thủy không thể sử dụng tùy tiện, nên tham khảo kĩ lưỡng trước khi dùng.
  4. Ấn ngọc  
4 vat pham phong thuy tru ta nen tang lam qua cho phai nu  hinh anh
 
Ấn ngọc trong phong thủy tượng trưng cho sự cao quý và sức mạnh nên có tác dụng trợ tài, hóa sát, giảm thiểu tai họa, phù trợ bản mệnh nữ trên phương diện sự nghiệp và tài lộc. Ngoài ra, nó còn có công dụng bù lấp khuyết thiếu trong mệnh của chủ nhân. 
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 vật phẩm phong thủy trừ tà thích hợp làm quà tặng cho nữ

Cách hóa giải xây nhà trên đất hình tam giác

Trong khoa học phong thủy, những mảnh đất hay ngôi nhà có hình dạng góc cạnh như hình tam giác, hình lưỡi dao… được coi là những mảnh đất xấu. Những thế đất này có tính hỏa rất mạnh và nhiều xung sát, thông thường có ảnh hưởng không tốt đến người cư ngụ.
Cách hóa giải xây nhà trên đất hình tam giác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Trong khoa học phong thủy, những mảnh đất hay ngôi nhà có hình dạng góc cạnh như hình tam giác, hình lưỡi dao… được coi là những mảnh đất xấu. Những thế đất này có tính hỏa rất mạnh và nhiều xung sát, thông thường có ảnh hưởng không tốt đến người cư ngụ.

Mảnh đất hình tam giác là như thế nào?

Mảnh đất nhìn từ trên cao xuống hình tam giác theo phong thủy cực kì xấu

Có lẽ ai khi mua đất, xây nhà cũng mong muốn ngôi nhà mình vuông vắn, dễ coi nhưng mà nhiều khi hầu bao và mong ước không cân bằng với nhau nên đành phải mua mảnh đất xấu, rồi thì vì muốn tranh thủ xây dựng cho hết diện tích đất để sử dụng chứ không nở bỏ phí diện tích đất nên hình dạng ngôi nhà nhìn từ trên xuống cũng méo mó đủ kiểu theo đúng hình dạng khu đất. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp nhiều gia đình khi mua mảnh đất rộng rất đẹp nhưng theo chỉ bảo của kiến trúc sư (vì muốn khuyến khích gia chủ xây nhà kiểu lạ, sáng tạo để hồ sơ kinh nghiệm của mình thêm phong phú) mà thành ra xây nhà méo mó đủ kiểu (thường gặp nhất là các ngôi nhà biệt thự vì đất rộng; chứ nhà phố thì thường chỉ có 1 kiểu hình chữ nhật thôi).

Mảnh đất được coi là hinh tam giác là khi nhìn từ trên cao xuống (ảnh chụp từ cao xuống) nó có hình tam giác. Trong phong thủy đây là mảnh đất có hình dạng cực kì xấu

Xét theo phong thủy: những mảnh đất hoặc ngôi nhà hình tam giác được coi là có hình thế xấu, phạm vào “hỏa hình sát”, nếu xây nhà ở sẽ không chắc chắn, không hài hòa, không tốt cho tinh thần, khả năng suy nghĩ của người cư ngụ, dễ mắc các bệnh liên quan đến thần kinh, đồng thời tài vận, sự nghiệp không thuận lợi. Các thế đất có dạng tam giác là thế Hỏa thịnh, không thích hợp cho việc xây dựng nhà ở thông thường vì có nhiều góc nhọn khiến nội khí tù hãm, khó bố trí không gian và dễ va chạm.

Xét theo khoa học: Nhà từ trên cao nhìn xuống mà có hình tam giác thì khi âm thanh, ánh sáng hay khí vào nhà giống như khi đi qua 1 lăng kính. Hồi nhỏ khi chúng ta đi học Vật Lý, phần Quang Học, thì chúng ta cũng biết sơ qua về đường đi của ánh áng và các hiện tượng phản xạ, khúc xạ cũng như khi chiếu 1 tia sáng ở 1 góc nhất định đi qua 1 lăng kính hình kim tự tháp thì sẽ xảy ra hiện tượng gì. Như vậy khi ánh sáng, âm thanh hay khí vào căn nhà hình tam giác, nó sẽ bị phản xạ, dội lại gây nhiễu sóng làm tổn thương não. Ai không tin cứ thử vào ngôi nhà mới mua, chưa có đồ đạc nhiều nói lớn tiếng 1 chút âm thanh sẽ phản xạ loạn xạ làm “điếc con ráy, điên cái đầu”. Còn ánh sáng khi chiếu vào nhà, nhất là chiếu vào tường nào có treo gương thì sẽ thấy ánh sáng phản xạ làm nhiều lần khi dội vào các cạnh huyền, cạnh góc vuông của tam giác thì đủ làm hoa mắt (cái này trong phong thủy còn gọi là “Phản quang sát”). Ở lâu ngày trong căn nhà như vậy, tất nhiên não sẽ bị tổn thương, người trong nhà nhìn bất cứ sự việc gì chỉ thấy có 3 góc, 3 cạnh của 1 vấn đề thôi; tất nhiên sẽ suy nghĩ lệch lạc, ở lâu ngày nếu bệnh nặng sẽ có hiện tượng bị tâm thần phân liệt hay đa nhân cách. Còn về khí thì chúng ta đã biết không khí bị kẹt ở các góc nhọn của tam giác sẽ không lưu chuyển được dẫn đến khu vực này chứa khí tù hãm, vì “tĩnh là không tốt, động là tốt” như đã nói ở phần “Nhà đầu voi đuôi chuột” nên tất nhiên ngôi nhà sẽ không tốt cho không khí tốt lưu chuyển khắp nhà. Người nhà không may tiếp xúc với không khí ngột ngạt này tất nhiên sẽ bị bệnh đường hô hấp; chưa kể không khí thường mang theo gió bụi, khi bị tù hãm sẽ tạo các góc nhọn này của căn nhà đầy bụi bặm, dơ bẩn

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Cách khắc phục

Theo phong thuỷ học, nhà ở vuông vức, cụ thể là vuông bốn góc với chiều dài không lớn hơn 2 lần chiều rộng, tỷ lệ 6:4 là tốt nhất. Bởi lẽ, bốn bề tám bên đều vững vàng, âm dương cân bằng, năng lượng ngũ hành của khí trường sẽ cân bằng

Cắt các phần góc nhọn sao cho nhà nhìn từ trên xuống thành hình vuông hay chữ nhật

Để khắc phục, không gì tốt hơn là chúng ta chịu khó cắt bỏ các phần góc nhọn này sao cho căn nhà nhìn từ trên xuống sẽ là hình vuông hay hình chữ nhật với đầy đủ 4 cạnh. Thà hy sinh đất 1 chút còn hơn tham sử dụng hết để rồi gánh chịu hậu quả về sức khỏe. Phần 2 góc nhọn của tam giác bị cắt bỏ sẽ dành làm giếng trời hay sân phơi, trồng cây kiểng sân vườn. Đừng tham lam dùng đất này để xây kho hay toilet. Kho là nơi thường xuyên lưu giữ bụi bặm, màng nhện mà giờ chúng ta lại tạo điều kiện đặt kho ở góc có khí bị “kẹt” lại, tù hãm thì càng ngày cái kho này sẽ tích trữ gấp đôi lượng bụi bặm sẵn sàng 24/24 cho chúng ta hít thở khí bẩn.

Song, nếu khuôn viên đất rộng rãi, bên trong có thể chia thành nhiều lô nhỏ vuông vắn thì không ảnh hưởng gì vì trong trường hợp này Hỏa sinh Thổ trở thành “vượng địa”. Nếu khuôn viên đất nhỏ nên thiết kế vườn cảnh, hồ nước để giảm bớt góc nhọn, tạo ra sự thông thoáng tốt hơn.

Khuôn viên rộng nên thiết kế cây vườn cây cảnh

Tránh sử dụng không gian sinh hoạt hay trổ cửa tại các mũi nhọn mà nên giữ cho không gian chính tại vị trí trung tâm, sử dụng các góc vuông hoặc đường cong (Thủy khắc Hỏa) để giảm xung sát và lấy lại thế cân bằng.

Nếu bất khả kháng, gia chủ phải xây dựng nhà trên những khu đất hình tam giác, tốt nhất nên thiết kế nhà vuông vắn, phần thừa ra có thể làm các không gian phụ hoặc sân vườn. Nhờ cách thiết kế này, các yếu tố được xem là bất lợi sẽ được ngôi nhà vuông hạn chế, tạo nên yếu tố có lợi cho gia chủ. Cũng với cách thiết kế này, mảnh đất có hình tam giác đã trở nên lạ mắt, vuông vức trong thẩm mỹ.

Ngoài thiết kế nhà vuông, nhà trong những trường hợp có mảnh đất hình tam giác nếu xây dựng hết đất, nghĩa là nhà vẫn là hình tam giác thì nên ưu tiên các không gian phòng ngủ, phòng khách, bếp… được vuông vức. Các phần góc cạnh nên để làm nhà kho, cầu thang, phòng vệ sinh… Đối với các phần góc nhọn trong nhà nên vo tròn hoặc bố trí cây cối, tiểu cảnh để che chắn.

Nếu nhà quá chật, không thể cắt bỏ diện tích đất quý giá thì có thể bố trí thêm đèn chiếu và kiếng tráng thủy treo ở tường ngay cạnh huyền tam giác và hướng ra ngoài để tạo cảm giác phòng rộng ra, tạo bức tường thứ 4 giả và cũng để phản chiếu lại ánh sáng bị phản xạ nhiều lần nhằm giúp chống tổn thương não.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải xây nhà trên đất hình tam giác

Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Có rất nhiều giấc mơ kỳ lạ, làm bạn lo lắng không biết liệu giấc mơ ấy có điềm báo gì không? Nằm mơ thấy nhẫn vàng có ý nghĩa gì? Đây cũng là một câu hỏi với bao lo lắng của nhiều người và chưa biết làm cách nào để giải mã giấc mơ ấy. Tuy nhiên không
Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Kiến thức phong thủy. Làm như thế nào để người yêu có thể quay trở lại –

Tôi đã chia tay người yêu cách đây hai tháng và tôi đang muốn quay trở lại với anh ấy,… Tôi có thể làm gì để anh ấy tha thứ và quay trở lại với tôi? Kiến Thức Phong Thủy Câu hỏi: Tôi đã chia tay người yêu cách đây hai tháng và tôi đang muốn quay trở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tôi đã chia tay người yêu cách đây hai tháng và tôi đang muốn quay trở lại với anh ấy,… Tôi có thể làm gì để anh ấy tha thứ và quay trở lại với tôi?

Kiến Thức Phong Thủy

Câu hỏi: Tôi đã chia tay người yêu cách đây hai tháng và tôi đang muốn quay trở lại với anh ấy. Tuy nhiên, mỗi khi gặp lại là chúng tôi cãi nhau kịch liệt và không muốn gặp nhau nữa. Anh ấy nói rằng muốn quên tôi và không muốn nói chuyện với tôi. Trước đây, chúng tôi rất yêu nhau và tôi không thể nào không nghĩ về anh ấy. Nguyên nhân dẫn đến chia tay là tôi đã nói một điều không đúng về anh ấy cho người bạn của anh ấy nghe. Thế là, anh ấy đã không tha thứ cho tôi. Tôi có thể làm gì để anh ấy tha thứ và quay trở lại với tôi?

Trả lời: Tại sao bạn không viết một lá thư xin lỗi rồi gửi cho anh ấy, đồng thời nói rằng bạn thực sự mong muốn anh ấy quay trở lại. Ở mặt sau của lá thư, bạn đặt một chấm đỏ có đường kính khoảng 1cm ở giữa. Điều này sẽ khiến cho lá thư có khả năng thuyết phục cao hơn. Ngoài ra, bạn có thể đặt ảnh của mình đối diện với ảnh của anh ấy rồi kẹp vào giữa hai miếng gương. Điều này có thể giúp anh ấy hiểu và tha thứ cho bạn.

Loi-ich-cua-mau-tim-theo-phong-thuy1


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Làm như thế nào để người yêu có thể quay trở lại –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Những chòm sao nam giỏi giả vờ nhất –

Những chòm sao nam nào giỏi giả vờ nhất? Không ai khác, đó chính là Sư Tử, Xử Nữ và Song Tử. Củ thể như thế nào chúng ta cùng khám phá trong bài viết dưới đây nhé! Những chòm sao nam giỏi giả vờ nhất Quán quân: Sư Tử Trước mặt bạn bè, khi đi cùng với

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những chòm sao nam nào giỏi giả vờ nhất? Không ai khác, đó chính là Sư Tử, Xử Nữ và Song Tử. Củ thể như thế nào chúng ta cùng khám phá trong bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Những chòm sao nam giỏi giả vờ nhất
    • 1.1 Quán quân: Sư Tử
    • 1.2 Á quân: Xử Nữ
    • 1.3 Thứ 3: Song Tử

Những chòm sao nam giỏi giả vờ nhất

Quán quân: Sư Tử

Trước mặt bạn bè, khi đi cùng với người yêu, Song Tử tỏ ra rất mạnh mẽ, độc lập, thậm chí còn chừng mắt ngầm ra oai với bạn bè. Chòm sao này luôn muốn tạo dựng hình ảnh nam tính trong mắt mọi người, nên đành phải vờ vịt thế thôi. Ai là người thương của Sư Tử thì nên hiểu rõ điều này nhé, kẻo không suốt ngày giận hờn vu vơ đó.

su-tu-1187-1397608568

Khi chỉ có hai người, Sư Tử không ngại ngần “lộ” bản chất vốn khá mềm yếu trong chuyện tình cảm. Đồng thời, chòm sao này sẵn sàng để cho đối phương biết được tình cảm sâu đậm của mình đến đâu. Có thể nói, trong tình yêu, bạn rất chân thành và cởi mở. Chỉ có điều, vì tính thích sĩ diện và muốn giữ hình tượng nên trước mặt mọi người xung quan Sư Tử mới phải “giả vờ giả vịt”.

Á quân: Xử Nữ

Chòm sao này vốn tôn thờ chủ nghĩa hoàn mỹ, quan sát mọi việc đều rất tỉ mỉ, đồng thời nhanh chóng nắm bắt tâm lý con người nên được mọi người dành tình cảm yêu mến đặc biệt. Do vậy, việc lựa chọn người yêu của Xử Nữ cũng vô cùng kỹ càng.

xu-nu-1268-1397608568

Dù đã yêu đối phương rõ như ban ngày, nhưng bạn vẫn cố “ngụy trang” bằng những biểu hiện hoặc lời nói ở mức độ bình thường. Bởi theo bạn, nếu nàng ta nắm bắt tất tần tật về tình cảm của mình, bạn sẽ cảm thấy xấu hổ và thiếu tự tin. Tốt nhất là chỉ cho cô ấy biết một vài điều mà thôi.

Thứ 3: Song Tử

Ấn tượng mà Song Tử nam để lại cho mọi người là vẻ năng động, hài hước và phóng khoáng. Vì vậy, tiêu chuẩn đầu tiên để chọn bạn gái của chòm sao này chính là sự hoạt bát và khiếu khôi hài.

song-tu-7396-1397608569

Khi hai tính cách không trái chiều này bên nhau lâu dần sẽ gây cảm giác nhàm chán. Nhưng Song Tử cố vờ vịt rằng mối tình này vẫn đang tốt đẹp trước mặt mọi người. Bởi bạn không muốn cho mọi người thấy tiêu chuẩn mình đề ra lại là sai lầm. Vậy nên, khi có mâu thuẫn xảy ra, Song Tử luôn là người chủ động làm hòa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao nam giỏi giả vờ nhất –

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Người xưa sớm nghĩ ra những phương pháp kỳ bí để kiểm tra trinh tiết của người phụ nữ. Dù không có cơ sở khoa học nào để khẳng định chắc chắc những điều này nhưng ít nhiều nó đã trở thành một phần văn hóa riêng biệt của thế giới cổ đại.
Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan điểm phong kiến xưa, người phụ nữ quan nhất là hai chữ “trinh tiết”. Bất cứ người đàn ông nào khi lấy vợ đều muốn lấy được người vợ “còn trinh”. Điều này càng nghiêm khắc đối với tầng lớp quan lại, quý tộc và vua chúa.

Do đó, người xưa sớm nghĩ ra những phương pháp kỳ bí để kiểm tra trinh tiết của người phụ nữ. Dù không có cơ sở khoa học nào để khẳng định chắc chắc những điều này nhưng ít nhiều nó đã trở thành một phần văn hóa riêng biệt của thế giới cổ đại.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!

1./ Kiểm tra trực tiếp bởi các “Bà đỡ”

Có lẽ do đặc thù công việc đỡ đẻ luôn tiếp xúc với phụ nữ khi sinh nên một số bà đỡ giỏi, lâu lăm có kinh nghiệm dần dần đã được tin tưởng trở thành các chuyên gia đầu tiên bất đắc dĩ kiểm tra trinh tiết.

Thực chất các bà đỡ thời xưa cũng giống như các bác sĩ phụ khoa ngày nay, họ sẽ tận mắt nhìn và dùng tay để kiểm tra vùng kín của phụ nữ. Bằng mắt thường, các bà đỡ sẽ phát hiện ra người phụ nữ đó còn trinh hay không, tuy nhiên, phương pháp này cũng không hẳn đúng hoàn toàn vì rất nhiều phụ nữ thiệt thòi sinh ra đã không có cái màng quý giá đó. Chưa kể việc kết luận “còn” hay “mất” còn phụ thuộc rất nhiều vào chuyên môn, kinh nghiệm cũng như lương tâm của các bà đỡ này. Lịch sử ghi lại nhiều câu chuyện đau lòng khi chỉ một câu “phán” của các bà đỡ mà cuộc sống của các cô gái đang tươi đẹp trở thành địa ngục.

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Sách xưa truyền lại rằng, Hoàng hậu của Hán Hoàn Đế là Lương Oánh đã từng bị kiểm tra toàn bộ thân thể và trinh tiết trước khi được phong sắc. Sở dĩ có điều này, bởi các bậc đế vương khi lập hậu vô cùng coi trọng việc trinh tiết, điều này không chỉ khiến ngai vàng của Hoàng đế tránh phải “đổ vỏ” mà còn khẳng định hậu bối của người chắc chắn mang dòng máu lạc hồng.

Trong cung đã phái một vị nội quan (thực chất là bà đỡ trong cung) đi kiểm tra Lương Oánh, từ ngoại hình, thân thể, tướng mạo và hình dáng. Cuốn “Kiến sinh văn” từng ghi lại Hoàng hậu Lương Oánh có nét mặt “tựa như ánh bình minh trong tuyết, tươi đẹp đến mức khiến người ta khó lòng nhìn thẳng. Con mắt trong veo, hàng mi cong dày, bờ môi đỏ tươi, răng trắng, vành tai thon gọn, sống mũi cao, hai má hài hòa”.

Sau đó, cởi bỏ y phục của Lương Oánh, thấy thân thể nàng tỏa ra mùi hoa cả dìu dịu, da dẻ thanh thuần, bầu ngực mới phát triển, vùng kín hồng hào, màng trinh còn nguyên vẹn.

Phương pháp kiểm tra trực tiếp bởi các bà đỡ được coi là một trong những phương pháp đầu tiên trong lịch sử cổ đại về kiểm tra trinh tiết của phụ nữ.

2./ Kiểm tra bằng cách sử dụng mảnh vải trắng và vết máu hồng đêm tân hôn.

Nhiều gia đình ngày xưa không thể tìm đến các bà đỡ để kiểm tra trinh tiết của vợ nên các chàng trai buộc lòng phải đợi đến đêm tân hôn để khẳng định vợ mình còn trinh trắng hay không.

Không chỉ riêng với xã hội phong kiến Trung Quốc mà một số nước châu Á cũng coi trọng chuyện trinh tiết trong quan hệ nam nữ. Và đêm động phòng hoa chúc, các cô gái sẽ lấy một tấm vải trắng (thường các cô gái sẽ được mẹ đẻ mình chuẩn bị cho và mang theo đồ cưới sang nhà trai) đã chuẩn bị trước trải dưới cơ thể. Sau đêm động phòng, nếu thấy vết máu hồng trên khăn trắng, gia đình nhà trai sẽ báo hỷ về nhà gái, nếu không có cũng đồng nghĩa cô gái đó không còn trinh khi lấy chồng. Một số vùng miền còn nhẫn tâm trả cô gái đó “về nơi sản xuất” để cha mẹ dạy dỗ.

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Với hủ tục khắc nghiệt như vậy, nhiều gia đình đành phải chịu điều tiếng nếu con gái của họ không may không có vết hồng trong đêm tân hôn.

Tuy nhiên, vết máu hồng đêm đầu tiên không phải là dấu hiệu duy nhất để khẳng định người con gái đó chưa bao giờ quan hệ tình dục. Nhiều phụ nữ không chảy máu trong lần đầu tiên cũng như không có màng trinh thì việc căn cứ vào vết máu có thể khiến cuộc đời nhiều người trở nên bế tắc.

Hơn nữa, không chỉ ngày nay, mà ngày xưa nhiều người cũng đã biết sử dụng màng trinh giả, hay đổi trắng thay đen tấm vải trắng để bảo vệ danh tiết. Khi đó, để “chỉnh hình” cho màng trinh, tân nương sẽ dùng một khối tiết gà cuốn trong khăn trắng, sau đó dùng chiếc khăn có máu gà này để đổi trắng thay đen. Một cách khác để ngụy trang hoàn hảo hơn là dùng miếng tiết gà đựng vào bong bóng cá, sau đó cẩn thận đặt vào âm đạo để tạo màng trinh giả.

Đây là phương pháp kiểm tra phổ biến trong cuộc sống người xưa. Và vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều người đến ngày nay.

3./ Kiểm tra trinh tiết qua tướng mạo

Người Trung Quốc xưa nổi tiếng với các quan điểm về phong thủy, địa lý và nhân tướng học. Do đó, họ cũng phát triển một cách kiểm tra kỳ lạ bằng cách xem tướng mạo để phân biệt người con gái còn trinh tiết hay không(?!).

 Theo đó, cổ nhân sẽ nhìn vào đuôi mắt, nếu đuôi mắt có màu hồng hoặc đỏ thì cô gái đó vừa mất đi trinh tiết, còn nếu đuôi mắt có màu đen chứng tỏ phụ nữ này đã quan hệ tình dục từ rất lâu. Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng với những cô gái trẻ tuổi.

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Ngoài ra, dựa vào một số đặc điểm của tướng mạo, cổ nhân cũng đưa ra một số kết luận về trinh tiết và tính cách, phẩm hạnh của cô gái này. Một số cuốn sách của Trung Quốc đã ghi lại rất rõ điều này, cuốn “Ma y tương pháp hoàn thư” đưa ra quan điểm: “ánh mắt như nước, nam nữ đa dâm” hay “tóc mai nặng dày, mắt lé đích thị là đa dâm”.

Trong khi đó, cuốn “Cổ kim đồ thư tập hành” thì cho rằng: “Tinh thần thẳng thắn nhưng không quyến rũ, biết cười giấu răng, vai nhô cao như rùa, đích thị là xử nữ. Ngược lại, cử chỉ không ngay thẳng, phong thái quyến rũ ắt là kẻ phong trần.”

Cùng với đó, quan điểm: “Nữ nhân khi ngồi mà hay rung đầu gối, miệng rộng buông xuống thì không nên lấy.” lại được khẳng định trong cuốn “thụ đàm nguyệt khuyết phụ nhân”. Một số tài liệu khác thì cho rằng: “đàn bà, con gái mà đứng nghiêng người dựa cửa, thấy người đến thì đảo mắt, xoa má cũng cắn ngón tay, vô cớ chỉnh quần áo, lúc ngồi hay rung đùi…ắt là đã từng tư thông.”

Có người còn cho rằng: xử nữ có lông mi cong, ngực căng tròn, mềm mại. Người không còn trong trắng thì lông mi cụp xuống, ngực thường mềm rũ.

Cũng không biết những đánh giá, kiểm tra qua tướng mạo như vậy có chính xác hay không? Đến ngày nay, điều này vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào công bố.

4./ Kiểm tra bằng dấu “Thủ cung sa”

Phương pháp sử dụng thủ cung sa là một trong những phương pháp được sử dụng nhiều nhất dưới thời phong kiến ở Trung Quốc. Đây cũng là cách duy nhất để đế vương có thể quán lý được hậu cung hơn 3000 mỹ nữ của mình.

Sách xưa truyền lại, Thủ cung sa được làm từ thạch sùng cái. Những con thạch sùng này sẽ được cho ăn chu sa, lâu ngày thân thể sẽ biến thành màu đỏ. Sau đó dùng thạch sùng phơi khô, xay nhuyễn, tạo thành một loại bột phấn.

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Phấn này sẽ được phát cho các cung tần mỹ nữ sử dụng để “nghiệm thân”. Nếu người con gái trong quá trình sử dụng phấn này có quan hệ nam nữ, thủ cung sa sẽ lập tức phai màu.

Ngoài ra, xã hội phong kiến Trung Quốc cũng lưu truyền một loại thuốc có công dụng tương tự như thủ cung sa. Thành phần của nó gồm có “mật đà tăng”, “càn son”, “chu sa”. Sau khi xay nhuyễn còn pha thêm máu dơi rồi điểm lên người phi tần. Nếu ai có hành vi tư thông, dấu vết này sẽ lập tức phai đi. Loại thuốc này từng được “Tần Thủy Hoàng dùng để giám sát hành vi thường ngày của các phi tần.”

5./ Kiểm tra trinh tiết bằng cách … thử máu?!

Ngoài các phương pháp trên, người Trung Hoa cổ đại còn bắt “thử máu” để giám định trinh tiết của phụ nữ. Theo đó, một câu chuyện đã được tương truyền trong dân gian. Một người con gái ban đầu bị nghi oan tư thông với hàng xóm. Gia đình nhà trai trước khi cưới muốn kiểm tra trinh tiết của con dâu tương lai nên đã chuốc rượu say, chích máu ngón tay và nhỏ vào nước. Kỳ lạ là giọt máu này không tan mà ngưng lại như hòn ngọc. Thế là gia đình này rất vui vẻ, kết luận cô gái này vẫn … còn trinh?!

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Bởi vì theo quan niệm của những người dùng phương pháp thử máu là: “nếu nhỏ máu của cô gái còn trinh trắng vào trong nước, thì máu không hề bị hòa tan mà sẽ ngưng tụ lại”.

Tuy nhiên, phương pháp này chưa có cơ sở khoa học nào khẳng định chắc chắn vì máu nhỏ vào nước thì đa phần sẽ bị tan. Vậy phải chăng tất cả các cô gái như vậy đều không còn trinh?

6./ Kiểm tra bằng cách sử dụng “Gió hắt hơi”

Gió hắt hơi còn được gọi là phương pháp “Phún đế phong”. Không biết phương pháp này xuất phát từ đâu và từ bao giờ. Nhưng phải khẳng định phương pháp kiểm tra lại cực kỳ kỳ quặc.

Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Cách kiểm tra trinh tiết này dựa vào “luồng gió trong âm đạo của phụ nữ khi hắt hơi”. Để sử dụng cách này, người con gái sẽ phải đứng trước một chậu than và không được mặc đồ lót. Người kiểm tra sẽ dùng hạt tiêu hay đốt giấy xông vào mũi khiến cô hắt hơi.

Nếu lúc hắt hơi có luồng gió mạnh từ hạ thân thổi vào chậu than thì người phụ nữ đó đã mất trinh, còn nếu chỉ là gió yếu ớt thì đây đích thị là xử nữ (?!)

Đây chỉ là một số trong muôn vàn cách kiểm tra trinh tiết kỳ lạ trinh tiết người phụ nữ của người xưa. Thiết nghĩ, trong xã hội nào cũng vậy, tình yêu muôn thủa bao giờ tốtt nhất cũng nên xuất phát từ tình cảm chân thành của hai phía. Và hạnh phúc của một gia đình, cũng sẽ không bao giờ phụ thuộc vào cái ngàn vàng còn hay mất./

>> Xem thêm TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất!

>> Xem thêm NGÀY TỐT XẤU 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muôn hình các kiểu kiểm tra trinh tiết kỳ bí của phụ nữ thời xưa.

Những con giáp quá đỗi ngây thơ, dễ bị lừa gạt

Những người thật thà hay bị lừa gạt. Nhưng có người vốn thông minh nhưng vẫn sập bẫy kẻ lừa đảo. Cùng xem trong 12 con giáp, ai là người hay mắc lừa nhất nhé
Những con giáp quá đỗi ngây thơ, dễ bị lừa gạt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người thật thà, ngây thơ thì hay bị lừa gạt. Nhưng có những người vốn thông minh nhưng vẫn sập bẫy kẻ lừa đảo. Cùng xem trong 12 con giáp, ai là người hay mắc lừa nhất nhé.  
Thời thế đảo điên, xã hội ngày càng nhiều kẻ lọc lừa, muốn sống và tồn tại được, chúng ta phải không ngừng rèn luyện khả năng phán đoán, tăng cường năng lực của bản thân, tạo cho mình một vỏ bọc hoàn hảo chống lại những kẻ xấu xa.
  “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”, có ra ngoài va vấp xã hội thì chúng ta mới trưởng thành lên được. Chẳng ai là không ngốc nghếch bị lừa gạt bao giờ, nhưng quan trọng là sau đó chúng ta rút ra bài học cho mình và ghi nhớ để không mắc lừa lần nữa.   Song vẫn có những người rất ngây thơ, họ bị lừa hết lần này tới lần khác nhưng chẳng mảy may hay biết vấn đề nằm ở đâu, để rồi tiếp tục bị lừa gạt tiếp. Vậy trong 12 con giáp, ai là người có số bị lừa gạt nhiều nhất? Cùng Lịch ngày tốt xem bói tử vi để tìm ra những con giáp ngây thơ đến tội nghiệp đó nhé.  

Tuổi Sửu

  Những người cầm tinh con Trâu thường hiền lành chất phác, họ cũng phản ứng chậm hơn những người khác. Nếu nói về khả năng nhẫn nại và kiên trì thì có lẽ chẳng ai vượt qua được người tuổi Sửu, điều đó cũng thường đem lại cho họ những phần thưởng đáng tự hào.


tuoi suu de bi lua gat
 
  Song con giáp này thiếu sót nghiêm trọng về khái niệm tiền bạc. Bình thường tiết kiệm, nhịn ăn nhịn mặc thì phải rồi, nhưng khi nhìn thấy thứ mà mình thích thì họ chẳng ngần ngại vung tay, dù bản thân không đủ khả năng chi trả.   Hơn nữa, người tuổi Sửu lại hay mềm lòng, hay lo chuyện bao đồng. Nhiệt tình quá mức nên dù là người lạ nhưng thấy họ gặp khó khăn là con giáp này lại xắn tay giúp đỡ. Giờ xã hội lắm kẻ lừa đảo nên với tính cách như vậy, người tuổi Sửu là mục tiêu mà bọn chúng thường hay nhắm tới, chỉ cần người ta nói vài câu yếu đuối gợi lòng thương là con giáp này dễ dàng mắc bẫy, gặp điều xui xẻo.

Có thể bạn quan tâm: Từ giờ đến hết năm, 12 con giáp dễ gặp xui xẻo ở phương diện nào?
 

Tuổi Ngọ

  Đây là con giáp dễ gặt hái được nhiều thành công, nhưng để đến được với thành công thì họ cũng phải trải qua không ít thất bại. Riêng về khả năng kiếm tiền thì người tuổi Ngọ rất giỏi, họ vừa thông minh lại có tài nên nắm bắt được khá nhiều cơ hội thành công.

tuoi ngo de bi lua gat
 
  Song tiền kiếm được càng nhiều thì xung quanh lại càng lắm kẻ tiểu nhân vì muốn trục lợi mà tiếp cận. Những kẻ này vốn ban đầu muốn xin chút lộc rơi vãi, nhưng sau đó nghe ngóng tình hình thì bắt đầu lên kế hoạch để đào mỏ. Người tuổi Ngọ tính tình vốn đơn thuần, lòng dạ chẳng chút tâm cơ nên với những kẻ tiểu nhân nham hiểm như vậy thì hoàn toàn không có phần thắng. Họ dễ dàng bị lừa gạt bởi luôn tin tưởng đối phương, dù có mắc lừa cũng chẳng hề hay biết.

Mời bạn đọc thêm: Các mẹo phong thủy đơn giản giúp tiêu diệt tiểu nhân.
 

Tuổi Tý

  Con giáp này luôn chăm chỉ phấn đầu vì mục tiêu rõ ràng. Người tuổi Tý có khả năng quan sát rất tốt, lại có khả năng ứng biến linh hoạt trước mọi vấn đề. Có điều họ có điểm yếu là hay  thích thể hiện, lại dễ mủi lòng. Họ thích nghe lời nói ngọt, ưa nghe lời nịnh bợ, đặc biệt rất sợ bị người khác coi thường.


tuoi ty de bi lua gat
 
  Cũng chính vì tính cách như vậy nên người tuổi Tý rất dễ bị kẻ lừa đảo nắm được điểm yếu của mình, lúc đó thì muốn lừa gạt ra sao cũng không khó, tiền trong túi con giáp này cũng theo đó mà bay. Nhất là đứng trước những kẻ có tâm cơ đóng vai người tốt thì khả năng bị lừa gạt của người này vô cùng cao. Chẳng những thế, người tuổi Tý cũng dễ vì lời ngon ngọt bên tai mà trao gửi tình cảm cho người không thật lòng, cuối cùng chỉ biết ôm trái tim tổn thương sâu sắc.  

Tuổi Thân

  Con giáp cuối cùng trong bảng danh sách này chính là những chú Khỉ hoạt bát lanh lợi. Họ có tính cách hướng ngoại, thông minh nhanh trí nên chẳng ai nghĩ đây lại là người dễ bị mắc lừa. Song có một câu nói rất đúng với con giáp này chính là “Thông minh quá hóa hồ đồ”.


tuoi than de bi lua gat
 
  Họ dễ kiêu căng tự mãn, thích đi đường tắt, vì bản thân thông minh, biết mưu mẹo nên tự đắc, chẳng coi ai ra gì. Cứ thế, họ rất dễ bị những cái lợi nhỏ làm cho mù mắt, dễ dàng mắc câu, chẳng chút nghi ngờ mà tin tưởng đối phương tuyệt đối, cuối cùng tự mình sập bẫy, tiền mất tật mang.
Hy Vũ


Xem bói tháng 7/2017: Con giáp nào tiền đầy túi, tình đầy tim Xem bói tháng 6 nhuận: Vận hạn của 12 con giáp Điểm mặt 3 con giáp xuất thân bần hàn, ngày sau giàu sang phú quý

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp quá đỗi ngây thơ, dễ bị lừa gạt

Tuổi Tỵ và tuổi Tuất hợp nhau không? –

Hai người tuổi Tỵ và Tuất có mối quan hệ khá phức tạp nhưng họ hoàn toàn có thể dung hòa được. Cả hai con giáp này đều hay lo lắng và cảm thấy bất an. Điều tuyệt vời là nhờ có mối quan hệ chung này mà cả Tỵ và Tuất đều có thêm sức mạnh, nghị lực và t
Tuổi Tỵ và tuổi Tuất hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tỵ và tuổi Tuất hợp nhau không? –

Đoán tính cách tốt xấu qua nét chữ viết của bạn

Tính cách con người ngoài việc thể hiện qua việc xem tướng số, xem tử vi còn được thể hiện qua nhiều mặt khác, một trong số đó chính là chữ viết.
Đoán tính cách tốt xấu qua nét chữ viết của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa có câu" Nét chữ Nết người" quả thực không sai. Chữ viết ngoài việc phản ánh rõ nét tính cách tốt, xấu của một người còn biểu hiện cả sức khỏe, bệnh tật trong đó, Hãy cùng lịch vạn niên 365 xem bói chữ viết tay cho bạn nhé 

Xem bói tính cách qua chữ viết của bạn 1

Xem bói tính cách qua chữ viết của bạn 1

Xem bói tính cách qua chữ viết của bạn 3

Xem bói tính cách qua chữ viết của bạn 4

Xem bói tính cách qua chữ viết của bạn 5

Xem bói tính cách qua chữ viết của bạn 1


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách tốt xấu qua nét chữ viết của bạn

SAO TỬ VI TRONG TỬ VI

tử vi Nam và bắc đẩu tinh . dương . thổ 1. Vị trí ở các cung: - Miếu địa: Tỵ, Ngo...
SAO TỬ VI TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tử vi Nam và bắc đẩu tinh . dương . thổ 



1. Vị trí ở các cung:             - Miếu địa:                   Tỵ, Ngọ, Dần, Thân             - Vượng địa:                Thìn, Tuất             - Đắc địa:                    Sửu, Mùi             - Bình hòa:                   Hợi, Tý, Mão, Dậu

2. Ý nghĩa tướng mạo: Nếu cung Mệnh có Tử Vi miếu, vượng hay đắc địa thì "thân hình đẫy đà, cao, da hồng hào, mặt đầy đặn". Nếu Tử Vi bình hòa thì "thân hình vừa phải".

3. Ý nghĩa tính tình: Tại vị trí miếu địa, Tử Vi có nghĩa:             - thông minh             - trung hậu             - nghiêm cẩn             - uy nghi
Tại vị trí vượng địa thì:             - thông minh             - đa mưu túc trí             - dám làm những việc bất nghĩa
Tại vị trí đắc địa thì:             - thông minh             - thao lược             - hay liều lĩnh
Tại vị trí bình hòa thì:             - kém thông minh             - nhân hậu
Nói chung, Tử Vi đắc địa trở lên sẽ có những đặc tính: tài lãnh đạo, thuật dùng người; bản lĩnh chế phục kẻ khác; tài tổ chức, khả năng sáng tạo; khả năng tạo thời thế, hoàn cảnh; mưu lược, quyền biến, thủ đoạn sâu sắc; đoan chính, ngay thẳng, trung trinh.

4. Ý nghĩa công danh, tài lộc:
Tử Vi ban cấp uy quyền và tài lộc nếu ở vị trí miếu, vượng và đắc địa. Sự phú quý đó không cần đến phụ tinh tốt đi kèm. Nếu được cát tinh dưới đây đi kèm, phú quý càng chắc chắn:
Thất Sát đồng cung: càng làm Tử Vi thêm uy lực (Sát ví như kiếm báu) Thiên Phủ đồng cung hay hội chiếu: ý nghĩa tài lộc nặng hơn Thiên Tướng đồng cung: minh quân có lương thần Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt ... làm cho Tử Vi có thêm vây cánh, tượng trưng cho vị vua có quần thần, bảo đảm thêm tài lộc và quyền lực.
Tại vị trí bình hòa, Tử Vi cần có thêm nhiều cát tinh mới bảo đảm phú quý. Tử Vi cần tránh gặp Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp vì danh tài chỉ còn bình thường, chưa kể họa hại kèm theo. Nếu là nữ Mệnh thì người đó đê tiện, dâm đãng, khắc hại chồng con, tuy có khá giả.

5. Ý nghĩa phúc thọ, tai họa:
Tử Vi ban phúc cho các cung tọa thủ, chế được hung tính của hai sao Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy nhiên, ở 4 cung Hợi, Tý, Mão, Dậu, Tử Vi không còn rực rỡ nên hiệu lực cứu giải tai họa bị giảm thiểu đi nhiều.
Nếu Tử Vi gặp Tuần, Triệt hay sát tinh, đương sự gặp phải những nghịch cảnh lớn như:             - mồ côi cha mẹ, góa bụa             - khắc anh chị em hay khắc chồng con             - thường bệnh hoạn, bị tàn tật             - phải tha phương lập nghiệp             - gặp nhiều cảnh hiểm nghèo             - yểu tử             - nghèo khổ, xui xẻo, nữ mệnh thì muộn chồng, làm bé             - công danh trắc trở, lao tâm chật vật
Riêng ở Mão Dậu, đồng cung với Tham Lang, Tử Vi tượng trưng cho người bi quan yếm thế, có chí đi tu, thường gặp nghịch cảnh nhưng nếu đi tu sẽ được hưởng sự thanh nhàn, phúc đức.

6. Ý nghĩa của tử vi và một số sao khác:
a. Những bộ sao tốt: Tử Vi, Thiên Phủ tọa thủ hay giáp Mệnh Tử Vi, Thiên Tướng Tử Vi, Thất Sát hay Tử Vũ Tử Vi, Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc, Long, Phượng, Quang, Quý, Đào, Hồng ... Tử, Phủ, Vũ, Tướng cách Tử, Phủ, Kỵ,  Quyền hay Tử, Sát, Quyền ở Tỵ, Hợi Hay nhất là Tử Phủ Vũ Tướng có kèm theo cát tinh kể trên: báo hiệu một sự nghiệp vang lừng, ngôi vị cao siêu hàng nguyên thủ. Nếu không gặp sát tinh thì ngôi vị vững vàng, dễ tạo và quyền binh trong thời bình. Ngược lại, nếu bị Kình, Không, Kiếp, Hỏa, Linh đắc địa đi kèm thì đắc vị trong thời loạn, tài năng chỉ được thi thố trong cảnh loạn ly, chiến tranh, hoặc phải gặp nhiều hoàn cảnh hết sức khó khăn, đòi hỏi sự đấu tranh chật vật.
b. Những bộ sao xấu: Tử Vi Tuần hay Triệt: người không gặp thời mà gặp nạn, không thể mưu đại sự được cho dù có chí lớn.
- Tử Vi Thất Sát gặp Tuần Triệt: cũng có nghĩa trên, mưu sự bất thành, chỉ có hư danh, hay gặp tai họa.
Tử Vi ở Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi): bất trung, bất hiếu vì ở các vị trí này Tử Vi gặp Thiên La, Địa Võng (Thìn Tuất) và có Phá Quân đi kèm. Nếu được cát tinh hội tụ hóa giải thì mới có uy quyền và danh tiếng. Tại các vị trí này, Tử Vi gặp cả cát tinh và hung tinh là người đặc biệt có mưu lược, biết dùng người, có nhiều thủ đoạn, dám làm các việc bất nghĩa, chế phục hung đồ và sử dụng được cả người tốt lẫn người xấu.
Nếu Tử Phá thiếu cát tinh: bất nhân bất nghĩa, độc ác, khác máu, tham nhũng, thường bị thất bại nặng nề hoặc phải phá sản một lần.
Tử Vi Tham Lang đồng cung: đi tu (nếu hội thêm Không Kiếp thì càng chắc chắn).
Tử Vi Không Kiếp Đào Hồng: số yểu
Tử Vi Kình Đà Quyền Lộc: tốt nhưng lòng dạ hung hiểm, độc ác, vô đạo, phi nhân, bất nghĩa.
7. Ý nghĩa của tử vi ở các cung:
a. ở Phụ: Cha mẹ giàu sang, thọ, giúp đỡ được con cháu, để di sản lại nếu Tử Vi ở Ngọ, Tý, Thiên Phủ hay Thiên Tướng hay Thất Sát đồng cung. Riêng với Thất Sát thì cha mẹ bất hòa với nhau hay bất hòa với con cái. Những bất lợi gồm có:             - Tử Vi Phá Quân đồng cung: khắc cha mẹ, mồ côi hoặc phải xa cha mẹ, hạnh phúc gia đình kém             - Tử Vi Tham Lang: cũng như vậy Tuy nhiên, cần xem thêm hai sao Thái Dương và Thái Âm để phối hợp luận đoán.
b. ở Phúc: Những trường hợp tốt: được hưởng phúc lâu dài, ít tai họa, dòng họ danh giá, phú quý khi Tử Vi ở:             - Ngọ, Tý, tốt nhất là ở Ngọ             - Thiên Phủ hay Thiên Tướng đồng cung             - Thất Sát đồng cung nhưng trường hợp này họ hàng hay chính mình phải lưu lạc, xa quê mới tốt. Những trường hợp xấu về phúc đức: xa nhà, họ hàng thất tán, giảm thọ, nghèo, nếu khá giả thì yếu nếu Tử Vi ở:             - Tử Vi Phá Quân đồng cung             - Tử Vi Tham Lang đồng cung             - Tử Vi gặp sát tinh, nhất là Không, Kiếp, Kình, Đà, Linh, Hỏa. Trường hợp này bất lợi nhất.
c. ở Điền: Tại các vị trí tốt kể trên thì điền sản dồi dào, nhiều nhà cửa, phát đạt thêm mãi, được hưởng di sản hay tự tay lập nên. Nếu Tử Vi đồng cung với Sát, Phát, Tham thì không giữ được của (dù của lớn lao) hay phải phá sản (gặp Phá đồng cung) và phải sa sút dần dần. Đặc biệt, nếu gặp thêm hung sát tinh thì có thể đi đến vô sản.
d. ở Quan: Những bộ sao tốt và xấu ở Mệnh đều áp dụng cho Quan. Tốt nhất là Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với Thiên Phủ, Thiên Tướng và Thất Sát. Riêng với Thiên Tướng thì hay á quyền, độc tài, tranh quyền, người hay đảo chính hoặc lấn quyền. Đi với Thất Sát thì có năng khiếu về võ nghiệp. Nếu đồng cung với Phá, Tham thì kém hơn: gặp sự thăng trầm, tai họa, bất đắc chí trong quan trường rồi xoay qua doanh thương.
e. ở Di: Các cách Tử Vi ở Ngọ, Tử Vi ở Tý, Tử Phủ Vũ Tướng, Tử Sát đều tốt: được xã hội thuận lợi, gặp môi trường thuận tiện, sinh phùng thời, gặp nhiều người giúp đỡ, giao thiệp với bậc quyền quý và càng ra ngoài nhiều càng may mắn, được tín nhiệm kính nể, hậu thuẫn. Bất lợi là gặp Phá, Tham, sát tinh: thường bị nghịch cảnh bên ngoài, bị dèm pha, đâm chọc, quấy nhiễu, chết tha phương, bị giết, ám sát.
f. ở Tật: Tử Vi ở Tật giúp cứu giải nhiều tai ương, hiểm họa. Đây là sao giải mạnh nhất, có hiệu lực giống như Thiên Phủ, Thiên Lương. Dù đồng cung với Thất Sát cũng có giá trị cứu giải mạnh.
g. ở Tài: Tử Vi ở vị trí miếu, vượng hay đắc địa sẽ bảo đảm tiền bạc dồi dào, miễn là không gặp Tuần Triệt hay sát tinh. Đặc biệt đi với chính tinh chủ về tiền bạc như Thiên Phủ, Vũ Khúc thì càng thịnh vượng hơn nữa. Đồng cung với Thất Sát thì cũng làm giàu dễ dàng và nhanh chóng. Nếu ở Tý thì kém giàu hơn các trường hợp trên. Đồng cung với Phá thì trước nghèo sau sung túc nhưng có lần phá sản. Đồng cung với Tham thì tầm thường, của cải giảm sút lần lần cho dù có di sản. Nếu gặp sát tinh nặng thì chắc chắn có lần phá sản.
i. ở Tử: Tọa thủ ở Tử, sẽ có cả con trai lẫn con gái. Đắc địa trở lên hay đồng cung với Phủ, Tướng thì đông con và con khá giả. Với Thất Sát thì khó nuôi con, nhất là thêm các sao xấu và hiếm muộn thì ít con, muộn con. Cùng với Phá, Tham thì ít con và xung khắc với cha mẹ.
k. ở Phu Thê: - Tử Vi ở Ngọ và đồng cung với Thiên Phủ: gia đình tương đắc, hòa khí, giàu có, chung thủy Tử Vi Thiên Tướng: cả hai đều can trường và có bản lĩnh, có thể có xích mích nhưng khá giả. Thông thương,f vợ hay chồng là con trưởng. Gặp Sát, Tham: gia đạo trắc trở, muộn gia đạo mới tốt Gặp Phá: hình khắc, chia ly Gặp Tham: xung đột, bất hòa
l. ở Bào: Có Tử Vi nói chung: có anh cả, chị cả Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với Thiên Phủ, Thất Sát: anh em đông, khá giả, hòa thuận Với Thiên Tướng: khá giả nhưng hay tranh cãi bất hòa. Đồng cung với Phá Quân: có anh em dị bào, xa cách, bất hòa Đồng cung với Tham Lang: ly tán, nghèo khổ, vất vả Gặp sát tinh: anh em tử trận, hao hụt, lần hồi, không có anh em hay anh chị em là côn đồ, du đãng, đĩ điếm.
i. ở Hạn: - Tử Vi không có vị trí hãm địa nên nói chung đại tiểu hạn gặp tại các cung miếu, vượng hay đắc địa hoặc đồng cung với Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả Hữu, Khoa Quyền Lộc thì rất tốt, danh tài đều lợi, may mắn toàn diện. Nếu đi với Khôi Việt thì nhiều thắng lợi về mọi mặt. Riêng ở các vị trí bình hòa như Tý, Hợi, Mão, Dậu thì kém tốt, bình thường nên nếu gặp bất lợi thì khó qua khỏi. Nếu gặp Tuần  Triệt ở cả hai hạn thì tính mạng lâm nguy. Gặp sát tinh (Không, Kiếp, Kỵ, Hình): đau ốm, mất của, kiện tụng. Gặp Kình, Đà, Kỵ: đau ốm, mắc lừa.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO TỬ VI TRONG TỬ VI

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd