Cách xem tướng. Nhân Trung rộng, dài và sâu là tướng tốt –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Tuổi Mão
![]() |
Tình duyên của người tuổi Mão trong năm Mùi khá thuận lợi. Đặc biệt, tình cảm đôi bên càng thêm gắn kết và sâu đậm đến mức có thể tiến tới hôn nhân bền vững. Dù đang FA hay đã có gấu, chuyện tình cảm của con giáp này khởi sắc ở ba tháng giữa năm 2015 và hứa hẹn sự “bùng nổ” bất ngờ về cuối năm.
Tuổi Ngọ
Mặc dù tình cảm đã sâu đậm, cả hai đều đang phấn đấu để ổn định kinh tế trước khi đi tới quyết định “sống chung một mái nhà” với nhau. Nửa kia của bạn là người biết vun vén, phấn đấu cho gia đình và hết mực yêu thương bạn. Tất cả phụ thuộc vào sự lựa chọn của bạn mà thôi. Dù sao, tỷ lệ kết hôn trong năm nay của bạn khá cao.
Tuổi Thân
![]() |
Tình duyên của người tuổi Thân phát triển vô cùng thuận lợi, thậm chí đạt mức đỉnh điểm. Năm Mùi rất phù hợp cho việc kết hôn của con giáp này. Tuy nhiên, để có được “happy ending” ấy, đòi hỏi cả hai cùng phải nhường nhịn, dành nhiều thời gian để quan tâm đối phương hơn nữa.
Tuổi Dần
Năm nay, tình duyên của người tuổi Dần được ví như “sau cơn mưa trời lại sáng”. Mọi sóng gió sẽ qua đi, chỉ còn lại những cảm xúc ngọt ngào thăng hoa. Điều đó hứa hẹn một cái kết viên mãn, hạnh phúc cho con giáp này.
Tuổi Hợi
![]() |
Người tuổi Hợi ham chơi là vậy, nhưng khi đã “tập xác định” chuyện tình cảm, rất dễ dẫn đến hôn nhân bền vững. Đối với con giáp này, năm Mùi là “thời cơ chín muồi” để họ có thể nắm bắt hạnh phúc của đời mình. Tuy nhiên, tỷ lệ vẫn là 50-50. Kết quả cuối cùng ra sao vẫn còn phù thuộc vào quyết định của người tuổi Hợi.
Mr.Bull (theo Sina)
một sự tất yếu khi mà xã hội bắt đầu có sự sung túc thịnh vượng nên người ta đã rộng rãi nghĩ đến bắt chước người xưa? Hay chính tính hiệu quả của phong thuỷ được ứng dụng gần như suốt chiều dài của lịch sử văn minh Đông phương và ngày nay đã được khoa học coi như một đối tượng nghiên cứu? Vậy thực ra phong thuỷ là gì? Và nó có mối liên hệ thế nào với kiến trúc hiện đại mà lại được quan tâm như vậy.
Bài viết này không có tham vọng khám phá sâu vào những vấn đề định lượng và bản chất của phong thuỷ mà chỉ xin được đưa ra những kiến giải riêng về vấn đề này qua sự so sánh những quan niệm trong ứng dụng của phong thuỷ với kiến trúc hiện đại.
Thời gian gần đây, trào lưu ứng dụng Phong thuỷ trong các thiết kế về nhà ở dân dụng cũng như các cơ sở sản xuất kinh doanh v.v… dường như là một xu hướng rất thịnh hành. Mặc dù vậy, có thể nói đại bộ phận dân chúng tuy ứng dụng phong thuỷ nhưng vẫn chưa hiểu hết giá trị thực của bộ môn này. Dường như họ vẫn tin nó như một thứ quyền năng huyền bí, hoặc như một thứ tôn giáo cao cả nào đó, số ít hiểu biết hơn thì coi đây như một liều thuốc diệu kì trong y học, một phần nhỏ hơn thì biết được tính ứng dụng khoa học của bộ môn này, nhưng số đông vẫn là những hiểu biết còn lệch lạc và chưa thấu đáo.
I – Vậy thực ra Phong thuỷ là gì?
Theo từ điển Hán Việt thì phong là gió, thuỷ là nước. Phần lớn chỉ quan niệm đơn giản cho rằng: phong thuỷ là một khoa chuyên nguyên cứu về quan hệ giữa gió và nước và ảnh hưởng của nó đối với đời sống con người. Nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì quả là chưa đánh giá đúng cái chân giá trị và vai trò của Phong thuỷ trong đời sống con người!
Lịch sử hình thành các dân tộc phương Đông có khoảng trên dưới năm ngàn năm thì cũng gần hết chiều dài lịch sử đó đã thấy có sự xuất hiện của Khoa Phong Thuỷ. Những văn bản cổ xưa nhất đã ghi dấu lại bằng giáp cốt văn (chữ nòng nọc – Khoa đẩu) sau khi giải mã đã cho thấy rõ điều này.
Các thành ngữ trong dân gian như: “Chọn đất mà ở” (trạch địa nhi cư), “Gần nước hướng về mặt trời” (cận thuỷ hướng dương) cho thấy các quan niệm chọn đất có phương pháp đã phổ biến rộng rãi trong tư tưởng mọi người. Điều này chỉ ra rằng: Đã có một hệ thống tư tưởng định hướng cho dân cư cổ đại trong việc chọn địa bàn sinh sống khi thời kì quần cư bắt đầu. Dấu vết này cũng có thể nhận thấy trong Kinh Thi là tập hợp ca dao tục ngữ cổ.
Những sách vở được coi là vào thời kì Thương, Chu các địa danh đã có sự phân định khá chi tiết như đồi, núi, gò, đống chỉ những khu vực địa hình cao so với sông, suối, lạch, ngòi là những từ để mô tả những khu vực thấp trũng mang nước. Chứng tỏ con người thời kì này đã ý thức rất rõ về sự khác biệt giữa hình thể và tác dụng của nó ảnh hưởng thế nào đối với con người. Ngoài ra, truyền thuyết sử sách khi nói về sự kiện xe chỉ hướng Nam có từ thời thượng cổ, cũng chỉ ra được thành tựu của con người trong việc định phương hướng địa bàn.
Truyền thống ứng dụng phong thủy của nền văn hiến Việt cũng được nhắc tới từ thời Hùng Vương dựng nước: Trong những câu chuyện truyền miệng của các cụ già ở đất Phong Châu xưa, sự kiện Vua Hùng tìm đất đóng đô dựng nước vẫn luôn được nhắc đến với lòng trân trọng và sự tự hào, Nhà nghiên cứu Phan Kế Bính cũng đã sưu tầm và biên soạn truyền thuyết này vào trong cuốn Nghìn xưa văn hiến do nhà xuất bản Thanh Niên phát hành năm 1999.
Như vậy, có thể nói Phong thuỷ tồn tại song hành với lịch sử phát triển trải hàng nghìn năm. Tính hiệu quả của phong thủy trong xã hội Đông phương là không thể phủ nhận. Phong thuỷ đã có những đóng góp không nhỏ trong sự phát triển của các quốc gia Phương Đông, có tính tích cực như góp phần hoạch định những khu Kinh thành sầm uất náo nhiệt, kiến tạo nên những cung điện nguy nga, khiến Tây phương cũng phải ngưỡng mộ. Nhưng trong một số không ít các trường hợp do cách giải thích của những người làm nghề phong thủy vì mục đích vụ lợi hay do thiếu hiểu biết, khiến Phong thuỷ được hiểu như là một môn khoa học thần bí và bị ngộ nhận là bùa mê, thuốc lú làm tiền người dân, mê muội một bộ phận dân chúng, gây những nghi ngờ không đáng có đối với bộ môn này.
Đã có thời gian Phong thuỷ được đánh đồng với tôn giáo. Thậm chí bị coi là nhảm nhí, là mê tín dị đoan cũng chính do cách giải thích thiếu hiểu biết của chính các thầy Phong thuỷ, muốn thần thánh hoá, làm thần bí phức tạp thêm trong con mắt của gia chủ nhằm trục lợi cho bản thân. Trong bài viết này người viết xin đưa ra những luận điểm của mình với hy vọng đóng góp vào việc đưa môn Phong thuỷ dưới góc độ khoa học nhằm tránh sự hiểu nhầm sai lạc dễ đánh đồng một môn Khoa học cổ truyền với tôn giáo hay với mê tín dị đoan.
Ngày nay, phong thuỷ đã được coi là một đối tượng nghiên cứu khoa học. Nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có những cơ quan nghiên cứu về phong thuỷ. Là một người nghiên cứu về phong thủy và là kiến trúc sư, tôi nhận thấy rằng: Nếu chúng ta loại bỏ những cách giải thích rời rạc, bí ẩn về những khái niệm trong phong thuỷ thì những phương pháp ứng dụng trên thực tế của phong thuỷ hoàn toàn mang tính khách quan, tính quy luật, tính hệ thống nhất quán và khả năng tiên tri. Đấy là những yếu tố thỏa mãn tiêu chí khoa học cho một phương pháp khoa học.
Căn cứ vào những tiêu chí này, chúng tôi có thể khẳng định rằng: Phong thuỷ là một phương pháp khoa học, hoàn toàn không mang tính tín ngưỡng hoặc mê tín dị đoan. Phong thuỷ là hệ quả của một tri thức nghiên cứu về các qui luật tương tác của thiên nhiên, môi trường cảnh quan và là phương pháp thay đổi chỉnh sửa những hiệu ứng tương tác của môi trường lên cuộc sống của con người.
Vấn đề còn lại là chúng ta cần phải tiếp tục coi phong thuỷ như là một đối tượng khoa học để khám phá những thực tại được thể hiện qua những khái niệm ngôn ngữ cổ trong phương pháp luận của phong thuỷ.
II – So sánh những tương đồng của Phong thuỷ với kiến trúc hiện đại.
A) Quan niệm cân bằng Âm Dương trong phong thuỷ và tính hài hoà trong kiến trúc hiện đại.
Trước đây có người đặt vấn đề rằng: Liệu có hay không tồn tại một Khoa Phong thuỷ ở Tây Phương hay một câu hỏi cụ thể hơn là: Các công trình xây dựng của Pháp trên đất nước Việt Nam đã tồn tại cả trăm năm nay, liệu có sử dụng giải pháp gì về Phong thuỷ không mà lại tồn tại dài lâu đến vậy?
Trước hết xin đưa ra quan điểm của người viết dưới góc độ một người được đào tạo chuyên môn về kiến trúc là: Để một công trình kiến trúc có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài hàng trăm năm ấy nó phải đạt đựơc ít nhất là hai yếu tố:
Thứ nhất là về tính thẩm mĩ của công trình;
Thứ hai là phải hợp lí trong công năng sử dụng.
Hay nói ngắn gọn là công trình đó phải đẹp và hài hoà thì nó mới tồn tại lâu dài bên cạnh đó phải hợp lý trong quá trình sử dụng thì nó mới được người đời trân trọng gìn giữ và không bị đập đi thay thế bằng công trình khác.
Đứng dưới góc độ Phong thuỷ mà nói, để công trình kiến trúc tồn tại được trong một thời gian dài thì các yếu tố về cân bằng Âm dương và ngũ hành phải đạt đến mức độ chuẩn mực. Tức là nó phải bao hàm cả yếu tố thẩm mỹ và tính hài hoà cân đối. Khi các yếu tố về Âm Dương và Ngũ hành cân bằng – tức là tính thẩm mỹ, tính hài hoà và cân đối cao – thì tự bản thân công trình sẽ có tác động tích cực đến ý thức con người, khiến người ta trân trọng và có ý nghĩ bảo tồn nó.
Nói cụ thể hơn như chúng ta cũng biết trong ngôn ngữ tạo hình kiến trúc, sự phối hợp giữa các mảng đối lập tạo nên tính thẩm mĩ công trình (về màu sắc, kiểu dáng, chất liệu). Trong cân bằng có yếu tố cân bằng động và cân bằng tĩnh, nhưng chung qui vẫn cần có sự cân bằng. Để có được sự cân bằng này thì việc điều chỉnh các mảng đối lập nhau như mảng đặc đối với mảng rỗng, phần gồ ghề với phần phẳng nhẵn, miếng có kính đối với phần thịt còn lại, phần diện tích sân vườn và phần diện tích công trình phải tìm được sự hài hoà nghĩa là đạt được những tỉ lệ chuẩn mực. Những yếu tố cần về sự hài hoà trong kiến trúc hiện đại trên đây cũng chính là quan niệm của phong thuỷ với khái niệm hài hoà Âm Dương và tính tương sinh của Ngũ hành.
Cân bằng Âm Dương, Ngũ hành trong lý học Đông phương ngoài sự ứng dụng trong phong thuỷ, chúng ta cũng có thể thấy quan niệm này khi nhắc tới Đông y.
Thuyết Âm Dương Ngũ hành ứng dụng trong Đông y quan niệm rằng: Khi con người ở trạng thái cân bằng Âm Dương, Ngũ hành điều hoà thì sức khoẻ dồi dào, tâm sinh lý ổn định. Chỉ khi nào mà Âm Dương phân tán, Ngũ hành tạp loạn đưa đến mất cân bằng sinh học thì sẽ nảy sinh tật bệnh khi đó mới cần đến sự điều chỉnh lại của bác sĩ.
Như vậy, chúng ta thấy rằng: Quan niệm cân bằng Âm Dương, Ngũ hành hài hoà chính là một quan niệm phổ biến của thuyết Âm Dương Ngũ hành và cũng như ứng dụng trong phong thuỷ.
B) Tỷ lệ vàng trong nghệ thuật và kiến trúc phương Tây và khái niệm tỷ lệ “Tường minh” trong phong thuỷ Đông phương.
Trong các ngành nghệ thuật tạo hình nói chung và trong nghệ thuật Kiến trúc nói riêng tồn tại những con số, những tỷ lệ được coi là chuẩn mực. Con số và tỷ lệ này được tìm thấy qua quá trình lao động và đúc kết bằng kinh nghiệm khi quan sát và chọn lọc từ giới tự nhiên. Khi đem các con số, các tỷ lệ này vào ứng dụng trong các tác phẩm về nghệ thuật, các công trình kiến trúc thì luôn tạo được hiệu quả thẩm mỹ tuyệt vời. Tỷ lệ vàng ra đời từ đó.
Trong phương pháp ứng dụng của Huyền không ta cũng tìm thấy có những sự liên hệ tương ứng. Khi quán xét 16 cách cục trong Huyền không, ta nhận thấy trong bảng này gồm 17 cung cát và 28 cung hung và bán hung. Kết hợp với tỉ lệ “Tam phần nhân định Thất phần thiên”, được hình chữ nhật với tỷ lệ tương đương 28/17, 3 = 1,618. Đây chính là tỷ lệ vàng trong kiến trúc Phương Tây mà trong Phong Thuỷ Phương Đông gọi tỷ lệ cân bằng này là tỷ lệ “Tường minh”.
C) Quan niệm về vận động của khí trong phong thuỷ và cấu trúc nhà ở hiện đại.
Ngoài ra, sự vận hành trơn tru của dây chuyền công năng tạo nên sự hợp lý của một công trình kiến trúc, cũng chính là sự vận động của dòng khí trong Phong thuỷ.
Quan niệm của phong thuỷ cho rằng: khi dòng khí vận động không có sự hỗn loạn. Tức là sự bố trí hợp lý dây chuyền sản xuất, hoặc cấu trúc bên trong ngôi nhà không bị chồng chéo, phức tạp thì công trình đó sẽ ổn định lâu dài. Hay nói cách khác một công trình không hợp lý về mặt công năng, không chóng thì chầy sẽ phải cải tạo lại. Quan niệm của Phong thuỷ cho rằng: khi các dòng khí chuyển dịch hỗn loạn thì tác động không tốt đối với chủ thể công trình. Nếu cá nhân chủ thể công trình có nhận thức được điều này sẽ tự khắc điều chỉnh lại (tức là cải tạo sửa chữa), nếu không thì chính sự bất thường này sẽ tạo bất lợi tới chủ nhân công trình đó. Nếu là cơ sở sản xuất kinh doanh thì sẽ thua thiệt, phá sản và rồi dễ bị các cá nhân khác thâu tóm dẫn đến sự thay đổi công trình.
Thực ra trong khi Phong thuỷ cổ truyền tồn tại cả ngàn năm trên vùng đất Phương Đông bị coi là huyền bí thì ở bên trời Tây các ngành khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa công trình, tự nhiên, thiên nhiên và con người cũng tồn tại trong khoảng đó. Các dân tộc trên bán đảo Ban căng cả ngàn năm xưa cũng đề cao các yếu tố gió nước tác động đến con người qua các nghiên cứu của Hipocrat Olimpia, Acrantit..v.v…. rồi cả người Ai Cập cổ đại khi xây dựng Kim Tự Tháp cũng đã dựa vào từ trường của trái đất để hoạch định trong xây dựng.
Trong Kiến trúc hiện đại ngày nay, có một bộ môn nghiên cứu mà về cách thức vận hành và ứng dụng cũng có những điểm tương đồng với các phương pháp ứng dụng trong Phong thuỷ cổ truyền. Ví dụ như chúng ta có thể so sánh tính tương đồng trong môn Vật lí kiến trúc là một bộ môn nghiên cứu về ảnh hưởng tương tác của các yếu tố vật lí môi trường với con người và công trình và một bên là yếu tố ảnh hưởng của cảnh quan theo phương pháp Loan đầu Hình lý khí trong Phong thuỷ. Cụ thể là Vật lí Kiến trúc trong nghiên cứu về sự phân bổ của gió tự nhiên trong phòng thì đưa ra những qui luật là không tạo các cửa đối nhau trong phòng, kể cả khi cửa sổ đối diện với cửa phòng. Lí do là khi các cửa đối nhau này hình thành thì dễ tạo các luồng gió xuyên phòng đột ngột không có lợi cho người ở, thứ hai là sự lưu thông không khí trong phòng kém dễ tạo môi trường thuận lợi cho các loại vi khuẩn yếm khí hoạt động, điều này không tốt cho sức khoẻ con người.
Chúng ta có thể nhận thấy điều này qua hình minh hoạ dưới đây trong vật lý kiến trúc:
Trong quan niệm của yếu tố Cấu trúc hình thể – Dương trạch – thì sự vận hành của dòng khí được rất coi trọng và cũng không chấp nhận sự đối môn của các cửa thông nhau. Giả dụ như nếu gặp ba cửa liên tiếp thì các phong thuỷ gia kinh nghiệm sẽ lập tức chuyển cửa thứ ba sang một bên, hoặc sử dụng bình phong để thay đổi sự vận hành của dòng khí theo quan niệm phong thuỷ. Quan niệm phong thuỷ cho rằng: Khi dòng khí quá mạnh có thể biến thành xung sát khí. Bên cạnh đó trong môn này cũng rất chú trọng tìm cửa thoát khí sau khi đã tìm được cửa nạp khí quan trọng, nhằm tránh hiện tượng bế khí có thể gây những trục trặc về sau này cho gia chủ.
Đó chính là những điểm tương đồng của Cấu trúc hình thể trong phong thuỷ với Vật lí Kiến trúc. Nhưng bên cạnh đó thì phong thuỷ còn chú trọng cả việc tìm cửa với sự tương quan của cửa đối với khu trung tâm Thái cực còn gọi là tâm công trình và tác động của cảnh quan môi trường – phương pháp Loan đầu.
Trong các nguyên lí thiết kế dù là cơ bản nhất trong Kiến trúc cũng thấy có sự tương đồng. Ví dụ như khi quán xét một khu đất để đưa ra bố cục công trình thì một Kiến trúc sư có nghề luôn phải chú trọng tìm đường to phố lớn, các trục giao thông chính để hướng công trình mình thiết kế về chỗ đó. Còn trong phương pháp ứng dụng của Phong thuỷ cũng lấy dương làm hướng, tức là cũng tìm luồng chảy của con sông, mặt hồ , hay luồng người đi lại trên đường phố để đón lấy dòng sinh khí vậy. Phong thuỷ gọi đây là sự vô tình hay hữu tình của công trình đối với các yếu tố tương tác còn lại. Hai khái niệm khác nhau của hai bộ môn khác nhau, nhưng đích đến thì hoàn toàn có sự thống nhất.
D) Cấu trúc hình thể trong phong thuỷ và kiến trúc hiện đại.
Ngoài ra chúng ta cũng có thể tìm khá nhiều những điểm tương đồng giữa Kiến trúc hiện đại và Phong thuỷ ví dụ như: Phong thuỷ thường đặt Thuỷ trước công trình (Minh Đường tụ thuỷ) thì bên Tây phương việc hồ nước xen lẫn công trình cũng là điều được khuyến khích vì mặt nước ngoài việc tạo điểm nhấn sinh động, giúp tăng không gian tăng độ bề thế cho công trình nó còn cung cấp thêm các ion âm có lợi cho sức khoẻ, đồng thời những khu vực nào có hồ nước sẽ giúp điều tiết khí hậu. Khoa học nhận thấy rằng các khu vực gần biển hoặc nhiều sông hồ thì thường có lợi hơn các khu vực còn lại với nhiệt độ chênh lệch khoảng từ 1 đến 2 độ C.
Như vậy, qua những dẫn chứng căn bản ở trên, chúng ta cũng thấy được những sự tương quan ứng dụng của Phong thuỷ Đông phương với những tri thức khoa học và kiến trúc hiện đại và chúng ta về cơ bản cũng thấy được tính khoa học của phương pháp ứng dụng trong phong thuỷ Đông phương.
Nhưng tới đây có thể đặt vấn đề, nếu như vậy thì tại sao không bỏ Phong thuỷ cổ truyền mà chỉ cần ứng dụng những môn Khoa học hiện đại vì những tương ứng thay thế nó và những nghiên cứu khoa học của kiến trúc hiện đại lại còn có thực nghiệm chi tiết và cụ thể hơn, chứ không mang tính định tính khó kiểm chứng như Phong thuỷ? Những điều này sẽ được lý giải ở phần tiếp theo dưới đây.
III – Phong thuỷ và những vấn đề cần tiếp tục khám phá dưói góc nhìn khoa học.
Quả thật Phong thuỷ là một môn học thuật cổ từ ngàn năm nay và với tri thức hiện đại thì chúng ta thấy rằng những ứng dụng phong thuỷ mới chỉ mang nặng định tính chứ chưa cụ thể chi tiết và mang tính định lượng như khoa học hiện đại. Chúng ta cũng biết rất rõ điều này. Tuy nhiên trong Phong thuỷ đã có những ứng dụng thành công từ rất nhiều năm nay nhưng khoa học hiện đại với những công cụ tiên tiến nhất vẫn chưa thể giải thích nổi.
Như trong Phái Bát trạch thì dựa vào 8 hướng chính mà phân cung định hướng ra làm 8 quẻ, mỗi quẻ thì có một vai trò ảnh hưởng nhất định đối với chủ thể công trình. Như phương Nam chủ về Danh tiếng, Bắc thì chủ về Quan lộc địa vị, phương Đông chủ về gia đình sức khoẻ, Tây chủ về con cái, sự vui vẻ v.v… Khuyết hãm bất cứ một cung nào trong công trình thì đều ảnh hưởng đến chủ nhân công trình tương ứng về mặt đó. Trong các ứng dụng về phong thuỷ nhiều người đều thừa nhận là có hiệu quả. Nhưng chúng vẫn tồn tại như một tiên đề và là hiện tượng cần tìm hiểu, khám phá của tri thức khoa học hiện đại.
Có thể dẫn chứng một trường hợp cụ thể một thời từng gây xôn xao dư luận. Đó là về một toà nhà chung cư hiện đại ở Hồng kông, nơi những người nổi tiếng và thành đạt như Thành Long, Lý Liên Kiệt đã từng ở. Hiện tượng như sau:
Lúc xây dựng toà nhà thì mặt đứng toà nhà chưa hề có trổ lỗ thông khí (ảnh bên), khi đó người dân trong khu dân cư hiện đại này toàn mắc những bệnh kì quái và gặp những chuyện không hay trong công việc. Sau khi được xử lí theo tư vấn của chuyên gia về Phong thuỷ trích một lỗ trên mặt đứng toà nhà. Sau một thời gian thì thấy có sự thay đổi rất kì diệu: sức khỏe của đại bộ phận dân cư tăng lên trông thấy công việc thì trôi chảy hơn trước.
Điều này Khoa học hiện đại cũng chưa có được những lí giải hợp lý, trong khi các thầy Phong thuỷ kinh nghiệm thì lại thấy rõ chân tướng của vấn đề. Những phong thuỷ gia cho rằng: Do toà nhà đã cản luồng khí được hình thành từ những dãy núi trước mặt, tạo nên một xung sát khí cho toà nhà này. Vì thế khi trổ một lỗ thông khí như hình dưới đây thì luồng khí trở nên thông thoáng, giải quyết sự bế khí theo Phong thuỷ (là một yếu tố xấu gây trì trệ bất lợi), từ đó tạo nên sự phát triển của ngôi nhà. Điều này khoa học chưa giải thích được.
Ngoài ra còn một số người thật, việc thật như việc làm Phong thuỷ khu Trung tâm thương mại Sim Lim, một khu thương mại chuyên bán hàng điện tử bên Singapore. Sau khi đạt được bố cục Phong thuỷ, nơi đây đã trở thành một trung tâm thương mại buôn bán hàng công nghệ cao thuộc loại sầm uất nhất ở Singapore cũng như Đông Nam Á. Một điểm du lịch hầu như mọi khách du lịch khi đến quốc đảo này đều muốn ghé qua. Khu du lịch này hàng năm đem lại những lợi nhuận rất đáng kể cho kinh tế nước này. Câu chuyện làm Phong thuỷ tại khu vực này đều được các hướng dẫn viên du lịch Singapore hướng dẫn rất chi tiết cho du khách và hầu hết người dân nước này đều biết.
Đối với những độc giả có quan tâm chủ đề Phong Thuỷ Lạc Việt đều biết trường hợp nhà một người điên được hội viên Bigdog đưa lên nhờ giúp đỡ. Trường hợp này theo hội viên trên nói thì nạn nhân bị điên đến nỗi bệnh viện trả về, từ chối điều trị nhưng sau một thời gian nhà cửa được sự can thiệp của các chuyên gia Phong thuỷ của Trung tâm nghiên cứu lý học Đông phương tư vấn cho gia chủ cải tạo sửa chữa triệt để theo yêu cầu, tình hình đã thấy cải thiện rõ rệt.
Trích nguyên văn lời hội viên Bigdog như sau: “Hiện tình trạng của chủ nhà đã tiến triển rất nhiều. Từ chỗ bệnh viện Thanh Hoá ngừng điều trị Tây Y, chuyển qua Đông Y với ngầm hiểu là không cứu vãn được, đến nay chỉ sau hơn 1 tuần đã có thể đi chơi gần quanh xóm,đã có thể nói chuyện vài ba câu đơn giản thể hiện sự phục hồi của não”.
Như vậy qua các dẫn chứng từ những thực tế khách quan trên thì ta có thể nhận thấy là về mặt lý thuyết Khoa Phong thuỷ có những mặt tương đồng với khoa học hiện đại. Bên cạnh đó về thực tế lại có những ứng dụng hết sức diệu kì mà khoa học ngaỳ nay vẫn chưa giải thích được. Điều này có thể bước đầu khẳng định môn Phong thuỷ có những giá trị không thể xem thường và những ứng dụng của nó còn vượt cả nhận thức của những khoa học hiện đại.
Nếu đi sâu vào nghiên cứu những lí thuyết được coi là nền tảng của môn Phong thuỷ này thì ta cũng thấy được những lý thuyết này liên quan đến một tri thức cao cấp là Thiên văn học và hiệu ứng tương tác của từ trường trái Đất.
IV – Phong thuỷ và tri thức hiện đại.
Phong thuỷ và thiên văn học.
Những người am hiểu về Phong thuỷ cũng đều biết là lý thuyết khởi nguyên trong những ứng dụng của Phong thuỷ đều dựa vào Hà đồ và Lạc thư làm tiền đề rồi từ đó phát triển thành phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Ví dụ như luận điểm của phương pháp Bát Trạch thì dựa vào Lạc thư phối hợp với Hậu Thiên bát quái làm nên tảng để phân ra các mệnh quái đối với từng loại người, rồi từ đó kết hợp với các quái Phương vị rồi luận cát hung, trong khi Phái Huyền Không thì lấy Lạc thư dùng để phi tinh đồng thời cũng kết hợp với Hà đồ và Tiên Thiên bát quái để luận đoán các cục vượng suy theo từng vận trình v.v… mà Hà đồ và Lạc thư theo một số nhà nghiên cứu thì được tìm ra do sự quan sát của người xưa về sự chuyển dịch của các vì sao trên trời.
1 – Bản chất Hà Đồ:
Hà đồ hoàn toàn không phải là do con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và vua Phục Hy căn cứ vào các vòng xoáy trên người vẽ ra như cổ thư chữ Hán nhắc đến. Theo những công trình nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương thì Hà Đồ chính là sự qui ước sự vận động có tính qui luật của ngũ tinh trong Thái Dương hệ. Điều này được mô tả như sau:
Quan sát kỹ hình ảnh Hà đồ và thử quan sát bầu trời ta có thể thấy:
Hàng tháng vào ngày 1, 6, 11 ,16, 21, 26; hàng năm cứ vào tháng 1, tháng 6 thấy sao Thuỷ sắc đen xám ở Phương Bắc ( độ số 1 và 6).
Hàng tháng vào ngày 2, 7 ,12, 17 ,22, 27; hàng năm cứ vào tháng 2, tháng 7 thấy sao Hoả sắc đỏ đậm ở Phương Nam ( độ số 2 và 7).
Hàng tháng vào ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28; hàng năm cứ vào tháng 3, tháng 8 thấy sao Mộc Sắc xanh ở Phương Đông (độ số 3 và 8)
Hàng tháng vào ngày 4, 9, 14 ,19, 24, 29; hàng năm cứ vào tháng 4, tháng 9 thấy sao Kim sắc đen trắng ở Phương Tây ( độ số 4 và 9).
Hàng tháng vào ngày 5, 10, 15 ,20, 25, 30; hàng năm cứ vào tháng 5, tháng 10 thấy sao Thổ sắc vàng đục ở giữa bầu trời (độ số 5 và 10).
2 – Bản chất Lạc thư.
Quan sát kĩ hình ảnh của Tử vi viên và Thái vi viên sẽ thấy:
Năm chấm trắng chính giữa chính là toà Ngũ đế gồm 5 ngôi sao trong Thái vi viên.
Một chấm trắng chính giữa chính là sao Bắc thần, phương chính nam là chòm Thiên kỷ (gồm 9 sao), phương chính Tây chính là chòm Thất công (gồm 7 sao), Phương chính Đông gồm 3 sao trong chòm Câu trần. Bên phải là hai sao Hổ bôn, Bên trái là 4 sao Tứ phụ, bên phải Bắc Thần là chòm 6 sao Thiên trù, Bên trái Bắc cực là 8 sao của chòm Hoa cái.
Có thể nói Lạc thư và Hà đồ là những đồ hình căn bản trong tất cả các phương pháp ứng dụng của học thuật cổ Đông phương trong đó có phong thủy. Điều này cho chúng ta thấy nguồn gốc thiên văn là một yếu tố cấu thành quan trong của môn phong thủy.
Như vậy chúng ta có thể thấy về cơ bản cội nguồn rất khoa học của Phong thuỷ chính là Thiên Văn học, vì dựa trên nguyên lý căn bản là những tri thức thiên văn học như đã trình bày ở trên.
3 – Phong thuỷ và hiệu ứng từ trường trái đất.
Hiện tượng đầu tiên để minh chứng cho điều này chính là chiếc La kinh – một dụng cụ định hướng cổ tương tự như La bàn hiện nay. Căn cứ sự định hướng của chiếc la kinh này và những nguyên lý căn bản từ tri thức thiên văn đã trình bày ở trên, tất cả mọi phương pháp ứng dụng của phong thuỷ được thực hiện dựa trên sự định hướng phương vị của la bàn. Hay nói cách khác: Phong thuỷ căn cứ vào hiệu ứng tương tác của từ trường trái Đất qua chiếc la kinh – tương tự như La bàn hiện nay.
Kết luận
Có thể nói Khoa Phong thuỷ chính là sản phẩm sáng tạo của con người, nó được sớm hình thành cùng với sự phát triển của loài người từ xã hội sống quần cư đến xã hội văn minh, nó dựa vào các quy luận vận động khách quan và được tổng hợp lại bởi những tri thức của người xưa do đó nó có nhiều điểm tương đồng với các môn khoa học khác đặc biệt là những môn khoa học hiện đại về xây dựng của Phương Tây.
Thêm nữa với những nghiên cứu về Thiên văn học, ta cũng thấy rằng nền tảng lý thuyết cơ bản của Phong Thuỷ có liên hệ chặt chẽ tới môn khoa học cấp cao là Thiên văn học. Do đó việc nhìn nhận môn Phong thuỷ như một đối tượng nghiên cứu của khoa học vì có đầy đủ những yếu tố đáp ứng cho một tiêu chí khoa học là một việc làm cần thiết nhằm phục vụ đời sống con người.
Trong dòng sông dài lịch sử, vô số câu chuyện đã được lưu giữ lại, truyền lại từ đời đời. Phảng phất đâu đó là hiện thực cuộc sống, những câu chuyện này mang đến một bức tranh thế giới cổ xưa làm say đắm lòng người.
Thời Xuân Thu, Tần Mục Công nước Tần có một cô con gái; lúc cô bé mới được sinh ra, có người đem dâng Tần Mục Công một viên đá ngọc bích, ông sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc xanh biếc trông rất đẹp.
Ðến hôm con gái Mục Công tròn 1 tuổi, trong cung bày bàn tiệc tổ chức ngày lễ “chọn đồ vật đoán tương lai” cho cô bé. Đây là một tập tục của người xưa, đến ngày tròn 1 tuổi, cha mẹ sẽ bày lên một cái đĩa bao gồm các đồ vật để con tự do lựa chọn theo sở thích của mình. Lúc này, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.
Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại sẵn tính thông minh trời ban, rất có tài thổi sáo, không cần học ai cả, mà tự thành âm điệu, hơn nữa nàng không cứng nhắc theo chỉ dạy của nhạc sỹ, mà tự thả hồn theo âm nhạc, tiếng sáo nghe rất tuyệt diệu. Mục công sai thợ làm một cái sáo bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi cái sáo ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.
Mục Công rất yêu quý con gái, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là “Phượng lâu”, trước lầu có xây một cái đài cao gọi là “Phượng đài”. Năm Lộng Ngọc mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kén rễ cho nàng, Lộng Ngọc nói với cha rằng:
“Con muốn tìm người có tài thổi sáo và có thể họa xướng cùng với con, khi đó con sẵn lòng lấy người ấy làm chồng, còn không thì con cũng chẳng thiết tha gì”.
Mục Công sai người đi tìm nhưng chẳng được một người nào vừa ý. Một hôm, Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, nàng gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi lấy cái sáo bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sáo véo von vọng lên vòm trời, gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không khỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, cố ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn vang vọng không dứt.
Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nửa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sáo để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trai trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:
“Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy!”
Chàng trai trẻ tuổi ấy nói xong, lấy tay cởi bỏ ống ngọc tiêu đeo bên hông xuống, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.
Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm hồn, hỏi rằng: “Ca khúc này là gì?”
Chàng trai trẻ tuổi ấy nói: “Đây là khúc ‘Họa Sơn Ngâm’ đó!”
Lộng Ngọc lại hỏi: “Ca khúc này có học đưọc không?”
Chàng trai ấy nói: “Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được”.
Chàng trai trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt, cầm lấy tay của Lộng Ngọc; Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục Công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Người nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:
“Hôm rằm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không rõ là người ở đâu”.
Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:
“Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?”
Mạnh Minh nói:
“Tôi là đại thần nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi sáo, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công sai tôi đến đón!”
Tiêu Sử nói: “Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết đôi chút về nhạc điệu mà thôi, tôi đâu dám vâng mệnh”.
Mạnh Minh nói: “Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công”.
Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục Công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục Công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng: “Chúng thần ở nơi dân giã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho”.
Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh tú, không phải là người thường, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng: “Ta nghe nhà ngươi có tài thổi tiêu, chắc là cũng tài thổi cả sáo nữa!”
Tiêu Sử nói: “Thần chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi sáo”.
Mục công nói: “Ta định tìm một người có tài thổi sáo, nếu chỉ biết thổi tiêu thì không sánh đôi với con ta được!”
Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử đi ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục Công rằng:
“Tiêu với sáo cũng là một loài, người ta đã có tài thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài”.
Mục Công lấy làm có lý, bèn bảo Tiêu Sử thổi tiêu. Tiêu Sử mới dạo một khúc thì thấy có gió mát hây hây; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít; một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục Công rất lấy làm hài lòng.
truyền thuyết, tiêu sử, tiêu, tiếng sáo, mục công, lộng ngọc, chuyện tình,
Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng: “Người ấy thật xứng làm chồng ta!”
Mục Công lại hỏi Tiêu Sử rằng: “Nhà ngươi biết sáo và tiêu làm ra từ đời nào không?”
Mục Công nói: “Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguồn gốc cho ta nghe”.
Tiêu Sử tâu rằng:
“Kỹ năng của thần là ở ống tiêu, vậy thần xin kể nguyên lai của ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu.
Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa”.
Mục Công lại hỏi: “Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?”
Tiêu Sử nói:
“Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là dẫn đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác!”
Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục Công càng thấy bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:
“Ta có một người con gái, tên gọi Lộng Ngọc, cũng có biết âm nhạc, không muốn gã cho người ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên”.
Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:
“Thần vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý!”
Mục Công nói:
“Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi sáo thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi sáo nhiều lắm. Vả lại con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ”.
Tiêu Sử lạy tạ. Mục Công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:
“Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn”.
Tần Mục Công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục Công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được thần thái của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm.
Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau chừng được nửa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.
Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:
“Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống làm họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi”.
Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng: “Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng!”
Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục Công. Mục Công thở dài mà than rằng:
“Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vị nữa !”
Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, công tôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục Công đều cho làm quan đại phu.
Một hôm, Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón. Mục Công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cảm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục Công đã đắc đạo thành tiên.
Ở một miền đất mới, các vị sư phải tự xây dựng lại mọi thứ. Họ mua đất, gạch, dụng cụ và bắt tay vào làm việc. Một chú tiểu được giao xây bức tường với 1000 viên gạch.
Chú rất tập trung vào công việc, luôn kiểm tra xem viên gạch đã thẳng thớm chưa, hàng gạch có ngay ngắn không. Công việc tiến triển khá chậm vì chú làm rất kỹ lưỡng. Tuy nhiên, chú không lấy đó làm phiền lòng bởi vì chú biết mình sắp sửa xây một bức tường tuyệt đẹp đầu tiên trong đời. Cuối cùng, chú cũng hoàn thành công việc vào lúc hoàng hôn buông xuống.
Khi đứng lui ra xa để ngắm lại thành quả công trình lao động của mình, chú bỗng cảm thấy có gì đó đập vào mắt mình: Mặc dù chú đã rất cẩn thận khi xây bức tường, song vẫn có 2 viên gạch bị đặt nghiêng. Và điều tồi tệ nhất là 2 viên gạch đó nằm ngay chính giữa bức tường. Chúng như đôi mắt đang trừng trừng nhìn chú. Điều đó khiến chú tiểu cảm thấy vô cùng thất vọng.
Kể từ đó, mỗi khi du khách đến thăm ngôi đền, chú tiểu đều dẫn họ đi khắp nơi, trừ đến chỗ bức tường mà chú xây dựng.
Một hôm, có 2 nhà sư già đến tham quan ngôi đền. Chú tiểu đã cố đưa họ sang hướng khác nhưng 2 người vẫn nằng nặc đòi đến khu vực có bức tường mà chú xây dựng.
Một trong 2 vị sư khi đứng trước công trình ấy đã thốt lên: “Ôi, bức tường gạch mới đẹp làm sao!”.
“Dạ ngài nói thật chứ? Ngài không thấy 2 viên gạch xấu xí ngay ở giữa bức tường kia ư?” – Chú tiểu kêu lên trong ngạc nhiên.
“Có chứ, nhưng ta cũng thấy 998 viên gạch còn lại đã ghép thành một bức tường tuyệt đẹp thế nào!” – Vị sư già từ tốn trả lời.
Đôi khi chúng ta quá nghiêm khắc với bản thân mình, khi cứ luôn nghiền ngẫm nhưng lỗi lầm mà ta đã mắc phải, cho rằng cả thế giới đều nhớ đến nó và quy trách nhiệm cho ta. Chúng ta đã hoàn toàn quên rằng đó chỉ là 2 viên gạch xấu xí giữa 998 viên gạch hoàn hảo.
Và đôi khi, chúng ta lại quá nhạy cảm với lỗi lầm của người khác. Khi bắt gặp ai mắc lỗi, ta nhớ kỹ từng chi tiết. Và hễ có ai nhắc đến tên người đó, ta lại ngay lập tức liên hệ đến lỗi lầm của họ.
Hãy mở rộng tâm hồn của mình ra, khi đó chúng ta sẽ thấy rằng: Cuộc sống này thật tốt đẹp biết bao!
Những chòm sao nào nhớ lâu thù dai? Vị trí đầu bảng thuộc về Bò Cạp, kế tiếp là Song Ngư, Bạch Dương và Song Tử. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết dưới đây để hiểu thêm.
Nội dung
Chòm sao này thích trắng đen rõ ràng, cá tính mạnh mẽ và ghét nhất là sự phản bội. Trong khi các chòm sao khác chọn cách than vãn với bạn bè về sự đau khổ của mình, thì Bò Cạp lại nuốt hận vào trong, thù dai muôn thuở và tìm kế trả đũa.
Cách tốt nhất để không bị Bò Cạp thù bạn đó là đừng làm gì đắc tội với bạn ấy. Khi ai đó đã lỡ làm điều gì đó khiến Bò Cạp nổi giận đùng đùng, người ấy sẽ phải nhanh chóng tìm cách để bạn tha thứ, nếu không sẽ lĩnh đủ những trò trả đũa của bạn.
Nếu bị thất tình, tất nhiên Song Ngư rất muốn báo thù. Nhưng vì trái tim quá mềm yếu nên các “thủ đoạn” trả thù của bạn đều không được thực hiện hoặc vô tác dụng, thậm chí còn làm trò cười cho đối phương.
Có thể nói Song Ngư sở hữu cá tính mà không chòm sao nào có đó là có chết cũng không cam lòng. Nên khi đã yêu say đắm, dù đối phương có tỏ ra lạnh lùng, ít quan tâm đến mình, bạn vẫn lấy đó làm niềm vui, không hề trách móc điều gì. Nhưng khi đã bị tổn thương về tình cảm, bạn sẽ khắc cốt ghi tâm, ghi nhớ điều đó đến suốt đời.
Một khi muốn trả thù, khẳng định rằng Bạch Dương sẽ không giở thủ đoạn nào cả mà thẳng thắn đối diện, có thể là cho đối phương một cái tát nảy lửa chẳng hạn.
Chòm sao này vốn tính cách nóng nảy, nên không suy nghĩ thấu đáo hoặc tìm ra những thủ đoạn lắt léo để trả thù đâu. Dù có thù dai đến mấy nhưng Bạch Dương vẫn sẵn sàng đón nhận tình cảm của người mới chứ không vì một lần vấp ngã mà khép chặt cửa trái tim.
Vốn tính thông minh, quyết đoán và nhạy bén trong việc xử lý mọi chuyện, Song Tử sẽ vận dụng tất cả thế mạnh của mình để khiến người đã công kích mình phải lao đao đủ bề.
Một khi bạn đã chủ động “khiêu chiến” thì đối phương sẽ khó mà có được thoát. Lực lượng bạn bè đông đảo sẽ giúp bạn nhanh chóng vô hiệu hóa đối phương. Do vậy, tốt nhất đừng ai đắc tội với Song Tử nhé, bởi bạn ấy sẽ thù dai nhớ lâu lắm đó.
Xem thêm: 12 cung hoàng đạo
Hãy có tâm từ đối với đàn-việt, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt. Mùa mưa đến, chư Tăng Ni đều y theo lời Phật thực hành an cư. Đạo tràng an cư tu học thanh tịnh tất yếu nhờ ơn ngoại hộ của các thí chủ, đồng thời thí chủ cũng nương tựa chư Tăng Ni để tu học và thành tựu phước báo hộ trì.
Hành giả an cư ngoài việc tinh chuyên trau dồi giới định tuệ còn quán niệm bốn ơn. Trong đó, luôn nhớ nghĩ công ơn thí chủ và thể hiện bằng cách rải từ tâm đến đàn-việt để người thí và người nhận thí đều thanh tịnh, đều được công đức.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Hãy xem đàn-việt thí chủ như thế nào?
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
– Thế Tôn là vua của các pháp. Cúi mong Thế Tôn nói nghĩa này cho các Tỳ-kheo, chúng con nghe xong sẽ vâng giữ tất cả.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ phân biệt nghĩa này cho các Thầy.
– Hãy cung kính đàn-việt thí chủ như con hiếu thuận cha mẹ, nuôi dưỡng, hầu hạ, làm tăng trưởng ngũ ấm. Ở cõi Diêm-phù-đề hiện các thứ nghĩa: Quán đàn-việt thí chủ hay thành tựu giới, văn, tam muội, trí tuệ cho người. Này các Tỳ-kheo, đàn-việt có nhiều lợi ích, đối với Tam bảo không có chướng ngại, hay bố thí các Thầy y phục, thức ăn uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc thang trị bệnh. Thế nên, này các Tỳ-kheo, hãy có tâm từ đối với đàn-việt, ơn nhỏ còn chẳng quên huống là ơn lớn; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt, nói hạnh trong sạch của thân, miệng, ý chẳng thể cân xứng, cũng không có giới hạn. Thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, khiến cho vật bố thí của đàn-việt trọn không bị phí bỏ, được quả báo lớn, thành tựu phước đức lớn, có danh tiếng lớn, lưu truyền pháp vị cam lồ trong thế gian. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Thí để thành của lớn/ Chỗ nguyện cũng thành tựu/ Vua và những tên trộm/Chẳng thể đoạt vật kia/ Thí để được ngôi vua/Nối dõi ngôi Chuyển luân/ Bảy báu thành đầy đủ/Vốn do thí mà được/Bố thí thành thân trời/Đầu đội mũ báu đỏ/Cũng các kỹ nữ dạo/Vốn quả báo của thí/Thí được trời Đế Thích/Vua trời oai lực thịnh/Ngàn mắt trang nghiêm thân/Vốn quả báo của thí/Bố thí thành Phật đạo/Đủ ba mươi hai tướng/Chuyển Pháp luân vô thượng/Vốn quả báo của thí.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Hộ tâm, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.107)
Y theo lời Phật dạy, hành giả an cư thương kính và trân trọng đàn-việt, thí chủ vì nhờ ơn ngoại hộ mà mình có đầy đủ bốn vật dụng (y phục, thức ăn uống, giường chõng, ngọa cụ, thuốc thang) để yên tâm tu học, và nhất là “thành tựu giới, văn, tam muội, trí tuệ”.
Cho nên, “hãy có tâm từ đối với đàn-việt; hằng lấy lòng từ hướng về đàn-việt; thân hành từ, miệng hành từ, ý hành từ, khiến cho vật bố thí của đàn-việt trọn không bị phí bỏ, được quả báo lớn, thành tựu phước đức lớn” chính là một trong những pháp hành quan trọng của các hành giả an cư.
Tâm từ là một chất liệu kết dính mối quan hệ giữa bốn chúng đệ tử Phật luôn bền chặt, hòa hợp và thanh tịnh. Nhờ ban rải từ tâm mà người thí và người nhận đều thành tựu công đức, phước báo vô lượng.
Ngày nay, ngành Điều Khiển Học cũng có 1 nguyên lý gần tương tự với tên gọi là cơ chế Feed back (Hồi tác) lấy đại lượng đầu ra tác động lại đại lượng đầu vào. Tuy vậy, có 1 điểm khác giữa 2 nguyên lý này: Cơ chế feed back nhìn nhận đại lượng đầu vào là vật chất như 1 dạng thức duy nhất, Ngũ hành lại phân ra 2 dạng thức âm & dương.
Ngũ hành được thấy trong hầu hết các môn học dự đoán và được xem như 1 nguyên tắc giải quyết mọi vấn đề khi dự đoán. Tuy nhiên, cũng từ điểm này đã nảy sinh ra bao phương pháp, cách thức áp dụng nguyên lý này vào công việc dự đoán khá kỳ dị, tương tự như trường hợp các nhà giả kim thuật bên phương tây thời trung cổ cho rằng có 1 qui tắc gỏ chì, gỏ đá thành vàng !
Ngũ hành để áp dụng được chính xác nó đòi hỏi người sử dụng cần phải có hiểu biết triết học cơ bản. Nói đến triết tưởng như là điều khó khăn, xa vời. Thật ra, học sinh trung học ở các quốc gia tiên tiến đều được học triết học cơ bản dưới các tên gọi khác nhau. Tôi khẳng định lại điều này: Không có hiểu biết triết học cơ bản sẽ không thể áp dụng chinh xác nguyên lý ngũ hành vào công việc dự đoán được ! Các bạn có thể tham khảo các sách bàn về Âm Dương Luận hoặc triết học biện chứng luận ở chương trình bậc đại học để bổ sung phần kiến thức này.
- Sinh: Hàm ý hỗ trợ, tạo ra ;
Khắc: Hàm ý khắc chế, kềm hãm.
- Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ chỉ là tên định danh, không phải là 5 đại diện vật chất như cách hiểu thô sơ trước đây.
2. Ngũ hành biến hoá:
Vật chất vận động mang tính cân bằng tương đối. Khi sự cân bằng bị phá vỡ tất phải có nguyên nhân & kết quả. Tôi sẽ trình bày 10 nguyên nhân & kết quả ấy như sau:
Nguyên nhân Mộc vượng (Vị trí mộc mạnh lên,H.2)
* Nguyên nhân Hoả vượng (Vị trí hoả mạnh lên. H.3a)
Kết quả: Mộc & Thổ vượng theo.
Còn: Thuỷ & Kim suy giảm.
Nguyên nhân Hoả suy (Vị trí hoả suy yếu. H.3b)
Kết quả: Mộc & Thổ suy theo
Còn: Thuỷ & Kim vượng lên.
* Nguyên nhân Thổ vượng (Vị trí thổ mạnh lên. H.4a)
Kết quả: Hoả & Kim vượng theo,
Còn: Mộc & Thuỷ suy giảm.
Nguyên nhân Thổ suy (Vị trí thổ suy yếu. H.4b)
Kết quả: Hoả & Kim suy theo.
Còn: Mộc & Thuỷ vượng lên.
* Nguyên nhân Kim vượng (Vị trí kim mạnh lên. H.5a)
Kết quả: Thổ & Thuỷ vượng theo,
Còn: Mộc & Hoả suy giảm.
Nguyên nhân Kim suy (Vị trí kim suy yếu. H.5b)
Kết quả: Thổ & Thuỷ suy theo.
Còn: Mộc & Hoả vượng lên.
* Nguyên nhân Thuỷ vượng (Vị trí thủy mạnh lên. H.6a)
Kết quả: Mộc & Kim vượng theo,
Còn: Hoả & Thổ suy giảm.
Nguyên nhân Thuỷ suy (Vị trí thủy suy yếu. H.6b)
Kết quả: Mộc & Kim suy theo.
Còn: Hoả & Thổ vượng lên.
Qui tắc: “Một vị trí Vượng kéo theo 2 vị trí bên cạnh vượng theo, còn lại là suy. Một vị trí Suy kéo theo 2 vị trí bên cạnh suy theo, còn lại là vượng”
1. Ví dụ minh hoạ:
Ví dụ 1: Ta xem xét 1 mối quan hệ sau:
* Khi cha mẹ tôi hỗ trợ cho tôi, thì: (hình 7)
Tôi hỗ trợ cho vợ tôi
Vợ tôi hỗ trợ cho bên thân tộc của cha mẹ tôi
Thân tộc hỗ trợ cho các mối quan hệ xã hội của cha mẹ tôi
Quan hệ xã hội hỗ trợ cho cha mẹ tôi
* Khi cha mẹ tôi kềm hãm vợ tôi, thì:
Vợ tôi kềm hãm quan hệ xã hội của cha mẹ tôi
Quan hệ xã hội sẽ kềm hãm tôi
Tôi sẽ kềm hãm mối quan hệ thân tộc
Quan hệ thân tộc sẽ kềm hãm cha mẹ tôi
Thấy rằng vị trí của người làm cha làm mẹ quan trọng như thế nào !
Ví dụ 2: Vẫn ví dụ trên, nhưng cho “Tôi” suy yếu đi
* Khi tôi lụn bại vì nghiện ngập, thì (hình 8)
Cha mẹ tôi & vợ tôi suy yếu theo
Quan hệ thân tộc vượng lên chế khắc cha mẹ tôi
Quan hệ xã hội chế khắc tôi.
Để thoát khỏi tình cảnh trên, đồ hình ngũ hành cho ta 3 cách:
* Cách 1: Chính bản thân tôi phải tự vươn lên. (hình 9)
* Cách 2: Cha mẹ tôi vượng lên để kéo tôi lên theo (hình 10)
* Cách 3: Vợ tôi vượng lên để kéo tôi lên theo (hình 11)
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
Một câu chuyện khá cảm động về tình cảm giữa những con người với nhau. Sự cảm thông chia sẻ trong lúc khó khăn, cuộc sống vẫn trôi qua từng ngày nhưng họ vẫn ghi nhớ sự giúp đỡ và nhớ tới nhau. Đó là thông điệp của câu chuyện này. Cùng theo dõi câu chuyện nhé...
"Ông Chu là một tài xế lái xe taxi, hàng ngày ông đều giao trả xe lúc 5 giờ rưỡi chiều. Hôm đó, ông cũng lái xe như thường lệ. Đến con đường cạnh cổng trường cấp hai, đưa tay lên nhìn đồng hồ, đã là hơn 5 giờ, ông Chu liền dựng tấm biển nhỏ “tạm dừng đón khách” lên phía cửa trước của xe rồi đi chậm vào ven đường.
Đúng là ngày cuối tuần, cổng ra vào của khu nội trú bên kia đường rất đông học sinh ào ra ngoài. Ông Chu nhịn không được mà đem xe dừng lại, nhìn chằm chằm vào những cô cậu học sinh. Tất cả chúng đều mặc những bộ đồng phục mộc mạc và cười tươi sáng lạn.
“Bác tài! Cháu …cháu muốn đi xe của bác!” – Một cô bé thọt chân đeo cặp sách đi tới, nhìn trái nhìn phải rồi nói một cách vội vã.
Ông Chu nói: “Bác sắp phải trả xe rồi, bác chỉ dừng lại ở đây một lát thôi!”
Cô bé cúi đầu xuống, mấy giây đồng hồ trôi qua, lại tha thiết nói: “Cháu cảm ơn bác!..Bác ơi…cháu chỉ xin ngồi một trạm thôi!”
Tiếng “cảm ơn”của cô bé khiến ông Chu động lòng. Ông nhìn nhìn cô bé, mặc bộ đồng phục trắng tinh nhưng lại đeo một chiếc cặp sách cũ kỹ, cũ đến mức không còn cũ hơn được nữa. Ông thở dài một tiếng rồi nói: “Được! Cháu lên xe đi!”
Cô bé vô cùng vui sướng vội vã bước lên xe. Đi đến chỗ rẽ, cô bé đột nhiên lúng túng nói: “Bác tài! Cháu chỉ có 5.000, cho nên bác cho cháu đi nửa trạm thôi ạ!”
Ông Chu nhìn qua chiếc gương nhận thấy cô bé đang đỏ ửng hai má mà không nói lời nào. Taxi ở cái thành phố này, chỉ cần lăn bánh đã là 10.000 rồi.
Chạy đến trạm xe buýt gần nhất, ông Chu cho xe dừng lại. Cô gái lúc đóng cửa xe vui vẻ nói: “Thật sự là cảm ơn bác ạ!”
Ông Chu nhìn cô bé khập khiễng đi về phía trước, đột nhiên trong lòng cảm thấy đau xót…
Ông chợt nghĩ: “Thì ra là những ngày cuối tuần trước, cô bé đều đứng đợi ở cổng trường. Mấy chiếc taxi đi qua mà cũng không có nhìn chỉ một mực đứng khập khiễng chờ đợi. Cô bé đang đợi mình sao?” Ông Chu suy đoán như vậy, trong lòng ông lại bỗng nhiên thấy ấm áp. Ông lái xe đi qua, cô gái từ xa xa giơ tay vẫy chào ông. Ông Chu ngạc nhiên: “Ồ, cái xe Santana màu đỏ của mình đâu có gì khác biệt với những chiếc khác mà cô bé chỉ liếc mắt đã nhận ra ngay được nhỉ?”
Vẫn là 5000 và vẫn là một trạm xe buýt, ông Chu cũng không hỏi cô bé xem tại sao lại chuyên môn chờ xe của mình và cũng không hỏi xem tại sao chỉ ngồi một trạm? Trong lòng cô bé chắc hẳn có một điều bí mật! Ông Chu hiểu rõ điều này.
Một lần, hai lần, ba lần, rồi nhiều lần trôi qua đã khiến ông Chu dưỡng thành một thói quen, cứ ngày cuối tuần và trước giờ trả xe, ông lại chờ một người. Ông dựng thẳng tấm “tạm dừng đón khách” và chăm chú chờ đợi ở cổng trường. Nhưng, cô bé 14-15 tuổi thọt chân ấy, mỗi lần nhìn thấy ông đều nhảy lên vui sướng như con nai, vẫy chào các bạn, sau đó lại chỉ ngồi xe chừng mấy phút rồi xuống và nói: “Cháu cảm ơn bác ạ!”
Dường như, vì đợi câu nói này nên dù ông Chu có chở khách đi xa cũng muốn mau chóng trở lại trường để đón cô bé đó. Thậm chí, có hôm ông còn bị phạt tiền vì trễ giờ trả xe nữa nhưng ông vẫn một mực muốn tiễn cô bé ấy một đoạn đường.
Thời gian trôi qua rất nhanh, ngoảnh đi ngoảnh lại đã đến mùa hè năm thứ hai. Ông Chu nhìn thấy cô bé mang ba lô cặp sách rất nặng nề lên xe, trong lòng ông bất giác thất vọng. Bởi vì ông biết rằng cô bé đã tốt nghiệp cấp hai và sẽ lên cấp ba học tập, cô bé sẽ không còn học ở nơi này nữa…
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
“Bác tài! Cháu cảm ơn bác. Đây có thể là lần cuối cùng cháu ngồi xe của bác, cũng là lần cuối gây phiền toái cho bác. Cháu đã thi đỗ lớp 10 trường điểm rồi, nên có thể nửa năm mới lại qua nơi này một lần ạ!” Ông Chu nghe xong, cảm thấy trong lòng có chút khó chịu, mất mát. Ông nhìn qua gương và thầm nghĩ: “Cô bé này quả thực rất giỏi, có thể đỗ vào trường điểm vậy chỉ còn một bước nữa là đã vào được đại học rồi.”
“Bác sẽ đưa cháu về tận nhà!” Ông Chu nói.
Cô gái lắc đầu và nói: “Không cần ạ! Cháu chỉ có 5.000 thôi ạ!”
“Lần này bác không thu tiền!”
Lái xe chừng nửa giờ sau, ông Chu dừng xe lại. Cô bé xuống xe và ông Chu lấy ra một chiếc hộp rồi nói: “Đây là quà bác tặng cháu!”
Cô bé ngạc nhiên nhận quà và nói: “Cháu cảm ơn bác rất nhiều ạ!”
Ông Chu đứng nhìn cô bé khập khiễng đi vào trong tòa nhà rồi thở dài: “Từ nay không còn được gặp con bé nữa rồi! Mình thậm chí còn không biết tên của con bé này nữa!”
Thời gian thấm thoắt, đã 10 năm trôi qua. Ông Chu vẫn lái xe taxi như trước đây. Hôm nay, ông hơi vắng khách nên có thời gian rảnh rỗi, bèn tranh thủ lau qua cái xe. Bất chợt ông nghe trên đài truyền thanh thông báo tìm người, mà quả thực đều là những thông tin về ông. Ông ngẩn người một lát rồi băn khoăn: “Không biết ai tìm mình vậy nhỉ? Thật khó hiểu!”
Ông Chu vội gọi điện thoại tới đài phát thanh hỏi và nhận được số điện thoại của người cần tìm. Ông vẫn chưa hết hoài nghi trong lòng: “Là ai được? Ngoài bà vợ của mình ở nhà ra thì mình có còn quen người phụ nữ nào đâu?”
Chuông điện thoại reo lên, đầu dây bên kia một giọng nữ cất lên: “Là bác sao? Bác tài?”
Ông nghe giọng nói quen quen nhưng vẫn không nhận ra ai thì người ở đầu dây bên kia lại cất giọng: “Cháu cảm ơn bác! Bác tài!”
Lần này, ông Chu đã nhận ra, ông thực sự kinh ngạc hỏi: “Là cháu sao? Cháu còn nhớ ta sao?”
Cô gái hẹn ông Chu tới một quán cà phê ở gần đó, từ xa xa ông đã nhận ra cô bé khập khiễng năm xưa vẫn ngồi xe của mình, giờ đây đã là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng. Cô gái cúi sâu người xuống và nói: “Cháu thực sự cảm ơn bác từ tận đáy lòng ạ!”
Vừa uống cà phê cô gái vừa kể lại chuyện năm xưa:
“Mười hai năm trước, cha của cháu cũng là một tài xế lái xe taxi. Cha cháu rất thương cháu. Cháu học ở trường nội trú nên cuối tuần mới về nhà, dù bận thế nào cha cũng lái xe đến đón cháu về. Tết âm lịch năm đó, cả nhà cháu trở về quê để ăn tết. Vì phải mang nhiều đồ đạc nên cha cháu đã mượn chiếc xe tải của một người bạn để chở cả nhà về. Đi đến giữa đường, đột nhiên có tuyết rơi, nên trong lúc sơ ý xe mà cha cháu lái đã va vào một cái xe tải khác. Chiếc xe tải bị đâm biến dạng, cha của cháu mất tại chỗ. Cũng chính lần tai nạn đó mà chân của cháu mới thành ra như thế này.”
Cô gái kể đến đây, cả cô và ông Chu đều ngồi im, thời gian, không gian như đọng lại…
Cô lại kể tiếp: “Sau khi an táng cho cha xong, mẹ cháu phải bồi thường xe cho bạn của cha cháu, rồi lại chữa cho cái chân của cháu nên rất bận rộn, làm ngày làm đêm. Còn cháu bị tổn thương nặng nề nên đành lao vào học, mong cho đoạn thời gian này trôi qua thật nhanh. Điều gì cháu cũng chịu đựng được nhưng lại không muốn chịu cảnh người khác thương hại mình.
Vì thế, cháu không kể với bất kỳ ai về việc đã xảy ra trong nhà. Mỗi lần tan học, các bạn hỏi sao không thấy cha đến đón, cháu đều nói dối rằng cha đi công tác. Hơn một nửa năm trôi qua thì bỗng một hôm cháu nhìn thấy chiếc xe của bác dừng lại trước cổng trường…
Khi ấy, cháu chỉ có 5000, ngồi taxi được một trạm nên sẽ phải đi bộ khập khiễng hơn 30 phút nữa mới về đến nhà. Nhưng điều này lại khiến cháu rất thảnh thơi, bởi vì không có ai biết rằng cha cháu đã mất.
“Bác chắc chắn không biết được rằng, chiếc xe mà bác lái chính là chiếc xe mà cha cháu đã lái trước đây đâu! Bởi vì biển số xe đã khắc sâu trong tâm trí cháu rồi!”
Cô bé nói xong, nước mắt trào ra hai má: “Cho nên, từ xa xa, chỉ cần liếc mắt là cháu đã nhận ra rồi!”
Sau buổi trò chuyện, hai người chia tay nhau, ông Chu nhìn theo cô gái lái xe đi trong lòng không khỏi bùi ngùi. Ông chợt nhớ tới cô con gái đã mất vì bị ung thư của mình cũng trạc tuổi cô gái này…"
>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Miền Bắc
Trước Tết, nhà nào cũng quét dọn sạch sẽ nhà cửa để trong ba ngày đầu tiên của năm mới, cây chổi quét nhà không được động đến. Theo quan niệm, quét nhà là quét hết vận đỏ và lộc năm mới đi. Vì thế sẽ không ai quét nhà vào 3 ngày đầu năm.
Tục kiêng đổ rác xuất phát từ câu chuyện trong Sưu thần ký. Chuyện kể rằng, có một người lái buôn đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy thần tặng nàng hầu tên là Như Nguyệt. Ông trở nên giàu có, tiền bạc đầy nhà. Năm ấy, vào ngày mồng Một Tết, Như Nguyệt mắc lỗi nhỏ, bị ông chủ đánh đập nên biến vào đống rác. Người lái buôn không biết, mang rác đổ đi. Từ đấy, ông lại nghèo như xưa.
Kiêng không treo những tranh không hay như đánh ghen, kiện tụng... mà phải tìm bằng được tranh lợn, gà, cậu bé. Những bức tranh của làng tranh Đông Hồ, Hàng Trống mang ý nghĩa tốt đẹp, may mắn.
Ngày mùng Một Tết, đừng đến xin lửa nhà người khác vì lửa đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may. Tương tự như vậy, tránh xin nước những ngày này.
Dân gian có câu "Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi" với rất nhiều cách giải thích khác nhau. Đầu tiên, việc mua muối được xem là mua cái sự mặn mà về nhà cho cả năm. Còn vôi cũng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, thể hiện qua 3 cách dùng: Xây nhà xây cửa, ăn trầu và rải 4 góc nhà đuổi tà ma. Cũng có một cách giải thích khác cho rằng cuối năm phải mua vôi để tiếp vôi cho ông bình vôi.
Những người "nặng vía", không hợp tuổi với gia chủ đừng nên đến xông nhà ngày đầu năm. Một vài gia đình sẽ chọn người hợp tuổi với nhà mình để mời xông đất. Người gia đình có tang trong năm trước không đến chơi gia đình nhà khác vào dịp năm mới để tránh xui xẻo.
Những từ ngữ xui xẻo như chết chóc, ốm đau được tránh nói trong những ngày đầu năm.
Làm vỡ bát đĩa, cãi nhau, chửi nhau khiến không khí ngày Tết kém vui và bất hòa trong suốt cả năm, kiêng cữ để được vui vẻ cả năm dài.
Miền Trung
Người dân miền Trung có tục kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt, thịt chó trong ngày Tết và cả tháng đầu năm. Người ta cho rằng ăn thịt vịt sẽ gặp xui xẻo. Một số vùng không ăn tôm vì sợ... đi giật lùi như tôm.
Ngày Tết kiêng mặc quần áo màu trắng, màu đen mà nên chọn những sắc màu vui tươi, đẹp mắt cho những ngày đầu năm mới.
Đi đâu xa cũng phải về nhà trước giờ giao thừa. Ai không về kịp xem như cả năm sau người ấy phải bôn ba vì công việc làm ăn.
Nếu trong ngày Tết để mất chổi nghĩa là năm đó gia đình sẽ bị trộm vét sạch của cải.
Miền Nam
Trong những ngày Tết, khách đến chơi nhà vào bất kể giờ giấc nào, bất kỳ ai cũng được gia chủ dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.
Những lời Phật dạy về nhân quả không chỉ là lý thuyết, đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ này, dù bạn tin hay không cũng nên sống hướng đạo để cuộc sống an yên.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Vị trí của giường trong phòng ngủ rất quan trọng, giường ngủ phải được kê ở vị trí yên ổn nhất, kín đáo nhất, hơn nữa, từ đó có thể quan sát khắp phòng. Xem Tướng chấm net chọn lọc những điều cần lưu ý khi Kê giường trong phòng ngủ sau đây:
- Cửa phòng ngủ không được đối diện với giường: Sách Bát trạch minh cảnh viết: “Giường kỵ cửa phòng đối diện”, cửa là nơi không khí lưu thông, tất nhiên đặt giường ở nơi đó sẽ bị ảnh hưởng, người nằm trên giường dễ mắc bệnh hoặc khi ngủ tâm trạng sẽ luôn thấp thỏm không yên.
- Giường ngủ nên kê chỗ yên tĩnh. Giường kê gần chỗ đi lại, ra vào người ngủ trên đó dễ bị quấy nhiễu, khó ngủ ngon giấc.
- Giưòng phảị có chỗ dựa, tốt nhất nên tựa vào tường nhà, nếu không sự nghiệp gia chủ có thể sẽ không vững vàng. Nếu hai phía đầu và đuôi giường đều không có chỗ dựa, phong thủy gọi là giường chữ “thân”. Vương Tư Sơn viết: “Giường chữ thân, tổn nhi lang” (tổn hại chồng, con). Điều này ngoài ra còn có liên quan đến yếu tố tâm lý và thói quen. Ngoài ra, nếu sau giường là một cây cột, mà giường chỉ dựa được một nửa thì cũng coi như không có chỗ dựa.
- Theo quan niệm phong thủy, giường ngủ phải kê song song hoặc vuông góc vối tường phòng ngủ.
Giường ngủ không được kê dưới xà nhà, nhất là vị trí xà nhà đè ngang phần ngực. Nếu không người ngủ trên đó sẽ dễ sinh bệnh.
Cửa phòng vệ sinh không được đối diện giường ngủ, để khí ô uế không trực xung cơ thể; ngoài ra, nếu đặt ở vị trí này tiếng động và ánh đèn của phòng vệ sinh cũng có thể gây ảnh hưởng đến người đang ngủ.
- Phía đuôi giưòng ngủ không nên đặt ban thờ, bố trí phòng vệ sinh hoặc bếp. Bàn thờ là nơi cung kính, giường ngủ hướng đuôi vào bàn thờ là đại bất kính. Mùi khói bếp, mùi hôi của phòng vệ sinh, không khí ẩm ướt cũng ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giấc ngủ. Gương không được treo đối diện với giường. Gương có ánh sáng phản chiếu; nằm ngủ đối diện gương dễ làm cho thần kinh suy nhược, giấc ngủ sẽ không được sâu.
- Về khí trong phong thủy, bạn không nên kê giường ở gần hành lang.
- Không nên kê giường dưới tầng hầm, tầng hầm là nơi ẩm thấp, không có ánh nắng, không khí tù đọng, bất lợi cho sức khỏe cơ thể.
- Không nên kê giường ngoài hè hoặc ban công, vì không bảo đảm cách nhiệt, cách âm, giữ ấm, chống bụi, che ánh sáng, sương gió...
- Trong phòng ngủ, nếu kê hai chiếc giường đơn, nên kê cùng một chiều; nếu không sẽ dễ rơi vào cảnh anh em bất hòa, tranh giành, đấu đá lẫn nhau. Xét về mỹ quan và sự tiện dụng thì kê như vậy cũng rất hợp lý.
![]() |
Ảnh minh họa |
► ## cung cấp công cụ xem thước lỗ ban online chuẩn xác |
Thông thường ai cũng hay có nốt ruồi và nốt ruồi cũng nói lên vận mệnh của mỗi người. Nếu có nốt ruồi đen trên mặt thì thường là Cát ít, Hung họa nhiều. Hãy xem những luận giải cụ thể về nốt ruồi đen trên khuôn mặt:
Vị trí không giống nhau thì phú quý cũng khác nhau
Viên trung có nốt ruồi đen sẽ phú quý, trường thọ, nếu nốt ruồi đen ở chỗ sát phía trên của Viên trung sẽ đặc biệt phú quý. Trên trán có 7 nốt ruồi đen thì đại quý. Người mà phần chính giữa trán gần đường chân tóc có nốt ruồi đen sẽ phương hại chồng, ở giữa trán có nốt ruồi đen sẽ phương hại vợ, vị trí Tư không có nốt ruồi đen sẽ phương hại cha mẹ. Nếu phần chính giữa 2 lông mày có nốt ruồi thì sẽ phú quý. Viền tai có nốt ruồi thì thông minh, nếu ở trong tai thì trường thọ, ở xoáy tai thì phát tài. Nốt ruồi ở trên huyền mắt chủ là đạo tặc.
Nốt ruồi ở giữa 2 mắt sẽ khắc hại, dưới vị trí này thì có thể phải bỏ mạng nơi chiến trường, mọc ở trên mắt sẽ khổ cực, mọc ở giữa lông mày sẽ phú quý, mọc ở trên mắt sẽ cát lợi. Nốt ruồi ở trên mũi thì cần đề phòng tai họa liền quan đến dao. Nốt ruồi trên sống mũi sẽ trắc trở không thuận lợi. Nốt ruồi ở phần lõm dưới mũi thì thuận lợi trong chuyện hôn nhân. Nốt ruồi ở cạnh miệng rất khó tích luỹ tiền tài.
Nốt ruồi mọc trong miệng có ăn có mặc. Nốt ruồi ở trên đầu lưỡi sẽ nói những lời không có thực, ở dưới môi thì phá tài, ở mép môi sẽ mất chức quan. Nốt ruồi mọc ở phần lõm xuống dưới môi chủ về đoản mệnh, mọc ở vị trí tả tương sẽ mất tiền của. Mọc ở trên trán phương hại cha mẹ, mọc ở vị trí Xích dương có thể sẽ phải bỏ mạng ở nơi đất khách.
Nốt ruồi ở vị trí khác nhau cát hung đã định
Nốt ruồi mọc ở vị trí Phụ giác sẽ gặp họa binh đao, mọc ở vị trí Biên địa có thể sẽ phải bỏ mạng nơi phương xa. Mọc ở trên Phụ giác sẽ phải sống cảnh nghèo khó, bần cùng, mọc ở vị trí Sơn lâm sẽ bị côn trùng đốt. Mọc ở vị trí Hổ giác có thể sẽ mất mạng do mâu thuẫn, mọc ở vị trí Kiếp môn chủ đoản mệnh. Mọc ở vị trí Thanh lộ sẽ bị ngoại thương.
Mọc ở vị trí Thái dương thì vợ chồng đều cát lợi. Mọc ở đuôi mắt vận mệnh cũng chẳng thể dài lâu. Mọc ở vị trí Thiên tỉnh chủ đoản mệnh. Mọc ở vị trí Lâm trung phải cẩn trọng trong hành vi. Mọc ở vị trí Phu tọa sẽ khắc hại chồng, mọc ở vị trí Thế tọa sẽ khắc hại vợ. Mọc ở vị trí Trưởng nam sẽ khắc con trưởng, mọc ở vị trí Trung nam sẽ khắc con thứ.
Mọc ở vị trí Kim quỹ sẽ phá bại, mọc ở vị trí Thượng mộ sẽ không có chức quan. Mọc ở vị trí Học đường sẽ không có học thức. Mọc ở vị trí Mệnh môn sẽ gặp hỏa hoạn. Mọc ở vị trí Bộc sử sẽ bần tiện. Mọc ở vị trí Anh môn và Tiểu sử sẽ bần cùng cả đời. Mọc ở vị trí Chi đường sẽ khắc vợ, mọc ở vị trí Ngoại trạch sẽ lang thang khắp nơi. Mọc ở vị trí Nô tỳ sẽ phương hại đến người hầu.
Mọc ở vị trí Khanh tiệm chủ đoản mệnh. Mọc ở vị trí Pha trì sẽ gặp họa liên quan đến nước mà khó giữ được tính mạng. Mọc ở vị trí Hạ mỗ sẽ bị khắc hại. Mọc ở vị trí Tam dương sẽ mưu hại người khác. Mọc ở Đạo bộ là người gian tà, trộm cắp. Mọc ở vị trí Lưỡng trù sẽ thiếu đồ ăn, mọc ở vị trí Tổ trạch sẽ chuyển nhà. Mọc ở vị trí Đại hải sẽ gặp lũ lụt, mọc ở vị trí Niên thượng sẽ bần khốn. Mọc ở cằm sẽ ít điền trạch. Mọc ở vị trí Gia tín sẽ phá bại trong nhà.
Luận về lốm đốm trên mặt: Phần lớn là không cát lợi
Nếu trên mặt nam có đốm chấm như trứng chim thì người này cuộc sống khó khăn, thích kiếm lợi nhỏ. Nếu nữ có đốm chấm như này sẽ thương hại chồng, khắc con mà đoản mệnh, không cát lợi. Nếu đốm chấm giống hạt đậu thì gian tà, thích kiếm lợi nhỏ, nếu nam có đốm chấm này sẽ hại vợ khắc con, kết hôn nhiều lần, nếu nữ có đốm chấm này thì kết quả cũng tương tự.
![]() |
![]() |
![]() |
(Ảnh chỉ mang tính minh họa) |
Cách tra Thiên Mã là lấy chi ngày (hoặc chi năm) làm cơ sở để tra các địa chi khác trong tứ trụ. Nếu tứ trụ nào ở vào một trong các trường hợp dưới đây là có sao Thiên Mã nhập mệnh.
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Dần, Ngọ, Tuất thấy chi Thân
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Thân, Tý, Thìn thấy chi Dần
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Tỵ, Dậu, Sửu thấy chi Hợi
- Chi ngày (hoặc chi năm) là Hợi, Mão, Mùi thấy chi Tỵ
Ví dụ: Người sinh vào 16 giờ ngày 14/9/1990 (âm lịch) có tổ hợp tứ trụ là: giờ Canh Thân, ngày Quý Hợi, tháng Bính Tuất, năm Canh Ngọ.
Theo trường hợp 1, chi năm Ngọ (Canh Ngọ) gặp chi Thân của giờ (Canh Thân), do vậy tổ hợp này xuất hiện Thiên Mã.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)
![]() |
![]() |
- Trích trong TÌM HIỂU VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TRONG DÂN GIAN của Đặng Xuân Xuyến -
Bể cá cảnh có nước là yếu tố thủy trong phong thủy học, có tác dụng điều hòa âm dương, tăng cường sinh khí và có thể thúc đẩy khí cát hoặc khí hung nên cách bài trí bể cá vô cùng quan trọng. Nếu bài trí phù hợp với phong thủy thì tài lộc chảy đến, phát tài chẳng mấy chốc, còn ngược lại thì tài vận sẽ liên tục bị tán tài, suy giảm.
Theo kinh nghiệm dân gian thì người có bát trạch thiếu thủy, hợp thuỷ thì nên nuôi cá cảnh, còn người có bát tự kỵ thủy thì không nên nuôi cá cảnh. Nếu nuôi cá cảnh thấy có tác dụng thúc đẩy tài vận hưng vượng thì nên nuôi, ngược lại thấy gia vận ngày một suy đi thì nhanh chóng không nuôi cá cảnh nữa.
Theo phong thuỷ thì hướng tốt nhất để đặt bể cá là hướng Bắc thuộc cung Quan Lộc, tượng trưng cho sự may mắn hoặc hướng Đông Nam thuộc cung Phú Quý, tượng trưng cho sự giàu có. Tuy nhiên, nhà ở hiện đại thiết kế theo hướng tận dụng triệt để diện tích và không gian sử dụng nên việc bố trí bể cá bên cạnh đáp ứng yêu cầu về phong thủy còn cần lưu ý sự hài hòa, hợp lý với các đồ vật và không gian ngôi nhà.
Theo quan niệm của người phương Đông thì số cá và màu sắc của cá thích hợp với vị trí đặt bể cá ở các hướng như sau:
- Bắc (thuộc hành Thủy): Thích hợp nuôi 1 con cá có màu đen, trắng hoặc vàng kim; cũng có thể nuôi 1 con cá đen và 6 con cá vàng kim.
- Đông Nam (thuộc hành Mộc): Thích hợp nuôi 3 con cá có màu đen hoặc màu xanh.
- Đông Bắc (thuộc hành Thổ): Thích hợp nuôi 8 con cá có màu vàng.
- Đông (thuộc hành Mộc): Thích hợp nuôi 3 con cá có màu đen hoặc xanh
- Nam (thuộc hành Hỏa): Thích hợp nuôi 9 con cá có màu đỏ hoặc 2 con cá xanh và 7 con cá đỏ
- Tây Nam (thuộc hành Thổ): Thích hợp nuôi 8 con cá có màu vàng
- Tây (thuộc hành Kim): Thích hợp nuôi 6 con cá có màu trắng hoặc màu vàng kim
- Tây Bắc (thuộc hành Kim): Thích hợp nuôi 6 con cá màu trắng hoặc màu vàng kim.
Dù đặt bể cá ở vị trí nào cũng nên lưu ý những điểm sau:
- Bể cá phải được tựa lưng vào bờ tường để tăng độ vững chãi, chắc chắn cho tài lộc.
- Bể cá phải đặt ở gần lối đi, phòng khách hoặc ở những nơi trang trọng.
- Nên đặt bể cá ở phương vị Chu Tước (đứng giữa nhà nhìn ra cửa chính thì bên tay trái gọi là Thanh Long, bên tay phải là Bạch Hổ, phía sau là Huyền Vũ, phía trước là Chu Tước) mới có lợi cho tài vận, tuyệt đối không đặt ở phương vị Huyền Vũ thì thủy bị tụ lại, sẽ dẫn đến suy giảm tài lộc.
- Trong phong thủy, bể cá mang ý nghĩa tốt lành, do đó nên đặt ở các hướng tốt như: Bắc, Tây Bắc hoặc Đông Nam.
- Nên đặt bể cá ở những vị trí ít ánh sáng tự nhiên (mặt trời) chiếu vào.
- Nên đặt bể cá ở bên trái cửa chính (từ trong nhà nhìn ra) để đón vận may về tài lộc.
- Không đặt bể cá bên phải của chính (từ trong nhà nhìn ra) vì sẽ mang lại những bất lợi cho cuộc sống hôn nhân.
- Không đặt bể cá thẳng hướng cửa chính nhìn vào.
- Không đặt bể cá dưới tượng thờ các thần, đặc biệt là thần Tài hay ông tam đa Phúc - Lộc - Thọ sẽ phạm “chính thần hạ thuỷ”, khiến gia chủ khuynh gia bại sản.
- Không đặt bể cá trong bếp hoặc đối diện với bếp sẽ gây mất mát về vật chất và phát sinh bất hòa cho gia đình.
- Không tận dụng gầm cầu thang để đặt bể cá vì gầm cầu thang mang tính âm, đặt bể cá tại đây sẽ làm năng lượng âm tồn đọng dưới gầm cầu thang.
- Hình tròn (thuộc hành kim): Rất tốt vì kim sinh thủy.
- Hình chữ nhật (thuộc hành mộc): Khá tốt.
- Bể cá hình lục giác (thuộc hành thủy): Tốt vì bình hòa.
- Bể cá hình vuông (thuộc hành thổ): Không nên vì thổ khắc thủy.
- Bể cá hình các góc nhọn (thuộc hành hỏa): Không nên vì thủy khắc hỏa.
Dân gian có nhiều cách chọn số lượng cá để tăng cường sinh khí, đem lại vận may về tài lộc như dựa vào ngũ hành, dựa vào bản Mệnh hay dựa vào các số đẹp, vào quẻ riêng của mỗi người hay chọn số lẻ vì quan niệm nước là âm nên số cá lẻ (dương) để cân bằng âm dương, tăng tài tấn lộc...
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết lược soạn và giới thiệu 3 cách để bạn đọc tham khảo.
&. Cách thứ nhất: Dựa trên Bản Mệnh:
- Mệnh Mộc: Thích hợp nuôi 3 hoặc 8 con.
- Mệnh Thổ: Thích hợp nuôi 5 hoặc 10 con.
- Mệnh Kim: Thích hợp nuôi 4 hoặc 9 con.
- Mệnh Thủy: Thích hợp nuôi 1 hoặc 6 con.
- Mệnh Hỏa: Thích hợp nuôi 2 hoặc 7 con.
&. Cách thứ hai: Dựa trên Ngũ Hành:
- Số lượng: 1 con, thuộc hành Thủy, làm tăng cường Thủy khí, đây là khí vượng tài nên được coi là cát (tốt).
- Số lượng: 2 con, thuộc hành Hỏa, làm hao tổn Thủy khí, loại khí này bị tiêu hao, nên bị xem là xấu.
- Số lượng: 3 con, thuộc hành Mộc, làm giảm Thủy khí, nên bất lợi.
- Số lượng: 4 con, thuộc hành Kim, Thủy khí gia tăng làm tài khí thêm vượng.
- Số lượng: 5 con, thuộc hành Thổ, Thủy khí bị khắc nên bất lợi.
- Số lượng: 6 con, thuộc hành Thủy, Thủy khí được gia tăng nên tốt.
- Số lượng: 7 con, thuộc hành Hỏa, làm tiêu hao Thủy khí, mặc dù khí này bị hao tổn nhưng không tốt không xấu.
- Số lượng: 8 con, thuộc hành Mộc, làm giảm Thủy khí nên bất lợi.
- Số lượng: 9 con, thuộc hành Kim, làm vượng Thủy khí nên rất tốt.
- Số lượng: 10 con, thuộc hành Thổ, Thủy khí bị giảm nên bất lợi.
Từ 11 con trở lên: Tính như trên nhưng bỏ đi hàng chục, ví dụ: 11 con tính là 1 con - 12 (hoặc 20) con tính là 2 con.
&. Cách thứ ba: Dựa theo vị trí đặt bể cá:
- Bắc (thuộc hành thủy): Thích hợp nuôi 1 con cá có màu đen, trắng hoặc vàng kim; cũng có thể nuôi 1 con cá đen và 6 con cá vàng kim.
- Đông Nam (thuộc hành Mộc): Thích hợp nuôi 3 con cá có màu đen hoặc màu xanh.
- Đông Bắc (thuộc hành Thổ): Thích hợp nuôi 8 con cá có màu vàng.
- Đông (thuộc hành Mộc): Thích hợp nuôi 3 con cá có màu đen hoặc xanh
- Nam (thuộc hành Hỏa): Thích hợp nuôi 9 con cá có màu đỏ hoặc 2 con cá xanh và 7 con cá đỏ
- Tây Nam (thuộc hành Thổ): Thích hợp nuôi 8 con cá có màu vàng
- Tây (thuộc hành Kim): Thích hợp nuôi 6 con cá có màu trắng hoặc màu vàng kim
- Tây Bắc (thuộc hành Kim): Thích hợp nuôi 6 con cá màu trắng hoặc màu vàng kim
Kết thúc bài viết này, người viết lần nữa lưu ý bạn đọc: Nuôi cá cảnh là một thú vui tao nhã mà ai cũng thích nhưng nếu nuôi cá thấy có tác dụng thúc đẩy tài vận hưng vượng thì nên nuôi, ngược lại thấy gia vận ngày một suy đi thì nhanh chóng không nuôi cá cảnh nữa.
(Trích trong TÌM HIỂU VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TRONG DÂN GIAN của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)
Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 6 năm 2015
Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:
=> Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chị Nguyễn Phương Nguyên Hương (Hà Nội) cho biết, chị mới mua một căn chung cư, sang đầu tháng sau sẽ chuyển về nhà mới. Tuy nhiên, chị đang chưa rõ, nếu làm lễ về nhà mới mà chưa chuyển ban thờ, lập bát hương thì có được không? Hay chỉ cần đặt bát hương mới ở nền nhà để làm lễ tạ?
Trao đổi vấn đề này, chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân cho rằng, theo tín ngưỡng dân gian, nhập trạch là một thủ tục cần thiết khi về nhà mới. Khi nhập trạch, điều cần thiết là phải có ban thờ mới và bát hương thờ quan thần linh bản thổ, tức là vị thần cai quản hành chính phần âm. Đây là quan điểm, trần sao âm vậy khi về địa bàn mới thì phải báo cáo chính quyền sở tại. Thủ tục lập bàn thờ báo cáo với quan thần linh chính là công việc làm để trọn ý nghĩa hướng tới phần tâm linh.
Ngoài ra, người ta lập bàn thờ này còn có mong muốn để được các đấng bề trên che chở khi về nhà mới. Còn bát hương xưa nay được xem như ăng ten giao tiếp giữ âm dương, thế nên "cầu có thấu, tấu có tới", các bề trên có che chở mình hay không cũng thông qua bát hương. Vì thế, các cụ ta xưa nay vẫn khuyên nên lập bàn thờ có bát hương khi về nhà mới là vậy.
Vân Đài
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Phong thủy văn phòng đối với người Á Đông luôn hữu ích với không gian làm việc. Một số nguyên tắc phong thủy sau sẽ giúp bạn tạo cơ sở tốt nhất cho sự phát triển của mình cũng như công ty. Nên dựa vào người có quyền hành cao nhất để tính toán phong thủy cho văn phòng một cách hợp lý ngay từ đầu.
Bên cạnh phòng của lãnh đạo không nên có vòi nước nhằm tránh “dột tiền tài”. Tương tự, nền nhà hay tường công sở bị thấm nước, rạn nứt cũng tượng trưng cho sự “rơi lọt tiền tài”. Cần có biện pháp khắc phục ngay.
Vị trí tài lộc chính là góc chéo đối diện ngay cửa đi vào trong phòng. Vị trí này cần sáng và sạch sẽ; kiêng đặt hoa và cây cảnh giả.
Cổng văn phòng tối kỵ đối diện cột điện, ống khói hoặc gốc cây to. Cũng không đặt nhà vệ sinh ngay cạnh cổng bởi toilet sẽ chặn luồng không khí mới vào văn phòng bởi theo phong thủy văn phòng điều đó sẽ ảnh hưởng xấu đến vận may và sự nghiệp.
Nền nhà văn phòng kỵ quá thấp vì sẽ không đem lại may mắn trong làm ăn, đồng thời ảnh hưởng đến việc thông gió.
Cầu thang tránh đối diện cổng vì như vậy luồng khí đến và đi sẽ xung đột, không tốt cho vận may và sức khỏe.
Văn phòng không có cửa sổ là điều đặc biệt xấu vì khí không thể lưu thông.
Bàn làm việc trong văn phòng kỵ nứt vỡ, tổn hại đường công danh; không đặt đối diện nhà vệ sinh sẽ bị ảnh hưởng khí xú uế. Bàn làm việc tốt nhất nên làm bằng gỗ, tránh bằng kim loại.
Phía sau bàn làm việc tối kỵ cửa thông cửa (cả cửa ra vào lẫn cửa sổ), như vậy vừa không an toàn vừa dễ mất tập trung khi làm việc. Bàn làm việc tốt nhất nên có 1 góc dựa vào tường sẽ hợp phong thủy văn phòng nhưng tối kỵ đặt chéo.
Phía sau văn phòng kỵ hành lang và nhiều người đi lại ồn ào. Tốt nhất nên là không gian tĩnh. Ngay cả trong phòng cũng cần không gian đó. Các chuyên gia cho rằng khi thiết kế phòng làm việc, dùng thảm trải nền và rèm kéo cũng mang lại hiệu quả trong cách âm.
Tránh ánh sáng tối tăm. Ánh sáng trong văn phòng phải chan hòa, ánh sáng tự nhiên tốt hơn là đèn điện. Vì thời gian làm việc rất dài, cường độ ánh sáng mạnh yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị lực.
Trong văn phòng ngoài bày tủ sách, máy tính, ghế ngồi cũng nên trang trí thêm các đồ thủ công mỹ nghệ, cây cảnh tạo không gian tươi sáng, trang nhã.
Do nhà ở chịu sự hạn chế của rất nhiều điều kiện khác nhau nên khi chọn cây cảnh đầu tiên phải xem xét những loại cây nào có thể thích nghi được không gian sinh tồn trong nhà mình, ví dụ ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, điều kiện gió…
Tiếp theo phải xem xét mình có thể chăm sóc nó ở mức độ nào. Nếu là những người bận rộn công việc mà lại trồng trọt một bồn cây yêu cầu phải chăm sóc tỉ mỉ thì kết quả chắc chắn không thể tốt được. Những người này nên chọn các loại cây có sức sống mạnh mẽ, không cần chăm sóc nhiều…
Do nhà ở thường là không gian kín nên lựa chọn cây cảnh tốt nhất là những cây ngắn lá, thích nghi được với râm hoặc bán bóng râm. Chú ý tránh những loại có hại.
Phải phù hợp với chiều cao và chiều rộng của căn phòng. Quá to hoặc quá nhỏ đều có thể ảnh hưởng đến mỹ quan. Thông thường, diện tích phần xanh nhiều nhất trong phòng không được vượt quá 10% diện tích phòng, như thế căn phòng mới có được cảm giác rộng rãi, tránh làm cho không gian bị chật hẹp.
Tốt nhất là sử dụng phương án đối lập. Ví dụ không gian là màu sáng thì chọn cây thường lá màu thâm trầm. Bối cảnh không gian màu nhạt thì chọn hoa lá màu sặc sỡ là tốt nhất. Như thế mới có thể làm nổi bật cảm giác về không gian.
Những loài cây leo, bò không nên trồng trong chậu ở trên bàn mà nên treo lên thành gò. Đồ đạc theo kiểu Tây thích hợp dùng cách loại lan hiếm. Đồ dùng theo kiểu phương Đông thì thích hợp dùng bồn cảnh. Phối hợp hài hòa có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả nghệ thuật, làm cho nó sáng sủa, mới mẻ và đẹp mắt hơn.
Khí chất của cây phải phù hợp, hài hòa với tính cách của chủ nhân và không khí trong phòng. Ví dụ: các loại cây lá nhỏ đem lại cảm giác thân thiện, cây mây cảnh nhiều gai cứng cỏi khiến người ta tránh xa. Cây họ trúc có tính cách nhẫn nại chịu đựng, hoa làn kiều diễm ngát hương, cây thiết ngọc lan thanh cao thoát tục…
![]() |
No1: Chàng trai tuổi Thìn
Những anh chàng cầm tinh con Rồng có tinh thần trách nhiệm cao với bất kỳ chuyện gì do họ khởi xướng. Không những vậy, họ còn sở hữu tài vận sáng lạn, tính cách ôn hòa, điềm tĩnh, làm việc gì cũng quang minh lỗi lạc nên được nhiều người tin tưởng và giao phó trọng trách lớn.
Trong tình yêu, người tuổi Thìn chân thành và chu đáo nên dành được tình cảm nồng thắm và sự tin tưởng tuyệt đối của đối phương. Sau khi kết hôn, họ sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn cho người mình yêu thương.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
No.1 Tuổi Thìn | No.1 Tuổi Sửu | No.1 Tuổi Hợi | No.4 Tuổi Mùi |
Mr.Bull
Oan hồn, hồn ma, ma, cô hồn gọi chung là “ma”:
Bàn đến “ma”, “hồn ma bóng uế” đối với Phật giáo là việc không tưởng! Người Phật giáo cũng không tin là có ma. Phật giáo quan niệm ma là những nghiệp lực, chướng duyên cản trở quá trình tu chứng của người đệ tử đức Phật, như: ma tiền tài, ma danh vọng, ma sắc đẹp, ma ngủ nghỉ, ma ngũ dục… chứ không có vấn đề ma nhác, ma hiện hình cho người đời thấy, ma báo mộng, đưa tin…
Theo từ điển Việt Nam của Thanh Nghị thì hồn ma, oan hồn là bóng hình quái dị của người đã chết mà lắm người tin rằng có thể hiện ra. Như nói “ma da” là ma dưới nước, oan hồn, ma xó, cô hồn. Hồn ma là sự ám ảnh đối với người sống, “hồn ma” là hiện tượng mà mọi người tin là có, hoặc có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và “hồn ma” có thể xuyên qua khe hở, qua cửa, qua tất cả vật thể để đến với người sống, lúc bấy giờ người sống gọi là “ma nhác”. Câu chuyện “ma” là câu chuyện vô cùng hấp dẫn, nói mãi không hết chuyện “ma”. Người sợ “ma” bao nhiêu thì thích nghe nói chuyện “ma” bấy nhiêu… Thật ra “hồn ma” là một hiện tượng “vô thể” đối lập với “hữu thể”!
Như người bệnh mới vừa bị cưa mất khúc chân, người đó vẫn còn cảm giác bên khúc chân bị cưa mất về sự đau đớn, nhức nhối. Sự đau đớn nhức nhối ở khoản không bên khúc chân vừa bị cưa mất gọi là “chân ma”.
Nghe nói có người chết trên giường bệnh trong một bệnh viện lớn, vắng vẻ, xe hồng thập tự vừa đưa xác người chết xuất viện về quê… việc nầy đối với các Bác sĩ thì chẳng là gì! Nhưng với người bình thường vừa đến đây có cảm giác lành lạnh sờ sợ, khi vào bên trong đi ngang các phòng bệnh, nghe chuyền tai nơi đây hôm qua có người chết vừa đem ra khỏi giường… Cái cảm giác có người chết nằm trên giường, hôm qua còn người nằm, hôm nay không còn người nằm, liền nảy sanh sợ chỗ đó gọi là “sợ hồn ma bóng uế”.
Đối với các tôn giáo:
Nói đến ma, hồn ma, oan hồn, mọi người tiến bộ trên hành tinh nghĩ ngay đến tôn giáo, chỉ có những người làm công tác tôn giáo mới hóa giải vấn đề hồn ma. Một số tôn giáo và nền văn hóa dân gian quan niệm, con người gồm thể xác (mang tính chất vật chất) và linh hồn (mang tính chất phi vật chất). Khi thể xác chết, linh hồn xuất khỏi thể xác. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ chung với các linh hồn khác mà tương tác với cõi thực có con người sẽ gọi là “ma”, “hồn ma”; nhưng nếu các phần phi vật chất đó tương tác với cõi thực của con người theo tình cảm, theo trách nhiệm được giao của các tôn giáo thì lại gọi là “hồn”, “linh hồn”, “thánh”, “thần”, “thiên sứ”.
Theo Phật giáo:
Con người, nói chung là chúng sanh sau khi chết, không có một linh hồn, oan hồn nào tồn tại sau khi thân ngũ uẩn tan rã! Thân chúng sanh gọi là thân ngũ uẩn hay ngũ ấm, gồm có sắc, thọ, tưởng hành và thức: sắc dụ cho máu thịt gân xương v.v… và tâm (thọ, tưởng, hành, thức) dụ cho tâm thức, sự hiểu biết tạo ra nghiệp lực, hình thành một con người.
Có thể hiểu cách khác: thân người gồm có đất, nước, lửa, gió (là máu, thịt, gân, xương), tâm là thức đại, không đại (là sự hiểu biết); sau khi qua đời, đất, nước, lửa, gió được trả về với đất, nước, lửa, gió; thức đại, không đại được trả về với hư không và sau 49 ngày tái sanh theo nghiệp lực đã tạo. Như vậy, không còn gì ở lại thế gian nữa, làm gì có hồn ma hay oan hồn?
Việc cúng cầu siêu cho hương linh người qua đời, ngày kỵ giổ mời ông bà về thọ hưởng là đứng về mặt tín ngưỡng tưởng niệm người quá cố. Tưởng niệm không phải tin rằng có linh hồn tồn tại sau khi chết, tưởng niệm nói lên đạo đức của người con Phật, không quên ân sâu nghĩa nặng của cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ, quá thế nhiều đời, cũng như cha mẹ tại tiền. Tưởng niệm cũng chính là để đáp ân sanh thành dưỡng dục của người con Phật mà thôi, hoặc cúng thí thực cho các “oan hồn” được siêu thoát là vì phát huy lòng từ thiện: người chết còn nghĩ đến huống gì người đói nghèo!
Con người hình dung về hồn ma:
Cho đến nay, hồn ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện hư cấu về hồn ma, nhưng cũng không thể kết luận được có phải hư cấu hay không. Sự bí ẩn của hồn ma xuất phát từ giới hạn tri thức và hiểu biết của con người (nói chung) và các nhà khoa học (nói riêng).
Hồn ma thường được miêu tả là một dạng người, nhưng thông thường là “trắng bạc”, “cái bóng lờ mờ”, “nửa trong suốt”, hay “tựa như sương mù”, “đống đen thùi lùi”. Hồn ma không có cơ thể sống như con người, hoặc chỉ là bộ xương người biết đi. Xã hội của các oan hồn theo nhiều người là “âm phủ” còn chỗ ở của hồn ma là cái mộ (sống cái nhà, thác cái mồ) vì vậy họ xây dựng nhà mồ rất đẹp có nhiều nghĩa địa khang trang như một thành phố. Nhưng hồn ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ nơi có liên quan đến họ khi còn sống.
Ở một số tín ngưỡng dân gian:
Người có “duyên” với hồn ma mới có thể nhìn thấy hồn ma hoặc chỉ những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và tương tác với hồn ma. Nhiều người cho rằng oan hồn (ma) có khả năng biết tất cả những gì người sống nghĩ, có khả năng biết được các việc đã, đang và sắp xảy ra, hoặc có khả năng tác động lên thể xác, lời nói của người sống như hiện tượng lên đồng, tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc hồn ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng động, tắm trong nhà tắm nữa đêm, rung cây, xô lệch bàn ghế…
Oan hồn theo nghĩa đen tức là người chết không do từ một nguyên nhân cố định (bệnh chết, già chết) như xe đụng hết, bị lạc đạn chết, bị chết vì nước, lửa, lốc xoáy… gọi là chết oan, chết tức tửi. Người chết không có người cứu, không có người tụng kinh, đưa linh, nên người đời gọi đó là những oan hồn, còn ẩn khuất đâu đây chưa siêu thoát. Cứ nghĩ như thế mãi theo thời gian và cho rằng người chết đó không siêu thoát nên thành “ma đói, ma ngã ba đường cái, ma oán, oan hồn, cô hồn”.
Lời khuyên:
Bạn có thấy những oan hồn, nghe những sinh hoạt của oan hồn, nghe tiếng nước chảy trong bồn tắm, nghe trong người của Bạn có hiện tượng khác, ngầy ngật, ợ ngáp, khó thở… đó là do nghiệp thức của Bạn cảm ứng.
Người đời nói chuyện “hồn ma” vì thấy có “hồn ma”. Khi các Bạn nghĩ đến ma, thấy ma, nói chuyện ma, nghi có ma ở nơi nào đó thì Bạn cảm thấy sợ sệt, nhất là những nơi vắng vẻ… Theo Sư thì hôm nay chúng ta sợ “ma sống” hơn là “ma chết”, “ma xã hội đen” đấy Bạn ạ!
Về đạo đức tâm linh, Bạn niệm thần chú Vãng sanh, thần chú thất Phật diệt tội chân ngôn (Thập chú trong kinh Nhựt Tụng), Bạn chỉ còn thấy đức Phật, Bồ Tát, nên không còn thấy “hồn ma bóng uế” nữa!
Chúng ta tại thứ tư chương đệ nhất lễ trung nói qua lộc nhận đích khái niệm, tức: Giáp lộc tại dần, ất lộc tại mão, bính mậu lộc tại tị, đinh kỷ lộc tại ngọ, canh lộc tại thân, tân lộc tại dậu, nhâm lộc tại hợi, quý lộc tại tử. Nó vốn là nhật chủ đích kéo dài, đại biểu nhật chủ đến địa chi hành sử quyền lực, ngoài tâm tính hàm nghĩa có: Thân vi, độc lập, chủ trương, mình ý thức, tôn quý, độc chiếm, chúa tể, hưởng thụ ý; lộc vật tượng vi: Quyền lực, phong mà, tài phú, cung dưỡng; vu cơ thể người tỏ vẻ thân thể, chi thể, phụ nữ đích thân thể, sống lâu.
Lộc không xứng ấn vi khổ cực, lộc xứng ấn vi tỏ vẻ hưởng thụ ý. Nhàn chú: Lộc ấn tướng tùy theo, biểu hưởng thụ.
Khôn: Đinh kỷ tân tân
Mùi dậu sửu mão
Lộc ấn tướng tùy theo, có phúc khí. Dường như lười biếng, hưởng thụ. Sửu sửa vi thìn, càng thêm lười. Bởi vì thìn dậu hợp rồi. Không phải lộc bán đào hoa. Hợp đến ấn không tính đào hoa. Nhàn chú: Lộc ấn tướng tùy theo, có phúc khí, làm việc không khổ cực, cũng chính là lười người! Nơi này mão dậu một xung, còn đang làm việc.
Khôn: Quý tân tân tân
Mão dậu dậu mão
Khắp nơi việc buôn bán kiếm tiền. Rất khổ cực, vọt tài. Tay chân rất dễ dàng bị thương, giờ hầu tay chân khẳng định có vấn đề.
Nhàn chú: Niên thượng mang tượng, quý vi ấn cũng vi công việc, mão dậu một xung, lộc tố công, rất khổ cực, tài tại môn hộ cùng phương xa, chạy tới chạy lui việc buôn bán.
Khác: Phụ nữ đích lộc cũng là thân thể, hợp đến thương quan, quan sát, tài vi lộc bán đào hoa, lộc gặp tam hợp cũng là đào hoa; hợp đến phu thê cung không vi đào hoa.
Giáp nhận tại mão hoặc ất, bính nhận tại ngọ hoặc đinh, mậu nhận tại mùi hoặc tị, canh nhận tại dậu hoặc tân, nhâm nhận tại tử hoặc quý. Chỉ có dương can có dương nhận, âm can không có dương nhận. Dương nhận tuy là kiếp tài một trong loại, nhưng tỉ kiếp tài chi tâm tính chất càng hung hãn, ngoài tâm tính hàm nghĩa vi: Gan lớn, dũng cảm, hung ác, ác độc, bất kể hậu quả, không để ý mặt mũi, giữ lấy muốn, xâm hại, bất lợi phụ thê chờ; ngoài vật tượng vi: Đao, thương, kiếm, giải phẩu, binh khí, võ trang, chính pháp, chấp pháp; vu cơ thể người tỏ vẻ tứ chi, thân thể.
Dương nhận cũng có thể xem thiên can.
Lộc đích thật lệ:
Càn: Giáp mậu mậu đinh( Khang Hi)
Ngọ thìn thân tị
Càn: Đinh tân mậu đinh( Lâm Bưu)
Mùi hợi tử tị
Càn: Quý bính mậu đinh( Uông Tinh Vệ)
Mùi thìn thân tị
Mậu thấy niên thượng hoặc thời thượng đích tị ấn vi phần mà, biểu có kế thừa tính chất.
Lâm: Đinh ngồi mùi vi nửa lộc, cố đoạn nửa hoàng đế, có kế thừa tính chất, vốn là mao định đích người thừa kế.
Uông: Đinh ngồi mùi cũng là nửa thiên hạ, thượng cái quý thủy, phản rồi, cố vi ngụy chính phủ.
Khang: Năm thời đem nhật chủ hòa nguyệt lệnh bao ở, xu thế rất lớn, thổ địa đều là chính mình đích.
Klin bỗng nhiên đích bát tự cũng là loại này tố công, năm thời vây quanh rồi nguyệt nhật, loại này toàn bộ bao ở đích xu thế rất lớn.
Càn: Bính bính ất mậu( Klinton)
Tuất thân sửu dần
Dương nhận hỉ chế phục, chế chi được dụng chính, có thể tiến hành đích ngành sản xuất có: Quân nhân, cảnh sát, chấp pháp nhân viên, ngoại khoa đại phu, vận động thành viên, võ người chờ; dương nhận không có chế phục, thì dụng lệch, thì có thể tiến hành: Cường đạo, đánh cuộc đồ, đánh nhau ẩu đả, giết người càng hóa, phi pháp mưu doanh chờ.
Kiếp cùng nhận đều có sao làm đích ý tứ, có thao thủ chi nghĩa. Trên cơ thể người thượng biểu chi thể.
Mộ khố đích cách dùng đã tại thứ tư chương" Địa chi chi mộ" Trung có điều xiển phát, mộ khố vốn là cất dấu, khống chế ý, nó đích tượng nhất định là cùng can, chi, thập thần tượng phối hợp mới có ý nghĩa, như, dương nhận khố hoặc giải thích thành quân đoàn hoặc doanh địa; thương quan, thực thần khố có thể giải thích thành chùa miểu hoặc trường học; tài khố có thể giải thích thành ngân hàng; quan sát khố có thể giải thích thành quyền lực trung tâm hoặc tổ chức ngành. Hễ là tụ tập đông đảo đích ý tứ đều là khố đích hàm nghĩa, mọi người có thể suy một ra ba.
Như: Đinh nhâm ất mậu
Mùi tử sửu dần
Sửu mùi xung khai một chút, nhưng tử sửu hợp nhắm khố, vốn là tổ chức bộ đích [một người/cái] quan, trông nom quan đích.
Nhàn chú: Dương nhận khố: Quân đội, cảnh sát; thương quan khố: Chùa miểu, trường học; tài khố: Ngân hàng; quan sát khố: Tổ chức bộ.
Dịch mã tại mệnh trung tỏ vẻ đi lại, xuất ngoại, đi xa, chạy, di chuyển, vội vàng chờ ý. Manh sư phái sở định dịch mã cùng truyền thống thuyết pháp lược không có cùng, tức:
Thân tử thìn mã tại dần ngọ tuất, dần ngọ tuất mã tại thân tử thìn, tị dậu sửu mã tại hợi mão mùi, hợi mão mùi mã tại tị dậu sửu.
Tức thân tử thìn nhật hoặc năm thấy dần, thấy ngọ, thấy tuất cũng vi dịch mã.
Dịch mã đích tra pháp, lấy niên trụ cùng nhật trụ là việc chính, thấy khác chi hoặc đại vận, lưu niên vi dịch mã.
Dịch mã vật tượng vi: Xe, thuyền, mã. Như dịch mã gặp hợp, thì tỏ vẻ dừng lại, bất động ý.
Nhàn chú: Năm, nhật đồng thời tra, nhật trụ vưu rõ ràng!
Lục giáp không vong:
Giáp tý tuần trung tuất hợi không, giáp tuất tuần trung thân dậu không, giáp thân tuần giữa trưa mùi không,
Giáp ngọ tuần trung thìn tị không, giáp thìn tuần trung dần mão không, giáp dần tuần trung tử sửu không.
Giáp tý tuần trung tức giáp tý, ất sửu, bính dần, đinh mão, mậu thìn, kỷ tị, canh ngọ, tân mùi, nhâm thân, quý dậu mười nhật, tuất cùng hợi gặp không, nói đúng là, tòng giáp tý nhật đến quý dậu nhật này mười thiên trung không có tuất hợi hai chữ, như hắn chi thấy người vi không vong, còn lại phảng này. Không vong đích tra pháp lấy nhật chủ hoặc niên trụ là việc chính, xem hắn chi trung thấy người vi không vong.
Chi gặp không vong tượng trưng có ngoài khí mà không có ngoài hình, có kỳ danh mà không có kỳ thật. Niên chi không vong tổ nghiệp không; nguyệt chi không vong huynh đệ không có dựa vào hoặc có thương tổn hại; nhật chi không vong làm việc đầu hổ đuôi rắn, ít thành nhiều bại, không có về túc cảm giác, hoặc phu thê chi duyên bạc; thời chi không vong con gái trì dục hoặc con gái có tổn thương. Hung sao trời vong hung giảm phân nửa, cát thần không vong phúc không được đầy đủ. Mệnh trung sở dụng chi thần vượng tướng mà không vong, chủ tính cách khí độ rộng thùng thình, cá tính siêu phàm thoát tục, có thể thành tựu vu vụ hư chuyện nghiệp, như phật đạo, huyền học, ngũ thuật, khí công, nghệ thuật chờ lĩnh vực.
Không vong loại tượng: Vụ hư, huyền học, không vật, giảm phân nửa, tổn thất, không được đầy đủ, trên danh nghĩa, danh nghĩa, hữu danh vô thật, hình thức, khí, tượng, bóng dáng chờ.
Thiên can cũng có thể nói không vong, nguyên cục không có không vong, đại vận tới, cũng xem như không vong, nhưng tố công không có ấn tượng, một loại tượng mà thôi. Lưu niên không nói không vong.
Kim không thì minh, hỏa không thì phát, thủy không thì chảy, mộc không thì hủ, thổ không thì hãm.( Sửu không vốn là thổ không)
Tô Vĩnh Lợi: Quý đinh đinh nhâm
Mão tị tị ngọ
Tị hỏa không vong, tỏ vẻ làm cho huyền học, phật đạo, Dịch Học chờ.
Nhàn chú: Thìn vận tử phụ, niên thượng mão ấn vi phụ, quý cũng là phụ, bởi vì mang tượng, thìn vận, quý xuống tới rồi, quý= thìn, thìn mão một hại, ngọ mão vừa vỡ, tử phụ;
Năm tháng thượng thực thần vi mẫu, niên thượng thương quan nam vi nãi nãi, nữ vi bà bà; khác lộc cũng biểu mẫu thân; quan sát tài ấn cũng có thể vi phụ. Tị vi mẫu, không, mẫu tin phật!
Càn: Nhâm tân giáp kỷ
Dần hợi tuất tị
Chính quan vi nữ, thất sát vi nhân, như không vong nhân tiện phản rồi. Cho nên này tạo phản đoạn sinh nhân.
Thổ làm quan sát, như thế nào đoạn, đoạn sư cũng không biết rõ ràng.
Càn tạo: Nhâm quý tân kỷ
Dần sửu hợi hợi
Quý = hợi tại nguyệt lệnh vi thực thần biểu mẫu thân, nguyên nhân hợi hai lần hợp dần, cha mẹ ly dị, tùy theo mẫu sửa giá! Nguyên nhân hợi ngồi chi, cho nên, tùy theo mẫu !
![]() |
![]() |
► Trắc nghiệm tính cách của bạn với những sự tương đồng thú vị tại Lichngaytot.com |
Trong tử vi, Bá Ấp Khảo là con trai cả của Tây Bá hầu Cơ Xương, ông họ Cơ, tên là Khảo, tự Bá Ấp; hình tượng của sao Tử Vi được lấy từ nhân vật này
Từ sau khi Tây Bá hầu Cơ Xương bị vua Trụ cầm tù tại Dữu Lý, con trai trưởng của ông là Bá Ấp Khảo thay mặt quản lý chính sự tại Tây Kỳ. Vâng lời cha, ông cần cù việc chính, đất nước yên bình, nhân dân no ấm. Nhưng nỗi nhớ thương cha ngày càng lớn dần trong ông. Một hôm, không thể kìm chế nổi sự lo lắng, ông đã triệu tập đại thần Tán Nghi Sinh và tướng quân Nam Cung Quát, nói rằng: "Cha ta đã bị vua Trụ cầm tù gần bảy năm rồi, không biết lành dữ ra sao, nên ta muốn uỷ thác chính sự cho hai vị, để đến Triều Ca một phen, để cầu xin thiên tử tha cho cha ta trở về".
Sao Tử Vi - Bá Ấp Khảo
Nghe vậy, Tán Nghi Sinh lập tức khuyên rằng: "Trưởng công tử không nên quá nóng lòng, công tử còn nhớ lời hầu gia căn dặn hay không? Sau bảy năm, tai kiếp của hầu gia tự dưng sẽ chấm dứt mà bình an trở về Tây Kỳ. Nếu như công tử mạo hiểm về triều, chẳng phải đã phụ tấm lòng của phụ thân công tử hay sao. Xin công tử hãy suy nghĩ cho kỹ, dục tốc bất đạt. Phụ thân công tử đã dặn dò như vậy, chắc chắn là có nguyên do". Nhưng Bá Ấp Khảo tâm ý đã quyết, hai vị đại thần không biết làm thế nào, đành phải thoái lui.
Bá Ấp Khảo nói rõ nguyên do với mẹ, đến hôm sau đem theo ba vật báu gia truyền:
dự định dâng cho Trụ Vương để chuộc tội cho cha.
Sau khi đến Triều Ca, Bá Ấp Khảo chờ đợi suốt năm ngày nhưng không gặp được Trụ Vương. Đến ngày thứ sáu, ông lại đến Ngọ môn đợi thánh chỉ, gặp được Á tướng Tỷ Can, bèn giải thích rõ nguyên do với ông. Được sự giúp đỡ của Tỷ Can, ông đã được đến lầu Trích Tinh gặp vua Trụ. Bá Ấp Khảo đem ba vạt báu gia truyền dâng cho Trụ Vương, Tỷ Can lại chuyền lên Trụ Vươpg tấu chương của Bá Ấp Khảo. Trụ Vương cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của Bá Ấp Khảo, bèn bảo ông đứng sang một bên chờ suy nghĩ.
Đát Kỷ liếc thấy Bá Ấp Khảo dung mạo anh tuân phi phàm, bèn nói với Trụ Vương rằng: "Thiếp nghe đồn Bá Ấp Khảo có tài gảy đàn thất huyền (tức cổ cầm), tinh thông âm luật, sao bệ hạ không bảo anh ta gảy một khúc xem có đúng là danh bất hư truyền hay không?"
Bá Ấp Khảo không tiện tự chối, bèn lấy đàn ra gảy một khúc "Phong nhập tùng" (gió thổi rừng tùng), Trụ Vương nghe đàn, vô cùng tâm đắc, ca ngợi không ngớt. Đát Kỷ thấy Bá Ấp Khảo tài mạo song toàn, thì càng yêu mến, muốn giữ Bá Ấp Khảo lại trong cung, bèn nói với Trụ Vương rằng: "Sao không giữ hắn lại để truyền thụ ngón đàn tuyệt thế ấy lại cho thiếp". Trụ Vương chấp thuận. Và như vậy, Bá Ấp Khảo đành phải lưu lại dạy đàn cho Đát Kỷ.
Một hôm, khi đã dạy đến giờ Tý nửa đêm, Bá Ấp Khảo chuẩn bị thu xếp ra về, Đát Kỷ bèn tỏ ý lả lơi khêu gợi. Bá Ấp Khảo vừa khó chịu vừa luống cuống không biết phải làm gì, bèn lớn tiếng quát Đát Kỷ dừng lại, gây kinh động đến đám thị vệ, suýt nữa đánh thức Trụ Vương.
Hôm sau, Đát Kỷ nghĩ ra một kế, chạy đến khóc lóc với Trụ Vương rằng Bá Ấp Khạo thừa cơ dạy đàn để trêu ghẹo, muốn giờ trò sàm sỡ với ả. Trụ Vương liền nói với Bá Ấp Khảo rằng: "Ngươi hãy gảy một khúc đàn, nếu tiếng đàn trung nghĩa, sẽ miễn tội cho ngươi! Nếu tiếng đàn có ý gian xảo, chắc chắn sẽ khép vào tội chết!".
Bá Ấp Khảo biết rằng khó thoát khỏi kiếp nạn này, bèn ôm đàn gảy dạo một khúc nhạc, bày tỏ tấm lòng thanh bạch, trung trinh với nước. Trụ Vương không tìm được chỗ sơ hở, lại sai ông gảy thêm khúc nữa. Bá Ấp Khảo bèn dạo thêm một khúc nhạc nói về đức hạnh và phẩm chất của người làm vua, trong cung đàn điệu nhạc có ẩn hiện ý chê trách.
Bá Ấp Khảo vừa gảy đàn vừa cất lời ca rằng:
Mong nhà vua rời xa nữ sắc chấn chỉnh triều cương
Muốn thiên hạ thái bình mau phế bỏ nương nương
Yêu khí tiêu tan, chư hầu vui vẻ quy phục
Dâm tà chấm dứt, xã tắc êm ấm an lành
Cơ Khảo sa cơ không sợ muôn chết
Đát Kỷ diệt rồi sử sách lưu danh!
Hát xong, ông bèn quăng chiếc đàn về phía Đát Kỷ, nhưng lại không đánh trúng ả, chỉ khiến cho cốc chén trên bàn vỡ tan tành. Trụ Vương nổi cơn thịnh nộ, lệnh cho thị vệ bắt trói Bá Ấp Khảo vứt vào hầm rắn độc. Lúc này, Đát Kỷ lại nảy ra một ý, bèn tâu với Trụ vương rằng: "Hãy lấy thịt của Bá Ấp Khảo làm bánh đem cho Cơ Xương ăn. Nếu như Cơ Xương ăn, chứng tỏ ông ta bói quẻ không chuẩn, nên không biết đó là thịt của con trai mình. Nếu như ông ta không chịu ăn, chứng tỏ ông ta thực sự biết đoán thần số tiên thiên để dự đoán việc tương lai, nên lập tức chém đầu."
Vua Trụ liền đồng ý với âm mưu của Đát Kỷ, cho thị vệ lóc thịt Bá Ấp Khảo làm bánh đem đến Dữu Lý cho Cơ Xương. Cơ Xương tạ ơn ân đức của Trụ vương, rồi thản nhiên ăn bánh. Bọn thị vệ nhìn mà thất kinh, nhưng cũng chỉ lẳng lặng quay về bẩm báo. Trụ Vương đợi thêm vài ngày nữa để xác nhận Cơ Xương thực sự không còn mối uy hiếp gì với bản thân, liền phóng thích cho về Tây Kỳ. Tính đến lúc đó, Cơ Xương bị cầm tù vừa vặn bảy năm.
Về đến quê nhà, nhớ đến con trai Bá Ấp Khảo vì ông mà hy sinh cả tính mệnh, thì buồn thương khôn tả, bụng đau quằn thắt, đột nhiên nôn ra một miếng thịt, hóa thành con thỏ mà chạy đi mất.
Hồn phách của Bá Ấp Khảo bay đến trước đài Phong Thần, được phong làm sao Tử Vi, cai quản chòm sao Bắc Đẩu. Trong vườn hoa ben ngoài thần điện của ngài là ngút ngàn hoa tường vi màu tím.
Sao Tử vi còn gọi là Đế tòa đứng đầu 12 vì sao trong lá số tử vi, thuộc tính Ngũ hành là âm Thổ, là trung tâm của các vì sao. Tử vi chuyên quản về tước lộc, có tác dụng hóa giải tai ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa (chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh).