Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Ngọc Chiếu bình chú

Ngọc Chiếu Đinh Chân Kinh là bộ sách cổ về mệnh lý, tuy hiện nay thị trường có xuất bản thế nhưng lời văn chú thích khá lủng củng, có nhiều chỗ không hợp lý trong ứng dụng thực tiễn.
Ngọc Chiếu bình chú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì lẽ đó, tôi mạo muội sưu tầm kinh văn của Ngọc Chiếu và bình chú lại sao cho phù hợp với nguyên lý ứng dụng của bát tự. Quá trình biên tập có chổ nào không phù hợp rất mong các bậc cao minh chỉ điểm thêm, cho tôi được tinh tấn trên con đường đam mê nghiên cứu mệnh lý học.

1. Kinh văn:
Quái Phùng Sanh Khí, Thiên Đức Hợp, Thế Thế Trường Niên.

_Chú vân : Tam hợp sanh phương giả vi sanh khí, tu yếu nhật thời giả.
_Hựu vân: Trường sanh diệc danh sanh khí. Giáp mộc đáo hợi, ất mộc đáo ngọ. Bính hỏa đáo dần, đinh hỏa đáo dậu. Mậu thổ đáo dần, kỷ thổ đáo dậu. Canh kim đáo tị, tân kim đáo tí. Nhâm thủy đáo thân, quí thủy đáo mão.
Thiên đức giả, chính đinh, nhị khôn, tam nhâm, tứ tân, ngũ càn, lục giáp, thất quí, bát cấn, cữu bính, thập ất, nhập nhất tốn, thập nhị canh.
Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp.

Bình chú:
_Mỗi trường hợp bát tự đều có mỗi bố cục riêng, thuật ngữ thường gọi là mệnh cục. Vậy kinh văn trên dùng đến từ “quái” là chỉ cho mệnh cục trong bát tự.
Đến đây có thể tạm dịch:
Mệnh cục gặp được sanh khí, cùng Thiên Đức Hợp thì mệnh tạo ấy hưởng được tuổi thọ và vinh hoa phú quí.

Thế nào là mệnh cục được sanh khí?
Có thuyết cho rằng tam hợp, bán hợp là sanh khí. Có thuyết cho rằng trường sanh nhật can là sanh khí.
Theo tôi khái niệm sanh khí trong bát tự, điều kiện cần thiết nhất là sự cân bằng âm dương và ngũ hành của nhật can. Thực tế khó có lá số bát tự nào tự động cân bằng trung dung về mặt âm dương ngũ hành, do đó cần đến hệ số điều chỉnh tức dụng thần của mệnh cục.
Vậy đoạn “tu yếu nhật thời giả” trong lời chú, nói lên quan trọng tại nơi nhật trụ(trụ ngày) và thời trụ (trụ giờ)
Nếu dụng thần trong bát tự xuất hiện tại nhật trụ, hay thời trụ điều đó nói lên rằng mệnh cục gặp được sanh khí tại khoảng thời điểm trung và hậu vận của đời người, thì mệnh số ấy sẻ được cao thọ và hưởng được nhiều lạc phúc.
Còn việc ứng dụng thêm thần sát là việc phụ trợ, được xem là công cụ nhấn mạnh phân tích luận giải mệnh lý. Nếu ứng dụng thần sát một cách tùy tiện thì không có giá trị phân tích luận giải mệnh lý.

_Nếu nhật can suy nhược, nhưng được trường sanh, quan đới hay lâm quan tại nguyệt lệnh cùng sự tam hợp hay bán hợp, lục hợp địa chi tại nhật trụ và thời trụ tương trợ nhật can, cũng được xem là mệnh cục gặp phương sanh khí.

Ví dụ càn tạo: Năm mậu thân, tháng mậu ngọ, ngày ất hợi, giờ kỹ mão.
Với ví dụ trên, nhật can ất mộc tuy bị lực thổ kim dày tương khắc làm cho thân mệnh suy nhược. Nhưng nhật can đuợc truờng sanh tại nguyệt lệnh ngọ hỏa, và được nhật chi là Thiên Đức Hợp tương sanh, đồng thời nhật chi hợi bán hợp mão mộc cuộc tương trợ nhật can ất mộc. Do đó mệnh cục này được xem là phùng sanh khí cùng Thiên Đức, chủ phát phúc hậu vận và được trường thọ vậy.
Câu: “Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp”. Lấy ví dụ trên làm sáng tỏ.

2. Kinh Văn:
Thân Mệnh Phùng Hình, Phản Khắc Thời Tất Nhiên Yểu Tiện.

_Chú vân: chi dữ nạp âm dã. Phàm nhân thân mệnh nhật thời khắc phá giả, yểu tiện dã.
Giả lệnh Mậu thìn niên, chính nguyệt, nhâm thân nhật, thời ất tị. Chính nguyệt hựu hình nhật thời chi, nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã.
Giả lệnh Canh ngọ, tứ nguyệt, thủy nhân nhâm ngọ phục hình nhật thời, cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại.

Bình Chú:
Đoạn kinh văn trước dùng từ “quái” để nói lên tình hình của từng loại mệnh cục của bát tự, còn đoạn này dùng từ “thân mệnh ” để chỉ thẳng tình trạng của nhật can.
Ở đây tôi xin lưu ý đọc giả khi trên tay quí bạn đang có quyển Ngọc Chiếu Định Chân Kinh mới phát hành, phần nhiều lối hành văn dụng nghĩa của quyển này chập choạn, không có tính ứng dụng nghiệm lý mệnh vận.
Chính bản thân tôi phát hiện có nhiều chổ sai lệch không khế hợp với sách cổ của tôi đã có trong tay do lưu truyền.

Câu: “Phàm nhân thân mệnh nhật thời khắc phá giả, yểu tiện dã.” điểm nhấn mạnh ở đây là nhật can gặp phải hình xung khắc hại quá nhiều, khiến cho thân mệnh suy nhược thái quá, mệnh tạo rất dễ gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn hoặc yểu mệnh bất đắc kỳ tử, do đó từ “thời” ở đây không dùng chỉ đến thời trụ, dụng ý ở đây từ “ thời” nói lên nhật can ngộ phải, gặp phải thực trạng hình xung khắc hại quá nhiều, dẫn đến thân mệnh hoạn nạn hay yểu vong. Vậy lời chú đến đây đã thích trọn nghĩa cho kinh văn của Ngọc Chiếu, và ta có thể tạm dịch kinh văn như sau:
Nhật can gặp phải hình xung khắc hại, mệnh tạo rất dể yểu vong hay bần tiện nghèo hèn là điều tất yếu.

Câu: “ Giả lệnh Mậu Thìn niên, chính nguyệt, nhâm thân nhật, thời ất tị. Chính nguyệt hựu hình nhật thời chi, nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã.”
Ví dụ : Năm mậu thìn, Tháng giáp dần, ngày nhâm thân, giờ ất tị.

Câu : “chi dữ nạp âm dã” sẽ phân tích ở ví dụ này, ta thấy trụ ngày cùng với trụ năm cùng không vong tại càn tuất hợi, trong khi đó hợi tàng chứa nhân nguyên nhâm thủy, và con nhà giáp tí của trụ năm cùng trụ ngày vốn không có nạp âm hành thủy “nạp âm dã khuyết thủy” từ đó cho thấy nhâm thủy đã bị vô chơn, nay nguyệt trụ dần là đất suy bệnh của nhật can nhâm. Trong khi đó mệnh cục này lại xuất hiện thế tam hình dần tị thân tại nguyệt nhật thời chi, vậy mệnh tạo này phản ảnh số mệnh rất bần tiện, hoặc yểu vong, do đó lời chú mới viết “nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã”.

Câu : “ Giả lệnh Canh ngọ, tứ nguyệt, thủy nhân nhâm ngọ phục hình nhật thời, cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại.”
Ví dụ: Năm Canh ngọ, Tháng canh thìn, Ngày Nhâm ngọ, Giờ Nhâm ngọ.

Nhật can nhâm thủy mộ địa tại nguyệt trụ đề cương của lệnh thìn thổ, nay nhâm thủy lấy hỏa làm tài, thổ làm quan. Trong mệnh cục này có 3 địa chi ngọ, nhân nguyên trong ngọ là kỷ quan, đinh tài, nhưng thân mệnh (nhật can) nhược do mộ địa tọa trên địa chi tài tự hình, cùng với nguyệt trụ thìn là tự hình do đó câu “cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại". Nói lên mệnh tạo không thể làm quan chức được, trước sau gì cũng bị nạn quan trường tù hình, vì vậy gọi là đại bại.

By Thiện Minh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngọc Chiếu bình chú

Phật giáo giải mã bản chất của yêu ma

Chúng ta hay thường nhắc tới ma trong đời sống tâm linh, nhưng nguồn cơn của nó theo kinh Phật không phải là thứ mà chúng ta vẫn hay tưởng tượng.
Phật giáo giải mã bản chất của yêu ma

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta hay thường nhắc tới ma trong thế giới tâm linh, nhưng theo kinh Phật, ma không phải là thứ mà chúng ta vẫn hay tưởng tượng. 


Phat giao giai ma ban chat cua yeu ma hinh anh
 
Ma trong đời sống tâm linh mà cụ thể là theo Phật Giáo (Thừa Kim Cương) gồm 4 loại.
 
1. Ma xiềng xích: con ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, bệnh tật và các chướng ngại bên ngoài. Đây là con ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách gốc Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.
 
2. Ma thả lỏng: ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Tâm ma.
 
3. Ma khánh hỷ: con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những “kết quả” và “kinh nghiệm” thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh sách gốc Hán gọi con ma này là Thiện căn ma.
 
4. Ma kiêu căng: con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái “ta”, cái “tôi”, cái “ngã”. Kinh sách gốc Hán gọi con mà này là Tam muội ma.
 
Ngoài ra người ta còn thấy kinh Hoa nghiêm sớ sao phân chia ma ra làm mười thứ gọi là Thập ma, trong số mười loại ma này thì nhiều thứ đã được liệt kê trên đây.
 
1. Uẩn ma; 2. Phiền não ma; 3.Nghiệp ma: tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập; 4. Tâm ma; 5. Tử ma; 6. Thiên ma; 7. Thiện căn ma; 8. Tam muội ma; 9. Thiện trí thức ma: tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng bị xem là một loại ma; 10. Bồ đề Pháp trí ma: là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.
 
Vậy mới rõ, ma thực ra không phải linh hồn hay yêu quỷ gì, mà chính là những thói hư tật xấu trong chính mỗi con người chúng ta. Tâm ma sinh ra yêu ma. 
Giải mã những giấc mơ liên quan tới vấn đề tâm linh Bước vào thế giới của 8 loài quỷ trong dân gian Nên và không nên bày hoa nào trên ban thờ?
Thái Vân  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật giáo giải mã bản chất của yêu ma

Đền Thờ Vua Hùng - Thành Phố Hồ Chí Minh

Đền thờ vua Hùng còn được gọi với tên khác là Đền Hùng vương hay Đền Hùng, trước đây còn có tên Đền Quốc tổ Hùng Vương, đây là ngôi đền vua hùng lâu đời
Đền Thờ Vua Hùng - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tưởng nhớ công lao to lớn của các Vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã đã lập ra đền thờ Vua Hùng không chỉ ở miền Bắc mà cả trong nam. Nếu như ngoài bắc nổi tiếng với Đền Hùng – Phú Thọ thì trong Nam Đền thờ Vua Hùng hiện tọa lạc tại số 2, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một những ngôi đền thờ Vua Hùng lâu đời nhất của nước ta.

Đền thờ vua Hùng còn được gọi với tên khác là Đền Hùng vương hay Đền Hùng, trước đây còn có tên Đền Quốc tổ Hùng Vương. Đây là một trong những nơi thờ vua Hùng Vương lâu đời tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Lịch Sử: Năm 1926, nhà cầm quyền Pháp cho xây dựng cạnh cổng chính trong khu vực Thảo Cầm Viên Sài Gòn, đối diện với Viện Bảo tàng Blanchard de la Bross (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh), một ngôi đền mang tên Đền Kỷ niệm (Temple de Souvenir), để tưởng niệm những người Việt tử trận vì đi lính cho Pháp trong Thế chiến thứ nhất.

Sau năm 1954, đền được đổi tên là Đền Quốc Tổ Hùng Vương, và thờ thêm một số nhân vật lịch sử khác, như: Lê Văn Duyệt, Trần Hưng Đạo… Năm 1975, đền đổi tên là Đền Hùng Vương, và giao cho Bảo tàng lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh quản lý cho đến nay.

Kiến Trúc: Đền Thờ Vua Hùng (Thành phố Hồ Chí Minh) có lối kiến trúc gần giống như các đền ở Huế, với bộ mái chồng diêm, thêm một hàng hiên phía trước, tại thành ba tầng mái cong. Các họa tiết trang trí có hình rồng và phượng theo thể cung đình. Các bậc đá lên xuống các cửa, hai bên đều có đôi rồng chầu.

Trong đền, trên các bao lơn xung quanh, có chạm khắc các hình: hạc, lân, qui, phượng, tô đắp tinh xảo và sơn màu đỏ như son. Các lỗ thông gió xung quanh cũng được chạm khắc. Đền được chống đỡ bằng 12 cây gỗ mật màu đen bóng, đường kính khoảng 50 phân, tượng trưng cho thập nhị chi: tý, sửu, dần, mẹo… Tất cả đều theo phong cách nghệ thuật thời nhà Nguyễn, tổng thể tòa nhà phảng phất Minh lâu ở Hiếu lăng.

Ở trung tâm chánh điện đặt ngai thờ vua Hùng. Ngoài ra, nơi đây còn có bài vị thờ tổ tiên, bách tính, lương thần và danh tướng. Trước bàn thờ có bộ vũ khí bát bửu, chiêng trống. Xung quanh đền có các hộp hình, tranh ảnh giới thiệu khái quát thời đại nguyên thủy và thời đại các vua Hùng về nhiều mặt, như: trồng trọt, săn bắn, đánh cá và các nghề như: đúc đồng, dệt vải, sản xuất gốm, chế tạo các loại vũ khí…

Mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, nơi đây đều có tổ chức lễ giỗ trọng thể, để ghi nhớ công ơn dựng nước Việt của các vua Hùng. Lễ gồm 2 phần: lễ dâng hương và lễ hội. Ðền chỉ đóng cửa ngày thứ hai, các ngày còn lại trong tuần đều mở cửa.

tượng voi
Tượng voi đồng lớn nhất Việt Nam bên phải đền Hùng (TP. Hồ Chí Minh)

Bên phải Đền Thờ Vua Hùng (Thành phố Hồ Chí Minh), có đặt một tượng voi đồng lớn nhất Việt Nam. Voi nặng hơn ba tấn, cách tạo hình và nét chạm khắc rất mỹ thuật, tiêu biểu cho nền thủ công tinh xảo của vương quốc Thái Lan. Voi được đặt trên bệ làm bằng xi măng hình khối chữ nhật. Bốn mặt bệ, có gắn bốn biển đồng lớn cũng hình chữ nhật. Cả bốn biển đều có khắc dòng chữ lưu niệm giống như nhau, bằng bốn thứ tiếng: Việt, Thái, Anh, Pháp.

Hàng ngày, vẫn có hàng trăm lượt người dân và du khách đến đây thành kính thắp hương tưởng nhớ, tri ân công đức các bậc tiền nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Thờ Vua Hùng - Thành Phố Hồ Chí Minh

Màu Sắc Ví Tiền Ảnh Hưởng Cực Lớn Tới Độ Giàu Nghèo Của Bạn

Màu sắc ví tiền: Ngoài việc lựa chọn kiểu dáng, kích cỡ ví tiền để hút tài lộc thì màu sắc ví cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng tới chủ nhân.
Màu Sắc Ví Tiền Ảnh Hưởng Cực Lớn Tới Độ Giàu Nghèo Của Bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài việc lựa chọn kiểu dáng, kích cỡ ví tiền để hút tài lộc thì màu sắc ví cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn tới nguồn tài vận của chủ nhân.

 

1. Ví tiền màu đen


Mau vi tien anh huong cuc lon toi do giau ngheo cua ban hinh anh
 
Ví màu đen được sử dụng khá phổ biến, đặc biệt là cánh mày râu. Theo phong thủy, màu đen đại diện cho sự ổn định, hội tụ, mở ra cơ hội làm giàu, giúp người chủ sở hữu nó không tiêu tiền một cách tình cờ hoặc theo hứng.
 
Tuy nhiên cần lưu ý, nếu mệnh của bạn kị với màu đen thì không nên dùng ví màu này. Bởi điều đó sẽ cản trở quá trình tích lũy tiền bạc, thậm chí còn khiến bạn liên tiếp gặp xui xẻo, tổn thất về tiền của, tài chính.

 2. Ví tiền màu đỏ


Mau vi tien anh huong cuc lon toi do giau ngheo cua ban hinh anh 2
 
Màu đỏ là màu của may mắn, màu mạnh mẽ nhất và nó được cho là màu đem lại sự giàu có, thịnh vượng. Tuy nhiên, sử dụng màu này lại tạo cảm giác khó tiết kiệm được tiền vì không ít người tin rằng màu đỏ đại diện cho sự thâm hụt và chi tiêu phóng khoáng.

3. Ví tiền màu hồng, cam

Chọn ví tiền hợp phong thủy - cách cải thiện tài vận nhanh nhất. Màu hồng, cam là hai màu sắc mang lại sự hưng thịnh, may mắn cả về tiền bạc và tình yêu cho chủ nhân, đặc biệt là phụ nữ độc thân. Sử dụng ví màu này một cách thường xuyên sẽ kích hoạt nguồn năng lượng tích cực, giúp bạn kiếm được nhiều tiền hơn.  

4. Ví tiền màu xanh

  Trong năm yếu tố Phong thủy thì màu xanh (không phải xanh lá) thuộc về Thủy. Bạn không nên mua ví màu xanh, bởi vì bạn sẽ chi tiêu tất cả tiền bạc như nước nếu như thường xuyên sử dụng nó. Vì vậy, nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với các nguồn thu nhập và sự giàu có của bạn. Tuy nhiên, nếu yêu thích và bản mệnh phù hợp,  bạn có thể sử dụng nó một cách thường xuyên.   

5. Ví tiền màu vàng


Mau vi tien anh huong cuc lon toi do giau ngheo cua ban hinh anh 3

Màu ví tiền ảnh hưởng cực lớn tới độ giàu nghèo của bạn

Trong ngũ hành, màu vàng cũng thuộc yếu tố Thổ. Ví màu vàng rất có hữu ích trong việc đem lại sự giàu có, thuận lợi trong sự nghiệp và mang vận may đến cho bạn.   Tuy nhiên bạn cũng lưu ý là nếu mệnh của bạn kị với màu vàng thì bạn không nên sử dụng ví màu này, tránh những xui xẻo đáng tiếc xảy ra.

6. Ví tiền màu trắng

  Màu trắng mang lại cho chủ nhân sự ổn định lâu dài về tiền nong. Lựa chọn màu sắc ví tiền là màu trắng và sử dụng thường xuyên sẽ mang lại lợi nhuận và thành công gấp bội cho chủ nhân trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính.

7. Ví tiền màu nâu, cà phê

  Tương tự màu vàng, màu nâu và cà phê cũng thuộc về yếu tố Thổ - Thổ tạo ra vàng. Đây là lí do vì sao trên thị trường đây là hai màu được ưa chuộng nhất. Dùng loại ví có hai màu này thường xuyên sẽ giúp nâng cao năng lực tiết kiệm và tích lũy tiền cho bạn. Hút nhiều tiền bạc nhờ dùng ví đúng chuẩn phong thủy đấy nhé! 

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu Sắc Ví Tiền Ảnh Hưởng Cực Lớn Tới Độ Giàu Nghèo Của Bạn

Xử lý trường hợp cửa chính có phong thủy không tốt

Cửa chính là nơi nghênh đón những vận may mang đến cho toàn căn nhà và người cư ngụ trong đó. Vì thế, cửa chính cần cao, rộng, thông thoáng và toát được vẻ trang trọng, mạnh mẽ. Nhưng khi cửa chính bị đặt vào thế xấu, cần phải xử lý như thế nào ?
Xử lý trường hợp cửa chính có phong thủy không tốt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ba yếu tố chính cần được quan tâm khi xây nhà là cửa chính, phòng của chủ nhà và bếp nấu. Trong đó, cửa chính là quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ sự lành, dữ của nhà ở.

Cửa chính cần phải đặt ở hướng lành


Nếu như người thuộc “đông tứ mệnh” ở vào “tây tứ mệnh” hoặc ngược lại, “trạch”, “mệnh” không tương phối thì sẽ không có được một căn nhà lành. Khi đó, nếu nhà hướng đông, tây khó thay đổi thì phải sửa cửa chính. Nếu “trạch”, “mệnh” không tương phối thì phải tính cách khác để làm sao cho cửa chính và quẻ mệnh tương phối.

Mộc (xanh, màu lục), hỏa (đỏ, tím), thổ (nâu, vàng), kim (trắng, vàng sẫm), thủy (lam, xám). Người hành thuộc mệnh “mộc”, “hỏa”, “thủy” là mệnh “đông tứ”. Nếu như cửa mở hướng “tây tứ” tức là các hướng tây, tây bắc, tây nam hoặc đông bắc sẽ không được lý tưởng vì sẽ gặp phải khí khắc. Người mệnh “thổ” hoặc “kim” là thuộc “tây tứ”, nếu như mở cửa nhà hướng đông, đông nam, nam hoặc bắc sẽ gặp phải tà khí khắc.

Sau khi đã biết màu sắc ngũ hành với bản mệnh, ta có thể dùng những màu đó là màu của thảm đặt ở vị trí cửa ra vào để hóa giải tà khí. Nói một cách khác, người “đông tứ” mệnh thì cửa cần mở ở hướng đông, đông nam, nam hoặc bắc, còn người thuộc “tây tứ” mệnh, cửa chính cần được mở ở hướng tây, tây nam, tây bắc hoặc đông bắc. Nếu như cửa chính nhà ở đặt ở hướng lành thì tất nhiên đây là điều vui, nhưng nếu phát hiện cửa chính đặt ở hướng dữ thì phải xử lý như thế nào? Nếu cửa chính không được lý tưởng, chúng ta có thể chỉnh sửa bằng một vài hình thức theo phong thủy:

- Thêm cửa ở trong nhà: nhà xây hợp với người thuộc đông tứ mệnh, nhưng khi người tây tứ mệnh sinh sống trong đó, ta có thể hóa giải. Khi vào nhà qua cửa chính ở hướng bắc, làm thêm một đoạn hành lang đi vào theo hướng đông bắc và hướng vào hành lang làm thêm một cửa. Như vậy cửa chính vào nhà trở thành của hướng đông bắc, hợp cho người mệnh “tây tứ”.

- Dùng thảm theo màu sắc ngũ hành: Một miếng thảm nhỏ bé đặt ở bất cứ chỗ nào khác trong nhà đều không đáng nói, nhưng nếu đặt nó ở cửa chính nơi mọi người ra vào buộc phải bước qua thì ảnh hưởng của nó tương đối lớn. Cũng cần chú ý màu sắc của cửa chính cần hài hòa với màu sắc của thảm và bản mệnh của chủ nhà theo nguyên tắc của ngũ hành.

Xử lý các trường hợp phong thủy không tốt


- Có góc nhọn hướng thẳng cửa chính: Treo tấm biểu đầu thú phía trên cửa hướng thẳng góc nhọn, (ít dùng vì kích thước lớn: 2664 x 3996 mm), treo gương lõm còn gọi là gương lòng chảo. Nó có thể phản chiếu trở lại toàn bộ hình ảnh vật chắn phía trước. Cũng có thể xây tường chắn, xây đoạn tường chắn ở ngoài hoặc trong cửa để chắn góc nhọn chiếu thẳng vào cửa chính.

- Đường cái đâm thẳng vào cửa: đây là điều rất không tốt. Trong phong thủy học gọi là “mũi tên vô hình đâm thẳng vào ngực”, không có lợi cho chủ nhà. Để hóa giải, dùng hình “Sơn hải trấn” có thể được vẽ lên một miếng ván, nếu không chỉ cần viết ba chữ ”Sơn hải trấn“ treo phía trên cửa là được.

- Đường dốc chạy thẳng vào cửa chính: theo phong thủy học thì đường cái là “Nước”, tuy nói Thủy là “Tài” nhưng nếu nước ào ào từ đường dốc chảy vào cửa chính tất biến thành họa. Để hóa giải, phía bên ngoài ta cần xây các bậc thang, như vậy có thể giải thế nước chảy mạnh vào cửa. Nhưng, nên chú ý số bậc phải lẻ (1, 3, 5…)

- Trước cửa là đoạn đường cong hình cánh cung ngược: Phong Thủy học gọi là ”Lưỡi liềm cắt sườn“. Đây cũng là điều dữ. Cách hóa giải tốt nhất là treo tấm gỗ ghi “Sơn hải trấn” hoặc treo gương lõm.

- Hai cửa đối nhau: Trong quan niệm phong thủy, hai nhà không thể đối diện vì như thế sẽ có một chủ bị suy, một nhà sẽ gặp dữ. Để hóa giải điều này, có thể bàn với nhà hàng xóm, một trong hai nhà lệch cửa hoặc bàn với hàng xóm cùng treo bốn chữ “Thiên quan đại phúc“trên cửa.

Nguồn: Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xử lý trường hợp cửa chính có phong thủy không tốt

Hình dáng móng tay bật mí nét tính cách thú vị của nữ giới

Không chỉ phản ánh sức khỏe của con người, móng tay và tính cách cũng có những mối liên quan nhất định. Qua hình dáng móng tay, ta có thể đoán biết tính cách
Hình dáng móng tay bật mí nét tính cách thú vị của nữ giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

của mỗi người.
 

1. Móng tay mảnh, dài – Trí sáng tạo và tưởng tượng phong phú
Người có dáng móng tay mảnh và dài thường điềm đạm và thích sự lãng mạn. Nhiều khả năng não phải của bạn phát huy được hết năng lực sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú. Người này coi trọng tiểu tiết, sức sáng tạo vô biên nhưng lại dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh và dễ tin tưởng người khác. 
 
Chủ nhân của đặc điểm móng tay và tính cách này nếu kết hợp với nửa kia thuộc kiểu não trái sẽ có mâu thuẫn xảy ra. Tốt nhất nên tránh yêu hoặc kết hôn với những người này.
2. Móng tay bè rộng ra – Nhà hùng biện nóng vội
 
Người có móng tay trái dạng bè rộng ra thì não trái có xu hướng phát triển hơn. Người này giỏi hùng biện, cãi lí. Bạn biết cách diễn đạt lưu loát ý tưởng, suy nghĩ của mình. Điều đó tạo ấn tượng trong mắt mọi người rằng bạn thẳng thắn và trong sáng, không có mưu đồ đen tối nào. 
 
Tuy nhiên, chính đặc điểm đó đã “tố cáo” bạn là người nóng vội, thiếu kiên nhẫn. Tốt nhất bạn nên khắc phục yếu điểm này thì mới có thể đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. Bạn thuộc tuýp người lí trí, mạnh mẽ, do đó sẽ không phù hợp để kết đôi với người kiểu não phải, tức người sống thiên về tình cảm.
3. Dáng móng tay tròn hoặc hình quả trứng – Người theo chủ nghĩa hòa bình, ung dung tự tại
 
Người có dáng móng tay này thích cuộc sống yên bình, không nhiều thay đổi. Năng lực xã giao của bạn rất tốt, nếu xung quanh xảy ra tranh chấp hoặc mâu thuẫn, bạn có thể là người đứng ra hòa giải.

Hinh dang mong tay bat mi net tinh cach thu vi cua nu gioi hinh anh
Ảnh minh họa

Tính cách này khiến nhiều người yêu mến, tuy nhiên bạn cần tạo dựng niềm tin hơn nữa ở bạn bè để họ không cho rằng bạn quá dễ dãi. So với những người có dáng móng tay khác, bạn dễ dàng hòa hợp với nhiều kiểu người hơn.
4. Dáng móng tay hình vuông – Hiệp khách sáng suốt
 
Nghiêm túc, sáng suốt là đặc điểm nổi bật ở người có dáng móng tay này. Đồng thời, người này còn có ý chí kiên cường, can đảm hơn người. Theo đó, hình dáng móng tay này phần lớn xuất hiện ở nam giới.

Bạn nghiêm túc, thông minh là tốt, tuy nhiên nếu quá cứng nhắc hoặc tỏ vẻ ta đây cái gì cũng biết sẽ dễ bị người khác đố kị và nảy sinh tâm lí ghen ghét. Đôi khi trong cuộc sống bạn cần giả vờ ngốc nghếch thì mọi chuyện sẽ càng thuận lợi hơn.
 
5. Móng tay hình tam giác – Thiên tài sáng tạo vô cùng nhạy cảm
 
Người có dáng móng tay này không bao giờ thiếu hụt sự sáng tạo, hơn thế bạn còn tìm thấy những chi tiết mới lạ mà người khác đã bỏ qua. Nếu là móng tay hình tam giác ngược, người này có tính cố chấp, bướng bỉnh.

Hinh dang mong tay bat mi net tinh cach thu vi cua nu gioi hinh anh 2
Ảnh minh họa

Nếu là tam giác xuôi, là người vô cùng nhạy cảm, không thể chịu đựng được những người thô lỗ và quá xuề xòa quanh mình.
 
Theo XZ  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dáng móng tay bật mí nét tính cách thú vị của nữ giới

10 lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ

Nơi huyệt mộ của người đã mất rất quan trọng bởi nó không những ảnh hưởng tới âm phúc mà cũng ảnh hưởng tới dương thế, tới con cháu và những người liên quan, vì vậy phải thật lưu ý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Trích trong TÌM HIỂU VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TRONG DÂN GIAN của Đặng Xuân Xuyến -

Hiện nay, sách về phong thủy và các bài viết hướng dẫn tìm thế đất tốt để đặt huyệt mộ khá nhiều nhưng các bài viết đó hay dùng các thuật ngữ của phong thủy, viết đã dài, lan man, lại không giải thích cụ thể, thậm chí dùng thuật ngữ còn sai. Ví dụ: “Theo sách địa lý kim cổ ngôi huyệt đúng đất gọi là “huyệt trường”, phải có “tiền án”, “hậu trẫm” (thực ra là “tiền án hậu chẩm” (núi án phía trước, núi gối phía sau), tác giả đã dùng sai thuật ngữ) “tả long”, “hữu hổ”, tức là có những mô đất cao thấp tượng trưng cho án huyệt ao nước, tay long, tay hổ. Ngoài ra trước huyệt phải có “minh đường Thủy tụ” phía sau phải có “long mạch thu thúc”, phía ngoài phải có “bàng sa triều củng”, cốt phải có “tụ khí tàng phong”... Khiến người đọc thấy rối rắm, phức tạp, khó tiếp nhận thông tin cần thiết.

nơi đặt huyệt mộ

Vì thế, tôi tổng hợp và soạn 10 điểm lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ. Nếu bạn không nhiều “tham vọng”, chỉ ước muốn “mồ yên mả đẹp” để con cháu được hưởng bình an, phú túc và phát phúc đều đều thì bài viết này có thể giúp bạn tự tìm thế đất tốt đặt huyệt mộ cho người quá cố, đáp ứng niềm mong mỏi của bạn.

Cụ thể:

1. - Nơi đặt mộ phải cao ráo (vừa phải), cây cỏ tươi tốt, phía trước huyệt mộ cần thoáng đãng, không bị che chắn... Nếu huyệt mộ nằm trên đồi (hoặc khu đất), được các dòng nước chảy dưới chân bao bọc; hoặc được đồi núi (gò đất) hai bên ôm lấy huyệt mộ ở giữa, phía sau có núi (đồi) cao che chắn, phía trước có ao, hồ, sông nước thì đấy là những thế đất rất tốt để đặt huyệt mộ.

2. - Nơi đặt mộ rất cần yên tĩnh, tránh xa nơi ồn ào, náo nhiệt, có đường đi lối lại... Phạm phải, âm trạch sẽ bị nhiễu, tổn hại tới hồng phúc của con cháu. Nếu mộ có đường đi (hoặc dòng nước) đâm thẳng vào giữa, hoặc đâm xuyên sang hai bên, hoặc đường đi sát ngay phía sau là tối kỵ, chủ lụn bại, tổn hại nhân đinh.

3. - Nơi đặt mộ rất cần tránh nơi nhiều gió để tụ khí. Tối kỵ đặt mộ ở địa thế cao, trơ trọi, sẽ phạm vào thế gọi là “cô phong sát”, đón gió bốn phương, làm cho khí bị tan tác, dẫn đến con cháu bị lụn bại, gặp nhiều xui xẻo, dễ tổn đinh, tuyệt tự.

4. - Nơi đặt huyệt mộ phải tránh chỗ trước đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú như voi, trâu, bò, lợn... Phạm phải, con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên tục (nhiều người) trong vòng 3 năm.

5. - Nơi đặt mộ long mạch phải chảy, không bị cắt đứt, nếu phạm phải, con cháu sẽ ốm đau bệnh tật, chết bất đắc kỳ tử hay tuyệt tự, không có con trai nối dõi. Cũng không được đặt mộ gần cây lớn, phòng rễ cây đâm vào hài cốt người quá cố sẽ bị động mộ, con cháu sẽ gặp những điều xui xẻo, tổn phúc.

6. - Nơi đặt huyệt mộ phải tránh mặt đất bị lồi lõm, hình dáng kỳ dị, đất đá khô cứng hoặc đặt trên đồi núi đứng đơn độc.

7. - Nơi đặt huyệt mộ tối kỵ đặt trên hoặc cạnh nước ngầm (không phải là mạch nước ngầm); hoặc dưới đáy huyệt mộ có đất đá lổn nhổn sẽ khiến mộ dễ bị sụt, tổn hại đến phúc lộc của con cháu, dòng họ.

8. - Nếu đặt mộ ở nghĩa trang cần tránh bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm án ngữ ngay trước, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Phạm phải thì con cháu lụn bại, tổn hại nhân đinh, nhất là gia đình con trai trưởng của người quá cố.

9. - Khi đào đất (nơi sẽ đặt huyệt mộ) thấy đất phía dưới xốp, nhẹ, đỏ mịn như tròng đỏ hột gà, hoặc có màu ngũ sắc, màu hồng vàng, màu son đậm, màu hồng có vân là đất đẹp, rất tốt cho đặt huyệt mộ.

10 - Khi đào đất lên, đến độ sâu áng chứng sẽ là đáy huyệt phải có mạch nước ngầm (không phải là nước ngầm), nước trong xanh, có mùi thơm. Tối kỵ nước đục, bị ô nhiễm hoặc đáy huyệt không có mạch nước ngầm.


(Trích trong TÌM HIỂU VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG TRONG DÂN GIAN của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 7 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ

MỐI QUAN HỆ CHA MẸ VÀ CON CÁI THEO NĂM SINH

Năm sinh con cái và năm sinh cha mẹ có mối liên hệ như thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nghệ sỹ Xuân Hinh có nói: " Còn nhỏ thì sợ mẹ sợ cha, lớn lên sợ vợ, về già sợ con ". Nếu con cái bất hiếu, không được nhờ vả về già thì thật bất hạnh. Mức độ hòa hợp giữa tuổi cha mẹ và con cái có ảnh hưởng, liên quan tới nhau thật hay không? Trên cơ sở, nghiệm lý, quan sát tỉ mỷ trong thực tiễn Ngô Bạch đã thống kê mức độ hòa hợp và bất hòa hợp giữa tuổi cha mẹ và con cái. Trên cơ sở đó, có thể vận dụng linh hoạt để xây dựng một gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh...

 Xem tuổi con cái có hợp với tuổi cha mẹ hay không 

Cha mẹ tuổi Ngọ

Con cái tuổi Tý: Luôn xảy ra xung đột, tranh cãi

Con cái tuổi Sửu: Không hòa hợp, tuy con cái vẫn hiếu thuận

Con cái tuổi Dần: Cha mẹ nên để con cái tự chủ, tự do phát triển

Con cái tuổi Mão: Cha mẹ ít có thời gian chăm sóc con cái

Con cái tuổi Thìn: Gia đình hòa thuận, yên ấm

Con cái tuổi Tị: Con cái luôn có ý bất mãn

Con cái tuổi Ngọ: Đôi bên cùng hiểu thấu, tông cảm lẫn nhau

Con cái tuổi Mùi: Quan hệ đôi bên rất tốt

Con cái tuổi Thân: Quan hệ bình thường

Con cái tuổi Dậu: Con cái có ý bất mãn

Con cái tuổi Tuất: Con cái thường tự lo cho mình

Con cái tuổi Hợi: Quan hệ giữa hai thế hệ khá tốt đẹp

Cha mẹ tuổi Mùi

Con cái tuổi Tý: Luôn xung khắc, khó hòa hợp

Con cái tuổi Sửu: Có khoảng cách lớn giữa hai thế hệ

Con cái tuổi Dần: Con cái có ý bất mãn

Con cái tuổi Mão: Quan hệ bình thường

Con cái tuổi Thìn: Gia đình hạnh phúc

Con cái tuổi Tị: Cha mẹ có thể hy sinh tất cả vì con

Con cái tuổi Ngọ: Hai thế hệ gắn bó, quan hệ rất tốt

Con cái tuổi Mùi: Quan hệ bình thường

Con cái tuổi Thân: Quan hệ rất tốt, thường xuyên giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và cuộc sống

Con cái tuổi Dậu: Hai bên khó dung hòa bởi quan niệm sống rất khác nhau

Con cái tuổi Tuất: Con cái có xu hướng muốn sớm thoát ly khỏi gia đình

Con cái tuổi Hợi: Con cái hiếu thảo, luôn luôn gánh vác trọng trách trọng yếu trong gia đình.

  Xem tuổi con cái có hợp với tuổi cha mẹ hay không

Cha mẹ tuổi Thân

Con cái tuổi Tý: Quan hệ hai thế hệ rất tốt đẹp

Con cái tuổi Sửu: Đôi bên có sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc, nên gia đạo rất hài hòa

Con cái tuổi Dần: Khó hòa thuận, luôn xung khắc và hay xảy ra cãi vã

Con cái tuổi Mão: Gia đình hạnh phúc yên vui

Con cái tuổi Thìn: Gia đình ấm êm, con cái hiển đạt

Con cái tuổi Tị: Con cái sớm trưởng thành và giúp đỡ nhiều cho cha mẹ

Con cái tuổi Ngọ: Rất khó hòa hợp

Con cái tuổi Mùi: Con cái luôn tin tưởng, và noi theo tấm gương của cha mẹ

Con cái tuổi Thân: Mọi người trong gia đình đều được quyết định chung

Con cái tuổi Dậu: Con cái luôn bất mãn

Con cái tuổi Tuất: Luôn xung khắc, rất khó hòa hợp

Con cái tuổi Hợi: Cha mẹ luôn cưng chiều, bảo vệ che chở cho con cái

Bói tên coi cái và tên vợ chồng xem ý nghĩa của tên những người trong gia đình bạn.

Cha mẹ tuổi Dậu

Con cái tuổi Tý: Khó hòa hợp, luôn bất đồng ý kiến

Con cái tuổi Sửu: Con cái có thể giúp đỡ hiệu quả đối với sự nghiệp của cha mẹ

Con cái tuổi Dần: Con cái luôn chống đối với cha mẹ, bất đồng quan điểm, ý kiến luôn

Con cái tuổi Mão: Con cái ngang bướng, không nghe lời cha mẹ

Con cái tuổi Thìn: Quan hệ rất tốt, trong ấm ngoài êm

Con cái tuổi Tị: Con cái luôn tranh cãi với cha mẹ

Con cái tuổi Ngọ: Thế hệ trẻ trong gia đình muốn sớm thoát ly khỏi gia đình

Con cái tuổi Mùi: Con cái bất hiếu, khiến cha mẹ thất vọng

Con cái tuổi Thân: Cha mẹ luôn tự hào về con cái

Con cái tuổi Dậu: Gia đình bất ổn, lúc nào cũng có việc để tranh cãi

Con cái tuổi Tuất: Cha mẹ không hiểu được con cái mình

Con cái tuổi Hợi: Con cái chỉ biết làm theo ý mình                           

Cha mẹ tuổi Tuất

Con cái tuổi Tý: Cha mẹ không có nhiều  thời gian  chăm sóc con cái

Con cái tuổi Sửu: Khó hòa thuận với nhau

Con cái tuổi Dần: Rất tốt, cha mẹ hy sinh tất cả cho con

Con cái tuổi Mão: Gia đình hòa thuận, êm ấm

Con cái tuổi Thìn: Con cãi bất mãn vì cha mẹ quá nghiêm khắc trong việc dạy dỗ

Con cái tuổi mùi: Khó hòa hợp với nhau

Con cái tuổi Thân: Gia đình thiếu bầu không khí thuận hòa, yên vui

Con cái tuổi Dậu: Con cái ngang bướng, không nghe lời cha mẹ

Con cái tuổi Tuất: Con cái hiếu thảo

Con cái tuổi Hợi: Gia đình yên ấm, an bình

Cha mẹ tuổi Hợi

Con cái tuổi Tý: Quan hệ rất tốt

Con cái tuổi Sửu: Cha mẹ rất cưng chiều và kỳ vọng ở thế hệ sau

Con cái tuổi Dần: Gia đình thuận hòa

Con cái tuổi Mão: Quan hệ tốt, nhưng con cái có chí hướng riêng, không hướng về gia đình

Con cái tuổi Thìn: Cha mẹ cưng chiều con cái, con cái cũng giỏi giang làm cha mẹ vẻ vang, rạng rỡ

Con cái tuổi Tị: Con cái hay làm phiền lòng, trái ý bề trên

Con cái tuổi Ngọ: Con cái muốn thoát ly gia đình, khiến cha mẹ buồn phiền, thất vọng

Con cái tuổi Mùi: Đôi bên cùng thấu hiểu, quan tâm, chăm sóc vun đắp gia đình hạnh phúc

Con cái tuổi Thân: Con cái thông minh, tài giỏi

Con cái tuổi Dậu: Con cái được chăm sóc tốt, và được cưng chiều

Con cái tuổi Tuất: Cha mẹ vì con mà làm tất cả

Con cái tuổi Hợi: Hai thế hệ rất gắn bó, chia sẻ, quan tâm đối với nhau hài hòa, chứa chan tình cảm

Xem thêm Xem tuổi con và xem tuổi cha mẹ có hợp nhau hay không?

Ngô Bạch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: MỐI QUAN HỆ CHA MẸ VÀ CON CÁI THEO NĂM SINH

Tiết Đại Hàn: Cách dưỡng sinh và phong tục tập quán đặc trưng

Tiết Đại Hàn là tiết khí cuối cùng trong 24 tiết khí trong năm. Thường bắt đầu vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 1. Cách dưỡng sinh và tập quán của Tiết Đại Hàn
Tiết Đại Hàn: Cách dưỡng sinh và phong tục tập quán đặc trưng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tiết Đại Hàn là tiết khí cuối cùng trong 24 tiết khí trong năm. Thường bắt đầu vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 1 (dương lịch), khi Mặt Trời ở kinh độ 300°. Trong khoảng thời gian diễn ra tiết khí này thông thường thời tiết rất lạnh, cần có biện pháp giữ ấm, dưỡng sinh phù hợp để không bị mắc bệnh.


► Mời các bạn: Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com

 

Tiet Dai Han Cach duong sinh va phong tuc tap quan dac trung hinh anh goc
 

1. Dưỡng sinh: Ngủ thêm 1 giờ

  Tiết Đại Hàn là tiết khí cuối cùng trong 24 tiết khí của năm. Đây là thời điểm mà vạn vật ngủ đông, tốc độ chuyển hóa âm dương trong cơ thể con người rơi vào trạng thái chậm chạp. Vì thế, nên ngủ thêm một giờ mỗi ngày. Ngủ sớm để dưỡng dương khí, ngủ dậy muộn có thể dưỡng âm khí, giúp tinh khí hội tụ, nhuận ngũ tạng, tăng cường sức đề kháng. 


2. Dưỡng sinh: Bổ sung nhiều thực phẩm bổ thận

  Đông y cho rằng Đại Hàn lấy bổ thận làm trọng, chức năng của thận hoạt động tốt thì cơ thể mới khỏe mạnh. Nếu hay ra mồ hôi trộm, tinh thần mệt mỏi, nên ăn hồng sâm, táo đỏ. Nếu thấy hoa mắt chóng mặt, mất ngủ, sắc mặt xanh xao có thể dùng đương quy, a giao. Nếu bị nóng trong, hai má ửng đỏ vào buổi chiều, nên dùng đông trùng hạ thảo, ngân nhĩ để bổ thận âm. Nếu chân tay lạnh, sợ lạnh có thể dùng lộc nhung, nhục thung dung để bổ thận dương.  

3. Dưỡng sinh: Vận động hợp lý, đã mắc bệnh nên hạn chế ra ngoài

  Đại Hàn tiết trời lạnh giá, cần phải vận động hợp lý, tránh tình trạng ì ạch, tăng cân. Có thể đi bộ, tập các bài thể dục tay không, dưỡng sinh, yoga…    Thời điểm tiết Đại Hàn những bệnh như cảm cúm, viêm phổi, ho, suyễn… tăng cao. Chính vì thế, nếu đã mắc bệnh, nên hạn chế ra ngoài trời lạnh kẻo bệnh tình càng thêm nghiêm trọng. Trong trường hợp thường xuyên phải ra ngoài cần có biện pháp giữ ấm cơ thể, đừng chủ quan.  

Tiet Dai Han Cach duong sinh va phong tuc tap quan dac trung hinh anh goc
 

4. Phong tục tập quán: Ăn cơm nếp

  Trong những ngày tiết trời lạnh giá nhất trong năm, ăn cơm nếp (xôi nếp, bánh chưng, bánh nếp…) là các tốt nhất để vừa chống lại cái lạnh, lại đảm bảo dinh dưỡng. Trong Đông y, gạo nếp tính ôn, vị ngọt, nhập phổi, bổ hư, bổ máu, kiện tỳ, ấm vị, tốt cho sức khỏe.    Có nhiều cách chế biến gạo nếp để tạo ra những món ăn ngon theo đặc trưng từng vùng miền. Nhưng tựu chung lại, đây là loại thực phẩm bổ dưỡng, thích hợp sử dụng trong tiết trời lạnh giá. 


5. Phong tục tập quán: Ăn canh gà hầm

  Gà hầm, gà tần, nhất là tần thuốc bắc không chỉ là món ăn thơm ngon, mà còn vô cùng bổ dưỡng, rất thích hợp dùng trong những ngày thời tiết lạnh giá.   

6. Phong tục tập quán: Thi tạc tượng băng tuyết, trượt băng

  Ở những nơi có tuyết rơi, vào tiết Đại Hàn thường tổ chức các cuộc thi như tạc tượng băng, trượt băng, tích trữ băng để giữ cho thực phẩm tươi ngon…   Ngọc Diệp
Thế nào là THAM, SÂN, SI? Làm sao để kiềm chế?
Tham, sân, si theo giáo lý nhà Phật là sự ham muốn thái quá, là sự nóng nảy, là sự thù hận, là sự u mê không theo phải trái.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Đại Hàn: Cách dưỡng sinh và phong tục tập quán đặc trưng

Mơ thấy uống rượu –

"Buồn như ly rượu đầy không có ai cùng cạn Buồn như ly rượu cạn không còn người để say" Nằm mơ thấy uống rượu mang nhiều ý nghĩa. Giãi mã giấc mơ thấy uống rượu: Chiêm bao thấy mình uống rượu là có buồn bực trong nhà. Nằm mơ thấy uống rượu với bạn t
Mơ thấy uống rượu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy uống rượu –

Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Văn Khấn Tết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch) được dùng vào Tiết Thanh Minh. Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ).
Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch) được dùng vào Tiết Thanh Minh. Ông bà ta xưa chọn Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ấm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.

Nhân lúc đi Thanh Minh tảo mộ, để tưởng nhớ tổ tiên, người thân đã khuất, mọi người có thể dạo chơi ngắm cảnh cỏ cây tươi tốt, nên còn gọi là Đạp Thanh. Nguyễn Du có câu:

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh

Sắm lễ cúng tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch)

Lễ trong tiết Thanh Minh gồm có: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt (chân giò, gà luộc hoặc một khoanh giò nạc độ vài lạng), hoa quả.

Khi đến nghĩa trang hay khu vực có để mộ phần của gia đình mình thì gia chủ đặt lễ vào chỗ thờ chung. Sau đó thắp đèn, nhang, vái ba vái vị Linh thần Thổ địa rồi khấn.

Văn khấn tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch)

1. Văn khấn lễ âm phần Long Mạch, Sơn thần thổ phủ nơi mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.

Hôm nay là ngày: ………………..
Tín chủ (chúng) con là:…………

Nhân tiết Thanh minh (hoặc là nhân tiết thu, tiết đông, hoặc nhân ngày lành tháng tốt.. .) tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám.

Gia đình chúng con có ngôi mộ của…………………..

Táng tại xứ này, nay muốn sửa sang xây đắp (hoặc tảo mộ, bốc mộ…) vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản trong khu vực này, chúng con kính mời các vị chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

2. Lễ vong linh ngoài mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương

– Con kính lạy Hương linh………(Hiển khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo…)

Hôm nay là ngày. . ………….

Nhân tiết:……………………..

Tín chủ (chúng) con ……….

Ngụ tại:………………………

Chúng con và toàn thể gia đình con cháu, nhờ công ơn võng cực, nền đức cao dầy, gây dựng cơ nghiệp của………….. chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân linh……. . lai lâm hiến hưởng.

Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi xa, bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái. Con cháu chúng con xin vì chân linh . . ……..Phát nguyện tích đức tu nhân, làm duyên, làm phúc cúng dâng Tin Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.
Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế hờ tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.
Sau khi khấn xong, đợi hết 2/3 tuần hương thì đi lễ tạ các nơi, hóa vàng, xin lộc và mọi người trở về nhà làm lễ gia thần và gia tiên ở nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Sự hài hòa của màu sắc bên ngoài cửa hàng –

Sự hài hoà của màu sắc tạo hình bên ngoài cửa hàng, chủ yếu là chỉ công trình kiến trúc bỏ đi những màu sắc nào đó mà con người kiêng kỵ, hoặc là trong màu sắc đó, hoặc là lựa chọn màu sắc phối hợp đem lại cho con người cảm giác không thích ứng trong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhận thức, xúc cảm. Sự không hài hoà của màu sắc tạo hình dáng bên ngoài cửa hàng sẽ ảnh hưởng đến hình tượng bên ngoài của cửa hàng.

Hue

Theo lý luận phong thủy, màu sắc không đúng, sắc màu không hài hoà đều mang lại sát khí. Màu sắc mô hình bên ngoài cửa hàng không hài hoà sẽ khiến cho cửa hàng bị những sát khí, mà có sát khí thì sẽ mang đến cho cửa hàng những tai hoạ. Dù không nói đến lý luận của phong thủy, nhưng sự không hài hoà của màu sắc bên ngoài cửa hàng cũng giống như một người mặc một bộ đồ không ra gì khiến mọi người coi thường, như vậy nên hết sức tránh để xảy ra điều đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự hài hòa của màu sắc bên ngoài cửa hàng –

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè. Mùa hạ - mùa xa cách của lứa tuổi học trò, mùa của những chú ve sầu kêu da diết
Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè. Mùa hạ – mùa xa cách của lứa tuổi học trò, mùa của những chú ve sầu kêu da diết. Chính vì thế, mùa hạ là cảm hứng của biết bao câu nói hay, vần thơ đầy xúc động.

Mời bạn tham khảo những câu nói hay và vần thơ hay nhất về mùa hè sau đây!

Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

ĐÀN CHIM SẺ

Hót trên cánh đồng
Bạn ơi biết không
Hè về rồi đó

Chiều nay bạn gió
Mang nồm về đây
Ôi mới đẹp thay!
Phượng hồng mở mắt

Dòng sông trong vắt
Trườn lên bãi xa
Một chuyến đò qua
Mang theo lũ bướm

Cánh diều bay lượn
Thênh thang lúa đồng
Bạn ơi thích không?
Hè về rồi đó!

MÙA HÈ

“… Mùa hè hoa rau muống
Tím lấp lánh trong đầm
Cơn mưa rào ập xuống
Cá rô rạch lên sân …”
—Tạ Vũ—

Mùa hè còn chan chứa bao nhớ thương, bao vấn vương và lưu luyến của bao cô cậu sinh viên, học trò. Mùa hè – mùa thi – mùa chia ly. Không ít những ánh văn bất hủ, bài thơ, những câu nói hay và ý nghĩa nhất vẽ lên những kỷ niệm, những tâm trạng đầy lưu luyến nơi mái trường xưa yêu dấu.

Có ai đi xa rồi không nhớ những tháng năm học trò, những kỷ niệm góc sân trường thân quen, tiếng ve hè râm ran, nhưng kỳ thi, nét bút nghiêng nghiêng. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Trường xưa”

TRƯỜNG XƯA

Cứ ngỡ rồi đây xa lắm một mái trường
Ta không đủ sức níu thời gian gần lại
Mái ngói mờ rêu, tán lá bàng xa ngái
Những con đường, sỏi đá nhịp buồn tênh

Tháng năm rơi trên bậc thềm chênh vênh
Sân trường cũ, và bài thơ cũng cũ
Ô cửa sổ bốn mùa nắng rủ
Và cơn mưa trong trẻo mắt bạn bè

Một mùa xa hoa phượng chật vòng xe
Nét mực tím vương dấu tay mùa hạ
Màu xanh dịu thân thương trên vòm lá
Nhạt sắc trời, con chim sẻ nào bay…

Qua những mùa thu vương lối heo may
Hoa cỏ tím góc sân trường thầm lặng
Ai không nhớ những vòm trời mây trắng
Mùa tựu trường gom gió hát vu vơ…

Gốc bàng xưa im lặng đến bây giờ
Mong mỏi phía hành lang xa vời vợi
Chỉ một câu thơ cũng thành tiếc nuối
Chuyện giận hờn, viên sỏi nhỏ màu xanh

Ta cứ ngỡ rồi tất cả qua nhanh
Mái tóc xưa chắc giờ không còn ngắn
Đã đơn giản như ta từng ngộ nhận
Một điều gì, mà nào có gì đâu…

Bàn ghế xưa rưng rưng ngả màu
Mùa xưa cũ bâng khuâng như thần thoại
Hoa cỏ may buồn đi vào xa mãi
Kỷ niệm giăng đầy rợp một mái trường quê

Bạn bè xưa chẳng có lúc tìm về
Trái bàng chín nằm ngơ trong mùa cỏ
Giọng thầy khan, trầm ngâm trong gió
Mái tóc thầy điểm bạc hoa lau

Ta cứ ngỡ rồi tất cả qua mau
Tuổi thời gian nhòe lem như giọt mực
Thương nhớ ấy nhuộm màu mây ngũ sắc
Lá học trò vụng dại trốn nơi nao…

Ô cửa mùa thu mây trắng lại bay vào
Ta lại thấy mình những ngày thu lớp trước
Con đường mùa xa, bàn tay nào với được
Giấc mơ một mái trường màu ký ức phong rêu

Hiên lớp xưa lời thầy vọng đều đều
Bụi thời gian phủ đầy lên kỷ niệm
Bài thơ cũ đợi ta về viết tiếp
Tuổi vụng về hát gọi tháng năm ơi…

Ta bước đi tiếng trống giục bồi hồi…
— Phạm Trung Kiên –

MÙA HÈ

Tác giả: Nguyễn Nhật Ánh
Mùa hè nào gặp gỡ
Mùa hè nào chia ly
Mùa hè nào hội ngộ
Tôi cầm trên tay hai mùa hè rực rỡ
Còn mùa hè cuối cùng rơi đi đâủ
Ai nhặt được mùa hè tôi đánh mất
Xin trả lại cho tôi
Xin trả lại cho tôi người yêu tôi
Dẫu chỉ là xác con ve sầu chết khô
Ấy chính là mùa hè của tôi
Ngủ quên trong nách lá
Những ngọt bùi tôi đã nếm trải
Những đắng cay tôi đã nếm trải
Những mùa hè bỏng rát sau lưng
Còn mùa hè cuối cùng tôi gặp lại
Trốn đi đâu ngoài tầm mắt tôi tìm ?

MÙA HÈ KỶ NIỆM

Tác giả: Dung Nguyên
Sân trường văng vẳng tiếng ve
Kìa cây phượng vĩ hoa che kín cành
Xuân qua hè đến phải đành
Xa thầy xa bạn độc hành lẻ loi …..

Thời gian thoăn thoắt như thoi
Chợt đi chợt đến khiến tôi chạnh buồn
Hai mươi năm xa mái trường
Chưa ngày về lại cội nguồn tuổi thơ

Học trò đầy ắp mộng mơ
Nhưng đời như sỏi trơ trơ gót mòn !

MỘT SÁNG MÙA HÈ

Tác giả: Trường Phi Bảo
Một sáng mùa hè đẹp biết bao
Giở trang lưu bút tuổi ước ao
Một bầy bướm phượng xôn xao múa
Kỷ niệm còn vương nét chữ nào

Có phải là anh của em không?
Cho yêu thương năm tháng chất chồng
Thuở học trò gói mơ ươm mộng
Áo trắng nào đẹp trong mắt trong

Bạn bè thân ơi giờ nơi đâu?
Có về họp nhau trên đỉnh sầu
Quay quắt ấu thơ quay quắt nhớ
Giấu nụ cười sau nét ngây ngô

Một sáng mùa hè ngập nắng vàng
Hồn thơ thanh thoát ý mênh mang
Kỷ niệm em cài trên ngực áo
Nghe trái tim mình đập rộn ràng

Sao anh chẳng về lại ngày xưa
Đôi bóng kề nhau đếm sao thưa
Đôi bóng quyện vào trang sách mới
Mở một chương đời chuyện nắng mưa

Mùa hạ xin cho lời nhắn gởi
Với người năm cũ lắm xa xôi
Rằng em vẫn chờ bên song cửa
Một tình yêu tha thiết mà thôi

Mùa hè đến rồi đi chứng kiến bao kỷ niệm, bao yêu thương của lứa đôi. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Tình yêu giữa mùa hè”

TÌNH YÊU GIỮA MÙA HÈ

Tác giả: Đông Hòa

Hân hoan mùa hè cùng nhau đón
Trên tay cầm những cánh diều hoa
Vẽ lên con bướm màu xanh tím
Vươn bay trên bầu trời cao xa

Hân hoan đây mùa hè hãy đến
Cùng lắng nghe dế lúc tờ mờ
Trong hộp nhỏ khoe anh , khoe bạn
Vui sướng một thời của tuổi thơ

Hè về nhìn phượng đỏ đầy sân
Chân đứng ngước nhìn mắt bâng khuâng
Thấy em đã thành cô thiếu nữ
Đã qua thời đuổi bướm hái trâm

Và giờ đây anh đã yêu nàng
Yêu mái tóc thề buông gió sang
Yêu hình dáng bao ngày thầm ước
Một đời với tiếng hẹn trăm năm

Mùa hè cùng bao những vất vả nhọc nhằn của mẹ ngày ngày gánh hàng đi bán, bất chấp cái nắng oi bức, như thiêu như đốt. Mẹ luôn là người che chở, lo lắng cho con từng miếng cơm, manh áo. Đâu đó nơi góc phố có dáng người mong manh của mẹ. Hãy cùng xemboituong.com cảm nhận những câu thơ, câu nói hay nhất về mùa hè qua bài thơ “Mùa hè và tiếng rao của mẹ”

Mùa Hè Và Tiếng Rao Của Mẹ
Tác giả: Ngưng Thu
Sáng lên hạ chuyền cánh phượng
Ve ran tình khúc mùa hè
Nắng vàng ngẩn ngơ bờ giậu
Dế mèn râu vểnh lắng nghe

Gió cõng mưa về ngang lối
Ướt nhòe áo gánh hàng rong
Liêu xiêu dáng gầy bóng mẹ
Tiếng rao thảng thốt chạnh lòng

Sáng nay nắng tràn góc phố
Em tung tăng với điểm mười
Trong veo ánh cười mắt mẹ
Gói hành trang tuổi đôi mươi

NHỚ MÃI HÈ ƠI

Tác giả: Khuất Việt Hưng
Thẫn thờ giữa buổi trưa hè
Chạnh lòng thương những tiếng ve học trò
Phượng hồng nhớ đến ngẩn ngơ
Tuổi thơ trong sáng bây giờ lùi xa.
Nhớ sao ngày ấy đã qua
Trèo lên cây bẻ nhành hoa trong trường
Tặng người bạn gái yêu thương
Đến giờ còn đọng vấn vương trong lòng.
Rời tuổi thơ với phượng hồng
Gói vào nỗi nhớ mênh mông đường dài
Mang theo khát vọng tương lai
Giảng đường đại học miệt mài luyện chăm.
Thương ôi năm tháng khó khăn
Sinh viên toàn nói chuyện ăn suốt ngày
Trưa hè ngồi dưới hàng cây
Ngắm thềm nắng rải đong đầy vần thơ.
Mang lòng yêu đến ngẩn ngơ
Mà không dám nói phải nhờ cành hoa
Rợp bằng lăng tím chiều tà
Là tình yêu của riêng ta gửi nàng.
Ước gì quay ngược thời gian
Để mình lại được mơ màng trộm yêu
Thả hồn như những cánh diều
Chao nghiêng giữa lộng gió chiều mênh mang.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển chọn những câu nói hay nhất về mùa hè

Người tuổi nào có tình yêu thăng hoa trong tháng 12

Con giáp tình yêu thăng hoa tháng 12: Hàng loạt những tin vui về tình cảm và tài lộc sẽ đến với người tuổi Dậu trong tháng này.
Người tuổi nào có tình yêu thăng hoa trong tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàng loạt những tin vui về tình cảm và tài lộc sẽ đến với người tuổi Dậu trong tháng này. Đặc biệt, vận đào hoa tăng mạnh, thúc đẩy nhân duyên hài hòa, giúp tình yêu lứa đôi thăng hoa, có được kết thúc viên mãn.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

No1. Tuổi Sửu

Nhân duyên của người tuổi Sửu cực vượng trong tháng 12 này. Nhưng người độc thân vì quá bận rộn với công việc nên đôi khi thấy phiền toái khi có quá nhiều vệ tinh vây xung quanh. Thậm chí có người cầm tinh con Trâu còn rơi vào tình trạng “ngày lắm mối tối nằm không” vì do dự, chưa thể đưa ra sự lựa chọn phù hợp. Tuy nhiên, người thông minh như bạn sẽ có quyết định sáng suốt mà thôi.

Những ai có đôi có cặp đều ngập tràn trong hạnh phúc thăng hoa của tình yêu. Nhiều khả năng  hai bạn sẽ tiến tới hôn nhân viên mãn vào đầu năm mới sắp tới.

Nguoi tuoi nao co tinh yeu thang hoa trong thang 12 hinh anh 2
 
No2. Tuổi Tý


Tuy vận đào hoa của người tuổi Tý có phần giảm nhẹ nhưng điều đó không có nghĩa rằng sức lôi cuốn của bạn cũng bị ảnh hưởng. Trái lại, xung quanh bạn có khá nhiều đối tượng thỏa mãn cả về ngoại hình và điều kiện vật chất. Quan trọng là bạn chủ động mở rộng các mối giao thiệp, không để cơ hội tốt tuột khỏi tầm tay.

No3. Tuổi Thìn

Bước sang tháng 12, vận đào hoa của người tuổi Thìn nở rộ, do đó không quá khó để người độc thân tìm được nửa kia ưng ý.

Tình yêu đôi lứa thăng hoa, các cặp đôi nên dành thời gian để lên kế hoạch cho đám cưới sắp tới của mình, mọi điều tốt đẹp đang chờ đợi hai bạn phía trước.

Nguoi tuoi nao co tinh yeu thang hoa trong thang 12 hinh anh 2
 
No4. Tuổi Mùi


Dấu hiệu đáng mừng cho người tuổi Mùi trong tháng 12 này chính là các mối quan hệ hài hòa, khơi nguồn cho tình yêu lứa đôi thăng hoa. Bản thân người cầm tinh con Dê cũng không ngừng nỗ lực để thoát khỏi “cái bóng” của quá khứ để chủ động nắm giữ hạnh phúc thực sự ở hiện tại.

No5. Tuổi Dậu

Hàng loạt những tin vui về tình cảm và tài lộc sẽ đến với người tuổi Dậu trong tháng này. Đặc biệt, vận đào hoa tăng mạnh, thúc đẩy nhân duyên hài hòa, giúp tình yêu lứa đôi thăng hoa, có được kết thúc viên mãn.

Cuộc sống gia đình của người tuổi Dậu hạnh phúc, mối quan hệ giữa vợ chồng, con cái được cải thiện đáng kể, mọi sự trong ấm ngoài êm.

An Khánh (Theo MGSP)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi nào có tình yêu thăng hoa trong tháng 12

Ngắm 10 bức tranh Phật công phu theo phong cách Ấn Độ

10 bức tranh Phật công phu dưới đây thể hiện sự khéo léo tinh hoa trong nghệ thuật cũng như sự thành kính về tâm linh.
Ngắm 10 bức tranh Phật công phu theo phong cách Ấn Độ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo xuất phát từ Ấn Độ nên nhiều bức tranh Phật chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo với lối phục sức tráng lệ, hoa mĩ. 10 bức tranh Phật công phu dưới đây thể hiện sự khéo léo tinh hoa trong nghệ thuật cũng như sự thành kính về tâm linh.


Phật giáo hình thành từ thế kỉ thứ 6 tại Ấn Độ, nên việc giao thoa với Ấn Độ giáo là không thể tránh khỏi. Các bức tranh Phật theo phong cách Ấn Độ có đôi nét tương đồng với các vị thần Ấn Độ và cầu kì, diễm lệ về phục sức hơn hẳn so với tranh Phật theo phong cách của Trung Hoa. Điều này thể hiện thẩm mĩ về cái đẹp và tư duy tâm linh duy mĩ của người Ấn Độ ngay cả trong tôn giáo. 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 2
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 3
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 4
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 5
 

Ngày đại cát đại lợi để dâng hương lễ Phật Tư vấn: Giải đáp những thắc mắc về nguyên tắc thờ Phật tại gia Phật chỉ ra 7 việc không đáng để làm trong đời người

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 6
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 7
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 8
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 9
 

Ngam 10 buc tranh Phat cong phu theo phong cach An Do hinh anh 10
 
Trở thành thiện nam tín nữ để hưởng an lạc Mừng ngày Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra Làm 1 điều thôi, cả đời không bao giờ bất an
=> Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngắm 10 bức tranh Phật công phu theo phong cách Ấn Độ

8 điều để trở thành người tốt theo lời Phật dạy

Chúng ta vẫn thường nói với nhau hoặc răn dạy trẻ nhỏ cố gắng trở thành người tốt. Nhưng thế nào là người tốt? Câu trả lời có trong 8 tiêu chuẩn của một người
8 điều để trở thành người tốt theo lời Phật dạy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tốt mà Phật dạy.


8 dieu de tro thanh nguoi tot theo loi Phat day hinh anh
 
1. Phúc hậu “Hậu đức tải vật”, con người có đức hạnh thì không có việc gì không gánh vác được. Nhà Phật lấy phúc làm đầu, ở đầu, làm gì cũng hướng tới cái phúc. Muốn trở thành người tốt chân chính, trước tiên là phải có phúc hậu, đối đãi với người trên kẻ dưới hòa nhã, hiền hậu.
 
2. Lương thiện “ Ban ngày không không làm chuyện khuất tất, ban đêm không sợ ma gõ cửa”, nhà Phật hướng thiện, lấy lương tâm làm thước đo của một người tốt.
 
3. Giữ chữ tín Người có tín thì vạn người tôn trọng, người bất tín thì vạn người khinh khi. Làm người, lấy chữ tín răn mình, không dối trá, thất hẹn với người khác chính là tiêu chuẩn Phật dạy làm người tốt
 
4. Khoan dung Khoan dung chính là vĩ đại. Làm người, không nên chấp nhất mà phải có cái nhìn thoáng rộng, sẵn sàng tha thứ cho sai lầm để giáo hóa cái sai bằng tấm lòng.
 
5. Thành thật Điều cơ bản này hẳn ai cũng biết, “thật thà là cha giả dối”, làm người phải đàng hoàng, thẳng thắn, kẻ lươn lẹo, dối trá tất bị quả báo.
 
6. Khiêm tốn Phật dạy làm người tốt tức là không ngừng tu dưỡng, cố gắng, luôn kính trên nhường dưới, “thắng không kiêu, bại không nản”, khiêm cung giữ mình.

7. Chính trực Người sống ở đời phải chính trực, không dèm pha xu nịnh, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám đấu tranh vì lẽ công bằng.
 
8. Kiên trì Phật dạy làm người tốt: Cuộc sống vốn khó khăn, muốn trở thành người tốt phải thật kiên trì, dũng cảm đối diện, không nao núng. Chỉ cần tu dưỡng tốt, công lao không bao giờ phí.
►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm

Theo Đại Kỉ Nguyên

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 điều để trở thành người tốt theo lời Phật dạy

Chùa An Ninh - Hải Dương

Chùa An Ninh đã được công nhận di tích năm 1990. Hàng năm chùa thu hút nhiều lượt du khách đến tham quan, cúng bái. đặc biệt là vào ngày lễ
Chùa An Ninh - Hải Dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa An Ninh nằm tại thôn 4, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, được trụ trì bởi Đại đức Thích Tục Phương. Chùa An Ninh có tên chữ là Vĩnh Khánh tự, tên thường gọi là Chùa Trăm Gian xứ Đông, ở Vạn Lộng trang sau đổi thành làng An Ninh rồi An Đông thuộc xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Theo hệ thống bia ký, chùa Trăm gian có quy mô khá lớn và độc đáo vào bậc nhất ngày từ đầu thế kỷ XVII.

Lịch Sử: Chùa An Ninh được xây dựng từ đầu thế kỷ XVII đến năm Chính Hòa (1691) đời vua Lê Hy Tông sửa thượng điện, năm Vĩnh Thịnh thứ 1 (1705) đời vua Lê Dụ Tông vua tiếp tức sửa thượng điện, các năm 1740 và 1809 tư sửa và tôn tạo khá nhiều công trình trong chùa.

Thế kỷ XIX – XX chùa Trăm gian được trùng tu lớn. Đường vào chùa qua một cầu gỗ xây dựng theo kiểu “thượng gia hạ kiều” vào năm Cảnh Hưng thứ 1 (1740). Năm 1795, “thượng gia hạ kiều” bị giải hạ và thay vào đó là một cầu đá 9 nhịp. Đến khoảng năm 1938-1939, cầu đá bị sông ngòi vùi lấp . Đến nay cầu chỉ còn 3 hàng cột nhô lên mặt nước.

Kiến Trúc: Các công trình chính của chùa hiện nay nằm tập trung trong một quần thể kiến trúc gần như khép kín. Từ phía đông, mở đầu là công trình gác chuông, có quy mô lớn và độc đáo. Trên gác chuông ở gian trung tâm treo quả chuông đồng đúc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), đây là quả chuông hiếm có của tỉnh Hải Dương.

Chùa có kiến trúc kiểu chữ Đinh, được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 12 (1691) nhưng đã được trùng tu nhiều lần, kiến trúc hiện nay mang phong cách thời Nguyễn thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Gần đây, thượng điện đã được tu sửa lại.

Tiền đường 7 gian, kết cấu các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen. Các chi tiết như cột cái, cột quân, bẩy hiên, xà nách, các con thuận, câu đầu, trụ, con vành, đấu gòi được chế tạo rất công phu. Các xà thượng, xà hạ, hoành, rui đều được soi chỉ. Kết cấu hệ thống giằng ngang và giằng dọc hợp lý, chặt chẽ. Trong tiền đường có một số bức chạm hoa lá “long quần”, chạm khắc rất tinh vi. Phần ngõa cũng được tạo dựng khá chắc chắn, tường, móng xây dựng bằng gạch Bát Tràng đe lộ bắt mạch, mái lợp ngói mũi cổ, kỹ thuật lợp phẳng.

chùa an ninh
Phật bà nghìn mắt nhìn tay

Nối liền gian tiền đường với 3 gian thượng điện là hai máng xối. Tường xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong trát vữa, ngoài đe mộc bắt mạch nõn dong, mái lợp ngói mũi. Bên trái thượng điện là 7 gian nhà thờ mẫu. Các vì kèo kết cấu theo kiểu kèo cầu, đơn giản. Bên phải là hai nhà khách. Hai nhà khách nối liền nhau như một hành lang. Sau thượng điện là nhà tứ ân, kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, chồng chóp, các con chồng, đấu sen, các bức chạm lá lật chạm trồ tinh vi. Nhà thờ tổ nằm phía sau nhà tứ ân.

Sau nhà tổ là nhà cung 9 gian, kết cấu theo kiểu kèo cầu trụ đấu, mái thấp, gian hẹp, được tu sửa năm 2002. Phía bắc chùa có sân rộng chừng 1.000m², có một số công trình quay ra sân là nhà tháp nhà tăng, am trong, am ngoài cùng nhiều công trình phụ khác. Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào thời Nguyễn, một ngôi được xây dựng năm 2003.

Đầu thế kỷ XX, chùa Trăm gian còn đủ 100 gian, nhưng hiện nay chùa chỉ còn 85 gian. Chùa còn lưu giữ hệ thống cổ vật phong phú gồm 57 pho tượng Phật có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, trong đó có tượng Trúc Lâm tam tổ, 12 bức đại tự, 12 đôi câu đối các loại, 738 bản khắc kinh Phật, 7 bia đá có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, nhiều cổ vật có chất liệu gỗ, gốm, đồng và khá nhiều đồ tế tự mới.

Chùa An Ninh (Chùa Trăm Gian) đã được công nhận di tích năm 1990. Đến nay chùa thu hút nhiều lượt du khách tham quan. đặc biệt là vào ngày lễ chính: Ngày 13 tháng 9 âm lịch hàng năm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa An Ninh - Hải Dương

Luận dụng thần

Một bài viết về luận dụng thần của tác giả Hoàng Đại Lục. Mời các bạn cùng đọc.
Luận dụng thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Hoàng Đại Lục

Dụng thần là gì? Học giả mệnh lý hiện đại hầu như đều nhất chí cho rằng: Dụng thần tức là mấu chốt của bát tự, là một hai loại ngũ hành co thể gây nên những tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan trong bát tự. Hoặc có thể nói, dụng thần chính là "thần" có thể làm cân bằng ngũ hành bát tự, có ích với nhật chủ, nói gọn là dụng thần cân bằng.

Lật giở các thư tịch mệnh lý hiện đại, chúng ta sẽ phát hiện đa số tác giả đều dùng phần lớn số trang sách để luận thuật tác dụng quan trọng của dụng thần và cả phương pháp lựa chọn dụng thần. Các vị ấy còn cho rằng dụng thần không thể bị tổn thương được, dụng thần mà có lực thì mệnh chủ sẽ cát, dụng thần bị thương thì mệnh chủ sẽ hung, do đó điều cơ bản nhất, quan kiện nhất, khó khăn nhất khi xem mệnh chính là tìm đúng dụng thần. Ví dụ như cuốn "Tứ trụ bác quan" do hai vị tiên sinh Lăng Chí Hiên và Trương Chí Xuân biên soạn, trong đoạn "Tường luận dụng thần" có nói: "Hạch tâm trung khu của tứ trụ mệnh lý học là ở tìm dụng thần, muốn biết sự gập ghềnh khúc khuỷu của đường đời nhân sinh, toàn phải nhờ vào dụng thần làm tọa độ để miêu tả. Tìm không ra tọa độ dụng thần, hoặc tìm sai tọa độ dụng thần sẽ thành " Một chữ sai, toàn bàn sai hết". Có thể nói quan điểm về dụng thần của cuốn này đã đại biểu cho mệnh lý hiện hành.

Thế nhưng, muốn tìm đúng cái dụng thần cân bằng này lại là một chuyện khó khăn dị thường. Bởi vì tiền đề của tìm dụng thần đầu tiên là phải nắm bắt chuẩn xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự. Mà sự vượng suy cường nhược của ngũ hành trong bát tự lại tùy theo sự giới nhập của tuế vận mà biến hóa không ngừng, muốn cân đo đong đếm nó khác nào đi cân đo đong đếm con khỉ có bảy mươi hai phép thần thông biến hóa! Cho nên thường ba vị mệnh sư phân tích cùng một bát tự sẽ đưa ra hơn ba kiểu vượng suy kết luận. Thế thì cũng như không có kết luận! Lăng Chí Hiên tiên sinh cũng vì thế mà vô cùng đau đầu, ông nói trong cuốn "Tứ trụ bác quan" rằng: "Cho dù là cao thủ mệnh lý đi nữa, khi họ đối diện với một số mệnh tạo có cách cục đặc thù hoặc sự cường nhược không rõ ràng thì cũng cảm thấy bó tay... Người viết cũng từng gặp qua những trường hợp kiểu này, tụ tập bảy tám vị dịch hữu cùng thảo luận, kết quả là mỗi người nói mỗi phách, chẳng ai chịu nhường ai, ai cũng phô ra một kiểu lý luận của riêng mình, cãi lý cả một ngày cũng không giải quyết được vấn đề. Thế đấy, có phải muốn phán đoán chính xác trình độ vượng suy cường nhược của ngũ hành bát tự còn khó hơn Phật Bà phán đoán Tề Thiên thật và Tề Thiên giả không nhỉ?

Nói cách khác, cho dù có ai vào một ngày nào đó dùng tuyệt kỹ tìm dùng thần này mà xem mệnh thì tỷ lệ chuẩn xác chưa chắc đã cao. Tại sao vậy? Đầu tiên, các cách như nhất khí chuyên vượng cách, tòng cường cách, tòng Sát cách, tòng Tài cách, tỉnh lan xoa cách, v.v... vốn không cần đến sự cân bằng ngũ hành của bát tự, cái gọi là dụng thần cân bằng không có chỗ dùng trong các loại cách này. Kế tới, cho dù là mệnh cách thông thường cần ngũ hành cân bằng, chỉ cần bát tự kết cấu không thỏa đáng, phá hoại mất cách cục thì cho dù thân cường Tài vượng hay thân Sát lưỡng đình đi chăng nữa mà dùng dụng thần cân bằng cũng khó đoán chuẩn cát hung họa phúc của người ta. Cho dù là danh sư nhiều năm nghiên cứu mệnh lý cũng không ngoại lệ. Tác giả bộ "Bát tự chân quyết khởi thị lục" là Tống Anh Thành tiên sinh trong bài "Nghiên cứu hỷ dụng thần" đã cảm khái nói: "Tác dụng của dụng thần đôi khi làm người ta cảm thấy khó hiểu, đi đến vận trình của hỷ dụng thần, chẳng những không thăng quan phát tài mà còn bị hao tổn trầm trọng, cơ hàn đói rách, có phải là hỷ dụng thần mà chúng ta chọn khác hẳn với hỷ dụng thần chân chính? Nghĩ tới đây hèn gì có người nghiên cứu hết bao nhiêu kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá."

Nghe câu trên mà thấy rầu! Trải qua chín chín tám mươi mốt tai nạn mới lấy được chân kinh, ấy thế mà "nghiên cứu hết kinh thư cổ tịch mà vẫn không thể đột phá"! Cố gắng hết sức mới chọn được dụng thần mà không xài được!

Để tìm đột phá khẩu, giải cứu dụng thần cân bằng ra khỏi tình huống khó xử, có học giả bèn không thèm chấp vào cách chỉ chọn một dụng thần nữa, mà chọn mấy loại dụng thần từ trong một mệnh, nào là đại dụng thần, tiểu dụng thần, hoặc dụng thần thứ nhất, dụng thần thứ hai, dụng thần thứ ba, hoặc dụng thần cân bằng, dụng thần điều hậu, dụng thần cách cục v.v..., muốn đem càng nhiều dụng thần hơn nữa vô để bịt những lỗ hổng xuất hiện liên tục trong khi dự đoán. Dùng dụng thần cân bằng không thể xử được, bèn dùng dụng thần điều hậu và dụng thần cách cục để xử lý. Ví dụ như nhà mệnh lý học trứ danh là Lương Tương Nhuận tiền bối trong cuốn "Tế phê chung thân tường giải" đã dùng nhiều loại dụng thần để phê mệnh. Ông đã dùng dụng thần điều hậu của Dư Xuân Đài, lại còn dùng dụng thần cách cục của Thẩm Hiếu Chiêm (nhưng không chuẩn), hãy còn dùng dụng thần cân bằng của "Kim Bất Hoán" (thực ra cũng không phải nốt), kết hợp thêm với cả tứ giác hình xung hợp hội, thần sát, nạp âm, v.v... hổ lốn các phương pháp, thậm chí còn bao gồm cả những ngón vụn vặt xác suất trúng cực thấp như "Diễn cầm phu thê - tử nữ biểu".

Cái kiểu dùng nhiều loại dụng thần để xem mệnh này tuy có thể cầm cự được khiếm khuyết do chỉ dùng một dụng thần gây ra, nhưng phương pháp này tự thân nó lại không thể giải quyết được vấn đề mới nảy sinh như sau:

1. Dụng thần đã là mấu chốt của bát tự, thế thì, tổn hại dụng thần có ý nghĩa phá vỡ sự cân bằng ngũ hành trong bát tự, từ đó khiến mệnh chủ gặp tai nạn, đây là quan điểm được tuyệt đại đa số các học giả mệnh lý đồng ý. Nếu sử dụng nhiều dụng thần để đoán mệnh sẽ đồng thời xuất hiện nhiều điểm cân bằng, nhiều điểm mấu chốt. Vấn đề là, nhiều điểm cân bằng ấy có phải quan trọng như nhau không? Giả thiết câu trả lời là khẳng định, thế thì mỗi khi tuế vận phá vỡ bất cứ một điểm cân bằng nào trong đó, cả mệnh cục sẽ mất cân bằng, thế thì các điểm cân bằng còn lại có còn được gọi là điểm cân bằng nữa không? Còn tính là mấu chốt của bát tự nữa chăng?

2. Nếu như quyền lợi của nhiều dụng thần không đồng đẳng, thì cũng như Thị trưởng, Phó Thị trưởng và Trợ lý Thị trưởng vậy, quyền lợi to nhỏ khác hẳn nhau, thế thì, quyền lợi của loại dụng thần nào mới là to nhất? Lương Tương Nhuận tiên sinh cho rằng: "Điều hậu chi dụng, vi bát tự đệ nhất yếu nghĩa". Ông cho rằng dụng thần điều hậu là quan trọng bậc nhất. Thế mà trong "Kim Điếu Thùng" thì nói: "Nếu nhập cách thì lấy quí mà đoán, phá cục thì lấy bần mà đoán, nếu như cách (và) cục bị thương tổn phá hoại sẽ không cát, dù cho có cơ hội hồi thiên chuyển trục thì cũng không thể kiến công lập nghiệp được." Kim Điếu Thùng (Durobi chú thích: Danh gia mệnh lý thời xưa, có viết quyển Lão Kim Điếu Thùng) đem thành cách phá cách xem là tối quan trọng. Thường các mệnh lý học giả cho rằng cân bằng ngũ hành trong bát tự là điều tối quan trọng, và cho điều hậu dụng thần chỉ sử dụng trong trường hợp đặc biệt,, còn cách cục thì lờ luôn, luận cũng được không luận cũng được. Trước ba cách nói như trên, kẻ hậu học biết nghe ai đây nhỉ?

3. Mỗi khi nhiều loại dụng thần xảy ra giao tranh trên cùng một mệnh cục thì phải xử lý thế nào? Ví dụ ngày Canh kim sinh tháng Ngọ, là Chính Quan cách, nếu muốn thủy điều hậu, thủy là Thực Thương, chẳng phải đã phá Chính Quan cách hay sao? Lại ví dụ Tỉnh Lan Xoa cách, ba ngày Canh Tý Canh Thìn Canh Thân, sinh vào tháng Tý, địa chi Thân Tý Thìn toàn đủ, theo lý thuyết phải dùng hỏa để điều hậu, kim thủy Thương Quan hỷ kiến Quan mà, nhưng cách này lại yêu cầu không được gặp hỏa, ca quyết nói: " Tỵ Ngọ Mùi lâm thì đắng cay, Nhâm Quí phá, Bính Đinh xung, trụ và vận không gặp sẽ hiển danh". Câu này ý gặp Tỵ Ngọ Bính Đinh hỏa thì phá cách. Điều hậu dụng thần không hề được hoan nghênh ở đây. Lúc này điều hậu dụng thần có còn là dụng thần nữa không? Nếu bị thương khắc, mệnh chủ sẽ gặp tai hay không? Còn nữa, lúc dụng thần cân bằng và dụng thần cách cục phát sinh giao chiến thì phải hy sinh ai đây? Những vấn đề này đều là những nút thắt cứng của những ai theo thuyết dùng nhiều dụng thần, không ai thể gỡ được, kể cả chính họ.

Một dụng thần không được, nhiều dụng thần cũng không xong, phải làm sao bây giờ? Có người chủ trương phương pháp sau tiết Đông Chí thì đổi trụ năm, có người đề xướng đại vận không phân biệt nam nữ đều thuận hành, Lữ Văn Nghệ tiên sinh ở Sơn Đông kiên quyết chủ trương phế trừ cổ pháp, thứ nhất không bàn vượng suy, thứ hai không bàn cách cục, thứ ba không bàn dụng thần, thứ tư không bàn thần sát, chỉ dùng chiêu sinh khắc "Lữ thị bát tự mệnh lý" là xong. Nhưng, chẳng lẽ môn đoán mệnh của Từ Tử Bình thật vô dụng vậy sao? Các vị toán mệnh tiên sinh từ xưa tới giờ đều không có công phu thực sự hay sao? Hay là chúng ta đã nhầm lẫn điểm quan trọng nào đó? Như Tống Anh Thành tiên sinh nói: "Có phải chăng hỷ dụng thần mà chúng ta đã dùng khác hẳn với hỷ dụng thần thực sự?"

Vâng, chính xác là như vậy! Người viết sau khi nghiên cứu nghiêm túc, phát hiện hỷ dụng thần của hiện đại mệnh lý và hỷ dụng thần của mệnh lý cổ điển là hai thứ hoàn toàn khác nhau! Có ba chứng cứ như sau:

Thứ nhất, trong ba bộ mệnh lý cổ điển "Uyên Hải Tử Bình", "Tam Mệnh Thông Hội" và "Thần Phong Thông Khảo", không hề tìm thấy cái mà hiện đại mệnh lý gọi là dụng thần! Lật bất cứ sách mệnh lý hiện hành nào chúng ta cũng có thể thấy những chương tiết chuyên luận thuật về dụng thần, từ khái niệm về dụng thần phương pháp chọn dụng thần đều được giới thiệu kỹ càng. Nhưng trong các mệnh lý kinh điển như "Uyên Hải Tử Bình" v.v... lại không thấy bất cứ chương tiết nào chuyên luận thuật về dụng thần, cho dù là một đoạn ngắn cũng không có! Những loại "dụng thần" có tác dụng phù ức, điều hậu, thông quan không hề tìm thấy bất cứ chứng cứ nào trong ba quyển sách mệnh lý cổ này. Trời ạ, dụng thần là thứ quan trọng không thể thiếu được như thế, vậy mà cổ nhân lại không hề có một chuyên đề nào để giới thiệu, có phải là rất kỳ quặc không nhỉ? Đối với mệnh lý hiện hành mà nói, đoán mệnh mà không nhắc tới dụng thần thì chỉ là một kẻ a ma tơ. Thế nhưng tổ tông môn Tử Bình của chúng ta là Từ Tử Bình trong cuốn "Uyên Hải Tử Bình" sao không thấy nhắc tới vấn đề dụng thần vô cùng quan trọng này? Dù có kiệm lời tới đâu thì ít ra cũng để lại một đoạn ngắn chứ? Tiếc rằng chúng ta tìm nát trong mấy cuốn sách mệnh lý cổ kia mà vẫn không thấy! Cái mà chúng ta thấy là cổ nhân dùng đến một phần ba cuốn sách để nói đến cách cục, chuyện này thì sách mệnh lý hiện hành không hề có. Điều này chứng tỏ cái gì? Chứng tỏ rằng chỉ có một khả năng, đó chính là trong sách mệnh lý cổ điển căn bản là không hề có loại dụng thần cân bằng ngũ hành bát tự, nếu như có dụng thần thì e rằng dụng thần chính là cách cục.

Thứ hai, dụng thần của mệnh lý lưu hành hiện đại và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển, đặc trưng của cả hai hoàn toàn không phù hợp nhau. Chủ yếu biểu hiện trong ba mặt sau:

1. Dụng thần của mệnh lý hiện hành đặc trưng chính yếu ở chỗ tính bất khả tổn hại của nó. Dùng lời của Chung Nghĩa Minh tiên sinh trong cuốn "Bát Tự Khí Số Mệnh Lý Học" rằng: "Dụng thần là linh hồn của bát tự", "Nên dụng thần không thể bị thương tổn đến, không bị khắc hại hình xung v.v...". Thế nhưng cổ nhân trong "Tứ Ngôn Độc Bộ" lại chỉ ra rằng: "Cách cách thôi tường, dĩ Sát vi trọng, chế Sát vi quyền, hà sầu tổn dụng". Ý của "Hà sầu tổn dụng" chẳng phải là không sợ tổn hại đến dụng thần hay sao? Trong "Nguyệt Đàm Phú" cũng nói: " Cách hữu khả thủ bất khả thủ, dụng hữu đương khí bất đương khí". Nói rõ có lúc cần đến là có thể vứt luôn dụng thần.

2. Dụng thần của mệnh lý hiện hành, đặc trưng thứ yếu của nó là tính thiểu lượng. Nghĩa là dụng thần đã là điểm cân bằng ngũ hành bát tự thì dụng thần sẽ không thể là ngũ hành chiếm số lượng nhiều, bởi vì tổng cộng chỉ có tám chữ, số lượng nhiều lên sẽ phá vỡ cân bằng mà trở thành bệnh trong mệnh cục, cho nên dụng thần thường chỉ chiếm một hai chữ trong mệnh cục, không thể nhiều hơn. Cũng bởi vì phân lượng dụng thần ít cho nên mới sợ bị tổn hại! Thế mà nguyên chú của chương Thể dụng trong "Tích Thiên Tủy" nói: "Nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Có nghĩa một bát tự mà có ba bốn năm dụng thần thì không phải mệnh tốt. "Cùng Thông Bảo Giám - Tam xuân Giáp mộc luận" nói: "Phàm dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, tiết đi mới hay". Câu này chúng ta còn có thể tìm thấy trong "Tam Mệnh Thông Hội". Vậy đấy, dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển hóa ra còn có lúc đạt đến bốn năm cái, mà còn tiết đi mới tốt nữa!

3. Dụng thần trong mệnh lý hiện hành đặc tính thông thường của nó là tính chỉ có ích mà không có hại. Mệnh lý hiện hành cho rằng bất kể là Tài Quan Ấn Thực hay là Sát Thương Kiêu Nhận, chỉ cần khi được chọn làm dụng thần thì chỉ có ích mà không có hại, giữa chúng không có phân biệt thiện và ác, đã là dụng thần thì không thể bị khắc. Nhưng, dụng thần của cổ nhân không như thế. Chương Luận dụng thần trong "Tử Bình Chân Thuyên" viết: "Tài Quan Ấn Thực, thử dụng thần chi thiện, nhi thuận dụng chi giả dã. Sát Thương Kiêu Nhận, thử dụng thần chi bất thiện, nhi nghịch dụng chi giả dã". Có nghĩa là Tài Quan Ấn Thực là bốn dụng thần thiện, phải bảo hộ nó mà sử dụng. Mà Sát Thương Kiêu Nhận là bốn dụng thần ác, phải chế ước nó mà sử dụng. Đấy, loại dụng thần như vầy thì mệnh lý hiện hành chắc là không có nhỉ!

Thứ ba, cách dùng của dụng thần trong mệnh lý hiện hành và dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển không giống nhau. Mệnh lý hiện hành cho rằng sự vượng suy cường nhược và bị khắc hay không của dụng thần vừa quyết định sự phú quí bần tiện của mệnh chủ và cũng chủ tể cát hung họa phúc của mệnh chủ, tác dụng của nó không có thứ nào khác có thể so sánh được. Nhưng chương Luận tướng thần khẩn yếu trong cuốn "Tử Bình Chân Thuyên" lại chỉ rõ: "Thương dụng thậm ư thương thân, thương tướng thậm ư thương dụng". Ý là thương hại đến dụng thần còn gay go hơn thương hại đến nhật nguyên, mà thương hại đến tướng thần còn gay go hơn thương hại đến dụng thần. Có thể thấy còn có tướng thần quan trọng hơn cả dụng thần. "Ngũ Ngôn Độc Bộ" lại nói: "Có Sát chỉ luận Sát, không có Sát mới luận dụng thần". Ý gì nhỉ? Có Thất Sát chẳng lẽ có thể không cần luận dụng thần hay sao? Câu này mệnh lý hiện hành không giải thích nổi. Trong "Bảo Pháp - Quyển nhị" cũng nói: " Phàm thuật xem Tử Bình, thủ cách bất định, thì xem mười sai đến chín". Chú ý nhé, ở đây nói "Thủ cách bất định" chứ không nói "Thủ dụng bất chuẩn" nhé! Có phải cổ nhân thủ cách (chọn cách cục) rõ là hiệu nghiệm hơn chúng ta ngày nay chọn dụng thần không? Thiên mở đầu của "Tinh Vi Thiên" nói: "Phàm khán nhân mệnh, chuyên luận cách cục. Phùng Quan khán Tài, kiến Tài nhi phú quí. Phùng Sát khán Ấn, hữu Ấn dĩ vinh hoa". Ở đây chỉ cường điệu "Chuyên luận cách cục" chứ không phải chuyên luận dụng thần nhé! Mà còn nói thẳng gặp Quan xem Tài, gặp Ấn xem Quan, không như mệnh lý hiện hành ngày nay trước hết phải xem thân vượng thân nhược, thân vượng thì dụng Tài Quan, thân nhược thì dụng Ấn Tỷ. Tại sao cổ nhân không chú trọng đến tiền đề quan trọng là xem thân vượng thân nhược vậy? Tại sao không nói "Phàm thuật xem Tử Bình, thủ dụng bất chuẩn (xác), xem mười sai hết chín"? Nguyên nhân thì chỉ có một thôi, đó chính là dụng thần mà cổ nhân nói tới khác xa lắc xa lơ với dụng thần mà ngày nay chúng ta nói!

Dông dài hồi lâu, chắc độc giả cũng muốn hỏi thế dụng thần trong sách mệnh lý cổ điển là gì thế?

Kỳ thực, định nghĩa dụng thần của cổ nhân rất đơn giản, tức: Dụng thần chính là vật khả dụng của nguyệt lệnh. Hai chữ "khả dụng" này có hai tầng ý nghĩa, một là có những thứ gì có thể dùng? Hai là dùng vào việc gì?

Nguyệt lệnh có những thứ gì có thể dùng? Có sáu thứ có thể dùng, tức: Tài, Quan, Ấn, Sát, Thực, Thương. Dùng vào việc gì? Dùng để cấu thành CÁCH CỤC. Tức là, dụng thần mà cổ nhân nói tới, kỳ thực chính là VẬT mà nguyệt lệnh dùng đến để cấu thành cách cục.

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách". Những lời trên của cổ nhân khi nói đến dụng thần, tất cả đều nhấn mạnh tìm ở nguyệt lệnh, các sách đều coi dụng thần với cách cục làm một. Chúng ta chớ có tưởng rằng cổ nhân nói không rõ ràng, không logic (như Từ Lạc Ngô đại sư tưởng thế), nói không rõ sự tồn tại của dụng thần cân bằng nào là phù ức, điều hậu, thông quan. Thực ra trong mắt cổ nhân, dụng thần chính là vật mà nguyệt lệnh dùng để cấu thành cách cục, hoặc nói dụng thần và cách cục là một.

Chính bởi vì dụng thần chỉ là vật mà nguyệt lệnh dùng để định cách, không phải ở bất cứ vị trí nào khác dùng để cân bằng ngũ hành bát tự, cho nên cổ nhân mới gồm dụng thần và cách cục vô làm một, và đem cách cục vật khả dụng của nguyệt lệnh gọi là nội cách, mà cách cục vật không khả dụng của nguyệt lệnh gọi là ngoại cách (xin tham khảo cuốn "Tử Bình Chân Thuyên Bản Nghĩa của tác giả). Chúng ta biết rằng mệnh lý hiện hành chọn dụng thần không chú trọng đến nguyệt lệnh, cho nên cách cục không phân làm nội cách và ngoại cách, hoặc nói không rõ nguyên do sự phân chia nội cách ngoại cách.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không hề là mấu chốt của cả bát tự, cho nên có lúc xuất hiện hiện tượng "dụng thần quá nhiều", dụng thần đã quá nhiều thì mới có câu " dụng thần có cái bỏ đi có cái không thể bỏ đi" và "ngại gì mà không tổn đến dụng thần (hà sầu tổn dụng)", thế mới xuất hiện cách cục câu "Khí Ấn tựuTài", "Khí Quan tựu Thực" v.v... Nếu không thì theo lối suy nghĩ của mệnh lý hiện hành thì chẳng ai giải thích rõ được mấy câu trên.

Chính bởi vì dụng thần là vật khả dụng của nguyệt lệnh, không nhất định là thứ có ích đối với nhật chủ, cho nên dụng thần mới phân thiện và ác, với thiện dụng thần Tài, Quan, Ấn, Thực phải sử dụng với tính chất phù trợ, đối với ác dụng thần Sát, Kiêu, Thương, Nhận thì phải sử dụng có tính chế ước. Cho nên "Ngũ Ngôn Độc Bộ" mới nói " Có Sát thì trước tiên luận Sát, không có Sát mới luận dụng", là bởi vì "Các cách suy cho rõ, lấy Sát làm trọng" ấy mà. Dụng thần của mệnh lý hiện hành phải luận trước cả Sát, lại còn không được chế ước Sát nữa.

Có người phản bác: Trong "Thần Phong Thông Khảo" tuy không có chương tiết chuyên luận dụng thần, nhưng còn có "Bệnh dược thuyết" trứ danh đấy thôi? Trương Nam nói "Dược" chẳng phải là dụng thần của mệnh lý hiện hành hay nói hay sao?

Đúng, mệnh lý hiện hành hay lấy thuyết bệnh dược của Trương Nam để mượn làm dụng thần cân bằng. Nhưng nếu chúng ta đọc kỹ nguyên văn sẽ phát hiện "Dược thần" mà Trương Nam nói chẳng phải là dụng thần cái gì cả. Nguyên văn: "Như dụng Tài kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược dã. Như dụng Thực Thần Thương Quan, dĩ Ấn vi bệnh, hỷ Tài vi dược dã". Ở đây chẳng phải rõ ràng nói trước "Dụng Tài", sau đó mới nói "Kiến Tỷ Kiếp vi bệnh, hỷ kiến Quan Sát vi dược" hay sao? Câu sau "Như dụng Thực Thần Thương Quan", cũng chính là lấy Thực Thần Thương Quan làm dụng thần. Tài là dụng, Tỷ Kiếp là bệnh, Quan Sát là dược ; Thực Thương là dụng, Ấn là bệnh, Tài là dược, ý quá rõ rồi gì nữa? Còn lý do nào để nói dược thần của Trương Nam chính là dụng thần không?

Kỳ thực, dược thần của Trương Nam chính là "Tướng thần" mà "Tử Bình Chân Thuyên" đã nói tới, chẳng qua Trương Nam không gọi nó là tướng thần mà thôi.

Có lẽ sẽ còn có người lấy những câu bình chú của Nhậm Thiết Tiều trong "Tích Thiên Tủy" để phản bác lại, Nhậm nói: "Ví như nhật chủ vượng, đề cương là Quan là Tài hoặc Thực Thương, đều có thể làm dụng. Nhật chủ suy, đừng tìm tứ trụ can chi vật có giúp thân làm dụng...". Dụng thần mà ông nói ở đây chẳng phải dụng thần cân bằng mà mệnh lý hiện hành hay nói sao?

Đúng, sự ra đời của mệnh lý hiện đại e phải lấy Nhậm Thiết Tiều làm công đầu. Vốn nguyên văn "Tích Thiên Tủy" và các sách cổ điển như "Uyên Hải Tử Bình" là nhất mạch tương thừa, nhưng qua tay hậu nhân chú thích, đặc biệt là sau khi qua tay Nhậm lão tiên sinh chú thích, thì cuốn "Tích Thiên Tủy" đã trở thành nền móng cho mệnh lý hiện hành.

Nhậm Thiết Tiều chú thích chương Bát cách trong cuốn "Tích Thiên Tủy": "Bát cách giả, mệnh trung chính lý dã. Tiên quan nguyệt lệnh sở đắc hà chi, thứ khán thiên can thấu xuất hà thần, tái cứu tư hà lệnh dĩ định chân giả, nhiên hậu thủ dụng, dĩ phân thanh trọc, thử thực y kinh thuận lý, nhược nguyệt phùng Lộc Nhận, vô cách khả thủ, tu thẩm nhật chủ chi hỷ kỵ, lánh tầm biệt chi thấu xuất thiên can giả, tá dĩ vi dụng". (Tám cách là chính lý trong mệnh. Trước phải xem nguyệt lệnh là chi gì, sau xem thiên can thấu xuất thần gì, tiếp coi cái gì nắm lệnh để định thật giả, sau đó chọn dụng thần để phân chia sự thanh trọc, đó thực là thuận lý theo kinh sách, nếu nguyệt lệnh là Lộc Nhận thì không chọn được cách, phải xem xét hỷ kỵ của nhật chủ mà tìm chi khác thấu thiên can mượn đỡ mà dùng). Có thể thấy, phương pháp thủ dụng định cách của họ Nhậm là cơ bản thống nhất với phương pháp "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh", "Nguyệt Kiếp vô dụng, lánh tầm ngoại cách" trong "Tử Bình Chân Thuyên". Tiếc thay, họ Nhậm không hề thông hiểu mật pháp luận cách cục truyền thống này ("Tích Thiên Tủy" luận cách không kỹ càng bằng "Tử Bình Chân Thuyên"), trong khi gặp khó khăn trong lúc luận mệnh, ông đã không kiên trì giữ vững phương pháp này nữa. Cho nên ông sau chương "Bát cách" lại nói rằng: "Từ mấy mệnh trên có thể thấy, cách cục không thể chấp nhất. Không nên câu thúc ở các cách Tài Quan Ấn..., không liên can gì đến nhật trụ, vượng thì nên ức chế, suy thì nên phù trợ, Ấn vượng tiết Quan mừng Tài tinh, Ấn suy gặp Tài mừng Tỷ Kiếp, đây là phương pháp không thay đổi được". Hèn gì, kiểu phương pháp luận mệnh khinh cách cục, trọng cân bằng này của Nhậm Thiết Tiều chính là lam bản cho mệnh lý hiện hành ngày nay.

Còn chuyện nữa càng khiến người ta tiếc rẻ, sau Nhậm Thiết Tiều là Từ Lạc Ngô đại sư, ông chú thích "Tích Thiên Tủy" mà vô cùng sai lệch nguyên chú, làm cho kẻ hậu học dễ hiểu nhầm nguyên văn, từ đó trượt luôn vào vũng lầy mệnh lý hiện hành. Ví dụ như chương "Thể dụng" của "Tích Thiên Tủy" nguyên chú thích nói rằng: "...nhi nhị tam tứ ngũ dụng thần giả, đích phi diệu tạo". Ý là khi nguyệt lệnh dụng thần số lượng đạt tới bốn hoặc năm, như vậy thì không phải là mệnh tốt nữa. Ví dụ như nguyệt lệnh là Ấn tinh, khi có hai ba Ấn tinh nếu có Tài tinh khắc Ấn, cách cục sẽ thành "Khí Ấn tựu Tài" cách. Nếu Ấn lên tới bốn năm, Tài tinh sẽ không thể nào khắc Ấn được nữa, tốt nhất là dùng Tỷ Kiếp để tiết bớt Ấn, giống như ý của "Cùng Thông Bảo Giám" nói "Hễ dụng thần quá nhiều, không nên khắc chế, cần phải tiết đi mới hay". Nhưng nếu Ấn quá nhiều, một là không có Tài khắc, hai là không có Tỷ Kiếp hóa tiết, vậy nhất định không phải mệnh tốt rồi.

Ấy thế mà do Nhậm Thiết Tiều không hoàn toàn hiểu hết được khái niệm dụng thần này, cho nên khi ông phê chú đoạn trên bèn nói: "Nguyên chú nói rằng: hai ba bốn năm dụng thần thực không phải mệnh tốt. Đấy là nói bậy! Chỉ có tám chữ mà nếu khử đi bốn năm chữ dụng thần thì trừ nhật can ra chỉ có hai chữ không dùng, làm sao thế được!". Nghe ý ông là hiểu không thể có trường hợp một mệnh tạo mà có đến bốn năm dụng thần.

Từ Lạc Ngô đại sư cũng nói đế vào phụ cho họ Nhậm, nói rằng: "Như câu trong nguyên chú hai ba bốn năm dụng thần, họ Nhậm bài xích là phải. Dụng thần làm sao có hai được nói chi đến ba bốn năm dụng thần! (Xem chương Thể dụng tinh thần trong cuốn "Tích Thiên Tủy Bổ Chú của Từ Lạc Ngô)". Ông khăng khăng dụng thần chỉ có một mà thôi, tuyệt không có hai, nói gì đến bốn năm dụng thần! Ông đâu có biết, dụng thần mà nguyên chú "Tích Thiên Tủy" nói hoàn toàn không phải loại dụng thần mà ông và Nhậm Thiết Tiều nghĩ!

Thật là "Một chữ sai, toàn bàn hỏng bét", dụng thần mà sai rồi thì phương pháp luận mệnh cũng sai theo! Không ai ngờ và nghĩ được rằng như hai vị đại sư cấp nhân vật trong làng mệnh lý là Nhậm Thiết Tiều và Từ Lạc Ngô lại nhầm lẫn khái niệm hạch tâm nhất, cơ bản nhất, quan trọng nhất của mệnh học --- DỤNG THẦN!

Con rùa bò phía trước mở đường, con rùa phía sau bò theo. Cứ thế, ngàn ngàn vạn vạn kẻ hậu học theo sau đít hai ông Nhậm, Từ, thoát li khỏi tư tưởng chính tông của Từ Tử Bình, nhắm đến vũng lầy mệnh lý hiện hành vô biên vô tế phía trước mà tiến bước......

Lão Tử nói rất hay, "Ngũ sắc khiến người ta mù". Chỉ có mấy ông thầy bói mù (manh sư) mắt không nhìn được ngũ sắc nữa mới không mù quáng đi theo Nhậm, Từ. Họ đã không thể đọc các danh trước mệnh học của hai ông, cũng không thể tham duyệt tư liệu mệnh lý hiện hành, cho nên họ không bị bất cứ ảnh hưởng nào của mệnh lý hiện đại, vẫn cứ y theo phương pháp xa xưa của Tử Bình mệnh học. Có lẽ họ luận cách tinh xác không bằng "Tử Bình Chân Thuyên", hoặc họ mỗi người có một pho ca quyết luận mệnh cho riêng mình, nhưng khái niệm dụng thần và luận mệnh phép tắc là nhất mạch tương truyền với các kinh điển mệnh lý "Uyên Hải Tử Bình", "Thần Phong Thông Khảo", "Tam Mệnh Thông Hội", "Tử Bình Chân Thuyên" và "Tứ Ngôn Độc Bộ". Người viết quen biết một vị manh sư họ Dương, công phu của ông rất tinh thâm, nổi danh một vùng. Ông có thể thuộc lòng các ca quyết cổ điển như " Tứ Ngôn Độc Bộ", "Ngũ Ngôn Độc Bộ" và "Nguyệt Đàm Phú" v.v..., nhưng ông không hề biết tý gì về cái gọi là dụng thần cân bằng như phù ức, điều hậu, thông quan. Ông cũng giống như nhiều vị manh sư khác, bình thường chỉ nói về cách cục, không nói dụng thần, bởi vì ông giải thích rằng dụng thần chính là cách cục!

Đấy chính là bộ mặt thật của dụng thần, cho dù các thầy mệnh lý hiện đại mở miệng ra là nói tới nhưng cũng không biết tới nó!

Durobi dịch

Bổ sung chuyển từ Hán Việt ra Việt ngữ đoạn này, đoạn thứ 22 từ trên xuống, lúc dịch quên béng mất...

"Tử Bình Chân Thuyên - Luận dụng thần" nói rằng: "Bát tự dụng thần, chuyên cầu nguyệt lệnh. Dĩ nhật can phối nguyệt lệnh địa chi, nhi sinh khắc bất đồng, cách cục phân yên". "Thần Phong Thông Khảo - Thủ cách chỉ quyết ca đoán" nói rằng: "Dĩ nhật vi chủ bản, nhi thủ đề cương vi dụng. Thứ cập niên nguyệt nhật vi thực, phùng Quan khán Tài, phùng Tài khán Sát, phùng Sát khán Ấn, phùng Ấn khán Quan". "Bảo Pháp - Quyển nhị" nói: "Tử Bình chi thuật, dĩ nhật tử vi chủ, tiên khán đề cương vi trọng, thứ dụng niên nguyệt nhật thời chi, hội thành cách cục phương khả đoán chi, giai dĩ nguyệt lệnh vi dụng, bất khả dĩ niên thủ cách".

Chương Luận dụng thần trong sách Tử Bình Chân Thuyên nói rằng: " Dụng thần của bát tự, nên tìm ở lệnh tháng mà thôi. Lấy nhật can phối hợp với địa chi lệnh tháng, bởi do sinh khắc không giống nhau nên phân ra các loại cách cục".

Chương Thủ cách chỉ quyết ca đoán trong sách Thần Phong Thông Khảo nói rằng: "Lấy ngày làm thân gốc, mà lấy đề cương (lệnh tháng) làm dụng. Thứ đến lấy năm tháng ngày làm quả, gặp Quan thì phải xem Tài, gặp Tài thì phải xem Sát, gặp Sát thì phải xem Ấn, gặp Ấn thì phải xem Quan".

Quyển thứ hai của sách Bảo Pháp nói rằng: " Thuật xem Tử Bình, lấy ngày làm chủ, trước hết phải xem đề cương (lệnh tháng) là điểm quan trọng, kế đến dùng chi năm tháng ngày giờ, hội thành cách cục rồi mới có thể đoán, thường các trường hợp đều lấy lệnh tháng làm dụng, không được lấy năm để chọn cách.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận dụng thần

Nhìn nhận đúng đắn về giải sao hạn hằng năm

Nguồn gốc Sao hạn được dùng khá phổ biến trong lịch pháp Phật giáo, dùng phối với ngày, để định cát hung. Chín sao này cũng dùng phối năm, để xem vận mệnh con người, từ đời Tống đã thịnh hành việc sắp đàn giải hạn, được ghi lại trong “Ngọc hạp ký” của Hứa Chân Quân. Trong Phật giáo cũng có những kinh điển liên quan như “Phật thuyết Bắc đẩu Thất tinh diên mạng “, “Phật thuyết Thất tinh chân ngôn thần chú”,…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa cho rằng có mối liên hệ giữa thiên thể (cụ thể là chín vì sao này) với con người, con người là thế giới thu nhỏ – một tiểu thiên địa, nhưng vì người đời sau cho thêm nhiều quan điểm rắc rối khác vào nên dễ bị đánh đồng với mê tín, do đó chúng ta cần có cái nhìn biện chứng khách quan hơn về phương pháp này.

Quan niệm về sao Cùng một tuổi, cùng một năm nam giới và phụ nữ có sao khác nhau, luân phiên theo 9 sao. Trong năm nếu gặp sao xấu hay trung bình sẽ gặp những chuyện xấu tương ứng với sao đó. Cát hung (tốt xấu) của các sao như sau:

Sao tốt: Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức

Trung bình: Thổ tú

Sao xấu: La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô

Cụ thể: Sao La hầu (Kim, xấu): Chủ về buồn rầu. Nam dễ kiện tụng chốn quan trường; Nữ dễ đau buồn, lo lắng. Đây còn là sao về khẩu thiệt thị phi, hay mang đến nỗi buồn rầu, tai nạn, tang sự, kiện tụng, thị phi, bệnh mắt, nữ gặp hạn huyết quang, sản nghịch,…

Sao Thái bạch (Kim, xấu): Chủ về mọi chuyện không như ý, nam giới đỡ hơn một chút, còn đại kỵ với nữ giới. Người quyền quý gặp sao này có lợi, thêm đinh thêm khẩu, đề phòng kẻ tiểu nhân phá rối. Kết hôn cẩn thận bệnh phần bụng. Xấu hơn sao La hầu.

Sao Vân hớn (Hỏa, xấu): Còn gọi là tai tinh, chủ về bệnh tật. Phụ nữ gặp phải sao này, có nhiều tai ương, có nạn huyết quang; nam giới gặp kiện tụng thị phi, gia đạo bất an, mọi việc cần thận trọng.

Sao Kế đô (Thổ, xấu): Chủ về tai họa, người âm phá rối. Đại kỵ cho cả nam và nữ, nhưng nữ bị nặng hơn, thường mang lại sự buồn khổ, chán nản, thờ ơ. Trong nhà có chuyện buồn, nên đi xa làm ăn. Lục súc bất lợi, phụ nữ có khẩu thiệt, thị phi. Đi xa có tiền tài, ở nhà có tai ương. Nam giới gặp sao này chiếu mạng dễ bị phụ nữ hại. Phụ nữ gặp sao này chiếu mạng mà có thai thì lại may mắn.

Sao Thổ tú (Thổ, trung bình): Chủ về việc liên quan đến quan trường. Đi lại không gặp may, dễ bị tiểu nhân phá. Thổ tú còn được gọi là ách tinh, có tại họa, khó yên, hay ngủ mê, lục súc bất yên, không nên đi xa làm ăn, đề phòng tiểu nhân hãm hại.
Gặp sao này chiếu mạng thì hay có nỗi buồn man mác, không có chủ định vững vàng, hay hoài nghi công việc làm ăn, không hăng hái, song không gặp tai họa gì. Thường sáu tháng đầu năm bình thường, sáu tháng cuối năm mới thuận lợi.

Sao Thủy diệu (Thủy, tốt): Chủ về tài vận và phúc lộc. Nam giới gặp phúc lộc, rất may mắn, đi xa có lợi, thêm đinh; phụ nữ thì bất lợi hơn, chủ về khẩu thiệt thị phi, tuy tai họa không lớn, đi xa tránh qua sông qua đò.

Sao Thái dương (Hỏa, tốt): Chủ về an khang, thịnh vượng, có lợi cho nam giới; nữ giới có chút tai ương. Gặp sao Thái dương sẽ làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức, gặp may mắn trong công việc, dễ nổi danh, tiền đồ sáng sủa. Đi xa có lợi; người quyền quý gặp sao này càng lợi; thêm nhân khẩu; mọi chuyện như ý.

Sao Thái âm (Thủy, tốt): Chủ về mọi chuyện như ý. Cầu danh lợi đều được, nên đi xa, gặp người trên có lợi. Phụ nữ gặp sao này sẽ được vui vẻ, hạnh phúc, có tiền tài, dễ đạt được các ước mơ, nhưng sinh nở bất lợi. Nam giới đi lại hanh thông, gặp sao này được bạn nữ giúp đỡ, nhất là về tiền bạc.

Sao Mộc đức (Mộc, tốt): Sao Mộc đức chiếu mạng sẽ gặp nhiều may mắn trong công việc, có bạn mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhân giúp đỡ, hôn nhân hòa hợp. Phụ nữ có hạn huyết quang. Nam giới đề phòng bệnh mắt. Gia đạo có chút bất hòa, nhưng nhân khẩu bình an không đáng ngại.

Quan niệm về hạn Ngoài quan niệm về “sao”, còn có quan niệm về “hạn”, theo đó có các hạn sau:

Hạn Huỳnh tuyền: Có chứng đau đầu, chóng mặt. Không đi xa bằng đường thủy. Không bảo lãnh chứng nhận cho ai vì ắt sẽ sinh chuyện bất lợi.

Hạn Tam kheo: Đề phòng đau chân tay, chứng phong thấp, hay lo buồn cho người thân yêu. Tránh tụ tập chỗ đông người để tránh rủi ro. Tránh khiêu khích, nên nhẫn nhịn. Đề phòng thương tích tay chân.

Hạn Ngũ mộ: Hao tài, bất an. Mua hàng cần biết rõ xuất xứ. Không cho ai ngủ nhờ trong nhà vì sẽ có tai bay vạ gió. Phòng hao tài mất của.

Hạn Thiên tinh: Đề phòng ngộ độc. Mang thai cấm kiễng chân với đồ trên cao, kẻo ngã trụy thai, nguy hiểm, cũng nên đề phòng lúc ăn uống kẻo ngộ độc.

Hạn Toán tận: Hao tài. Đi đường không mang theo nhiều tiền của, cẩn thận bị cướp giật ảnh hưởng tính mạng. Không góp vốn làm ăn.

Hạn Thiên la: Đề phòng cảnh phu thê ly cách, cần biết nhẫn nhịn trong nhà, chớ ghen tương gắt gỏng làm chuyện bé xé ra to.

Hạn Địa võng: Kỵ đi với người khác lúc trời tối. Không cho người khác ngủ nhờ, tránh mua đồ không rõ xuất xứ.

Hạn Diêm vương: Đau ốm lâu, nhưng làm ăn thuận lợi, được tài lộc dồi dào, vui vẻ.

Ngày giờ giải sao Theo người xưa, dù sao tốt hay xấu đều cần hóa giải: sao tốt thì gặp, sao xấu thì tránh. Hầu hết các chùa hiện nay chỉ làm lễ giải một số sao xấu như Thái Bạch, La hầu, Kế đô.

Sao tốt thì chọn giờ gặp, sao xấu thì chọn giờ tránh, nhưng thực chất đều là chọn giờ đó để tiến hành hóa giải (sao xấu) hay đón nhận (sao tốt), cụ thể như sau:

2014sao1 2014sao2
Đây là những ngày giờ theo “quy định” sách cổ, chưa có lý giải thực sự hợp lý. Dẫn đến nhiều nơi làm cũng không theo lịch, chú trọng vào ngày rằm theo quan niệm “lễ cả năm không bằng rằm tháng Giêng”, hoặc ngày nào thuận tiện cho nhà chùa.

Quan niệm giải sao hạn

Vào ngày sao hạn chiếu mệnh, cần thắp đèn thắp nến, cầu xin bình an, tăng thêm phúc thọ. Đầu năm có hạn nên đến chùa, các tháng sau có thể làm ở nhà.

Các bài văn cúng ở các chùa hiện nay đa phần mang tính tự phát, mỗi chùa đọc một kiểu văn cúng khác nhau, không thống nhất, đa phần mang tính chất hóa giải về tâm lý là chính, giúp người dân yên tâm hơn trong cuộc sống của mình. Cách cúng của các thầy cúng trong dân gian thì nặng về hình thức, đồ lễ, hay vật cúng, cũng chủ yếu hóa giải về tâm lý. Sở dĩ nói vậy vì phương thức làm lễ khó kiểm chứng, khó đánh giá đúng sai tốt xấu của cách làm, hay lời văn cúng, thậm chí có nơi không có yêu cầu rõ ràng là người cần hóa giải phải có mặt hay không.

Đó cũng là lý do có những phản ứng ngược lại, cho rằng các cách làm trên không cần thiết, chỉ cần có tâm có đức là được. Chỉ cần tu tâm, giữ đức là được.

Tuy vậy cả hai quan niệm thái quá này đều lợi bất cập hại. Tin tưởng quá vào giải sao hạn, phải chen lấn xô đẩy vào lễ, hay kiểu gì cũng phải chen vào chùa nổi tiếng, chùa cổ,… là điều không cần thiết. Nếu tin vào lễ, bạn có thể tự làm ở nhà, trước ban thờ ở nhà; hoặc đến chùa gần nhà, gần nơi mình sinh sống hay làm việc đều được.

Phủ nhận việc giải sao hạn, cho rằng mình có tâm có đức là một cách tốt để khẳng định bản thân. Tuy vậy thi hành được tâm đức đến đâu là điều chính bản thân họ khó đánh giá. Hơn nữa, quan niệm sao hạn cho ta thấy rõ sự hữu hạn của con người, cũng như những chu kỳ nhất định của đời người (ở đây là 9 sao, tương ứng với 9 năm), nếu biết được chu kỳ tốt xấu này, để có những biện pháp ứng xử phù hợp, sẽ giúp ta có được sự thuận lợi hơn trong cuộc sống, cũng như công việc. Ví dụ đơn giản nhất, chọn đường đi tốt sẽ giúp ta đi đến đích dễ dàng hơn. Tương tự, chọn năm có sao tốt để làm việc lớn, năm có sao xấu cần làm việc cẩn trọng hơn, bớt đầu tư dàn trải,… sẽ giúp ích cho ta nhiều hơn. Tất nhiên, do xem chung cho chu kỳ 9 tuổi, nên có sự hạn chế nhất định, là không rõ sự ứng nghiệm vào thời điểm cụ thể nào, và cụ thể cho những ai trong tuổi đó, nên người xưa cũng chỉ có cách khuyên giải hay hóa giải chung là cần làm lễ giải hạn hoặc “phụ nữ có thai sẽ may mắn”, do cho rằng sinh nở là có lộc. Nếu xem chi tiết cho từng người theo năm tháng ngày giờ sinh, ta sẽ thấy rõ chu kỳ tốt xấu trong đời người, và có hướng hóa giải rõ ràng theo ngũ hành.

Thực tế tư vấn nhiều năm cho thấy, khi áp dụng khoa học phong thủy, cụ thể ở đây là quy luật âm dương ngũ hành, có thể giúp hóa giải sao xấu, tận dụng sao tốt một cách khá hiệu quả và đơn giản, không sa đà vào những lễ nghi không cần thiết lại khó kiểm chứng. Nguyên tắc vận dụng âm dương ngũ hành đơn giản nhất, là sao xấu thuộc ngũ hành nào, ta tiết giảm bớt đi, còn sao tốt thì chọn ngũ hành tương ứng, hoặc sinh ra ngũ hành đó. Cụ thể:

Sao La hầu, Thái bạch (ngũ hành là Kim): Dùng Thủy tiết, như đeo trang sức đá quý màu đen như đá núi lửa, thạch anh đen, thạch anh tóc đen,…

Sao Vân hớn (ngũ hành là Hỏa): Dùng Thổ tiết, như đeo trang sức đá quý màu vàng như thạch anh tóc vàng, lưu ly, hổ phách, thạch anh vàng,…

Sao Kế đô, Thổ tú (ngũ hành là Thổ): Dùng Kim tiết, như đeo trang sức đá quý màu trắng: mã não trắng, thạch anh trắng, kim cương, xà cừ,…

Sao Thủy diệu tốt, nhưng bất lợi cho nữ (ngũ hành là Thủy): Dùng Mộc tiết, như đeo trang sức màu xanh: Phỉ thúy, ngọc lục bảo, thạch anh linh, khổng tước,…

Ứng dụng trong nhiều năm qua, nhiều người áp dụng đều có kết quả khả quan, thuận lợi hơn trong cuộc sống cũng như công việc, phần lớn không thấy tác động của sao xấu, hoặc nếu có cũng được giảm đi nhiều.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn nhận đúng đắn về giải sao hạn hằng năm

Vận mệnh người tuổi Tân Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử vi của người tuổi Tân Hợi ngũ hành Kim, nạp âm Thoa xuyến Kim, nam tính mạnh, đường nhân duyên tốt đẹp.
Vận mệnh người tuổi Tân Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi của người tuổi Tân Hợi ngũ hành Kim, nạp âm Thoa xuyến Kim, nam tính mạnh, đường nhân duyên tốt đẹp.


 

Giai ma van menh nguoi tuoi Tan Hoi theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Người sinh năm Tân Hợi là nam mệnh thì tốt hơn một chút so với nữ mệnh. Trời sinh thông minh, nữ nhân thì mạnh mẽ, nam nhân thì chí khí, bề ngoài phù hoa nhưng tâm kiên định, có lý trí.   Tử vi của người năm Tân Hợi tuy cả đời lao lực, nhưng có phúc lộc, được sự trợ giúp của người khác phái. Duyên phận với gia đình không sâu, chủ yếu là tự thân lập thân, độc lập, thái độ làm người cố chấp, làm việc sợ nhất là không tới nơi tới chốn.   Xem tử vi người sinh năm Tân Hợi trưởng thành sớm, đa tình mà phong lưu nên có thể vướng phải thị phi, hôn nhân không như ý. Người này ham hư vinh, để ý tiểu tiết bề ngoài. Lúc nhỏ chịu nhiều khổ sở, càng trưởng thành càng an khang.
Mơ thấy kim là chìm trong biển khổ
Kim và đinh đều là những vật sắc nhọn, có hình dáng tương đồng với nhau, thế nhưng mơ thấy kim sẽ “nguy hiểm” hơn mơ thấy đinh rất nhiều.

Nam mệnh tuổi Tân Hợi
tính tình quái gở, được vợ trợ giúp. Nữ mệnh năng lực hơn người, cá tính mạnh, quyết đoán độc lập, tự chủ cao, nổi loạn, có tham vọng. Tuổi trẻ là thời điểm duyên phận nhiều trắc trở, kết hôn muộn thì tốt hơn. 
  Khuyết điểm của người tuổi Tân Hợi là nhiều lời, vợ hay mắng chồng, cẩn thận tuổi 40 gặp trường hợp ly dị, cô quả. Trụ gặp quan tinh, tuy tự tin nhưng vấp phải thất bại.   Người nạp âm Thoa xuyến Kim trong sự nghiệp khó có sự tiến bộ vượt bậc, gặp tiểu nhân trở ngại, ở thời điểm quyết định nam nên mang theo trang sức làm bằng đá màu cam, nữ nên mang trang sức mã não. 
 
Giai ma van menh nguoi tuoi Tan Hoi theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh 2
 
Để trợ giúp nhân duyên thì tuổi Tân Hợi nên mang bên người bùa hộ mệnh làm bằng đá thạch anh.  
=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất

Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận mệnh người tuổi Tân Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp

Phong thủy giúp công ty phát tài trong năm Bính Thân

Phong thủy giúp công ty phát tài trong năm Bính Thân: Áp dụng một vài mẹo phong thủy đơn giản dưới đây, bạn sẽ chèo lái công ty sớm chạm tới sự thịnh vượng
Phong thủy giúp công ty phát tài trong năm Bính Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Áp dụng một vài mẹo phong thủy đơn giản dưới đây, bạn sẽ chèo lái công ty sớm chạm tới sự thịnh vượng trong năm Bính Thân.


1. Tìm cách hóa giải “Động thổ sát”


Động thổ sát được hình thành từ việc có quá nhiều công trình xây dựng dang dở bao quanh văn phòng làm việc của bạn. Đó có thể là xây dựng nhà cửa, đình chùa, miếu mạo, cầu đường...

Điều này không chỉ gây ra tiếng ồn ào, bụi bẩn, ảnh hưởng tới sự tập trung và sức khỏe của người làm việc trong văn phòng phạm phải Động thổ sát. Nó còn tạo ra tường trường xấu, không tốt về mặt phong thủy.

Phong thuy giup cong ty phat tai trong nam Binh Than hinh anh
 
2. Loại bỏ vật dụng không cần thiết


Trong văn phòng, những vật dụng không thường xuyên dùng tới hoặc những đồ bằng kim loại gỉ sét gây ra từ trường nhiễu loạn, không tốt cho công việc, sự thăng tiến. Do đó, bạn cần nhanh tay loại bỏ chúng để thúc vượng tài vận.

3. Không đặt cây leo hoặc có gai trong văn phòng

Theo phong thủy văn phòng, những loại cây leo và có gai ảnh hưởng xấu tới tài khí. Do vậy, nên thay bằng những chậu cây có lá tròn, xum xuê để tăng vận may, cải thiện tốt các mối quan hệ, thúc vượng tài lộc, công ty làm ăn phát đạt.

Phong thuy giup cong ty phat tai trong nam Binh Than hinh anh 2
 
4. Lưu ý tới việc sắp xếp bàn ghế trong văn phòng

Theo nguyên tắc phong thủy, hướng phòng làm việc của nam giới tốt nhất ở hướng Đông, nữ giới ở hướng Tây, còn người đứng đầu công ty nên đặt phòng làm việc ở hướng Tây Bắc, Tây Nam hoặc Đông Nam sẽ trợ lực cho sự nghiệp thăng tiến, đồng thời mang lại sự thuận lợi cho việc kinh doanh.

Trên thực tế, trong một văn phòng khó có thể sắp xếp một cách hợp lý tất cả các vị trí trên, vì thế có thể linh hoạt kê bàn ghế làm việc theo hướng thích hợp là được. Nếu có thể kết hợp hóa giải được hung sát trong mệnh lý của mình với vị trí của phòng làm việc là điều tốt nhất.

Đầu xuân mua muối, cả năm may mắn phát tài
– “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”, mua muối vào ngày đầu năm mới là tập tục từ xa xưa của người Việt nhưng không phải ai cũng biết.
5. Mở rộng kích thước cửa ra vào

Việc mở rộng kích thước cửa ra vào sẽ tránh được sự xung đột, cãi cọ trong nội bộ. Khi toàn thể đội ngũ cán bộ, nhân viên trong công ty đồng lòng đồng sức, tình hình kinh doanh sẽ thuận lợi và phát triển hơn. Đây là một trong những tuyệt chiêu phong thủy giúp công ty phát tài phát lộc trong năm Bính Thân.

6. Xác định tài vị trong công ty

Tài vị còn gọi là vị trí tài lộc. Tài vị tại công ty rất quan trọng, vì nó liên quan trực tiếp đến tài vận của công ty, cho nên phải được chú trọng, không được phép tạm bợ. Mỗi một công ty sẽ có bố cục khác nhau, vì thế vị trí tài vị sẽ khác nhau.

Nhưng dù tài vị ở văn phòng tài vụ hay phòng kinh doanh, ở phòng lãnh đạo hay phòng nhân viên, cũng đều quan trọng và áp dụng chung một nguyên lý về phong thủy công ty như nhau. Có như vậy, công ty mới nhanh chóng phát tài phát lộc.

► Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc

Ngân Hà

Xem thêm video: Nghi thức thờ cúng của người Việt


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy giúp công ty phát tài trong năm Bính Thân

Có đúng là tích cực niệm Phật thì sẽ trừ được ma ám không?

Chúng ta thấy rất nhiều chúng sinh bị oán thân trái chủ, ma quỷ quấy nhiễu, thần kinh bất ổn, bởi không ai là không tạo nghiệp, niệm Phật có thể hóa giải.
Có đúng là tích cực niệm Phật thì sẽ trừ được ma ám không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta thường thấy rất nhiều chúng sinh bị oán thân trái chủ, ma quỷ quấy nhiễu, thần kinh bất ổn, có khổ cũng chẳng thể nói ra. Bởi trong thế gian này, không ai là không tạo nghiệp, kết oán.

 
Co dung la tich cuc niem Phat thi se tru duoc ma am khong hinh anh 2
Ảnh minh họa

Những bệnh ấy là do hai nguyên nhân sau đây:

  Một là oán quỷ dựa thân, ngoài ra là do tự mình có nghiệp chướng sâu nặng. Hai nguyên nhân ấy cùng hùa vào, khó thể làm gì được! Chứng bệnh ấy có thuốc men cũng không chữa trị được, cầu thần, cầu Phật, Bồ Tát bảo hộ cũng khá khó khăn.

 

Co dung la tich cuc niem Phat thi se tru duoc ma am khong hinh anh 2
Hòa thượng Tịnh Không

Vậy có cách gì trị được hay chăng?


Tất nhiên là có! Khoảng đầu triều Thanh, pháp sư Từ Vân Quán Đảnh nói niệm Phật có thể cứu được!


Vì sao niệm Phật có thể cứu được?


Bởi lẽ, quý vị niệm A Di Đà Phật, mười phương hết thảy chư Phật đều gia trì, đạo lý là đây! Mười phương hết thảy chư Phật đều gia trì, đều bảo hộ. Oan gia đối đầu, yêu ma, quỷ quái gì gì đi nữa cũng đều nhượng bộ mấy phần, chẳng phải là một đức Phật có mặt, mà là hết thảy chư Phật có mặt, chúng chẳng thể lấn lướt được.
 
Co dung la tich cuc niem Phat thi se tru duoc ma am khong hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Vì thế, đối với hết thảy bệnh tật khó trị, phương pháp nào cũng vô hiệu, hết cách chữa trị, tụng kinh, bái sám cũng vô hiệu, thì thưa cùng quý vị, cuối cùng chắc chắn hữu hiệu là Niệm Phật.

Chúng tôi cũng đã từng thấy, quả thật là có rất nhiều người bị oán thân trái chủ dựa vào thân, dường như niệm Phật cũng vô hiệu, vì nguyên nhân nào vậy? Vì niệm Phật chẳng đúng pháp!
  Chuyện quan trọng nhất trong việc niệm Phật chẳng đúng pháp thì đầu tiên là tín tâm và nguyện tâm. Nếu quý vị trọn đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, chuyên trì một câu Phật hiệu, hiệu quả sẽ chẳng thể nghĩ bàn, thống khổ bèn lập tức tiêu trừ, sẽ bình phục như cũ. Pháp môn thật chẳng thể nghĩ bàn!   Trích lời Hòa Thượng Tịnh Không

ST.

Infographic: Niệm Phật thuyết cho xuân mới thanh thản và an nhiên Infographic: Lợi ích khi niệm Phật Ý nghĩa của số hạt châu trên tràng hạt niệm Phật Nghe kinh niệm Phật là nhất đẳng hưởng thụ của đời người

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có đúng là tích cực niệm Phật thì sẽ trừ được ma ám không?

Lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất

Lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất, pha chút lãng mạn sẽ là lời chúc mà các bạn trai, bạn gái mong được nhận nhất
Lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh nhật người yêu chắc hẳn là ngày mà bạn mong chờ hồi hộp nhất? Bởi đây chính là dịp để bạn bày tỏ tình cảm sâu sắc của mình, là dịp để bạn chia sẻ cảm xúc và trao cho người yêu dấu. Lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất và pha chút lãng mạn sẽ là lời chúc mà các bạn trai, bạn gái mong được nhận nhất trong ngày sinh nhật của mình.

Xin gởi đến bạn một số câu chúc sinh nhật người yêu ngọt ngào, thú vị và lãng mạn sau đây. Dựa trên những gợi ý này, các bạn chỉ cần thể hiện theo “ngôn ngữ” của riêng hai người thì lời chúc sinh nhật đó sẽ thực sự tạo dấu ấn và đúng là chỉ có thể là người yêu của mình mới có.

Bộ sưu tập những lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất

Top 10 câu chúc sinh nhật hay dành cho bạn gái

Sáng nay tỉnh giấc… chợt nhớ nay là sinh nhật em. Lại thêm một chiếc lá vàng rơi nữa rùi ^^. Ai bảo thêm tuổi là già nhỉ? Ngốc quá! Thêm tuổi là thêm nhiều yêu thương. Chúc em sinh nhật thật vui. Yêu em <3 <3

———-

Nhân dịp sinh nhật lần thứ… của em, chúc em luôn tươi khỏe, trẻ đẹp. Cầu mong những gì may mắn nhất, tốt đẹp nhất và hạnh phúc nhất sẽ đến với em trong tuổi mới.

Hôm nay không như ngày hôm qua, hôm nay là một ngày đặc biệt, là ngày mà một thiên thần đáng yêu đã có mặt trên thế giới cách đây… năm. Chúc…….. mừng………. sinh ……….nhật …. !

Ngày sinh nhật em, anh chúc em luôn khỏe mạnh, tươi trẻ và công tác tốt, mãi mãi là tình yêu vĩ đại nhất của đời anh.

Chúc em luôn ấm áp, cả bên trong lẫn bên ngoài, anh yêu em nhiều lắm. Chúc mừng sinh nhật người yêu bé nhỏ của anh

Tuổi mới mau ăn chóng lớn nhé lợn con bé bỏng của anh, ụt ụt xuất chuồn thôi…….

Chúc em sinh nhật vui vẻ, 1 ngày lượm được cọc tiền, 1 tuần lượm được túi tiền, 1 tháng lượm được va li tiền, cả năm ôm tiền mà ngủ. Hehe!

Cuộc đời này của anh gắn chặt với em mất rồi…
Sinh nhật năm nay năm sau, 10 năm sau hai mươi năm sau 50, 100 năm sau em vẫn mãi là ngọn nến lung linh trong lòng anh.

Chúc mừng sinh nhật người yêu nhất và ngoan hiền dịu ngọt nhất của tôi. Cuộc sống buồn tẻ biết bao nếu vắng em.

Nhân ngày sinh nhật, anh chúc em nhan sắc “quyết liệt” thăng hoa, tiền tài ào ào thăng tiến và tình yêu “tưng bừng” bùng nổ.

Top 10 câu chúc sinh nhật hay dành cho bạn trai

Những lời nói hành động của anh đã ở tận sâu trong trái tim em, và em thấy những kỉ niệm của mình ngọt ngào và ấm áp theo thời gian. Em hy vọng những kỉ niệm đó sẽ còn mãi. Hơn thế nữa em mong muốn mình sẽ còn được dự nhiều lần sinh nhật của anh như thế này. Trong con mắt của em anh là người hoàn hảo nhất. Chúc mừng sinh nhật anh! Happy birthday to my love!

Chúc tình yêu của em một ngày tràn ngập những quà tặng, những lời chúc, nhưng nụ hôn thì chỉ nhận được một cái thôi nhé. Và đó là của em. Chụt chụt.

Anh biết không, trái đất đang ngừng xoay 1 giây để chúc mừng sinh nhật anh đó.

My love! Em đã yêu anh từ khi em chưa ra đời. Chúc anh có được đầy tràn tình yêu của em.

Nếu không có ngày này thì có lẽ em cũng không có được anh. Happy birthday to mylove…..!

Thông tấn xã tình yêu xin thông báo, chủ thuê bao 09xxx vừa nhận được 1 lời chúc mừng sinh nhật cùng 1 nụ hôn gió từ thuê bao 09xxx. Happy birthday to my honey.

Em chúc anh ấm ấp, cả bên trong lẫn bên ngoài (hihi). Vì em luôn yêu anh, yêu anh nhiều lắm. Chúc mừng sinh nhật người yêu của lòng em!

Chúc mừng sinh nhật người em yêu nhất! Cầu mong những gì may mắn nhất, tốt đẹp nhất và hạnh phúc nhất sẽ đến với anh.^^ Cuộc sống buồn tẻ biết bao nếu vắng anh.Vì không ai chở em đi chơi nè… hihi

Cảm ơn mẹ đã “sinh ra” anh trên đời này, nếu không thì nụ hôn này em biết gửi tặng ai đây…Chúc mừng sinh nhật anh yêu!!!

Đặc biệt, nếu nửa kia của bạn là “tín đồ” của ngoại ngữ, bạn hãy chuẩn bị cho người ấy lời chúc bằng tiếng Anh lãng mạn không kém sau đây nhé:

Thinking of you with love on your birthday and wishing you everything that brings you happiness today and always.

It is not being in love that makes me happy but it is being in love with YOU that makes me happy

Thinking of you with love on your birthday and wishing you everything that brings you happiness today and always

This present is not valuable itself, but it is a souvenir heroto, it brings all most my warm sentiment. happy birthday to you.

Darling ! on occasion of you birthday, wishing you success more. Hoping that you will love me forever same as the first time and you are always besides me.

Trên đây là tổng hợp những lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất, hy vọng sẽ giúp bạn gửi những lời yêu thương của mình đến nửa kia. Chúc hai bạn luôn hạnh phúc bên nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc sinh nhật dành tặng người yêu hay và ý nghĩa nhất

Sao Quả Tú

Hành: Thổ Loại: Ám Tinh Đặc Tính: Cô đơn, ít giao thiệp, làm giảm sự thuận lợi trong việc hôn nhân Tên gọi tắt thường gặp: Quả Phụ...
Sao Quả Tú

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThổLoại: Ám TinhĐặc Tính: Cô đơn, ít giao thiệp, làm giảm sự thuận lợi trong việc hôn nhânTên gọi tắt thường gặp: Quả
Phụ Tinh. Thuộc sao bộ đôi Cô Thần và Quả Tú. Gọi tắt là Cô Quả.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Mệnh
Tính Tình

  • Tính cô độc, lạnh lùng, khó khăn.
  • Ít giao du với bên ngoài.
  • Không thích giao thiệp với mọi người.
Phúc Thọ Tai Họa
Cô Thần chỉ sự cô đơn, chích bóng, nhất là đối với phái nữ. Đây là một yếu tố của sự góa bụa của phái nữ. Do đó, Cô Thần có hại cho hôn nhân, cho sự cầu hôn, cho sự đoàn tụ, chung sống của vợ chồng.
Ý Nghĩa Cô Thần Và Các Sao Khác
  • Quả Tú, Phục Binh: Bị nói xấu, bị gièm pha bởi tiểu nhân. Nói xấu, gièm pha người khác.
  • Quả Tú, Hóa Kỵ, Thái Tuế: Bị ghen ghét, ruồng bỏ, thất sủng.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ cô độc, vất vả. Nếu làm các ngành nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ, tinh tế thì phát triển, nổi tiếng.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Phúc Đức
  • Họ hàng ít người, nếu có nhiều thì cũng không ở gần.
  • Trong nhà có người cô độc, hoặc góa bụa.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Điền Trạch
  • Làm gì cũng có nhà, có chốn nương thân, số có tay cầm giữ về nhà đất, nhà đất vững bền.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Quan Lộc
  • Có nghề lạ, đặc sắc nhưng hay bị cạnh tranh, dèm pha, kèn cựa.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Nô Bộc
  • Không thích nghi với xã hội.
  • Ít bè bạn.
  • Giao thiệp một cách miễn cưỡng.
  • Thiếu hạnh phúc.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Thiên Di
Ra ngoài ít được ai giúp đỡ. Nhưng nếu có thêm sao tốt như Văn Xương, Văn Khúc, Tam Thai, Bát Tọa, Phong Cáo, Thiên Khôi, Thiên Việt, ra ngoài lại được mọi người mến chuộng về tài năng đặc biệt của mình.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Tật Ách
  • Hay bị mắc bệnh đường ruột, bệnh ở hậu môn, bệnh trỉ, bệnh hay tái đi tái lại.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Tài Bạch
  • Gìn giữ được tiền bạc, của cải vững chắc.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Tử Tức
  • Làm giảm số lượng con, ít con.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Phu Thê
  • Cô đơn, không được chiều đãi, cô độc, dù có vợ chồng nhưng vẫn thấy lẻ loi, thiếu tình thương.
  • Phải xa vợ, xa chồng một thời gian rất lâu.
Ý Nghĩa Quả Tú Ở Cung Huynh Đệ
  • Hiếm anh em, có thể là con một.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Quả Tú

Chuyện kể về Tô Tiểu Muội

Tô Tiểu Muội là một nữ nhi văn hoa thơ phú giỏi giang, tương truyền còn biết võ công, là em gái của Tô Đông Pha, một trong bát đại gia đường đời Tống
Chuyện kể về Tô Tiểu Muội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện kể về Tô Tiểu Muội, là em gái của Tô Đông Pha – một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đời Tống, được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.

Tại Châu Mi, thuộc Tứ Xuyên có một người họ Tô tên Tuần, tự là Minh Doãn biệt hiệu là Lão Tuyền. Ông ta là một nhà thông thái, có tiếng là học giỏi cho nên được người thời đó kính trọng và tôn là Lão Tô.

Lão Tô sinh được ba con, hai trai, một gái. Đứa con trai lớn là Đại Tô, tên Thức, tự Tử Chiêm, biệt hiệu là Đông Pha. Đứa con trai kế là Tiểu Tô, tên Triệt, tự Tử Do, biệt hiệu là Dĩnh Tấn. Cả hai đều nổi tiếng hay chữ, kinh luân nặng túi, thi phú đầy lòng. Anh em cùng đậu Tiến sĩ một khoa làm đến chức Hàn lâm học sĩ, nổi tiếng nơi triều đình.

Còn người con gái, tuy phận liễu bồ, song chữ nghĩa cũng không kém. Nàng tên là Tiểu Muội, tánh hay đọc, làm thơ, ngoài ra không còn dự vào công việc gì khác cả. Năm Tiểu Muội lên 16, Lão Tô cố kén rễ đông sàng, nhưng lựa mãi mà không có ai đáng mặt làm chồng cái cô nữ thi sĩ ấy.

Tể tướng cầu thân cho con trai

Bỗng một hôm, Tể tướng Kinh quốc công Vương An Thanh sai người mời Lão Tô sang dinh để uống rượu chơi.

An Thanh là một người nổi tiếng bậc đại hiền song có tánh kỳ dị, hàng tháng không rửa mặt, giặt áo, do đó Lão Tô cho là một kẻ “bất cận nhân tình” và đoán rằng lão này lúc đắc ý sẽ trở nên một gian thần phản quốc. Vì thế Lão Tô đã từng viết quyển “Biệt gian luận” để châm biếm. Lão An Thanh vẫn nuôi hận trong lòng, chờ cơn trả oán, nhưng về sau thấy hai đứa con của Lão Tô đều đổ tiến sĩ, làm đến chức Hàn lâm học sĩ nên đổi oán thành than.

Còn Lão Tô, thấy An Thanh nắm trong tay trọng quyền, nếu gây chuyện sợ hại đến đường tiến thủ của hai con mình nên cũng làm lành trong việc giao du.

Hôm ấy Lão Tô đến dinh. Tô Thanh hai người đang đối ẩm với nhau rất tương đắc, thì An Thanh khoe rằng ông ta có một đứa con trai, đọc sách chỉ đọc qua một lần đã thuộc lòng ngay.

Lão Tô đang lúc hứng chí, không nín được bèn nói :
— Hai đứa con trai tôi cho việc ấy là thường sự, cả đến đứa con gái tôi, coi qua một lần sách vở đều nhớ không sót một chữ nào.

An Thanh nghe nói mặt buồn dàu dàu nghĩ rằng :
— Như vậy tức là bao nhiêu tú ký My Sơn đã ung đúc vào nhà họ Tô cả.

Tô lão nói lỡ lời, trong lòng cũng hối hận, nên nói thêm qua loa vài câu nữa rồi cáo biệt ra về.

An Thanh sai tiểu đồng vào phòng học công tử lấy một quyển vở, thân đệ đến trước mặt Lão Tô nói :
— Đây là bài của cháu nó học, vậy hiền đại nhân chấm xem nếu có chỗ nào sơ suất phiền đại nhân chỉ bảo cho.

Tô Lão không từ chối, cất tập vở vào tay áo rồi ra về.

Về đến nhà ông ta cởi áo vào phòng ngủ khì. Khi tỉnh rượu mới sực nhớ đến câu chuyện ấy, và nghĩ rằng :
— An Thanh đưa vở của con trai y cho ta chấm, như thế là có ý cầu thân. Nhưng làm thân với người ta không muốn thực là một tai hại.

Tuy nghĩ thế, Tô Lão cũng lấy vở ra xem, quả trong đó văn chương tuyệt tác, thật là một đấng tài hoa.

Phúc động lòng vài tài năng, Tô Lão nảy ra một ý kiến, muốn thử lòng đứa con gái mình xem sao, bèn kêu a hườn đến bảo :
— Bài vở này của một chàng trai trình đệ ta phê chấm, nhưng ta bận việc, đưa nhờ tiểu thư của mi duyệt xem, xem xong phê vào đó rồi mang ra đây ngay.

Nói, Tô Lão vừa rọc bỏ cái tên Vương Nu trên mặt sổ, rồi trao cho a hườn.

Liễu hoàn, tên con a hườn của Tiểu Muội, cầm vở đi thẳng vào phòng thuật lại đúng như lời Tô Lão đã dặn.

Tô Tiểu Muội, tay cầm bút son, chấm phá một lúc rồi than rằng :
— Văn chương tuyệt tác song tú khí phát tiết đến tận cùng, e khó bề mà trường cửu.

Bèn cầm bút son phê trên mặt quyển :
— Tài này dùng để chiếm đoạt cao khoa có thừa xong hưởng tuổi trời chẳng đủ.

Tiểu Muội phê xong giao cho Liễu Hoàn kính trình thân phụ.

Tô Lão thoáng thấy lời phê của con gái mình, thất kinh, nói :
— Lời phê thế này nếu An Thanh mà trông thấy thì bất tiện lắm.

Nghĩ đi nghĩ lại, Tô Lão xé mặt quyển, đổi giấy, và viết lại một câu để làm vừa lòng An Thanh, rồi cho gia đinh đem sang nhà trả lại.

Chiều hôm sau, có một sai quan của Vương phủ đến thưa rằng :
— An tướng công, vì một tài đức của Tiểu thơ, nên cho tôi đến đây cậy lời mai mối, chẳng biết tôn ý ra sao ?

Tô Lão lựa lời từ chối khéo :
— Tướng phủ hạ cố cầu thân, tôi đâu chẳng dám tuân lời, song tiện nữ của tôi tài sơ, trí thiển, lại xấu xa, không xứng đáng với công tử đâu.

Sai quan về bẩm lại. An Thanh thấy mặt quyển đã đổi giấy, lại từ chối như thế, trong lòng không vui, song cũng bỏ qua câu chuyện hôn nhân.

Trong thời đó, ai ai cũng biết rằng nhà họ Tô, anh em trong nhà hay dùng văn chương thi phú mà trêu ghẹo lẫn nhau, cái tiếng ấy vang dội khắp cả vùng đều biết tiếng.

Ví dụ như Đông Pha râu rậm, Tiểu Muội nhạo rằng:

Khẩu đốc kỷ hồi vô mịch xứ,
Hốt văn mao là hữu thanh truyền
Dịch :
Mồm mép nơi đâu không thấy rõ
Bỗng nhiên râu vẳng tiếng truyền ra

Tiểu Muội trán dồ, Đông Pha nhạo lại rằng:

Vị xuất đồng trung tam ngũ bộ,
Ngạnh đầu trên đáo họa đường tiền
Dịch :
Trong sân chưa quá năm ba bước
Trước cỗng đã nhô chiếc trán dô

Tô Đông Pha mặt dài, Tiểu Muội nhạo rằng:

Khứ niên nhất điểm tương tư lệ,
Chí kim lưu bất đáo tư liên
Dịch :
Giọt lệ tương tư xưa chảy mãi
Đến nay gò má vẫn chưa qua

Tiểu Muội mắt sâu, Đông Pha nhạo lại:

Kỷ hồi thức lệ thâm nan đáo
Lưu thuốc uống dương lưỡng đạo truyền
Dịch :
Mắt sâu lệ chảy lau không tới
Linh láng đôi giòng mãi chẳng thôi

Tô Tiểu Muội thử chồng trong đêm động phòng

Các sĩ phu hay được tin tể tướng An Thanh cầu hôn cho con bất thành nên tấp nập đem văn đến cửa nhà họ Tô bán rao ầm ĩ.

Tô Lão truyền bắt bọn cầu thân xuất tĩnh văn bài đệ cho Tiểu Muội tự ý lựa chọn người chồng là tưởng.

Trong số bài vở rất đông, nhưng chỉ có một quyển Tô Tiểu Muội phê :
— Ngày nay tuy tú tài, ngày kia sẽ học sĩ. Rất tiếc hai Tô đồng thời nếu không hoàng bàng một thưở.

Tô Lão xem quyển, biết con gái mình vừa ý, bèn dở bìa quyển ấy xem thấy đề tên Tú tài Tần Quán.

Tô Lão lập tức truyền cho bọn gia nhân, hễ thấy tên Tần Quán đến thì mời vào.

Nhưng khốn thay, cái gã Tần Quán kia người quận Cao Đưu đất Dương Châu — tuy tài cao học rộng — cũng theo đòi thiên hạ, đem ngọc bán rao, song lại sợ tổn thương đến danh dự nên không cùng với mọi người đến ngưỡng cửa họ Tô chầu chực.

Tô lão thấy Tần Quán không đến, đành sai người đến ngọ sở tìm đón.

Tần Quán tuy trong lòng hí hửng muốn chọc ghẹo khách anh tài, nghe Tô Tiểu Muội tiếng tăm lừng lẩy, cũng muốn được cầu thân, song chưa thấy được dung nhan, lại nghe đồn trán nàng cao như núi, mắt thẳm tợ sông, trong lòng cũng ngan ngán, muốn kiếm dịp nào để gặp mặt, coi hơn thiệt thế nào rồi sẽ định.

Vừa lúc ấy chàng lại nghe tin đúng ngày mồng một tháng hai Tiểu Muội đến chùa dâng lễ.
Thế là dịp tốt. Ngày hôm đó thấy Tần Quán dậy thật sớm, ăn mặc nâu sòng, trá hình một tăng sĩ du phương, cổ đeo chuỗi hộc, đầu thắt khăn vải.

Trông vào gương, chàng ta mỉm cười tự nghĩ :
— Nếu mình đi tu thật thì chắc làm cho các bà vãi si mê không ít.

Chàng ta lấy làm tự đắc cho sắc đẹp của mình, ung dung bước đến chùa Đông Nhạc.

Giữa lúc đó, kiệu hoa của Tiểu Muội cũng vừa đi đến. Tần Quán trông thấy nàng, tuy mặt nàng không phải bực “chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, lỉnh da trời nhạn ngẩn ngơ sa”, nhưng chứa đựng một cái gì uy nghi, đoan chính.

Muốn thử chút tài năng, Tần Quán đứng đợi dâng hương xong, mới bước đến nói :
— Tiểu thư hữu phúc, hữu thọ, nguyện phát từ bi… (Tiểu thư có phúc, có thọ, xin mở lòng từ bi).

Biết chàng trai kia có ý ghẹo mình, Tô Tiểu Muội nối lời đáp :
— Đạo nhân hà đức, hà năng cảm cầu bố thí ? (Đạo nhân có đức, có tài gì mà dám xin bố thí ?) Tần Quán nói tiếp :
— Nguyện tiểu thư, thân như được thụ, bách bệnh bất sinh… (Cầu chúc tiểu thư mình như cây thuốc, trăm bịnh không sinh).

Tiểu Muội vừa bước đi, vừa quay đầu lại đáp :
— Tùy đạo nhân khâu thổ liên hoa, bán văn vô cả (Dù đạo nhân miệng nở hoa sen, nửa đồng không có).

Trần Quán nói thêm :
— Tiểu nương tử nhất thiên hoan hỷ, như hà triết thủ bảo sơn ? (Tiểu nương tử một trời hoan hỉ, tại sao lại khép non vàng ?) Tiểu muội bồi thêm một câu :
— Phong đạo nhân điểm địa tham si, ma đắc tùy thân kim huyệt (Phong đạo nhân lắp đất tham si, đâu được thâu vào hang bạc).

Đáp xong câu ấy, Tiểu Muội bước lên kiệu.

Các nhà sư trong chùa đi theo đưa Tiểu Muội được nghe các lời đối đáp ấy, lấy làm lạ, chẳng hiểu tên đạo nhơn nào, từ đâu đến mà lại sỗ sàng như vậy.

Vừa định quay lại để trách cứ thì tên đồng tử đến bên người đạo nhân kia, kính cẩn nói :
— Xin công tử về nhà thay áo.

Chờ người đạo nhân đi khỏi, người giữ chùa hỏi nhỏ đồng tử :
— Người đó là ai thế ?

Đồng tử đáp :
— Đó là công tử Tần Quán, tự là Thiếu Du, một danh tài ở đất Dương Châu, ai ai mà chẳng biết…

Người giữ chùa nghe nói thất kinh, đem chuyện ấy thuật lại với một người trong chùa. Và chẳng bao lâu, tiếng ấy đồn khắp đó đây.

Thiếu Du thấy nhan sắc Tiểu Muội không đẹp nhưng mặn mà, đem lòng kính mến, liền đến nhà Tô Lão để cầu thân.

Tô Lão nhận lời. Thiếu Du lập tức đem nạp đồ sính lễ.

Lúc bấy giờ, vào đầu tháng hai. Tần Thiếu Du nóng thành hôn, nhưng Tiểu Muội xem văn, đoán biết khoa thi này, thế nào Thiếu Du cũng đậu tiến sĩ, muốn rằng vị tân lang của mình, ít ra ngày họp cẩn cũng có bào gấm hia thêu, nên thưa với Tô Lão xin hoãn cuộc thành hôn lại đã.

Kịp đến mồng ba tháng ba, triều đình mở khoa thi kén chọn nhân tài, Tần Thiếu Du quả nhiên thi đậu, bảng vàng đề tên.

Khoa thi đã đỗ, Tần Quán lại càng nóng lòng cưới vợ, vội vã đến xin làm lễ cưới ngay ngày hôm ấy.

Tô Lão thấy chàng rễ mình quá bôn bức, cười xòa, và nói :
— Ngày hôm nay yết bảng ắt là ngày lành, vậy ta cho nghĩa tế thành hôn tại tệ xá trong đêm nay có được chăng ?

Còn gì mừng rỡ hơn nữa. Tần Thiếu Du lạy tạ đền ơn…

Đêm ấy trời trăng vằn vặc, bầu trời trong suốt, gieo vào lòng người một tâm hồn man mác, như muốn giúp cho đôi tình nhân văn học một nguồn cảm giác xa xuôi.

Sau khi dự tiệc, Thiếu Du toan bước vào động đào để xem hoa nở, thì thấy cửa phòng tiểu thơ đóng kín, trước cửa có để một bàn án nhỏ, đủ cả văn phòng từ bửu, lại có thêm ba phong thơ và ba cái chén : một chén ngọc, một chén vàng, và một chén bằng sứ.

Thấy con Liễu Hoàn đứng lấp ló, Tần công tử tưởng nó chực mở cửa cho mình, bèn nói :
— Vào báo cho tiểu thơ biết, tân lang đã đến sao không chịu ra mở cửa ?

Liễu Hoàn cung kính đáp :
— Tiện tỳ tuân lệnh tiểu thơ ra đây để nhắc cho công tử rõ rằng trên án thư có ba đề mục, nếu đáp trúng cả ba, tôi xin mở cửa ngay.

Thiếu Du nói :
— Ba cái chén ấy dùng đựng gì thế ?

Nữ tỳ đáp :
— Chén ngọc đựng rượu, chén vàng đựng trà, chén sứ đựng nước lã. Nếu trúng cả ba đề mục tôi sẽ dùng chén ngọc dâng ba lần rượu trước khi mở cửa vào phòng ; nếu chỉ đáp trúng hai đề mục thì tôi dùng chén trà dâng một chén nước để công tử giải khát, chờ đến đêm mai sẽ lại ; còn nếu đáp trúng một đề mục thì tôi sẽ dâng cho công tử một chén nước lã và phạt ở ngoài hiên đọc sách ba tháng.

Thiếu Du nghe xong, trong lòng hậm hực, nhưng không biết phải làm sao, chẳng lẽ từ chối cuộc chơi ấy thì còn gì là một trượng phu, nên gượng cười đáp :
— Nơi chốn trường thi, ngàn vạn anh tài tranh đoạt, thế mà ta còn chưa sợ thay, huống chi ở đây chỉ là một đề thi thử thách, đâu có đáng kể !

Liễu Hoàn cũng không vừa, nghe Tần Quán tự phụ như vậy, vội nói ngay :

— Tiểu thơ của tôi không thể ví với các khảo quan, chỉ lôi những sáo cũ ra mà lòe thí sinh. Ở đây có ba đề mục. Thứ nhất là bốn câu, công tử phải trả lời bằng 4 câu thơ ẩn nghĩa của bài thơ xướng là đúng. Thứ hai cũng là bốn câu thơ, trong đó có bốn danh nhân thời cổ, công tử biết đặng bốn tên ấy, mà trả lời thì đúng. Thứ ba, đề tài này dễ hơn, công tử chỉ phải đối một vế câu đối bảy chữ mà thôi.

Nói xong, Liễu Hoàn kính cẩn dâng cho Tần Quán một phong thư. Tần Quán bóc thư ra, thấy bốn câu thơ viết trên một tờ hoa tiên.

Đồng thiết đầu hồng dã
Lâu nghĩ thướng phấn tường
Âm dương vô nhị là
Thiên địa ngã trung ương…

Đồng thiết quặn lò lớn : ẩn nghĩa chữ “hóa” Ong kiến lên tường vôi : ẩn nghĩa chữ “duyên” Âm dương không hai đường : ẩn nghĩa chữ “đạo” Giữa trời đất có ta : ẩn nghĩa chữ “nhân” Thiếu Du xem xong mỉm cười và nghĩ thầm :
— Theo người khác thì khó thực, nhưng ta, ta là người đã giả đạo nhân để ghẹo nàng trước kia, nay nàng lại làm một đề thơ có hàm ý chữ “hóa duyên đạo nhân” thì chẳng khó khăn gì, ý nàng muốn trêu ta về câu chuyện ở chùa hôm nọ.

Nghĩ xong, bèn lấy bút viết bài thơ trả lời :

Hóa công hà ý bả xuân thôi
Duyên đáo danh vên hoa tự khai
Đạo thị xuân phong chân hữu chu?
Nhân nhân bất cảm thướng hoa đài

Dịch :

Hóa công sao khéo giục xuân hoài
Duyên đến vườn thơm hoa tự khai
Đạo ấy, giờ xuân đà có chu?
Nhân nhân, ai dám tới hoa đài

Liễu Hoàn thấy Thiếu Du viết xong, vội vã tiếp lấy đem vào trình cho Tiểu Muội.

Tiểu Muội xem qua mỉm cười nói :
— “Hóa duyên đạo nhân” ý ! ra cũng giỏi đấy.

Thiếu Du lại giở phong bì thứ hai, thấy trong đó cũng một bài thơ đề :

Cường gia thắng tổ hữu thi vi
Tạc bích thâu quang dạ độc thư
Phùng tuyến lộ trung thường ức mẫu
Lão ông chung nhật ỷ môn lư

Dịch :

Con lại hơn cha chẳng kẻ bì,
Dục tường mượn sáng đọc bài thi
Vá may buồn bã thường trông me.
Tựa cửa lão ông đợi suốt ngày

Câu “Cường gia thắng tổ” nghĩa là “Tôn Quyền” “Tạc bích thâu quan” nghĩa là “Khổng Minh” “Thường ức mẫu” nghĩa là “Tử Tư” “Lão ông tựa cửa” nghĩa là “Thái Công Vọng” Thiếu Du xem xong lấy bút đền liền bốn tên ấy với những lời chú giải.

Liễu Hoàn lại tiếp lấy đem vào dâng cho Tiểu Muội xem, Tiểu Muội cũng chắc lưỡi khen thầm.

Đã trả lời được hai đề thi khó khăn rồi, bây giờ đến đề thi thứ ba là một câu đối. Thiếu Du thở ra khoan khoái, tưởng chừng như mình sắp được vào phòng rồi, mặt mày hớn hở, bóc đề bài thứ ba ra xem; trong ấy viết :

Bế môn, suy xuất song tiền nguyệt

Khi mới đọc xong, Thiếu Du cho là một vế đối rất dễ, nhưng lòng anh chàng lúc này đã quá nóng nảy, ý tứ không còn tập trung nữa, tâm hồn như đang lạc loài trong cõi mộng thần tiên, thành thử nghĩ hoài mà không ra ý.

Giữa lúc đó Đông Pha chưa ngủ, biết rằng đêm hợp cẩn thế nào đứa em gái mình cũng “chơi ác” để làm khốn vị tân lang, bèn đến gần khuê phòng nghe ngóng. Vừa đến nơi, thấy Thiếu Du chắp tay thơ thẩn mãi trong sân, miệng lẩm bẩm câu :

Bế môn, suy xuất song tiền nguyệt

Đông Pha mỉm cười, tự bảo :
— Đúng rồi ! Cô em gái mình đang đưa vế đối ấy để làm khó dễ vị tân lang của hắn ; ý muốn giúp đỡ cho Thiếu Du một chút cho xong chuyện, xong sợ Thiếu Du tự ái, chẳng biết phải làm sao. Đông Pha suy nghĩ một lúc rồi lượm một hòn đá nhỏ ném vào mặt hồ gần đấy.

Nước trong hồ đang im lìm trong giấc ngủ, bỗng cau mày, vừng trăng tan rã ra từng mảnh, nước bắn vào mặt Thiếu Du.

Như chiêm bao sực tỉnh, Thiếu Du hội ý, chạy vào án thư cầm bút đối rằng :

Đầu thạch xung khai tỉnh để thiên
(Ném đá vỡ trời tung đáy nước)

Để đối với câu của Tiểu Muội :

Bế môn suy xuất song tiền nguyệt
(Đóng cửa đùa trăng ra trước sân)

Liễu Hoàn vừa nạp bài thi chót vào cho Tiểu Muội chưa bao lâu, thì bỗng “kẹt” một tiếng, cánh cửa “động đào” mở rộng, một tên tùy nữ từ bên trong bước ra, tay dâng chén ngọc đầy rượu và nói :
— Thật là một đấng tài hoa. Tiểu thơ tôi xin mời công tử cạn ba chén.

Thiếu Du đắc ý uống liền. Uống xong, bên trong lại có hai con tùy nữ khác bước ra, kính cẩn đưa chàng vào phòng huê chúc.

Mối tình giai nhân tài tử thấm thía vô cùng…

Một thời gian sau, vì tài năng lừng lẫy, Thiếu Du được triều đình bổ nhậm đến chức Hàn Lâm học sĩ. Còn Tô Tiểu Muội thanh danh càng ngày càng lừng lẫy, được Hoàng thái hậu mời vào cung để xướng họa suốt ngày đêm.

Về sau, Tiểu Muội mất sớm, Thiếu Du thương tiếc quá, không tục huyền, giữ mãi mối tình thơ, gói trong niềm ân ái, đến chết vẫn chưa phai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện kể về Tô Tiểu Muội

Phòng ngủ nên sơn màu nào để có giấc ngủ sâu?

Trong phong thủy, màu sơn của phòng ngủ có một yếu tố kích thích giấc ngủ. Cũng theo các nhà nghiên cứu màu xanh dương đã từ lâu gắn liền với cảm giác bình yên giúp giảm huyết áp và nhịp tim để chúng ta ngủ sâu hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu xanh dương

Các nhà nghiên cứu cho rằng đó là do màu xanh dương từ lâu đã gắn liền với cảm giác bình yên – màu nước, màu bầu trời… là tông màu giúp chúng ta thư giãn trước khi chìm vào giấc ngủ.


Ngoài ra, màu xanh da trời hay xanh nước biển còn được cho là giúp giảm huyết áp và nhịp tim, để chúng ta ngủ sâu hơn. Hơn một nửa số người được hỏi có phòng ngủ màu xanh dương cho biết họ thường thức dậy vào buổi sáng trong tâm trạng rất vui vẻ và thoải mái.

Màu vàng

Các tông màu vàng xếp thứ hai trong việc thúc đẩy giấc ngủ ngon hàng đêm: trung bình 7 tiếng 40 phút mỗi đêm.

Phong ngu nen son mau nao de co giac ngu sau? - Anh 2

Màu vàng ấm áp sẽ giúp cơ thể chúng ta thư giãn hơn bằng cách tác động vào hệ thần kinh và xoa dịu tâm trạng lo lắng, phiền muộn.

Màu xanh lá cây

Màu xanh lá cây cũng mang lại cảm xúc thư thái và dễ chịu, đó là lý do tại sao gam màu này là gam màu đứng thứ ba trong việc giúp chúng ta ngủ nhiều hơn.

Phong ngu nen son mau nao de co giac ngu sau? - Anh 3

Những người ngủ trong các căn phòng màu xanh lá cây có giấc ngủ đêm kéo dài khoảng 7 tiếng rưỡi, và 22% trong số họ nói rằng họ thức dậy lúc bình minh với tâm trạng “lạc quan và tích cực”.

Màu bạc dịu nhẹ

Phòng ngủ màu bạc dịu nhẹ cũng có tác dụng tương tự với giấc ngủ như màu xanh lá cây, với thời gian ngủ trung bình của các chủ nhân là 7 tiếng rưỡi mỗi đêm.

Màu sơn bạc trông giống như ánh trăng, khiến não chúng ta nhận biết rằng đã đến đêm và đến lúc cho cơ thể nghỉ ngơi và chìm vào giấc ngủ. Ngoài ra, một số người tham gia khảo sát còn nói rằng họ cảm thấy có động lực tập thể dục trong những phòng ngủ màu bạc.

Màu cam

Những người thường ngủ trong căn phòng màu cam lại ngủ ít hơn một chút, trung bình 7 tiếng 28 phút mỗi đêm. Tông màu ấm này cũng tạo ra một bầu không khí “ổn định và vỗ về, ngoài ra còn giúp ích cho quá trình tiêu hóa nữa, đặc biệt là nếu bạn ăn tối muộn hoặc ăn quá nhiều” - nghiên cứu cho biết.

Phong ngu nen son mau nao de co giac ngu sau? - Anh 4

Màu cam cũng được cho là giúp chúng ta thư giãn cơ bắp, do đó cảm thấy buồn ngủ nhanh hơn. Những người làm trong ngành ngân hàng và bất động sản có xu hướng chọn phòng ngủ màu vàng và cam nhiều hơn.

Màu xám và nâu

Mặc dù khá giống với màu bạc, nhưng tông màu xám lại có vẻ không hỗ trợ nhiều cho giấc ngủ bằng màu bạc. Những người được hỏi ngủ trong phòng màu xám chỉ ngủ trung bình 6 tiếng 12 phút mỗi đêm. Ngoài ra, những người này còn dành rất nhiều thời gian mua hàng online ngay trên giường ngủ!

Màu xám và màu nâu có vẻ hơi ảm đạm và u ám, đặc biệt là nếu được sử dụng nhiều trong phòng ngủ, và có thể khiến chủ nhân cảm thấy bị cô lập về mặt cảm xúc và không thực sự thoải mái, dẫn đến ngủ không ngon giấc.

Những người có phòng ngủ màu nâu, màu kem hoặc trắng thường có xu hướng “nghiện việc” hơn và có thể mang công việc lên tận… giường ít nhất ba lần mỗi tuần. Đa số họ là những người làm nghề bán hàng.

Màu tím

Màu tím dường như là màu “tệ hại” nhất cho giấc ngủ. Trung bình, những người tham gia khảo sát ngủ trong các căn phòng màu này chỉ ngủ chưa đầy 6 tiếng mỗi đêm.

Phong ngu nen son mau nao de co giac ngu sau? - Anh 5

Mặc dù khá thanh lịch, sang trọng và nghệ thuật, nhưng màu tím lại có vẻ kích thích tinh thần hơi thái quá. Những người vừa có một ngày bận rộn khi trở về với căn phòng ngủ màu tím sẽ khó thoát khỏi tâm trạng căng thẳng để chìm vào giấc ngủ.

Màu caramel

Nhưng có lẽ điều thú vị nhất của nghiên cứu này là những cặp vợ chồng có phòng ngủ trang trí tông màu caramel là những cặp có tần suất “ân ái” nhiều nhất, trung bình 3 lần mỗi tuần.

Các nhà nghiên cứu không đưa ra lý do tại sao, nhưng phải chăng tông màu này gợi nhớ tới những thanh socôla và kẹo đường ngọt ngào, khiến họ cảm thấy hứng thú hơn với chuyện “chăn gối”?

Phong ngu nen son mau nao de co giac ngu sau? - Anh 6

Còn những phòng ngủ màu đỏ chỉ là nơi diễn ra “chuyện ấy” trung bình một lần mỗi tuần. Có lẽ họ nên dùng thêm những bóng đèn màu caramel chăng?

Theo Nhật Linh (tổng hợp) / Gia đình Việt Nam


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng ngủ nên sơn màu nào để có giấc ngủ sâu?

Chuyện tình của vợ chồng Tổng thống Obama qua ảnh

Vợ chồng Tổng thống Obama luôn tay trong tay rạng ngời hạnh phúc mỗi khi xuất hiện trước công chúng là hình ảnh đẹp khiến nhiều người ngưỡng mộ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ông Obama gặp bà Michelle Robinson tháng 6/1989 khi còn là sinh viên Đại học Havard và mới bắt đầu vào làm việc tại Hãng luật Sidley Austin ở Chicago.


Một người bạn của ông Obama kể lại rằng, ông đã bị quyến rũ ngay khi gặp bà Michelle.


Bà Michelle khi đó không hề có ý định hẹn hò với đồng nghiệp dù nghĩ rằng ông Obama “dễ thương”. Mặc dù vậy, ông Obama quyết không bỏ cuộc.


Sự quyết tâm của ông Obama đã mang lại kết quả. Sau thời gian yêu nhau, hai người kết hôn vào tháng 10/1992.


Tổng thống Obama từng cho biết bà Michelle là cố vấn quan trọng nhất của ông. “Tôi chưa từng đưa ra quyết định lớn nào mà không hỏi ý kiến vợ”, ông Obama tiết lộ.


Bốn năm sau đám cưới, ông Obama trở thành một thượng nghị sĩ ở bang Illinois. Sóng gió bắt đầu nổi lên giữa hai con người đều thông minh và có tính cách mạnh mẽ.


Khi hai vợ chồng Tổng thống Obama sinh cô con gái đầu lòng Malia vào năm 1998, tình hình không khá hơn. Ông Obama liên tục vắng nhà vì công việc nghị sĩ, và bà Michelle cho rằng ông đang uổng phí năng lực cho sự nghiệp chính trị không đi đến đâu.


Sự căng thẳng dâng cao đến độ một số người bạn tiết lộ sau tám năm kết hôn, đã có thời điểm ông bà Obama nghĩ đến chuyện ly hôn.


Bước ngoặt của gia đình họ đến hồi tháng 9/2001 khi cô con gái Sasha mới 3 tháng tuổi mắc bệnh viêm màng não. Ông bà Obama ngồi bên giường bệnh con gái suốt 72 giờ để cùng con chiến đấu chống lại tử thần.


Sau khi con gái chiến thắng bệnh tật, gia đình Obama cũng vượt qua được khó khăn và sự nghiệp của ông Obama bắt đầu thăng hoa. Tháng 7/2004, ông Obama gây chấn động khi đọc bài phát biểu mạnh mẽ ở đại hội Đảng Dân chủ tại Boston.


Ông Obama trở thành một ngôi sao chính trị được nhiều người hâm mộ. Trong mỗi bước đi của ông, người ta đều thấy bóng dáng của bà Michelle.


Vợ chồng Tổng thống Obama kỷ niệm 20 năm ngày cưới.


Ông Obama hôn bà Michelle say đắm trước ống kính máy quay khi dự khán một trận đấu bóng.


Bà Michelle dành cho chồng một cái ôm thật chặt sau bài diễn thuyết của Tổng thống.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tình của vợ chồng Tổng thống Obama qua ảnh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd