Tướng xương hậu chẩm |

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác |
![]() |
Văn Khấn Lễ Thần Thổ Công dùng để dâng lễ vị thần trông coi, cai quản trong nhà, định sự họa phúc cho mọi gia đình, thường được gọi là Đệ nhất gia chi chủ. Nhờ có vị thần này nên các hồn ma quỷ không xâm nhập được vào nhà để quấy nhiễu gia đình.
Bàn thờ Thổ công không chỉ thờ một vị, mà thờ ba vị thần với ba danh hiệu khác nhau. Trong bài vị người ta để danh hiệu của cả ba vị thần này, mỗi vị trông coi một việc khác nhau.
– Thổ Công: trông coi việc bếp núc.
– Thổ Địa: trông coi việc nhà.
– Thổ Kỳ: trông nom việc chợ búa cho phụ nữ, hoặc việc sinh sản các vật ở vườn đất.
Bài vị của ba thần được lập chung và viết như sau:
– Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân,
– Bản gia Thổ địa Long Mạch Tôn Thần,
– Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ Phúc đức chính thần.
Mỗi gia đình có riêng một Thổ công. Hàng năm các Thổ công này được thay thế vào ngày 23 tháng chạp (gọi là ngày ông Táo lên trời). Vào ngày này gia đình sửa lễ cúng ông Công , rồi đốt bài vị cũ, thay bài vị mới.
Mũ Thổ Công:
– Mũ Thổ Công là một cỗ gồm ba chiếc: 1 mũ đàn bà và 2 mũ đàn ông không có hai cánh chuồn. Nếu thờ 3 chiếc là thờ đủ mũ cho ba vị thần còn nếu thờ 1 mũ thì đó là mũ Thổ Công.
– Mũ được làm bằng giấy, mũ thường đi kèm với một chiếc áo và một đôi hia. Dưới mũ đặt 100 thoi vàng giấy.
– Mũ, áo, hia mỗi năm một màu hợp với ngũ hành: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ (trắng-xanh-đen-đỏ-vàng) mỗi năm có một hành riêng, mỗi hành có một màu nhất định:
+ Năm có hành Kim: cúng mũ màu trắng.
+ Năm có hành Mộc: cúng mũ màu xanh.
+ Năm có hành Thủy: cúng mũ màu đen.
+ Năm có hành Hỏa: cúng mũ màu đỏ.
+ Năm có hành Thổ: cúng mũ màu vàng.
Cũng như bài vị Thổ Công, hàng năm mũ cũng được đem hóa vào ngày tết Táo quân và được thay cỗ mũ khác để thờ cho đến tết Táo quân năm sau.
– Cúng vào ngày giỗ Tết, Sóc Vọng. Có thể cúng chay hoặc mặn.
– Trong ngày Sóc Vọng, ngày mồng Một, ngày Rằm, các gia đình thường cúng chay; đồ lễ gồm: giấy vàng, bạc, trầu, nước, hoa quả. Tuy vậy, cũng có gia đình cúng mặn có thêm các đồ: rượu, xôi, gà, chân giò….
– Những khi làm lễ cúng Gia tiên, bao giờ cũng cúng Thổ Công trước. Khấn cầu sự phù hộ của Thổ Công cũng giống như khấn Gia tiên. Mặc dù gọi là cúng Thổ Công, nhưng khi cúng phải khấn đủ các Thần linh ghi trong bài vị.
Tết Thổ Công:
– Thổ Công là vị thần có nhiệm vụ ghi chép mọi việc tốt xấu xảy ra trong mỗi gia đình. Lễ cúng Thổ Công quan trọng nhất là ngày tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp (còn gọi là tết ông Công).
– Trong ngày lễ này, sau khi cúng xong, Thổ Công lên chầu Thượng Đế để báo cáo những điều tai nghe, mắt thấy ở trần thế mà mình đã ghi chép được. Còn các gia đình sẽ hóa vàng, mũ, áo, hia của năm trước đổ tro ra sống và phóng sinh cho con cá chép để cho ông cưỡi lên trời. (quan niệm dân gia cho rằng: cá chép sau khi được phóng sinh sẽ hóa thành rồng để cho ông Táo cưỡi.).
Văn khấn Thổ Công sau đây được dùng cho cả năm tùy theo cúng vào lúc nào mà thay đổi ngày tháng cho phù hợp.
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
– Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
Tín chủ là………………………………………………………………
Ngụ tại………………………………………………………………….
Hôm nay là ngày……….tháng……..năm………………………….
Tín chủ con thành tâm sắm sửa hương, hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả, bầy ra trước án. Đốt nén hương thơm kính mời: ngày Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn thần, ngài Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
Cúi xin các Ngày thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con tòan gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Mỗi nốt ruồi trên khuôn mặt đều mang ý nghĩa khác nhau, từ đó có thể đoán ra tính cách, số phận của mỗi con người.
Ý nghĩa của các nốt ruồi trên khuôn măt. Những nốt ruồi tốt hay xấu dự báo điều gì? Hãy cùng tuvikhoahoc khám phá điều này.
1- Số làm mệnh phụ,
2- Thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ,
3- Hại cha mẹ,
4- Không người phục dịch,
5- Có từ hai đời chồng, sanh con ít,
6- Hại người thân,
7, 15, 19, 27.37-Hại chồng,
8- Chết xa nhà,
9- Bị chồng phụ tình bỏ rơi,
10- Sanh khó.
11- Có tài lộc,
12- Chồng thường xa nhà,
13, 17- Vượng phu ích tử,
14- Số có “thiên la địa võng” giăng coi chừng tù tội,
16- Tay làm hàm nhai,
18- Được nhờ con,
20- Sống thọ.
21- Bị cướp giật nhiều lần,
22- Gặp nhiều việc tốt,
23- Tính lăn loàn,
24- Sanh ít con,
25- Mới sinh ra thường hay bệnh,
26- Mọi việc thất bại,
28- Số sát phu, tình duyên lận đận,
29- Hiếu thảo với cha mẹ, hay giúp đỡ anh chị em,
30- Biết nhường nhịn chồng con.
31- Có tư tưởng tự tử,
32- Hay ganh tỵ với kẻ khác,
33, 41- Đề phòng tai nạn đường sông nước,
34- Có số sinh đôi, sinh ba,
35- Có hư thai,
36- Tai tiếng thị phi,
38- Đày đọa đầy tớ vì ghen tuông,
39- Gặp tai nạn tại nhà, 40- Hay bệnh hoạn,
42- Sát Phu và 43- Khôn vặt.
Đây là xem tướng số nốt ruồi của phụ nữ , vậy tướng số nốt ruồi của đàn ông thế nào, bạn hãy cùng xemtuvi khám phá nhé.
Địa điểm các nốt ruồi mọc còn rất nhiều nơi trên thân thể, các sách cổ tướng học có ghi :
– Lưu Bang (nhà tiền Hán) có đến 72 nốt ruồi đen mọc nơi đùi trái, nên từ kẻ thất học trở thành Hoàng đế nước Trung Hoa sau thời kỳ Tần Thủy Hoàng.
– Tướng An Lộc Sơn thời nhà Đường, dưới lòng bàn chân đều có nốt ruồi đen. Trở thành tướng tài nhưng cũng lụy vì tình mà chết dưới chân Dương Quý Phi.
– Võ Tắc Thiên hậu Chu, người phụ nữ đầu tiên của nước Trung Hoa, nắm giang sơn xã tắc trong nhiều năm dài là nhờ có 7 nốt ruồi son mọc bên sườn trái (có sách nói bên vú trái).
Có một số nốt ruồi mọc nhưng trong sách tướng pháp ít không nói đến, tuy vậy các nhà tướng số vẫn đưa ra những lời giải thích :
Nốt ruồi mọc ở Cao Quảng số hại cha mẹ; ở Phụ giác, Kiếp môn, Hổ giác chủ về chết trận, chết vì gươm đao, tên bay đạn lạc; ở Biên địa, Xích dương, Ngư vĩ chủ về chết đường chết chợ; ở Sơn lâm, Thanh lộ đi đường bị súc vật làm tổn hại thân thể; ở Thái dương chủ về số có chồng hay vợ chung thủy, giàu sang; ở Phu tòa, Thuê tòa chồng hay vợ chết sớm; ở Trưởng nam, trung nam và thứ nam cha mẹ khắc con trưởng, con thứ; ở Kim quỹ gặp tán gia bại sản; ở Thượng mộ mất chức quyền; ở Học đường là người thất học; ở Mạng môn chủ về hỏa tai đề phòng cháy nổ v.v…
Sao hạn được dùng khá phổ biến trong lịch pháp Phật giáo để phối với ngày hoặc định cát hung. Có 9 ngôi sao (gồm Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức, Thổ tú, La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô) dùng phối năm xem vận mệnh con người.
Người xưa cho rằng có mối liên hệ giữa thiên thể (9 sao) với con người. Người đời sau cho thêm nhiều quan điểm rắc rối khác vào nên dễ bị đánh đồng với mê tín. Cần có cái nhìn biện chứng hơn về phương pháp này.
Quan niệm về sao
Cùng một tuổi, cùng một năm nam giới và phụ nữ có sao khác nhau, luân phiên theo 9 sao. Trong năm nếu gặp sao tốt, xấu hay trung bình sẽ gặp những chuyện tương ứng với sao đó. Cát hung (tốt xấu) của các sao như sau:
Sao tốt: Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức
Trung bình: Thổ tú
Sao xấu: La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô
Cụ thể:
- Sao La hầu (Kim, xấu): Chủ về buồn rầu. Nam dễ kiện tụng chốn quan trường; nữ dễ đau buồn, lo lắng. Đây còn là sao về khẩu thiệt thị phi, hay mang đến nỗi buồn, tai nạn, tang sự, kiện tụng, thị phi, bệnh mắt, nữ gặp hạn huyết quang, sản nghịch...
- Sao Thái bạch (Kim, xấu): Chủ về mọi chuyện không như ý. Sao đại kỵ với nữ giới, nam giới đỡ hơn một chút. Cần đề phòng kẻ tiểu nhân phá rối. Kết hôn cẩn thận bệnh phần bụng. Sao Thái Bạch xấu hơn sao La hầu. Song người quyền quý gặp sao này có lợi, thêm đinh thêm khẩu.
- Sao Vân hớn (Hỏa, xấu): Còn gọi là tai tinh, chủ về bệnh tật. Phụ nữ gặp phải sao này có nhiều tai ương, có nạn huyết quang; nam giới gặp kiện tụng thị phi, gia đạo bất an, mọi việc cần thận trọng.
- Sao Kế đô (Thổ, xấu): Chủ về tai họa, người âm phá rối. Đại kỵ cho cả nam và nữ, nhưng nữ bị nặng hơn, thường mang lại sự buồn khổ, chán nản, thờ ơ. Trong nhà có chuyện buồn nên đi xa làm ăn. Lục súc bất lợi, phụ nữ có khẩu thiệt, thị phi. Nam giới gặp sao này chiếu mạng dễ bị phụ nữ hại. Phụ nữ gặp sao này chiếu mạng mà đang có thai thì lại may mắn.
- Sao Thổ tú (Thổ, trung bình): Chủ về việc liên quan đến quan trường. Đi lại không gặp may, dễ bị tiểu nhân phá. Gặp sao này chiếu mạng thì hay có nỗi buồn man mác, không có chủ định vững vàng, hay hoài nghi công việc làm ăn, không hăng hái, song không gặp tai họa gì. Thường 6 tháng đầu năm bình thường, 6 tháng cuối năm mới thuận lợi.
- Sao Thủy diệu (Thủy, tốt): Chủ về tài vận và phúc lộc. Nam giới gặp phúc lộc, rất may mắn, đi xa có lợi, thêm đinh; phụ nữ thì bất lợi hơn, chủ về khẩu thiệt thị phi, tuy tai họa không lớn, đi xa tránh qua sông qua đò.
- Sao Thái dương (Hỏa, tốt): Chủ về an khang, thịnh vượng, có lợi cho nam giới; nữ giới có chút tai ương. Gặp sao Thái dương sẽ làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức, gặp may mắn trong công việc, dễ nổi danh, tiền đồ sáng sủa. Đi xa có lợi, người quyền quý gặp sao này càng lợi thêm.
- Sao Thái âm (Thủy, tốt): Chủ về mọi chuyện như ý. Cầu danh lợi đều được, nên đi xa, gặp người trên có lợi. Phụ nữ gặp sao này sẽ được vui vẻ, hạnh phúc, có tiền tài, dễ đạt được các ước mơ, nhưng sinh nở bất lợi. Nam giới đi lại hanh thông, gặp sao này được bạn nữ giúp đỡ, nhất là về tiền bạc.
- Sao Mộc đức (Mộc, tốt): Sao Mộc đức chiếu mạng sẽ gặp nhiều may mắn trong công việc, có bạn mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhân giúp đỡ, hôn nhân hòa hợp. Phụ nữ có hạn huyết quang. Nam giới đề phòng bệnh mắt. Gia đạo có chút bất hòa, nhưng nhân khẩu bình an không đáng ngại.
Quan niệm về hạn
Ngoài quan niệm về sao, còn có quan niệm về hạn, theo đó có các hạn sau:
- Hạn Huỳnh tuyền: Có chứng đau đầu, chóng mặt.
- Hạn Tam kheo: Đề phòng đau chân tay, chứng phong thấp, hay lo buồn cho người thân yêu. Tránh tụ tập chỗ đông người để tránh rủi ro.
- Hạn Ngũ mộ: Hao tài, bất an. Không cho ai ngủ nhờ trong nhà vì sẽ có tai bay vạ gió.
- Hạn Thiên tinh: Đề phòng ngộ độc. Mang thai cấm kiễng chân với đồ trên cao, kẻo ngã trụy thai.
- Hạn Toán tận: Hao tài. Đi đường không mang theo nhiều tiền của, không góp vốn làm ăn.
- Hạn Thiên la: Đề phòng cảnh phu thê ly cách, cần biết nhẫn nhịn trong nhà.
- Hạn Địa võng: Kỵ đi với người khác lúc trời tối. Không cho người khác ngủ nhờ.
- Hạn Diêm vương: Đau ốm lâu, nhưng làm ăn thuận lợi, được tài lộc dồi dào, vui vẻ.
Ngày giờ giải sao
Theo người xưa, dù sao tốt hay xấu đều cần hóa giải. Song hầu hết các chùa hiện nay chỉ làm lễ giải một số sao xấu như Thái Bạch, La hầu, Kế đô. Cách giải rất đơn giản là chọn giờ để tiến hành hóa giải sao xấu hay đón nhận sao tốt, cụ thể như sau:
Sao | Ngày âm lịch | Giờ |
Vân hớn | 29 | Tỵ (9-11) |
Kế đô | 18 | Mùi (13-15) |
Thổ tú | 19 | Thân (15-17) |
Thái bạch | 15 | Dậu (17-19) |
La hầu | 8 | Tuất (19-21) |
Mộc đức | 25 | Mão (5-7) |
Thái âm | 26 | Thìn (7-9) |
Thái dương | 27 | Ngọ (11-13) |
Thủy diệu | 21 | Hợi (21-23) |
Đây là những ngày giờ theo "quy định" sách cổ, chưa có lý giải thực sự hợp lý. Dẫn đến nhiều nơi làm cũng không theo lịch, chú trọng vào ngày rằm theo quan niệm “lễ cả năm không bằng rằm tháng giêng”, hoặc ngày nào thuận tiện cho nhà chùa.
Cách giải sao hạn
Vào ngày sao hạn chiếu mệnh, cần thắp đèn thắp nến, cầu xin bình an, tăng thêm phúc thọ. Đầu năm có hạn nên đến chùa, các tháng sau có thể làm ở nhà.
Tuy nhiên, cách làm đơn giản hơn nữa là áp dụng khoa học phong thủy, khá hiệu quả lại không sa đà vào nghi lễ khó kiểm chứng. Muốn biết chi tiết từng người, cần có năm, tháng, ngày giờ, địa điểm sinh, từ đó thấy rõ chu kỳ 9 sao và có hướng hóa giải theo ngũ hành.
Nguyên tắc là sao xấu thuộc ngũ hành nào tiết giảm đi, còn sao tốt thì chọn ngũ hành tương ứng, hoặc sinh ra ngũ hành đó. Cụ thể:
- Sao La hầu, Thái bạch (ngũ hành là Kim): Dùng Thủy tiết, đeo trang sức đá quý màu đen như: đá núi lửa, thạch anh đen, thạch anh tóc đen...
- Sao Vân hớn (ngũ hành là Hỏa): Dùng Thổ tiết, đeo trang sức đá quý màu vàng như thạch anh tóc vàng, lưu ly, hổ phách, thạch anh vàng...
- Sao Kế đô, Thổ tú (ngũ hành là Thổ): Dùng Kim tiết, như đeo trang sức đá quý màu trắng: mã não trắng, thạch anh trắng, kim cương, xà cừ...
- Sao Thủy diệu tốt, nhưng bất lợi cho nữ (ngũ hành là Thủy): Dùng Mộc tiết, như đeo trang sức màu xanh: phỉ thúy, ngọc lục bảo, thạch anh linh, khổng tước...
Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị - ĐHXD
2- Đệ nhất biện tân chủ chi phân,
động tĩnh tuần hoàn bất dĩ,
chủ tân canh điệp vô câu,
chủ nhược vô tình, hà tân chi hữu,
tân bất năng đối, hà túc thủ tai!
3- Quý bỉ dương đà, duy thị lộc tồn chi hảo ác, tiếu ngô nhật nguyệt dã.
4- Tư không kiếp chi hưng vong, sát hữu sát nhi vô hình, tuy sát hữu cứu;
hình hữu hình nhi dị đan, chung thân bất khắc.
5- Hỏa tinh vượng cung vi phú luận,
dương đà đắc lệnh khởi hung thần?
6- Lưỡng lân gia vũ thượng khả xanh trì,
đồng thất dữ mưu tối nan phòng bị.
7- Cân hỏa phần thiên mã,
trọng dương trục lộc tồn.
8- Kiếp không thân thích vô thường,
quyền lộc hành tàng mỹ định.
9- Quân tử tai khôi việt,
tiểu nhân dã dương linh.
10- Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.
11- Chủ cường tân nhược, khả bảo vô ngu.
12- Chủ nhược tân cường, hung nguy lập kiến.
13- Chủ tân đắc thất lưỡng tương nghi,
hạn vận mệnh thân đương hỗ kiến.
14- Thân mệnh tối hiềm dương đà thất sát, ngộ chi vị miễn vi hung.
15- Nhị hạn thậm kỵ tham phá cự trinh, phùng chi định nhiên tác họa.
16- Mệnh ngộ khôi xương đương đắc quý, hạn phùng tử phủ định tài đa.
17- Phàm quan nữ nhân chi mệnh, tiên quan phu tử nhị cung,
nhược trị sát tinh, định tam giá nhi tâm bất túc,
hoặc phùng dương đà, tu đề khốc nhi lệ bất càn.
18- Nhược quan nam mệnh, thủy dĩ phúc tài vi chủ,
tái thẩm thiên di như hà, nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.
19- Hạn phùng cát diệu, bình sinh vận dụng hòa hài;
mệnh tác hung hương, nhất thị cầu mưu trở ngữ.
20- Liêm lộc lâm mệnh, nữ đức thuần âm trinh khiết chi đức;
đồng lương thủ mệnh, nam đắc thuần dương trung chính chi tâm.
21- Quân tử mệnh trung diệc hữu dương đà tứ sát,
tiểu nhân mệnh trung khởi vô khoa lộc quyền tinh,
yếu khán đắc viên thất viên,
chuyên luận nhập miếu thất hãm.
22- Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn,
tiểu nhi mệnh sinh hung hương, tam ngũ tuế tất nhiên yểu chiết,
cánh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chí yểu vong.
23- Văn xương văn khúc thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.
24- Đa học thiểu thành, chỉ vi kình dương phùng kiếp sát.
25- Vi nhân hảo tụng, cái nhân thái tuế ngộ quan phù.
26- Mệnh chi lý vi, thục sát tinh thần chi biến hóa;
số chi lý viễn, tế tường cách cục chi hưng suy.
27- Bắc cực gia hung sát, vi đạo vi tăng;
mệnh ngộ hung tinh, vi nô vi bộc.
28- Như vũ phá liêm tham, cố thâm mưu nhi quý hiển,
gia dương đà không kiếp, phản tiểu chí dĩ cô hàn.
29- Hạn phụ vượng tinh, tuy nhược nhi bất nhược;
mệnh lâm cát địa, tuy hung nhi bất hung.
30- Đoạn kiều tiệt lộ, đại tiểu nan hành;
mão dậu nhị không, thông minh phát phúc.
31- Mệnh thân ngộ tử phủ, điệp tích kim ngân;
nhị chủ phùng kiếp không, y thực bất túc, mưu nhi bất toại.
32- Mệnh hạn ngộ nhập kình dương, đông tác tây thành.
33- Hạn thân tao phùng phủ tướng khoa quyền lộc củng, định vi phàn quế chi cao nhân.
34- Không kiếp dương linh, quyết tác cửu lưu thuật sĩ.
35- Tình hoài thư sướng, xương khúc mệnh thân;
quỷ trá hư phù, dương đà hãm địa.
36- Thiên ki thiên lương kình dương hội, tảo kiến hình khắc vãn kiến cô.
37- Tham lang vũ khúc liêm trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu thụ phúc.
Thử giai đẩu số chi áo quyết, học giả thục chi.
Dịch nghĩa:
Luận về huyền vi
Hi Di tiên sinh viết:
1- Đẩu Số bày ra chúng tinh,
Do đại Dịch phân chia thành Bát Quái,
Bát Quái mà thiếu Thoán từ (lời luận đoán) thì cũng chẳng rõ nghĩa,
Ngũ Tinh mà không được giảng giải kỹ thì dùng làm sao được,
Môn xem Đẩu Số này đây, luôn xét đến động tĩnh của cơ trời.
2- Trước tiên phân biệt Chủ-Khách mà xét,
Động-Tĩnh, tuần hoàn không dứt,
Chủ-Khách luân phiên thay đổi chứ không gò bó cố định,
Chủ (nếu) mà vô tình, lẽ nào Khách lại có tình cho được,
Khách mà không thường xuyên ứng đối, thì sao đủ xứng mà dùng làm khách được!
3- Tự thẹn thay Kình Đà, chỉ trông coi tốt xấu của Lộc Tồn, mà (lại dám) cười Nhật Nguyệt ta vậy.
4- Ngẫm về hưng vong của Không Kiếp, sát thì có sát (nhưng) mà không Hình (khắc) cứng nhắc, tuy sát mà lại có thể cứu chữa;
Hình thì có Hình nhưng đơn giản dễ thay đổi, (về lâu dài) cả đời sẽ không khắc.
5- Hỏa tinh ở vượng cung thì luận là phú,
Kình Đà (ở chỗ) đắc lệnh há có còn là hung thần nữa sao?
6- Kẻ hung bạo ở ngay sát vách đôi bên nhà mình thì cũng còn có thể miễn cưỡng chống đỡ lại,
chứ người cùng nhà mà có mưu hiểm đen tối thì thực là khó phòng bị.
7- Cân đo sức nóng (hỏa phần), nghị lực của Thiên Mã,
coi trọng trục (của) Kình Dương Lộc Tồn.
8- Kiếp Không thì (coi) thân thích (là) vô thường,
Quyền Lộc thì định là tác phong cử chỉ tươi đẹp.
9- Quân tử (xét ở) tại nơi Khôi Việt,
tiểu nhân thì (xét ở) Dương Linh (Kình Đà, Linh Hỏa, viết tắt???).
10- Hung thì không có cái gì hoàn toàn hung, Cát thì cũng chẳng có cái gì thuần là cát.
11- Chủ cường Khách nhược, thì có thể đảm bảo là chẳng có gì phải lo ngại.
12- Chủ nhược Khách cường, thì thấy ngay được là hung hiểm nguy hiểm.
13- (Phải xem) Chủ-Khách, chỗ hay chỗ dở, đôi đàng tương ứng đối đãi lẫn nhau,
vận hạn Mệnh-Thân cũng đối đãi tương hỗ lẫn nhau.
14- Thân-Mệnh rất sợ gặp Dương Đà Thất Sát, gặp thì khó tránh được hung hiểm.
15- Nhị hạn tối kị Tham Lang Phá Quân Cự Môn Liêm Trinh, gặp thì nhất định sẽ tác họa.
16- Mệnh gặp Khôi Xương được nhận (quan) Quý, Hạn phùng Tử Phủ xác định đó là lúc đa tài (đến lúc gặp thời để mà được thi thố với đời).
17- Phàm xem mệnh Nữ nhân, trước tiên xem ở hai cung Phu & Tử,
nếu gặp sát tinh, định là nhiều lần xuất giá mà lòng không yên,
hoặc phùng Dương Đà thì đó là khóc con cạn nước mắt.
18- Khi xem Nam mệnh, khởi đầu lấy Phúc & Tài làm chủ,
sau đó xét Thiên Di xem thế nào, nhị hạn (có) nguyên nhân hỗ trợ ra sao, (từ đó mới) cùng đoán ra cát hung như thế nào.
19- Hạn phùng cát diệu thì lúc bình sinh được mọi sự hoạt động hài hòa;
Mệnh lạc đến chỗ hung thì đúng là một thân mưu cầu mà toàn gặp gập ghềnh trở ngại.
20- Liêm Lộc lâm Nữ mệnh thuần âm thì đức hạnh trinh trắng, thanh khiết;
Đồng Lương thủ Nam mệnh thuần dương thì một lòng trung thành, chính trực.
21- Người quân tử thì ở trong cung Mệnh cũng có Dương Đà tứ sát,
Kẻ tiểu nhân thì ai dám bảo là không có Khoa Quyền Lộc ở trong cung mệnh nào,
(Cho nên) trọng yếu phải xem cung viên tốt xấu thế nào,
chuyên sâu luận vào các sao nhập miếu hay lạc hãm.
22- Nếu luận số tiểu nhi, phải suy xét thật tường tận về hạn của trẻ con,
Tiểu nhi mà Mệnh ở chỗ hung, thì dăm ba năm tất nhiên sẽ yểu chiết,
Lại thêm hạn phùng ác sát thì dăm bảy năm nhất định yểu vong.
23- (Có các sao) Văn Xương Văn Khúc Thiên Khôi, chẳng đọc thi thư gì cũng là kẻ có tài.
24- Đa học mà thiểu thành, chỉ vì Kình Dương phùng Kiếp Sát.
25- Làm người giỏi lý lẽ, giỏi tranh cãi, khéo nói, đó là do Thái Tuế ngộ Quan Phù.
26- Cái Lý tinh vi của Mệnh, phải bám sát lấy sự biến hóa của các sao;
Cái Lý sâu xa của Số, phải xem cho tường tận sự hưng suy của cách cục.
27- Sao Tử Vi mà bị gia thêm hung sát tinh thì dễ theo đường tăng đạo;
Mệnh (kém) mà gặp phải hung tinh thì dễ thành thân phận kẻ hầu người hạ.
28- Như Vũ Phá Liêm Tham, có mưu sâu mà quý hiển,
Thêm (vào đó) Dương Đà Không Kiếp thì phản chuyển thành chí nhỏ mà cô đơn, nghèo hèn.
29- Hạn mà hai bên có vượng tinh thì dù hạn có nhược (kém) cũng được cứu giải,
Mệnh lâm vào nơi cát lợi thì dẫu gặp hung cũng chẳng có gì nguy hiểm.
30- Đại tiểu (hạn) khó khăn, gian khổ, khó đi,... là bởi vì "đoạn kiều tiệt lộ" (đây là 1 thành ngữ "đoạn kiều tiệt lộ" có nghĩa đen là "cầu bị chặt gãy, đường bị chặn", nhưng có thể nghĩa bóng muốn ám chỉ việc hành hạn mà gặp phải Tiệt/Triệt lộ thì đó là coi như bị chặn phá, bị ngáng trở, bị gặp khó khăn,...);
Ở cung Mão Dậu mà gặp nhị Không thì lại là thông minh, phát phúc.
31- Mệnh Thân mà gặp Tử Phủ thì giàu có dồi dào vàng bạc (điệp tích kim ngân);
Nhị chủ (thường chỉ về Mệnh chủ & Thân chủ, nhưng trong trường hợp này thì nên hiểu Nhị Chủ = Tử & Phủ) phùng Kiếp Không thì mưu sự bất toại ý, thiếu ăn thiếu mặc (y thực bất túc).
32- Mệnh hạn mà gặp phải Kình Dương thì làm giả ăn thật, đánh ở đông mà được ở tây ("đông tác tây thành" đây cũng là 1 thành ngữ. Bạn đọc lưu ý chỗ này nên hiểu liền mạch với Mệnh Thân Tử Phủ ở trên thì mới đúng).
33- Hạn Thân mà phùng Phủ Tướng có Khoa Quyền Lộc củng chiếu thì định là người đó sẽ đỗ cao, thăng quan lớn, phát tài lộc,... được vin cành nguyệt quế.
34- (Nếu mà gặp) Không Kiếp Dương Linh, thì quyết đoán là đi theo giới cửu lưu thuật sĩ.
35- Tâm tình dào dạt, thư thả sung sướng, ấy là do Xương Khúc ở Mệnh Thân;
Quỷ quyệt xảo trá, hão huyền chẳng thực, đó là bởi Dương Đà hãm địa.
36- Thiên Cơ Thiên Lương Kình Dương cùng hội, thì lúc nhỏ thời hình khắc (với người thân) về già thời cô độc.
37- Như gặp Tham Lang Vũ Khúc Liêm Trinh, lúc nhỏ thời nghèo khó nhưng về già được hưởng phúc.
Ngọc Thiềm phát vi luận
Bạch ngọc thiềm tiên sinh nhật:
Quan thiên đẩu số dữ Ngũ Tinh bất đồng,
án thử tinh thần dữ chư thuật đại dị.
Tứ chính cát tinh định vi quý,
tam phương sát củng thiểu vi kỳ;
đối chiếu hề tường hung tường cát,
hợp chiếu hề quan tiện quan vinh.
Cát tinh nhập viên tắc vi cát,
hung tinh thất địa tắc vi hung.
Mệnh phùng tử vi, phi đặc thọ nhi thả vinh;
thân ngộ sát tinh, bất đãn bần nhi thả tiện.
Tả hữu hội ư tử phủ, cực phẩm chi tôn;
khoa quyền hãm ư hung hương, công danh thặng đặng.
Hành hạn phùng hồ nhược địa, vị tất vi tai;
lập mệnh hội tại cường cung, tất năng hàng ngoan.
Dương đà thất sát, hạn vận mạc phùng,
phùng chi định hữu hình thương;
thiên khốc tang môn, lưu niên mạc ngộ,
ngộ chi thực phòng phá hại.
Nam đẩu chủ hạn tất sinh nam,
bắc đẩu gia lâm tiên đắc nữ.
Khoa tinh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần;
xương khúc tại nhược hương, lâm tuyền lãnh đạm.
Gian mưu tần thiết, tử vi quý ngộ phá quân;
dâm bôn đại hành, hồng loan sai phùng tham tú.
Mệnh thân tương khắc, tắc tâm loạn nhi bất nhàn;
huyền ảo tam cung, tắc tà dâm nhi đam tửu.
Sát lâm tam vị, định nhiên thê tử bất hòa;
cự đáo nhị cung, tất thị huynh đệ vô nghĩa.
Hình sát thủ tử cung, tử nan phụng lão;
chư hung chiếu tài bạch, tụ tán vô thường.
Dương đà thủ tật ách, nhãn mục hôn manh;
hỏa linh đáo thiên di, trường đồ tịch mạc.
Tôn tinh liệt tiện vị, chủ nhân đa lao;
ác tinh ứng mệnh cung, nô bộc hữu trợ.
Quan lộc ngộ tử phủ, phú nhi thả quý;
điền trạch ngộ phá quân, tiên phá hậu thành.
Phúc đức ngộ không vong kiếp, bôn tẩu vô phương;
tương mạo gia hình sát, hình khắc nan miễn.
Hậu học giả chấp thử suy tường, vạn vô nhất thất.
Dịch nghĩa:
Sự khai mở về cách luận của Bạch Ngọc Thiềm tiên sinh.
Xem thấy Đẩu Số với môn Ngũ Tinh có điểm không giống nhau,
từ đây ta thấy về tinh thần cơ bản nó khác nhiều với các thuật khác.
Xét tứ chính thấy cát tinh thì định là quý,
Tam phương mà sát tinh vây chiếu thì kém đẹp;
Cung đối chiếu cho biết hung, biết cát,
cung hợp chiếu cho biết tiện hay là vinh.
Cát tinh nhập mệnh viên (miếu đắc) thì sẽ được cát lợi,
hung tinh mà hãm địa thì chắc chắn sẽ hung.
Mệnh gặp Tử Vi thì vừa thọ vừa vinh hoa;
Thân gặp sát tinh thì không những bần mà còn tiện.
Tả Hữu hội cùng Tử Phủ thì tôn quý đến cực phẩm,
Khoa Quyền hãm ở chỗ hung thì công danh lận đận.
Hành hạn nếu gặp nơi nhược địa thì chưa hẳn đã gặp tai họa,
lập mệnh ở chỗ cường cung, nhất định sẽ bớt tham lam, ương bướng, ngu dốt.
Vận hạn chớ có gặp Kình Đà Thất Sát, gặp thì tất sẽ bị hình thương,
Lưu niên chớ có gặp Thiên Khốc Tang Môn, gặp thì phải đề phòng vật chất trong nhà bị phá tán.
Nam Đẩu chủ hạn tất sẽ sinh con trai,
Bắc Đẩu lâm hạn thì sẽ sinh con gái.
Khoa tinh cư hãm địa, thì vất vả chăm chỉ đèn sách sớm khuya,
Xương Khúc ở chỗ nhược thì ẩn mình lãnh đạm nơi rừng núi.
Tử Vi gặp Phá Quân thì suốt ngày bày kế hiểm mưu gian,
Hồng Loan gặp (lầm) phải Tham Lang thì hành vi dâm dật.
Mệnh với Thân mà tương khắc thì tâm loạn nên chẳng được nhàn,
Tam cung mà huyền ảo thì tất sẽ tà dâm cùng ham rượu.
Sát tinh lâm vào tam vị, chắc chắc bất hòa với vợ con,
Cự Môn đến nhị cung, thì anh em vô tình vô nghĩa.
Hình sát tinh ở cung Tử Tức, khó có được con chăm sóc lúc già;
Các hung tinh chiếu vào Tài Bạch, thì tiền tụ tán vô thường.
Kình Đà thủ Tật Ách thì mắt kém, mắt đau, mắt mờ,
Hỏa Linh đến cung Thiên Di, thì đường (đời) phía trước sẽ cô đơn vắng vẻ.
Các sao tôn quý bày vào chỗ thấp kém, thì chủ nhân nhiều gian khổ,
ác tinh ứng vào Mệnh cung thì nô bộc có sự tương trợ.
Quan Lộc cung gặp Tử Phủ thì vừa phú vừa quý,
Điền Trạch gặp Phá Quân thì trước phá hết sau mới thành được.
Phúc Đức gặp Địa Kiếp, Không Vong, thì lang thang vô định,
Tướng Mạo mà thêm Hình Sát, thì việc hình khắc là khó tránh được.
Học giả đời sau theo đây mà suy cho rõ, đảm bảo không sai.
Đẩu số tổng quyết
Hi Di ngưỡng quan thiên thượng tinh
Tác vi đẩu số thôi nhân mệnh
Bất y ngũ tinh yếu quá tiết
Chỉ luận niên nguyệt nhật thời sinh.
Tiên an thân mệnh thứ định cục
Tử Vi, Thiên Phủ bố chư tinh
Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi Việt
Thiên Mã, Thiên Lộc đái sát thần.
Tiền Dương hậu Đà tính tứ hóa
Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hỏa, Linh, Hình
Nhị chủ đại hạn tính tiểu hạn
Lưu niên hậu phương an Đẩu Quân
Thập nhị cung phần tường miếu hãm
Lưu niên họa phúc thử trung phần
Lộc, Quyền, Khoa, Kị vi tứ hóa
Duy hữu Kị tinh tối khả tăng.
Đại tiểu nhị hạn nhược phùng Kị
Vị miễn kỳ nhân hữu tai truân
Khoa danh khoa giáp khán Khôi Việt
Văn Xương, Văn Khúc chủ công danh.
Tử Phủ Nhật Nguyệt chư tinh tụ
Phú quý giai tòng thiên thượng sanh
Dương Đà Hỏa Linh vi tứ sát
Xung mệnh xung hạn bất vi vinh.
Sát Phá Tham Lang câu tác ố
Miếu nhi bất hãm chưởng tam quân
Khôi Việt Xương gia vô cát ứng
Nhược hoàn mệnh hạn hãm vưu sân.
Thượng hữu lưu Dương Đà đẳng túc
Thử dữ Thái Tuế tòng lưu hành
Cánh gia Tang Điếu Bạch Hổ thấu
Thương Sứ khả dĩ đoán sinh tử.
Nhược hữu đồng niên đồng Nhật Nguyệt
Họa phúc hà hữu bất chuẩn hồ?
Bất chuẩn câu dụng tam thời đoán
Thời hữu sai trì bất khả bằng.
Thử thị Hi Di chân khẩu quyết
Học giả như đương tử tế tinh
Hậu cụ tinh đồ tính luận đoán
Kỳ trung bộ quyết tối phân minh.
Nhược năng y thử thôi nhân mệnh
Hà dụng cầm đường giảng ngũ tinh?
Dịch nghĩa:
Đẩu số tổng quyết
Ngài Hi Di ngẩng đầu ngắm sao trên trời,
Tạo ra môn Đẩu Số để suy đoán mệnh người,
Không giống với (môn) Ngũ Tinh, quá chú trọng đến Tiết khí,
(Mà) Chỉ luận về năm, tháng, ngày, giờ sinh.
Trước tiên an Thân Mệnh, thứ đến là xác định Cục (số),
Bài bố (vị trí của)Tử Vi, Thiên Phủ cùng các sao,
Kiếp, Không, Thương, Sứ, Thiên Khôi, Thiên Việt,
Thiên Mã, Thiên Lộc, (cùng với) dải các thần sát.
Trước an Kình dương, sau an Đà La, cùng với cả Tứ Hóa,
Hồng Loan, Thiên Hỉ, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình,
Nhị chủ (có lẽ là "mệnh chủ" và "thân chủ"), đại hạn cùng tiểu hạn,
Lưu niên, sau đó thì an Đẩu Quân (có lẽ nhấn mạnh L. Thái Tuế).
Ở mười hai cung phận, phải tỏ tường miếu hãm (của sao),
Lưu niên họa phúc ở trong cung phận nào,
Lộc Quyền Khoa Kị là Tứ Hóa,
Chỉ có Hóa Kị là rất đáng ghét.
Đại hạn, tiểu hạn nếu gặp Hóa Kị,
Người ta khó mà tránh việc phải gặp tai ách, gian truân,
Khoa danh, khoa bảng (chuyện học hành) thì xem ở Khôi Việt,
Văn Xương, Văn Khúc (vì chúng) chủ về công danh,
Tử Phủ Nhật Nguyệt cùng các (cát) tinh tụ hội,
(Được) phú lẫn quý thì cũng là theo sự sắp đặt của trời,
Kình, Đà, Linh, Hỏa là tứ sát,
Xung vào mệnh, xung hạn, thì không được vinh hoa.
Sát Phá Tham chuyên làm chuyện (ác) đáng ghét,
Khi miếu thì (làm tướng) đứng đầu chấp chưởng ba quân,
Thêm Khôi Việt, Văn Xương mà không có cát tinh ứng trợ,
Nếu gặp tại Mệnh, tại hạn hãm thì mắc sai lầm, giận dữ, không xứng ý toại lòng.
Còn Lưu Kình Đà mà có hoặc đón chờ (tại hạn ấy),
Cùng với Thái Tuế lưu hành (L. Thái Tuế),
Thêm Tang, Điếu, Bạch Hổ, tụ tập lại,
(Có) Thương, Sứ, thì có thể đoán được chuyện sống chết.
Nếu như cùng cùng năm cùng tháng ngày (sinh),
(Thì) Họa phúc không có chuẩn (đúng) hay sao?
Không chuẩn đều dùng ba giờ (mà) đoán
Giờ (mà) có sai, chậm thì không thể (coi là) bằng chứng được.
(QNB chú: có lẽ muốn rằng lấy thêm 2 giờ xung quanh giờ sinh mà xem cho kỹ)
Đó chính là khẩu quyết của Hi Di,
Người học cần phải nhận biết, kỹ lưỡng, thật tinh.
Sau bày đủ tinh đồ (bản đồ các sao) mà luận đoán,
Trong đó (có) yếu quyết từng bộ phận rất rõ ràng hiển nhiên.
Nếu như sử dụng môn này mà đoán nhân mệnh,
Thì còn cần dùng phòng nhạc ("cầm đường") để giảng về môn Ngũ Tinh nữa chăng?
Tử Vi Đẩu Sổ đoán quyết
Tử Phủ nhị chủ tuy phú quí
Bất phùng Lộc tinh chung nan hiển
Cơ Âm văn tinh vong ân nhân
Bác sĩ phùng văn chủ thông minh
Lộc Tồn nhập quan phòng bài tễ
Song Lộc giáp mệnh tài bất khuyết
Nhân từ chi tinh kị phùng sát
Đương phòng biến tiết tịnh hữu trá
Đế lạc Nô vị chủ bôn ba
Cự phùng Dương Đà chủ tà dâm
Việt Phá Toái kiêm Đà La
Quí nhân vô lực sự bất thành
Thiên Phủ gia sát phi quân tử
Đế phùng Dương Đà chủ tà
Phủ Tuất phùng Lộc lũy thiên kim
Tọa Lộc hướng Mã danh lợi thu
Thiên Cơ Tị Hợi nhược gia sát
Nhân tửu ngộ sự mạc tham bôi
Phá Quân văn diệu mạc cận thủy
Thiên Đồng Kình Dương dị tao thương
Dịch:
Tử vi đẩu số quyết đoán
Tuy phú quý Tử Vi Thiên Phủ
Chưa hiển linh nếu thiếu Lộc tinh.
Cơ Âm, văn diệu, bạc tình.
Bác Sĩ, văn diệu thông minh tuyệt vời.
Quan Lộc Tồn phải phòng bãi miễn.
Song Lộc giáp Mệnh thị phú ông.
Nhân từ tinh sợ Sát phùng
Chuyển thành dối trá, hành tung gian tà.
Cự Nhận Đà tà dâm mê muội.
Đế lạc Nô tất chủ bôn ba.
Việt phùng Phá Toái, Đà La
Quý nhân vô lực, khó mà thành công.
Phủ hội sát khó thành quân tử.
Đế Nhận Đà tất đúng tà nhân.
Phủ Lộc Tuất vị phú ông.
Tọa Lộc hướng Mã thành công danh, tài.
Cơ tị hợi, sát tinh, ham rượu.
Phá, văn tinh, rất dễ thủy tai.
Thiên Đồng, Dương Nhận bi ai
Vì hay thương tích, nạn tai trong đời.
(Sưu tầm)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Địa chi phân âm dương, mộc hỏa vi dương, dần mão thìn tị ngọ mùi vi dương, thìn vi dương trung âm. Kim thủy vi âm, thân dậu tuất hợi tử sửu vi âm, tuất vi âm trung dương. Sửu dậu vi âm trung chi âm, nhiều lắm kể ra sửu dậu cùng phạm tội, xã hội đen có liên quan, chủ lao ngục, xã hội đen, phần mộ, huyền học, dâm tà. Hợi tử không phải âm trung âm, hợi vốn là âm vị, nhưng trung ngậm dương, tử vi âm, nhưng vị tại dương. Tân dậu nhật chủ kiến giờ sửu vi xã hội đen, nguyên nhân âm thấy âm thêm nhập mộ. Tân sửu nhật chủ không phải xã hội đen, bởi vì trọc trung thấy rõ ràng, nhân tính vốn là tốt. Tuất vi dương loạn, như ca thính, sửu vi âm loạn.
Xem học tập đích văn lý, ở đâu cánh cửa khảo thật là tốt phá hư cũng có thể xem. Tuất hợi vi tính toán, vận tính đích ý tứ, biểu số học, nhập càn cánh cửa. Sửu chủ huyền học. Mộc hỏa chủ văn, kim thủy chủ lý. Thìn thấy tử vi hóa học. Thân dậu vi pháp luật, thân hoàn lại đại biểu kim tan ra, dậu không có nghĩa là kim tan ra. Thìn có vận động đích ý tứ, biểu cơ khí, xe cộ.
Tử tượng: Thủy, băng, sông, nước suối, tỉnh, lưu động, lưu chuyển, xe thuyền, mậu dịch, giang hồ, văn mực, huyền học, mượt mà, thông minh, kỹ năng, dâm tà; vu cơ thể người vi thận, nhĩ, bọng đái, bí nước tiểu, máu, tinh, thắt lưng, yết hầu, cái lỗ tai; động vật vi: Bức, thử, Yến.
Sửu tượng: Hàn thổ, ẩm ướt thổ, bùn, ao đầm, đê điều, tầng hầm ngầm, xuống nước nói, nhà xí, hắc ám, bí mật, quặng mỏ tỉnh, môi thán, phần mộ, lao ngục, xã hội đen, tư tình, dâm loạn, huyền học, trừu tượng, ngân hàng, quân doanh, hán quặng mỏ, Điền viên; vu cơ thể người vi phúc, tính khí, thận, tử cung, cơ thể, thũng đồng; động vật vi: Cua, ngưu, quy.
Dần tượng: Cây cối, hoa mộc, bó củi, nhà đều, thần kham, đường miếu, hội sở, lâu vũ, tổ chức, chính phủ cơ quan, văn hóa trận viện, cao nhã, chùa miểu, núi rừng; vu cơ thể người vi đầu, thủ, chi thể, can đảm, bộ lông, chỉ giáp, chưởng, kinh lạc, mạch, cân, thần kinh; động vật vi: Hổ, báo, miêu.
Mão tượng: Cây cối, cỏ cây, hoa mộc, bụi cây, thằng tác, mộc bổng, binh khí, chức vật, bó củi, kiến tài, kiến trúc, xe thuyền, ngã tư đường, cửa sổ, giường, li ba, võng lạc, cơ cấu; vu cơ thể người vi can đảm, tứ chi, cánh tay, ngón tay, thắt lưng, cân, bộ lông; động vật vi: Hạc, thỏ, hồ.
Thìn tượng: Ẩm ướt thổ, bùn, thủy khố, hồ nước, đê ngạn, giếng nước, Điền viên, thổ sản, lao ngục, kiến trúc, xe cộ, cơ khí, đại cơ cấu, cũ vật, trung dược, tư tưởng, võng lạc; vu cơ thể người vi bọng đái, nội tiết, da thịt, vai, ngực, phúc, dạ dày, lặc; động vật vi: Giao, ngư, long.
Tị tượng: Âm hỏa, ấm áp, văn hóa, văn chương, tư tưởng, ảo tưởng, vụ hư, biến hóa, sắc thái, hình ảnh, đường, tự xem, lâu bàn, nháo thị, võng lạc; vu cơ thể người vi trái tim, tam tiêu, cổ họng, mặt, xỉ, tai mắt, thần kinh, tiểu tràng, giang cánh cửa; động vật vi: Xà, dẫn, chương.
Ngọ tượng: Dương hỏa, đại nhiệt, hỏa khí, huyết quang, quang thải, điện tử, tin tức, quảng cáo, văn học, ngôn ngữ, văn chương, nhiệt tình, kích động, dã luyện, chiến trường, thính đường, building, rạp hát, sân thể dục; vu cơ thể người vi trái tim, tiểu tràng, mắt, lưỡi, máu, thần kinh, tinh lực; động vật vi: Chương, mã, lộc.
Mùi tượng: Ấm thổ, Điền viên, công viên, đình viện, tường yển, Lâm trận, hưu nhàn, đào dã, tính tình, phụ tùng, tửu điếm, rượu thực, thổ sản, kiến trúc vật, kiến tạo, y dược, hóa công, nhiệt độc; vu cơ thể người vi tính khí, cổ tay, phúc, khẩu khang, da thịt, sống lưng; động vật vi ngạn, dương, ưng.
Thân tượng: Thiết khí, vật cứng, đao, sạn, xe, binh qua, quân đội, ti pháp, quặng mỏ vật, quặng mỏ hán, cơ khí, xe cộ, bệnh viện, tây y, đường, thành trì, danh cũng, từ đường, kim tan ra, mấy vị; vu cơ thể người vi phế, đại tràng, cốt, xương sống, khí trông nom, thực nói, hàm răng, cốt cái, kinh lạc; động vật vi: Hầu, vượn, nhu.
Dậu tượng: Vàng đá, kiếm kích, sạn sừ, dụng cụ, ngã tư đường, bi kiệt, tự sân, tửu điếm, ngân hàng, chung biểu, tin tức, truyền thông, pháp luật, kỹ thuật, ẩn học, huyền học, cơ khéo léo, gian tà, kĩ; vu cơ thể người vi phế, lặc, tiểu tràng, cái lỗ tai, hàm răng, bộ xương, cánh tay, máu huyết; động vật vi: Trĩ, con gà, điểu.
Tuất tượng: Táo thổ, chỗ trú dã, lò, thương đạn, quân hỏa, lao ngục, hình pháp, phần mộ, tốp lĩnh, cổ vật, miếu vũ, cố gắng lên trạm, điện trạm, trường học, biên tập bộ, ảnh sân, nháo thị, thị trường, ca múa, sắc tình, hỗ network, kiến trúc, cao lâu, kiến tài, hóa công, số học; vu cơ thể người vi trái tim, trái tim bao, mệnh cánh cửa, lưng, dạ dày, mũi, cơ thể, chân, hõa đủ; động vật vi: Lang, con chó, sài.
Hợi tượng: Hồ nước, quán khái, câu nói, bút mực, rượu, thủy sản, độc dược, chìm đắm, tâm chí, khoa học kỹ thuật, vận tính, con số, tư tưởng, võng lạc; vu cơ thể người vi đầu, thận, bọng đái, nước tiểu nói, huyết mạch, kinh huyết; động vật vi: Trư, hùng.
Nhàn chú: Mười thiên can vốn là ngũ hành phân âm dương mà sinh ra đích, mà mười hai địa chi vốn là mặt trời cùng địa cầu đích quan hệ tạo thành đích.
Can chi đích tượng nơi phát ra vu âm dương, can chi giống cơ bản nhất đích tượng, bát quái giống trừu tượng đích tượng. Loại tượng chính là đem ký hiệu hệ thống cùng thực vật so sánh!
Đông Chí vốn là một dương đôn sinh đến hạ tới chủ dương, hạ tới đến Đông Chí chủ âm. Định nghĩa âm dương có tam:
1) mộc hỏa vi dương, kim thủy vi âm;
2) thân mình vị trí định âm dương tử dần thìn ngọ thân thú vi dương, sửu mão tị mùi dậu hợi vi âm;
3) lấy địa chi độn tàng định âm dương sửu dậu vi thuần âm vật, sửu vi xã hội đen, lao ngục, hắc ám, huyền học; thìn thổ có lao ngục chi tượng, vi thương thực thời có trung dược chi tượng, cũng có xe cộ cơ khí chi tượng.
Khôn: Kỷ mậu giáp quý
Mão thìn thìn dậu
khôn: Kỷ mậu giáp quý
dậu thìn thìn dậu
ứng vi 69 năm đích, 39 nhiều năm lớn, còn có thể làm đạo du hả?
Người này vi đạo du, thìn vi đi lại, xe đích ý tứ, thìn dậu hợp biểu khắp nơi đi lại, cố vi đạo du.( Dậu tại môn hộ, phương xa, cùng rồi xe)
Càn: Quý bính giáp mậu
Mão thìn thìn thìn
Người này vi xe hơi công ty lão tổng, thìn vi xe hơi.
Nguyệt lệnh thượng vì nước nhà, tỏ vẻ quốc ngữ hảo, môn hộ thượng vi ngoại ngữ hảo( Lấy sau khi tại bằng cấp bộ phận nên nói đến).
Nhàn chú: Quý mão mang tượng, mão thìn hại, thìn vi ấn khố, khác mão cũng dẫn theo quý ấn chi tượng, quý cũng là thìn trung vật, chế ấn được quyền, cho nên vốn là một quan. Thìn cũng vi xe.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
=> Mời các bạn đọc thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
may mắn.
![]() |
Ngày sinh được ví như nụ hoa |
Lý Hư Trung đời Đường phát minh ra việc dùng thiên can địa chi để sắp xếp tứ trụ và lấy can ngày làm chủ để dự đoán cát hung của cuộc đời. Đến đời Tống, Từ Tử Bình lại phát minh ra chủ giờ. Từ đó 4 trụ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) ngang nhau, là mảnh đất cát - hung, phúc - họa của cả cuộc đời.
Tuy nhiên, trụ ngày trung hòa, cân bằng là quý. Trụ ngày quá vượng hoặc quá yếu đều không tốt. Trong dự đoán tứ trụ, can ngày được xem là là mình, chi ngày là vợ (hoặc chồng). Can chi cùng sinh cho nhau thì vợ chồng hòa thuận. Can được chi sinh là nam lấy được vợ hiền, nữ được chồng tốt giúp đỡ. Chi được can sinh có nghĩa là nam yêu vợ, nữ giúp chồng. Can chi của ngày mà tương xung, tương khắc thì vợ chồng có nguy cơ xa nhau. Nam khắc nữ là không lấy được vợ sớm, nữ khắc nam là không lấy được chồng sớm, tức là hôn nhân muộn. Nếu can chi tương khắc nặng càng xấu hơn.
Can ngày còn phân ra cường vượng hay suy nhược. Can ngày vượng tức là được lệnh, được đất, được sinh, được trợ giúp. Can ngày vượng nhờ chi tháng thì gọi là được lệnh. Can ngày được các chi khác của của năm, tháng, giờ đến sinh thì gọi là được lộc. Can ngày suy nhược tức là can ngày mất lệnh, mất đất, không được trợ giúp, không được sinh. Nếu can ngày còn bị hình xung khắc phái thì càng yếu thêm.
(Theo Dự đoán tứ trụ)
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nghe bà hàng xóm đùa rằng "nhà có cô gái ế, sao chẳng gả chồng đi để mà có cháu bế bồng" - thì bà Chước bỗng giật mình: Con gái bà đã hơn 30 tuổi, đẹp gái, giỏi làm kinh tế... nhưng tới giờ vẫn chưa lấy được chồng.
Từ khi sinh con tới giờ bà luôn hết lòng tận tụy cho tổ ấm. Người mẹ nào cũng vất vả khi con ở tuổi bú mớm, bỉm sữa, nên cả thời tuổi trẻ bà vừa đi làm, vừa bận mọn con cái.
Suốt ngày bà bận rộn, lo toan để chồng an tâm chu toàn việc nước và kiếm tiền nuôi gia đình. Mỗi tháng chồng đưa gọn gàng khoản lương, rồi vắng nhà tối ngày. Bỏ mặc toàn bộ việc nhà cho vợ. Đứa con thứ nhất, rồi đứa con thứ hai ra đời. Thời con tuổi sài đẹn, tháng nào cũng ốm, cũng ho, cũng phải ra vào viện suốt.
Bà cứ tưởng chồng bận rộn lo vun vén cho gia đình, nên không chăm lo cho mẹ con bà được đầy đủ, cũng không quan tâm chia sẻ được nhiều việc nhà, việc nuôi dạy con với bà, nên càng cố gồng mình đầu tắt mặt tối chăm lo hai con chu toàn.
Nhưng rồi bà phát hiện ông ngày càng đi biền biệt, về nhà sặc hơi men, khiến bà chăm lo cái tổ ấm một mình nhiều khi quá mệt mỏi. Bà đã trách móc, giận hờn, cãi vã và cả mâu thuẫn mong ông đỡ đần việc nhà. Nhưng mỗi lần cãi vã chồng bà càng tệ hơn, về muộn không thèm báo cơm, nếu có nhà thì gác chân lên bàn xem tivi, không bao giờ có ý thức giúp đỡ vợ dạy con, hay làm việc nhà.
Đỉnh điểm là khi con gái học thi lên cấp 3, rồi thi đại học, chồng dứt khoát không chi tiền cho con vào lò luyện thi, trong khi con hổng kiến thức, học trên lớp mà kêu chẳng hiểu gì. Bà nghĩ, không cho con đi luyện thi thì chỉ có trượt đại học. Thế là bà lo nguyên phần lương chồng đưa để cho con luyện thi 2 năm trời, còn ăn uống, mua sắm thì… thắt chặt chi tiêu.
Rồi bà đón tin vui con gái đỗ vào trường đại học tốp đầu, nhưng đổi lại vợ chồng đã ly thân, không thèm trò chuyện với bà ở nhà vì "tội" không nghe lời chồng.
Lo cho con lớn xong, bà tiếp tục lo toan cho con trai nhỏ. “Đầu xuôi đuôi lọt”, ơn trời phật, hai con bà đều học hành giỏi giang khiến bà nở mày nở mặt với mọi người.
Chăm cây không được hái quả
Những tưởng chăm cây sẽ tới ngày hái quả, nghĩa là bà nuôi dạy con khi con lớn bà sẽ an nhàn, thanh thản với con yêu. Nào ngờ sau khi con gái đỗ đại học, thì người chồng vô trách nhiệm với gia đình bỗng… sợ mất con, trở về cưng chiều con cái như công chúa, hoàng tử. Con đòi gì, muốn gì cũng đáp ứng.
Qua con bà mới biết từ lâu chồng đã có tài sản, nhà đất riêng. Rồi sổ hộ khẩu, giấy khai sinh bản chính của các con bà cất trong bao hồ sơ, nhưng cứ biến mất khi con cần. Mới đây con cần gấp giấy khai sinh thì bản chính mất, bản sao sai giới tính… chồng bà mới vội đưa cho con một bản sao khai sinh có từ năm con bà mới sinh ra – bản khai sinh ấy do ông ngoại nó khai, bà cất giữ lâu nay nhưng giờ trong tay chồng. Con gái ngỡ bố nó giữ gìn giấy tờ cho nó, có biết đâu bao năm nay bà cất giữ, ba nó chỉ “lấy” trong túi hồ sơ gia đình ra cất đi vài năm nay.
Lòng người khó lường. Khi con qua thời sài đẹn, bỉm sữa ông dùng tiền bạc, tính toán để chuộc lại tình cảm cha con, đoạt mất “tài sản quý giá của bà”. Từ ngày chồng quan tâm con cái, những đứa con yêu bà dày công rèn giũa công dung ngôn hạnh từ tấm bé dần thay đổi hoàn toàn theo ý cha, dốc lòng lo toan cho bố với suy nghĩ “đàn ông lo việc lớn, lười lo cho bản thân, nên con gái cần chăm sóc”.
Còn bà, hai lần sốt cao 40 độ tự vò võ gọi xe ôm một mình vào viện. Bác sĩ cấp cứu ngạc nhiên hỏi: “Chồng bà đâu, con bà đâu”? Bà ứa nước mắt “Tôi có một mình, bác sĩ cứ cứu tôi đi”.
Vì sao con gái hay lặp lại cuộc đời của mẹ?
Con gái còn bảo sẽ tìm người đàn ông lớn tuổi, và giỏi giang, tình cảm như bố, có cơ đồ sáng sủa để lấy làm chồng. Không như mẹ, chỉ biết ru rú trong nhà, không có công danh sự nghiệp gì cả.
Bà chết lặng với ý nghĩ của con, muốn gào lên: “Con ơi, tấm chồng bỏ mặc vợ con để vui thú, nhậu nhẹt thỏa mãn đam mê riêng mình như cha thì cuộc đời con sẽ lặp lại khốn khổ như cuộc đời mẹ”. Nhiều lần bà ngửa mặt kêu trời hỏi vì sao mình hết lòng chu toàn cho chồng, con, cho gia đình mà vẫn khổ vì chồng?
Tới khi gặp bà Minh Tú (giảng viên về khoa học thiền định – PSSA Việt Nam), câu hỏi của bà mới được giải đáp. Theo đó, khi cha mẹ bất hòa sẽ mất đi sự kết nối, giữa họ tạo ra “lỗ hổng” để con cái xen vào. Họ vẫn ở với nhau vì những đứa con. Nhưng một trong những đứa con sẽ bị hút vào “lỗ hổng” đó.
Bà Minh Tú chia sẻ, theo tự nhiên, con gái được bố thương nhiều hơn. Còn theo quy luật năng lượng thì con gái bị thu hút về với cha. Ở khoảng trống đó, người chồng không đầy đủ năng lượng nên sẽ đối xử với con gái như cô công chúa bé bỏng.
Newton Kondaveti - bác sĩ y khoa nổi tiếng của Ấn Độ đã giải thích rằng, khi người bố không quan tâm tới mẹ nữa, thì con gái trở thành mối quan tâm hàng đầu với bố. Người cha sẽ khiến con gái yêu bố mình vô cùng.
Hậu quả sẽ là: Khi con gái trưởng thành, về năng lượng nó vô cùng trung thành với bố, nên rất khó có những mối quan hệ thành công với những người đàn ông khác. Cô ấy có thể xinh đẹp, giỏi giang, có thể hấp dẫn rất nhiều đàn ông, nhưng vẫn có thể ế chồng. Đó là vì trong vô thức cô ấy đã có ý nghĩ, nếu có quan hệ tốt với đàn ông là sẽ phản bội bố mình.
Nếu lấy được chồng, chưa chắc cô ấy đã có hạnh phúc, bởi trong tiềm thức cô ấy đi... tìm bố, chứ không phải tìm chồng. Đặc biệt chẳng may người bố chết sớm, thì từ trong vô thức cô ấy luôn khao khát tìm bố trong những người đàn ông, và cô ấy chỉ thích những người đàn ông cư xử với mình như với con gái.
Theo Giadinh.net.vn
Ngôi nhà chúng ta ở, văn phòng chúng ta làm việc có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi chúng ta. Chính những gì bên trong ngôi nhà phần nội thất quyết định cuộc sống của chúng ta, quyết định tạo nên nguồn khí lưu thông trong nhà. Phần nội thất áp dụng đúng luật phong thủy sẽ ảnh hưởng tốt tới chủ nhân của ngôi nhà, ngăn chặn điều xấu hạn chế những tai nạn có thể xảy ra. Ngược lại nếu không áp dụng đúng luật phong thủy trong xây cất nhà cũng có nghĩa bạn sẽ gặp phải nhiều điều xấu, khó khăn, căng thẳng, không vui. Nếu mọi người sống và làm việc trong một môi trường gây ảnh hưởng tới sự phát triển thì khó có thể thành công được.
Cấu trúc một ngôi nhà cũng giống như cấu trúc cơ thể của một con người, cửa xổ và cửa ra vào giống như cái mũi và cái miệng của ngôi nhà tách biệt luồng khí lưu chuyển bên trong luồng khí bên ngoài. Kích thước của cửa phải cân bằng với ngôi nhà, lối ra vào nhỏ thì cũng như cái miêng nhỏ khí vào ít làm giảm tiền tài của chủ nhân ngôi nhà, sức khỏe, hạnh phúc... Ngược lại nếu cửa ra vào quá rộng lớn khí sẽ vào quá nhiều. Để khắc phục nếu cửa nhỏ thì có thể đặt cái gương ở bên trên cửa hoặc 2 bên góc trên của cửa. Nếu cửa ra vào quá lớn có thể gắn một cái chuông ở bên trong để làm loãng bớt luồng khí lạnh.
Luật phong thủy tốt thường phù thuộc vào hình dạng, kích thước của cửa ra vào. Nếu cửa chính ra vào của ngôi nhà theo chiều hướng không tốt thì tai họa rủi do có thể xảy ra cho gia đình. Do đó một số người có thói quen chỉ vào nhà thông qua cửa bên hông.
Ví dụ: Một cô vợ người Trung Quốc sống ở Shek-O bảo rằng mọi điều tốt lành của gia đình theo cửa trước đi ra ngoài. Vì vậy cô ta khóa cửa trước lại mặc cho những phản đối của ông chồng người Châu Âu, mọi người từ phục vụ cho tới khách khứa đều phải vào nhà bằng cửa hông và mọi việc trong gia đình từ đó đã thay đổi rõ rệt trở nên tốt đẹp.
Lối vào của cửa nhà rất quan trọng theo Lin-Zun nói: "Nếu bạn là người nhạy cảm, bạn sẽ có những cảm giác khác nhau khi bước vào một ngôi nhà, có nơi làm bạn vui vẻ, có nơi làm bạn buồn bực và không thoải mái".
Người hoa thường có xu hướng xây dựng nhà với cửa ra vào đem lại nhiều tiện lợi cho chủ nhà hơn là khách đến chơi nhà. Cửa chính ra vào luôn là một yếu tố quan trọng có thể tạo nên luồng khí trong nhà. Nếu luồng khí quá ít hay bị phân tán ra ngoài thì chủ nhân sẽ trở nên nhút nhát, cô độc, buồn nản. Nếu khí được cân bằng lưu chuyển đầy đặn thì mọi việc sẽ phát triển tốt đẹp. Vì vậy một sự cân bằng giữa sáng và tối, xa và gần , cứng và mềm sẽ làm cuộc sống trở nên tốt đẹp
Cách tốt nhất là làm sao để bước vào ngôi nhà tạo cảm giác thoáng với cảm giác vui vẻ , thoải mái. Điều này sẽ làm cho hoạt động cảm xúc của chủ nhân ngôi nhà trờ nên phấn khởi không có cảm giác gò bó và ràng buộc. Cửa ra vào phải mở ra như thế nào để có thể nhìn thấy toàn cảnh nội thất bên trong là tốt nhất. Phòng khách và cửa của ngôi nhà có thể gây ảnh hưởng tới chủ nhân của ngôi nhà nếu không biết cách bố trí. Nếu phòng khách nhỏ quá so với cửa sẽ gây cản trở luồng khí đi vào trong nhà.
Để khắc phục lối ra vào của một căn phòng quá hẹp và bé chúng ta có thể treo 1 tấm gương lên bức tường đối diện để tạo cảm giác tăng diện tích và không làm cản trở luồng khí đi vào. Căn phòng sáng sẽ giúp tăng luồng khí, khi bóng đèn trong phòng bị hỏng nên thay một bóng khác sáng hơn chứ không nên thay một cái bóng tối hơn.
Người hoa họ thường tránh xây dựng cửa chính và cửa phụ thông nhau theo 1 hàng vì nếu xây dựng như vậy sẽ dễ gây bất đồng về ý kiến gây ảnh hưởng tới mối quan hệ trong gia đình, và cũng có thể ảnh hưởng tới tài lộc của gia đình.
Người trung hoa thường treo thêm 1 tấm rèm mỏng ở trước cửa ra vào để giảm bớt luồng khí bay theo đường thằng vào ngôi nhà cũng như các phòng. Một cách khác là nên xếp gường ngủ chung theo 1 dãy nhưng tốt nhất là treo thêm một cái chuông gió để làm phân tán bớt luồng khí mạnh bay thằng vào trong nhà.
Chiều hướng của cửa ra vào cũng có ý nghĩa quan trọng đối với chủ nhân của ngôi nhà, Một phương cách định hướng dựa vào hình vẽ bên dưới:
Các cửa đối diện bất cứ chiều hướng nào đều mang một ý nghĩa khác nhau cửa đối diện hướng bắc sẽ mang đến sự thành công trong kinh doanh, đối diện hướng nam là công danh , hướng Bắc sẽ mang lại cuộc sống gia đình hạnh phúc, và hướng tây sẽ là công danh của con cái. Cửa đối diện hướng đông bắc sẽ mang đến thành công trong học tập. Hướng đông tây sẽ hứa hẹn thành viên trong gia đình sẽ đi du học hay đi xa gia đình. Hướng đông nam sẽ mang đến sự giàu sang và hướng tây nam sẽ có nghĩa là vợ chồng giỏi dang.
Bánh trôi bánh chay là những loại bệnh quen thuộc không thế thiếu trong ngày Tết Hàn Thực. Ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu? Từ đâu mà có ngày này? Chúng ta hãy cùng thư viên Xem bói đi tìm hiểu rõ hơn về ngày này ngay sau đây.
Khi được hỏi về ngày bánh trôi bánh chay, có lẽ ai cũng biết đó là ngày Tết Hàn Thực, tuy nhiên khi được hỏi ngày bánh trôi bánh chay là ngày bao nhiêu thì lại không nhiều bạn biết được chính xác.
Tết Hàn Thực hay tết bánh trôi bánh chay được tổ chức vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm. “Hàn thực” có nghĩa là “thức ăn lạnh”. Ngày tết truyền thống này xuất hiện tại miền bắc Việt Nam và ở một số tỉnh của Trung Quốc.
Hàng năm vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, những gia đình có thời gian họ sẽ tự làm bánh trôi bánh chay, còn với những gia đình quá bận rộn họ có thể mua sẵn ở chợ về để cúng lễ gia tiên. Đây không chỉ là ngày thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống mà nó còn là nét đẹp trong nghệ thuật ẩm thực.
Xem thêm: Giải mã hiện tượng nháy mắt phải, giật mắt trái
Theo nghĩa chữ Há, hàn có nghĩa là lạnh, thực là ăn, Tết Hàn Thực là Tết ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này bắt nguồn từ Trung Quốc, theo một câu chuyện ly kỳ truyền tụng qua nhiều đời.
Chuyện kể lại rằng, trong thời Xuân Thu những năm 770 – 221, vua Tấn Văn Công thuộc nước Tấn, vì gặp loạn nên đã phải bỏ nước để đi lưu vong bên nước Tề, nước Sở. Một hôm trên đường đi lánh nạn, do lương thực cạn kiệt nên hiền sĩ có tên Giới Tử Thôi đã phải cắt lén một miếng thịt trên đùi mình nấu để dâng lên vua. Sau khi vua phát hiện ra hết lòng cảm kích.
Giới Tử Thôi đã theo hầu vua Tấn Văn Công liền 19 năm trời, chịu nhiều khổ cực vô cùng. Nhưng khi Tấn Văn Công giành lại được ngôi vua, giành lại được nước Tấn, đã phong thưởng cho tất cả mọi người trừ Giới Tử Thôi. Tuy nhiên Giới Tử Thôi không vì thế mà oán hận. Ông đưa mẹ về núi Điền Sơn ở ẩn. Sau vua Tấn nhớ ra và cho người đi tìm Giới Tử Thôi tuy nhiên ông không còn màng tiền bạc danh vọng vì vậy nhất quyết không về lĩnh thưởng. Vua thấy vậy liền sai người đốt rừng nhằm thôi thúc Giới Tử Thôi về nhưng không ngờ cả 2 mẹ con Giới Tử Thôi quyết chí không quay trở lại, cuối cùng chịu chết cháy trong rừng.
Nhà vua vô cùng hối hận, đã cho lập miếu thờ. Hàng năm đến ngày 3 tháng 3 tức ngày chết cháy của Giới Tử Thôi, nhà vua cấm tất cả nhân dân không được nấu lửa trong ngày này. Từ đó ngày 3 tháng 3 được gọi là Tết Hàn Thực.
Khác với Tết Hàn Thực của Trung Quốc, ở nước ta vào ngày này mọi người vẫn nấu nướng bình thường, chỉ là sáng tạo ra 2 loại bánh trôi và bánh chay với ý nghĩa tượng trưng cho thức ăn nguội - hàn thực để tỏ lòng thành kính tưởng nhớ đến những người đã khuất mà thôi.
Theo truyện, năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng biết mình sắp chết trong khi sự nghiệp vẫn dở dang, ấu chúa vẫn còn nhỏ tuổi chưa cáng đáng được sự nghiệp. Ông quyết định làm phép cầm sao giữ mạng để chống lại mệnh trời hòng sống thêm 1 giáp nữa. Trong khi ông lập đàn thất tinh cần phải 7 ngày yên tĩnh không ai quấy rầy. Nhưng đến ngày thứ 6, vì việc quân khẩn cấp, một tướng đã xộc vào nơi ông đang làm phép. Bởi thế việc cầm sao thất bại.
Tuy nhiên dưới góc nhìn của Tử vi học, cái căn bản nhất đối với người mệnh vô chính diệu là không thể thọ được. Các sách Tử vi lưu truyền từ xưa đều có câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”. Gia Cát Lượng dù có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi định mệnh cho người mệnh vô chính diệu là: Giàu thì chết sớm mà nghèo thì thọ hơn.
Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Tùng viết: “Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông quá nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì dù sát nghiệp của ông nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số mệnh Vô chính diệu?”.
Ở một sách về Tử vi khác là cuốn Tử vi thực hành thì chỉ ra rằng năm 54 tuổi, Gia Cát Lượng gặp đại hạn ngộ Thái Tuế và một loạt sao xấu cho nên không thể qua được mà phải chết. Cuốn sách viết: “Số Gia Cát có Tả hữu đồng cung Thái dương ở mão, Thái âm ở Hợi gọi là Nhật Nguyệt tinh minh cách, nên số cực phú quý, tài năng lỗi lạc. Năm 54 tuổi, đại hạn ngộ Thái Tuế, Thiên Thương, Hóa kỵ, Đại, tiểu hao, Kình Đà nên chết”.
Gia Cát Lượng là người mệnh Mộc. Có sao mệnh chủ là Văn Các, đây là sao nói về khả năng sư phạm tài ba, cộng với sao điếu khách ở cung mệnh, có thể khẳng định ông là người có tài ăn nói, tài về diễn thuyết, tuy nhiên cung của ông là Kim, khắc với mệnh là Mộc nên không thể thọ lâu được. Chính vì Mộc với Hỏa và Thủy nên Gia Cát Lượng là người sử dụng hỏa công rất giỏi.
Tại cung quan của Gia Cát Lượng có sao Thái Âm miếu địa, lại có Thiên Cơ vượng địa xung chiếu cộng với các sao Quốc ấn thiên mã, điều này khẳng định Gia Cát Lượng là người có công danh cao và sớm thành danh. Dưới thời nhà Thục (221- 263), Gia Cát Lượng giữ chức quân sư, nhưng thực chất là thừa tướng, chỉ sau vua, nắm mọi quyền hành của nhà Thục Hán. Gia Cát Lượng còn là người có tài dùng binh, vì xung chiếu với cung quan lộc, ông có sao Quốc ấn, Tướng Quân, đấy là những sao thể hiện quyết đoán của những vị tướng.
Ở cung Nô Bộc của ông có sao Văn Xương, Thiên Hỷ, điều này cho thấy dưới quyền của Gia Cát Lượng có nhiều tướng lĩnh tài ba phò trợ cho ông gây dựng nghiệp lớn. Tuy nhiên, cung ở cung Nô Bộc lại có những sao xấu như Thiên Hình, Hóa Kỵ và Tuần nên ông cũng bị kẻ dưới trở cờ làm phản không tuân lệnh (với như Mã Tốc, Ngụy Diên).
Khổng Minh cực kỳ giỏi về thiên văn và các tướng số cũng như phong thủy, nên trong những trận đánh cụ thể, ông đã bài binh bố trận chặt chẽ để giành những thắng lợi huy hoàng (ví dụ trận Xích Bích, Tân Dã, Bái Vọng…). Khi đó, theo Lưu Bị buổi ban đầu, đất và quân không có nhiều, Gia Cát Lượng đã biết xoay chuyển tình thế, vào đất Tây Thục. Dựa vào vùng hiểm trở của đất ấy tạo ra thế chân vạc của thời Tam Quốc. Tuy nhiên, trong thuật dùng binh có những trận đánh vì đại cuộc, Gia Cát Lượng đã tiêu diệt rất nhiều sinh linh. Chính vì vậy mà tuổi thọ của Gia Cát Lượng không cao được. Là người hiểu thời thế, ông biết là vận mệnh của nhà Hán đã suy nhưng vẫn một lòng phò tá Lưu Bị dựng đại nghiệp, mặc dù biết thiên thời không đứng về phía mình.
Trong cuộc đời chinh chiến 27 năm, Gia Cát Lượng đã dùng tài trí của mình xoay đổi càn khôn, chuyển bại thành thắng, nhưng đối với vận mệnh của bản thân thì thường không xoay đổi được.
Trước khi mất, khi xem Thiên tướng, ông cũng biết được, vận mình đã hết nhưng vì muốn sống thêm 12 năm (1 giáp) nữa để phò tự nhà Hán thống nhất thiên hạ, nên Gia Cát Lượng đã đăng đàn, xin tuổi thọ, nhưng đúng vào thời khắc cuối cùng thì ngọn nến bản mệnh bị tắt do Ngụy Diên chạy vào trướng bị gió thổi vào, vì vậy mà ông không thể sống được nữa.
Tương truyền đây là lá số của Khổng Minh Gia Cát Lượng:
Còn đây là bài luận giải của cụ Thiên Lương:
Ở bài trước, việc chấm phá vài nét cơ bản trong lá số Tào Tháo như một ví dụ làm rõ hơn mối quan hệ tương hỗ giữa các yêu tố “cung” và “sao” trong môn Tử vi. Hai yếu tố này được ví như hai phần “thế” và “lực” khi lượng định, xét đoán từng cung, từng đại vận, từng nội dung của lá số. Tiếp theo, bàn về chữ “thời” và sự đắc thời hay lỡ thời, lá số của Khổng Minh (181 – 234 sau Công Nguyên) lại cho chúng ta một góc nhìn khác, để biết chữ “thời” quan trọng thế nào trong cuộc đời và sự nghiệp mỗi con người. Chả thế mà có câu: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công.” Đến như quân sư Khổng Minh – một kỳ nhân có tài “hô phong hoán vũ, liệu việc như thần”, được người đời sau xếp đứng đầu trong “tam tuyệt” thời Tam Quốc, trên cả hai người là Tào Tháo và Quan Vũ, cũng không thể vượt qua được chữ “thời” – như một cửa ải mang tính định mệnh này.
“Mệnh tốt không bằng Thân tốt, Thân tốt không bằng Vận tốt”
Đây là câu phú mà ít ai đã quan tâm đến các môn Lý học, nhất là Tử vi lại không thuộc nằm lòng. Thật ra, không thể hạ thấp giá trị và tầm quan trọng của cung Mệnh, cung an Thân, nhưng yếu tố thời vận, tức là chữ “thời” trong lá số nhiều khi có ý nghĩa quyết định thành bại của một đời người, nhất là về hậu vận. Có những người không may có cung Mệnh, Thân bất lợi, nhưng vào tuổi trưởng thành gặp được vận tốt, thoả chí phát huy được năng lực của mình trong một bối cảnh thuận lợi, gọi là cách: “Khô mộc phùng xuân” (cây khô gặp được mùa xuân), với một đại vận 10 năm đắc cách cũng đã thoả nguyện lắm rồi. Trường hợp này ví như hành trình cuộc đời trên một chiếc xe yếu, công suất thấp nhưng được đi trên đường cao tốc, lại gặp mưa thuận gió hoà nên vẫn bình ổn đi đến đích. Ngược lại, Mệnh – Thân có tốt mà vận quá xấu, ví như chiếc xe to đẹp, mạnh mẽ nhưng phải đi trên con đường núi hiểm trở, nhiều mưa to bão lớn nên luôn gặp trở lực, đời nhiều thăng trầm, thành quả không có là bao; khi ấy ý chí và nỗ lực bản thân đóng vai trò quyết định. Tệ nhất là khi Mệnh, Thân đã xấu mà vận cũng xấu, khi ấy tương lại mịt mờ, suốt đời nghèo khó, gian nan vất vả, khổ nạn liên miên, sức người dù có cố làm cũng chỉ cải thiện được phần nào. Vấn đề của nhiều người là: Nếu có vận tốt, liệu có biết và tận dụng được các vận hội đắc cách ấy trong cuộc đời mình, hay là để lỡ thời rồi cuối đời phải nuối tiếc, ân hận!
Vậy thế nào là một “vận” tốt? Trong Tử Vi phân ra: Đại vận (10 năm), niên vận (1 năm), nguyệt vận (1 tháng), nhật vận (1 ngày), thời vận (1 canh giờ). Cách thức lấy từng loại vận trong một lá số và phương pháp xét đoán vấn đề vận hạn khá phức tạp và dài dòng nên xin hẹn quý vị ở một bài chi tiết khác riêng cho vấn đề này. Ở đây xin khái lược về đoán định Đại vận; các “vận” khác về cách thức xem xét cũng không khác nhau là mấy, nhưng theo nguyên tắc: “Dĩ trường chế đoản” – tức là các “vận” dài quyết định các “vận” ngắn. Đại vận tốt thì tiểu có tiểu vận có xấu cũng không quá đáng ngại; còn tiểu vận nếu rực rỡ nhưng trong một Đại vận đắc cách, như thế mới là thật sự thuận lợi và đắc thời. Khi xem xét một đại vận, cần đồng thời quan tâm đến cả 3 yếu tố:
Thiên thời: Xét cung cần xem xét trong tam hợp cung nào? Rồi xét tam hợp cung ấy so với tam hợp tuổi theo phép sinh – khắc để đưa ra nhận định
Địa lợi: Xét âm – dương, ngũ hành của cung cần xem xét so với bản mệnh của mình: Tốt nhất là được sinh nhập, nếu bình hoà thì tạm ổn, kém nhất là mệnh bị khắc nhập hay bị sinh xuất. Khi ấy thành quả (nếu có) thường không trọn vẹn, được việc này dễ hỏng việc khác, có khi sa sút, đổ vỡ hay phá sản.
Nhân hoà: Xét tương tác các bộ sao của cung xem “vận” có hợp với các sao ở cung Mệnh, nhất là chính tinh hay không? Chú ý các sao Tứ Hoá, lục sát tin, nhất là các sao hợp hành với bản mệnh. Khi ấy, vai trò của các sao hợp nhau thành bộ đóng vai trò quyết định.
Thông thường, khi quyết đoán một vận tốt cần chí ít 2 trong 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” kể trên. Nếu may được cả 3 sẽ là vận tối hảo, nhưng trường hợp này rất hiếm. Còn lỡ khi gặp vận mất cả 3 yếu tố trên, nếu khinh xuất mà vọng động thì sẽ cầm chắc thất bại. Khi ấy, chỉ nên ẩn nhẫn chờ thời, “dĩ tĩnh chế động”, lấy tiêu chí bình ổn làm đầu để chờ cho qua vận xấu, rồi mới khởi sự làm ăn, đầu tư lớn hay các quyết định quan trọng về sự nghiệp, công danh.
Quân sư Khổng Minh – người lỡ thời với đại nghiệp “phục Hán”
Khổng Minh tên thật là Gia Cát Lượng, là người có tài kinh bang tế thế, một nhà chiến lược thiên tài, xuất sắc nhất trong thời Tam Quốc, đến mức người đời sau so với một thiên tài quân sự lớn khác là Tôn Tử. Từ năm 27 tuổi theo phò Lưu Bị đến khi về trời năm 54 tuổi, ông đã tận tâm tận lực giúp họ Lưu dựng lên đại nghiệp, cùng Tôn Quyền đại thắng trận Xích Bích, khiến cho Tào Tháo tơi tả, hồn xiêu phách lạc, rồi lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, bình Mạnh Hoạch, dưng nước ở đất Thục. Cùng với nước Nguỵ ở phía BẮc, Ngô ở phía Đông, Lưu Bị hoàn thành đế nghiệp, tạo thành thế chân vạc chia 3 thiên hạ. Thế nhưng, trời chẳng chiều người, biết vận nhà Hán đã tận mà ông vẫn cố cưỡng cầu chống đỡ đến cùng. Sáu lần tiến binh ra Kỳ Sơn dang dở, khiến cho ông lâm vào cảnh thể chất suy nhược, sức khoẻ hao tán. Đến lần thứ 6, tại gò Ngũ Thượng, biết mệnh mình sắp hết, ông đành: “Sai tả hữu vực lên chiếc xe nhỏ ra trại, đi xem hết dinh. Gió đông rát mặt, lạnh buốt đến xương, mới thở dài than rằng: Từ nay ta không được ra trận nữa. Trời xanh thăm thẳm, hận này biết bao giờ nguôi!” Ông hận ai? Với nhân thế thời ấy không đối thủ, ông hận cõi cao xanh kia đã bắt mình chịu yểu mệnh, hận chữ “thời” đã không ở lại với mình, để ông có thể dốc sức hoàn thành tâm nguyện “phù Hán” một cách trọn vẹn.
Theo sách sử, Khổng Minh sinh vào giờ Tuất, ngày 10/04 năm Tân Dậu (năm 181 dương lịch). Lá số âm nam, mệnh Mộc, thế cục “Kim tức cục” khắc mệnh, cung mệnh ở Mùi (âm Thổ) cũng bị mệnh khắc, đủ thấy sự nghiệp cuộc đời ông mất phần “thiên thời” mà chủ yếu nhờ vào nỗ lực bản thân. Ông có mệnh Vô Chính Diệu, tuy đắc cách cả bộ Tả Phù – Hữu Bật nhưng không có phụ tinh hay sát tinh hợp hành mệnh làm nòng cốt, cũng không có thể “đắc tam Không” nên vướng vào trường hợp: “Phi tần tắc yểu, tam vô tự” (nếu không nghèo tất yểu mệnh hoặc không có con trai). Trường hợp yểu mệnh của ông chính là vì thế. Điểm đặc sắc chính là cách: “Nhật Nguyệt chiếu hư không”: Sao Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi chiếu lên mệnh ở cung Mùi, khiến ông trờ thành một tuyệt thế kỳ nhân, thông minh quán chúng, biết người và tỏ cả việc trời, dám đông đến thiên cơ. Cung an Thân ở cung Mão, có Thái Dương (thuộc Hoả), Thiên Lương (thuộc Mộc) mới chính là cốt cách của ông, là thiên chức của người đảm nhận phận sự phò tá dựng nghiệp cho các bậc Vương Đế. Nhưng vì là mệnh Mộc phải sinh Hoả (Thái Dương) nên sự nghiệp và danh vọng càng rực sáng thì tinh khí và thể chất của ông càng sớm hao mòn, khô kiệt. Bộ sao Bệnh, Thiên Hư, Tuế Phá đóng ở cung an Thân càng làm rõ thêm điều này.
Với cung Quan Lộc ở Hợi, có sao Thái Âm (Thuỷ) với người mệnh Mộc là tuyệt hảo, nên chức Thừa tướng với ông là chuyện quá đỗi bình thường. Nhưng cung này có bộ Cô Thần – Quả Tú và Tang Môn, Phục Binh nênoong là người cô đơn trong các ý tưởng và mưu cơ siêu việt của mình, cũng hay bị xàm tấu, ganh ghét chống phá sau lưng. Sao Thiên Mã – tượng trưng cho tài năng, nghị lực được đóng chính cung Hợi (thuỷ Mã) mới thực là thần diệu: Nó không còn là “cùng đồ mã” (ngựa hết đường chạy) mà rất đắc dụng với người mệnh Mộc như ông. Cùng với sao Điếu Khách, Thanh Long ở mệnh, Hoá Quyền ở cung Tài (cung an Thân), sao Thiên Mã này giúp ông trở thành nhà hùng biện, thuyết khách với văn tài xuất chúng. Xét về vận, Đại vận 44 – 53 tuổi của ông ở cung Mão – hợp với mệnh Mộc nên ông được phần “địa lợi”, tiếc rằng mất phần “thiên thời” do tam hợp Hợi, Mão, Mùi (thuộc Mộc) bị phía đối nghịc là cung Dậu, trong tam hợp Kim (Tỵ, Dậu, Sửu) khắc chế rất nặng. Đến phần “nhân hoà”, về đại cục thì có thuận lợi, nhưng lũ bất tài và bọn tiểu nhân cũng nhiều (sao Bệnh, Tuế Phá, Thiên Hư, Địa Kiếp) mà người mang lá số “văn cách” như ông nhiều khi khó mà trị được cho đến nơi đến chốn.
Cuối đại vận này, biết mình yểu mệnh, vận số đã tận, ông thành tâm lập đàn “Nhương tinh cầu thọ” nhưng chịu thất bại, ngọn nến bản mệnh đã vụt tắt ở phút cuối. Phải chăng trong dặm dài chinh phạt thiên hạ, ông đã gây ra quá nhiều oán nghiệp: Từ trận Xích Bích hàng trăm vạn người máu chảy đầu rơi, thây trôi đầy dòng Trường Giang, đến các chuyến bình Nam đã tàn sát, đốt cháy quân Man; mưu đống hang Thượng Phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý và hàng vận quân nhưng trời mưa như trút nên họ Tư Mã thoát nạn… Thật là, khi một triều đại mà khí số đã tận, tức một người dẫu quảng bác, thần thông như quân sư Gia Cát Lương cũng chỉ kéo dài được một năm hữu hạn, chứ không thể vượt lên khỏi lẽ tối thượng cho cõi cao xanh. Vậy nên có câu rằng: “Cho hay thành bại ở đời, hơn nhau chỉ một chữ “thời” mà thôi!”
Vì tuổi Dần xung với tuổi Thân nên khi đặt tên cho người tuổi Dần bạn cần tránh những từ thuộc bộ Thân, bộ Viên như: Thân, Viên, Viễn, Viện…
Tuổi Dần cũng tương khắc với tuổi Tỵ, vì vậy những tên chữ thuộc bộ Quai xước - tượng hình như con rắn - cũng cần tránh. Ví dụ như: Tuần, Tấn, Phùng, Thông, Liên, Tiến, Đạo, Đạt, Vận, Thiên, Tuyển, Hoàn, Vạn, Na, Thiệu, Đô, Diên, Đình, Xuyên, Hồng, Thục, Điệp, Dung, Vĩ, Thuần…
![]() |
Tên người tuổi Dần cần biểu thị sự oai phong, lẫm liệt |
Hổ được ví là “chúa tể rừng xanh”, thích sống ở rừng sâu núi thẳm, nơi vắng bóng người và là loài không thích bị chế ngự. Vì vậy, bạn cần tránh dùng tên có bộ Nhân, bộ Sách như: Nhân, Giới, Kim, Đại, Trượng, Tiên, Tráng, Trọng, Doãn, Bá, Hà, Tác, Ý, Bảo, Tuấn, Luân, Kiệt, Kiều, Đắc, Luật, Đức…
Hổ thường sinh sống trong rừng âm u và không thích nơi có nhiều ánh sáng. Do đó, những chữ có bộ Nhật, bộ Quang - mang nghĩa biểu thị ánh sáng cũng cần tránh. Ví dụ như: Nhật, Đán, Tinh, Minh, Vượng, Xuân, Ánh, Tấn, Thời, Yến, Tính, Huân…
Khi hổ xuống đồng cỏ hoặc xuống ruộng lúa thì sẽ mất đi quyền năng của chúa tể rừng xanh và dễ mắc bẫy. Những chữ có bộ Thảo, bộ Điền như: Phương, Hoa, Vân, Chi, Phạm, Hà, Anh, Danh, Trà, Vinh, Bình, Như, Thanh, Cúc, Lệ, Dung, Vi, Cương… cũng cần tránh khi đặt tên cho người tuổi Dần.
Khi hổ nhe nanh là biểu thị có sự chẳng lành. Vì vậy, những chữ thuộc bộ Khẩu như: Đài, Khả, Thượng, Đồng, Hợp, Hậu, Cát, Như, Hòa, Đường, Viên, Thương, Hỉ, Gia, Quốc, Viên, Đoàn… cần được loại bỏ.
Hổ và rồng luôn tranh đấu (long hổ đấu), vì vậy những tên có chứa chữ Long, Thìn, Bối như: Thìn, Long, Trinh, Tài, Quý, Phú, Thuận, Nhan… không phải là sự lựa chọn tốt cho người tuổi Dần.
Hổ bị giam giữ trong nhà sẽ mất hết uy phong, do đó tên người tuổi Dần không nên có những chữ thuộc bộ Môn như: Nhàn, Nhuận, Lan…
Hổ phải to, khỏe mới có được vẻ oai phong, lẫm liệt. Vì vậy, tên người tuổi Dần cần tránh những từ biểu thị nghĩa nhỏ, yếu như: Tiểu, Thiếu...
Theo Đặt tên cho con theo 12 con giáp
![]() |
Cắm hoa ngày Tết |
Sai lầm phong thủy “truyền miệng” có thể khiến gia đình bạn gặp họa với lửa hoặc nước. Bài viết dưới đây nói đến Những lỗi phong thủy ngớ ngẩn rước họa vào nhà.
Nội dung
Trong phong thủy, cóc 3 chân ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một linh vật rất được ưa chuộng sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy, Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó.
Có nhiều gia đình hay hay trưng bày cóc ngậm tiền ở bàn thờ thổ địa, thần tài, ban ngày cho cóc hướng ra ngoài cửa, tối đến quay cóc hướng vào trong nhà. Tuy nhiên, đó là một lỗi phong thủy xua đuổi “tài vận”, vì những linh vật khi đã trưng bày không nên quay đi quay lại nhiều lần, theo nhiều hướng. Cách tốt nhất và đúng nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.
Những lỗi phong thủy ngớ ngẩn khiến bạn rước họa vào nhà – ảnh 2
Một số vị trí cực kỳ kiêng kị khi đặt cóc ngậm tiền: trong phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Nếu đặt ở những vị trí này thay vì mang tài lộc đến thì cóc lại trở nên hung dữ mang lại vận rủi, tàn phá năng lượng tốt đẹp của gia chủ.
Tất cả mọi nhà đều cần nhiều nước – yếu tố phong thủy giúp thu hút nhiều lợi nhuận và tài lộc. Nhiều gia đình quan niệm khi bị hết nước thì tài lộc sẽ ngừng do vậy họ hay tích trữ nước trong các chai nước lớn ở khắp các ngõ ngách trong nhà.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia phong thủy thì điều đó hoàn toàn bất hợp lý. Nguồn nước tốt nhất khi dòng chảy được xuyên suốt, và trong phong thủy cũng vậy. Sai lầm phong thủy khi tích trữ nước chỉ khiến cho tiền tài ứ đọng và không được sinh sôi, nảy nở.
Nhiều người thích sống gần chùa chiền, nghĩa trang, nhà thờ. Họ cho rằng những nơi đó tôn nghiêm và sẽ giúp mang đến nhiều điều tốt lành. Tuy nhiên, những khu vực này sẽ tích tụ nhiều năng lượng âm khiến phong thủy suy giảm.
Những gì một ngôi nhà cần nguồn năng lượng tổng thể nghiêng về dương một chút bởi vì đó là một ngôi nhà của người sống – cần có rất nhiều ánh sáng, sự chuyển động, và hài hòa của các yếu tố. Do đó, gia chủ nên chọn sống ở những khu vực có bầu không khí sôi động với phong cảnh đẹp xung quanh nhà cùng nội thất bắt mắt. Khi một ngôi nhà bị thiếu năng lượng dương, gia chủ sẽ gặp các vấn đền về sức khỏe, thiếu tiền, các mối quan hệ gặp khó khăn, tai nạn, thương tích, v.v.
Treo một quả cầu thủy tinh lên cửa sổ để phản xạ ánh sáng mặt trời là một trong các biện pháp phong thủy thu hút năng lượng tốt. Tuy nhiên bạn đừng lạm dụng nó. Cầu thủy tinh hình tròn – tượng trưng cho nguyên tố đất. Do đó nếu treo nhiều sẽ mang năng lượng âm rất lớn đến cho căn nhà, thậm chí không khác gì âm khí ở nghĩa trang vậy.
Không phải tất cả các phòng tắm đều làm ô uế nguồn năng lượng phong thủy của ngôi nhà. Trong thực tế, bạn không cần quá để ý đến nó vì có thể giúp gia tăng phong thủy trong nhà bằng cách kích hoạt năng lượng trong các góc của căn nhà tương ứng với phòng tắm. Ví dụ, nếu phòng tắm của bạn là ở góc Đông Nam – ảnh hưởng đến tiền tài, bạn có thể tập trung đẩy mạnh phong thủy ở góc Đông Nam của phòng khách của bạn để giúp tạo ra nhiều của cải hơn và thu hút nhiều tài lộc.
Đôi khi mọi người cố gắng hài hòa tất cả mọi thứ và chính sai lầm phong thủy này gây ra vấn đề. Ví dụ như dùng tông màu đỏ tươi cho nhà bếp để kết hợp với nguyên tố lửa. Tuy nhiên, bạn biết đó: nhiều lửa sẽ gây cháy. Cũng tương tự như vậy với phòng tắm được dùng tông màu xanh dương và những rèm cửa hình bãi biển. Nhiều nước sẽ gây lụt lội, chết đuối. Hài hòa là tốt nhưng khi cái gì quá lên thì sẽ là vấn đề.
Đừng chỉ mù quáng tin vào các mẹo phong thủy truyền miệng. Thậm chí nhiều trong số các thầy phong thủy cũng chỉ là các tay mơ ba hoa phét lác để kiếm tiền mà không có chút kiến thức nào cả. Nhiều gia đình thậm chí còn đặt gương ở phía trên bồn cầu và buộc ruy băng đỏ vào vòi nước bồn rửa chén – không có một tác dụng nào cả. Phong thủy không chỉ là vấn đề tâm linh mà nó chỉ thực sự có tác dụng khi hợp lý và thực tế. Ngôi nhà bạn sẽ có phong thủy tốt khi được bài trí đẹp và hợp lý.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Chúng ta thường đi tìm một cái gì bên ngoài để mang lại cho mình hạnh phúc như vật chất, nhà cửa, xe hơi, máy móc, tiện nghi, … hoặc tình cảm gia đình, thân quyến, bạn bè, người yêu, … hoặc danh vọng, địa vị, lý tưởng. Ta khát khao tìm kiếm vì tưởng mình nghèo nàn, thiếu thốn, tâm luôn phóng ra ngoài chạy theo trần cảnh.
Bài quán chiếu dưới đây nhắc bạn nhớ lại những viên ngọc quý mà bạn đã có, chỉ cần lấy ra dùng là sẽ có hạnh phúc.
Sau đây là 7 điều hạnh phúc cần quán chiếu:
Trên đời này quý nhất là sự sống. Tất cả sinh vật từ côn trùng, sâu bọ, thú vật cho đến con người, loài nào cũng tham sống sợ chết. Giả sử bây giờ phải lựa chọn giữa trúng số độc đắc mà chết và sạt nghiệp mà sống thì bạn sẽ lựa cái nào ? Ở đời ai cũng lo đi tìm tiền của, nhưng thật ra tiền của chỉ để bảo đảm sự sống an toàn, tiện nghi. Có nhiều người giàu sang sẵn sàng chi hết tiền của để cứu lấy mạng sống. Như thế đủ thấy sự sống quý hơn tiền bạc, quý hơn gấp trăm ngàn, triệu ngàn lần. Ngay cả một tỷ đô la cũng không mua nổi mạng sống khi bị bệnh ung thư hay sida (aids). Vậy mà sáng nay mở mắt thức dậy còn sống, bạn có thấy mình hạnh phúc không ?
Mỗi khi cảm thấy khổ đau, chán nản hay tuyệt vọng thì hãy nhớ lại ta đang còn sống đây. Còn sống thì còn tất cả.
Sự sống quý nhất trên đời, sức khỏe quý nhất trong sự sống. Có sức khỏe không có nghĩa là phải khỏe như lực sĩ thế vận hội mà chỉ cần không đau nhức, bệnh hoạn, không có bệnh trầm kha, nan y, v.v… Ở đời mấy ai tránh khỏi bệnh tật, không bệnh này thì bệnh nọ. Bệnh nặng như ung thư hay sida phải có thuốc giảm đau như morphine mới chịu nổi, nếu không thì đau đớn rên siết như bị hành hình ở địa ngục, bệnh nhẹ như cảm cúm, sổ mũi, nhức đầu cũng làm cho ta mệt mỏi, khó thở, đau nhức. Mỗi khi khỏe mạnh, không bệnh hoạn thì ta hãy mừng rỡ ý thức đó là một hạnh phúc. Có nhiều tiền mà bệnh hoạn liên miên, ăn không được, ngủ không yên, hết nằm nhà thương này đến nhà thương nọ, có tiền như vậy đâu có sướng !
Mỗi khi cảm thấy khổ đau, chán nản hay tuyệt vọng thì hãy nhớ lại ta đang còn sức khỏe đây. Còn sức khỏe thì còn làm được tất cả.
Có nguời đầy đủ sức khỏe nhưng lại bị mù, điếc, hoặc câm, què, tàn tật, v.v… Những người này dù có tiền, có sức cũng đâu sung sướng gì ! Bạn có thể tưởng tượng nếu bây giờ bị mù thì bạn sẽ ra sao ? Chỉ cần nhắm mắt lại trong năm, mười phút đi tới đi lui trong nhà mình xem. Bạn có hiểu được nỗi khổ của người mù không ? Vậy mà bạn đang còn đôi mắt sáng thấy được trời xanh, mây trắng, tai nghe được chim hót, nhạc hay, mũi ngửi được mùi cơm thơm, miệng nói năng được với người thương, thân không què quặt, tâm không điên loạn. Như vậy còn đòi hỏi gì hơn ? Chỉ cần mất đi một căn thôi đời bạn sẽ mất đi rất nhiều ý nghĩa.
Dù ở trong cảnh khổ nào đi nữa, nhớ lại mình còn nguyên vẹn sáu căn cũng đủ an ủi và xóa tan đi mọi niềm đau.
Tự do ở đây là không bị tù đày chứ không có nghĩa chính trị hay tôn giáo. Bởi vì theo giáo lý, tất cả chúng ta đều là tù nhân của ba cõi sáu đường. Chỉ khi nào thoát khỏi sinh tử luân hồi mới thực sự là tự do.
Hiện tại bạn có đang ở tù không ? Có đang bị trói buộc, xiềng xích không ? Có ai cấm bạn đi đứng nói năng, ăn uống không ? Có ai đánh đập theo dõi kiểm soát bạn không ? Bạn có biết đời sống trong tù ra sao không ? Dù đó là tù ở Pháp, ở Mỹ ? Có thể bạn nghĩ tù ở các xứ văn minh giàu có thì sướng hơn ở xứ nghèo chăng ? Ở Mỹ nhân viên cai tù không hành hạ tù nhân nhưng chính những người tù đánh đập, áp bức, hiếp dâm lẫn nhau rất dã man.
Ngay bây giờ nhìn lại, bạn có thấy mình được tự do đi đứng nói năng không ? Nhớ ai thì lên xe rồ máy đi thăm, thèm ăn món gì thì ra chợ mua hoặc đi nhà hàng, v.v… Có biết bao người đang bị tù đày khổ sở, trong đầu chỉ ao ước được tự do như bạn là họ sung sướng lắm. Vậy mà đang sống tự do bạn có cảm thấy hạnh phúc không ? Nếu không thì bạn hãy ý thức và nhớ lại đi, đừng để khi mất tự do rồi mới mơ ước thì quá muộn.
Tiện nghi vật chất không hẳn là nhà cao cửa rộng, xe hơi, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy rửa chén, v.v… Tiện nghi ở đây là những thứ căn bản mà phần đông chúng ta đều có, đó là cơm ăn, áo mặc, chỗ ở che mưa nắng, không phải đi ăn xin, ngủ đầu đường xó chợ. Nhiều người ở Việt Nam vẫn tưởng rằng sống ở Pháp hay Mỹ chắc sướng lắm vì đầy đủ tiện nghi, họ đâu biết là ở đâu cũng có kẻ giàu người nghèo. Ngay tại Paris, thủ đô ánh sáng, hàng ngày vẫn có nhiều người ăn xin vô gia cư, tiếng pháp gọi là SDF (sans domicile fixe), ngửa tay đi xin tiền trong xe điện ngầm (métro), tối đến họ chui vào những gầm cầu thang để ngủ. Nhìn lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì ta vẫn còn may mắn hơn nhiều người. Hãy nhìn lại hoàn cảnh của mình, bạn có đói đến nỗi thiếu ăn không ? Có nghèo đến nỗi không còn mảnh vải che thân ? Nếu chưa đến nỗi như vậy thì bạn hãy xem mình đầy đủ. Khi tâm biết đủ (tri túc) thì bao nhiêu cũng đủ, khi tâm tham muốn đòi hỏi thì bao nhiêu cũng không đủ. Người biết đủ là người giàu có hạnh phúc vì không thấy thiếu thốn, người tham lam keo kiệt dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo vì không bao giờ thấy đủ.
Nhiều người khổ sở vì cảm thấy cô đơn, không có ai thương mình hết. Không ai thương mình bởi vì mình đâu có thương ai. Khi trong lòng ta tràn đầy tình thương thì tự nhiên nó tỏa ra và mọi người sẽ tìm đến. Giống như mùa xuân hoa nở thơm ngát thì tự động ong bướm bay tới xung quanh. Ai cũng có một trái tim, tiếng Hán là tâm, bản chất của tâm (tim) là thương yêu. Ta có dư tình thương cho chính mình và cho kẻ khác. Chỉ cần nhớ lại mình có trái tim thương yêu và đem ra xử dụng. Nếu chưa nhớ thì bạn hãy thực tập phép quán từ bi ở phần trước.
Hiện tại bạn có ai là người thân thương không? Có cha mẹ, anh em, vợ con, bạn bè không? Có ai đang thương và lo lắng cho bạn không? Có tình thương, biết thương và được thương là một hạnh phúc lớn nhất trên cõi đời này.
Hiểu biết ở đây là hiểu biết đạo lý chứ không phải kiến thức bằng cấp. Không kể người khùng điên mất trí, hoặc bị bệnh tâm thần mà ngay cả những người bình thường cũng chưa chắc có sự hiểu biết về nhân quả và đạo đức. Đầu óc ta còn sáng suốt, không điên khùng mất trí, lại gặp được Phật pháp, học hiểu giáo lý giải thoát, đó là một duyên lành hy hữu trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được.
Nếu quán chiếu những điều trên chưa đủ để cho bạn hạnh phúc thì bạn cần phải “hạ sơn” đi vào cuộc đời để tiếp xúc với người sắp chết, người bệnh để thấy họ khổ ra sao, tiếp xúc với người tàn tật, người tù, người ăn xin, người cô đơn, người ngu cố chấp thì may ra nó sẽ giúp bạn tỉnh ngộ thấy mình hạnh phúc.
Loại: Sát TinhĐặc Tính: Trở ngại, thất bại, bần hàn, tai nạn, tác hại, gian xảo, kích độngTên gọi tắt thường gặp: Kiếp
Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Địa Không và Địa Kiếp. Phân loại theo tính chất là Sát Tinh, Hung Tinh.
Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).
Cũng là 1 trong 4 sao của cách Hình Riêu Không Kiếp (Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không, Địa Kiếp).
Khi đóng trong cung không có chính tinh gọi là cách hung hoặc sát tinh độc thủ.
Khi có sao Địa Kiếp trong cùng một Cung Tỵ hoặc Cung Hợi gọi là cách Không Kiếp đồng cung Tỵ Hợi.
Khi một trong các Cung Tý, Cung Tuất, Cung Thìn, Cung Ngọ có sao Địa Không thì tại Cung Hợi hoặc Cung Tỵ thuộc cách giáp Không Kiếp.
Vị Trí Ở Các Cung
1. Zeus và Hera
Thần Zeus có hàng chục người con với 12 vị thần, chưa kể là rất nhiều người phàm, tiên nữ khác. Trong đó, người vợ quyền lực nhất phải kể tới nữ thần Hera, cũng là chị của thần Zeus.
Sau khi được giải cứu khỏi tên vua cha bạo chúa, Hera sống xa kinh thành Olympus một thời gian dài, cho đến khi Zeus vĩ đại tình cờ nhìn thấy nàng trong chuyến du hành của mình. Ban đầu, Hera không chấp nhận Zeus làm chồng vì dù sao đây cũng là em trai nàng. Hơn thế nữa, Hera đã chứng kiến Zeus nuốt vợ cả của mình là Metis Titaness nên nàng đã từ chối Zeus trong 300 năm.
Khi hết thời hạn 300 năm dài đằng đẵng ấy, Zeus trở lại và tạo nên một trận bão rất lớn. Thần tự biến mình thành một chú chim nhỏ, bay lạc vào cửa sổ căn phòng của Hera. Hera thấy chú chim đáng thương liền ôm vào ngực vỗ về. Zeus ngay lập tức trở về hình dạng chính mình và quyết liệt tán tỉnh Hera. Chỉ đến lúc này, Hera mới đồng ý làm vợ thần Zeus.
Các vị thần đã tổ chức cho họ một đám cưới linh đình. Nữ thần Cầu Vồng Iris cùng các Nữ thần Duyên Dáng mặc cho Hera bộ váy áo đẹp nhất, làm cho nàng đẹp lộng lẫy và rạng rỡ hẳn lên giữa các thần linh trên núi Olympus.
Zeus và Hera xung quanh các con trên đỉnh Olympus.
Hera và Zeus có 4 người con là Ares (thần Chiến tranh), Hebe, Eris, Eileithyia (thần Kỹ nghệ). Theo truyền thuyết, Hera là một bà vợ rất nóng tính và hay ghen. Khi Zeus đem lòng yêu thần sông Nin (Ios), sợ bị Hera phát hiện nên Zeus đã biến Ios thành một con bò trắng. Hera thấy vậy nên đã mang con bò trắng về, nhờ người khổng lồ Argos với các con mắt dày đặc trên người canh giữ ngày đêm.
Ngoài ra, vì không ưa Hercules, là con trai của Zeus với một người phàm trần, nên Hera cũng đã gây ra rất nhiều bi kịch cho cuộc đời Hercules.
Máu ghen của nữ thần Hera "kinh khủng" đến nỗi thần Zeus cũng phải sợ.
Hera là Nữ thần Hôn nhân, bảo trợ cho sự bền vững và thánh thiện của cuộc sống gia đình. Cũng như chồng, Hera toàn quyền thống trị như một vị Nữ hoàng trên đỉnh Olympus.
2. Bi kịch anh hùng Hercules và công chúa Deianeira
Hercules là con của thần Zeus với một phụ nữ phàm trần tên là Alcmena. Vì là một á thần (một nửa là thần tiên, một nửa là người phàm trần) nên Hercules có sức khỏe phi thường. Nhưng cũng chính từ đây mà chuỗi bi kịch gia đình của chàng bắt đầu.
Người vợ đầu tiên của Hercules là công chúa Megara (con gái vua Creon, chúa thành Thebes). Họ có với nhau ba cậu con trai kháu khỉnh. Những tưởng hạnh phúc đã đến thì trên đỉnh Olympus, Hera nguyền cho Hercules hóa điên, khiến chàng ra tay giết chết vợ và con của mình.
Hercules anh hùng là thế nhưng vẫn không tránh được bi kịch gia đình.
Để rửa sạch tội lỗi, Hercules đã phải thực hiện 12 nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Trải qua nhiều gian truân, Hercules trở về quê hương rồi đến Calidon cầu hôn công chúa Deianeira (Deana). Với tiếng tăm anh hùng của mình, chàng đã nhận được lời đồng ý của công chúa và nhà vua.
Trong một ngày đẹp trời, Hercules dắt vợ đến thành Tyrins chơi. Họ đến một khúc sông chảy xiết. Từ đây, mâu thuẫn bắt đầu được nhen nhóm. Khi Nesxus (tên Nhân mã làm nghề chở người qua khúc sông này) nảy sinh lòng tham, định bắt cóc nàng Daena, hắn đã bị Hercules hạ gục ngay tức khắc. Tuy nhiên, trong lúc hấp hối, Nesxus đã kịp hứng lấy một ít máu của mình, trao cho Daena và nói rằng đây là phương thuốc giúp nàng công chúa giữ chồng.
Tranh miêu tả nhân mã Nesxus cướp nàng Daena khỏi tay Hercules.
Ít lâu sau, trong cuộc chinh phạt xứ Okhali, Hercules bắt sống được công chúa Ioler, người con gái sắc nước hương trời. Sợ chồng bị Ioler mê hoặc, Deana đã nhỏ những giọt máu xưa kia vào bộ lễ phục của Hercules.
Ngay khi khoác áo vào người, Hercules bỗng cảm thấy toàn thân mình nóng như lửa đốt. Máu long xà Hydra hòa với máu Nhân mã đã tạo thành một chất độc khủng khiếp. Biết mình không qua khỏi, Hercules đã lập giàn thiêu cho mình. Về phía Deianeira, do quá tủi nhục nên đã vào phòng riêng thắt cổ.
Khi Hercules lên giàn thiêu, chàng được cha mình là Zeus cứu sống. Sau đó, chàng đã sống hạnh phúc với người vợ thứ 3 của mình là Hebes (con gái Zeus và Hera) trên đỉnh Olympus.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
II.- Khoa Tử-vi đời Tống
Tống Thái-tổ được truyền khoa Tử-vi bằng bộ Tử-vi chính nghĩa, giữ làm của riêng của hoàng tộc họ Triệu. Bộ sách chỉ được lưu truyền trong hoàng cung để biết kẻ trung, người nịnh, để biết vận số mưu đồ đại sự. Tất cả công trình nghiên cứu của hoàng tộc nhà Tống, sau được chép thành sách gọi là Ngự giám tử-vi. Nhưng khi nhà Tống mất, thì con cháu nhà Tống dùng bộ sách này làm kế sinh nhai, nên không dám dùng tên cũ nữa, mà đổi là Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. So sánh giữa bộ Tử-vi chính nghĩa và bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh, thì bộ thứ nhất cố tính chất lý thuyết đaị cương, như những định luật. Bộ thứ nhì có tính chất thực nghiệm, thu góp kinh nghiệm mấy trăm năm nghiên cứu lại. Như bộ thứ nhất không bàn đến việc :
- Hai người sinh cùng ngày, giờ, tháng, năm, nhưng lá số khác nhau. Bộ thứ nhì đi vào chi tiết này rất kỹ.
- Số người sinh đôi. Trong khi bộ thứ nhì nghiên cứu đến mấy trăm cặp sinh đôi.
- Số những người chết tập thể. Như chết chìm đò, chết trong chiến tranh. Bộ thứ nhì lại nghiên cứu kỹ hơn, đưa ra giải quyết v.v...
Sau đây chúng tôi trình bày một giai thoại về Tử-vi đời Tống, mà hầu như ai cũng biết, và sử Trung-quốc cũng có chép :
Khi còn cầm quân tranh thiên hạ, Tống Thái-Tổ có người em kết nghĩa tên là Trịnh Ân. Ân là một võ tướng dũng mãnh, tài ba, vợ Ân là Đào Tam Xuân cũng là một nữ tướng.
Cả hai đã giúp cho Thái-tổ thành nghiệp lớn. Thái-tổ phong cho Trịnh Ân tước vương và thay vua trấn thủ ngoài biên trấn. Nhân đầu năm Thái-tổ xem số các tướng sĩ, văn võ quần thần, thấy số Trịnh Ân là Tướng-quân, Thiên-tướng thủ mệnh đại hạn gặp Kình-dương, tiểu hạn Thiên-hình. Lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kị mới nói với quần thần rằng :
- Trịnh Ân do hai ông tướng thủ mệnh. Tướng sợ nhất kiếm và đao, không sợ Hỏa, Linh, Kiếp, Không. Nay đại hạn ngộ Kình là dao, tiểu hạn ngộ Hình là kiếm. Ta e rằng Ân sẽ bị chém mất đầu. Đã vậy lưu niên Thái-tuế gặp Kiếp, Kị thì sẽ do kẻ tiểu nhân ám hại. Hơn nữa Kiếp, Kị lại ngộ Hồng, Đào, thì kẻ hại Trịnh Ân sẽ là đàn bà. Triều đình đề nghị gọi Trịnh Ân về triều để được bảo vệ. Bấy giờ Trịnh Ân đương trấn thủ ngoài xa, nghe lệnh triệu hồi về kinh thì tuân theo. Khi đến kinh thấy một toán quân hầu hộ vệ kiệu vua, tiền hô hậu ủng. Ân tưởng Thái-tổ, vội xuống ngựa phủ phục bên đường tung hô vạn tuế. Nhưng khi ngửng đầu lên không phải là vua, mà là cha của một Phi-tần được Thái-tổ sủng ái. Chức tước, địa vị của Trịnh Ân cao hơn nhiều, mà phải lạy phục xuống đất thì nhục quá. Trịnh Ân nổi giận lôi vị Quốc-cữu xuống đất đánh cho một trận về tội tiếm nghi vệ Thiên-tử. Vị Quốc-cửu bị đòn nhừ tử, về nhà báo cho con gái biết, khóc lóc đòi trả thù. Vị phi thấy cha bị đòn đau, trở vào cung phục rượu cho Thái-tổ say mèm, rồi dâng biểu nói Trịnh Ân làm phản đập phá nghi trượng Thiên-tử. Tống thái-tổ say quá không tự chủ được, phê vào chữ Trảm. Thế là Trịnh Ân bị mang ra chém đầu. Khi Thái-tổ tỉnh rượu được triều đình tâu tự sự, thì chỉ còn biết bưng mặt khóc lớn.
Đào Tam Xuân thay chồng trấn ngoài ải, thấy chồng bị thác oan, Tam Xuân truyền quân sĩ để tang, kéo quân về triều hỏi tội. Các tướng phần bất mãn với việc Thái-tổ giết Trịnh Ân, nên không quyết tâm chiến đấu, hơn nữa không địch nổi Tam Xuân nên thua chạy. Tam Xuân vây kinh thành rất gấp. Triều đình tâu giết thứ phi, giết cả nhà Quốc cửu để tạ tội với Tam Xuân. Nhưng Tam Xuân vẫn không lui binh. Tình hình nguy ngập, Triệu Quang Nghĩa tâu với Tống Thái-tổ (Quang Nghĩa là em Tống Thái-tổ, sau được truyền ngôi vua):
- Thần xem số Tam Xuân thấy Vũ-khúc, Phá-quân thủ mệnh. Vũ-khúc thì hay giận, Phá-quân thì nhẹ dạ. Tử-vi kinh nói rằng: Chỉ có Lộc-tồn chế được tính ác của Vũ-khúc, Thiên-lương chế được tính điên của Phá-quân. Vậy ở đây có vị văn thần nào Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đề nghị có thể thuyết phục được Tam Xuân.
Thái-tổ chuẩn tấu, tìm ngay ra vị văn thần có tên Cao Hoài Đức có cách trên, sai ra ngoài thành, thuyết phục Tam Xuân. Quả nhiên Tam Xuân lui binh. Từ đấy trong suốt đời nhà Tống, con cháu họ Trịnh được nối tiếp nhau phong tước.
Như vậy thì Triệu Quang Nghĩa đã học tới trình độ khá uyên thâm khoa Tử-vi, nên dùng phá cách dữ tợn của Tam Xuân và trợ cách giúp Thái-tổ. Nghiên cứu lá số của Thái-tổ, năm đó đại hạn ngộ Kỵ, tiểu hạn đi vào cung nô, gặp Thiên-thương, Kiếp. Hạn Thiên thương gặp Kiếp, Không thường là hạn bị hàm oan nguy đến tính mệnh. Chính Khổng-tử bị hạn này, bị vây tại nước Trần, hút chết đói. Số của Cao Hoài Đức, ngoài Thiên-lương, Lộc-tồn thủ mệnh, đại hạn ngộ Quyền, Khốc, Hư, Xương, Lương, Lộc chỉ chế được Tam Xuân. Nhưng chính Quyền, Khốc, Hư nói Tam Xuân nghe theo, và Văn-xương là sao giải hạn Địa-kiếp vậy.
Quay về | Trở về đầu | Xem tiếp |
Thiên Lương sao trong hệ Nam đẩu, chủ về thọ lộc, hóa khí là Ấm, thuộc dương thổ (xin nhắc sao Tham Lang trong hệ Bắc đẩu chủ về tai ách tử vong). Mệnh cung hay tật ách cung mà thấy sao Thiên Lương thì gặp hung chuyển ra cát tiểu tai giải ách. Trong khi sao Tham Lang vào Mệnh hay Tật ách bị thêm các sát tinh kị hình hao tinh khi gặp lưu Kị lưu Hình rất nguy hiểm về tai nạn có thể đưa đến chết chóc.
Thiên Lương sao của tiêu tai giải ách, thì đương nhiên phải gặp tai ách thì mới cần triệt tiêu. Bởi thế người có Thiên Lương thủ Mệnh thường gặp lắm tai họa mà thoát khỏi hiểm nguy (của bệnh tật, của tù tội, của hoạn nạn). Cổ nhân bảo nguy mà không nguy là vậy.
Thiên Lương tính tình ôn hòa, khéo sắp xếp khu xử, ít dám phiêu lưu xông xáo, xung phong. Người Thiên Lương thủ Mệnh trong một xã hội đầy biến động không bao giờ làm cách mạng. Thiên Lương trên phương diện phục vụ không hăng hái như Thiên Tướng, trên quyền vị không có khí thế mạnh bằng Thái Dương. Thiên Lương có khuynh hướng đón đợi thời cơ, ăn cỗ sẵn.
Thiên Lương ở hãm địa Hợi Tỵ thì cuộc đời phiêu bồng không lý tưởng cũng không có mục đích để theo đuổi. Thiên Lương đứng một mình ở các cung Tí Ngọ Tỵ Hợi và Sửu Mùi. Thiên Lương đứng cùng Thiên Đồng ở Dần Thân, đứng cùng Thiên Cơ ở Thìn Tuất, đứng cùng Thái Dương ở Mão Dậu.
Thiên Lương Tỵ Hợi thủ Mệnh không cần gặp Hình Kị Sát tinh cũng vẫn là một cuộc đời lắm tai lắm nạn, đến mức độ chín chết một sống, cuối cùng ra thoát như tên tử tội sắp tới ngày ra pháp trường mà được ân xá. Thiên Lương Tỵ Hợi lắm gian truân mà không thành tựu. Nghèo thì thọ, hễ gặp cơ may mà giàu sang khó tránh khỏi yểu mệnh. Như cổ nhân bảo:”Phi bần tất yểu”. Vận hạn đến Tỵ Hợi Thiên Lương bảy nổi ba chìm.
Thiên Lương ở Mùi Sửu nếu gặp cát tinh thì bình ổn, có chức nghiệp vững vàng và phục vụ đắc lực hợp với tuổi Ất Nhâm, thêm Văn Xương càng hay. Khoa Tử Vi Việt không thấy nói tới sao Âm Sát nhưng ở Đại Hàn Nhật Bản và Trung quốc thì có cách Thiên Lương Âm Sát. Thủ Mệnh mà Thiên Lương gặp Âm Sát biến ra con người có âm nhãn dễ nhìn thấy ma quỉ hoặc có muội lực kỳ bí, tuy nhiên cũng vì vậy mà thần kinh dần dần suy nhược. Âm Sát là sao tính theo tháng cách an như sau: Tháng giêng tại Dần, tháng hai ở Tí, tháng ba ở Tuất, tháng tư ở Thân, tháng năm ở Ngọ, tháng sáu ở Thìn, tháng bảy ở Dần, tháng tám ở Tí, tháng chín ở Tuất, tháng mười ở Thân, tháng mười một ở Ngọ, tháng mười hai ở Thìn. Tháng đây là tháng sinh của người mang số.
Muội lực kì bí càng mạnh nếu có cả Linh Tinh đi kèm. Nhưng nếu lại đi cùng hao tinh, không tinh thì ngả sang thần bí tôn giáo. Những nhà sư thuộc mật tông phái giỏi về khoa huyền bí phần lớn có Âm Sát đi với Thiên Lương hay Thiên Cơ.
Thiên Lương đơn thủ Tí Ngọ thì ở Tí tốt hơn Ngọ. Bởi lẽ Thiên Lương Tí sao Thái Dương đắc địa tại Ngọ gây ảnh hưởng tốt thêm cho Thiên Lương, còn Thiên Lương Ngọ Thái Dương Tí không đắc địa. Nhưng trường hợp Thiên Lương đóng Ngọ mà đứng bên sao Văn Khúc thì lại chuyển thành tốt hẳn, có Văn Khúc Thiên Lương không cần sự trợ lực của Thái Dương nữa.
Sách Đẩu Số Tử Vi Toàn Thư viết:”Thiên Lương Văn Khúc cư miếu vượng vị chí đài cương” (Thiên Lương Văn Khúc đứng cùng ở đất miếu vượng là người có chức vị). Câu phú trên chỉ vào Thiên Lương tại Ngọ với Văn Khúc vậy.
Sang đến cách Thiên Cơ Thiên Lương (đã bàn qua ở mục luận về sao Thiên Cơ). Ngoài câu phú:”Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh” trong “Chư tinh vấn đáp” Trần Đoàn tiên sinh còn viết:”Thiên Lương gặp Thiên Cơ và hao điệu tăng đạo nhàn”. Hao điệu là Phá Quân? Đương nhiên Cơ Lương không thể gặp Phá Quân Hao điệu là Đại và Tiểu Hao? Hai sao này không có luận cứ nào chứng minh có thể biến Cơ Lương thành tăng đạo.
Vậy thì hao điệu chỉ khả dĩ là một lời nói của cổ nhân bảo rằng Mệnh Cơ Lương là con người tài hoa học rộng biết nhiều mà thiếu quyết tâm hành động cho nên chỉ đánh trận trên giấy được thôi làm hao phí khả năng vì chỉ muốn thanh nhàn ẩn dật.
Bây giờ bàn sang cách Thiên Lương đồng cung với Thái Dương ở Mão và Dậu. Nếu ở Mão thì phải được Hóa Lộc và Văn Xương tức cách Dương Lương Xương Lộc đã nói ở sao Thái Dương. Thiếu Xương Lộc tốt đẹp mất đi một nửa. Ở đây chỉ bàn về cách Thiên Lương bên Thái Dương tại Dậu thôi.
Sách Đẩu Số Toàn Thư viết câu phú:”Lương tú Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách” (nghĩa là Thiên Lương gặp Thái Âm là người sống nổi trôi). Là nói Thiên Lương tại Dậu đứng cùng Thái Dương hội chiếu với Thái Âm tại Tỵ. Số trai lận đận trên danh phận, dù khá thông minh làm việc đắc lực. Số gái lang bang trên tình cảm dễ lỡ duyên. Giả tỉ có Văn Xương Hóa Lộc cũng không thể gọi là Dương Lương Xương Lộc. Tuy hay tốt hơn vẫn kể là hạ cách, trừ trường hợp có sao Hỏa Tinh đứng bên. Hỏa Tinh vào Thái Dương hãm loạn thế đắc chí.
Câu phú:”Lương tú Âm Linh nghĩ tác đống lương chi khách” (Thiên Lương gặp Thái Âm thêm Linh Tinh là người có thể ở địa vị giường cột chỉ vào tình trạng Thiên Lương đóng Tí)
Thiên Lương luôn luôn bị một điểm phiền là Cự Môn đóng vào cung Phu Thê, tại Ngọ Cự Môn Thìn, tại Tí Cự Môn Tuất, tại Mão Dậu Cự Đồng Sửu Mùi khiến cuộc sống lứa đôi khó thoải mái, không đồng sàng dị mộng thì cũng chia tay thì cũng hai vợ, hai chồng. Nam hay nữ đều như vậy, nhưng số nữ Cự Đồng vào Phu nặng hơn.
"Cự Đồng cùng đóng Phu cung.Một sầu góa bụa hai sầu lỡ duyên"
Thiên Lương vốn là sao của tuổi thọ, nếu mệnh cung lại có cả sao Thiên Thọ tính chất thọ khảo của Thiên Lương càng tăng thêm. Nếu Thiên Lương đứng trong cung Phu Thê cùng với Thiên Thọ thì gái thường lấy chồng già (từ hơn mười tuổi), trai lấy vợ già (từ ba bốn tuổi)
Nếu Thiên Lương đứng với Thiên Thọ ở tử tức, phải luống tuổi mới sinh con. Nếu Thiên Lương cùng Thiên Thọ ở cung Phụ Mẫu, cha mẹ sống thọ. Trên đây chỉ là một cách cục thôi, không nhất thiết cứ phải Thiên Lương Thiên Thọ mới vợ già chồng trẻ, hay chồng già vợ trẻ.
Thiên Lương là thọ tinh, đóng Mệnh cung được tuổi thọ, trừ trường hợp Thiên Lương Tỵ Hợi mà giàu sang, nhưng thọ không phải là sức vóc khỏe mạnh. Thiên Lương thủ Mệnh gặp nhiều Sát Kị tinh thì sức khỏe suy yếu, nhờ thuốc thang kéo dài sự sống. Tỉ dụ bị bệnh thổ huyết mà hút thuốc phiện, bị mất ngủ kinh niên mà dùng thuốc ngủ, thuốc an thần.
Thiên Lương qua nhận xét của các nhà số học Trung Quốc mang phong độ danh sĩ khi nó gặp những sao Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Khúc, Văn Xương, Thiên Khôi, Thiên Việt. Họ căn cứ vào những câu phú ghi trong Đẩu Số Toàn Thư:
- Lương Đồng đối cư Tỵ Hợi, nam lãng đãng, nữ đa dâm- Lương Dậu Nguyệt Tỵ, khước tác phiêu bồng chi khách- Thiên Lương Thiên Mã hãm, vi nhân phiêu đãng phong lưu
Thiên Lương đóng tại Tỵ thủ Mệnh mà kèm bên là Hoả Tinh, Đà La thì vừa cô khắc vừa lắm tai nạn. Thiên Lương đi cùng văn tinh là người du thuyết giỏi. Thiên Lương đi với Đào Hoa vào kịch nghệ, trình diễn là hợp cách, nhưng cũng là người dễ vướng mắc lưới tình. Thiên Lương hội tụ cả Đào Hoa Xương Khúc Thiên Riêu có tài, nhưng chỉ ăn chơi hưởng thụ.
Cách Thiên Lương đồng cung với Thiên Đồng tại Dần Thân thế nào? Sách viết: “Lương Đồng Cơ Nguyệt Dần Thân vị, nhất sinh lợi nghiệp thông minh” nghĩa là: Mệnh có Thiên Lương Thiên Đồng hội chiếu Thiên Cơ Thái Âm từ các cung Tài Bạch Quan Lộc là con người phúc hậu thông minh chức nghiệp tốt phục vụ đắc lực. Đồng Lương tại Dần tốt hơn tại Thân vì Dần Thái Âm cung Tuất đẹp hơn Thân Thái Âm cung Thìn, khả năng thông tuệ như nhau nhưng chót lọt suông sẻ khác nhau.
Dần Thân là hai cung của Thiên Mã, hễ đã gặp Mã thì đừng có Đào Hoa. Vì Thiên Mã càng tài giỏi, thêm Đào Hoa thường từ bỏ hạnh phúc an định sẵn có mà đi vào rắc rối nhiễu sự nhất là về phương diện tình ái.
Sau hết là nói về quan hệ của Thiên Lương với những sao Lộc, nhất là Hóa Lộc. Thiên Lương hóa khí là Ấm, cái khả năng quản thủ, điều khiển và phấn đấu cho tiền bạc rất kém bởi vậy không thể đứng sát cạnh Lộc. Như cách Dương Lương Xương Lộc thì Lộc phải đứng với Thái Âm chiếu qua mới toàn bích. Lộc đồng cung sẽ thành một khuyết điểm cho cách này. Lộc đứng kèm bên Thiên Lương sẽ đưa đến tình cảnh vì tiền mà mang tai mang họa. Thiên Lương qua chức vị nghề nghiệp mà hưởng phú quí, nói khác đi là người khác ban thưởng bổng lộc cho hơn là tự phấn đấu để giành giật lấy. Người Thiên Lương hoàn toàn không đủ thủ đoạn mưu chước đương đầu sự chống phá chung quanh.
Những câu phú cần biết của sao Thiên Lương:
- Thiên Lương nan bảo tư tài, dị dữ nhân(Thiên Lương không giỏi điều khiển quản thủ tiền bạc dễ vì nịnh nọt yêu thích mà đem tiền cho đi)
- Lương tại Tỵ tắc dật du(Thiên Lương thủ Mệnh Tỵ cung ưa chơi bời rông dài)
- Thiên Lương ngộ Mã nữ Mệnh tiện nhi dâm(Mệnh Tỵ Hợi, Thiên Lương đứng cùng Thiên Mã số đàn bà dâm tiện)
- Thiên Lương gia cát tọa thiên di hoạch phát kinh thương(Thiên Lương ít thành công về kinh thương, nhưng nếu từ cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di mà thấy Thiên Lương cùng với nhiều sao tốt khác vào buôn bán kinh doanh lại hoạnh phát)
- Lương Nhật Mão cung tướng mạo phương viên(Thái Dương thủ Mệnh tại Mão thì mặt mày vuông vắn sáng sủa)
- Ấn tinh phùng Khôi tinh ư Hợi địa, ưng chi sơn nhạc giáng thần(Thiên Lương đứng với sao Thiên Khôi tại Hợi thủ Mệnh thì vóc dáng khôi vĩ như sơn thần)
- Lương phùng Hao Sát tại Tỵ cung đao nghiệp hình thương(Thiên Lương gặp Hao Sát ở Tỵ bị tai nạn hình thương vì gươm đao)
"Thiên Lương ngộ Hỏa chiếu quaHại người hại của thật là tang ương"
"Cung Tỵ Hợi Lương cùng Thiên MãChí đổi thay ấy gã phiêu linhCòn như nữ mệnh cho rànhCách này thấy rõ dâm tình hạ lưu"
"Đồng Lương hội Dần Thân một khốiTrọn đời người tránh khỏi tai ương"
- Thiên Lương hãm địa kiến Dương Đà, thương phong bại tục chi lưu(Thiên Lương ở đất hãm gặp Kình Dương Đà La hay làm chuyện ẩu, thương phong bại tục)
- Thiên Lương hãm địa ngộ Hỏa Dương phá cục, hạ tiên cô quả yểu triết(Thiên Lương vào đất hãm gặp Hỏa Tinh, Kình Dương sống cô đơn, không thọ và tính nết thấp hèn)
"Thiên Lương gặp Mã chẳng bànCó chồng còn bỏ then làng bướm hoa"
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Cuộc đời: nghiệp vững vàng, có chồng tài giỏi, thành đạt.
![]() |
(Ảnh minh họa) |
Nữ giới tuổi này kỵ làm ăn lớn, hạn chế va chạm mâu thuẫn trong gia đình và ngoài xã hội, kỵ đi xa khi ở tuổi 19, 24, 31, 38.
Nam giới tuổi Giáp Tý thuở nhỏ vất vả, 43 tuổi gặp nhiều khó khăn, nên đề phòng bất trắc. Bước sang tuổi 44 sẽ thoát khỏi tai ương. Qua tuổi trung niên mới tạo dựng được sự nghiệp.
Các tuổi kỵ làm ăn lớn, kỵ đi xa, tránh mâu thuẫn của nam giới là: 20, 24, 25, 29, 30.
Tính cách: Người tuổi Giáp Tý thông minh, nhạy bén, tài năng. Tuy tính tình bộc trực, nóng nảy nhưng lại biết cảm thông chia sẻ nên thường được mọi người yêu mến. Nhược điểm của họ là coi trọng vật chất, thích gây sự chú ý.
Nữ giới tuổi này hiền lành, nhu thuận, giao tiếp tốt nên có thể giúp chồng làm nên nghiệp lớn.
Tình cảm: Người tuổi Giáp Tý đường tình duyên muộn nhưng hạnh phúc, thường kết hôn sau tuổi 30 tuổi.
Nam giới sinh vào tháng 5, 6, 9; nữ giới sinh vào tháng 1, 5, 6, 9, 11 sẽ không thuận lợi trong tình duyên. Nam giới sinh vào tháng 3, 4, 8, nữ giới sinh vào tháng 3, 4, 7, 8, 12 thường gặp may mắn trong hôn nhân, gia đình hạnh phúc.
Để có hôn nhân tốt đẹp, nam giới tuổi này không nên kết hôn với nữ giới tuổi Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Dậu. Nữ giới tuổi này tránh kết hôn với nam giới tuổi Đinh Sửu, Tân Mùi, Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Dậu.
Gia đạo: Gia đạo tuy không được như ý nhưng cuối đời sẽ được êm ấm, đường con cái tốt đẹp, ít phải phiền muộn.
Công danh: Người tuổi này thời nhỏ học hành nhiều nhưng lại ít đạt được thành công hoặc thành công ngắn ngủi, khó bền lâu.
Tiền bạc: Người tuổi Giáp Tý thường lập nghiệp sớm nhưng khó thành công. Do đó, tiền bạc của họ cũng bấp bênh, khó giữ. Từ năm 44 tuổi trở đi gia sản mới ổn định và thịnh vượng.
Để làm ăn thuận lợi, phát đạt người tuổi Giáp Tý nên kết hợp làm ăn với người tuổi Giáp Tý, Bính Dần, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ.
(Theo Tính cách con người qua năm sinh tuổi Tý)
► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
![]() |
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
![]() |
Ảnh minh họa |