Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Sửu năm 2014 –

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1. Kỳ Lân
Người ta tin rằng kỳ lân mang lại may mắn cho
những người muốn thăng tiến trong công việc. Ảnh: Internet
Theo thần thoại Trung Quốc, kỳ lân đôi khi còn được gọi là long mã. Kỳ lân là linh vật của điềm lành, thịnh vượng, thành công, trường thọ, con cháu vinh hiển và niềm vui. Người ta tin rằng kỳ lân mang lại may mắn cho những người muốn thăng tiến trong công việc, đặc biệt là những người phục vụ trong quân đội. Kỳ lân là biểu tượng của sỹ quan cao cấp nhất, hình ảnh của nó thường được thêu trên áo choàng của luật sư.
2. Ngựa
Ít ai mê phong thủy ngựa như doanh nhân, họ thường chọn hình tượng con ngựa để trang trí trong nhà mình hay chính nơi làm việc. Bởi theo phong thủy, con ngựa là không những là con vật trung thành nhất, ngựa còn là biểu tượng của sự kiên nhẫn, bền bỉ, lâu dài, là con vật mang lại sự may mắn, tài lộc. Một trong những biểu tượng Ngựa Phong Thủy thường thấy là hình ảnh Ngựa phi nước đại (hay “Lộc Mã”). Biểu tượng này tượng trưng cho sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến trong tiền tài.
3. Thuyền buồm
Để kích hoạt vận may trong kinh doanh, các doanh nhân thường đặt một chiếc thuyền buồm (Cát Tường Như Ý) trên bàn làm việc hay gần cửa ra vào sao cho chiếc thuyền di chuyển theo hướng vào bên trong với ý nghĩa mang về dồi dào nhiều của cải và tài lộc. Trong phong thủy, thuyền buồm lộng gió chở đầy vàng được xem là mang lại nhiều may mắn nhất cho doanh nhân.
4. Rùa đầu Rồng
Rùa đầu Rồng hay còn gọi là Long Qui, là con vật huyền thoại kết hợp 2 đặc tính của Rồng và Rùa. Trong bày trí, những phương vị tốt lành không thể thiếu được Long Qui để vượng tài. Những doanh nhân người Hoa thường chọn hình tượng con vật đầu Rồng, mình Rùa (Qui) đội thúng vàng để cầu mong sự trường thọ, công danh tốt đẹp, tấn tài tấn lộc trong kinh doanh.
5. Tỳ Hưu
![]() |
Doanh nhân thường chọn đặt Tỳ Hưu trên bàn làm việc, hoặc ở các huyệt tài lộc trong công ty. Ảnh: Internet |
Theo truyền thuyết, Tỳ hưu là một loại thú có sừng, có bờm uốn cong rất dài nên còn có tên gọi là “Hươu Trời”, hai cái sừng của nó có tác dụng “trừ tà”, về sau có xu hướng phát triển thành con thú một sừng. Doanh nhân thường chọn đặt Tỳ Hưu trên bàn làm việc, hoặc ở các huyệt tài lộc trong công ty và phải hướng đầu ra cửa chính hoặc cửa sổ để cầu mong mọi sự như ý.
6. Cóc vàng ba chân
Cóc vàng có 3 chân biểu tượng của Thần Tài, của sự may mắn về kinh doanh và tiền bạc, và là biểu tượng dùng để biến hung thành cát trong công việc. Cóc vàng ba chân thường được bày trên bàn làm việc của doanh nhân, hoặc trong phòng khách, văn phòng, trên bàn thờ Thần Tài và trên két bạc để vượng tài lộc.
7. Đĩa ngọc thất tinh bằng thạch anh
Theo phong thủy, đĩa ngọc thất tinh, gồm 7 viên đá quý thạch anh trên một đĩa tròn, có vượng khí của sao Bát Bạch sẽ mang lại quan hệ thuận hòa, thăng tiến công danh tài lộc và may mắn. Đá thạch anh đang là món quà được ưa chuộng dành tặng khách hàng, đối tác, và ..Sếp mang nhiều ý nghĩa tinh thần, cầu chúc may mắn cho người sở hữu.
8. Cá chép vượt vũ môn
Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức. Trong đường quan lộ, cá Chép là biểu tượng của sự thăng tiến, công danh.
(Theo NĐT)
![]() |
![]() |
Xương quai xanh nhô cao | Xương quai xanh thấp |
Mộc Trà (theo Candy)
Sao Thiên Đồng thuộc Nam Đẩu Tinh (có tính Dương Thủy).
Sao Thiên Đồng Miếu địa tại: Dần và Thân.
Vượng địa tại: Tý.
Đắc địa tại: Mão, Tỵ và Hợi.
Hãm địa tại: Ngọ, Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Sao Thiên Đồng ở vị trí miếu địa, vượng địa và đắc địa thì canh cải thất thường, trung hậu, từ thiện, chủ sự may mắn và vui vẻ.
Sao Thiên Đồng hãm địa thì canh cải, thất thường, nhân hậu. Chủ tai họa thị phi và kiện cáo.
Cung mệnh có sao Thiên Đồng tọa thủ, nên thân hình nở nang hơi thấp, chân tay ngắn, da trắng mặt vuông vắn đều đặn.
Sao Thiên Đồng dù là miếu địa vượng địa hay đắc địa là người thông mình và có tính khoan hòa, nhân hậu và từ thiện, nhưng không quả quyết, không bền chí, hay thay đổi ý kiến, công việc. Tuy vậy vận được hưởng giàu sang và phúc thọ song toàn.
Thiên Đồng đắc địa tại cung Tỵ và Hợi lại là người phiêu lưu nay đây mai đó và hay đổi chỗ ở.
Sao Thiên Đồng đắc địa tại tỵ và hợi khắc với tuổi Đinh và Canh. Vậy cho nên tuổi Đinh, Canh. Vậy cho nên hai tuổi Đinh và Canh mà cung mệnh an tại Tỵ, Hợi, có Thiên Đồng tọa thủ thì cuộc đời chẳng mấy khi được xứng ý vừa lòng.
Thiên Đồng đắc địa, miếu địa hay vượng địa mà gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp như Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, chắc chắn được hưởng phú quý tới tột bậc và có uy danh lừng lẫy.
Ngược lại sao Thiên Đồng miếu địa, vượng địa hay đắc địa mà gặp nhiều sao mờ ám hội họp nhất là các sát tinh như: Hóa Kỵ, Thiên Hình. Tuy suốt đời vẫn được cơm no áo ấm nhưng lại lao tâm khổ tứ, sức khỏe kém, thường có bệnh tật ở mắt hoặc bộ tiêu hóa.
Thiên Đồng hãm địa là người kém thông minh nông nổi, cũng có tính nhân hậu, nhưng thay đổi thất thường không quả quyết, không có định kiến, làm việc gì rồi cũng nhanh chán, lại thích chơi bời ăn uống. Tuy sống thọ nhưng sống rất vất vả, thường phải ly tổn và buôn ba luôn luôn lo lắng và sinh kế lại hay mắc tiếng thị phi. Cung mệnh có Thiên Đồng hãm địa tọa thủ, nên đi buôn.
Thiên Đồng hãm địa tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là người hay ăn nói khoác lác không cẩn ngôn.
Thiên Đồng hãm địa tại Ngọ là người có óc kinh doanh.
Thiên Đồng hãm địa tại Tuất, Ngọ và ứng với tuổi Đinh. Vậy cho nên tuổi Đinh mà cung mệnh an tại Tuất, Thiên Đồng tọa thủ thì ất sẽ khá giả.
Thiên Đồng hãm địa gặp nhiều sao tốt hội họp như Văn xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả,Hữu, Khoa, Quyền, Lộc thì ắt có công danh và tiền tài.
Sao Thiên Đồng hãm địa gặp nhiều sao xấu xa họi họp nhất là các sát tinh như Hình, Kỵ thì suốt đời lao khổ phải lang thang phiêu bạt, thường mắc bệnh khó chữa, hay mắc những tai nạn và không thể sống lâu được.
Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.
Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào?
1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ.
Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin! 2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.
Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.
Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch.
Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt.
3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.
4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63).
Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề". (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27).
Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.
Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì?
Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm …
Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:
Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline).
Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net).
Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline).
Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net).
Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline).
Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả).
Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.(Sưu tầm)
Nguồn: Bee.net.vn
hay mắc phải đó là bố trí bàn làm việc đối diện với cửa ra vào. Bài viết này sẽ giúp bạn hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào mà không cần phải thay đổi vị trí bàn làm việc của mình.
Hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào
Trong văn hóa của người Việt cũng như văn hóa của phương Đông thì phong thủy luôn rất được coi trọng. Dường như trong việc bày trí nội thất thì mọi người vẫn luôn xem phong thủy là yếu tố đầu tiên cần xem xét.
Tuy nhiên bên cạnh những hướng tốt, những thế hợp với phong thủy thì vô tình hoặc là không có sự lựa chọn nào khác chúng ta thường vi phạm một số nguyên tắc cấm kị của phong thủy. Điều đó đã mang đến không ít sự phiền hà cho gia chủ. Và một lỗi mà nhiều người hay mắc phải đó là bố trí bàn làm việc đối diện với cửa ra vào. Bài viết này sẽ giúp bạn hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào mà không cần phải thay đổi vị trí bàn làm việc của mình.
Vậy trong phong thủy việc hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào có tầm quan trọng như thế nào và tại sao phải hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào?
Bàn làm việc đối diện cửa ra vào được xem là mang lại nhiều “sát khí” cho phòng làm việc. Khi bạn ngồi làm việc trên một chiếc bàn đối diện cửa ra vào thì dường như mọi âm thanh ồn ào và hình ảnh hổn tạp đang diễn ra xung quanh đều vô tình lọt vào tầm mắt của bạn. Những thứ đó trong phong thủy được xem là “sát khí”. Và “sát khí” sẽ làm cho bạn mất tập trung, mệt mõi và hiệu quả công việc giảm sút.
Việc thay đổi vị trí bàn làm việc để tránh đối diện cửa ra vào là rất khó vì đôi khi không gian làm việc không cho phép và phòng làm việc đông người thì sẽ rất khó sắp xếp lại từng vị trí bàn làm việc cho mỗi người. Vậy chúng ta chỉ có thể dùng một số thủ thuật nhỏ trong phong thủy để hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào. Trước hết bạn hãy tìm cho mình một chậu cây kiểng để trưng trên bàn làm việc. Bạn không nên tùy tiện chọn bất kì loại cây nào mà hãy chọn những cây có tác dụng làm tăng dương khí như dừa kiểng nhỏ hoặc Trúc Nhật,… Việc thứ hai bạn nên làm nữa là dùng 32 vị thần mộc treo trước mặt hoặc trước cửa phòng để hóa giải. Tuy nhiên việc trấn thuốc như thế cũng rất tế nhị, để người khác không nhìn thấy thì bạn có thể để thuốc trong chậu cây để vừa có thể hóa giải vừa đảm bảo vẻ mỹ quang cho phòng làm việc của bạn.
Hy vọng công việc của bạn sẽ tiến triển một cách thuận lợi khi vấn đề làm thế nào để hóa giải bàn làm việc đối diện cửa ra vào đã được giải quyết.
![]() |
Ảnh minh họa |
Người nghiên cứu thuật số chúng ta cần phải nắm giữ một số kiến thức, phương diện dự đoán, nhưng dự đoán và phong thủy là hai hệ thống khái niệm không giống nhau.
Dự đoán (bao gồm lục sát và ký môn) là một khái niệm thời gian, không gian định điểm, là sự việc đặc thù (cái gọi là “vô sự bất chiêm” chính là đạo lý này), thông qua lắc quẻ và phương pháp khởi cục thời gian không gian mà phán đoán ra động hướng hung cát của sự việc, có tính linh động nhất định và tính phán đoán chính xác thông tin đối với thời gian không gian. Nhưng nó chỉ là phán đoán mà không có sự lợi dụng vá bố cục đối với môi trường. Mà phong thủy học lại là thời gian không gian, địa vận, nhân vận (cũng chính là “thiên địa nhân”), ba điều đó tổng hợp nên bộ môn khoa học dẫn dắt quy hoạch bố cục, nó nặng về quy hoạch và dẫn dắt (khí, phong) mà không phải là dự đoán.
Cái gọi là phong thủy ở trên phán đoán hiện tượng cát hung cũng là đứng ở sự phối hợp ba trong một của toàn bộ môi trường: thiên, địa, nhân. Căn cứ vào sự phán đoán hợp lý của bố cục quy hoạch có ảnh hưởng đến con người, cho nên về căn bản chính là có sự khác biệt định vị lớn.
Chúng ta ngày nay không còn thắc mắc về Tứ trụ có ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân con người như thế nào. Khi đứng trước căn nhà, việc đầu tiên chúng ta phải kiếm tra Tứ trụ của mình có phù hợp với phong thủy của căn nhà hay không. Phối hợp giữa Tứ Trụ và Phong thuỷ là quan điểm của học phái Mệnh lý phong thủy. Học phái này căn cứ vào Bát tự tứ trụ để định đoán cát hung và lựa chọn cách cục phong thủy phù hợp với người cần xem. Nhưng thực ra đây là một quan điểm sai lầm, kết hợp vô căn cứ. Bởi trên quan điểm ứng dụng cá thể vào toàn cục là một cách nhìn phiến diện. Đối tượng nghiên cứu của Phong thủy là hiện tượng tự nhiên, như núi sông, triền gò…. vì thế, không thể sử dụng thông tin cá nhân để định đoán Phong thuỷ khách quan. Nếu có, chúng ta chỉ có thể lựa xem người này có phù hợp với thế cục này không thôi, chứ không thể áp dụng thông tin cá nhân và vào thế cục.
Bát tự tứ trụ là thông tin tiên thiên của mỗi cá nhân khi sinh ra, nó chịu ảnh hưởng của thời gian, không gian tiên thiên. Nếu muốn có sự tác động dễ điều chỉnh thì phương pháp duy nhất là tác động vào hậu thiên, đó là môi trường sống như nhà cửa, quan cánh… Người xưa đã vận dụng những hệ thống lý thuyết vào thực tế và chỉ ra rằng. Thiên – Địa – Nhân là ba yếu tố không thể tách rời, nhưng bản thân chúng lại có những lý thuyết tồn tại tách hạch.
Phong thủy chính là nghiên cứu về “Địa”, là một hộ môn nghiên cứu có hệ thống lý thuyết và đối tượng rõ ràng, việc ứng dụng với cuộc sống là lựa thế đất có phong thủy đẹp dể thỏa mãn nhu cầu mục đích con người.
Còn Bát Tự tứ trụ là thông tin nghiên cứu dự báo về số mệnh của con người. Chúng ta chỉ có thể tìm thế đất tốt, phù hợp với con người, chứ không thể sứ dụng thông tin cá nhân để thay đổi phong thuỷ.
"Có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Cháu cứ thế mà làm theo chứ đừng có coi thường, về nhà chồng ở quê có nhiều phong tục càng phải chú ý đấy!"
Ngày chuẩn bị đi lấy chồng cũng chỉ cách Tết Nguyên đán chừng 1 tháng, bà nội đã viết sẵn ra sổ đủ mọi điều kiêng kỵ ngày Tết căn dặn tôi để khi về nhà chồng đỡ bị bỡ ngỡ.
Những lời “các cụ dặn”
Theo như danh sách ở cuốn sổ bà nội viết ra thì phải kiêng không biết bao nhiêu điều. Trong số đó, điểm mặt một số điều kiêng kỵ mà người Việt Nam ta ai cũng biết. Đầu tiên, đó là chuyện kiêng quét nhà, hót rác đổ ra ngoài.
![]() |
Có kiêng có lành
Tác dụng ngay là chuyện kiêng đổ rác, nhờ đó mà nhà cửa cũng như đường làng ngõ xóm sạch sẽ hẳn suốt mấy ngày Tết.
Rồi cái chuyện kiêng cữ lời ăn tiếng nói, tôi thấy hiệu quả nhất. Mấy ngày Tết, vợ chồng tôi ít tranh luận hẳn. Đi đâu, vợ chồng cũng rủ nhau đi cho có đôi có cặp, nhường nhịn nhau nhiều hơn. Gia đình lúc nào cũng đầy ắp tiếng nói cười, thế nên ba ngày Tết thật vui!
Từ trong sâu thẳm người ta tin rằng Tết đến sẽ mang theo những may mắn, tài lộc cho mọi nhà. Nhà nào được nhiều tài lộc dịp Tết sẽ được may mắn trong cả năm. Nhà nào gặp điều xúi quẩy, không kiêng kỵ được trong mấy ngày Tết thì cả năm sẽ bị vận hạn đeo đẳng. Cũng bởi vậy mà việc kiêng kỵ trong những ngày Tết được hầu hết các gia đình Việt Nam đặt lên hàng đầu.
Cái Tết đã cận kề và tôi lại nhớ những điều kiêng kỵ mà bà nội căn dặn trước khi đi lấy chồng. Nhất định, Tết này tôi sẽ cùng gia đình sẽ kiêng những điều “các cụ dặn” để cả năm gia đình thật may mắn.
(Theo Laodong.com.vn)
Chọn đồ không ăn nhập gì với nhau
Một trong những sai lầm lớn nhất mà mọi người hay mắc phải trong trang trí nội thất là không hiểu về tầm quan trọng của kích thước và tỉ lệ. Những vật dụng để trong phòng như bàn, ghế hay tủ nên có kích cỡ tương đồng với nhau. Nếu bạn chọn chiếc bàn to quá khổ so với ghế ngồi hay các thứ quá nhỏ so với không gian căn phòng thì sẽ khiến mọi thứ mất cân bằng.
Mất tiền để dùng giấy dán tường kín hết phòng
Mọi người thường nghĩ họ cần phải dùng giấy dán hết tường của căn phòng, nhưng thực tế, điều đó không những gây lãng phí mà còn khiến không gian căn phòng trở nên chật hẹp hơn vì những họa tiết của giấy dán tường. Tốt nhất bạn chỉ nên chọn nơi để dùng giấy dán tường sao cho nó trở thành điểm nhấn của căn phòng mà không gian trong đó vẫn tạo cảm giác thông thoáng.
Không để ý xem cảnh quan ngoài trời như thế nào
Một điều quan trọng nữa là cần phải trang trí căn phòng sao cho phù hợp với môi trường bên ngoài. Ví dụ, nếu nhà bạn ở vùng khí hậu nóng quanh năm thì đừng ngại ngần bỏ bớt một số đồ đạc không cần thiết để căn phòng thoáng mát hơn, hay nếu ngoài trời lạnh giá, hãy dùng tông màu nóng để mang lại cảm giác ấm áp cho ngôi nhà.
Cố gắng để mọi thứ "đồng bộ" với nhau
Đây cũng là một lỗi cơ bản khi mọi người suy nghĩ quá nhiều về việc chọn cái gì để "đồng bộ" với những đồ mình đã có sẵn. Hãy coi việc trang trí cho ngôi nhà giống như việc bạn lựa chọn bộ quần áo cho mình vậy. Tất cả cũng cần phải có sự kết hợp từ nhiều chất liệu, màu sắc khác nhau để tạo được điểm nhấn cho ngôi nhà. Làm vậy bạn cũng sẽ dễ dàng thay đổi phong cách hơn là khi diện cả "nguyên cây" đồng bộ.
Dùng những đồ đạc đã lỗi thời
Một ngôi nhà đẹp cần phải có nội thất hợp theo xu hướng. Nhưng không vì thế mà bạn phải thay tất cả đồ đạc trong nhà mỗi khi nghĩ đến chuyện trang hoàng lại. Chỉ cần thay chiếc chạn bếp hay tủ phòng khách cũng khiến căn phòng trở nên mới mẻ hơn rồi.
(Theo Đẹp Plus) Khí vào được tâm nhà rồi, luân chuyển khí đến các phòng, các vị trí khác trong nhà là rất tốt, thế nhưng, khí đọng lâu trong nhà mà không thoát ra ngoài được thì lại là ván đề nghiêm trong. Cũng giống như máu vào được tim rồi thì phải liên tục luân chuyển để lưu thông khí. Nếu khí nhà vào hết các phòng, khí bị tụ lại lâu sẽ trở thành tù khí (khí xấu), nếu không thoát ra được thì khí mới vào sẽ bị tù khí hòa lẫn làm cho khí trường bị ôm nhiễm tà khí.
- Điều được khí vào đến tâm nhà và luân chuyển khí đến được các phòng, vị trí trong toàn bộ ngôi nhà đã là thành công rồi, thế nhưng việc thiết kế và bố trí các cửa sổ, cửa phụ để cho tù khí (khí sau khi vào nhà một thời gian sẽ trở thành tù khí, các tia khí tốt đã được mọi người hấp thụ hết trong quá trình ăn, ngủ, ở rồi nên chỉ còn lại tà khí) được đi ra ngoài và nhanh chóng nhận lại các dòng khí tốt mới là hoàn chỉnh.
- Các phòng: phòng ngủ, phòng bếp, nhà vệ sinh, phòng thờ đều phải bố trí cửa sổ để tù khí có đường thoát ra ngoài:
+ Bố trí cửa sổ của bếp làm sao cho nắng và gió không chiếu vào mặt bếp
+ Bố trí cửa số phòng thờ làm sao cho không có nắng và gió chiếu vào phòng thờ (nên treo ràm vải tối màu tại cửa sổ của phòng thờ, chỉ mở khi c ó công việc, cỗ bàn, tức là khi đó sẽ có hương khói và cần mở để thoát bới khói, nhưng đảm bảo phòng thờ không bị nắng gió và nóng. vì nếu bị nóng, bị nắng chiếu vào, bị gió thổi mạnh vào thì sẽ làm cho vong linh gia tiên không tụ lại được)
+ Không bố trí cửa sô thẳng cửa phòng, vì khí sẽ thoát đi ngay khi vào phòng
+ Không bố trí cửa sổ sát góc tụ khí của phòng vì khi đó khí sẽ không tụ mà đi luôn theo cửa sổ ra ngoài. Nên bố trí cửa sổ cách góc tụ khí khoảng 1,5 - 2m là tốt nhất.
- Nguyên tắc là khí phải tụ được tại góc tụ khí (góc tài lộc ) rồi mới thoát đi. khi đó nó sẽ thoát đi các tù khí, tà khí chứ không phải là thoát đi các sinh khí, vượng khí.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Màu vàng thích hợp nhất để sơn phòng bếp.
Con người luôn có sự trao đổi năng lượng với môi trường xung quanh. Nếu căn bếp có bầu không khí tốt, hợp phong thủythì tinh thần của người nấu ăn cũng thoải mái, dẫn đến chất lượng bữa ăn tăng lên.
Bạn có thể cải thiện phong thủy nhà bếp theo các cách sau:
- Phòng bếp không nên gần cửa ra vào (kể cả cửa trước hoặc cửa sau) vì đó là nơi năng lượng phong thủy dễ thoát ra ngoài.
- Thực phẩm sử dụng hàng ngày là nguồn cung cấp năng lượng, nuôi sống cơ thể. Để những thực phẩm này có hiệu quả cao nhất thì cần phải sắp xếp chúng thật hài hòa trong phòng bếp, tạo ra một dòng năng lượng cân bằng.
– Bếp ăn nên có mức độ sáng phù hợp, phải đảm bảo được sự thoáng mát, rộng rãi và sạch sẽ. Một căn bếp có phong thủy tốt là căn bếp đơn giản, gọn gàng, tránh sắp xếp quá nhiều các vật dụng. Một môi trường bừa bãi, lộn xộn sẽ làm cản trở sự lưu thông của các nguồn năng lượng. Vì vậy, căn bếp luôn phải được dọn dẹp, những vật dụng không cần thiết phải được loại bỏ.
Nên đặt hoa tươi trong phòng bếp.
- Hoa tươi giúp năng lượng trong phòng bếp mạnh thêm. Do đó, nên đặt một đĩa trái cây, bình hoa hay cây xanh trên bàn ăn, cửa sổ hoặc một nơi thích hợp trong phòng bếp.
- Nên chọn cho phòng bếp màu sắc pha trộn phù hợp. Màu vàng được coi là màu hợp nhất, đem lại phong thủy tốt nhất. Nếu sử dụng màu này thì hệ tiêu hóa của gia chủ sẽ rất tốt. Hai màu thường thấy là màu vàng bơ, tượng trưng cho ánh sáng và màu vàng của bí đỏ, tượng trưng cho sự sôi động, mạnh mẽ.
Khu thương mại
Đây là khu vực mà mọi người thường lui tới mua sắm, dạo phố... Vì thế, nó là địa điểm lý tưởng để mở cửa hàng.
![]() |
Khu thương mại là nơi lý tưởng để mở cửa hàng kinh doanh, buôn bán |
Nơi này có thể mang lại hiệu quả kinh doanh cao, cung cấp được nhiều dịch vụ trong những dịp lễ tết, ngày nghỉ.
Khu dân cư
Khi mở cửa hàng tại các khu dân cư, lượng khách chính sẽ là người dân nơi đây và các khu vực lân cận. Nên kinh doanh các sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân.
Khu ngoại ô
Khu vực này trước đây không được chọn làm địa điểm kinh doanh lý tưởng. Nhưng hiện nay, cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của thành thị và sự gia tăng của lưu lượng xe, việc kinh doanh tại khu vực ngoại ô ngày càng sầm uất.
Các nhà hàng mở ra tại đây chủ yếu phục vụ cho nhu cầu đi lại, sửa chữa các loại xe, hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi.
Khu văn phòng
Đây là nơi tập trung nhiều văn phòng, cơ quan làm việc nên nhu cầu khách hàng cũng rất đa dạng, phong phú. Ngoài việc mua sắm vật dụng, văn phòng phẩm, khách hàng còn có thể ăn uống, gặp gỡ nói chuyện, bàn bạc công việc.
Cạnh nhà ga
Cạnh nhà ga tàu hỏa, ga xe khách đường dài là những nơi mọi người tập trung khá đông. Đây cũng sẽ là địa điểm lý tưởng để mở cửa hàng. Khác với khu văn phòng, khu sinh viên, các sản phẩm bày bán nơi đây là những thứ dễ mang theo bên người, không mất nhiều thời gian để lựa chọn. Vì thế, các nhà hàng ăn uống, thực phẩm, hàng tiêu dùng mở ra ở đây là thích hợp nhất.
(Theo Phong thủy cửa hàng kinh doanh)
![]() |
Tuổi Thìn |
![]() |
Tuổi Hợi |
![]() |
Tuổi Tỵ |
![]() |
Tuổi Thân |
Đó là một thực tế. Ngặt vì có một số người bài bác hẳn, cho là gieo rắc mê tín dị đoan; một số khác lại quá mê tín, nhất là việc lớn việc nhỏ, việc gì cũng chọn ngày, từ việc mua con lợn, làm cái chuồng gà, cắt tóc cho con, đi khám bệnh... mọi điều may rủi đều đổ lỗi cho việc không chọn ngày, chọn giờ. Một số đông khác tuy bản thân không tin nhưng chiều ý số đông, làm ngơ để cho vợ con đi tìm thầy lễ, thầy cúng định ngày giờ xét thấy không ảnh hưởng gì nhiều, hơn nữa, để tránh tình trạng sau này lỡ sẩy ra sự gì không lành lại đổ lỗi cho mình "Báng".
Thế tất một năm, năm mười năm, đối với một người đã đành, đối với cả nhà, cả chi họ làm sao hoàn toàn không gặp sự rủi ro!. ngày tốt, ngày xấu về khí hậu thời tiết thì dự báo của cơ quan khí tượng là đáng tin cậy nhất. Khoa học đã dự báo được hàng trăm năm những hiện tượng thiên nhiên như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao băng... chính xác đến từng giờ phút. Nhưng tác động của tự nhiên sẽ tạo nên hậu quả xấu đối với từng người, từng việc, từng vùng ra sao, đó còn là điều bí ẩn. thời xưa, các bậc trí giả tranh cãi nhiều vẫn chưa ngã ngũ nên ai tin cứ tin, ai không tin thì tuỳ "Linh tại ngã, bất linh tại ngã" (cho rằng thiêng cũng đã tự mình ra, cho rằng không thiêng, cũng tự mình ra), "Vô sư vô sách, quỉ thần bất trách" (không biết vì không có thầy, không có sách, quỷ thần cũng không trách).
Thực tế, có ngày mọi việc mọi điều đều thành công, nhiều điều may mắn tự nhiên đưa tới; có ngày vất vả sớm chiều mà chẳng được việc gì, còn gặp tai nạn bất ngờ. Phép duy vật biện chứng giải thích đó là qui luật tất nhiên và ngẫu nhiên. Trong tất nhiên có yếu tố ngẫu nhiên, trong ngẫu nhiên cũng có yêú tố tất nhiên. Lý luận thì như vậy nhưng có bạn đọc cũng muốn biết cụ thể trong tháng này, ngày nào tốt, ngày nào xấu, ngày nào tốt cho việc làm nhà, cưới vợ, tang lễ phải chánh giờ nào...Đa số bà con ta vẫn nghĩ "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", nhất là khi điều khiêng đó không ảnh hưởng gì mâý tới công việc cũng như kinh tế...
Thời xưa, mặc dầu có người tin, có người không tin, toà Khâm thiên giám ban hành "Hiệp kỷ lịch", mà số người biết chữ Hán khá nhiều nên phần đông các gia đình cứ dựa vào đó mà tự chọn ngày giờ. Thời nay, rải rác ở các làng xã, còn sót lại một vài người còn biết chữ Hán nhưng sách vở cũ hầu như không còn, các gia đình muốn xem ngày giờ để định liệu những công việc lớn đành mất công tốn của tìm thầy. Khốn nỗi, mỗi thầy phán một cách, chẳng biết tin ai. Đã có trường hợp, bốn ông bà thông gia vì việc chọn ngày tốt xấu, tuổi hợp tuổi xung, tranh cãi nhau phải chia tay để lại mối hận tình. Gần đây trên thị trường xuất hiện cuốn sách viết về cách xem ngày tính giờ. Cũng có tác giả có kiến thức, có tư liệu, viết rất thận trọng, nhưng ngược lại có người viết rất cẩu thả, dựa theo thị hiều thương trường, vô căn cứ với động cơ kiếm tiền bất chính. Có cuốn sách tốt xấu, thực hư lẫn lộn, không có tên nhà xuất bản, không có tên tác giả, không ghi xuất xứ của tư liệu...Cùng một ngày, cuốn này, ghi nên xuất hành, cưới hỏi, cuốn khác ghi kỵ xuất hành, cưới hỏi, làm người xem rất hoang mang. "Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay", biết tin vào đâu? Biết tìm ai mà hỏi?
Để đáp ứng nhu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi xin trích dẫn một số tư liệu khoa học và toàn văn bài "Xem ngày kén giờ" của học giả Phan kế Bính đăng trong cuốn "Việt Nam phong tục"xuất bản năm 1915, tái bản năm 1990 tại nhà xuất bản thành phố Hồ Chí minh và chúng tôi xin có phần chủ giải (cũng bằng những câu hỏi). Nhưng trước khi xem nên nhắc lại các bạn: "Khi gia đình có việc hệ trọng, cần nhiều người tham dự thì càng thận trọng càng hay, nhưng chớ quá câu nệ nhiều khi nhỡ việc. Mỗi người một thuyết, mỗi thầy một sách, rối rắm quá, có khi cả tháng không chọn được ngày tốt. Xem như trong cuốn "Ngọc hạp kỷ yếu" không có một ngày nào hoàn toàn tốt, hoặc hoàn toàn xấu đối với mọi người, mọi việc, mọi địa phương.
Có những bạn đọc hỏi: Chúng ta đã từng phê phán và sẽ tiếp tục phê phán mọi loại thầy bói, mê tín dị đoan, bịp bợm. Nhưng gần đây lại thấy nhiều người bảo: Khoa học có thể tính toán để biết trước ngày tốt, ngày xấu, thực hư ra sao?
Thầy bói là người hành nghề mê tín, biết nắm tâm lý. "Bắt mạch" đối tượng (qua nét mặt, lời nói, chi tiết trình bày và những câu thăm dò...). Nhưng bài viết này không nói về họ mà chỉ điểm qua những điều khoa học dự tính để biết trước ngày lành, tháng tốt... của mỗi người.
Nhịp sinh học - đặc điểm của sự sống: Nghiên cứu mọi cơ thể sống đều thấy hoạt động của chúng không phải lúc nào cũng giống lúc nào mà có khi mạnh khi yếu, khi nhanh khi chậm... Những thay đổi đó nhiều khi xảy ra rất đều đặn và liên tiếp thành chu kỳ, còn gọi là nhịp sinh học: Có nhịp ngàyđêm, nhịp tháng (liên quan đến âm lịch) nhịp mùa xuân, hạ, thu, đông... Các nhịp sinh học có tính di truyền. Pháp hiện ra các nhịp sinh học người ta nhận thấy các quá trình sinh lý trong cơ thể có thể biến đổi theo thời gian. Sự biến cố đó có tính chất chu kỳ và tuần hoàn (lặp đi lặp lại khá đều đặn).
Nghiên cứu về sự chết và tỷ lệ chết của con người, thấy có nhiều biến đổi tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây chết. Thí dụ: Vào khoảng 3-4 giờ sáng áp suất máu thấp nhất, não được cung cấp lượng máu ít nhất nên người bệnh hay bị chết nhất. Các cơn động kinh thường có giờ. Bệnh nhân hen cũng thườg lên cơn hen về đêm vào khoảng 2-4 giờ sáng (trùng với thời gian bài tiết cóc- ti-cô-ít ra nước tiểu xuống tới mức thấp nhất). Cơn hen về đêm nặng hơn cơn hen ban ngày. Những biến đổi có tính chất chu kỳ hàng năm thì có nguy cơ chết về đau tim cao nhất là vào tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc. Cao điểm hàng năm của các vụ tự tử ở bang Min-ne-so-ta cũng như ở Pháp là vào tháng 6. Hai nhà khoa học An-đơ-lô-ơ và Mét đã phân tích 3620 trường hợp tai nạn lao động và thấy làm ca đêm ít tai nạn hơn làm ca sáng và chiều.
Ngày vận hạn của mỗi người: Trên cơ sở tính toán ảnh hưởng của các yết tố vũ trụ lên trái đất và bằng phương pháp tâm sinh lý học thực nghiệm, người ta đã rút ra kết luận là từ khi ra đời, cuộc sống của mỗi người diễn ra phù hợp với ba chu kỳ riêng biệt: Chu kỳ thể lực: 23 ngày, chu kỳ tình cảm 28 ngày, chu kỳ chí tuệ 33 ngày. Mỗi chu kỳ gồm hai bán chu kỳ dương và âm. Bán chu kỳ dương (1/2 số ngày của đầu chu kỳ) được đặc trưng bằng sự tăng cường khả năng lao động. Còn bán chu kỳ âm (1/2 số ngày cuối chu kỳ) thì các hiện tượng đều ngược lại. Cả ba chu kỳ trên đều chuyển tiếp từ bán chu kỳ dương sang bán chu kỳ âm. Ngày trùng với điểm chuyển tiếp này là ngày xấu nhất của mỗi chu kỳ. Thực tế đã chứng minh: Đối với chu kỳ tình cảm, vô cớ. Đối với chu kỳ trí tuệ, đó là ngày đãng trí, khả năng tư duy kém. Đặc biệt đối với chu kỳ thể lực, đó là ngày thường sảy ra tai nạn lao động. Đối với hai chu kỳ, số ngày chuyển tiếp trùng nhau chỉ xảy ra một lần trong một năm. Ngày trùng hợp đó của ba chu kỳ là ngày xấu nhất, có thể coi là ngày "Vận hạn" của mỗi người.
Nếu biết ngày, tháng, năm sinh của mỗi người, nhờ máy tính điện tử có thể dễ dàng xác định được các chu kỳ, điểm chuyển tiếp và sự trung hợp điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ.
Công ty giao thông của Nhật Bản Omi Reilvei đã áp dụng thành tựu vào bảo vệ an toàn giao thông. Họ đã xác định các chu kỳ, các điểm chuyển tiếp giữa các chu kỳ của từng người lái và báo cho lái xe biết trước những "ngày xấu" để họ phòng tránh. Nhờ đó số tai nạn giao thông ở Nhật Bản đã giảm đi rất nhiều, đặc biệt vào đầu năm áp dụng (969-1970) số tai nạn giao thông đã giảm hản 50%.
Theo Cup-ria-nô-vích (Liên Xô cũ) thì giả thuyết về nhịp tháng của các quá trình sinh học xác định ba trạng thái của cơ thể, không chỉ áp dụng ở Nhật Bản mà còn được áp dụng ở nhiều nước Tây Âu vào công tác an toàn, giao thông nói riêng, an toàn lao động nói chung.
Các vấn đề trên đây không phải là "thầy bói nói mò" mà dựa vào một dữ kiện thực tế nhất định. Nó cũng phù hợp với nhận thức về mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố địa vật lý vũ trụ với các quá trình hoạt động chức năng của cơ thể.
(Bác sĩ Vũ Định- Trích báo "Hà nội mới chủ nhật" số 73)
Vua Trần Minh Tông với việc chọn ngày làm lễ an táng mẹ.
Năm 1332 Thuận thánh Bảo từ Hoàng Thái Hậu mất. Con là Thượng Hoàng Minh Tông lúc đó đã nhường ngôi cho con là Hiến Tông. Thượng hoàng sai các quan chọn ngày chôn cất. Có người tâu rẳng: "Chôn năm nay tất hại người tế chủ". Thượng hoàng hỏi : "Người biết sang năm ta nhất định chết à?". Người ấy trả lời không biết. Thượng hoàng lại hỏi: "Nếu sang năm trở đi ta chắc chắn không chết thì hoán việc chôn mẫu hậu cũng được, nếu sang năm ta chết thì lo xong việc chôn cất mẫu hậu chẳng hơn là chết mà chưa lo được việc đó ư? Lễ cát, lễ hung phải chọn ngày là vì coi trọng việc đó thội, chứ đâu phải câu nệ hoạ phúc như các nhà âm dương".
Rốt cuộc vẫn cử hành lễ an táng.
Ngày 13 tháng giêng | Ngày 11 tháng hai |
Ngày 9 tháng ba | Ngày 7 tháng tư |
Ngày 5 tháng năm | Ngày 3 tháng 6 |
Ngày 8, 29 tháng bảy | Ngày 27 tháng tám |
Ngày 25 tháng chín | Ngày 23 tháng mười |
Ngày 21 tháng một | Ngày 19 tháng chạp |
Dần, thân gia tý; mão dậu dầnLại cần phải nhớ hai câu:
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân;
Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Đạo viễn kỷ thời thông đạtLúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ hoàng đạo...
Lộ dao hà nhật hoàn trình.
Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kị ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.Trong bài có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp.
- Nhật Miếu địa, Vượng địa, ứng hợp với Dương nam, Dương nữ.
- Cung Mệnh có Nhật Miếu địa hay Vượng địa tọa thủ, mà lại sinh ban đêm, nên kém tốt đẹp.
- Nhật Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hợi hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỉ, tất được hưởng phú quí đến tột bậc, có uy quyền hiển hách, danh tiếng lừng lẫy và phúc thọ song toàn.
- Nhật Miếu địa, Vượng địa gặp Tuần, Triệt án ngữ nên suốt đời chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, thiếu sức khỏe, thường có bệnh đau đầu, bệnh thần kinh, bệnh khí huyết, mắt kém, nếu không sớm ly tổ, lập nghiệp ở phương xa tất không thể sống lâu được.
- Nhật Đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ, tuy mắt kém, cũng thường có những bệnh đã kể trên và phải sớm ly tổ, nhưng được hưởng phú quí và phúc thọ song toàn.
- Nhật Đắc địa, nếu không gặp Tuần, Triệt án ngữ, tuy cô bệnh tật, vẫn có tài lộc, nhưng không thể quý hiển được.
- Nhật Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Kình, Đà, Không, Kiếp, Kỵ, Riêu, Hình, nên suốt đời vất vả, công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, hay đau mắt, thường có bệnh ở trong đầu, lại rất dễ mắc những tai nạn nguy hiểm: tuổi thọ cũng bị chiết giảm.
- Nhật Đắc địa gặp Kỵ đồng cung và không bị Kình Đà, Không, Kiếp, Riêu, Hình xâm phạm, tất được hưởng phú quí đến tột bậc và sống lâu.
- Nhật Hãm địa, nên thân hình nhỏ nhắn, hơi gầy, cao vừa tầm, da xanh sám mặt choắc có vẻ buồn tẻ, má hóp, mắt lộ, cũng khá thông minh, tính cũng nhân hậu từ thiện, nhưng đôi khi ương gàn, lại không cương nghị, không bền chí, mắt kém, thường có bệnh đau đầu, bệnh thần kinh, bệnh khí huyết, nếu không sớm ly tổ, tất không thể sống lâu được.
- Nhật Hãm địa về già mới được an nhàn sung sướng.
- Nhật Hãm địa, Hợi, Tý, là người cao khiết, có đức độ, ham chuộng văn chương, triết học, đạo lý.
- Nhật Hãm địa, Thân, Tuất, Tý (Dương cung) cũng không đến nỗi mờ ám xấu xa lắm, nên vẫn được no cơm ấm áo, và chẳng đáng lo ngại nhiều về những bệnh tật.
- Nhật Hãm địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhất là Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỉ hay Hỏa Linh, Đắc địa, tất cũng có công danh, tiền tài và được tăng phúc tăng thọ.
- Nhật Hãm địa gặp Tuần, Triệt án ngữ, lại thành sáng sủa tốt đẹp, tuy phải sớm ly tổ, nhưng được hưởng giàu sang khỏe mạnh và sống lâu.
- Nhật Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, nhất là Kình, Đà, Không, Kiếp, Kỵ, Riêu, Hình, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, thiếu sức khỏe, thường có bệnh đau đầu, bệnh thần kinh, bệnh khí huyết mắt rất kém, nếu trong mình không có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là bị mù lòa không những thế hay bị tai họa khủng khiếp, và dĩ nhiên yểu tử.
- Nhật, dù Miếu địa, Vượng địa, Đắc địa hay Hãm địa gặp Hình đồng cung, tất mắt có tật, mắt thường bị vật kim khí bén nhọn chạm phải mà có thương tích.
NAM MỆNH
- Nhật, Miếu địa, vấn đề, hay Đắc địa thủ Mệnh, gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, là người tài giỏi, thao lược, văn võ kiêm toàn, được hưởng giàu sang đến tột bực, có uy quyền hiển hách, danh tiếng lừng lẫy và sống lâu.
- Nhật Hãm địa, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, phải lang thang phiêu bạt, thiếu sức khỏe, thường có bệnh đau đầu, bệnh thần kinh, bệnh khí huyết, mắt rất kém, nếu trong mình không có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn là mù lòa. Không những thế, lại còn hay mắc những tai họa khủng khiếp, và dĩ nhiên là yểu tử.
NỮ MỆNH
- Nhật Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa thủ Mệnh là người tài giỏi đảm đang, khí huyết dồi dào, tính cương nghị, nóng nảy, được hưởng phú quí đến tột bậc, phúc thọ song toàn.
- Nhật Hãm địa là người đa sầu, đa cảm, khéo tay, suốt đời tuy vất vả, mắt kém, hay đau yếu, có nhiều bệnh tật, nhưng vẫn được no cơm ấm áo.
- Nhật Hãm địa, phải sớm ly tổ mới có thể sống lâu được và phải muộn lập gia đình hay lấy kế lấy lẽ mới tránh được mấy độ buồn thương.
- Nhật Hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp, thật là chung thân cùng khốn cô đơn, khắc chồng, hại con, lang thang phiêu bạt, thiếu sức khỏe, thường có bệnh đau đầu, bệnh thần kinh, bệnh khí huyết, mắt rất kém, nếu trong mình không có tật, chân tay không bị thương tàn, chắc chắn bị mù lòa. Không những thế, lại còn hay mắc những tai họa khủng khiếp và dĩ nhiên là yểu tử.
PHỤ GIẢI
1 – Nhật xuất Lôi môn, phú quí vinh hoa
Cung Mệnh an tại Mão có Nhật, tọa thủ, tất được hưởng phú quí và rất vinh hiển. (Mão thuộc quẻ Chấn là biểu tượng của sấm sét nên gọi là Lôi môn).
2 – Thái Dương cư Ngọ, Nhật lệ trung thiên
Cung Mệnh an tại Ngọ, có Nhật tọa thủ nên rất sáng sủa tốt đẹp, Nhật ở đây ví như mặt trời rực rỡ trên từng cao. Tuổi Canh, Tân, Đinh, Kỷ có cách này tất hay chuyên quyền, nhưng được hưởng phú quí đến tột bậc. Còn các tuổi khác có cách này, 2 được hưởng giàu sang trọn đời.
3 – Thái Dương cư Ngọ
Canh, Tân, Đinh, Kỷ nhân phú quí song toàn
Tuổi Canh, Tân, Đinh, Kỷ mà cung Mệnh an tại Ngọ có Nhật tọa thủ, chắc chắn là được hưởng phú quí song toàn.
4 – Thái Dương cư Tý, Bính, Đinh phú quí trung lương
Cung Mệnh an tại Tý, có Nhật tọa thủ, kém sáng sủa tốt đẹp. Riêng tuổi Bính, Đinh, có cách này được hưởng giàu sang và là người trung chính lương thiện. Còn các tuổi khác có cách này là người tài giỏi, nhưng suốt đời bất đắc chí.
5 – Nhật tại Mùi, Thân, Mệnh vị, vi nhân tiên cần hậu lấn
Cung Mệnh an tại Mùi, Thân có Nhật tọa thủ, là người không bền chí, làm việc gì cũng chỉ chuyên cần siêng năng buổi đầu, rồi về sau lại lười biếng trễ nải và bỏ dở.
6 – Nữ Mệnh đoan chính Thái Dương tinh
tão ngộ hiền phu tín khả bằng
Đàn bà mà cung Mệnh có Nhật Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa tọa thủ, là người đoan chính và chắc chắn là sớm lấy được chồng hiền, có tài thao lược.
7 – Nhật lạc nhàn cung, sắc thiều xuân dung
Cung Mệnh có Nhật Hãm địa tọa thủ, nên vẻ mặt kém tươi đẹp và có vẻ buồn tẻ.
8 – Nhật, Nguyệt thủ Mệnh, bất như chiếu hợp tinh minh
Nhật, Nguyệt Miếu địa, Vượng địa hay Đắc địa tọa thủ tại cung Mệnh, không được toàn mỹ bằng hội chiếu cung Mệnh.
Nếu cung Mệnh an tại Sửu hoặc có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu, hoặc có Nhật tọa thủ tại cung Tỵ, Nguyệt tọa thủ tại Dậu hợp chiếu, hay an tại Mùi, hoặc có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Sửu xung chiếu, hoặc có Nhật tọa thủ tại mãi, Nguyệt tọa thủ tại Hợi, hợp chiếu, tất được hưởng phú quí đến tột bậc, phúc thọ song toàn.
9 – Nhật, Nguyệt tinh minh, tá cửu trùng kim điện
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật tọa thủ tại Mão, Nguyệt tọa thủ tại Hợi hợp chiếu là người có tài kinh bang tế thế, được hưởng giàu sang, thường phò tá bậc nguyên thủ đất nước.
A – Tam hợp Minh Châu sinh Vượng địa, ẩn bộ Thiềm cung
Cung Mệnh có Nhật, Nguyệt sáng sủa tốt đẹp hợp chiếu, ví như hòn ngọc sáng. Có cách này rất quý hiển, nhẹ bước trên đường công danh, như bước trên cùng Thiềm (mặt trăng).
B – Nhật Nguyệt nhi chiếu hư không, học hất nhi thập
Cung Mệnh vô Chính diệu có Nhật, Nguyệt sáng sủa tốt đẹp hợp chiếu, là người thông minh biết suy xét nên học một biết mười. Trong trường hợp này, nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Tuần, Triệt án ngữ, thật là hoàn mỹ.
10 – Nhật, Tỵ, Nguyệt, Sửu cung Mệnh, bộ Thiềm cung
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật tọa thủ tại Tỵ, Nguyệt tọa thủ tại Dậu hợp chiếu nên rất quý hiển, thường “nhẹ bước thang mây” như dạo gót trên cung Thiềm (mặt trăng)
11 – Nhật, Mão, Nguyệt, Hợi, Mùi cung, Mệnh đa chiết quế
Cung Mệnh an tại Mùi có Nhật tọa thủ tại Mão, Nguyệt tọa thủ tại Hợi, hợp chiếu, tất đi thi được đỗ cao, ví như được bẻ cành quế.
12 – Nguyệt, Nhật đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi tài
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Mùi xung chiếu, là người tài gỉoi quyền cao, chức trọng.
13 – Nhật, Nguyệt Mệnh, Thân cư Sửu, Mùi
Tam phương vô cát, phản vi hung
Cung Mệnh hay cung Thân an tại Sửu, Mùi có Nhật, Nguyệt tọa thủ đồng cung, nếu không có thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp, xung chiếu, hợp chiếu, tất bị mờ ám xấu xa. Như thế, tuy no cơm ấm áo trọn đời, nhưng không thể quý hiển được.
14 – Nhật, Nguyệt, Sửu, Mùi, Âm Dương hỗn hợp tự giảm quang huy, kỵ phùng Sát tinh, nhược lại Văn diệu, diệc kiến Quí, Ân, Thai, Tọa, Khôi, Hồng văn tài ngụy lý, xuất sử thành công
Cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung nên kém tốt đẹp vì Âm, Dương hội hợp, giảm bớt ảnh sáng. Đây, Nhật Nguyệt rất kỵ Sát tinh. Nhưng trong trường hợp này, nếu Nhật Nguyệt gặp Xương, Khúc hội hợp cùng với Quí, Ấn, Thai, Tọa, Khôi, Hồng, tất là người có văn tài lỗi lạc hay ngụy biện, biết trì thủ, biết xuất xử đúng lúc và chắc chắn là được hưởng giàu sang.
15 – Nhật, Nguyệt, Sửu, Mùi, ái ngộ, Tuần, Không, Quí,
Ân, Xương, Khúc, ngoại triều, văn tất thượng cách
Cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung, rất cần gặpán ngữ để thêm sáng sủa tốt đẹp. Đây, nếu Nhật Nguyệt gặp Tuần án ngữ, gặp Quí, Ân, Xương, Khúc hội chiếu, tất có sự nghiệp văn chương lớn lao và có quyền cao chức trọng.
16 – Nhật Nguyệt, Khoa, Lộc, Sửu cung, đinh thị công khanh
Cung Mệnh an tại Sửu có Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung, gặp Khoa Lộc hội hợp là người có chức vị lớn trong chính quyền.
17 – Nhật Nguyệt tịnh tranh quang, quyền lộc phi tàn
Cung Mệnh an tại Thìn có Nhật tọa thủ, gặp Nguyệt tọa thủ tại Tuất xung chiếu, hay an tại Tuất có Nguyệt tọa thủ gặp Nhật tọa thủ tại Thìn xung chiếu, nên rất rực rỡ tốt đẹp: vì Nhật Nguyệt ở đây ví như mặt trờ mặt trăng đua nhau chiếu sáng. Có cách này, thật là suốt đời được hưởng giàu sang, lại gìn giữ được quyền thế và tài lộc bền vững.
18 – Dương, Âm, Thìn, Tuất, Nhật, Nguyệt, bách cung nhược vô minh, không diệu tu cần, song đắc giao huy, nhi phùng Xương, Tuế, Lộc, Quyền, Phụ, Cáo, Tả, Hữu nhất cử thành danh, chúng nhân tôn phục.
Cung Mệnh an tại Tuất có Nhật tọa thủ, gặp Nguyệt tọa thủ tại Thìn xung chiếu, hay an tại Thìn có Nguyệt tọa thủ gặp Nhật tọa thủ tại Tuất xung chiếu, rất mờ ám xấu xa. Vậy cần gặp Tuần Triệt án ngữ hay Thiên Không đồng cung để trở nên sáng sủa tốt đẹp, có như thế mới được hưởng giàu sang và sống lâu.
Cung Mệnh an tại Thìn, có Nhật tọa thủ, gặp Nguyệt tọa thủ tại Tuất xung chiếu, hay an tại Tuất có Nguyệt tọa thủ gặp Nhật tọa thủ tại Thìn xung chiếu, nên rất rực rỡ tốt đẹp, vì Nhật Nguyệt ở đây ví như mặt trời, mặt trăng cùng tỏa ánh sáng giao hội lẫn nhau. Trong trường hợp này, nếu Nhật Nguyệt gặp Xương Tuế, Lộc, Quyền, Phục, Cáo, Tả, Hữu hội hợp, tất sớm được nhẹ bước thang mây, thành danh một cách dễ dàng, lại có uy quyền hiển hách, được nhiều người tôn phục.
19 – Nhật Nguyệt, Sát hội, nam đa gian đạo, nữ đa dâm
Cung Mệnh có Nhật Hãm địa tọa thủ hay có Nguyệt Hãm địa tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh hội hợp, nên rất xấu xa. Đàn ông có cách này là quân trộm cướp. Đàn bà có cách này là hạng dâm đãng.
20 – Nhật, Nguyệt vô minh, nhi phùng Riêu, Đà, Kỵ, Kiếp, Kình ư Mệnh, tật nguyền lưỡng mục
Cung Mệnh có Nhật Hãm địa tọa thủ, hay có Nguyệt Hãm địa tọa thủ, gặp Riêu, Đà, Kỵ, Kiếp, Kình hội hợp, tất bị mù lòa hai mắt.
21 – Nhật, Nguyệt giáp Mệnh, bất quyền tắc phú
Cung Mệnh an tại Sửu, giáp Nhật tại Dần, giáp Nguyệt tại Tý, hay an tại Mùi, giáp Nhật tại Ngọ, giáp Nguyệt tại Thân, nếu không có uy quyền hiển hách, tất là bậc triệu phú như Vương Khải, Thạch Sùng.
22 – Cự tại Hợi cung, Nhật Mệnh Tỵ thực lộc tri danh
Cung Mệnh an tại Tỵ có Nhật tọa thủ gặp Cự tọa thủ tại Hợi xung chiếu, thật là suốt đời được hưởng lộc dồi dào, công danh bền vững.
23 – Cự tại Tỵ cung, Nhật Mệnh Hợi, phản vi bất gia
Cung Mệnh an tại Hợi, có Nhật tọa thủ, gặp Cự tọa thủ tại Kỵ xung chiếu, nên không được sáng sủa tốt đẹp. Có cách này, công danh trắc trở, tiền tài khó kiếm, về già mới khá giả.
24 – Nhật tại Tỵ cung, Nhật mỹ huy thiên, kiêm lai Lộc Mã, Trường Sinh, Phụ, Bật, thế sự thanh bình vi đại phú nhược kiêm Tướng, Ấn, Binh, Hình, vô lai Tuần, Triệt loạn thế thành công
Cung Mệnh an tại Tỵ, có Nhật tọa thủ, rất sáng sủa tốt đẹp và Nhật ở đây ví như mặt trời rực rỡ trên tầng cao. Trong trường hợp này, nếu Nhật gặp Lộc, Mã, Sinh, Phụ, Bật giao hội, tất làm nên giàu có lớn trong thời bình và nếu Nhật gặp Tướng, Ấn, Binh, Hình giao hội, nhưng không gặp Tuần, Triệt án ngữ, tất lập được sự nghiệp vĩ đại trong thời loạn.
25 – Nhật cư Hợi địa, Nhật trầm thủy đề, ngoại hữ Tam Kỳ, Tả, Hữu, Hồng, Khôi, kỳ công quốc loạn viên thành, hoan ngộ Phượng, Long, Cái, Hồ bất kiến Sát tinh, thỉnh thế phát danh tài.
Cung Mệnh an tại Hợi, có Nhật tọa thủ, không được sáng sủa tốt đẹp, vì Nhật ở đây ví như mặt trời chìm dưới đáy nước. Trong trường hợp này, nếu Nhật gặp Khoa, Quyền, Lộc chiếu, Tả, Hữu, Hồng Khôi giao hội, tất lập được kỳ công, có sự nghiệp lớn trong thời loạn, và nếu gặp Phượng, Long, Cái, Hổ giao hội, nhưng không bị Sát tinh xâm phạm, tất có công danh và tài lộc trong thời bình.
26 – Nhật Hãm, xung phùng ác Sát, lao lục bôn ba
Cung Mệnh có Nhật Hãm địa tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh hội hợp, thật là suốt đời lao khổi, thường phải bôn ba, nay đây mai đó.
27 – Thái Dương, Hóa Kỵ, hữu mục hoàn thương
Cung Mệnh có Nhật, Kỵ tọa thủ đồng cung, nên hay đau mắt, mắt thường có tật.
![]() |
![]() |
![]() |
Lâu nay, Gia Cát Lượng vẫn được người dân khắp khu vực Đông Á nhắc tới như một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc nhưng đồng thời cũng là một thầy phong thủy, tướng số có khả năng hô phong hoán vũ, nhìn sao đoán mệnh, dự báo tương lai. Có lẽ chính vì vậy mà ngay cả với cái chết của vị quân sư họ Gia Cát này người ta cũng truyền tai nhau đủ chuyện phong thủy thần bí…
Năm Kiến Hưng thứ 12 nhà Thục Hán (tức năm 234), Gia Cát Lương dẫn quân Bắc phạt, đóng quân ở Ngũ Trượng Nguyên. Đó là thời điểm vào giữa mùa hạ, trời nóng bức, chiến cuộc lại không có nhiều tiến triển khiến Gia Cát Lượng rất lo lắng, ưu phiền, cứ mở miệng nói là cáu gắt, một ngày chỉ ăn được chút cơm. Chính vì vậy mà chẳng bao lâu sau, cơ thể suy kiệt nhanh chóng cuối cùng thành bệnh, nằm liệt giường trong doanh trại. Đến tháng 8, vị quân sự lỗi lạc của nhà Thục Hán nôn ra máu mà chết. Năm đó, Gia Cát Lượng mới chỉ 54 tuổi.
Gia Cát Lượng xuống núi theo Lưu Bị năm 27 tuổi, 14 năm sau thì làm tới chức thừa tướng nước Thục, 27 năm sau thì chết vì lo lắng phiền muộn. Người ta nói rằng, tất cả những sự kiện trọng đại xảy ra trong đời Gia Cát Lượng đều liên quan tới con số 7. Đây hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Con số 7 là con số định mệnh đối với Gia Cát Lượng.
Con trai Lưu Bị là Lưu Thiền nghe tin dữ từ tiền tuyến báo về kinh hoảng vô cùng. Vì lẽ, xưa nay, mọi việc trong triều đình nhà Thục đều trông vào một tay Gia Cát Lượng, nay Lượng vì chuyện Bắc phạt mà chết, ai sẽ là người thay Lưu Thiền lo lắng chuyện quốc gia đại sự. Vì vậy, người ta nói rằng, Lưu Thiền sau khi nghe tin là khóc lóc chạy tới nơi chôn cất của Gia Cát Lượng, tự mình chủ trì nghi lễ chôn cất còn phong cho Gia Cát Lượng là “Trung Vũ hầu”. Người đời sau vẫn gọi Gia Cát Lượng là “Gia Cát Vũ hầu” cũng là từ tước hàm này mà có.
Sách chép, trước khi chết, Gia Cát Lượng biết rằng sau khi mình nằm xuống, quân Thục không thể là đối thủ của quân đội Ngụy dưới sự chỉ huy của Tư Mã Ý. Vì vậy, mặc dù trong tình trạng bệnh tình nguy kịch vẫn cố gắng họp mặt các tướng lĩnh dưới quyền để bố trí thật chu đáo cho việc rút quân. Các tướng trung thành của Gia Cát Lượng là Dương Nghĩa, Khương Duy theo sự sắp xếp của Gia Cát Lượng, sau khi Lượng chết không phát tang ngay mà chỉnh đốn binh mã, rút quân về Hán Trung thật thần tốc nhưng phải trật tự, không để quân Tư Mã Ý phát hiện.
Tư Mã Ý biết chuyện quân Thục đang rút chạy, lập tức xua quân đuổi theo, quyết một phen tiêu diệt quân của Gia Cát Lượng. Dương Nghĩa ra lệnh cho binh lính rải đinh sắt trên đường rút quân để cản trở quân địch. Tư Mã Ý không phải tay vừa, ra lệnh cho hơn 2000 binh sỹ đi những đôi giày có đế làm bằng gỗ mềm chạy trước đoàn quân khiến đinh sắt do quân Thục rải trên đường găm hết vào đế giày.
Quân đội Ngụy cứ theo đoàn quân giày gỗ này thuận lợi truy đuổi quân Thục. Tuy nhiên, khi quân Ngụy đuổi tới gần, quân Thục đột nhiên dựng cờ, gõ trống giống như chuẩn bị phản kích quân Ngụy. Quân Tư Mã Ý thấy vậy không dám truy đuổi nữa. Quân Thục nhờ vậy mà an toàn rút về Hán Trung.
Vì sao một người thông minh như Tư Mã Ý lại không dám truy đuổi quân Thục? Nguyên nhân là vì, trước khi chết, dự liệu rằng khi quân Thục rút lui, Tư Mã Ý tất sẽ đuổi theo vì vậy Gia Cát Lượng đã cho người đẽo một bức tượng của mình rồi đặt lên xe. Đến khi quân của Tư Mã Ý đuổi theo đến gần thì đẩy xe có bức tượng của mình lên phía trước. Tư Mã Ý vốn nghe phong thanh Gia Cát Lượng bị bệnh mà chết, vì thế quân Thục mới rút quân.
Nay khi đuổi sát tới nơi lại thấy Gia Cát Lượng vẫn điềm nhiên ngồi trước xe ra trước ba quân thì sợ rằng cả cái chết lẫn việc rút quân chỉ là kế sách của Gia Cát Lượng nên không dám manh động. Tư Mã Ý quá thông minh do vậy cũng quá sức thận trọng vì thế đánh mất cơ hội tiêu diệt quân Thục. Người đời sau gọi sự kiện này là “Xác giả” Gia Cát Lượng đánh lui Tư Mã Ý.
Là một người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý vì vậy, Gia Cát Lượng đương nhiên rất chỉnh chu với việc chọn nơi chôn cất cho chính mình. Theo di nguyện của Gia Cát Lượng, sau khi chết nơi đặt mộ của mình sẽ là núi Định Quân.
Núi Định Quân nay nằm ở phía Nam huyện Miễn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nó là một nhánh đâm theo hướng Tây Bắc của dãy Hệ Mỹ Thương. Vì trên đỉnh núi rất bằng phẳng, có thể đóng được cả vạn quân nên mới có tên là núi Định Quân. Một truyền thuyết khác nói rằng, khi Gia Cát Lượng dẫn quân Bắc phạt đã dùng ngọn núi này làm nơi tập Bát trận độ, luyện tập binh lính nên mới có tên là núi Định Quân.
Vì sao Gia Cát Lượng lại chọn núi Định Quân mà không chọn chôn cất ngay tại nơi chốn hoặc mang hẳn về kinh đô nước Thục? Người ta đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Người nói Gia Cát Lượng chọn núi Định Quân là vì quan niệm khi sống thì quản lý nước Thục, khi chết thì bảo vệ nước Thục. Một thuyết khác lai nói rằng, do việc Bắc phạt thất bại nên Gia Cát Lượng không muốn đưa xác mình về chôn tại kinh đô, sợ bị Lưu Thiền trả thù. Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân thuyết phục nhất vẫn là Gia Cát Lượng đã tính toán rất kỹ về phong thủy khi lựa chọn ngọn núi Định Quân này.
Địa hình núi Định Quân rất phức tạp, các sườn núi uốn lượn, nhấp nhô được coi là một nơi cực tốt về mặt phong thủy. Tuy nhiên, ngọn núi Định Quân thì quá lớn, vậy nếu như chỉ nói rằng chôn cất ở núi Định Quân thì các tướng lĩnh biết chôn cất Gia Cát Lượng ở đâu? Người ta nói rằng, chuyện này cũng đã được Gia Cát Lượng tính toán rất kỹ.
Theo ghi chép, trước khi chết, nói về việc lo hậu sự của mình, Gia Cát Lượng nói với các tướng sỹ rằng, sau khi mình chết thì đem bỏ xác vào quan tài, lấy dây thừng buộc lại rồi cho quân sỹ khiêng theo đoàn quân rút về Hán Trung. Dây thừng đứt ở đâu thì lấy nơi đó làm mộ.
Truyền thuyết kể rằng, quân sỹ theo lời dặn của Gia Cát Lượng, buộc dây thừng vào quan tài rồi khiêng theo đoàn quân rút lui về phía Hán Trung. Cứ khiêng đi như vậy một thời gian rất lâu nhưng dây vẫn không đứt. Tuy nhiên, khi tới núi Định Quân thì đột nhiên sợi dây thừng rất chắc chắn bỗng dưng đứt bật ra, quan tài rơi xuống đất. Quân sỹ vội đặt quan tài xuống rồi tìm xẻng để đào huyệt hạ quan tài xuống. Nhưng khi binh lính vừa tản ra đất tại nơi đặt quan tại bỗng sụp xuống, vừa khít lấp trọn quan tài của Gia Cát Lượng.
Thời kỳ Tam Quốc là thời kỳ “mộ tặc” cực kỳ lộng hành. Vì vậy, ngoài việc chọn phong thủy cho ngôi mộ, việc đầu tiên cần nghiên cứu đối với các nhà phong thủy chính là làm cách nào để chống lại bọn mộ tặc này. Tào Tháo vốn là một chuyên gia trộm mộ, vì vậy cũng trở thành một người cực kỳ tài năng trong việc chống lại mộ tặc.
Nghi án về 72 ngôi mộ của Tào Tháo cho tới tận ngày nay vẫn chưa có lời giải và người ta vẫn chưa thể nào tìm thấy ngôi mộ thật của nhà chính trị lừng danh thời Tam Quốc này.
Về mặt phong thủy, Gia Cát Lượng có lẽ không thua gì Tào Tháo vì vậy, việc chống mộ tặc của Gia Cát Lượng cũng đặc sắc không kém.
Gia Cát Lượng khi chọn mộ cũng đã nghĩ đến việc sẽ bị Tư Mã Ý hoặc những người đời sau đào và cướp mộ vì vậy đã yêu cầu tướng lĩnh dưới quyền không chôn theo các vật tùy táng, mộ huyệt cũng không cần đào lớn, chỉ vừa đủ để đặt quan tài là được. Khu vực đặt mộ cũng không cần xây kín, cũng không trồng cây đánh dấu hay làm bất cứ thứ gì có thể bị phát hiện.
Tuy nhiên, những người đời sau để tưởng nhớ công đức của Gia Cát Vũ Hầu đã quyết định xây dựng khu mộ cho ông, lại còn trồng cây để ghi nhớ vị trí đặt mộ. Tuy nhiên, khi quyết định làm điều này, họ cũng tính đến việc giúp ngôi mộ chống lại bọn mộ tắc.
Vì vậy họ đã xây dựng rất nhiều ngôi mộ giả xung quanh ngôi mộ thật. Ngôi mộ mà ngay nay người ta vẫn gọi là “Mộ thật của Gia Cát Vũ Hầu” thực tế không phải là mộ thật. Nhiều người cho rằng, ngôi mộ chỉ vẻn vẹn dòng chữ “Mộ Vũ Hầu” mới là mộ thật. Vì vậy mà người Trung Quốc đến nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ: “Mộ thật thì không thật mà mộ giả lại không giả”.
Ngôi mộ có tên là “Mộ Vũ Hầu” được đặt ở góc Tây Bắc của núi Định Quân, diện tích lên tới hơn 300 mẫu. Trên thực tế, nhiều chuyên gia lại cho rằng, ngay cả ngôi mộ có tên “Mộ Vũ Hầu” này cũng không phải là thực.
Ngôi mộ này được coi là ngôi thật của Gia Cát Lượng chỉ mới bắt đầu từ năm 1799, do Đô đốc tỉnh Thiểm Tây là Tùng Quân khẳng định dựa trên những truyền thuyết lưu truyền trong dân địa phương thời đó. Vì vậy, có thể nói rằng cũng giống như Tào Tháo, cho tới nay người ta vẫn chưa thể xác định được mộ thật của Gia Cát Lượng nằm ở đâu.
Phong thuỷ học chia vị trí của gia trạch ra làm 5 phần quan trọng. Điều kị và cát hung của năm phần này đều khác nhau, việc phân chia được xác định căn cứ vào chỗ đặt cửa chính.
(1) Tiền chu tước vị – Chúng ta lấy cửa chính làm phía trước của nhà ở, phần này được gọi là tiền chu tước vị, đó là nơi mọi người ra vào nhà và cũng là địa điểm hoạt động thường ngày của mọi người, khí ở đây khá lưu dộng, thông thường không cát và cũng không hung.
(2) Hậu huyền vũ vị – là phần hai đầu trước và sau của mỗi tiền chu tước vị, đối diện với vị trí cửa chính. Ở đây phần nhiều dùng làm nơi để người trong nhà nghỉ ngơi, đó là nơi yên tĩnh. Vị trí này có một hoặc hai tài khí vị, muốn xác định là một hay hai phải nhìn vào vị trí của cửa.
(3) Tả thanh long vị – Chúng ta đứng tại phòng khách trong nhà, mặt hướng ra cửa, vách tường bên trái mình là tả thanh long vị, vị trí này quản quý nhân, cho nên rất hợp cho tụ khí, có khí tụ sẽ có quy nhân phù trợ.
(4) Hữu bạch hổ vị – Chúng ta đứng ở phòng khách trong nhà, mặt hướng ra cửa, vách tường bên phải chính là hữu bạch hổ vị. Bạch hổ vị quản tiểu nhân, ở vị trí này có khí tụ thì bên cạnh sẽ có kẻ tiểu nhân.
(5) Trung câu trần vị – Đây là phần giữa nhà, không thuộc không gian giữa của 4 phần trước, nó là trung câu trần vị, ở vị trí này không nên bố trí phòng bếp, phòng tắm, phòng vệ sinh, nếu không sẽ bất lợi đối với gia trạch.
o mùa xuân. Song, nếu mở cửa sổ ở các hướng khác cần tham khảo một sô” lưu ý dưới đây:
– Nhà ở quay lưng phía Bắc, nhìn về hướng Nam thì nên trổ cửa sổ ở đầu hồi phía Đông.
– Nên trổ cửa sổ ở tường phía Đông Nam với nhà tọa theo bất kỳ hướng nào vì cửa sổ ở hướng đó không chỉ đón được ánh bình minh mà còn giúp cho nền nhà luôn khô ráo, thoáng đãng, không bị ẩm mốc.
– Nếu trổ cửa sổ hướng Tây Nam thì khi mặt trời ngả về Tây, sẽ bị hắt vào nhà do vậy nên lợp mái vẩy ngoài cửa sổ, để tránh ánh nắng chiếu trực tiếp.
– Nếu buộc phải trổ cửa sổ hướng Tây Bắc cần thiết kế cửa sổ nhỏ và cao, lợp mái vẩy ngoài cửa sổ, để tránh ánh nắng chiếu trực tiếp.
– Không nên trổ cửa sổ hướng Tây vì mùa hè phải hứng chịu trực tiếp khí nóng nắng quái, còn mùa đông lại phải hứng khí lạnh, nếu buộc phải có cửa sổ thì không nên trổ quá rộng và cần phải có rèm cửa sổ che nắng.
– Không nên trổ cửa sổ hướng Đông Bắc vì gió Đông Bắc thổi vào trong nhà khiến nhà luôn ẩm ướt và lạnh giá, nếu buộc phải có cửa sổ thì không nên trổ quá rộng và cần phải có rèm cửa.
– Nên trổ rộng cửa sổ ở phía Nam, mùa hè có thể hứng gió mát vào trong nhà, mùa đông hứng tia nắng ấm, có lợi cho thông gió trong phòng, điều tiết khí nóng bên trong phòng, đảm bảo phòng luôn sáng sủa.
![]() |
Hai loại vân tay: hình xoáy ốc và hình nước chảy |
Nhiều người tìm hiểu về nốt ruồi ở cổ thường biết đến câu nói nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn. Họ vui mừng vì ý nghĩa của nó khá tốt, báo hiệu cuộc sống sung túc sau này. Nhưng có thực sự bạn hiểu hết ý nghĩa của câu nói nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn không? Cùng Phong thủy số tìm hiểu các ý nghĩa được phân tích dưới đây.
Xem thêm những bài viết hữu ích khác:
+ Nhận biết các Nốt ruồi phú quý của phụ nữ
+ “Điểm danh” các Nốt ruồi phú quý ở đàn ông
+ Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?
+ 20 vị trí nốt ruồi may mắn của phụ nữ
+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh
Phân tích theo chiết tự từ nghĩa là phân thích theo ý nghĩa của từng từ trong câu nói thì ý nghĩa của nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn khá tốt. Nó có ý nghĩa rằng, những người có nốt ruồi ở cổ có cuộc sống vật chất đủ đầy, giàu sang phú quý. Lỗ tiền chôn nghĩa là kho báu, của cải luôn có trong nhà. Hoặc sâu xa hơn nghĩa là bạn có một khối tài sản to lớn mà bạn cần phải khám phá ra. Điều này theo quan niệm ngày xưa, với gia đình nhiều tiền bạc họ thường cất giấu bằng cách chôn tiền ở các vị trí ít ai biết đến, đó gọi là lỗ tiền chôn.
Do vậy, nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn cũng có nghĩa là số họ sẽ được hưởng vinh hoa phú quý giàu sang từ tài sản được để lại hoặc họ gặp may mắn, giàu có bất ngờ.
Nhìn chung, câu nói nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn có ý nghĩa tốt đẹp, tuyệt vời theo phân tích chiết tự từ này.
Tuy nhiên bạn cũng cần phải để ý rằng, đây chỉ là quan niệm của dân gian, mọi người lưu giữ bằng truyền miệng chứ chưa có bất cứ bằng chứng nào chứng mình hay tài liệu nghiên cứu. Do đó, để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn thì mời bạn tìm hiểu thêm về các phân tích của Nhân tướng học dưới đây.
Theo phân tích từ nhân tướng học thì không hẳn nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn là có ý nghĩa tốt đẹp. Nghĩa là người có nốt ruồi ở cổ có thể có lỗ tiền chôn hoặc có thể là không, nó còn phụ thuộc vào vị trí trên cổ.
Nhân diện học cho đây là nốt ruồi phú quý, có nhiều may mắn về đường tài lộc. Họ gặt hái được nhiều thành công và hạnh phúc trong tình yêu.
Đây lại là nốt ruồi xui xẻo. Người có nốt ruồi ở đây là người tiêu xài hoang phí, dễ bị tiểu nhân hãm hại, cuộc sống lận đận.
Về tình duyên thì họ rất vượng đào hoa, nếu không cẩn thận có thể phạm đào hoa sát, làm tổn thương cả mình và người khác.
Họ là người có đời sống nội tâm phong phú, yếu lòng, lận đận về tình duyên, thường bị người khác dắt mũi. Tuy nhiên, họ lại là người có công việc thuận lợi, sự nghiệp phát triển, kinh tế vững chắc.
Họ là người có cá tính mạng, thích di chuyển, khám phá điều mới lạ. Họ đạt được thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên lại tiêu dài hoang phí, cuộc sống đủ ấm no nhưng không mấy dư giả. Họ có cuộc sống hôn nhân khá hạnh phúc và yên bình.
Hay còn gọi là nốt ruồi ở gáy. Họ là người có tính tình thẳng thắn, chân thành nhưng hơi lười biếng/ Cuộc sống khá bình yên, không nhiều sóng gió.
Điều này báo hiệu điềm xui xẻo trong cuộc sống. Họ là người nhẹ dạ cả tin nên dễ bị người khác lợi dụng cả về tình cảm lẫn tiền bạc.
Như vậy, dường như nốt ruồi ở cổ không hẳn chỉ có ý nghĩa là Lỗ tiền chôn như nhiều người vẫn nghĩ. Nó vẫn có những ý nghĩa xấu mà nếu có bạn nên cẩn thận để tránh nhé. Chúc bạn tìm hiểu ý nghĩa nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn được toàn diện và phù hợp với mình nhất nhé!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
kết cấu của căn nhà, vị trí Phi Tinh cũng phải tính toán lại.
Nếu thông nhà tầng trên với nhà tầng dưới thì vị trí cát hung của Phi Tinh sẽ không có biến đổi lớn. Nhưng nếu thông hai căn nhà cùng một tầng thì mọi vị trí Phi Tinh đều phải thay đổi. Hai căn nhà chuyển thành một, nhất định phải cẩn thận với vị trí của nhà bếp và nhà vệ sinh trước kia. Dù những vị trí đấy chuyển thành phòng ngủ hoặc phòng khách đều phải giữ sạch sẽ và không khí lưu thông được dễ dàng.
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
![]() |
Ảnh minh họa |
► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
1. Tuổi và ngày nên làm lễ cầu, gặp thầy chữa bệnh
Tuổi |
Ngày làm lễ cầu |
Tuổi |
Ngày làm lễ cầu |
Tý |
Tị – Hơi |
Ngọ |
Tị – Hơi |
Sửu |
Tý – Ngọ |
Mùi |
Tý – Ngọ |
Dần |
Sửu – Mùi |
Thân |
Sửu – Mùi |
Mão |
Dần – Thân |
Dâu |
Dần – Thân |
Thìn |
Mão – Dậu |
Tuất |
Mão – Dậu |
Tị |
Thìn – Tuất |
Hợi |
Thìn – Tuất |
2. Cách thức cầu xin
a. Lễ: Bắt buộc phải có vàng hương, hoa quả, trầu, nước, bài vị.
b. Bài vị giấy vàng ghi: Thái Âm Nguyệt Đức Tiên Giáng Hạ.
– Khấn: Ngày tháng, tên bệnh nhân, địa chỉ… Cung thỉnh Thái Âm Nguyệt Đức tiên bà Giáng Hạ xin cho (tên bệnh nhân) được …. (tuỳ ý cần xin).
Nên làm lễ ngoài trời vào lúc 19 giờ đến 21 giờ, quay mặt hướng chính Tây mà cầu.
Theo tín ngưỡng dân gian có nhiều vật dụng phong thủy đem lại sự may mắn, giàu có. Trong đó, tượng con cóc ba chân ngậm đồng tiền xu chính là một trong những vật phẩm được nhiều gia đình sử dụng. Đây là vật phẩm phong thủy đứng thứ hai, sau Tỳ Hưu, được cho là mang lại điềm lành và tài lộc.
Nếu để ý kĩ những tượng con cóc ba chân này, bạn sẽ thấy trên đầu cóc có hình “Lưỡng nghi” (hình tròn), phía bên trong hình tựa như hai con cá quay đầu lại với nhau. Đặc biệt, trên lưng cóc có những nốt sần gọi là chòm sao Đại Hùng.
Con cóc ba chân ngồi trên giá tài lộc là một đống tiền, miệng ngậm một đồng tiền và hai bên sườn đeo hai xâu tiền cổ.
Tượng con cóc ba chân gắn liền với một truyền thuyết. Con vật vốn là yêu tinh xấu được thu phục, cải tà quy chính và tỏa đi muôn nơi giúp đỡ người nghèo bằng cách nhả tiền cho họ. Vì thế vào những đêm trăng tròn con vật này ở gần nhà ai thì đó là sự báo tin gia chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý. Từ đó nó được tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài.
Con cóc ngậm tiền như được mô tả trong truyền thuyết thì nó có thể "phun ra của cải" và chỉ sống ở những nơi có sự giàu có. Nó rất nhạy cảm với các "mùi" của sự giàu có. "Thực phẩm" chủ yếu của nó bao gồm vàng, bạc, đá quý. Vì thế, ý nghĩa của con cóc trong phong thủy mà dân gian tin rằng nó xuất hiện ở nơi nào thì nơi đó sẽ có nhiều vàng bạc, trở nên giàu có.
Vị trí chính xác của cóc ba chân
Cách thức đặt cóc phụ thuộc rất nhiều vào thiết kế của nó.
(1) Con cóc ngậm một đồng xu trong miệng
Trong suốt cả năm, vị trí đặt con cóc nên quay mặt vào bên trong nhà để biểu thị rằng nó "nhổ nước bọt, nhổ tiền bạc" vào nhà. Đừng để nó trong phòng ngủ, nhà bếp hoặc phòng tắm. Ngoài ra, đừng bao giờ để nó quay mặt vào nhà vệ sinh, điều đó thể hiện sự bẩn thỉu, ô uế, thiếu tôn trọng đối với vật phẩm phong thủy.
Bên cạnh đó, không đặt con cóc cạnh bể cá, hồ bơi, ao vì khi đối diện với nước nó sẽ có nghĩa là "cơ hội kiếm tiền bị trôi đi".
Nếu bạn không ngại rắc rối, buổi sáng trước khi ra khỏi nhà hãy quay mặt con cóc hướng ra ngoài và buổi tối thì quay mặt con cóc hướng vào trong để biểu thị sự tích lũy của cải. Điều này không nhất thiết phải được thực hiện mỗi ngày, có thể làm khi nào bạn nhớ.
(2) Con cóc không ngậm một đồng xu trong miệng
Các cóc vàng thiết kế kiểu này giúp xua đuổi tà ma và rắc rối hơn là đem lại sự giàu có.
Nếu ngôi nhà của bạn đang sống gần khu vực bệnh viện, nghĩa trang, tang lễ có khí âm nặng thì nên đặt một con cóc trong miệng không ngậm đồng xu. Hướng con cóc ngồi nên được đặt ra ngoài.
Trong văn phòng, bạn có thể đặt con cóc ở phía trên bên trái bàn làm việc để làm giảm sự ghen tị, ghen ghét (nếu có) từ đồng nghiệp.
Đồ trang trí cóc vàng
Sau đây là khuyến cáo khi sử dụng đồ trang trí hay những bức tượng hình con cóc vàng:
- Đối với vòng cổ hình con cóc vàng, đầu của con cóc tốt nên được hướng lên trên, như vậy là để thu hút sự giàu có.
- Đối với vòng đeo tay, đeo nó ở bên tay trái vì theo quan niệm dân gian, sự giàu có đi vào từ bàn tay trái và ra tay phải.
- Treo một số đồ trang trí hình cóc vàng trong xe ô tô để tiêu tan năng lượng tiêu cực.
- Con cóc rất thích nuốt bảo vật, vì thế có thể đeo đồ trang sức hình con cóc vàng khi đi đến những nơi có rất nhiều của cải, ví dụ như ngân hàng hay cửa hàng đồ trang sức.
- Đừng để người ngoài chạm vào bức tượng cóc vàng của bạn. Nếu ai đó vô tình chạm phải thì hãy rửa lại bằng nước sạch và lau khô bằng vải mới.