Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tướng nhà tốt theo phong thủy –

Nhà có hình vuông là tốt theo luật phong thủy Từ trước người phương Đông đều bị ảnh hưởng bởi quan niệm "trời tròn đất vuông", khi xây nhà bất kể là tường ngoài hay trong phòng, đa số đều là hình vuông, tứ bình bát ổn, không nghiêng không lệch. Trong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà có hình vuông là tốt theo luật phong thủy

Từ trước người phương Đông đều bị ảnh hưởng bởi quan niệm “trời tròn đất vuông”, khi xây nhà bất kể là tường ngoài hay trong phòng, đa số đều là hình vuông, tứ bình bát ổn, không nghiêng không lệch. Trong phong thủy học, nhà ở hình vuông là tốt nhất.

av

Cũng có thể nói, nhìn từ vị trí của phương chính, hình dạng nhà ở hình vuông hoặc hình chữ nhật, bốn bên không khuyết góc, trái phải tương xứng với nhau, là dạng nhà ở lý tưỏng. Nếu nhà ở dài hẹp hình dạng không có quy tắc sẽ cho là không cát lợi.

Đây là vì theo nguyên tắc phong thủy học, nhà ở hình vuông có thể khiến năng lượng của khí sinh ra dòng chảy tuần hoàn cân bằng sẽ không xảy ra nhiều tai họa hoặc tai họa bất ngờ, từ đó ảnh hưởng tốt đến sức khỏe cơ thể và tâm lý người ở. Còn nhà ở dài và hoặc khuyết góc, khí trong nhà sẽ ngưng tụ, hoặc chảy không có quy luật, sự phân bố trường năng lượng sẽ mất cân bằng, có hưởng đến sức khỏe và cuộc sống thường ngày của người ở.

Nhìn theo quan điểm hiện đại, tính thực dụng của ngôi nhà; vuông cao, trang trí nội thất cũng tiện, hon nữa dễ thỏa mãn các cầu về thông gió, ánh sáng… Sống trong ngôi nhà này tự nhiên sẽ thấy thoải mái, tâm bình khí hòa, gia đình hòa thuận.

Tuy rằng như thế, do điều kiện đất đai hạn chế, nhà ở nhiều phải xây dựng trên những mảnh đất khuyết góc, hoặc việc chọn nhà trở nên khó khăn. Cho nên khuyên các bạn khi mua nhà nhất định phải chú ý đến hình dạng của nhà, cần cố gắng chọn nhà ở hình vuông. Nếu thật không có lựa chọn nào khác, thì ít nhất cũng chọn môi trường nào có không gian bù đắp.

Nhà ở trong thành phố hiện đại đa số là dài và hẹp. Tức là chiều dài thường gấp đôi chiều ngang. Như nhà có chiều dài 10m, chiều rộng chỉ có 4m, gọi là dài và hẹp. Đối vói nhà ở dài và hẹp, cách giải quyết tốt nhất là dùng tủ đứng, bàn trang điểm… chia phòng khách ra làm đôi, cắt chiều dài ra làm hai nửa không gian vuông, để khi nhìn vào không có cảm giác dài và hẹp.

Khi bài trí các đồ vật nội thất, cần chú ý các điểm sau:

– Bộ phận phân cách nên cố gắng dựa vào đường tuyến giữa, vì thế hai phần được chia ra mới có dạng hình vuông, nếu không sẽ mất đi ý nghĩa của việc làm này.

– Nên cố gắng dùng các tủ thấp hoặc đồ trang trí nội thất thấp để phân cách, như chiếc tủ thấp hon lm hoặc bàn trang điểm là lý tưởng nhất, vì như thế mới có thể làm cho không khí của hai phần phân cách được tương thông. Nếu dùng tủ cao hoặc tường để phân cách, hiệu quả sẽ giảm đi nhiều.

– Đồ dùng để phân cách nên cố gắng tránh đối diện với cửa chính, càng cần phải lưu ý không để tủ phân cách đối diện với cửa phòng của trẻ em, tránh trẻ em ra vào không thuận tiện, hoặc sinh ra đụng chạm ngoài ý. Nếu không thể tránh được, chỉ có thể bày một chậu cây cảnh trên đầu tủ để cứu chữa.

Có một số nhà ở mang đến cho con ngưòi cảm giác tinh thần thanh thản; mà có một số nhà ở lại khiến con người cảm thấy áp bức, u buồn, đứng ngồi không yên, một trong những nguyên nhân của nó là ưu khuyết điểm về bố cục kết cấu của nhà ở không giống nhau.

Kết cấu bố cục bốn phía rộng rãi, bố trí hài hòa là sự chọn lựa tốt nhất. Vì thế, khi bạn chọn nhà ở, bạn cần đứng tĩnh lặng trong nhà khoảng 10 phút, cảm giác một chút xem thử nhà ở này có mang lại tâm tình tịnh khí ngưng thần cho bạn hay không.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng nhà tốt theo phong thủy –

Hình dáng đôi môi tiết lộ chuyện tình của bạn –

Bạn sở hữu một đôi môi nhỏ xinh hay một đôi môi dày, đều đặn? Hãy xem những gì chúng “bật mí” về chuyện tình yêu của bạn có đúng không nhé! 1. Đôi môi đầy đặn, cánh môi khép khít hài hòa: Mạnh mẽ Khi yêu, bạn tỏ ra vô cùng quyết liệt, mạnh dạn. Với b
Hình dáng đôi môi tiết lộ chuyện tình của bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dáng đôi môi tiết lộ chuyện tình của bạn –

Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông liệu có giàu sang

Bạn thường nghe nói rằng Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông thể hiện cho chủ nhân của nó là người giàu sang, phú quý.Liệu tất cả nốt ruồi mọc trên cánh tay phải đàn ông đều thể hiện họ là người giàu sang hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn thường nghe nói rằng Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông thể hiện cho chủ nhân của nó là người giàu sang, phú quý. Tuy nhiên, cánh tay được tính từ phần tiếp giáp vai đến hết bàn tay. Liệu tất cả nốt ruồi mọc trên cánh tay phải đàn ông đều thể hiện họ là người giàu sang hay không? Cùng Phong thủy số giải đáp vấn đề này:

Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông liệu có giàu sang

Khi nhắc đến cánh tay dù là bên phải hay bên trái, dù là đàn ông hay đàn bà thì tốt hơn hết là bạn nên hiểu nó ở nghĩa rộng nhất và toàn diện nhất. Đặc biệt là khi bạn đang muốn biết về Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông hay nốt ruồi trong lòng bàn tay phải đàn ông. Bởi theo Nhân tướng học, mỗi vị trí khác nhau của nốt ruồi sẽ biểu hiện những ý nghĩa khác nhau. Thậm chí chỉ cần cách nhau vài cm là ý nghĩa đã có thể khác nhau hoàn toàn, thậm chí là ngược lại. Do đó, khi muốn tìm hiểu về Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông có giàu sang hay không thì bạn nên tìm hiểu ở nhiều vị trí khác nhau nhé. Dưới đây là một số vị trí trên cánh tay phải đàn ông mà nốt ruồi mọc ở đó sẽ có ý nghĩa khác biệt.

1. Nốt ruồi ở gần vai:

Là vị trí trên cùng của cánh tay, nơi tiếp giáp với vai. Khi có nốt ruồi ở đây nó sẽ biểu hiện cho người đàn ông này có số giàu sang, phú quý và khỏe mạnh. Như vậy, trong trường hợp này, quan niệm Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông là giàu sang có vẻ đúng với quan niệm của Nhân tướng học.

2. Nốt ruồi ở khủy tay:

Khi đàn ông có nốt ruồi ở khủy tay thì coi như là một “điểm trừ” trong mắt chị em phụ nữ. Vì trong Nhân tướng học, những người đàn ông có nốt ruồi ở khủy tay là người không chung thủy trong cuộc sống vợ chồng. Có lẽ nhiều chị em khi nghe đến ý nghĩa này sẽ khá e dè và nghi ngại khi gặp người đàn ông có nốt ruồi ở khủy tay.

3. Nốt ruồi ở cổ tay:

Khi có Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông mà cụ thể là ở khủy tay thì các cánh mày râu cũng nên chú ý. Đây được xem là nốt ruồi không mấy tốt đẹp cho các anh. Bởi nó thể hiện người đàn ông đó là người dễ thay đổi, tính tình nóng nảy, khó chiều. Có lẽ với những chị em phụ nữ thích được chiều chuộng thì sẽ dè chừng với người đàn ông có nốt ruồi ở cổ tay.

4.Nốt ruồi ở bàn tay:

Nhắc đến nốt ruồi ở bàn tay thì chúng ta lại phải xét đến nốt ruồi trên mu bàn tay hay nốt ruồi trong lòng bàn tay phải đàn ông. Bởi chúng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Khi nó ở mu bàn tay phải đàn ông thì nghĩa là người ấy là người ngơ ngơ ngẩn ngẩn, như người mất hồn và rất hay lo lắng, băn khoăn.

Còn khi có nốt ruồi trong lòng bàn tay, chúng ta lại có nhiều vị trí khác nhau nữa. Trong đó có thể kể đến như:

Nốt ruồi ở dưới ngón tay trỏ: là người làm nên sự nghiệp và có sự hỗ trợ đắc lực từ nhà vợ

Nốt ruồi ở dưới ngón tay giữa: nếu là nốt ruồi son thì làm nên nghiệp lớn, nếu là nốt ruồi đen thì lấy được con nhà giàu sang nhưng dễ bị lệ thuộc

Nốt ruồi ở dưới ngón tay áp út: có chuyện bất ngờ trong tình cảm, có thể gặp tình yêu sét đánh

Nốt ruồi ở dưới ngón tay út: chuyện tình duyên không mấy suôn sẻ, tham lam, bị vợ hại. Nếu là nốt ruồi son thì nhân duyên tốt đẹp hơn.

Nốt ruồi giữa lòng bàn tay: là người tự lập, sớm xa gia đình từ nhỏ.

Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông có rất nhiều ý nghĩa, phụ thuộc vào từng vị trí của nó phải không nào? Điều đó cho thấy không hẳn cứ đàn ông có nốt ruồi ở cánh tay phải thì đều giàu sang. Ví dụ chứng minh chính là ý nghĩa của nốt ruồi trong lòng bàn tay phải như đã nói ở trên. Tuy vậy, đây cũng chỉ là kết quả cho các bạn tham khảo, hãy so sánh, đối chiếu và tin tưởng hợp với bản thân của mình nhé!

Xem thêm những bài viết hữu ích khác:

+ Nốt ruồi có lông là tốt hay xấu

+ Nốt ruồi ở nhũ hoa phụ nữ có ý nghĩa gì?

+ Giải nghĩa câu nói nốt ruồi ở cổ có lỗ tiền chôn

Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông liệu có giàu sang

Mối quan hệ giữa cách đeo nhẫn và tình duyên

Cách đeo nhẫn và tình duyên có mối quan hệ như thế nào, cần tìm hiểu tường tận.
Mối quan hệ giữa cách đeo nhẫn và tình duyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Khi xem bói tướng tay phải tuân thủ nguyên tắc “Trai tay trái, gái tay phải”. Tay trái của đàn ông tượng trưng cho bản thân, tay phải là người vợ. Với nữ giới thì trái ngược, tay phải tượng trưng cho bản thân, tay trái là người chồng.


1. Mệnh lý tay, ngón tay và nhẫn

- Bàn tay: Khi xem bói tướng tay phải tuân thủ nguyên tắc “Trai tay trái, gái tay phải”. Tay trái của đàn ông tượng trưng cho bản thân, tay phải là người vợ. Với nữ giới thì trái ngược, tay phải tượng trưng cho bản thân, tay trái là người chồng.

Moi quan he giua cach deo nhan va tinh duyen hinh anh
 
- Ngón tay: Ngón cái như Ấn Tinh, đại diện cho cha mẹ, lòng tự tôn...; ngón trỏ như Tỉ Kiếp, đại diện cho anh chị em, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh công bằng...; ngón giữa như Nhật Chủ, đại diện bản thân; ngón đeo nhẫn như Tài Quan tinh, đại diện tình yêu, hôn nhân, nửa kia...; ngón út như Thực Thương, đại diện con cái, sự độc lập...

Đeo nhẫn chuẩn phong thủy hút tài lộc và vận đào hoa
Nếu muốn chiêu tài, bạn nên đeo nhẫn ở ngón áp út. Đây là vị trí giúp tụ tài tốt nhất và mang lại nhiều may mắn về tiền bạc.
- Nhẫn: Mỗi loại nhẫn khác nhau mang ý nghĩa phong thủy khác nhau. Đồng thời, khi đeo trên các ngón tay khác nhau lại mang ý nghĩa không giống nhau. Dưới đây chỉ là đôi nét quan điểm trong phạm vi hẹp về mối quan hệ giữa cách đeo nhẫn và tình duyên.

Moi quan he giua cach deo nhan va tinh duyen hinh anh 2
 
2. Vị trí đeo nhẫn và hàm ý về tình cảm, hôn nhân


- Đàn ông đeo nhẫn ở tay trái, phụ nữ đeo nhẫn ở tay phải: Ngón tay cái là đào hoa sát, ngón tay phải là đào hoa vượng, ngón tay giữa là có người trong mộng, ngón tay đeo nhẫn là đang trong giai đoạn yêu đương, ngón tay út là độc thân.

- Đàn ông đeo nhẫn ở tay phải, phụ nữ đeo nhẫn ở tay trái: Ngón cái là đào hoa sát, ngón trỏ là đào hoa sát, ngón giữa là đã kết hôn, ngón đeo nhẫn là thủy chung son sắt với nửa kia, ngón út là độc thân, đào hoa sát.

Moi quan he giua cach deo nhan va tinh duyen hinh anh 3
 
- Nam nữ độc thân muốn thúc vượng vận đào hoa, nên đeo nhẫn như sau: nam giới đeo ở ngón tay trỏ bên tay trái, nữ giới đeo ở ngón trỏ bên tay phải.

- Nam nữ độc thân đã xác định được đối tượng theo đuổi, cách đeo nhẫn như sau: nam giới đeo ở ngón giữa bên tay trái, nữ giới đeo ngón giữa bên tay phải.

Moi quan he giua cach deo nhan va tinh duyen hinh anh 4
 
- Các cặp đôi đang yêu nhau, thề non hẹn biển, chung thủy sắt son nên đeo nhẫn như sau: đeo ở ngón tay đeo nhẫn, nhưng trai tay trái, gái tay phải.

- Các cặp đôi đã kết hôn, mong muốn tình cảm bền vững, nên đeo nhẫn như sau: nam giới đeo ngón giữa bên tay phải, nữ giới đeo ngón giữa bên tay trái.

- Khi ly hôn hoặc một trong hai người sang thế giới bên kia, nên đeo nhẫn như sau: đeo ở ngón tay đeo nhẫn, nhưng nam bên tay phải, nữ bên tay trái.

=> Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Việt Hoàng

  Nhìn tướng tay biết ngay khả năng kiếm tiền của bạn
– Tài vận của mỗi người được thể hiện phần nào qua tướng tay. Ở mỗi giai đoạn giàu nghèo, sướng khổ, bàn tay bạn sẽ xuất hiện một vài dấu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa cách đeo nhẫn và tình duyên

Những nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật

Lời nói ngọt ngào dễ nghe là những viên đạn bọc đường. Cùng xem trong số 12 con giáp thì cô nàng nào là người dễ tin người vì những lời đường mật nhất nhé.
Những nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời nói ngọt ngào dễ nghe là những viên đạn bọc đường, ai cũng biết có thể gây nguy hiểm nhưng chẳng thể từ chối được. Cùng xem trong số 12 con giáp thì cô nàng nào là người dễ tin người vì những lời đường mật nhất nhé.   “Đàn ông yêu bằng mắt, đàn bà yêu bằng tai”, có lẽ từ xưa phụ nữ đã dễ bị xiêu lòng vì những lời đường mật. Trong cuộc sống hàng ngày cũng vậy, chúng ta thường thích nghe những lời ngọt ngào chứ đừng nói gì đến trong tình yêu.   Vẫn biết “thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”, lời nói thật thường khó nghe nhưng mấy ai dám nói rằng mình chỉ thích nghe lời cay đắng, dù đó là sự thật đi chăng nữa.   Trong tình yêu lại càng không thể thiếu được những lời ngọt ngào đường mật mà đôi lứa hay rót vào tai nhau. Người ta nói yêu nhau mà chẳng thể cho nhau lời ngọt ngào thì có lẽ sẽ thiếu đi chút gì vị ngọt tình yêu. Song nếu chỉ nghe lời ngọt ngào mà sống thì đâu có được, bởi nó sẽ khiến ta sụp bẫy bất cứ lúc nào mà không biết.   Hôm nay, Lịch ngày tốt có vài lời nhắc nhở với 4 nàng giáp hoàn toàn không có sức đề kháng nào với lời đường mật yêu đương này. Cùng xem tử vi để biết đó là ai trong số 12 con giáp nhé.  

Tuổi Sửu

4 nang giap de xieu long vi loi duong mat
 

Con gái tuổi Sửu tuy có tiếng là những người cẩn thận, kĩ tính, song bản thân họ lại không biết cách biểu đạt cảm xúc của mình, không biết cách để nói lên những điều mình muốn nói. Đứng trước những lời ngọt ngào đường mật của đàn ông, cô nàng này vừa cảm thấy ngại ngùng, vừa thấy thích thú.    Dù lý trí đã nhắc nhở nhưng vẫn có những lúc nàng giáp ấy không thể nào cưỡng lại lòng mình mà tin tưởng vào những lời tán dương ấy. Vẫn biết như vậy là không tốt nhưng quả thực những lời đường mật quá dễ xiêu lòng, cả đời cô nàng nào có bao giờ nói được những lời như vậy, giờ lại được người khác nói cho nghe, chẳng biết phản ứng thế nào nhưng trong lòng đã ngầm tin rằng đó là sự thực.  

Tuổi Thìn

nang tuoi Thin thich tan duong
 
Những cô nàng được mệnh danh là “con gái rượu” của Rồng trước nay vẫn luôn được biết đến là những người cực kì lý trí và thực tế, cũng là một trong những cô nàng kiếm được nhiều tiền nhất trong số 12 con giáp. Mọi chuyện trong cuộc sống trước giờ luôn nằm trong tầm kiểm soát của nàng giáp này, dù là hành động hay lời nói của người khác cũng không thể khiến cho cô nàng đánh mất lý trí.   Nhưng ai cũng có điểm yếu của riêng mình, với nàng tuổi Thìn, điểm yếu đó chính là thích sự ngọt ngào mà không hề đề phòng những “viên đạn bọc đường”. Họ vẫn rất cảnh giác, chính vì thế mà những lời hoa lệ quá mức thì sẽ chẳng thể vượt qua được tường rào bảo vệ mà nàng giáp này dựng nên, song nếu biết điều chỉnh, chỉ cần nói dễ nghe một chút là trái tim sắt đá của cô nàng sẽ tự động mở cửa cho bạn bước vào, chẳng chút nghi ngờ mà tin tưởng đối phương vô điều kiện.  

Tuổi Thân

nang tuoi Than khong chong do duoc loi ngot ngao
 
Những cô gái sinh năm Thân có lòng tự tôn khá lớn, yêu cầu lớn nhất của họ đối với mọi người chính là phải tôn trọng mình. Chỉ cần đáp ứng được điều kiện đó, lại thêm vào những lời đường mật không ngừng rót bên tai thì bao nhiêu hàng rào giáp sắt của cô nàng này cũng trở nên vô dụng.   Cô nàng này rất dễ bị mềm lòng, vì đối phương ăn nói quá dễ nghe nên chỉ một hồi là lạc mất phương hướng, người ta nói gì cũng tin theo, người ta dắt đi đâu cũng chẳng chút nghi ngờ. Cô nàng tuổi Thân chỉ nhìn vào thái độ của đối phương, nếu họ đủ lịch sự thì nàng ta sẽ nhận định rằng đó là người tốt.  

Tuổi Hợi

co nang tuoi Hoi ngay tho de tin nguoi
 
Trong số 12 con giáp thì có lẽ cô nàng tuổi Hợi là người ngây thơ và dễ tin người nhất. Không phải họ ngốc nghếch dễ bị lừa mà cái chính là nàng giáp này trời sinh có tâm hồn thiện lương, không bao giờ nghĩ xấu hay nghi ngờ người khác. Lấy vợ tuổi Heo, tha hồ mà giữ, bởi họ như viên ngọc sáng trong giữa cả thế giới đảo điên này, khiến ai cũng muốn đoạt lấy về tay.   Trong con mắt họ, cả thế giới này đều là người tốt, chẳng ai muốn hại ai. Chính vì thế mà cô nàng tuổi Hợi thực sự không thể chống đỡ được những lời đường mật được đối phương cố ý nói với mình. Cho dù lời nói quá ngọt ngào khiến họ có đôi chút nghi ngờ, nhưng trái tim trong sáng sẽ lập tức lựa chọn tin tưởng người khác. Hãy sống lý trí hơn một chút bạn nhé. Tốt bụng là điều tốt, lạc quan yêu đời không phải là sai, nhưng đừng để kẻ xấu lợi dụng lòng tốt của mình.   Hy Vũ
Chia buồn với 4 con giáp này, bạn quá dễ lừa Những nàng giáp ghen tuông đến Hoạn Thư cũng phải dè chừng Những con giáp dễ mù quáng trong tình yêu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nàng giáp dễ xiêu lòng vì lời đường mật

Mặt nền nhà có cần kiên cố không? –

Phòng khách là nơi sum họp của các thành viên trong gia đình và là nơi tiếp đón khách của tất cả các thành viên trong gia đình vì vậy, nền phòng khách phải thật bằng phẳng và kiên cố, giúp cho việc đi lại được dễ dàng và thoải mái nhất. Ngoài ra, nhì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

n vào nền nhà, ta có thể đánh giá được tính cách của gia chủ. Bởi một người chủ cẩn thận, sạch sẽ, có óc thẩm mỹ sẽ chú tâm đến việc chọn vật liệu lát nền một cách công phu, lát cẩn thận, chắc chắn, phẵng phiu, đẹp mắt, luôn lau chùi quét dọn và sửa chữa những viên gạch bị long vữa. Bước vào những ngôi nhà như vậy, bạn sẽ có cảm giác như đang ở một nơi sang trọng, giàu có mà chủ nhà thì luôn tươi cười, cởi mở.

hex1311872465

Màu sắc mặt sàn nên chọn loại gam màu thẫm, dầy chắc và bền, cho người ta có cảm giác vững chãi, thoải mái, không rợn chân khi bước, cũng phù hợp với đạo phong thủy.

Nếu mặt sàn có màu sáng thì chọn vật liệu màu thẫm lát hoặc quét vôi xung quanh sàn, bạn sẽ có cảm giác cân bằng, nhẹ nhõm.

Nếu rải thảm trên mặt sàn, bạn có thể dùng loại hoa văn ngũ sắc với nội dung vui tươi, may mắn, tránh thảm có góc cạnh và tốì kỵ để góc cạnh đó hướng ra phía cửa.

Mặt sàn phòng khách không nên làm quá bóng vì có thể gây loá, trơn trượt khiến người trong nhà có thể bị ngã, nhất là với người già và trẻ nhỏ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mặt nền nhà có cần kiên cố không? –

Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Trong 12 con giáp, tuổi Dậu sớm gặp được tình yêu đích thực hơn cả. Đó có thể là khi 14 tuổi hoặc 28 tuổi, khi nông nổi hoặc khi đã chín chắn.
Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mãi tới năm 25 tuổi, người tuổi Sửu mới có thể gặp được ý chung nhân mà cả đời khó lòng quên được. Điều đặc biệt là, chính người này sẽ dạy bạn trưởng thành, để bạn thực sự thấu hiểu thế nào là yêu. 

  Tuổi Tý   Xem bói thời gian tìm thấy tình yêu đích thực của 12 con giáp, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy những người cầm tinh con Chuột có thể gặp được tình yêu đích thực của đời mình ở độ tuổi 20. Bởi vì tính cách họ phóng khoáng, đi đâu cũng trở thành tâm điểm chú ý, ắt có nhiều vệ tinh vây xung quanh.   Tuy nhiên, nếu quyết định kết hôn, hai bạn sẽ mâu thuẫn và tranh chấp khá nhiều vì vẫn còn khá trẻ, tính cách còn nhiều khiếm khuyết cần bổ sung. Nhưng nếu hai bạn dành thời gian hiểu nhau, đừng vội vàng hấp tấp, tình yêu ngày càng gắn bó bền chặt.  
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Sửu   Mãi tới năm 25 tuổi, người tuổi Sửu mới có thể gặp được ý chung nhân mà cả đời khó lòng quên được. Điều đặc biệt là, chính người này sẽ dạy bạn trưởng thành, để bạn thực sự thấu hiểu thế nào là yêu.    Tuổi Dần   Thời gian người tuổi Dần có thể gặp được tình yêu đích thực sẽ rơi vào khoảng từ 15 đến 35 tuổi. Điều trăn trở lớn nhất của con giáp này chính là tình yêu đến hoặc là quá sớm hoặc là quá muộn, cảm giác như không kịp nắm bắt, chưa đủ chín chắn để chủ động nắm giữ hạnh phúc trong tầm tay.   Tuổi Mão   Vốn sống hướng nội và coi trọng tình cảm, người tuổi Mão sẽ sớm tìm được nửa kia ưng ý từ độ tuổi 17 đến 27, thậm chí đây cũng là bến đỗ vô cùng yên ổn.   
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Thìn   Từ khoảng năm 18 đến 25 tuổi, người cầm tinh con Rồng có nhiều cơ hội gặp được đối tượng ưng ý, hơn thế bạn còn dành tình yêu cuồng nhiệt, si mê cho đối phương.   Tuổi trẻ đôi mươi tuổi Thìn còn khá mơ hồ với tình yêu, khi trưởng thành rồi sẽ biết khống chế cảm xúc để tình yêu đơm hoa kết trái, đôi lứa gắn bó với nhau hơn cả keo.   Tuổi Tỵ   Để gặp được người yêu mến chân thành, người tuổi Tỵ phải sống khoảng 19 năm trong cuộc đời. Độ tuổi từ 19 đến 38 là khoảng thời gian bạn rất dễ tìm được nửa kia đích thực.    Vốn thuộc tuýp nhạy cảm và tinh thế, con giáp này không dễ dàng tin tưởng yêu thương một ai đó. Bởi vậy, họ cần rất nhiều thời gian để bản thân chắc chắn trong tình yêu, hạnh phúc thường đến muộn.   Top 3 con giáp có cuộc sống ngày càng tốt đẹp Cặp đôi hoàn hảo trong 12 con giáp làm nên đại nghiệp Top 3 con giáp sau 1 đêm trở thành triệu phú
Tuổi Ngọ
  Vì tôn sùng chủ nghĩa tự do, ham theo đuổi những điều mới lạ, nên người tuổi Ngọ tìm được tình yêu đích thực khá muộn, khoảng từ 25 đến 42 tuổi.    Một phần do tuổi Ngọ đi quá nhiều, từng trải, yêu cầu càng cao, muốn có được một người xứng đáng nên phải mất khá nhiều thời gian kiếm tìm.   Tuổi Mùi   Tương tự tuổi Ngọ, những ai cầm tinh con Dê sẽ đón hạnh phúc hôn nhân khá muộn. Mãi cho tới tận 27 hoặc 33 tuổi bạn mới có thể tìm được đối tượng phù hợp.   Thời “trẻ trâu” nông nổi, tuổi Mùi rất dễ rung động, nhưng cảm xúc của họ chỉ thực sự sâu sắc khi bước vào độ tuổi lớn hơn, theo đó tình yêu cũng bền vững hơn nhiều.  
Tinh yeu dich thuc cua 12 con giap sau bao nhieu nam moi co hinh anh
 
Tuổi Thân   Hoạt bát, hồn nhiên là thế, người tuổi Thân sẽ đón đầu tình yêu đích thực của mình vào độ tuổi 18 hoặc khi đã trưởng thành, 28 tuổi. Với con giáp này, hoặc là sẽ có tình yêu nông nổi của tuổi trẻ thanh xuân rực rỡ, hoặc là khi sự nghiệp đã có bước đi vững vàng, làm cơ sở bền chặt cho tình yêu.   Tuổi Dậu   Trong 12 con giáp, tuổi Dậu sớm gặp được tình yêu đích thực hơn cả. Đó có thể là khi 14 tuổi hoặc 28 tuổi.    Khi còn quá trẻ dễ rung động, con giáp hồn nhiên chân thật này dễ dàng tin tưởng, họ có lẽ sẽ rung động mà chẳng hề biết đó là yêu. Đến khi 28 tuổi, tình cảm lúc đó có lẽ sẽ ổn định hơn nhiều.   Tuổi Tuất   Khoảng 15 tuổi, người tuổi Tuất đã có những rung động tình yêu đầu đời. Nhưng có lẽ, tình yêu đích thực chỉ thực sự bền chặt và có thể tiến tới hôn nhân khi con giáp này bước sang tuổi 26, khi mà họ trưởng thành cả về tư tưởng lẫn sự nghiệp.   Tuổi Hợi   Người tuổi Hợi có thể tìm thấy nửa kia ưng ý trong khoảng từ 18 đến 35 tuổi. Một khi rơi vào lưới tình, con giáp này vô cùng trung thực và chân thành. Họ rất trân trọng đối phương, không cần lo nghĩ quá nhiều mà sẵn sàng hy sinh chính mình.  
► Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Ngọc Diệp
 
Những chàng trai ngọt ngào, ấm áp nhất trong 12 con giáp
Sở hữu trái tim ấm áp, cử chỉ ân cần, ngọt ngào, những chàng giáp dưới đây luôn là niềm khao khát phái đẹp.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu đích thực của 12 con giáp sau bao nhiêu năm mới có?

Xem tướng mặt đàn ông háo sắc số một

Sở hữu những nét tướng mạo dưới đây, cánh mày râu dễ thay lòng đổi dạ và đặc biệt nếu bị dụ dỗ thì khoát thoát khỏi ải mĩ nhân.
Xem tướng mặt đàn ông háo sắc số một

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Đôi mắt long lanh như chứa lệ
 
Trong Nhân tướng học, đàn ông sở hữu ánh mắt kiên định, nhìn thẳng, có thần sắc thường có tinh thần trách nhiệm cao. Ngược lại, tướng mặt đàn ông háo sắc có đôi mắt long lanh tựa mặt hồ, hay ánh mắt biết cười sẽ rất đào hoa khi bước sang độ tuổi trung niên, dù đi đến đâu người này cũng có hàng tá cô chân dài theo đuổi.
 
Nhin mat dan ong kho qua duoc ai mi nhan hinh anh
Ảnh minh họa

2. Lông mày hình trăng khuyết
 
Nam giới có lông mày hình trăng khuyết hay hình cánh cung thường là những người dạt dào tình cảm, có sức cuốn hút bí ẩn, trái tim nhạy cảm, nhanh chóng nắm bắt được tâm lí của nữ giới và hết mực chiều chuộng họ. Đây chính là một trong những đặc điểm tướng đàn ông lăng nhăng, dễ thay đổi tình cảm.   Do vậy, khi tiếp xúc với các cô nàng, họ thường bén duyên rất nhanh, thậm chí nữ giới còn chủ động theo đuổi người này. Điều đó vẫn tiếp diễn sau khi kết hôn. Theo đó, tỉ lệ ngoại tình của người có tướng mặt đàn ông háo sắc này khá cao.

3. Đuôi mắt nhiều vết chân chim
 
Không xét về tuổi tác, đàn ông có nhiều vết chân chim thường là những người có bề ngoài khá chỉnh chu, biết khéo léo che đi những khuyết điểm của bản thân và phô ra những gì tốt đẹp. Về tình cảm, người này hay thay đổi, coi tình yêu như trò và có xu hướng “bắt cá hai tay” ngay cả trong thời gian đang yêu.   4. Môi quá mỏng

Đàn ông môi mỏng là người có tài ăn nói, nói nhiều hơn làm nhưng những lời nói của họ đều không đáng tin. Khi tiếp xúc với loại nam nhân này bạn nên cẩn thận vì họ chỉ xem chuyện tình cảm là trò đùa, thậm chí họ bày tỏ tình cảm với bạn cũng chỉ vì mục đích vật chất nào đó.
 
5. Mũi sư tử
 
Đặc điểm dễ nhận thấy của mũi sư tử là hai bên cánh mũi có đường lõm sâu. Vừa nhìn đã biết đây là người không thật lòng dù bên ngoài có vẻ khá chín chắn nhưng thực chất là người nóng vội, phong lưu đa tình.
 
Ngoài ra, ngay từ khi sinh ra người có tướng mặt đàn ông háo sắc này đã có vận đào hoa, đi tới đâu cũng có người yêu mến. Vì vậy, trước khi kết hôn với anh chàng có đặc điểm này, bạn phải cân nhắc thật kĩ lưỡng, thậm chí xác định rõ trường hợp anh ta sẽ không toàn tâm toàn ý bên cạnh bạn. 

► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
 
Theo Ngày nay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt đàn ông háo sắc số một

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Tết Đông chí - một ngày tết truyền thống đặc sắc của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới và là một trong những thời điểm tổ chức nghi lễ, chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa từ nghìn năm qua.
Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đông Chí năm 2015 sẽ diễn ra vào ngày 22 tháng 12 dương lịch tức ngày 12 tháng 11 theo âm lịch. (Các bạn có thể xem rõ hơn lịch về ngày Đông Chí 2015 tại lịch vạn niên).

Có nhiều lễ hội truyền thống trên thế giới được tổ chức vào ngày Đông chí như Lễ hội Yule của đạo Wicca, một trong tám lễ hội Sabbat của những người theo đạo đa thần giáo kiểu mới (Neopagan) này. Và rất nhiều nền văn hóa khác cũng tổ chức lễ hội vào ngày này hoặc xung quanh ngày này như lễ hội lễ hội Yalda, lễ hội Saturnalia, lễ Giáng Sinh, Hanukkah, lễ hội Festivus, lễ hội Kwanzaa và lễ hội HumanLight….

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Rộn rã lễ hội Đông Chí trên thung lũng Pakistan

Trong các lễ hội này phải kể đến Tết Đông chí  - một ngày tết truyền thống đặc sắc của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới và là một trong những thời điểm tổ chức nghi lễ, chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa từ nghìn năm qua. Vậy Tết Đông Chí của người Hoa như thế nào? Có nguồn gốc từ đâu? Có phong tục tập quán thú vị ra sao? … Chúng ta hãy cùng tìm hiểu để làm phong phú hơn kiến thức của mình nhé!

>>> Đã có TỬ VI 2016. Xem ngay nhé!

>>> Đã có XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016. Xem ngay nhé!

1./ Ngày Đông Chí là ngày gì?

Đông Chí  là một trong 24 tiết khí trong năm: “Đông” có nghĩa là mùa đông. Chữ “Chí” trong cụm từ “Đông Chí” có nghĩa là cực điểm, đỉnh điểm. Nhưng đỉnh điểm, cực điểm không phải là lạnh đến cực điểm mà là chỉ vị trí Trái đất xoay quanh Mặt trời, đến tiết Đông Chí, người dân sống ở Bắc bán cầu trong ngày Đông Chí sẽ thấy ban ngày có thời gian rất ngắn; đến sau Đông Chí thì ngày mới bắt đầu dài dần ra và ngược lại người dân ở Nam bán cầu sẽ có ngày rất dài.

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Vị trí của trái đất bốn mùa trong năm

Ngày đông chí là ngày chứa điểm đông chí tính theo múi giờ địa phương. Theo quan điểm của người Trung Hoa và các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại như Việt Nam thì ngày Đông chí là phù hợp với các tính toán của thiên văn học đối với Bắc bán cầu. Ngày Đông chí là một yếu tố quan trọng để xác định ngày Tết Nguyên Đán cũng như xác định tháng nhuận, các ngày tốt xấu và tất cả các tiết khí khác trong âm lịch năm sau….

 2./ Nguồn gốc Tết Đông Chí của người Hoa.

Tiết Đông chí là một trong những thời điểm tổ chức nghi lễ, chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng truyền thống Trung Hoa từ nghìn năm qua.

Trung Quốc cổ đại chia một năm thành 24 tiết khí, mỗi mốc 15 ngày đánh dấu sự thay đổi của khí hậu và quá trình chuyển mùa. Điều này thể hiện rõ trong hoàng lịch của Trung Hoa và thời điểm tổ chức lễ hội và nghi lễ, bao gồm những sự kiện diễn ra vào ngày Đông chí.

Tết Đông Chí là một ngày lễ có nguồn gốc từ Trung Quốc, theo sử sách ghi lại, vào thời phong kiến, đến ngày “Đông Chí”, vua quan sẽ cùng nhau thưởng thức âm nhạc trong vòng 5 ngày, còn trong các gia đình người dân, mọi người cũng sẽ cùng nhau diễn tấu các loại nhạc cụ để cùng chung vui.

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Từ xa xưa, các triều đình phong kiến Trung Quốc đã coi Đông Chí đã trở thành ngày quốc lễ

Từ triều đại Thương và Chu đến triều đại Tần (221 TCN – 206 SCN), Đông chí được coi là sự khởi đầu của năm mới và cũng là ngày lành tháng tốt để vua chọn cử hành lễ tế trời.

Vào triều Hán (206 TCN – SCN 220), Đông Chí được gọi là “Đông Tiết” và thịnh hành tập tục tặng quà chúc mừng nhau (gọi là “bái đông”). Đông chí trở thành ngày quốc lễ, được đánh dấu bằng việc các quan và quân tạm dừng công vụ, đóng cửa biên giới và ngưng giao thương. Đối với những người làm việc chăm chỉ và cống hiến không mệt mỏi trong mọi tầng lớp, ngày ngày là ngày nghỉ ngơi hiếm hoi và rất xứng đáng.

Thời Ngụy Tấn, “Đông Chí” được gọi là “Á Tuế”, dân chúng thường tổ chức chúc mừng cha mẹ và các bậc trưởng bối.

Kể từ triều đại nhà Đường và Tống, Đông Chí bắt đầu trở thành ngày cúng thờ tổ tiên. Nhà vua sẽ tổ chức một nghi thức tế lễ lớn để tỏ lòng tôn kính đối với Thiên thượng. Thiên Đàn ở Bắc Kinh được xây dựng khoảng 600 năm trước để phục vụ cho nghi thức này. Trong “Thanh Gia Lục”, một tài liệu thời nhà Thanh, Đông chí và các nghi lễ diễn ra vào hôm đó chiếm vị trí quan trọng tương đương với nghi lễ mừng năm mới.

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Uống rượu ngày Tết

Kính ngưỡng Thiên thượng là nguyên lý cốt lõi trong niềm tin truyền thống của Trung Hoa, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thuận theo Thiên ý và quy luật tự nhiên. Giống như giai đoạn khắc nghiệt của mùa đông cũng như một hành trình gian khó để bắt đầu thời kì mới, đây cũng là khoảnh khắc suy tư và lắng đọng.

Các quy tắc lễ nghĩa, mà nổi tiếng là Đạo Khổng, đóng vai trò cốt lõi trong đời sống tinh thần của các lãnh đạo Trung Hoa cổ đại và người dân của họ. Thiên tử giáo hóa dân chúng bằng sự khiêm nhường trước ân đức và sức mạnh vô biên của vũ trụ. Các vương triều cổ đại tạ ơn Trời và biết rõ vị trí nhân loại trong thế giới tự nhiên.

3./ Phong tục đón Tết Đông Chí của người Hoa.

Phong tục họa và treo bức tranh hình cây đào với 9 bông hoa để trắng trên tường sau ngày Đông Chí

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Tranh hoa đào treo ngày Tết

Tại Trung Quốc đại lục, vào thời điểm Đông chí, ngày ngắn nhất, đêm lại dài nhất, nên đây được xem là cột mốc chuyển dịch quan trọng trong quy luật tự nhiên, qua thời điểm này, bóng tối vốn mang khí âm phải nhường chỗ cho ánh sáng đầy dương khí, tiết trời sẽ rạng rỡ hơn bao giờ hết. Ngoài ra, khi Đông chí đến cũng là thời điểm báo hiệu một chu kì năm sắp kết thúc.

Mặc dù Đông chí là ngày tối nhất trong năm, đánh dấu sự khắc nghiệt của mùa đông, nhưng nó không hẳn là lạnh nhất. Dân gian có câu: “sổ cửu hàn thiên” tức, ngày Đông chí đến thì những ngày đông lạnh giá nhất cũng bắt đầu. Vì ngày trở nên dài hơn, nên sẽ mất vài tuần để ánh sáng Mặt trời bao phủ khắp Bắc bán cầu.

Mùa đông sau ngày Đông chí kéo dài chín lần chín là 81 ngày, điều này được ghi nhận trong truyền thống dân gian Trung Hoa, theo đó mỗi mốc chín ngày đại diện cho một giai đoạn khác nhau của mùa lạnh giá này đươc gọi là một ‘cửu’.

Chu kỳ 81 ngày mùa đông được thể hiện trong bài đồng dao có tên là “Đông Cửu Cửu ca”:

Nội dung bài đồng dao phụ thuộc vào vùng miền, dưới đây là bài đồng dao vùng Hoa Bắc:

“Nhất cửu nhị cửu bất xuất thủ,

Tam cửu tứ cửu băng thượng tẩu,

Ngũ cửu lục cửu duyên hà vọng liễu,

Thất cửu hà khai, bát cửu nhạn lai,

Cửu cửu gia nhất cửu, canh ngưu biến địa tẩu”.

Tạm dịch:

“Cửu một, cửu hai, tay không động,

Cửu ba, cửu bốn, bước trên băng,

Cửu năm, cửu sáu, liễu rủ xanh bờ,

Cửu bảy băng tan, cửu tám nhạn về,

Cửu chín, hết mùa đông, trâu ta lại ra đồng”.

Để đánh dấu mỗi khi các ngày cửu đi qua, người dân Trung Quốc thường cho họa một bức tranh hình cây đào với 9 bông hoa để trắng, rồi treo lên tường, mỗi cửu đi qua, một bông hoa được tô màu đỏ, phong tục này được gọi là “họa cửu”, còn tranh có tên gọi là “mai hoa tiêu hàn đồ”. Khi mùa xuân đến, bức tranh sẽ rực rỡ sắc màu kịp lúc đón xuân về, muôn hoa đua nở.

Phong tục ăn thang viên – một món chè gần giống chè trôi nước trong ngày Đông Chí.

Tới ngày Tết Đông Chí, các gia đình người Hoa khắp nơi trên thế giới thường nghỉ ngơi, tổ chức các lễ hội, cỗ bàn để cúng tế thần và ông bà tổ tiên của mình.

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Chè trôi hay bánh trôi tàu - Món ăn truyền thống ngày Tết Đông Chí

Cũng như tết Nguyên Đán, Đoan Ngọ và Trung Thu có các món bánh đặc trưng của mình như bánh tổ, bánh ú, bánh Trung Thu, ngày tết Đông Chí cũng có món ăn đặc trưng của mình, đó chính là món “chè trôi nước” (còn gọi là chè trôi tàu hoặc là bánh trôi tàu).

Xa xưa, Đông chí rất lạnh nên thường diễn ra cùng với loại thực phẩm giúp giữ ấm cơ thể như bánh bao hấp và hoành thánh. Với lãnh thổ rộng lớn, sự khác biệt trong truyền thống giữa các vùng miền ở Trung Quốc rất rõ rệt. Ở phía Bắc lạnh lẽo, các món thịt và thức uống được coi là ‘nóng’ sẽ trở nên rất phổ biến, trong khi miền Nam có tập tục ăn thang viên – một món chè gần giống chè trôi nước và dần dần trở thành món ăn truyền thống trên khắp Trung Quốc cho tới ngày nay.

Bên cạnh đó, đây còn là món ăn được cho rằng liên quan đến tích truyện người con gái hiếu thảo trong “sự tích chè trôi nước” với ý nghĩa đoàn viên.

Tuy nhiên, trong không khí náo nhiệt này lại có một nhóm người Hoa lại không hề tổ chức cúng tế và ăn món chè trôi nước truyền thống, họ là ai và tại sao lại như vậy? Đó chính là những người Hoa họ Phùng (gốc gác tại huyện Hạc Sơn tỉnh Quảng Đông Trung Quốc), do trong quá khứ xa xưa, có một cô gái họ Phùng nghèo khó phải đi làm người ở cho một gia đình họ Tăng, gia đình nhà chủ này khá khắt khe và kiêng cữ trong cuộc sống hàng ngày nhất là vào các dịp lễ tết trong năm. Có một lần vào dịp tết Đông Chí, trong lúc dọn cỗ bàn cúng tế, người con gái họ Phùng này lỡ tay làm rơi một đĩa thức ăn, nhà chủ nổi giận và đánh đập cô đến chết. Hành vi tàn ác của gia đình nhà chủ này đã gây nên lòng căm phẫn của bà con họ Phùng  và họ đã tuyên bố từ đó về sau sẽ không tổ chức mừng ngày tết Đông Chí để nhớ đến mối ân thù của cô gái bị đánh chết chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt. Đây cũng là một điểm đáng buồn và làm phong phú hơn những câu chuyện về ngày Tết Đông Chí mang ý nghĩa đoàn viên này.

4./ Phong tục đón Tết Đông Chí của bà con người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại thành phố Hồ Chí Minh, do yếu tố di dân nên người Hoa khi di cư đến vùng đất mới thường đem theo cả những phong tục tập quán của mình, và “Tết Đông Chí” cũng được người Hoa mang đến vùng đất mới.

Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Một góc thành phố Hồ Chí Minh ngày Tết

Khác với các tập tục nguyên gốc vốn có của ngày lễ, khi đến định cư tại các vùng đất mới, người Hoa thường có xu hướng kết hợp với các đặc điểm của vùng đất mới mà gia giảm các tập tục nguyên gốc của ngày lễ truyền thống để nó trở nên phù hợp hơn với cộng đồng xã hội mới mà mình đang sinh sống.

Chính vì vậy, ngày “tết Đông Chí” tại TP.HCM đã có nhiều biến đổi khác so với nguyên gốc của nó và chỉ còn thịnh hành là ngày cúng tế tổ tiên, ông bà. Món ăn chính thức trong ngày này vẫn là món “chè trôi nước” với ý nghĩa “đoàn viên, đoàn tụ”.

Thiết nghĩ, với cuộc sống không còn khó khăn như hiện nay, việc tổ chức ngày Tết Đông chí truyền thống của dân tộc mình ở mỗi gia đình không phải là việc làm quá khó mà vẫn giữ được nét văn hóa đẹp, rất đáng được trân trọng bảo tồn./.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Đông Chí – Phong tục đặc sắc của người Hoa trên khắp thế giới.

Hợp, xung, hình, hại của thiên can và địa chi

- Có 6 cặp địa chi tạo thành 6 cặp đối xung nhau : Từ các cặp trực xung trên tạo thành 3 bộ tứ hành xung: Dần-Thân, Tị - Hợi Thìn-Tuất, Sửu-Mùi Tý-Ngọ, Mão-Dậu
Hợp, xung, hình, hại của thiên can và địa chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

-         Có 4 cặp địa chi tạo thành tam hợp Có 4 bộ tam hợp Thân – Tý –Thìn Dần – Ngọ - Thân Hợi – Mão – Mùi Tị - Dậu – Sửu   -         Có 6 cặp địa chi tạo thành nhị hợp
Sửu - Tý
Dần - Hợi
Tuất - Mão
Dậu - Thìn
Tị - Thân
Ngọ - Mùi
-         Có 6 cặp địa chi tương hại nhau.  Dậu - Tuất
Thân - Hợi
Mùi - Tý
Ngọ - Sửu
Tị - Hợi
Mão - Thìn

-         Địa chi tương hại:
+ Hình hại vô lễ: Tí - Mão
+ Hình hại đặc quyền: Sửu - Mùi - Tuất
+ Hình hại vong ân: Dần - Tị - Thân
+ Tự hình nhau: Thìn - thìn, ngọ - ngọ, hợi - hợi, dậu - dậu
 
  -         Các cặp thiên can hợp nhau:   Ất hợp Canh Bính hợp Tân Đinh hợp Nhâm Mậu hợp Quý Kỷ hợp Giáp   -         Hình phạt của các thiên can   Canh hình Giáp Tân hình Ất Nhâm hình Bính Quý hình Đinh Giáp hình Mậu Ất hình Kỷ Bính hình Canh Đinh hình Tân Mậu hình Nhâm Kỷ hình Quý

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp, xung, hình, hại của thiên can và địa chi

Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Tý

Xem hướng nhà theo tuổi là một trong những yếu tố để đảm bảo ngôi nhà hợp phong thủy, mang lại cát lợi. Dưới đây là gợi ý hướng nhà tốt xấu cho người tuổi Tý.
Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm nhà là việc lớn trong đời, một ngôi nhà tốt sẽ mang tới may mắn, thịnh vượng và sung túc cho gia chủ tới suốt cuộc đời.   Từ xưa tới nay, xem hướng nhà theo tuổi là phần không thể thiếu trước khi xây cất hoặc mua nhà. Ngôi nhà có hướng đẹp, hợp mệnh hợp tuổi với gia chủ không chỉ mang tới sự ấm no, cát tường mà còn giúp cả gia trạch mạnh khỏe, bình an. Ngôi nhà nằm theo hướng xấu, không cát lợi sẽ khiến vận trạch đi xuống.   Gợi ý xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Tý để chọn được hướng tốt nhất, phù hợp nhất với bản mệnh.

huong nha
 

1. Tuổi Mậu Tý 2008 - mệnh Khảm

  - Hướng tốt:   Hướng Đông Nam – Sinh khí: Nhà này phú quý; con cái đều thông minh, hiển đạt; vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo; hạnh phúc lâu bền; trường thọ.   - Hướng xấu:   Hướng Nam – Diên niên: Ban đầu căn nhà có vẻ phát sinh thuận lợi, nhưng sau gia sản suy dần, con cháu vận khí kém, nhất là người tuổi trung nam.   Hướng Đông – Thiên y: Nhà này lúc đầu hưng vượng, nhưng về sau kém dần, nhân khẩu không tăng. Gia đình hòa thuận, sống nhân nghĩa, phụ nữ sẽ kém hơn nam giới, người phụ nữ dễ bị bệnh.   Hướng Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu phát đạt, giàu có. Nhưng do nhà thuần dương nên âm suy, vợ con sức khỏe kém.   Hướng Tây Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này dễ thiệt hại nhân đinh, nhiều chuyện thị phi, nhà ở bất an, gia sản suy bại.   Hướng Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu có của ăn của để, nhưng sau bị sa sút, làm ăn thất bại, kinh tế khó khăn. Do nhà thuần dương, âm suy nên phụ nữ dễ bị suy yếu.   Hướng Tây – Họa hại: Nhà này nhiều chuyện thị phi trai gái, cờ bạc, gia sản suy bại, làm ăn kinh doanh hay gặp trắc trở và thất bại.   Hướng Đông Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, anh em bất hòa, hay tranh chấp kiện tụng. Về kinh tế thường nghèo khó, không giàu.
Xem thêm bài viết Kị nhau về hướng trong phong thủy gây ra hậu quả khôn lường
 

2. Tuổi Bính Tý 1996 - mệnh Tốn

  - Hướng tốt: 
 
Hướng Bắc – Sinh khí: Nhà này được công danh phú quý song toàn, có danh có tiếng. Con cái ngoan hiền thành đạt có công danh hiển hách.   Hướng Đông – Diên niên: Nhà này giàu có, thăng tiến, công danh hiển đạt, con trai và con gái đều phát triển.   Hướng Nam – Thiên y: Xem hướng nhà theo tuổi, nhà này những năm đầu được phú quý. Người trong nhà sống lương thiện, nữ giới phát triển, nam giới vận khí kém.   - Hướng xấu:   Hướng Đông – Phục vị: Nhà này âm vượng, dương suy, nên nam giới trong nhà kém hơn nữ giới. Nhà này lúc đầu khá giả, tăng nhân đinh. Nhưng về sau nhân đinh kém dần, con trai dễ đoản thọ. Phụ nữ nắm quyền trong gia đình và nuôi con.   Hướng Đông Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này rất xấu, kinh tế suy bại, nhà thiệt nhân đinh, nữ giới bệnh tật khó chữa. Phụ nữ khó nuôi con.   Hướng Tây – Lục sát: Nhà này lúc đầu làm ăn cũng có của, nhưng về sau sa sút. Âm thịnh dương suy nên nam giới dễ đoản thọ, trưởng nữ trong nhà hay ốm đau và thương tật.   Hướng Tây Bắc – Họa hại: Xem hướng nhà tốt xấu cho nam giới tuổi Tý, nhà này lúc đầu có tài lộc, nhưng về sau suy. Nhiều tai họa xảy ra, phụ nữ đặc biệt là trưởng nữ dễ bị tổn thương, khó sinh đẻ.   Hướng Tây Nam – Ngũ quỷ: Người trong nhà hay bị đau ốm, bệnh tật; tài sản suy bại, nhiều chuyện thị phi, người mẹ gánh chịu nhiều bệnh tật và tổn thọ.
 

3. Tuổi Giáp Tý 1984 - mệnh Đoài

 
huong nha
 
- Hướng tốt:    Hướng Tây Bắc - Sinh khí: Nhà này lúc đầu rất tốt, tài lộc nhân đinh đều vượng, nhưng do hướng nhà khắc sao Mộc tinh nên về sau sa sút, kinh tế kém, nhiều khó khăn.    Hướng Đông Bắc - Diên niên: Nhà này giàu sang phú quý, nhân khẩu tăng, sức khỏe mọi người tốt, gia đình hạnh phúc, con cái thông minh và thành công trong cuộc sống. Mọi người đều có tuổi thọ cao.   Hướng Tây Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu phát đạt nhanh, giàu có, nhưng về sau nam giới tổn thọ, phụ nữ nắm quyền trong gia đình, khó có con trai nối dõi.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Tuyệt mệnh: Nhà này không hưng vượng, nhân đinh thiệt hại, nhà thường lo buồn, kinh tế sa sút.   Hướng Đông Nam – Lục sát: Nhà này sống không thuận lợi. Phụ nữ dễ xích mích, bị bệnh, chịu cô quả, bị thương, trưởng nữ dễ bị tổn thương. Làm ăn kinh doanh sa sút, khó phát triển.   Hướng Bắc – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng có của nhưng không giàu có, về sau càng nghèo khó. Thiếu nữ dễ bị tổn thương, nhất là khi sinh nở.   Hướng Nam – Ngũ quỷ: Nhà này lắm chuyện thị phi, anh em bất hòa, kinh tế suy bại dần, thiếu nữ trong nhà dễ bị tổn thương, bệnh tật.
Xem thêm bài viết Hướng dẫn chọn ngọc thạch phong thủy theo hướng nhà

4. Tuổi Nhâm Tý 1972 - mệnh Khảm

  - Hướng tốt:  
Hướng Đông Nam -Sinh khí: Nhà này phú quý; con cái đều thông minh, hiển đạt; vợ chồng hòa thuận, con cái hiếu thảo; hạnh phúc lâu bền; trường thọ.

- Hướng xấu:
 
Hướng Nam - Diên niên: Ban đầu căn nhà có vẻ phát sinh thuận lợi, nhưng sau gia sản suy dần, con cháu vận khí kém, nhất là người tuổi trung nam.   Hướng Tây Bắc – Sinh khí: Nhà này lúc đầu rất tốt, tài lộc nhân đinh đều vượng, nhung do hướng nhà khắc sao Mộc tinh nên về sau sa sút, kinh tế kém, nhiều khó khăn.   Hướng Đông – Thiên y: Nhà này lúc đầu hưng vượng, nhưng về sau kém dần, nhân khẩu không tăng. Gia đình hòa thuận, sống nhân nghĩa. Do nhà thuần dương, âm suy nên người phụ nữ sẽ kém hơn nam giới, người phụ nữ dễ bị bệnh.   Hướng Bắc – Phục vị: Nhà này lúc đầu phát đạt, giàu có. Nhưng do nhà thuần dương nên âm suy, vợ con sức khỏe kém.   Hướng Tây Nam – Tuyệt mệnh: Nhà này dễ thiệt hại nhân đinh, nhiều chuyện thị phi, nhà ở bất an, gia sản suy bại.   Hướng Tây Bắc – Lục sát: Nhà này lúc đầu có của ăn của để, nhưng sau bị sa sút, làm ăn thất bại, kinh tế khó khăn. Do nhà thuần dương, âm suy nên phụ nữ dễ bị suy yếu.   Hướng Tây – Họa hại: Nhà này nhiều chuyện thị phi trai gái, cờ bạc, gia sản suy bại, làm ăn kinh doanh hay gặp trắc trở và thất bại.   Hướng Đông Bắc – Ngũ quỷ: Nhà này nhiều chuyện thị phi, anh em bất hòa, hay tranh chấp kiện tụng. Về kinh tế thường nghèo khó, không giàu.
Xem thêm bài viết Muốn chọn hướng nhà tốt, nhớ ngay 4 lưu ý
 

5. Tuổi Canh Tý 1960 - mệnh Tốn


huong nha
 
- Hướng tốt:   Hướng Bắc – Sinh khí: Nhà này được công danh phú quý song toàn, có danh có tiếng. Con cái ngoan hiền thành đạt có công danh hiển hách.   Hướng Đông – Diên niên: Nhà này giàu có, thăng tiến, công danh hiển đạt, con trai và con gái đều phát triển.   Hướng Nam – Thiên y: Nhà này những năm đầu được phú quý. Người trong nhà sống lương thiện, nữ giới phát triển, nam giới vận khí kém hơn.
 
- Hướng xấu:    Hướng Đông Nam – Phục vị: Nhà này âm vượng, dương suy, nên nam giới trong nhà kém hơn nữ giới. Nhà này lúc đầu khá giả, tăng nhân đinh. Nhưng về sau nhân đinh kém dần, con trai dễ đoản thọ. Phụ nữ nắm quyền trong gia đình và nuôi con.   Hướng Đông Bắc – Tuyệt mệnh: Nhà này rất xấu, kinh tế suy bại, nhà thiệt nhân đinh, nữ giới bệnh tật khó chữa. Phụ nữ khó nuôi con.   Hướng Tây – Lục sát: Xem hướng làm nhà thì nhà này lúc đầu làm ăn cũng có của, nhưng về sau sa sút. Âm thịnh dương suy nên nam giới dễ đoản thọ, trưởng nữ trong nhà hay ốm đau và thương tật.   Hướng Tây Bắc – Họa hại: Nhà này lúc đầu có tài lộc, nhưng về sau suy, nhiều tai họa xảy ra. Phụ nữ đặc biệt là trưởng nữ dễ bị tổn thương, khó sinh đẻ.   Hướng Tây Nam – Ngũ quỷ: Người trong nhà hay bị đau ốm, bệnh tật; tài sản suy bại, nhiều chuyện thị phi, người mẹ gánh chịu nhiều bệnh tật và tổn thọ.
 

6. Tuổi Mậu Tý 1948 - mệnh Đoài


- Hướng tốt:    Hướng Tây Bắc - Sinh khí: Nhà này lúc đầu rất tốt, tài lộc nhân đinh đều vượng, nhưng do hướng nhà khắc sao Mộc tinh nên về sau sa sút, kinh tế kém, nhiều khó khăn.    Hướng Đông Bắc - Diên niên: Nhà này giàu sang phú quý, nhân khẩu tăng, sức khỏe mọi người tốt, gia đình hạnh phúc, con cái thông minh và thành công trong cuộc sống. Mọi người đều có tuổi thọ cao.   Hướng Tây Nam – Thiên y: Nhà này lúc đầu phát đạt nhanh, giàu có, nhưng về sau nam giới tổn thọ, phụ nữ nắm quyền trong gia đình, khó có con trai nối dõi.   - Hướng xấu:    Hướng Đông – Tuyệt mệnh: Nhà này không hưng vượng, nhân đinh thiệt hại, nhà thường lo buồn, kinh tế sa sút.   Hướng Đông Nam – Lục sát: Nhà này sống không thuận lợi. Phụ nữ dễ xích mích, bị bệnh, chịu cô quả, bị thương, trưởng nữ dễ bị tổn thương. Làm ăn kinh doanh sa sút, khó phát triển.   Hướng Bắc – Họa hại: Nhà này lúc đầu cũng có của nhưng không giàu có, về sau càng nghèo khó. Thiếu nữ dễ bị tổn thương, nhất là khi sinh nở.   Hướng Nam – Ngũ quỷ: Nhà này lắm chuyện thị phi, anh em bất hòa, kinh tế suy bại dần, thiếu nữ trong nhà dễ bị tổn thương, bệnh tật.
 
Cách bố trí cửa sổ theo hướng nhà hợp phong thủy Cách hóa giải hướng nhà xấu theo phong thủy không hợp tuổi gia chủ Tính chất cơ bản của 24 hướng nhà

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem hướng nhà theo tuổi cho nam giới tuổi Tý

Xem tướng môi của phụ nữ

Theo khoa tướng diện khi giải đoán tướng môi ngoài ý nghĩa riêng của môi thì phải giải đoán chung tổng hợp với tướng miệng, răng, lưỡi và cả với nhân trung nữa mới chính xác.
Xem tướng môi của phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Theo tướng học, phần môi được giới hạn bởi hai đường Lăng và Giác. Lăng là đường ranh giới giữa môi nổi cao lên với miệng. Trái lại giác là đường thẳng nằm ngang giữa hai môi khi mím lại tự nhiên chay thẳng ra khóe miệng. Khi quan sát về tướng môi phải chú đến bốn điểm như sau : độ dày, trạng thái, văn môi và màu sắc

1- Độ dày:

- Trường hợp hai môi có độ dày bằng nhau, đều đặn và cân xứng thì tốt.
- Hai môi đều mỏng là người thiếu điềm tỉnh, phản ứng nhanh lẹ với ngoại cảnh, về tình cảm thiếu thủy chung, chân thật.
- Môi dày là người phản ứng chậm chạp chân chất, nhưng dễ thuyết phục người nghe, trung tín, ít đổi thay.
- Môi trên dày hơn môi dưới, tài sản khó vững bền.
- Môi trên mỏng hơn môi dưới khó tạo niềm tin, do lời nói không thật thà.
- Môi dưới trùm lên môi trên là số khắc chồng. Trái lại môi trên trùm lên môi dưới là số khó thành đạt.

2- Trạng thái:

- Môi cong lên là tướng cô khắc chồng con.
- Môi trề khó cầm giữ được tài sản làm ra.
- Môi dúm nhiều vân là tướng phá bại, nghèo khó.
- Môi ngậm lại mà không che hết răng là lộ sỉ dễ gặp nạn tai bệnh tật.
- Môi khuyết hãm khó thành đạt.
- Chưa nói mà môi đã vọng động là tướng tà dâm
- Môi tự nhiên thường mím chặc là người hung dữ, khó tính.

3- Văn môi:

- Môi không có văn, trơn lán mọng lên là người kiêu kăng tự mãn, sự nghiệp không bền.
- Môi có văn đều đẹp là số giàu phú quí.
- Hai môi khép lại có khóe miệng hướng lên là người thánh đạt yêu đời, an nhàn vào cuối đời. – Hai môi khép lại, khóe miệng hướng xuống, khó cầm giữ sự nghiệp sau 55 tuổi nếu vẫn cằn tiếp tục đầu tư phát triển.

4- Màu sắc:

- Môi có màu hồng nhuận yêu đời sức khỏe tốt dễ thành đạt nhất là tình yêu.
- Màu xám, xanh đen, vàng là dấu hiệu của bệnh tật. Màu đỏ quá thì bạc mệnh, màu trắng bệch nhát gan và yểu số.

Nguồn: Tổng hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng môi của phụ nữ

Những chòm sao cố chấp khiến người yêu phiền chán

Hai người yêu nhau tha thiết nhưng cũng có lúc cảm thấy phiền chán. Đây chính là trạng thái bất ổn mà 3 chòm sao cố chấp dưới đây thường xuyên mắc phải.
Những chòm sao cố chấp khiến người yêu phiền chán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu giống như cổ phiếu, lên xuống biến hóa không ngừng. Hai người yêu nhau tha thiết, có những phút giây ngọt ngào nhưng cũng có lúc cảm thấy phiền chán, không muốn cùng nhau đi tới cuối con đường. Đây chính là trạng thái bất ổn mà 3 chòm sao cố chấp dưới đây thường xuyên mắc phải.


► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc

Nhung chom sao co chap khien nguoi yeu phien chan hinh anh
 

Kim Ngưu: cố chấp, mạnh miệng, không thừa nhận khuyết điểm

  Chòm sao cố chấp Kim Ngưu khá nổi tiếng về khoản không chịu nhận sai, luôn cho mình là đúng đắn. Trong tình yêu, nếu như đối phương có một chút ý kiến hoặc thái độ với những khuyết điểm của Kim Ngưu thì họ sẽ lập tức nhận được sự phản ứng quyết liệt, không những không tiếp thu mà còn nổi khùng lên.   Để ổn định tình cảm, Kim Ngưu hãy thử buông lỏng bản thân, kiên trì và khiêm tốn hơn, lắng nghe ý kiến của người khác. Trên thế giới này đâu có ai thập toàn thập mĩ, bản thân mình cũng vậy, có thiếu sót thì hoàn thiện, như vậy tình yêu mới bền lâu.  

Sư Tử: không chịu mất mặt, thua cái gì chứ không thua khí thế

  Kiêu ngạo và ngông cuồng biến Sư Tử thành chòm sao cố chấp. Lòng tự ái của họ cực kì mạnh mẽ, chú trọng hình tượng bản thân, thích thể diện, hư vinh nên khi nghe người khác, dù là người yêu góp ý, phê bình chắc chắn sẽ không thể chịu được. Chưa biết đúng sai thế nào nhưng cứ phải cãi trước đã, dùng khí thế áp đảo tất cả.   Cá tính thô bạo và trẻ con như vậy thì tình yêu sao có thể duy trì được. Sư Tử cần biết cách tiết chế cái tôi, tiếp thu ý kiến để tiến bộ. Biết rõ khuyết điểm của mình và khắc phục nó sẽ giúp Sư Tử ngày một hoàn thiện hơn và sẽ không còn bị phê bình nữa, đấy mới là cách hay.  

Xử Nữ: hay oán giận, thích chỉ trích người khác

 

Tính cách của Xử Nữ khá khắt khe, trong mắt không chứa nổi một hạt bụi cùng với sự nhạy cảm trời ban nên thường có ý kiến về nếp sống, suy nghĩ, quan điểm của người khác, nhất là người yêu của mình. Điều này trên tinh thần là tốt nhưng nếu quá thường xuyên, quá gay gắt và thiếu tế nhị như Xử Nữ đang làm thì chẳng hay ho chút nào.   Trước khi xét nét người khác, hãy tự kiểm điểm lại bản thân, đặt mình vào địa vị của người khác xem nếu bị giáo huấn như vậy Xử Nữ sẽ cảm thấy thế nào. Thế nên, cứ lời hay ý đẹp mà nói, chớ nổi nóng, phê bình theo cảm tính.
Nhung chom sao co chap khien nguoi yeu phien chan hinh anh
 

Ma Kết: thái độ tiêu cực, có ý kiến đều giữ trong lòng

  Khác với các chòm sao cố chấp ở trên, Ma Kết không thể hiện ngay ra bên ngoài nhưng lại cố chấp giữ ở trong lòng và bày ra bộ mặt lạnh tanh, bi quan, mẫn cảm khiến người bên cạnh cảm thấy ngột ngạt, đáng sợ. Đối với người yêu có điều bất mãn, không vừa ý Ma Kết cũng chẳng nói ra, cố tình để đối phương phải đoán.   Nên thay đổi ngay đi thôi Ma Kết à, có ai đi guốc trọng bụng bạn mà đoán được bạn đang nghĩ gì. Nghiêm túc, trưởng thành và thẳng thắn với nhau là điều để cả hai cùng thoải mái, vui vẻ và gắn bó hơn đấy.
3 chòm sao nữ không thích yêu xa, ngại ngần khoảng cách địa lý Điểm danh 3 chòm sao nữ bá đạo, thích là tự cầm cưa Top 3 chòm sao lận đận tình duyên, yêu nhiều khổ nhiều
Trình Trình  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao cố chấp khiến người yêu phiền chán

Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin

Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin. Cuộc sống nhiều lúc sẽ khiến bạn mệt mỏi, thất vọng và dường như mất niềm tin
Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin. Cuộc sống nhiều lúc sẽ khiến bạn mệt mỏi, thất vọng và dường như mất niềm tin vào tất cả mọi thứ. Nhưng bạn à, nếu bạn mất niềm tin thì cuộc sống của bạn cũng cứ phải diễn ra, bạn cũng phải đối mặt với nó.

Do vậy mà bạn hãy quên đi những gì buồn bã đã qua, hướng về một tương lai tốt đẹp, có niềm tin vào cuộc sống của mình. Và bài viết này sẽ tiếp thêm sức mạnh cho bạn qua những câu nói hay về niềm tin lí tưởng cho tất cả mọi người. Cùng đọc và suy ngẫm bạn nhé.

Cùng tham khảo những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin, chắc chắn với những câu nói này bạn sẽ nhận ra nhiều điều thú vị trong cuộc sống. Hãy tích lũy cho mình những kiến thức trong cuộc sống bằng những cau noi hay trong bài viết dưới đây bạn nhé!

Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin

1. Để làm được những điều to lớn, chúng ta không những phải hành động mà còn phải mơ mộng, không những phải có kế hoạch mà còn phải có niềm tin.
To accomplish great things, we must not only act, but also dream; not only plan, but also believe.
Anatole France

2. Hãy tin rằng đời đáng sống, và niềm tin của bạn sẽ giúp thiết lập sự thực đó.
Believe that life is worth living and your belief will help create the fact.
William James

3. Để làm được những điều to tát, đầu tiên bạn phải tin vào nó.
To achieve great things you have first to believe it.
Arsene Wenger

4. Bạn nhắm mắt lại. Đó là điều khác biệt. Đôi lúc bạn không thể tin điều mắt thấy, bạn phải tin điều mình cảm nhận. Và nếu bạn muốn người khác tin tưởng mình, bạn phải cảm thấy mình cũng có thể tin tưởng họ, thậm chí ngay cả khi bạn ở trong bóng tối. Ngay cả khi bạn đang rơi.
You closed your eyes. That was the difference. Sometimes you cannot believe what you see, you have to believe what you feel. And if you are ever going to have other people trust you, you must feel that you can trust them too, even when you’re in the dark. Even when you’re falling.
Khuyết danh

5. Tôi tin vào mọi thứ cho tới khi nó bị bác bỏ. Vì vậy tôi tin vào tiên, thần thoại, rồng. Tất cả đều tồn tại, thậm chí dù nó chỉ ở trong tâm trí bạn. Ai dám nói rằng giấc mơ và ác mộng không thực như điều ở đây lúc này?
I believe in everything until it’s disproved. So I believe in fairies, the myths, dragons. It all exists, even if it’s in your mind. Who’s to say that dreams and nightmares aren’t as real as the here and now?
John Lennon

6. Chúng ta bảo tình yêu là sự sống; nhưng tình yêu không có hy vọng và niềm tin là cái chết đau đớn.
Love, we say, is life; but love without hope and faith is agonizing death.
Elbert Hubbard

7. Nghi ngờ không phải một trạng thái dễ chịu, nhưng tin chắc thì thật ngu xuẩn.
Doubt is not a pleasant condition, but certainty is absurd.
Voltaire

8. Tất cả chúng ta đều có cuộc đời riêng để theo đuổi, giấc mơ riêng để dệt nên, và tất cả chúng ta đều có sức mạnh để biến mơ ước trở thành hiện thực, miễn là chúng ta giữ vững niềm tin.
We all have our own life to pursue, our own kind of dream to be weaving, and we all have the power to make wishes come true, as long as we keep believing.
Louisa May Alcott

9. Chúng ta thường dễ tin người chúng ta không biết bởi họ chưa bao giờ lừa dối chúng ta.
We are inclined to believe those whom we do not know because they have never deceived us.
Samuel Johnson

10. Tình yêu đến với những ai vẫn hy vọng dù đã từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương.
Love comes to those who still hope even though they’ve been disappointed, to those who still believe even though they’ve been betrayed, to those who still love even though they’ve been hurt before.
Khuyết danh

11. Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.
Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence.
Helen Keller

12. Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin.
Sometimes life is going to hit you in the head with a brick. Don’t lose faith.
Steve Jobs

13. Bạn không thể kết nối các điểm trong đời bạn khi nhìn về phía trước; bạn chỉ có thể kết nối chúng khi nhìn lại phía sau. Vì vậy bạn phải tin tưởng rằng các điểm đó rồi sẽ kết nối trong tương lai. Bạn phải tin vào cái gì đó – lòng can đảm, vận mệnh, cuộc đời, nghiệp chướng, bất cứ điều gì. Cách tiếp cận này chưa bao giờ khiến tôi thất vọng, nó đã tạo nên tất cả sự khác biệt trong cuộc đời tôi.
You can’t connect the dots looking forward; you can only connect them looking backwards. So you have to trust that the dots will somehow connect in your future. You have to trust in something — your gut, destiny, life, karma, whatever. This approach has never let me down, and it has made all the difference in my life.
Steve Jobs

14. Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn.
Getting ahead in a difficult profession requires avid faith in yourself. That is why some people with mediocre talent, but with great inner drive, go so much further than people with vastly superior talent.
Sophia Loren

15. Lạc quan là hạt giống gieo trồng trên mảnh đất của niềm tin; bi quan là hạt giống cất giữ dưới căn hầm ngờ vực.
Optimism is a seed sown in the soil of faith; pessimism is a seed hoarded in the vault of doubt.
William Arthur Ward

16. Niềm tin cần thiết cho con người. Thật thống khổ cho ai không tin tưởng.
A faith is a necessity to a man. Woe to him who believes in nothing.
Victor Hugo

17. Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng.
Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light.
Helen Keller

18. Thế giới tưởng chừng như thật điên rồ mà chúng ta đang chứng kiến là kết quả của một hệ niềm tin không hoạt động. Để nhìn thế giới khác đi, chúng ta phải sẵn lòng thay đổi hệ niềm tin của mình, để quá khứ trôi qua, mở rộng nhận thức về hiện tại và làm tan chảy nỗi sợ hãi trong tâm tưởng.
The world we see that seems so insane is the result of a belief system that is not working. To perceive the world differently, we must be willing to change our belief system, let the past slip away, expand our sense of now, and dissolve the fear in our minds.
William James

19. Hãy sống theo niềm tin cùa mình, và bạn có thể xoay chuyển cả thế giới.
Live your beliefs and you can turn the world around.
Henry David Thoreau

20. Người ảnh hưởng tới bạn là người tin vào bạn.
The people who influence you are the people who believe in you.
Henry Drummond

21. Hạt giống niềm tin nhỏ bé nhất cũng tốt hơn nhiều trái hạnh phúc to lớn nhất.
The smallest seed of faith is better than the largest fruit of happiness.
Henry David Thoreau

22. Luôn luôn, ở bất cứ đâu, và đối với bất cứ ai, thật sai lầm khi tin vào bất cứ thứ gì khi không đủ bằng chứng.
It is wrong always, everywhere, and for everyone, to believe anything upon insufficient evidence.
William James

23. Niềm tin… phải được gia cố bằng lý lẽ… khi niềm tin mù, nó sẽ chết đi.
Faith… must be enforced by reason… when faith becomes blind it dies.
Mahatma Gandhi

24. Tin tưởng là biết ngoài kia là đại dương bởi mình nhìn thấy suối.
Faith is knowing there is an ocean because you have seen a brook.
William Arthur Ward

25. Hãy theo đuổi con đường mà bạn có thể đi với tình yêu và lòng tôn kính, dù nó có hẹp và quanh co đến mức nào.
Pursue some path, however narrow and crooked, in which you can walk with love and reverence.
Henry David Thoreau

26. Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học.
Society lives by faith, and develops by science.
Henri Frederic Amiel

27. Đôi khi bạn phải tin vào niềm tin của người khác cho tới khi tìm được niềm tin của riêng mình.
Sometimes you’ve got to believe in someone else’s belief in you until your belief kicks in.
Les Brown

28. Một lượng nhỏ những tinh thần quyết tâm được nung nấu bởi niềm tin son sắt vào sứ mệnh của mình có thể làm thay đổi dòng lịch sử.
A small body of determined spirits fired by an unquenchable faith in their mission can alter the course of history.
Mahatma Gandhi

29. Người có lòng tin thì mạnh mẽ; người lắm nghi ngờ thì yếu ớt. Niềm tin mãnh liệt vượt lên trên những hành động to tát.
He who believes is strong; he who doubts is weak. Strong convictions precede great actions.
Louisa May Alcott

30. Cuồng tín là sự bồi thường quá đà cho ngờ vực.
Fanaticism is overcompensation for doubt.
Robertson Davies

31. Người ta sống nhờ tin vào điều gì đó: không phải nhờ bàn luận và tranh cãi về quá nhiều thứ.
A man lives by believing something: not by debating and arguing about many things.
Thomas Carlyle

32. Con người cần ít đổ rắc rối của mình lên môi trường xung quanh, và học cách thể hiện ý chí – trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực niềm tin và đạo đức.
Man must cease attributing his problems to his environment, and learn again to exercise his will – his personal responsibility in the realm of faith and morals.
Albert Schweitzer

33. Ai cũng phải tự mình làm lấy hai điều; niềm tin của chính mình và cái chết của chính mình.
Every man must do two things alone; he must do his own believing and his own dying.
Martin Luther

34. Niềm tin thấy đóa hoa yêu kiều trong một cái nụ, khu vườn xinh đẹp trong một hạt giống, và cây sồi lớn trong một quả sồi.
Faith sees a beautiful blossom in a bulb, a lovely garden in a seed, and a giant oak in an acorn.
William Arthur Ward

35. Ai không sống theo đức tin của mình cũng sẽ không tin tưởng.
He does not believe who does not live according to his belief.
Thomas Fuller

36. Sự trung thành với chính mình cần thiết cho hạnh phúc của mỗi người. Thiếu trung thành không nằm ở việc tin hay không tin mà nằm ở việc tự cho là mình tin điều mình không tin..
It is necessary to the happiness of man that he be mentally faithful to himself. Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.
Thomas Paine

37. Niềm tin tạo ra hiện thực.
Belief creates the actual fact.
William James

38. Để có sự phản bội, đầu tiên phải có sự tin tưởng.
For there to be betrayal, there would have to have been trust first.
Suzanne Collins

39. Giành được lòng tin rất khó mà hủy diệt thì dễ lắm, quan trọng không phải là dối gạt chuyện lớn hay nhỏ mà chính việc dối gạt đã là vấn đề.
Từng thề ước – Đồng Hoa

40. Tôi rất hiếm khi có cảm giác tin tưởng một ai đó. Những người sống một mình quá lâu sẽ đều như tôi. Không phải vì đa nghi hay khó tính, mà là vì không thấy an toàn. Thế giới này rất rộng lớn và xa lạ, người có thể khiến chúng ta gửi gắm lại rất nhỏ bé…
Thủy Vũ

41. Đừng đặt tất cả niềm tin vào một ai đó. Hãy giữ lại một chút cho riêng mình. Để ngay cả khi mất niềm tin vào người mình yêu thương nhất, ta vẫn còn bản thân mình để tin.
Đoạn Đường Ký Ức – Gỗ & Born

42. Nếu không có niềm tin thì sẽ không bao giờ là mãi mãi.
Và nếu không có lòng chân thành thì mọi thứ cũng bằng không.
Khuyết danh

43. – Lòng tin giống như một tờ giấy, một khi nó đã bị nhàu nát thì không bao giờ được phẳng phiu trở lại.

44. Thứ đắt giá nhất trên thế gian này là lòng tin. Nó có thể mất hằng năm để có được, nhưng nó cũng sẽ bị đánh mất chỉ trong vài giây.

45. Tôi không tin tưởng một ai một cách dễ dàng, vì thế khi tôi nói “Tôi tin bạn”, làm ơn đừng làm tôi hối hận vì điều đó.

46. Sự tin tưởng, một khi đã mất đi thì không hề dễ dàng để lấy lại, có thể cần đến một năm nhưng cũng có thể cần cả cuộc đời! – J.E.B. Spredemann.

46. Lòng tin giống như một cục tẩy, nó sẽ mòn dần sau mỗi lỗi sai mà ta mắc phải

47. Không bao giờ lừa dối những người luôn tin tưởng bạn và không bao giờ tin tưởng những người luôn lừa dối bạn.

48. Tôi sẽ tha thứ nhưng tôi sẽ không quên. Tôi hy vọng bạn biết bạn đã đánh mất sự tôn trọng của tôi.

49. Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn – Sophia Loren.

50. Niềm tin là một thứ khó tìm nhất nhưng cũng là thứ dễ mất nhất.

51. Tình yêu chẳng có nghĩa lý gì nếu không có sự tin tưởng.

52. Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin – Steve Jobs

53. Sự trung thành với chính mình cần thiết cho hạnh phúc của mỗi người. Thiếu trung thành không nằm ở việc tin hay không tin mà nằm ở việc tự cho là mình tin điều mình không tin – Thomas Paine

54. Niềm tin giống như một tấm gương, bạn có thể lắp ráp lại khi nó bị vỡ những cuối cùng bạn vẫn cứ nhìn thấy sự hiện diện của những mảnh vỡ trong sự phản chiếu đầy ngu ngốc. – Lady Gagacau-noi-hay-ve-long-tin-

55. Khi một ai đó kể cho bạn nghe về những vấn đề họ mắc phải, đó không có nghĩa là họ đang phàn nàn, mà có nghĩa là họ tin bạn.

56. Không ai biết sau đó mọi chuyện sẽ xảy ra như thế nào nhưng chúng ta vẫn đi về phía trước. Bởi vì chúng ta có lòng tin và sự trung thực – Paulo Coelho

57. Tôi không buồn khi bạn lừa dối tôi. Tôi buồn vì từ bây giờ tôi không thể tin bạn được nữa – Friedrich Nietzsche

58. Lòng tin bắt đầu và kết thúc với sự thật – Santosh Kalwar

59. Bạn có thể bị lừa dối nếu bạn tin tưởng quá nhiều, nhưng bạn không thể tồn tại nếu bạn không có lòng tin. – Frank Crane

60. Tình yêu sẽ đến với những ai vẫn hy vọng dù từng thất vọng, vẫn tin tưởng dù từng bị phản bội, vẫn yêu thương dù từng bị tổn thương.

61. Tin tưởng chính mình và bạn sẽ dần tin tưởng những người khác – Santosh Kalwar


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay đáng suy ngẫm về lòng tin

Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Hội Chùa Ông được tổ chức vào ngày 26 tháng 6 âm lịch hàng năm tại 676 - 678 đường Nguyễn Trãi, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Hội Chùa Ông

Thời gian: tổ chức vào ngày 24 tháng 6 âm lịch.

Địa điểm:  676 - 678 đường Nguyễn Trãi, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn quan Công và nhiều vị Thần của trung Hoa khác.

Nội dung: Hội lễ có dâng hương, tắm tượng Phật, múa lân, hát bội.

Đọc thêm: Kiến trúc ngôi chùa mang màu sắc Trung Hoa cổ kính, có lịch sử trên 200 năm. Chùa Ông thờ Quan Vân Trường, vốn là hội quán của người Triều Châu, đã được trùng tu vào các năm 1866, 1901, 1966, 1984. Kiến trúc và trang trí ở chùa thể hiện rõ nét phong cách Trung Hoa qua thiết kế, qua các tượng, phù điêu bằng gốm trên mái ngói hay các bông hoa chạm ngược, tượng kỳ lân, diềm gỗ... trên bộ vì kèo sơn màu đỏ thắm...

Chính điện có gian thờ Quan Thánh, tượng cao 300 cm, mặc áo gấm xanh, ngồi trên ngai, đặt trong khám thờ chạm viền nhiều lớp tùng - hạc, mai - điểu, mẫu đơn - trĩ, Bát tiên giao chiến thủy quái... Đứng hầu hai bên trước bệ thờ là tượng Quan Bình và Châu Xương cao gần 200 cm, đặt trong tủ kính.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 24 tháng 6 âm lịch - Hội Chùa Ông

Hướng dẫn chọn biển số xe hợp phong thủy cho người tuổi Tuất

Muốn xuất hành thuận lợi, bình an thì nhất định phải lựa chọn một chiếc xe hợp phong thủy. Xin gợi ý chọn biển số xe cho người tuổi Tuất hợp phong thủy .
Hướng dẫn chọn biển số xe hợp phong thủy cho người tuổi Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Muốn xuất hành thuận lợi, bình an thì nhất định phải lựa chọn một chiếc xe hợp phong thủy, hợp từ màu xe, kiểu dáng cho tới biển số. Xin gợi ý bạn đọc chọn biển số xe hợp phong thủy cho người tuổi Tuất.


► Xem thêm: Mệnh thổ hợp màu gì để chọn màu xe may mắn nhất.

Huong dan chon bien so xe hop phong thuy cho nguoi tuoi Tuat hinh anh 2
 
Theo ngũ hành, các tuổi tương ứng với các con số như sau: Tý (ngũ hành Thủy, 1, 6) , Sửu (ngũ hành Thổ, 0, 5), Dần (ngũ hành Mộc, 3, 8), Mão (ngũ hành Mộc, 3, 8), Thìn (ngũ hành Thổ, 0, 5), Tỵ (ngũ hành Hỏa, 2, 7), Ngọ (ngũ hành Hỏa, 2, 7), Mùi ( ngũ hành Thổ, 0, 5), Thân (ngũ hành Kim, 4, 9), Dậu (ngũ hành Kim, 4, 9), Tuất (ngũ hành Thổ, 0, 5), Hợi (ngũ hành Thủy, 1, 6).   Con số tương ứng với tuổi Tuất là 0 và 5. Con số khai vận là 2 và 7. Con số suy hại là 1 và 6. Màu khai vận là đỏ, tím (vì trong Thổ có Hỏa, Hỏa thổ sinh khí, vượng khí, mang đến may mắn cuồn cuộn không ngừng). Màu suy vận là đen (vì Hỏa khắc Thủy, Thủy Thủy tương khắc).   Chọn biển số xe hợp phong thủy cho người tuổi Tỵ Tìm may mắn bằng các con số trong năm 2016 Chọn đuôi số điện thoại hợp mệnh, 12 con giáp tha hồ hốt bạc
Phương pháp để chọn biển số xe đẹp cho tuổi Tuất là phối hợp các con số may mắn ở trên thành một dãy số may mắn, mang ý nghĩa biểu trưng tốt đẹp. 
  Tổ hợp dãy số có hung, có cát, nên chọn cát tránh hung, biển số xe có các số, 8, 9, 11, 13, 15, 17, 23, 24, 31, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 48 là đẹp, vì chúng đều mang ý nghĩa thịnh vượng, hanh thông. Ngoài ra, nếu còn là ngày sinh của chủ xe hay ngày kỉ niệm đặc biệt thì lại càng tốt.
Huong dan chon bien so xe hop phong thuy cho nguoi tuoi Tuat hinh anh 2
 
Một điểm cần lưu ý chọn biển số xe hợp phong thủy là quẻ tượng phải tốt. Vấn đề này hơi phức tạp, cần có kiến thức chuyên sâu mới có thể xác định được nên tốt nhất là nhờ tới thầy. Phương pháp đơn giản nhất để tránh một số quẻ hung như sau: tránh các số 6, 18, 14, 16, 19, 22, 26, 29, 32, vì chúng tương ứng với quẻ Khảm, Thiên Địa Phủ, Thiên Lôi vô vọng, Thiên Thủy tụng, Càn (người thường không cần), Đoài, Trạch Thủy vây, Trạch Thiên Quái, Hỏa Trạch Quý. Những quẻ này rất không lý tưởng đối với biển số xe, sẽ gây ra hung họa.

Ý nghĩa của các con số trong giấc mơ (P1) Con số trong phong thủy và ý nghĩa tốt xấu Mẹo hay chọn ngay tầng chung cư phát lộc
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn chọn biển số xe hợp phong thủy cho người tuổi Tuất

Chọn vị trí phòng vệ sinh và phòng tắm như thế nào –

Vị trí phòng vệ sinh trong nhà xét về phong thuỷ học chiếm một vai trò rất quan trọng, thông thường không nên bố trí phòng vệ sinh ở giữa nhà, như vậy là đại kỵ và cũng có thể nói là đại hung, vị trí tốt nhất của phòng vệ sinh là ở hướng xấu (hung),

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cả nhà sẽ đại cát.
Phòng vệ sinh không được bố trí ở cửa chính vào nhà. Vì cửa là nơi dẫn địa khí vào nhà, nếu nơi này gần với phòng vệ sinh thì khi địa khí vừa mới bắt đầu nhập vào nhà đã bị âm khí của nhà vệ sinh thẩm thấu và xâm nhập vào trong nhà, sẽ ảnh hưởng xấu đến phong thuỷ nhà.

gach-lat-phong-tam-1

Ngoài ra, phòng vệ sinh cũng không được đối diện với cửa chính, vì ngoài việc vi phạm điều cấm kị về phong thuỷ nêu trên, còn phạm vào điều xung sát môn, làm cho vận nhà xấu đi.
Phòng ngủ gần phòng vệ sinh, đầu giường lại áp vào tường phòng vệ sinh dễ sinh các bệnh ở đầu, chỉ cần chuyển hướng giường khác đi, đổi đầu giường với đuôi giường, thường xuyên đóng kín cửa phòng vệ sinh thì sẽ hoá giải được phần lớn khí hung. Ngoài ra, có thể treo một la bàn nhỏ trên tường để hoá giải khí hung này. Vì la bàn có tác dụng chống sát, vì theo dịch lý, mọi vật chất trên vũ trụ đều không tách rời âm dương, ngũ hành, bát quái. Trong khi đó, la bàn lại có những nội dung này, vì vậy dù ngũ hành khác nhau, nhưng khi gặp sát khí âm dương đều bị la bàn thu lại và kiềm chế.
Vì giới hạn về không gian, các căn hộ hiện đại thường thiết kế phòng tắm và phòng vệ sinh chung với nhau, nhưng nhìn từ góc độ phong thủy học truyền thống, nơi tắm và vệ sinh là hai nơi tụ nhiều nước, độ ẩm quá cao sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, mà nước dinh trệ không lưu thông là nước tù, nước tù sẽ ảnh hưởng đến chuyện tình cảm, vận thế công việc, cho nên phòng tắm phải có cứa sổ để ánh sáng và không khí vào làm giảm hơi nước. Phòng tắm không có cửa sổ thì phải lắp quạt thông gió, có vậy mới tăng vận thế tốt.
Địa điểm bố trí phòng tắm và phòng vệ sinh phải kín đáo, nên để chúng ở hướng xấu, tránh áp vào hướng tốt. Ngoài ra, hướng Tây là hướng mặt trời lặn, nó ảnh hưởng rất mạnh đến vận thế của người phụ nữ chính trong nhà, ngoài thích hợp làm nơi chứa đồ phế thải ra, đó còn là vị trí làm cầu thang hoặc phòng tắm tốt nhất, về màu sắc, nên chọn màu trắng hoặc màu vàng là phù hợp nhất.
Hướng giữa nhà không được bố trí phòng tắm và phòng vệ sinh, vì hơi ẩm và uế khí tích tụ sẽ ánh hưởng đến sinh hoạt của mọi người trong nhà.
Hướng Đông là hướng mặt trời mọc, hợp với phòng dùng cho việc tư duy, tính toán, không nên bố trí phòng tắm và phòng vệ sinh hướng này. Màu sắc dùng cho hướng này là xanh da trời nhạt và xanh. Hướng Nam có tác dụng khai vận và tích tụ thiện khí, không hợp với phòng tắm và phòng vệ sinh. Nếu như không có kế hoạch tu sửa, cải tạo thì nên giữ nguyên phong cách cũ và có thể bố trí cây cảnh to lá để cải thiện vận khí. Hướng Bắc cũng không nên có phòng vệ sinh và phòng tắm, nếu phải có thi khi trang trí màu nên chọn gam màu ấm làm chủ đạo, cũng có thể dùng hoa tươi có màu tạo cảm giác ấm áp để nâng vận khí thế.
Thông thường, không gian tắm và vệ sinh không thế quá rộng, việc làm vệ sinh cũng không tốn nhiều công sức, cho nên cần chú ý bảo đảm vệ sinh và lưu thông không khí cho tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn vị trí phòng vệ sinh và phòng tắm như thế nào –

Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Với người tuổi Thìn, chuyện thắng thua, thành bại quan trọng như chính sinh mệnh của họ vậy.
Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Thìn

thin-7578-1404001191.jpg

Người tuổi Thìn không muốn người khác biết được điểm yếu của mình vì sợ sẽ bị kiểm soát hoặc thua kém. Họ luôn chủ động tìm cách thể hiện điểm mạnh của bản thân, đồng thời coi đó như thế  mạnh bất biến, khiến người khác phải nể phục. Bởi vậy, với họ, chuyện thắng thua, thành bại vô cùng quan trọng, như chính sinh mệnh của mình vậy.

No2: Tuổi Ngọ

ngo-5433-1404001191.jpg

Con giáp này có sở thích vô cùng đặc biệt là chạy đua với người khác để chứng tỏ bản thân và giành được địa vị cao hơn mọi người. Trong suy nghĩ của họ lúc nào cũng tồn tại sự so bì cao thấp. Bao giờ họ cũng phải là người giành chiến thắng chung cuộc mới cảm thấy thực sự hài lòng.

No3: Tuổi Mão

mao-6431-1404001192.jpg

Người tuổi Mão hay tự trách và không hài lòng với những gì mình đang có. Thậm chí, khi đứng trước gương, họ không muốn nhận hình phản chiếu trong đó là bản thân, vì cho rằng mình vẫn còn kém cỏi, chưa làm nên điều gì đáng để tự hào. Bởi chính suy nghĩ quẩn quanh, bí bách đó khiến con giáp này luôn nỗ lực không mệt mỏi, thích ghanh đua "ngầm" với người khác để có được kết quả mơ ước.

No4: Tuổi Sửu

suu-2610-1404001192.jpg

Với xuất phát điểm là mong muốn xích gần khoảng cách với mọi hơn nữa và mong đóng vai trò quan trọng trong tập thể, nên người tuổi Sửu đã luôn cố gắng hết mình để hoàn thiện bản thân. Song do tính hiếu thắng nên những suy nghĩ tưởng chừng đơn giản đã biến thành tham vọng của người tuổi Sửu.

No5: Tuổi Dần

dan-3855-1404001192.jpg

Suốt cuộc đời, người tuổi Dần luôn mong muốn có được những điều tốt đẹp, nhưng vì tỷ lệ giữa năng lực và tham vọng quá chênh lệch nên thành công đến với họ không mấy dễ dàng. Với họ, hiếu thắng cũng là cách giúp bản thân vươn lên, bởi có sự ganh đua sẽ nảy sinh sự phát triển và thành công. Chỉ có điều, người tuổi này chỉ thích hiếu thắng nửa vời, giữa chừng mà khó khăn hoặc nhàm chán là họ sẽ không ngại ngần từ bỏ.

Mr.Bull

hi-1403718227-1403718242-362x0-8593-1404

Top 4 con giáp lập đại nghiệp từ bàn tay trắng

Họ là những người vô cùng tài giỏi, nỗ lực và có ý chí hơn người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xếp hạng 5 con giáp hiếu thắng nhất

Đặt tên hay cho người tuổi Thân

Tên hay cho người tuổi Thân là những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người.
Đặt tên hay cho người tuổi Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người.


Dat ten hay cho nguoi tuoi Than
 

Thân tam hợp với Tý, Thìn. Nếu tên của người tuổi Thân có các chữ trong tam hợp đó thì họ sẽ được sự trợ giúp rất lớn và có vận mệnh tốt đẹp.

Mặt khác, Thân thuộc hành Kim, Thủy sinh Kim nên những chữ thuộc bộ Thủy cũng rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân. Theo đó, bạn có thể chọn những tên như: Khổng, Tự, Tồn, Tôn, Học, Hiếu, Nông, Thìn, Thần, Giá, Lệ, Chân, Khánh, Lân, Cầu, Băng, Tuyền, Giang, Hồng, Hồ, Tân, Nguyên, Hải…

Rừng cây là nơi sinh sống của khỉ nên những chữ thuộc bộ Mộc là tên hay cho người tuổi Thân, ví dụ như: Bản, Tài, Đỗ, Đông, Tùng, Lâm, Liễu, Cách, Đào, Lương, Dương… Nhưng Thân thuộc hành Kim, Kim khắc Mộc nên bạn cần cẩn trọng khi dùng những tên trên.


Những chữ thuộc bộ Khẩu, Miên, Mịch gợi liên tưởng đến nghĩa “cái hang của khỉ” sẽ giúp người tuổi Thân có cuộc sống nhàn nhã, bình an. Đó là những tên như: Đài, Trung, Sử, Tư, Đồng, Hướng, Quân, Trình, Thiện, Hòa, Gia, Đường, An, Thủ, Tông, Quan, Thất, Dung, Nghi, Ninh, Hoành, Bảo, Hựu, Thực, Khoan…


Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người. Những tên gọi thuộc các bộ đó gồm: Nhân, Giới, Kim, Đại, Nhiệm, Trọng, Tín, Hà, Bảo, Hưu, Nghi, Huấn, Từ, Ngữ, Thành, Mưu, Nghị, Cảnh…


Khỉ rất thích xưng vương nhưng để trở thành Hầu vương và có được uy phong thì chúng phải trả giá rất đắt. Do vậy, những chữ thuộc bộ vương như: Ngọc, Cửu, Linh, San, Trân, Cầu, Cầm, Lâm, Dao, Anh… khá phù hợp với người tuổi Thân. Tuy nhiên, bạn nên thận trọng khi sử dụng những tên đó.


Dùng những tên thuộc bộ Sam, Cân, Mịch, Y, Thị để biểu thị sự linh hoạt và vẻ đẹp đẽ của chúng như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Bân, Lệ, Đồng, Thường, Hi, Tịch, Thị, Sư, Phàm, Ước, Hệ, Tố, Kinh, Hồng, Duyên… sẽ giúp người tuổi Thân có được vẻ anh tuấn, phú quý song toàn. Đặt tên hay không hề khó phải không nào.


Theo Bách khoa thư 12 con giáp

 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Thân

Giải mã giấc mơ thấy mình đi xem xiếc

Mơ thấy mình đi xem xiếc có ý nghĩa gì? Xiếc là một môn nghệ thuật khó, đòi hỏi người diễn viên xiếc phải khéo léo và có sự tập trung cao độ. Ngoài ra, người
Giải mã giấc mơ thấy mình đi xem xiếc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xiếc là một môn nghệ thuật khó, đòi hỏi người diễn viên xiếc phải khéo léo và có sự tập trung cao độ. Ngoài ra, người diễn viên phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, kể cả nguy hiểm về tính mạng. Vậy mơ thấy mình đi xem xiếc có ý nghĩa gì?


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Giai ma giac mo thay minh di xem xiec hinh anh
Ảnh minh họa
 
Chính vì vậy, nếu trong giấc mơ, bạn mơ thấy mình đi xem xiếc và người diễn viên đang biểu diễn ở trên cao thì chúc mừng bạn, điều này tượng trưng cho tinh thần gan dạ, dám nghĩ dám làm và quan trọng là bạn có óc sáng tạo cao hơn người khác. Mọi ý tưởng của bạn trong các lĩnh vực khác nhau đều vượt trội hơn so với người khác.    Mặc dù vậy, bạn cũng không nên ngủ quên trên thành công nhé, khi bạn làm tốt thì đồng nghĩa với việc sẽ có người đem lòng đố kỵ với bạn đấy. Bạn nên thận trọng trong mỗi suy nghĩ trước khi hành động để tránh những điều không mong muốn nhé.   Nếu chiêm bao thấy một buổi biểu diễn xiếc sôi động, có nhiều tiết mục đặc sắc là điềm báo bạn sắp nhận được lời mời tham gia những sự kiện quan trọng, có ý nghĩa. Trong các buổi tiệc quan trọng đó, bạn sẽ cảm nhận được không khí nào nhiệt, tất nhiên, bạn cũng sẽ có cơ hội thể hiện tốt năng lực của mình với mọi người.   Tuy nhiên, nếu mơ thấy mình đi xem xiếc mà bạn lại không thấy diễn viên xiếc lớn tuổi biểu diễn, thay vào đó lại là một đứa trẻ thì điều này có ý nghĩa là bạn đang phải chịu áp lực từ bố mẹ, từ gia đình. Bạn sẽ thấy bất mãn và hay ảo tưởng về những điều phi thực tế. Bạn nên suy xét kỹ hơn mọi vấn đề để tránh những hiểu lầm không đáng có với cha mẹ mình nhé. 

Theo Giấc mơ & Vận mệnh con người trong cuộc sống
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy mình đi xem xiếc

6 điều “đặc biệt” giúp hôn nhân hạnh phúc

Đa số đàn ông đồng ý rằng, vợ hấp dẫn sẽ khiến hôn nhân tốt đẹp hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổ chức lễ cưới thật lớn

Nghe thật lạ phải không? Trường Đại học Virginia đã thực hiện một dự án về vấn đề hôn nhân, cuộc khảo sát hướng tới các cặp đôi người Mỹ nhằm tìm ra mối quan hệ giữa các cặp đôi hạnh phúc và quá khứ của họ.

Một điều trùng hợp đó là về loại đám cưới họ tổ chức. Sau khi khảo sát 418 cặp đôi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối quan hệ giữa đám cưới và hạnh phúc có liên quan đến chất lượng của lễ cưới.

Đám cưới lớn trong nghiên cứu này có nghĩa là lớn so với số lượng khách đến tham dự.

Hàm lượng chất khoáng trong xương cao

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng có sự liên quan giữa sự chắc khỏe của xương và chất lượng của hôn nhân.

Những chàng trai không bao giờ nói “để anh làm” thì hôn nhân của họ thường không suôn sẻ, và các chàng trai này thường có hàm lượng chất khoáng trong xương khá thấp.

Vậy có lẽ bạn nên uống sữa trong những ngày mới yêu đấy.

 6 dieu “dac biet” giup hon nhan hanh phuc - 1

Người vợ hấp dẫn sẽ khiến hôn nhân tốt đẹp hơn (Ảnh minh họa)

Có một người vợ hấp dẫn

Điều này có ngạc nhiên không? Một nghiên cứu do nhà tâm lý học Andrea Meltzer thực hiện với 450 cặp đôi mới cưới khoảng 4 năm.

Đa số đàn ông trong cuộc nghiên cứu đều đồng ý rằng vợ hấp dẫn sẽ khiến hôn nhân tốt đẹp hơn, tuy nhiên đa số phụ nữ lại phản đối điều này.

Có một người chồng không hấp dẫn

Các nhà nghiên cứu tin rằng đàn ông càng kém quyến rũ thì càng đối xử với người vợ xinh đẹp của họ tốt hơn vì đàn ông đánh giá cao vẻ đẹp bên ngoài.

Thể hiện sở thích một cách riêng biệt

Một khi bạn cưới bạn luôn cảm thấy cần làm mọi thứ cùng nhau, tuy nhiên trong mối quan hệ nếu một người không đồng tình với sở thích đó thì tốt hơn hết bạn nên đi một mình.

Theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí Hôn nhân và gia đình, các cặp đôi làm những điều họ thích một cách riêng biệt thì càng có sự thoải mái trong hôn nhân.

Thoát khỏi con cái

Khi bạn hỏi một ông bố, hay bà mẹ về việc con họ ảnh hưởng thế nào đến hôn nhân, thì chắc chắn họ nói rằng không gì có thể chia cách được họ với con cái, tuy nhiên một nghiên cứu gần đây nhận định rằng các cặp đôi trẻ hay không có con thường có mối quan hệ rất hạnh phúc.

Điều này không có gì là ngạc nhiên khi bạn nhận ra bạn đã dành bao nhiêu thời gian cho việc nuôi dậy con cái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 điều “đặc biệt” giúp hôn nhân hạnh phúc

Ngoại cảnh tiết lộ nhà ở lành hay dữ –

Ngoại cảnh ngôi nhà là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tài vận, sự nghiệp của gia chủ. Do vậy, cần phải cân nhắc kỹ yếu tố này khi chọn mua nhà.   - Bốn phía nhà nhô cao là tốt. Phúc lộc dồi dào, làm ăn phát đạt, con cái tài giỏi. - Phí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoại cảnh ngôi nhà là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tài vận, sự nghiệp của gia chủ. Do vậy, cần phải cân nhắc kỹ yếu tố này khi chọn mua nhà.

ngoai-canh-nha

 

– Bốn phía nhà nhô cao là tốt. Phúc lộc dồi dào, làm ăn phát đạt, con cái tài giỏi.

– Phía trước nhà có gò cao, phía sau có núi đồi, phía Đông có dòng nước, phía Tây có đường là đại cát. Con cháu đời đời làm quan, hưởng lộc may mắn.

– Phía Đông cao, Tây thấp, phía Bắc có núi nhiều là đại cát. Tiền của như núi, trên dưới vui vẻ, thuận hòa.

– Tây ngắn, Đông dài, chủ nhà may mắn, của cải dồi dào, con cháu thịnh vượng.

– Phía Nam có gò đất, phía Bắc có đồi, phía Tây có dòng nước chảy về phía Nam, địa thế thấp dần về phía Đông, kéo dài hơn 1 dặm là tốt.

– Hai bên Đông, Tây có dòng sông chảy qua là tốt. Gia chủ luôn gặp may, hậu thế đời đời hưởng phúc.

– Phía Tây Nam có hồ nước, Đông Bắc có đồi núi là tốt. Gia chủ giàu sang, con cháu hưởng lộc trời.

– Hướng Tây Nam có gò đất cao, là cát. Càng ở lâu, con cháu càng vinh hiển, đời đời thịnh vượng.

– Hướng chính Bắc cò gò mộ là cát. Ở chốn này, người quân tử làm quan hưởng lộc, bình dân thì gia đạo êm ấm.

– Phía Tây Bắc có gò đồi, tốt. Gia đình ngày càng thịnh vượng. Con cháu thành đạt làm rạng rỡ tổ tông.

– Phía Nam và phía Bắc có núi cao, phía Đông và phía Tây có bãi cát, ao hồ, chủ nhà phú quý, trường thọ.

– Phía Đông Bắc có gò đồi là cát. Của cải dồi dào, con cháu hưng thịnh.

– Phía Bắc nhà ở có gò đồi, phía Nam gần ao hồ, địa thế cao dần về phía Tây Bắc là tốt. Con cháu vinh danh rạng rỡ tổ tông.

– Phía Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc có đồi cao, phía Tây Nam có núi đồi, phía Nam thoai thoải là tốt. Dựng nhà nơi đây, lắm của nhiều con. Con cháu tài ba, vinh hiển.

– Phía Tây Bắc có núi dài hơn vạn dặm, hướng Đông Nam lại có núi cao trùng trùng điệp điệp, địa thế Tây Nam, Đông Bắc bằng phẳng thì giàu sang.

– Phía Bắc có núi, phía Đông có dòng nước trong xanh, hướng Tây có đường đi là tốt. Con cháu làm vinh hiển.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngoại cảnh tiết lộ nhà ở lành hay dữ –

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Tuất

Tử vi người sinh ngày Mậu Tuất thông minh, quyết đoán, thành danh từ trung vận, tuy nhiên đường tình duyên lân đận, hợp ly khó đoán.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi người sinh ngày Mậu Tuất thông minh, quyết đoán, thành danh từ trung vận nếu biết nắm bắt cơ hội và chăm chỉ, tuy nhiên đường tình duyên lân đận, hợp ly khó đoán.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Mau Tuat hinh anh
 
Ngày Mậu Tuất có Tuất Thổ thuộc khí của sao Cai Hoa, một mình đơn độc. Tàng khí thương cung Tân Kim tạo nên tính cách kiêu ngạo, tuy nhiên gặp phải sự sát luyện của Đinh Hỏa, tạo nên tính cách không phô trương, thông minh nhưng không biểu hiện ra bên ngoài, âm thầm lập mưu tính kế. 
  Mệnh chủ Mậu Tuất không nên được sinh vào mùa hạ, Hỏa viêm Kim táo dễ tạo nên các bệnh về máu, ung thư phổi, hơn nữa tàng khí Mậu Thổ không có cách nào để hóa giải, vậy nên tốt nhất sinh vào mùa thu đông.  
 
Đón năm mới bình an, tục lệ xưa lưu giữ
Từ xa xưa, ông cha ta đã có những tục lệ chào đón một năm mới bình an, theo thời gian, dù có chút biến đổi theo văn hóa hiện đại nhưng ý

Mệnh trụ ngày Mậu Tuất kiên cường, thông minh, quyết đoán, không dễ khuất phục, có năng lực lãnh đạo. Tiền vận của họ gặp nhiều sự ly biệt với người thân, anh em và nhiều thăng trầm. Tuy nhiên, nếu cố gắng phấn đấu và biết nắm bắt cơ hội, từ trung vận trở đi sẽ thành danh và yên ổn.   
  Tử vi trọn đời người sinh ngày Mậu Tuất chỉ rõ đường tình duyên lận đận, hợp ly khó đoán, đau khổ vì tình. Nam mệnh gặp hai lần đào hoa. Tình duyên nữ mệnh gặp nhiều phong ba, cần đề phòng sự xuất hiện của người thứ ba, nên kết hôn muộn nếu không tất gặp thất bại trong hôn nhân.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Mau Tuat hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Mậu Tuất nên kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mùi, Bính Thân, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Mậu Thân, MẬu Dần, Mậu Tý, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi, Kỷ Sửu, Canh Dần, Canh Tý, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Mùi, Tân Tỵ, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi, Quý Dậu, Quý Sửu.
► Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn    

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Tuất

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Những điều cần nhớ khi lập bàn thờ Phật tại gia

Bàn thờ Phật trong nhà là để chúng ta cầu phúc đức, bình an cho nên tuyệt đối không nên sơ sài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 1  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 2  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 3  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 4  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 5  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 6  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 7  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 8  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 9  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 10  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 11  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 12  nhung dieu can nho khi lap ban tho phat tai gia - 13
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần nhớ khi lập bàn thờ Phật tại gia

Tham luận về tướng phát đạt

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú,tiếng nói vang dội,Tam đình bình ổn Ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt. Thực ra, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt. Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc (trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu ) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).
Tham luận về tướng phát đạt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ngược lại, Ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng ( vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục ) kể trên phải đồng thời kiêm bị. 
Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là :
- Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu )- Tai phản ( Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn )- Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm )- Môi cong lên ( Tướng của người chết thảm ) - Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong ) 
Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn *chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm. Ví dụ như ngũ lộ mà :
- Mắt lộ nhưng không có thần quang - Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ - Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng - Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh - Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt .
Tướng pháp có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt.Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ ** mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên ( tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình ) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán. 
Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau . 
Tóm lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Hình thì như đã miêu tả trong quyển I, còn chất thì đó là những điểm độc đáo về nội dung đã nói ở chương nguyên lý về thanh trọc. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn cứ vào nguyên tắc “Trọc trung hữu thanh", Thanh và trọc tương đối dễ phân biệt, nhưng “thanh trung hữu trọc và trọc trung hữu thanh" thì lại rất khó tìm ra. Trong chương nói về thanh trọc, soạn giả đã cố gắng tổng hợp các điều liên quan đến thanh trọc tản mát trong các sách vở về tướng, nhưng thực tế không phải chỉ có bấy nhiêu. Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta thường nói “Tâm lĩnh thần hội”, nghĩa là những gì uyên thâm cao xa, thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền được. Điển hình cho lề lối này là phần hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền.
Tuy vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn năng khiếu đặc biệt về một ngành học càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì vậy độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng nguyên lý thanh trọc trong tướng học “đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” kia mà. 

1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát  Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng  người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của  Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán


  (Trích Lược Tử Vi : Tuổi Mùi,  năm nay số mệnh ra sao? 12 Con Giáp và những đặc tính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tham luận về tướng phát đạt

Hợp cục thiên biến vạn hóa

Phương pháp tìm dụng thần chi tiết có thể khái quát lại thành những quy luật dưới đây:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thứ nhất, trước tiên bắt đầu từ tháng sinh, lấy thứ tương xung với tháng sinh là dụng thần, tức là ngũ hành của địa chi tương xung với địa chi của tháng sinh.

Thứ hai, tìm ra thiên can của nhật nguyên, dựa vào yêu cầu khác nhau của nó để tìm ra ngũ hành còn thiếu, ngũ hành đó là dụng thần.

Thứ ba, phân biệt nhật nguyên âm và dương, ví dụ trong tình huống nào dùng Nhâm Thủy, trong tình huống nào dùng Quý Thủy. Thời điểm nào cần Bính Hỏa, thời điểm nào cần Đinh Hỏa.

Thứ tư, tháng sinh khống chế sức mạnh của toàn bộ Bát tự, vì vậy tháng sinh khống chế tất cả các cục tam hợp, lục hợp.

Địa chi có lý luận tam hợp, tam hội và lục hợp, thiên can cũng sẽ phát sinh hợp cục. Điều này tượng trưng cho điều gì? Địa chi của tháng sinh thường xuyên ngấm ngầm cấu kết với mật mã của đại vận hoặc Bát tự, khiến Bát tự bị thay đổi.

Trong ví dụ phía trên, tháng sinh Mão sẽ hội hợp với Tuất ở bên cạnh tạo thành Hỏa, khiến Bát tự này rất giàu tính Hỏa.

Hợp cục được ứng dụng rất rộng rãi trong Bát tự, nhất định phải ghi nhớ kỹ. Vận dụng vào trong cuộc sống thường ngày, nếu năm nào phạm Thái Tuế, có thể dùng hợp cục để cứu vãn. Phương pháp là dùng lục hợp để cân bằng và giảm bớt hình khắc do lục xung gây ra. Hợp cục cũng khiến ngũ hành thay đổi, khiến vận trình xuất hiện tình trạng lên xuống thất thường. Hợp cục có thể đem lại thành công trong hai tình huống sau:

Tình huống thứ nhất: Chi tháng trong Bát tự là ngũ hành của hợp cục.

Tình huống thứ hai: Ngũ hành của hợp cục rất vượng trong Bát tự.

Ví dụ sinh tại tháng Tý, tất cả hợp cục Thủy đều có thể thành công. Tức trong tháng Tý, Bính Tân có thể hợp Thủy, Thân Tý Thìn có thể hợp Thủy, Hợi Tý Sửu có thể hợp hóa thành Thủy. Cũng suy như vậy, nếu chi tháng là Ngọ, hợp cục Hỏa có thể thành công, chi tháng là Dậu, hợp cục Kim thành công. Tháng Mão, hợp cục Mộc thành công. Đây là nguyên lý của hợp cục.

Địa chi của tháng sinh khống chế toàn bộ Bát tự, chữ này và tất cả những hợp cục, xung cục khác trong Bát tự sẽ quyết định vận mệnh của toàn bộ Bát tự đó. Sự biến đổi của chữ này là quan trọng nhất, sự biến đổi của những chữ khác chỉ đóng vai trò thứ yếu. Mọi người phải thuộc lòng các hợp cục của thiên can địa chi, mới có thể tính toán một cách trôi chảy, thuận lợi.

 

ĐỊA CHI LỤC HỢP

thien can, thien can la gi, xem thien ca, thap thien can, thien can va dia chi, thien can dia chi

ĐỊA CHI TAM HỢP

ĐỊA CHI TAM HỘI

 

ĐỊA CHI TƯỢNG HÌNH

ĐỊA CHI TƯƠNG HẠI

 

ĐỊA CHI TƯƠNG PHÁ

BẢNG TRA QUAN HỆ CỦA CÁC ĐỊA CHI

Nguồn: Lý Cư Minh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hợp cục thiên biến vạn hóa

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd