Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vị trí tài lộc để đặt cóc ba chân phong thủy trong nhà –

Câu hỏi: Trong một quyển sách phong thủy mà tôi đọc được cho rằng, nên để cóc tài lộc ba chân nằm đối diện cửa trước, trong tủ hoặc dưới gầm bàn. Tuy nhiên, người bạn của tôi cũng đọc một cuốn sách phong thủy khác và khăng khăng cho rằng, phải để cóc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi:

Trong một quyển sách phong thủy mà tôi đọc được cho rằng, nên để cóc tài lộc ba chân nằm đối diện cửa trước, trong tủ hoặc dưới gầm bàn.

6EB-coc_ba_chan

Tuy nhiên, người bạn của tôi cũng đọc một cuốn sách phong thủy khác và khăng khăng cho rằng, phải để cóc ở gần cửa nhưng không được đối diện cửa trước.

Vậy nên theo cách nào là đúng?

Trả lời:

Cóc tài lộc ba chân được xem là biểu tượng của tài lộc, nên nó có thể có mặt khắp nơi trong nhà (ngoại trừ phòng vệ sinh).

Vị trí tốt nhất đặt cóc tài lộc ba chân là góc đối diện chéo với cửa chính, mặt hướng vào trong như thể cóc đang nhảy vào nhà.Cóc cũng có thể nằm bên dưới gầm bàn, bên trong tủ…

Bạn không nên đặt cóc đối diện trực tiếp với cửa chính vì điều này tượng trưng cho vàng ra khỏi nhà. Riêng bản thân tôi, tôi đã để chín con cóc tài lộc ở khắp phòng khách trong nhà của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí tài lộc để đặt cóc ba chân phong thủy trong nhà –

Mơ thấy cây liễu: Cẩn trọng trong cách xử sự –

Một người nọ kể lại giấc mơ của mình: Trong mơ, tôi đang ngồi cạnh hồ, nước hồ trong xanh, soi bóng liễu rũ. Sắc xanh cành liễu như muốn báo hiệu mùa xuân đang đến. Bởi tiết trời sang xuân, nên tôi có cảm giác lành lạnh. Hình ảnh liễu rũ trong mơ vốn
Mơ thấy cây liễu: Cẩn trọng trong cách xử sự –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cây liễu: Cẩn trọng trong cách xử sự –

lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

Vào ngày 19 tháng 5 âm lịch có diễn ra lễ hội Hội Đình Thái Đào được tổ chức tại xã Thái Đào, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

Hội Đình Thái Đào

Thời gian: tổ chức vào ngày 19 tháng 5 âm lịch.

Địa điểm: xã Thái Đào, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn tướng Quân Vũ Thành.

Nội dung: lễ tế dâng hương và tưởng nhớ đến tướng quân Vũ Thành. Phần hội có thi đấu vật, đu, cờ người, cờ tướng, cướp cầu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: lễ hội trong ngày 19 tháng 5 âm lịch - Hội Đình Thái Đào

Ngày có các sao đặc biệt xấu –

Ngoài 28 vì sao thuộc các cụm sao Bạch hổ ở hướng Tây, Thanh long ở hướng Đông, Huyền vũ ở hướng Bắc và Chu tước ở hướng Nam, mỗi tháng còn có các sao thanh sát. Các sao này là Hắc tinh, xuất chiếu vào ngày nào sẽ ảnh hưởng xấu đến con người, vạn vật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngoài 28 vì sao thuộc các cụm sao Bạch hổ ở hướng Tây, Thanh long ở hướng Đông, Huyền vũ ở hướng Bắc và Chu tước ở hướng Nam, mỗi tháng còn có các sao thanh sát.

Các sao này là Hắc tinh, xuất chiếu vào ngày nào sẽ ảnh hưởng xấu đến con người, vạn vật trong ngày đó. Các chiêm tinh gia đặt tên cho các Hắc tinh này là Thiên Cương – Thọ Tử – Quan Phủ – Tử Khí – Đại Hao… và gọi các ngày này theo tên sao. Ví dụ: ngày Đại hao, ngày Sát chủ, ngày Thọ tử…

Có thể tra sao này ở lịch vạn niên. Những ngày có sao Hắc tinh nên tránh làm các việc quan trọng vì sẽ không thành công.

file.352591

1. Sao Thiên cương

  1. Tháng Giêng thanh sát vào ngày Tị
  2. Tháng Hai thanh sát vào ngày Tý
  3. Tháng Ba thanh sát vào ngày Mùi
  4. Tháng Tư thanh sát vào ngày Dần
  5. Tháng Năm thanh sát vào ngày Dậu
  6. Tháng Sáu thanh sát vào ngàyThìn
  7. Tháng Bảy thanh sát vào ngày Hợi
  8. Tháng Tám thanh sát vào ngày Ngọ
  9. Tháng Chín thanh sát vào ngày Sửu
  10. Tháng Mười thanh sát vào ngày Thân
  11. Tháng Mười một thanh sát vào ngày Mão
  12. Tháng Chạp thanh sát vào ngày Tuất

2. Sao Thọ tử

  1. Tháng Giêng thanh sát vào ngày Tuất
  2. Tháng Hai thanh sát vào ngày Thìn
  3. Tháng Ba thanh sát vào ngày Hợi
  4. Tháng Tư thanh sát vào ngày Tị
  5. Tháng Năm thanh sát vào ngày Tý
  6. Tháng Sáu thanh sát vào ngày Ngọ
  7. Tháng Bảy thanh sát vào ngày Sửu
  8. Tháng Tám thanh sát vào ngày Mùi
  9. Tháng Chín thanh sát vào ngày Dần
  10. Tháng Mười thanh sát vào ngày Thân
  11. Tháng Mười một thanh sát vào ngày Mão
  12. Tháng Chạp thanh sát vào ngày Dậu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày có các sao đặc biệt xấu –

Tam, xung hợp phản cục

1. Nguyên cục xung hợp phản cục
Tam, xung hợp phản cục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không phải nhật nguyên nhật chi đích vấn đề, vốn là nhật thời, năm tháng lưỡng đảng trái ngược rồi, năm tháng lưỡng trụ cùng nhật thời lưỡng trụ biểu đạt đích ý tứ trái ngược rồi. Phàm năm tháng hợp mà nhật thời xung hoặc năm tháng xung mà nhật thời hợp, đều phải tỉ mỉ thức đừng có hay không vi xung hợp phản cục.( Xung hợp phản cục ít hơn thấy.)( Chú: Can hợp cùng chi xung không tính phản cục. Phải tất nhiên chi trong lúc đó đích xung hợp mới là phản cục.) chính mình cùng chính mình không qua được

Càn: Kỷ nhâm kỷ ất

Tị thân mùi sửu

Lưỡng đảng giằng co, đảng cùng đảng phản rồi, hỏa thổ một đảng cùng kim thủy một đảng tương đối kháng lưỡng đảng lực lượng tương đương, cho nên phản rồipany, nhâm thân, ất sửu làm một đảng, tiền vừa hợp chi, phía sau xung chi, hai loại thế lực tương đối kháng, hạ sư phụ đoạn: Cả đời ngồi lao. Bởi vì vốn là tỉ kiên cùng thất sát đối kháng, quan phản cục rồi, nhưng tiền vừa hợp trụ, đối kháng sẽ bị đãi. Nếu như sửu mùi đích vị trí đổi lại một chút, thì không phải phản cục rồi, bởi vì hình thành rồi trong ngoài nhị đảng, loại này xung hợp biểu thủ đoạn bất đồng, một tới đối ngoại. Sửu trung đích tài làm tài xem, sửu ngồi ất, vốn là quan trông nom đích tài. Tị thân hợp, ngồi kỷ vốn là chính mình, thân cùng sửu tỏ vẻ một nhà. Công an đích ý tứ.

Kỷ ất kỷ

Thân tị mùi sửu sửu thân mùi tị

cũng không vốn là phản cục

Thân sửu tổ hợp biểu lao ngục, vi vừa phạm tội, vừa ngồi lao.

Nhàn chú: Sửu trung ngậm tài, trên đầu đỉnh quan, nói rõ là đực nhà đích tài, mùi xung sửu, chỉ dùng để tỉ kiếp nghĩ muốn lấy được sửu trung chi tài; nhưng tị thân hợp lại nhân tiện đem kỷ bắt được, nguyên nhân kỷ tị cũng biểu đạt vốn là chính mình. Thân kim vi thương quan, công an chi tượng. Nếu hỏa táo thổ cùng kim ẩm ướt thổ, một mới có thể đem một phương khác chế điệu cũng tốt! Cả đời ngồi lao, quý mùi năm quy án.

Khác [hai người/cái] kết cấu bát tự, người trước vi trong ngoài kết cấu, người sau vi chừng kết cấu, cũng không vốn là gạch chéo đích kết cấu, cho nên, không vi phản cục.

Càn: Mậu đinh mậu mậu

Thân tị tử ngọ

Cái này bát tự mới nhìn đại phú, nguyên nhân hỏa thổ có xu thế, khứ tài tử cùng tài đích nguyên thần thân, có công. Nhưng tồn tại phản cục, nhật thời vốn là tử ngọ xung, năm tháng vốn là tị thân hợp, như vậy hỏa thổ cùng kim thủy gian một bên xung, một bên hợp, chính là chủ tân tố công phương thức phản đích ý tứ. Tài tinh phản cục Tài Đại hung, vì vậy người phi thường nghèo, một năm thu vào không vượt qua năm nghìn, nuôi sống tam bốn khẩu. Can việc khổ cực, nguyên nhân tài phản cục rồi cố rất nghèo khó.( Chú: Ởđâu phương diện phản cục phương nào mặt ứng hung.)

Nhàn chú: Kim thủy cùng hỏa lưỡng đảng tại bát tự trung gạch chéo xuất hiện, mà tố công phương thức một xung hợp lại; mậu= tị; mậu đinh tị mậu mậu hoàn lại ngay cả thể đây, nhưng chính mình một xung hợp lại, ý tứ phản rồi!

Lấy thượng lưỡng lệ chúng ta nhìn ra, lưỡng đảng chi xung hợp vốn là giao nhau cách đích, như thế trong ngoài đích tổ hợp lưỡng đảng xung hợp, thì không vi phản cục.

Lệ:

Càn: Ất quý kỷ nhâm

Tị mùi sửu thân

Không có phản, ức vạn phú hào. Chủ vị một đảng, tân vị một đảng, muốn dồn tân. Năm nay06 bính thú bất hảo, phạm tam hình rồi. Nhẹ một điểm vốn là quan tòa. Bính tuất tam hình phá hủy xung.

Nhàn chú: Chừng tách ra, chủ vị một đảng, tân vị một đảng; chủ vị dụng, tân vị thể, thuyết minh nhất trí.

Khôn: Đinh quý bính tân

Mùi sửu thân mão

Đây là nói rõ đoạn qua đích bát tự, nguyên cục có lưỡng đảng, kim thủy đảng cùng mộc hỏa đảng. Năm tháng tướng xung, nhật thời tướng hợp. Nhưng này tạo không vi phản cục. Chúng ta có thể tòng [người/cái kia] góc độ xem, kim thủy ở bên trong, mộc hỏa bên ngoài. Dụng bên trong đích chế bên ngoài đích, cho nên vốn là biểu đạt ý tứ rõ ràng, không vi phản cục,( Một xung hợp lại tỏ vẻ chính là đối ngoại đích thủ đoạn bất đồng. Hai lần hôn nhân, quý vốn là ngắn ngủi đích trượng phu, thân( Trung ngậm nhâm thủy) phu tinh được chính vị rồi, vi người thứ hai trượng phu, mà thân mão hợp làm công, tỏ vẻ lần thứ hai hôn nhân hảo mà lâu dài.)( Được chính vị đích tinh vốn là thời gian dài phu hoặc thê.)( Chú: Vấn đề:1, vì sao bằng cấp cao?2, vì sao vốn là đại học trung đích quan?)

Nhàn chú: Kim thủy ẩm ướt thổ thành xu thế chế rồi mộc cùng táo thổ; mão vi ấn, chế ấn mà quyền!

2. Tuế vận xung hợp phản cục

Xung hợp phản cục to lớn vận lưu niên phản cục. Nguyên cục có minh xác đích chế đích lúc, sợ đại vận, lưu niên hợp. Như không có minh xác đích chế, thì không sợ.

Lệ:

Càn: Canh kỷ bính ất canh tân nhâm quý

Thân sửu thân mùi dần mão thìn tị

nhật bản thân, học kim tan ra, thích làm cho du lịch.

Này tạo kim thủy có khí, lưỡng thân vào sửu mộ cùng mùi xung vi khứ ấn khố, nguyên cục biểu đạt rồi ý tứ này, nhưng đại vận đi một tân mão vận, mão thân kết hợp hợp rồi thân kim, cùng nguyên cục thân kim nhập sửu mộ xung mùi trái ngược rồi, vi xung hợp phản cục. Bởi vì canh kim vi phụ, mão thân hợp mão mộc là phụ thân chi tài, cố mão vận chủ phụ thân phá tài. Mão vốn là chưa bao giờ trung đi ra gì đó( Mùi trung tàng ất mộc), vốn xung bây giờ hợp, phản cục. Như thế dần vận thì không vi phản cục, này tạo phụ thân có gia sản.( Thiên can hợp địa chi xung vốn là có thể đích, không vi phản cục, chỉ sợ địa chi thượng đích thêm xung thêm hợp, như vốn lệ nguyên cục trung thiên can ất canh hợp, địa chi sửu mùi xung không vi phản cục, chỉ là mão vận tài phản cục.)

Nhàn chú: Nguyên cục vốn là lưỡng thân tài nhập sửu khố, có xu thế chế rồi mùi ấn khố và ất ấn đích, tài khố vọt ấn khố làm công, học kim tan ra chuyên nghiệp. Mão vận, mão hợp rồi thân, thân tòng sửu trung đến, mão chưa bao giờ trung dẫn ra, như vậy vốn xung tố công đích biến thành rồi hợp tố công, phản rồi! Mão vận, mệnh chủ còn nhỏ, thân vi tài, tài phản rồi, phá tài, vi phụ phá tài! Phụ nợ khoản nợ tự sát, nợ cha con trả!

Khôn: Quý ất tân kỷ bính đinh mậu kỷ canh

Mão sửu mùi sửu dần mão thìn tị ngọ

Này tạo nguyên cục vốn là chế tài khố, sửu mùi xung cát. Vì vậy mệnh phát đại tài. Vốn là làm cho xe hơi tiêu thụ đích( Chú: Không rõ vì sao làm cho xe hơi tiêu thụ?). Nhưng đến kỷ tị đại vận đích giáp thân năm, tuế vận thiên địa hợp, phản cục rồi. Vốn kỷ tị vận không kém, nhưng gặp giáp thân lưu niên nhân tiện phản rồi, tị vốn là mùi thổ đích đảng, thân vốn là sửu thổ đích đảng, lưỡng đảng nguyên cục tướng xung vi cát, lúc này gặp thiên địa hợp, vi phản cục, hung. Này một năm nghiêm trọng tai nạn xe, thành tàn phế( Người thực vật).( Chú: Thân vốn là sửu trung đi ra đích, tân sửu thân ngay cả thể rồi( Nhàn chú: Nọ vậy tới tân sửu hả?), cố thân vốn là thân thể, giáp thân một trụ, giáp vốn là đầu, thân vi cột sống. Đại vận lưu niên hợp bán, thân thể không thể động rồi, đại não cũng không có thể tự hỏi rồi, cố vi người thực vật.)

Nhàn chú: Kỷ tị vận giáp thân lưu niên, đại vận lưu niên thiên địa hợp! Tị vốn là mùi thổ đích đảng, thân vốn là sửu thổ đích đảng, lưỡng đảng nguyên cục tướng xung vi cát, lúc này gặp thiên địa hợp, phản cục rồi! Tố công xung đích, không thích đến hợp! Thân mão hợp, ruột gan có chuyện, giáp vi đầu, sống lưng chặt đứt!

Hồ Bắc một chế dược xí nghiệp chủ tịch

Càn: Quý bính mậu bính ất giáp quý nhâm tân canh

Mão thìn tử thìn mão dần sửu tử hợi thú

Này tạo tố công vốn là quan mang tài, quan tinh bị hại, nhưng chủ vị đích tử thủy tài tinh không làm công( Lưỡng thìn kẹp tử không làm công, chính mình không có gì tiền.), cho nên vốn là quản lý quốc có xí nghiệp đích quan, không phải chính mình đích xí nghiệp, vốn là quốc xí đích xí nghiệp nhà. Nhưng là hành nhâm tử vận đích tử vận giáp thân năm, thân nguyệt bị thẩm tra. [đóng/tắt] ba tháng, sau đó chứng minh không có gì chuyện, là bị hãm hại, thêm phóng ra. Đâu quan bãi chức rồi( Bình phản sau khi, chính hắn từ chức mặc kệ rồi, sau khi đi tư xí công việc). Tại sao? Nguyên nhân nguyên cục vốn là hại chế mão, giáp thân năm, thân mang quan sát, thân vào thìn chi đảng thêm cùng mão ám hợp, cho nên vốn là phản cục. Nguyên cục là dựa vào mão thìn hại tố công, như thế [một người/cái] thìn nói nhân tiện phá hủy, thìn hại chế không được mão, phản cũng bị mão hại phá hư, nơi này [hai người/cái] thìn hại mão, là có thể đem mão hại chế trụ. Thìn vốn là cơ khí, củng rồi thủy, thìn tựu thành rồi bùn, biểu tòng hỗn trọc trung tinh chế. Thực tế vốn là hóa công ngành sản xuất, chế dược xí nghiệp. Thìn cũng có dược đích tượng. Thân cùng thìn, tử vốn là thủy đảng, nguyên cục nên hại chế mão, mão thân hợp lại nhân tiện xung hợp phản cục rồi. Nguyên nhân thân dẫn theo giáp mộc quan tượng, cho nên vốn là quan tai, nguyên nhân giáp mộc hư thấu rồi, cho nên cuối cùng vô sự. Sửu vận đích nhâm thân năm vô sự, là bởi vì thân vào sửu mộ, thân không dậy nổi đại tác phẩm dùng.

( Chú: Niên thượng đích quan tinh bị chế vì nước có xí nghiệp đích quan; nhật chủ hợp niên thượng đích quan tỏ vẻ tại quốc xí công việc, quan tỏ vẻ quốc gia đích đơn vị, khổng lồ đích đơn vị, không nhắc tới kì quan chức.)

Nhàn chú: Tử= quý, quý mão mang tượng, thìn tử củng, tại niên thượng vi người khác đích tài, quốc có. Tử vận không sai, quý mùi năm cũng không sai, chiêu thương rời xa tư. Giáp thân năm sau nửa năm song quy ba tháng, nguyên nhân thân mão hợp, phản cục rồi. Lập thu sau khi, khai trừ công chức, lưu đảng xem! Giáp thân năm vi mang sát tượng, có quan tai. Ất dậu năm mão dậu xung, không phản rồi, cho nên, bình phản rồi!

Thêm một tương tự xí nghiệp nhà lệ:

Càn: Quý bính mậu giáp

Mão thìn thân tử

Nội thực thần cách, vi tố xí nghiệp đích. Ngồi xuống thân cùng mão hợp( Cái này hợp vốn là chủ vị tố công, vốn là tốt), vốn là hương trấn xí nghiệp tập đoàn đích, có chính mình đích luồng phần. Không thích giáp mộc thấu can khắc thân( Muốn dồn nó thêm chế không được). Quý mùi năm bị kỉ kiểm chuẩn bị một chút( Đãi rồi ba tháng), sau khi cũng không sự tình rồi. Vốn là chính trị đấu tranh đích thế tội dương. Nguyên nhân quan tinh cao thấu khắc thân, cố không thể làm quan, làm quan sẽ có tai, hắn lúc này làm rồi huyền chính hiệp đích lãnh đạo, có quan, cũng thì có rồi quan tai.

( Chú: Niên thượng đích quan tinh bị chế vì nước có xí nghiệp đích quan, nhật chủ hợp niên thượng đích quan tỏ vẻ tại quốc xí công việc.)

Nhàn chú: Cái này ví dụ, tư liệu thượng không thấy.

Càn: Canh mậu đinh canh kỷ canh tân nhâm quý giáp ất

Thân dần mùi tử mão thìn tị ngọ mùi thân dậu

Nguyệt nhật một đảng, năm thời một đảng, vi trong ngoài lưỡng đảng, nhất trí đối ngoại, chi thực thần hại sát vi công, dần thân xung cũng vi công, dựa vào xung hại tố công. Chế quan sát, rất lợi hại. Vốn là một kháng nhật anh hùng. Thìn vận lợi hại, cả đời nhất chói lọi chính là canh thìn vận. Hội rồi thủy cục ăn mặc lợi hại hơn rồi, đối kháng lợi hại hơn cho nên càng hiện ra rồi lớn hơn nữa đích công.( Thân kinh bách chiến, lực lớn vô cùng, mùi vốn là tì lực, canh thìn vận hội rồi thủy cục địch nhân hơn nhiều, có càng nhiều. Quý mùi vận không có địch nhân, cho nên bất hảo.???) mùi nơi này không thể nhập thìn mộ đích. Tân tị vận chi tị vận còn kém rồi, phản cục, tị vi hỏa đảng, hợp thân phá hủy, không mặc rồi. Cho nên này vận cũng chịu bách hại. Quý mùi vận vốn có thể mặc mà nói cát, nhưng quý thủy hư rồi, không cách nào hại, tượng bất hảo rồi.

Nhàn chú: Trong ngoài lưỡng đảng, nội chế ngoại. Mùi không vào thìn mộ, là nguyên nhân mùi cùng thủy khác đảng. Mùi vi tì, ra tay lượng. Truyền thuyết, đánh địch nhân một chút nhân tiện đem trạm canh gác binh đích cổ chuẩn bị chặt đứt! Tố công: Hại quan sát! Thân tử thìn= địch nhân, nhất định phải bảo trì hại đích trạng thái! Này mệnh đoạn sư nói: Hòa bình niên đại chính là ngồi lao đích mệnh! Thìn vận, tốt nhất! Giết địch vô số, hướng phía nòng súng xông, chính là không bị thương! Truyền thuyết: Nhật vốn thủ lĩnh nguyên nhân kính sợ một thân, ước hai người cùng nhau uống rượu. Rượu sau khi cao hứng, nhật thủ lĩnh hỏi ngoài có gì yêu cầu? Đáp viết: Muốn biết một cố gắng cơ thương? Ngày kế, nhật quan lớn phái lưỡng binh lính tống một cơ thương cùng một cái rương đạn! Lưỡng binh lính cũng đầu hàng rồi, nói trở về nhưng vô sinh hoàn lại chi lý! Tân tị vận nhàn rỗi, vi trang bị bộ bộ trưởng, bởi vì không văn hóa, giang hồ khí quá nặng, vật tư nhận được phòng không có thủ tục, nghi vi tham ô! Tị thân hợp phá hủy nguyên cục tố công trạng thái. Quý mùi vận quý thủy hư thấu, vô địch người, vô sự có thể tố!

Càn: Mậu giáp đinh giáp

Tuất dần mão thìn

Đại vận: Ất bính đinh mậu kỷ canh tân nhâm

Mão thìn tị ngọ mùi thân dậu tuất

Đây là chu ân đến tạo. Mão hại thìn vi công, sợ nhất hợi, nguyên nhân hợi tòng thìn xuất, hợp dần mão, xuất phản đồ rồi. Nhưng may mắn cả đời không được hợi vận. Nhưng hợi năm cũng hung. Như: Ất hợi năm1935 trường chinh, can nùng thũng bệnh nặng, đồng thời quyền lực bị người khác thay thế( Bị lão mao đoạt rồi quyền chỉ huy). Ất hợi năm, ất vi can, can trung có thủy rồi. Nếu như không phải phản cục, ất hợi năm ngược lại tốt lắm, nguyên nhân thủy sinh mộc rồi.

Đinh tị chi đinh vận canh thân năm, thủy đảng cùng hỏa đảng hợp, phản cục, ngồi lao [sáu cái/người] nguyệt. Đinh tị vận không phản cục, nhưng canh thân năm phản rồi, bởi vì tị thân hợp, thân thìn củng hợp đích ý tứ rất yếu, không phải chủ yếu nguyên nhân. Kỷ mùi vận duyên an chỉnh gió, bị suy yếu quyền lực. Nhâm tuất vận ất mão năm tử, nguyên nhân mặc con gái cung, cho nên vốn là bọng đái, thẳng tràng bộ phận có chuyện. Chu tổng lý đích tánh mạng chủ yếu là xem âm dương tổ hợp, âm toàn bộ chế tịnh rồi nhân tiện phá hủy thăng bằng, cho nên thìn chế tịnh thời tánh mạng thì có rồi nguy hiểm.

Nhàn chú: Nguyên cục tố công vi hại, không thể thay đổi tố công trạng thái. Ất hợi năm hợi hợp rồi mão, hợi là thìn trung vật, đáng năm được can túi thũng! Mão vi can, hợi thủy sinh hợp chi, giống như can thượng hơn nhiều một cái phao.

Càn: Quý giáp kỷ mậu

Mão dần mão thìn

Một đệ tử đích bát tự, giáp kỷ hợp, hại đích ý tứ vốn là mang vào rồi, có thể mặc thợ khéo, cũng có thể không làm công, không rõ xác thực không chuyên tâm, không sợ phản. Trên thực tế phản vận cũng không có việc gì. Bởi vì công nhiều lắm, mỗi năm năm nhân tiện thay đổi một loại ngành sản xuất.

Nhàn chú: Tạ ơn vĩ cường đích bát tự?

Càn: Mậu giáp kỷ tân

Thân dần mùi mùi

Kỷ mùi hỉ hình xung, nhưng dần vốn là mùi trung sinh ra tới, vọt. Cho nên hôn nhân không có việc gì. Lão công(?) vốn là nhị hôn. Tân hợi vận trượng phu phát tài rồi, hợi dần hợp, dần hoàn lại xung

Nhàn chú: Thiên can vốn là cái chìa khóa, địa chi vốn là khóa. Còn đây là cái chìa khóa cùng khóa đích nguyên lý!

Càn: Đinh quý kỷ ất

Dậu sửu sửu sửu

Đinh quý xung, huynh đệ ba người đều là công kiểm pháp đích quan, chính mình vốn là trung cấp nhân dân pháp sân đích viện trưởng.

Nhàn chú: Đinh= mùi; quý= sửu; đinh quý một xung= sửu mùi xung


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam, xung hợp phản cục

Mơ thấy bếp: Giải mã giấc mơ về bếp lửa

Mơ thấy bếp còn đỏ lửa thường là điềm tốt. Trong giấc mơ thấy căn bếp lạnh lẽo thì gia đình bạn sắp có chuyện không vui đấy nhé.
Mơ thấy bếp: Giải mã giấc mơ về bếp lửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 


► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh

Giai ma giac mo ve bep lua hinh anh
Ảnh minh họa
Nếu bạn mơ thấy đang nhóm bếp lửa thường là điềm sẽ làm nên danh phận.

Nếu mơ thấy mình đang nấu nướng trên bếp thường là điềm sắp có chuyện cưới gả.

Mơ thấy nước từ bếp chảy ra thường là điềm gia đình bạn sắp được một gia sản lớn. Tuy nhiên, nếu mơ thấy gian bếp lạnh lẽo thường là điềm báo gia đình bạn sẽ gặp chuyện bất hòa.
   Mơ thấy rắn bò vào bếp thường là điềm sắp có khách giàu sang tới thăm nhà.

Mơ thấy sửa chữa gian bếp thường là điềm tài sắp vào nhà.
  Nhắc tới gian bếp là mọi người nghĩ ngay đến các loại gia vị và chén bát… Thấy hoặc ăn đường phèn trong giấc mơ biểu thị cho những niềm vui và sự thú vị trong cuộc sống.

Đường còn tượng trưng cho những đam mê nhục dục của con người. Giấc mơ này còn mang ý nghĩa là những sở thích mà bạn cho là vui vẻ đang bị người khác ngăn cấm.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bếp: Giải mã giấc mơ về bếp lửa

Cách Thượng Sơn Hạ Thủy trong Phong thủy Huyền Không

“Thanh nang Tự” viết: “Long thần trên núi không được xuống nước, Long thần dưới nước không được lên núi”. Đây là 1 nguyên lý trọng yếu của Huyền Không, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “then chốt của cát, hung, họa, phúc”.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Thanh nang Tự” viết: “Long thần trên núi không được xuống nước, Long thần dưới nước không được lên núi”. Đây là 1 nguyên lý trọng yếu của Huyền Không, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “then chốt của cát, hung, họa, phúc”.

Như chúng ta đã biết “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”. Chữ “Sơn” ở đây không những chỉ nói về “Núi”, mà còn dùng để ám chỉ những phi tinh của Sơn bàn (tức Sơn tinh). Cũng như chữ “Thủy” ở đây không những chỉ nói về “Nước”, mà còn dùng để ám chỉ những phi tinh của Hướng bàn (tức Hướng tinh). Cho nên Sơn tinh chủ về nhân đinh, Hướng tinh chủ về tài lộc. Chính vì thế nên khí sinh, vượng của Sơn tinh cần đóng tại những nơi có núi hay gò đất cao, hay những nơi có nhà cửa, cây cối cao lớn.

thượng sơn hạ thủy

Như thế là những cách cuộc Sơn tinh đắc cách, chủ người trong nhà tài giỏi, đông đúc, thành công sớm, tên tuổi vang dội... Còn khí sinh, vượng của Hướng tinh thì cần đóng tại những nơi có sông, hồ, ao, biển, đường rộng, ngã ba, ngã tư hay cửa ra vào... Đó là những cách cuộc Hướng tinh đắc “Thủy”, nên tài lộc của gia đình sẽ không bao giờ thiếu, công việc làm ăn ổn định...

Ngược lại, nếu những nơi có khí sinh, vượng của Sơn tinh lại không có núi hay nhà cao, cây cao, nhưng lại có Thủy của sông, hồ, ao, biển, hoặc là những vùng thấp, trũng... thì sẽ chủ gia đình ly tán, cô quả, tuyệt tự hoặc yểu chiết... Cho nên mới nói “Long thần trên núi không được xuống nước”. Chữ “Long thần trên núi” thực ra là để ám chỉ Sơn tinh. Sơn tinh nếu là khí sinh, vượng so với đương vận thì không thể đóng tại những nơi thấp, trũng hoặc có nước (hạ thủy), kẻo nếu không thì sẽ có tai họa cho nhân đinh.

Tương tự như thế, nếu những nơi có khí sinh, vượng của Hướng tinh lại không có Thủy của sông, hồ, ao, biển, đường đi hoặc cửa ra vào..., nhưng lại có núi hay nhà cao, cây cao thì sẽ chủ tài lộc khó khăn, công việc làm ăn lụn bại, gia cảnh lầm than, sa sút. Cho nên mới nói “Long thần dưới nước không được lên núi”. Chữ “Long thần dưới nước” là để ám chỉ Hướng tinh. Hướng tinh nếu là khí sinh, vượng so với đương vận thì không thể đóng tại những nơi cao ráo hoặc có núi đồi (thượng sơn), kẻo nếu không sẽ có tai họa về tiền bạc. Đây chính là cách cuộc “Thượng sơn, Hạ thủy” trong Huyền không học.


Thí dụ: nhà tọa Sửu hướng Mùi, nhập trạch trong vận 8. Nếu lập trạch vận thì sẽ thấy tinh bàn của căn nhà như sau:


Trước hết xét về Sơn tinh, ta thấy các khu vực TÂY, TÂY BẮC và ĐÔNG BẮC của căn nhà này có các số 9, 1, và 8, tức là những sinh, vượng khí của Sơn tinh (so với đương vận, tức vận 8). Nếu những khu vực này chỉ toàn là sông, hồ, hoặc đường đi, chứ không có núi hay nhà cao thì nhà này đã phạm cuộc “Hạ thủy”, chủ nhân đinh suy bại. Sau đó, lại xét về Hướng tinh, ta thấy các khu vực phía BẮC, NAM và TÂY NAM có các số 9, 1 và 8, tức là những sinh, vượng khí của Hướng tinh trong vận 8. Nếu những khu vực này không có Thủy, mà lại có núi đồi hay nhà cao, cây cao, thì căn nhà này còn phạm thêm cuộc “Thượng sơn”, chủ suy bại cả về tài lộc nữa.

Cũng tương tự như những trường hợp “vượng Sơn, vượng Hướng” (hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”) là trên lý thuyết thì các nhà Phong thủy thường cho những nhà có vượng tinh của Hướng đến tọa, vượng tinh của Sơn đến hướng là thuộc cách cuộc “Thượng sơn, Hạ thủy”, và gọi những nhà lập trạch vận theo những hướng đó là những nhà có “Hỏa Khanh tuyến” (tức hướng xấu hay bần tiện). Nhưng trên thực tế thì còn phải tùy thuộc vào bối cảnh Loan đầu bên ngoài của căn nhà đó như thế nào rồi mới có thể kết luận là nhà đó có bị “Thượng sơn, Hạ thủy” hay không được.

Thí dụ: nhà tọa Khôn hướng Cấn, xây và vào ở (nhập trạch) trong vận 8. Nếu lập trạch vận thì tinh bàn căn nhà sẽ như sau:


Trước hết xét về Sơn tinh, ta thấy khu vực ĐÔNG BẮC có Sơn tinh 8, tức là vượng khí của Sơn tinh tới hướng, nên trên lý thuyết là phạm cuộc “Hạ thủy” (vì vượng tinh của Sơn tới hướng (phía trước nhà). Nhưng nếu khu vực này không có sông, hồ, ao, biển, mà lại có núi đồi hay nhà cao, thì vượng khí của Sơn tinh nhà này đã đắc cách, tức là đóng tại chỗ có cao sơn thực địa, cho nên trong nhà nhân đinh vẫn đông đúc, chứ không bị suy bại. Sau đó lại xét tới Hướng tinh, ta thấy khu vực phía TÂY NAM có Hướng tinh 8, tức là vượng khí của Hướng tinh tới phương tọa, nên trên lý thuyết là phạm cuộc “Thượng sơn”. Nhưng nếu khu vực này không có núi, đồi hoặc nhà cao, mà lại có Thủy hoặc đường đi, cửa ra vào... thì vượng khí của Hướng tinh nhà này vẫn đắc cách, tức là đóng tại chỗ có Thủy nên tiền của, tài lộc của gia đình này vẫn dồi dào, sung túc.

Cho nên điều quan trọng là phải phối hợp phương vị của phi tinh với địa hình bên ngoài thì mới có thể xác quyết được chính xác mọi trường hợp tốt, xấu, chứ không thể mới nhìn thấy 1 căn nhà có vượng tinh của Hướng tới phía trước, vượng tinh của Sơn tới phía sau mà đã vội cho là căn nhà tốt. Hoặc mới thấy 1 căn nhà có vượng tinh của Hướng tới phía sau, vượng tinh của Sơn tới phía trước mà đã vội cho là căn nhà xấu thì sẽ dẫn tới những sai lầm đáng tiếc.

Một điểm cần chú ý khác là tuy Sơn tinh cai quản về nhân đinh, và cần đóng tại những chỗ cao sơn thực địa, nhưng chỉ có những sinh, vượng khí của Sơn tinh mới nên gặp núi đồi hoặc nhà cao mà thôi. Còn những khí suy, tử của Sơn tinh thì lại không nên đóng ở những nơi đó, mà chỉ nên đóng ở những chỗ bằng phẳng hoặc có Thủy mà thôi. Nếu chẳng may mà nhà lại có khí suy, tử của Sơn tinh đóng tại những chỗ cao hoặc núi đồi thì sẽ gặp tai họa do những đối tượng đó gây ra. Thí dụ như hiện tại đang trong vận 8, nên nếu 1 nhà có sơn tinh Thất xích (số 7) đóng tại khu vực có núi hay nhà nhà cao chót vót thì sẽ bị tai họa do Sơn tinh Thất xích mang tới. Vì Thất xích là biểu tượng của kẻ tiểu nhân hay giặc cướp, nên nhà này sẽ thường xuyên bị bọn trộm cướp tới phá phách, hoặc ra ngoài bị kẻ tiểu nhân tìm cách hãm hại...

Tương tự như thế, đối với Hướng tinh tuy cai quản về tài lộc, và cần đóng tại những chỗ thấp trũng hoặc có thủy, nhưng chỉ có những sinh, vượng khí của Hướng tinh mới cần thỏa mãn điều kiện này mà thôi. Còn đối với những suy, tử khí của Hướng tinh nếu gặp Thủy sẽ chủ gây ra những tổn thất về tiền bạc, hoặc những bệnh tật, tai họa, tùy theo tính chất của Hướng tinh đó như thế nào.

Lấy thí dụ như 1 nhà trong vận 8, có hướng tinh Nhị hắc gặp thủy, cho nên nhà này vừa bị hao tiền, vừa thêm bệnh tật nhiều, nhất là về tỳ vị, sảy thai, hỏa hoạn, hình ngục, tai nạn xe cộ. Trong nhà dễ có quả phụ hoặc ni cô...

Cho nên đối với những Hướng tinh là khí suy, tử thì lại nên đóng ở những chỗ cao ráo hoặc yên tĩnh. Có như thế thì mới tránh nỗi họa mà thôi. Còn nếu như khí suy, tử của Sơn tinh mà còn đóng ở những nơi có núi hay nhà cao, khí suy tử của Hướng tinh đóng ở những nơi có thủy hoặc cửa nẻo ra vào nhà thì tức là cảnh “HUNG TINH ĐẮC CÁCH”, tai họa còn khủng khiếp hơn là cách cục “Thượng Sơn, Hạ Thủy” nữa.

Nói tóm lại thì sinh, vượng khí của Sơn tinh phải đóng ở những chỗ cao ráo, còn sinh, vượng khí của Hướng tinh cần gặp thủy. Nếu được như thế là nhà có phúc, có lộc, còn nếu ngược lại là cảnh bần tiện, nghèo hèn. Cho nên người học Huyền không phải dựa vào những tiêu chuẩn này mà chọn phương lập hướng cho đúng, tức là phải kiếm cho được những nhà đắc “vượng Sơn, vượng Hướng” (hay “Đáo Sơn, Đáo Hướng”), và phải xa lánh những nhà có cách cuộc “Thượng Sơn, Hạ Thủy” mới được. Ngoài ra cũng cần phải để ý, không bao giờ để cho những khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh có thể trở thành “Hung tinh đắc cách” mà gieo rắc tai họa cho người ở trong nhà được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách Thượng Sơn Hạ Thủy trong Phong thủy Huyền Không

Cách sửa nóc nhà không tốt –

Gần đây, khắp nơi đều xuất hiện không ít nhà mang dáng dấp nước ngoài. Những nhà này chú trọng nhất là thiết kế mà không chú ý đến phong thủy tốt hay xấu. Không những các công trình công cộng có xu hưống này mà ngay cả nhà riêng cũng không phải ngoại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

lệ. Chính vì vậy mà xuất hiện những ngôi nhà rất hung về mặt phong thủy.

07.09.23.09.11mai-nha-theo-phong-thuy

Đặc biệt là nóc nhà tam giác có độ nghiêng rất lớn và nóc nhà có một mặt nghiêng trở nên rất phổ biến. Nóc nhà vốn dĩ rất ít sinh hung tướng; tuy nhiên đó là chỉ những ngôi nhà bình thường, còn với những nóc nhà biến dạng thì rõ ràng đã sinh hung tướng. Đó là vì nó đã quá lệch về một hướng. Những ngưòi sống lâu trong nhà có nóc như vậy sẽ bị mắc bệnh hoang tưởng, thần kinh quá nhạy cảm và chứng u sầu. Dưới đây là các nóc nhà biến dạng có hung tướng va cách sửa để hóa giải.

Nóc nhà hình tam giác: nóc nhà hình tam giác và độ nghiêng lớn sẽ làm cho luồng khí ra vào nhà trở nên không bình thường. Tốt nhất là nên cắt một nửa nóc nhà rồi xây một nóc khác nhô ra ngoài, như vậy vừa đẹp là vừa hợp phong thủy.

Nóc nhà có một mặt nghiêng (một mặt dài hơn mặt còn lại): nóc nhà như vậy có một khuyết điểm, đó là khiến cho ánh nắng gay gắt của mặt trời chiếu quá nhiều vào nhà, điều đó cũng có nghĩa là việc hấp thu khí bên ngoài sẽ bị lệch, không cân đối và vì thế mà nhịp sinh học của cơ thể cũng không bình thường. Cách sửa là nâng cao mặt dài của nóc nhà lên cao thêm 3m so với mặt đất, đồng thời xây nóc ở mặt còn lại, 3m là lí tưởng nhất. Nếu nóc nhà có một mặt nhô ra quá dài thì cần phải có cột trụ.

Nóc nhà bằng phẳng: nhà xây bằng khung sắt thép và xi mảng hầu như đều thuộc loại này. Do nóc nhà bằng phang nên dẫn nhiệt càng nhanh, vì vậy trong phòng rất nóng bức (vào mùa hè) hoặc rất lạnh (nếu vào mùa đông), điều này có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con người. Nếu xây bằng gỗ thì nên nâng nền cao lên. Nếu tường trong phòng đều làm bằng nhựa thì nên đổi thành vải hoặc gỗ tự nhiên. Phòng xây thêm, nếu là phòng xây theo kiểu phương Tây thì có thể dỡ phần mới xây thêm đi, thay bằng tường gỗ. Nếu lát nền bằng gỗ nữa thì cảm giác sẽ thay đổi hoàn toàn.

Không chỉ là nóc nhà biến dạng mà bất kỳ nóc nhà bị dột nào thì cũng sinh ra hung tướng. Khi bị dột thì phải nhanh chóng sửa lại. Không khó liên tưởng đến việc biến nóc nhà thành bê bơi, điều này tất nhiên cũng không tốt. Màu sắc của nóc nhà cũng nên chú ý, nếu là biệt thự thì không có vấn đề gì lớn, nhưng cũng không nên dùng màu sắc kỳ quái không phù hợp. Làm như vậy không những ảnh hưởng đến phong thủy mà còn bị mọi người xung quanh phê phán.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sửa nóc nhà không tốt –

Đền Đồng Nhân - Hà Nội

Đền Đồng Nhân còn có tên thường gọi khác là đền Hai Bà Trưng hay đền Trưng Nữ Vương. Đền được dựng từ năm 1160 đời vua Lý Anh Tông ở phường Bố Cái
Đền Đồng Nhân - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Đồng Nhân còn có tên thường gọi khác là đền Hai Bà Trưng hay đền Trưng Nữ Vương. Đền Đồng Nhân được dựng từ năm 1160 đời vua Lý Anh Tông ở phường Bố Cái, tức là bãi Đồng Nhân, bên bờ sông Hồng. Năm 1819, vì bãi bị lở, dân dời đền vào khu vực trường Giảng Võ cũ của thời Lê, thuộc đất thôn Hương Viên, tổng Thanh Nhàn huyện Thọ Xương tức địa điểm hiện nay tại số 12 phố Hương Viên, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Đền được xây dựng vào năm 1142 dưới triều vua Lý Anh Tông, Hai bà quê ở Mê Linh, đất Phong Châu. Chị là Trưng Trắc, em là Trưng Nhị. Lúc bấy giờ Thái thú nhà Hán là Tô Định tàn bạo, giết hại Thi Sách, là chồng của bà Trưng Trắc. Hai bà phất cờ nổi dậy và được dân chúng ở các nơi cùng hưởng ứng đánh đuổi quân Tô Định lấy được 65 thành trì ở Lĩnh Nam, tự xưng làm vua. Về sau, nhà Hán sai tướng là Mã Viện sang đàn áp, hai bà chống không nổi phải rút về giữ đất Cẩm Khê, sau cùng lên núi Thường Sơn và tự vẫn.

Cũng có thuyết cho rằng Hai Bà cùng nhảy xuống sông Hát Giang tự vẫn, sau đó khi thiêng hóa thành hai tảng đá trắng trôi trên sông Hồng về bến bãi Đồng Nhân, đêm thường phát sáng rực rỡ. Dân làng thấy vậy, bèn lấy vải đỏ rước tượng bà và lập đền thờ Hai Bà ở ngay bãi Đồng Nhân ven sông. Tương truyền tượng đầu đội mũ trụ, thân mặc áo giáp, hai tay giơ cao chỉ lên trời. Vua đã phát hai đôi ngà trang trí và hai pho tượng voi để thờ Hai Bà.

Do bãi sông bị lở dần, đền có nguy cơ bị đổ, dân phải dời về xã Đại Từ. Đến năm Gia Long 18 (1819) đền mới được chuyển vào tại Hương Viên, trên nền khu Võ Sở (thời Lê dùng làm nơi luyện và thi võ). Dân làng Đồng Nhân ở ngoài bãi cũng di chuyển vào đó và thờ cúng Hai Bà.

Phía trước mặt đền có hồ bán nguyệt, đường vào qua 4 cột trụ gạch đồ sộ, cây cối sum sê, bên trái là sân rộng, dưới bóng đa có tấm bia đá đặt trên lưng rùa. Khu đền thờ hiện nay được chia làm hai phần: đền thờ Hai Bà và chùa thờ Phật.

Đền Đồng Nhân kiến trúc theo kiểu “nội Công ngoại Quốc”, gồm tiền tế, đại bái và hậu cung. Tiền tế 7 gian. Trong tiền tế được bày 2 voi gỗ sơn đen, ngà của voi là ngà thật. Đây là 2 voi tượng trưng cho voi của Hai Bà cầm quân ra trận. Bên cạnh đó là các bức hoành phi, câu đối ca ngợi sự nghiệp cùng công đức của Hai Bà. Tòa bái đường được đặt ngai thờ và 1 tấm khảm thể hiện hình ảnh Hai Bà cưỡi voi đánh giặc.

Phương đình Chùa Đồng Nhân
Phương đình Chùa Đồng Nhân

Bên cạnh đó có nhang án, hoành phi, câu đối… Trong hậu cung đặt tượng Hai Bà cùng 6 tượng nữ tướng dàn hai bên, trong đó là các tướng Lê Chân, Hòa Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính và Bát nạn Công chúa Phạm Thị Côn. Hai Bà và các tướng lĩnh được thờ như nhiều nơi trên đất nước như ở đền thờ Hai Bà ở Hát Môn (huyện Phúc Thọ), ở Phụng Công (Hưng Yên), ở Mê Linh (huyện Mê Linh)… và có tới hơn bốn trăm nơi thờ các vị tướng của Hai Bà.

Trên bệ đá cao khoảng một mét là tượng Hai Bà bằng đất luyện, tư thế ngồi. Bà chị Trưng Trắc mặc áo vàng, bà em Trưng Nhị mặc áo đỏ, đầu đội mũ phù dung, tượng to hơn người thật, tay giơ cao trước mặt như đang hiệu triệu quần chúng, Hai bên là tượng12 nữ tướng đã theo Hai Bà khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định, rửa nhục nước, trả thù chồng.

Hàng năm vào mồng 6 tháng 2 âm lịch, nhân dân làng Đồng Nhân và nhân dân Hà Nội mở lễ hội kỷ niệm Hai Bà Trưng (ngày rước tượng về thờ) theo sự tích đền và chính là ngày Hai Bà Trưng tuẫn tiết vì nghĩa lớn của dân tộc. Cứ đến ngày mồng 5 tháng 2, dân làng Phụng Công (Văn Giang, Hưng Yên), nơi cùng thờ Hai Bà sang đền Đồng Nhân, cùng người dân Đồng Nhân rước lễ, lấy nước giữa dòng sông về tắm tượng. Lễ hội ở đền Đồng Nhân cũng như các di tích khác đều nhằm tưởng niệm những anh hùng dân tộc, những người có công với nước với dân. Qua lễ hội biểu hiện rõ tình cảm “uống nước nhớ nguồn” tâm linh người Việt. Đền đã được công nhận di tích lịch sử – văn hóa.

Đền Đồng Nhân đã được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia ngày 28-4-1962.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Đồng Nhân - Hà Nội

Để phòng khách thu hút nhân khí, tài khí

Phòng khách là nơi vượng khí hội tụ và quyết định chủ nhà có quý nhân phù trợ hay không, nên cần sự yên tĩnh, ổn định, không được để phòng khách thành đường đi có người qua lại quá nhiều, khiến khách bị quấy nhiễu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cảm nhận của khách về căn nhà chủ yếu thông qua phòng khách. Một phòng khách đẹp không chỉ để lại ấn tượng tốt cho khách, giúp ích cho công việc và các mối quan hệ, mà chủ nhà còn cảm thấy tự hào, thoải mái, yêu mến ngôi nhà của mình hơn. Do đó, phòng khách được cả chủ nhà và kiến trúc sư ưu ái.

Thông thường, phòng khách được thiết kế ở nửa trước tầng 1 ngôi nhà, để tiện việc đón tiếp khách. Không gian phòng khách rộng rãi hơn các phòng khác. Nội thất phòng khách được chú trọng đầu tư hơn... Nhìn chung, những điều này phù hợp với yêu cầu của khoa học phong thuỷ.

Phòng khách kề ngay với cửa chính sẽ tiếp nhận “khí” (năng lượng) tốt từ cửa chính. Bởi lẽ, cửa chính là nơi nạp khí chính cho toàn bộ ngôi nhà, luôn được yêu cầu phải đặt tại phương vị tốt, có hướng tốt để đón nhận sinh khí. Hướng cửa tốt ở đây thường được xác định theo mệnh quái chủ nhà, người mệnh Đông tứ (Khảm, Ly, Chấn, Tốn) thì 4 hướng tốt là: Đông, Đông Nam, Nam và Bắc; 4 hướng còn lại là 4 hướng tốt của người mệnh Tây tứ (Càn, Khôn, Cấn, Đoài). Tuỳ từng mệnh quái mà các hướng tốt được gọi là Sinh khí, Diên niên, Thiên y hay Phục vị. Ví dụ: với người mệnh Khảm thì hướng Bắc là Phục vị, hướng Nam là Diên niên, hướng Đông là Thiên y, hướng Đông Nam là Sinh khí; còn lại 4 hướng xấu là: Tây Bắc (Lục sát), Tây Nam (Tuyệt mệnh), Đông Bắc (Ngũ quỷ), Tây (Hoạ hại).

  

Trường hợp hướng cửa xấu (mỗi hướng nêu trên bao gồm 3 cung, mỗi cung lại có tính chất tốt xấu riêng) thì cần tìm cách hoá giải như treo gương bát quái để làm thay đổi dòng khí, chọn hướng bàn thờ, hướng bếp phù hợp với hướng cửa, hoặc mở thêm cửa phụ, cửa sổ. Chẳng hạn, hướng cửa phạm Tuyệt mệnh thì xoay bếp về hướng Thiên y, bởi Thiên y chế được Tuyệt mệnh; hướng cửa phạm Ngũ quỷ thì xoay bếp về hướng Sinh khí (Sinh khí giáng Ngũ quỷ); hướng nhà phạm Lục sát thì xoay bếp về hướng Diên niên (Diên niên yểm Lục sát). Hoặc kê bàn ghế trong phòng khách ở hướng tốt; sử dụng các đồ vật và màu sắc trợ sinh cho mệnh chủ nhà, đồng thời mang ý nghĩa cát tường; đặt các vật khí phong thuỷ có tác dụng tăng tiến tài lộc, phát triển sự nghiệp, tiêu giảm dòng khí xấu…

Phòng khách kề ngay với cửa chính còn tiếp nhận được nhiều ánh sáng tự nhiên. Tuy nhiên, phòng khách không nên quá sáng, sẽ gây bất lợi cho nam giới. “Sáng” ở đây bao gồm ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn và màu tường, màu đồ đạc. Gam màu sáng không nên vượt quá 3/4 cảnh sắc trong phòng. Ngược lại, nếu ánh đèn tối hoặc màu tường tối sẽ ảnh hưởng đến sự minh mẫn, làm cho con người phản ứng chậm chạp, thiếu ý chí vươn lên. Gam màu tối không nên vượt quá 1/2 cảnh sắc trong phòng.

Về màu sắc, màu sắc trong phòng khách phải phù hợp với phương vị và mệnh quái chủ nhà (xem Đầu tư Bất động sản số 04 ra ngày 28/1/2013), trong đó trần nhà nên có màu trắng hoặc màu nhạt so với màu tường, tránh tình trạng “đầu nặng, chân nhẹ”, ở lâu không có lợi. Lưu ý, màu sắc không nên đơn điệu, vì nó làm cho con người thiếu tính tích cực, nhưng màu sắc quá nhiều có thể khiến cho tinh thần con người rối loạn. Chỉ nên trang trí màu sắc từ 2 đến 3 loại, những màu sắc khác nếu có chỉ là điểm xuyết để căn phòng thêm sinh động hoặc đồ vật đó được nổi bật.

Màu sắc cũng như ánh sáng trong phòng khách phải tạo được không khí ấm cúng, gần gũi, trong đó đèn nên được lắp âm trần, âm tường hoặc hắt ngược lên trần để không gây chói mắt. Đèn chính của phòng khách nên là những loại đèn mang lại sự sang trọng như đèn chùm bằng pha lê.


Quay trở lại vị trí của phòng khách, nếu nằm ở phía sau phòng ngủ hay nhà bếp sẽ để lại ấn tượng xấu cho khách khi phải đi qua những chỗ riêng tư như vậy và có cảm giác cửa chính ở phía sau nhà. Theo phong thuỷ, phòng khách phía sau nhà gây bất lợi cho việc “tàng phong tụ khí”, dễ làm cho người ở có vận thế đi xuống, sự nghiệp khó được thành tựu, tài vận thất thoát, bí mật riêng tư của gia chủ bị tiết lộ.

Phòng khách là nơi vượng khí hội tụ và quyết định chủ nhà có quý nhân phù trợ hay không, nên cần sự yên tĩnh, ổn định, không được để phòng khách thành đường đi có người qua lại quá nhiều, khiến khách bị quấy nhiễu.

Về diện tích, phòng khách rộng rãi sẽ có lợi cho sự lưu thông khí, tụ được nhiều vượng khí. Điều này đặc biệt tốt khi phòng khách đảm nhiệm thêm các chức năng khác như phòng sinh hoạt chung của gia đình. Phòng khách nhỏ hẹp, nhất là khi trần nhà thấp sẽ không mang lại cảm giác thoái mái cho gia chủ cũng như khách đến thăm nhà, gây khó khăn trong việc tạo lập các mối quan hệ, từ đó ảnh hưởng đến sự nghiệp và tài vận.

Những phòng khách được bố trí hợp lý, thân thiện, tạo cảm giác ấm cúng, hợp phong thuỷ sẽ thu hút được nhiều khách khứa, bạn bè đến nhà, qua đó mở rộng và duy trì các mối quan hệ. Khách đến nhà cũng có nghĩa là “nhân khí”, “tài khí” đến nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Để phòng khách thu hút nhân khí, tài khí

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương. Tình yêu không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ hai phía. Hãy tham khảo bài viết sau bạn nhé
Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương. Tình yêu không phải lúc nào cũng bắt nguồn từ hai phía. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp tình yêu chỉ xuất phát từ một người. Mối tình ấy vẫn thường được gọi là tình đơn phương.

Có nhiều người chọn cách yêu đơn phương khác nhau. Có người chọn cách âm thầm, lặng lẽ quan tâm tới người kia, theo dõi từng bước đi của người ấy và không bao giờ tiết lộ tình cảm của mình. Tuy nhiên, cũng có người dù biết đối phương không yêu mình nhưng vẫn thể hiện tình cảm của mình. Nhưng dù chọn cách thể hiện như thế nào, tình yêu đơn phương cũng khiến cho người ta có những cảm giác cô đơn. Nếu bạn cũng đang có một mối tình đơn phương, bạn cho mình thuộc vào trường hợp nào?

Hãy cùng đọc những câu nói hay về yêu đơn phương dưới đây để xem có ai đang cùng tâm trạng với bạn nhé.

Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

1. Đơn phương là thế, dù rất thích, rất muốn bày tỏ nhưng bản thân không cho phép. Vì em sợ rằng một mai sẽ không còn là bạn mà là người dưng.

——–

2. Có bao giờ, bạn nhấc máy chờ nghe giọng nói ấm áp của một người để rồi… lặng lẽ mỉm cười sau những tiếng tút dài trong vô vọng và tự dối lòng rằng, chắc người ta đang bận đó thôi.

3. Người không biết quý trọng mình không đáng để mình tiếp tục cho đi tình yêu vì cuối cùng người bị tổn thương nhiều nhất sẽ là mình mà thôi.

4. Vì hãy yêu thương nhau khi còn có thể nên anh đâu thể bỏ hình ảnh em ra khỏi trái tim anh.

5. Có những nỗi nhớ không được đặt tên, có những yêu thương không được gửi trao nhưng vẫn lâng lâng một niềm hạnh phúc vì được yêu đúng cảm xúc trái tim.

6. Sợ nhất là khi ta lấy hết dũng cảm để nhắn tin cho một người, Để rồi trả lại là sự im lặng lạnh người hay câu nói vô tình: ” Đừng làm phiền tôi nữa”.

7. Em không muốn đón nhận anh, cũng không sao. Không được gặp em cũng chẳng sao cả… Nhưng hãy để cho anh được biết em vẫn ổn, nhé!.

8. Có phải em quá ngốc, vì em mà anh chẳng thèm đoái hoài tới tình cảm của em?.

9. Đôi khi việc lặng lẽ đi sau một người dõi theo từng bước chân của người ấy bằng cả trái tim đã có thể gọi là yêu.

10. Trời cho em đôi mắt là để nhìn những điều tốt đẹp. Vậy sao cứ nhìn anh hoài rồi lặng lẽ cụp mi khi người ra đi lạnh nhạt.

11. Có một người, dạy bạn thế nào là yêu nhưng không yêu bạn. Có một người, trao cho bạn hàng ngàn nỗi nhớ nhưng chẳng bao giờ nhớ về bạn.

12. Anh hiểu rằng, khi em chẳng nhìn thấy tim anh thì tình yêu của anh có lớn đến bao nhiêu vẫn chỉ là một số 0 tròn trĩnh.

13. Vì em yêu anh thật lòng, trước hàng trăm lí do từ bỏ. Vậy nên đừng hỏi vì sao em luôn cố tìm ra một lí do để tiếp tục yêu.

14. Đã có lúc em nhớ lắm nhưng vẫn giả vờ không có gì, muốn gặp lắm nhưng vẫn cố gắng kiềm chế. Em thích lắm nhưng vẫn nói chỉ là bạn bè thôi. Muốn bày tỏ tình cảm lắm nhưng lại sợ không được đáp trả.

15. Dù anh cứ hững hỡ với tình cảm của em nhưng xin đừng lạnh lùng quá như thế, đừng cắt đứt mọi liên lạc, để cho em cảm giác rằng mình đáng ghét đến thế này.

16. Em sợ tất cả chỉ là nhất thời, chỉ là cảm xúc bộc phát, chỉ là cái gì đó không rõ ràng. Sợ khi yêu rồi sẽ lại phải chấp nhận bị bỏ quên.

17. Anh và em như hai đường thẳng song song không một tia hy vọng.

18. Có một người, với bạn là tất cả nhưng với người ta bạn chẳng là gì. Có một người, lúc ở bên cạnh có thể bạn sẽ nở nụ cười nhưng khi quay đầu đi bạn đã bật khóc.

19. Vì yêu thương vẫn ở đây và em sẽ là nhà chờ anh về với tình yêu ấy.

20. Tớ muốn được ôm chặt cậu, dù biết trái tim cậu đang gọi tên một người khác. Bởi tớ thật yếu đuối nên tớ muốn dựa vào vai cậu mãi, dù biết cậu chỉ xem tớ là một người bạn thân.

Ai cũng muốn có cho mình một tình yêu trọn vẹn, tuy nhiên, tình cảm của con người là thứ mà chúng ta không thể nào điều khiển được. Lỡ yêu một người, cho dù không nhận được tình cảm đáp lại, cho dù biết càng yêu đậm sâu càng làm cho bạn thân đau khổ thì người ta vẫn cứ muốn yêu. Với những ai đang yêu đơn phương, sau khi đọc những câu nói hay về yêu đơn phương, chúng tôi hy vọng đã an ủi bạn được phần nào cho những lúc cô đơn. Đây cũng là một lời động viên đến bạn rằng biết đâu một ngày nào đó người ấy sẽ thấu hiểu tình cảm của bạn và đáp lại tình cảm ấy. Hoặc biết đâu một ngày nào đó, bạn sẽ nhận ra một nửa đích thực của riêng mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay về tình yêu đơn phương

Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Một bài viết trình bày bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi rất hay! Vương Đình Chi là một bậc thầy tử vi!
Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vương Đình Chi phái Trung Châu có phong cách đoán mệnh khá đặc biệt, thường căn cứ vào tinh thần của mệnh tạo (cung Phúc đức), đạo "xu cát tị hung", và nhấn mạnh sự quan trọng của nỗ lực Hậu thiên, để đưa ra lời giải.

Đẩu Số có thể luận đoán xu hướng vận thế Tiên thiên (Thiên vận) của một người, nhưng quyết định những tao ngộ thực tế trong cuộc đời một con người, còn có "Địa vận" và "Nhân vận".

"Địa vận" có quan hệ đến bối cảnh xã hội, điều này cá nhân không kiểm soát được.

Nhưng, "Nhân vận" thì không phải là như vậy. Mỗi cá nhân đều chịu ảnh hưởng từ Cha Mẹ, Thầy, bạn bè,.v.v... lúc lâm sự, sẽ có những phản ứng khác nhau. Đạo "xu Cát tị Hung" (theo cát tránh hung) thực ra chỉ là kiểm soát phản ứng và quyết định của bản thân, để tìm kết quả có lợi hơn cho mình. Vì vậy hành động của con người thuộc Hậu thiên, thường có thể thay đổi vận thế Tiên thiên. Đây chính là Tinh hoa của Tử vi tinh quyết mà Vương Đình Chi được bí truyền.

Cho nên, người nghiên cứu phải tìm hiểu rõ tính chất "hợp Cục nhập Cách" này của Tử Vi Đẩu Số, lúc luận đoán nhất thiết không được chú trọng hoàn toàn vào những hiển thị vận thế Tiên thiên, mà bỏ qua bối cảnh xã hội (Địa vận) và chủ chương hành động của con người (Nhân vận) thuộc Hậu thiên.

Có một người từng viết thư hỏi Vương Đình Chi rằng, nếu nói mệnh vận có thể dựa vào hành động của con người thuộc Hậu thiên để thay đổi, thế có thể chứng minh mệnh vận đã từng thay đổi không? Ví dụ như, dùng Tử Vi Đẩu Số luận đoán, thấy một người năm nào đó bị họa lao ngục, bèn khuyên người này đừng làm việc gì trái pháp luật. Kết quả người này đã bình an vượt qua, nhưng làm sao chứng minh được, nếu anh ta không nghe lời khuyên, thì nhất định sẽ gặp họa lao ngục?

Vấn đề này đúng là rất thâm sâu, nhất là đối với người không biết Tử Vi Đẩu Số, rất dễ nảy sinh nghi vấn này. Vương Đình Chi đã kể một ví dụ thực tế để chứng minh phép "theo cát tránh hung" là sự thực như sau:

Năm 1984, Vương Đình Chi luận đoán cho một thư ký ngân hàng, phát hiện cô ta vào năm 1996 gặp phải một nhóm sao chủ về bệnh ung thư tử cung, bèn khuyên cô ta đi kiểm tra, kết quả trải qua 3 lần xét nghiệm, mới phát hiện có tế bào ung thư ở giai đoạn đầu, lập tức phẫu thuật cắt bỏ. Vương Đình Chi nghĩ, nếu cô ta không làm phẫu thuật vào năm 1985, thì năm 1986 chắc chắn bệnh sẽ phát, nhưng hiện giờ cô ta đã vượt qua được sự hung hiểm của căn bệnh hiểm nghèo. Có lẽ đây chính là ý nghĩa đích thực của việc nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số.

Nếu như nhất định muốn truy cứu câu hỏi nói trên, liên quan tới ví dụ thực tế chứng minh việc tránh được vận xấu như phạm pháp, phá tài, đương nhiên sẽ khó giống như trường hợp tránh bệnh tật, nhưng đương sự cũng không phải là không còn cách nào để tránh.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN THIÊN BÀN

1- Lấy bối cảnh văn hóa xã hội làm nên tảng

Bối cảnh văn hóa xã hội ảnh hưởng đến "cách" luận đoán, đó là điều rất quan trọng cần phải lưu ý khi dùng Đẩu Số để đoán mệnh.

Vương Đình Chi nói: "Nữ mệnh có Thất Sát tọa thủ cung mệnh của Lưu niên, nếu như cung Tử tức của nguyên cục gặp lục sát tinh: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Địa không, Địa kiếp, mà các sao của Lưu niên lại không tốt, chủ về sinh đẻ có nguy cơ". Nhưng luận đoán này đã khiến cho Vương Đình Chi bị hố, ông xem mệnh bàn của người phụ nữ này, hỏi bà ta năm ngoái có sinh con không? Lúc sinh con có bị phiền phức nhiều không? Người phụ nữ trả lời: "Vâng, năm ngoái có sinh con, nhưng sinh đẻ thuận lợi", Vương Đình Chi nhíu mày, người phụ nữ nói thêm: "Có điều tôi dùng phương pháp gây tê toàn thân để sinh con". Thực sự, Ông không biết có phương pháp gây tê toàn thân để sinh con. Chiếu theo lý, "gây tê toàn thân" cũng là có vấn đề rồi, nhưng lúc sinh con người phụ nữ không cảm thấy đau khổ và đau đớn, nên không cho rằng có phiền phức mà thôi.

Sinh con không ưa gặp Phá Quân, chủ về sinh con khó dưỡng. Đây cũng là thuyết của cổ nhân, nhưng Vương Đình Chi cũng bị hớ, đứa con của người phụ nữ này, lúc mới sinh ra được các Bác sỹ dùng kỹ thuật hiện đại chữa trị khiếm khuyết bẩm sinh về Tim cho đứa bé, nhưng người ta không cho đó là tai nạn, cũng không cho rằng đứa bé khó nuôi.

Do đó có thể biết, Tử Vi Đẩu Số chỉ có thể luận đoán xu hướng của một vận mệnh, Hậu thiên có thể thay đổi tính chất của xu hướng này. Nhất là ngày nay khoa học tiến bộ, vốn có thể xoay chuyển vận thế Tiên thiên, những xu hướng mà cổ nhân đã lập thành định luận.

Có thể cử một số ví dụ để chứng minh Tử Vi Đẩu Số không phải là "túc mệnh luận", tức chẳng thể luận đoán ra chuyện "không thể thay đổi được". Bởi vì khuynh hướng Tiên thiên tuyệt đối có thể dùng việc làm Hậu thiên của con người để bổ cứu (như mệnh bàn vừa kể trên, y học hiện đại có thể cứu sống một đứa bé, khiến cho luận đoán "sinh con khó dưỡng" không còn chính xác). Cổ nhân căn cứ bối cảnh xã hội cổ đại để đưa ra luận đoán, rất nhiều trường hợp không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

Cổ nhân nói: "Tham lang Liêm trinh đồng cung, nam mệnh phần nhiều phóng đãng, nữ mệnh phần nhiều đa dâm", nếu cứ y như sách mà nói thẳng, ngày nay như vậy là quá cứng nhắc. Vương Đình Chi kể: ông có quen biết một nhà thiết kế quảng cáo có địa vị khá, cung mệnh là hai sao "Tham lang Liêm trinh" tọa thủ, nếu nói phóng đãng, tính chất cũng chính xác, bởi vì người này "có máu" nghệ thuật, đã từng phiêu bạt khắp nơi, nhưng sự nghiệp lại thành tựu.

Cho nên đặc tính của một đời người tuyệt đối không thể dùng hai chữ "phóng đãng" để khái quát. Đây là do xã hội cổ đại khác với xã hội ngày nay. Thời cổ, những người thích phiêu bạt giang hồ, dù có tài năng cũng khó phát huy, bởi vì xã hội ngày xưa bảo thủ, không ai dám làm "lãng tử", lại không có nghề nghiệp nào tạo cơ hội cho người ta phát huy tài năng nghệ thuật. Nhưng xã hội ngày nay đã khác, có nghề thiết kế quảng cáo để phát triển, đo đó biến thành không phải là "phóng đãng".

Năm xưa, Vương Đình Chi học Đẩu Số với thầy là Huệ Lão, Huệ Lão đã chỉ điểm cho Vương Đình Chi một điều rất hay, ông nói: "Theo kinh nghiệp luận đoán của thầy trong những năm gần đây, nữ mệnh có Phá Quân hóa Lộc ở cung mệnh, dường như đều có khuynh hướng giải phẫu thẩm mỹ". Đương nhiên thời cổ đại không có giải phẫu thẩm mỹ, vì vậy Huệ Lão chỉ nói nhẹ nhàng một câu, mà đã gợi mở rất lớn cho Vương Đình Chi. Sau nhiều năm nghiên cứu vô số mệnh bàn, ông cũng phát hiện ra một số tính chất mới của các tinh hệ.

Năm xưa, Huệ lão rất tán dương hai vị Đẩu Số gia, một vị là Lục Bân Triệu, từng mở lớp dạy Đẩu Số, trước tác Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa, có tặng cho Huệ lão một bộ, Vương Đình Chi lúc đó có chép lại. Một vị khác là Bắc phái cao thủ Trương Khai Quyền, với bộ Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu, tác phẩm của tiên sinh vào thập niên 50 của thế kỷ trước đã có tác dụng mở đường. Phương pháp đoán mệnh của hai vị danh gia đương nhiên đều có sắc thái đặc biệt, họ không giữ bí mật mà công khai sở học, là tài liệu tốt để nghiên cứu Đẩu Số.

Những điều Huệ lão truyền lại cho Vương Đình Chi, có nhiều chỗ khác với Lục Bân Triệu và Trương Khai Quyền. Như Thái âm ở cung Tai Ách, Lục tiên sinh cho rằng chủ về bệnh tiêu chảy kiết lị; còn Huệ lão thì cho rằng chủ về táo bón, hoàn toàn tương phản. Huệ lão từng bảo Vương Đình Chi sưu tập tư liệu để nghiên cứu thêm xem sao.

Do đó có thể thấy, phong cách của bậc danh sư là không khiến cho đệ tử phải sùng bái điều mình bí truyền, như vậy mới khiến cho Tử Vi Đẩu Số phát triển theo hoàn cảnh xã hội.

2- Quan sát toàn diện 12 cung

Kỹ thuật luận đoán thực ra rất đơn giản, trước tiên phải vượt ra khỏi khái niệm "tam phương tứ chính", sau đó phải lưu ý phản ứng giữa các tinh hệ với nhau, tinh hệ A gặp phải tinh hệ B sẽ xảy ra một số tình hình đặc thù nào đó, đây là căn cứ dùng để luận đoán.

Thông thường khi đối mặt với một tinh bàn, người mới học hay mắc một bệnh, đó là xem trọng việc luận đoán "tam phương tứ chính" của cung mệnh, cung Thiên Di, cung Tài bạch, cung Quan lộc một cách thái quá, mà không quan sát tinh bàn một cách tổng hợp. Bởi vì con người ngày nay phần lớn đều có tâm lý chú trọng vấn đề tiền tài và sự nghiệp, xem đó là ưu tiên hàng đầu.

Phương pháp luận đoán như vậy rất dễ rời vào luận đoán vụn vặt. Vương Đình Chi cho bết kinh nghiệm rằng, cần phải tuần tự theo các bước sau đây để quan sát tinh bàn, mới có thể lý giải mệnh vận của mệnh bàn một cách toàn diện.

3- Các bước luận đoán mệnh bàn

Học Tử Vi Đẩu Số, thực ra chỉ cần nắm vững 3 điều:

3.1- Phương pháp an sao
3.2- Tính chất cơ bản của tinh hệ
3.3- Căn cứ vào tinh bàn như thế nào để đoán vận trình.

Tiết này sẽ bàn về điểm sau cùng, mục đích để tạo hứng thú cho người mới học luận đoán, bởi vì rất nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số vẫn không luận đoán được tinh bàn.

3.1- Trước tiên xem cung Phụ Mẫu, rồi xem cung Điền trạch

Từ cung Phụ Mẫu và cung Điền Trạch, có thể luận đoán xuất thân của đương số, và mức độ được hưởng sự che trở của cha mẹ. Như vậy, đến khi quan sát cung mệnh, mới có thể quyết định đương số thích nghi với vận thế sáng lập sự nghiệp "tay trắng làm nên", hay là thích nghi với vận thế giữ gìn, bảo thủ cái đã có.

Điểm này rất trọng yếu, bởi vì, giả dụ một người có cung Phụ Mẫu và cung Điền trạch đều tốt, nhưng khi trong vận bàn lại hiện rõ vận trình "tay trắng làm nên", điều này chứng minh gia đình của đương số rất có thể xảy ra một lần suy sụp. Ngược lại cung Phụ mẫu và cung Điền trạch đều xấu, liên tiếp hai ba vận trình đều có tính bảo thủ, không có sự đột phá, thì rất khó luận đoán đương số có cơ hội tốt để xoay chuyển hoàn cảnh.

3.2- Đồng thời quan sát cung Mệnh và cung Phúc đức

Thông thường sao hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Mệnh, là vận trình khá thực chất, như hưởng thụ vật chất, tài phú nhiều ít, sự nghiệp thuận lợi hay trở ngại. Còn sự hiển thị ở "tam phương tứ chính" của cung Phúc đức là hưởng thụ về hoạt động tinh thần và tư tưởng của một người.

Nếu tính chất của hai cung vị đều tốt, người này đương nhiên chẳng có gì bất lợi, hơn nữa còn có thể luận nhất định đương số có một gia đình tốt. Trái lại, nếu cung Mệnh tốt, còn cung Phúc đức lại khá tệ, như vậy cần phải chú ý hôn nhân của đương số có thể không như ý, hay có khả năng đương số chỉ dựa vào may mắn mà giầu có, nên sự hưởng thụ tinh thần của đương số chẳng cao thượng, hoặc cảnh ngộ của đương số tuy khá tốt, nhưng bị bệnh tật đeo đẳng.

3.3- Căn cứ vào sự quan sát hai hạng mục trên để tìm ra cung nào có điểm đặc biệt đáng chú ý

Nếu nghi ngờ đương số hôn nhân bất lợi, thì cần phải kiểm tra cung Phu Thê, nghi ngờ đương số mắc bệnh mãn tính khó khỏi thì cần phải kiểm tra cung Tai Ách, nhất định phải tìm ra một số tinh hệ từ tinh bàn, đủ để giải thích tính chất phối hợp của cung Mệnh và cung Phúc đức, sau đó mới có thể đưa ra luận đoán.

Xin đưa ra một ví dụ thực tế:

- Nữ mệnh, cung mệnh Thiên cơ Thái âm, trong đó Thiên cơ hóa Khoa, Thái âm hóa Lộc tại cung Thân
- Hội Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch tại Thìn, là "Hóa Lộc Hóa Khoa Hóa Quyền hội", trong Đẩu Số là một kết cấu tốt.
- Cung Phúc có Cự môn hóa Kị, hội hợp với Phu thê gặp Hồng Loan, Hàm trì, đối cung lại gặp Thiên diêu (tức cung Tài)
- Kết cấu tinh hệ này, biểu thị khả năng do sinh hoạt hôn nhân gây nên sự đau khổ tinh thần, vì vậy cần phải kiểm tra tổ hợp tinh hệ ở cung Phu Thê.
- Thái dương Lộc tồn tọa thủ cung Phu ở Ngọ, chồng chẳng nghèo, nhưng hội Cự môn hóa Kị ở cung Phúc tại Tuất, xấu nhất còn hội hợp Thiên lương, Thiên hình, thêm sao Hỏa tinh ở đối cung (tức cung Quan ở Tý), tổ hợp tinh hệ này biểu thị không có duyên vợ chồng
- Nhưng không có duyên vợ chồng có mấy loại tính chất. Ví dụ như Phu và Thê không cùng chí hướng, gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, chồng có tình nhân bên ngoài, chồng mắc nhiều bệnh,.v.v... Muốn quyết định thuộc loại tính chất nào, chỉ xem 12 cung của mệnh bàn, thì không có cách nào giải quyết được, mà càn phải xem Đại vận và Lưu niên.

3.4- Căn cứ tình hình của các cung để luận đoán vận hạn

Xem xét vận thế của Đại hạn và Lưu niên, thường thường có thể bổ sung cho luận đoán, và có cái nhìn tinh bàn một cách tổng hợp. Như trong ví dụ trên, chỉ cần xem xét mỗi một Đại hạn của cung Phu Thê, là có thể đưa ra luận đoán chuẩn xác.

Đại hạn Canh Tuất từ 25 - 34 tuổi, cung Tuất biến thành cung Mệnh của Đại hạn, cho nên cung Mậu Thân (vốn là cung mệnh của nguyên cục, tức thiên bàn) biến thành cung Phu Thê của Đại hạn.

Sao Lộc tồn của Đại hạn bay vào cung Phu Thê (tức lưu Lộc, bởi vì Lộc tồn của Đại hạn Canh Tuất ở cung Thân), nhưng đồng thời cũng có lưu Kình và lưu Đà của Đại vận giáp cung (gọi tắt là vận Kình vận Đà).

Cung Phu thê của nguyên cục có hiện tượng giáp Kình giáp Đà, thấy khéo trùng hợp, nhưng khéo trùng hợp như vậy tất phải có lý lẽ của nó. Vả lại, cung Phu thê của Đại vận còn hội hợp Thiên đồng hóa Kị, do đó có thể khẳng định, trong Đại hạn này vợ chồng tất có vấn đề.

Xem xét tiếp, thì phát hiện vào năm Quý Hợi 1983, cung Phu thê của Lưu niên có vấn đề lớn. Cung Phu thê của Lưu niên ở cung Dậu, "Tử vi Tham lang" tọa thủ, nhưng Tham lang hóa Kị vào năm Quý, đồng thời có lưu Kình của Đại hạn đồng cung. Sát diệu hội hợp Đà la của cung Tị, lưu Kình của cung Sửu, cho tới các sao Vũ khúc, Phá quân, Liêm trinh, Thất sát. Kết cấu tinh hệ kiểu này, có tính chất là "không có niềm vui gia đình", xấu nhất tức là "lưu Kình của Lưu niên" xung động "lưu Kình của Đại hạn", đồng thời xung khởi Hóa Kị của tinh hệ "Tử vi Tham lang".

Do đó luận đoán sơ bộ là: sinh hoạt vợ chồng của người này hoàn toàn không hòa hợp. Sau khi hỏi thăm thì biết năm Quý Hợi kết hôn, sau khi kết hôn một tháng thì phát hiện người chồng bị mắc chứng rối loạn khả năng tính dục.

Kiểm tra cung Tai Ách của người chồng, thì thấy "Thiên cơ Thái âm" tọa thủ, có Linh tinh Đà la đồng cung, hội hợp Thiên lương và Xăn xương hóa Kị, đồng thời "tam phương tứ chính" lại có các sao Hàm trì, Hồng loan, Đại hao, còn có thêm Âm sát. Tổ hợp tinh hệ dạng này, theo kinh nghiệm từ Vương Đình Chi, là thuộc chứng quá túng dục mà dẫn đến âm phận hư tổn. Có thể luận đoán, thời kỳ trước hôn nhân, người chồng này đã rất trác táng. Vì vậy, Vương Đình Chi đề nghị người chồng gặp một vị lương y trứ danh để chữa trị, dưỡng âm bồi nguyên khí. Kết quả đầu năm Ất Sửu 1985, đôi vợ chồng nọ tìm đến Vương Đình Chi để cám ơn đã cữu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của họ.

3.5- Kỹ thuật quan sát tình hình Cát Hung của các cung

Dựa vào các bước quan sát đã thuật ở trên, thông qua một ví dụ thực tế, tin rằng bạn đọc đã có cái nhìn sơ lược về phép tắc luận đoán tinh bàn, nhưng còn cần phải thành thục một số kỹ thuật.

Dưới đây, tôi xin trình bầy các kỹ thuật quan sát để bạn đọc tham khảo

- Mượn sao an cung

Khi một cung vị không có chính diệu, cần phải mượn sao của đối cung nhập vào bản cung, gọi là "mượn sao an cung". Về điểm này, thông thường các sách Đẩu Số chỉ đề cập sơ qua, nhưng có hai then chốt mà lâu nay không có ai bàn tới.

Khi "mượn sao an cung", ắt cần phải mượn toàn bộ tinh hệ của đối cung để đưa vào bản cung (vô chính diệu), mà không chỉ đưa chính diệu để an cung mà thôi, đây là then chốt thứ nhất.

Ví dụ tinh bàn của một Nam mệnh: cung Phu Thê ở Thìn, vì vô chính diệu có Tả phụ Đà la đồng độ, nên phải mượn tinh hệ của đối cung, đó là cung Quan có Cơ Lương, Hỏa tinh, Hữu bật đồng độ tại cung Tuất, sau khi "mượn sao an cung", kết cấu của cung Phu Thê biến thành Thiên lương, Thiên cơ hóa Kị, Hỏa tinh, Đà la, Tả phụ, Hữu bật.

Nhưng điểm này có quan hệ không lớn, bởi vì tính chất tinh hệ của đối cung vốn đã đủ gây ảnh hưởng đến bản cung. Tức dù không "mượn sao an cung", tính chất tinh hệ của bản cung và đối cung hợp chiếu, đại khái cũng giống tính chất sau khi "mượn sao an cung". Nhưng có một then chốt khác, đó là khiến toàn bộ cung Phu Thê phát sinh biến hóa.

Khi tìm "tam phương tứ chính" của một cung vị, nếu cung vị nào đó không có chính diệu tọa thủ, thì cung vị này vẫn phải "mượn sao an cung", sau đó mới hội hợp với bản cung. Đây là then chốt thứ hai. Nhiều người sau khi đọc rất nhiều sách Đẩu Số, vẫn không cách nào luận chuẩn xác, là do không biết then chốt này.

Vẫn từ ví dụ trên, cung Phu thê ở cung Thìn, hội hợp với hai cung Thân - Tý, lại xung hợp với đối cung (Tuất), cấu tạo thành "tam phương tứ chính". Hai cung Thân Tuất đều có chính diệu, không xảy ra vấn đề gì. Nhưng cung Tý chỉ có một sao Văn Khúc, không thuộc nhóm chính diệu, do đó cần phải nhìn đến đối cung của cung Tý là cung Ngọ để "mượn sao an cung", mượn Thiên đồng, Thái âm, Linh tinh, Kình dương.

Tới đây, toàn bộ tinh hệ của cung Phu Thê biến thành cách: "tứ sát kèm sát", tức là Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, lại có thêm tổ hợp chính diệu Thiên cơ (hóa Kị), Thiên lương, Thiên đồng Thái âm, Thái dương (hóa Khoa), Cự môn. Có thể luận đoán sinh hoạt hôn nhân không được tốt đẹp, tuy không nhất định là phải ly hôn, nhưng có khả năng dị mộng đồng sàng. Thái dương hóa Khoa còn có thêm Cự môn, chủ về vợ chồng giữ gìn thể diện, cho nên dù có oán trách chồng, nhất định cũng không nói lời chia tay.

Từ ví dụ trên có thể thấy, "mượn sao an cung" là một đại pháp môn trong phép luận đoán Đẩu Số. Nhất là hai then chốt kể trên, điều mà xưa nay cổ nhân xem là "bí pháp", không dễ gì truyền ra ngoài.

Các sao của Thiên bàn và Nhân bàn ảnh hưởng lẫn nhau

Cần chú ý, tính chất của một nhóm tinh hệ, thường thường có thể bị tính chất của một nhóm tinh hệ khác phá hoại, đây gọi là "tinh diệu hỗ hiệp".

Về điểm này có thể đơn cử một ví dụ thực tế để chứng minh:

Nữ sinh trung học, sinh năm Giáp Tý 1994 tham dự cuộc thi Trung học, mệnh tại Tý có tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc", Linh tinh, Hàm trì, Đại hao đồng độ tọa thủ, hiện đang ở Đại vận Quý Mão.

Chiếu theo Lưu niên của năm Giáp Tý, cung mệnh ở Tý có "Thiên Phủ Vũ khúc", hơn nữa còn có Vũ khúc hóa Khoa năm Giáp, ở hai cung Thân và Ngọ, hội hợp Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, lại có thêm Lộc tồn của cung Ngọ trùng điệp với lưu Lộc của Đại vận ở bản cung. Đây là cách Lộc tinh và Văn tinh hội hợp, tạo thành cách là "Lộc Văn củng mệnh". Theo phép luận đoán thông thường, cuộc thi năm nay sẽ không thất bại.

Ở đây cần chú ý "cung Mệnh của lưu niên" (cung Tý), có hai tạp diệu Hàm Trì và Đại Hao, chúng cùng đồng độ ở một cung, sức mạnh khá lớn, chủ về tình cảm nam nữ mang lại tình cảm không tốt.

Lúc này, cần phải kiểm tra "cung Phúc đức của lưu niên" của cô gái này (tức nguyên tắc đồng thời xem xét cung Mệnh và cung Phúc đức). Cung này ở cung Dần có Tham Lang độc tọa, nhưng đang ở Đại hạn can Quý nên Tham lang hóa Kị; đối nhau với Liêm trinh, cũng đối nhau xa xa với Hồng loan (cung Thân).

Lại thấy cung Dần hội hợp với các sao phụ tá ở hai cung Thân và Ngọ, là Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nói là "đào hoa" tụ về cung Phúc đức.

Trong tình hình này, Vương Đình Chi luận đoán, cô nữ sinh này tuy thành tích học tập không tệ, nhưng đáng tiếc là năm đó đã rơi vào tình huống yêu đương, vì vậy ảnh hưởng đến thành tích thi cử. Cô nữ sinh này cũng vì thi cử thất bại nên mới tìm đến Vương Đình Chi.

Thông qua thí dụ này có thể biết, chỉ vì "cung mệnh của lưu niên" xuất hiện các tạp diệu Hàm trì, Đại hao, khiến cho tính chất của tinh hệ "Lộc Văn củng mệnh" phát sinh biến hóa. Đây là một ví dụ tốt về nguyên tắc: "các sao ảnh hưởng lẫn nhau".

"Sao đôi" xuất hiện thì sức mạnh tăng thêm

Khi luận đoán Đẩu Số, một nguyên tắc quan trọng mà ít người biết, đó là "Kiến tinh tầm ngẫu". Đây là kỹ thuật luận đoán bí truyền của phái Trung Châu, mà Vương Đình Chi được truyền thừa.

Gọi là "Kiến tinh tầm ngẫu" (gặp sao thì tìm đôi), bởi vì trong Đẩu Số có nhiều cặp "sao đôi", khi gặp một mình thì sức mạnh hữu hạn, nhưng khi xuất hiện thành đôi, thì sức mạnh được tăng cường. Về điều này, thực ra cổ nhân cũng đã tiết lộ đôi chút.

Ví dụ cổ nhân đưa ra nguyên tắc: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ thì phải xem Thiên tướng), "phùng Tướng khán Phủ" (gặp Thiên tướng thì phải xem Thiên phủ), bởi vì Thiên Phủ và Thiên Tướng là cặp "sao đôi". Nhưng cổ nhân thích giữ "bí mật", cho nên thường thường chỉ nói sơ qua mà thôi.

Liệt kê một số cặp "sao đôi" để tham khảo:

+ Chính diệu:
- Thiên phủ và Thiên tướng
- Thái Dương và Thái Âm
- Thiên Đồng và Thiên Lương
- Liêm Trinh và Tham Lang

+ Phụ diệu:
- Tử Phụ và Hữu Bật
- Thiên Khôi và Thiên Việt

+ Tá diệu:
- Văn Xương và Văn Khúc
- Lộc Tôn và Thiên Mã

+ Tạp diệu:
- Hồng Loan và Thiên Hỷ
- Hàm trì và Đạo hao
- Long Trì và Phượng Các
- Ân Quang và Thiên Quý
- Tam Thai và Bát Tọa
- Cô Thần và Quả Tú
- Thiên Khốc và Thiên Hư
- Thiên Phúc và Thiên Thọ
- Đài Phụ và Phong Cáo.

Nhưng, như thế nào mới gọi là "sao đôi" xuất hiện? Sức mạnh lớn nhỏ của nó có thể dựa vào nguyên tắc dưới đây để định.

- Loại tình huống có sức mạnh nhất là "sao đôi đồng cung". Ví dụ như tình huống "Thái dương Thái âm" đồng cung tại Sửu, cùng thủ một cung, kết cấu tinh hệ kiểu này có sức mạnh tuyệt đối không thể xem thường.

- Kế đến, loại tình huống có sức mạnh khá nặng là "sao đôi chiếu nhau", ví dụ ở hai cung Thìn và Tuất, thì Thái dương và Thái âm chiếu vào nhau, sự phát huy sức mạnh lẫn nhau của chúng cũng không thể xem thường.

- Tiếp đến nữa là tình huống hội hợp "Song phi hồ điệp thức", tức là "sao đôi" chia ra ở hai bên "hợp cung", ví dụ lấy cung Ngọ làm bản cung, đi nghịch cách 3 cung đến cung Dần gặp Thiên Khốc, đi thuận cách 3 cung đến cung Tuất gặp Thiên Hư, là cặp "sao đôi" Khốc Hư lấy tư cách "song phi hồ điệp" hội hợp với cung Ngọ (là bản cung), đối với cung Ngọ phải chịu sức ảnh hưởng cũng nặng. Nhưng đối với hai cung Dần Tuất mà nói, sự hội hợp của Thiên khốc và Thiên hư so với cung Ngọ thì không có gì quan trọng, bởi vì chúng không thuộc loại hội hợp "Song phi hồ điệp thức".

- Cuối cùng là hội hợp "Thiên tà thức" (kiểu đối lệch). Ví dụ lấy cung Tý làm "bản cung", tương hội với Văn khúc ở cung Thân, và Văn xương ở đối cung (cung Ngọ), đối với cung Tý là "bản cung" mà nói, hai cung vị Thân và Ngọ có vị trí đối nhau không chuẩn, do đó hình thức xuất hiện "sao đôi" kiểu này có sức mạnh hơi kém.

Tóm lại, sức mạnh của các tình huống xuất hiện "sao đôi" theo thứ tự giảm dần như sau:

Đồng cung => Đối nhau.=> Tam hợp hội chiếu => Một ở tam hợp một ở đối cung hội chiếu => Các sao tương hội ở tam hợp cung (như Thiên khốc và Thiên hư ở hai cung Dần và Tuất).

Như đã nói, nguyên tắc vừa thuật được người xưa xem là "bí truyền". Cho nên dựa theo sách cổ để học Đẩu Số, thường thường sẽ biết được sự hội hợp một số sao có tác dụng rất mạnh, nhưng có lúc lại thấy sự hội hợp của chúng không hiển thị tác dụng mạnh như vậy. Đây là vì không biết các hình thức hội hợp vừa kể trên để tính toán sức mạnh hơn kém của chúng.

"Tá cung an sao", "Tinh diệu hỗ thiệp", "Kiến tinh tầm ngẫu", là Vương Đình Chi được sư phụ bí truyền, đây là ba kỹ thuật trọng yếu, dùng để luận đoán tinh bàn của phái Trung Châu. Tiền bối của phái Trung Châu là Lục Bân Triệu khi soạn bộ Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa cũng không chịu tiết lộ những bí truyền này.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN ĐỊA BÀN

Địa bàn tổng cộng có 14 chính diệu. Về cách an, toàn bộ giống như Thiên bàn, trong đó thì phép an sao Tử Vi có khác.

Tử vi của "Thiên bàn" là lấy thiên can của Năm sinh và ngũ hành Dần thủ, để tìm Nạp âm của cung mệnh, rồi lấy Nạp âm ngũ hành để tra Cục số, thì xác định được cung vị của Tử Vi.

Tử Vi của "Địa bàn" cũng vậy, ta lấy thiên can của Năm sinh, và ngũ hành Dần thủ, nhưng không phải để tìm ngũ hành nạp âm của cung Mệnh, mà là tìm ngũ hành Nạp âm của cung Thân. Do đó "Địa bàn" lấy cung Thân làm chủ. Sau đó tra được nạp âm của cung Thân, chiếu theo phương pháp của "Thiên bàn", căn cứ ngũ hành Cục số, để tìm cung vị Tử vi.

Sau khi đã biết "Địa bàn", ta rất dễ xem xét được căn nguyên của thiên tính và bản chất Tiên thiên của mệnh tạo. Nhờ vậy, ta sẽ hiểu tại sao rất nhiều người có địa vị cao quý trong xã hội, nhưng họ lại có những hành vi nhỏ mọn rất là hạ lưu. Đây là vì các sao của cung mệnh tại "Địa bàn" rất tốt, nhưng các sao của cung mệnh ở "Thiên bàn" tiên thiên lại không cao quý cho lắm.

Trái lại, có rất nhiều người nghèo nàn, hoặc không được hưởng một sự giáo dục tốt, nhưng họ lại có tư tưởng rất thanh cao, và hành vi rất đáng khâm phục. Đây là do các sao ở cung mệnh ở "Thiên bàn" phần nhiều là sao xấu, nhưng ở "Địa bàn" lại có nhiều sao rất tốt cung hội chiếu.

Các sao của "Địa bàn" cũng vậy, cần phải chú ý xem chúng nhập miếu hay lạc hãm, sinh vương hay tử mộ, để phân biệt sự cao thấp của chúng.

Xin đơn cử ví dụ, người sinh giờ Tị, ngày 17 tháng 5, năm Quý Sửu, Vương Đình chi tôi chú giải như sau: (sách Tử Vi Đẩu Số giảng nghĩa bổ chú )

Lục tiên sinh chủ trương dùng "Địa bàn" để tìm "căn nguyên tiên thiên". Đây là điểm rất đáng chú ý, không phải là phát biểu của một người hiểu biết nửa vời. Nhưng dùng "Địa bàn" để tính "giao thế thời" thì Lục tiên sinh hoàn toàn không có nhắc đến.

Theo Vương Đình Chi, thì mỗi giờ sinh của một người có thể chia thành "tam bàn" Thiên - Địa - Nhân. Điều này, cần phải căn cứ vào Tổ đức để phân biệt, chứ không nhất định giới hạn trong "giao thế thời".

Liên quan đến phương pháp an sao ở "Địa bàn" và "Nhân bàn", điều mà xưa nay vẫn được coi là "bí truyền", thực ra rất là đơn giản.

Trước tiên, cứ theo phương pháp an sao của mệnh bàn, mệnh bàn này tức là "Thiên bàn", rồi lấy cung Thân của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, dùng can chi của cung Thân để định Cục và Ngũ hành, an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một bàn khác, gọi là "Địa bàn".

Nếu không dùng cung Thân, thì lấy cung Phúc Đức của "Thiên bàn" đổi thành cung mệnh, rồi dùng can chi của cung Phúc Đức để định cục ngũ hành, sau đó an Tử vi và Thiên phủ, như vậy là được thêm một mệnh bàn khác nữa, gọi là "Nhân bàn", nói một cách chính xác thì đây là "nhân bàn của địa bàn".

Nếu cung Mệnh và cung Thân đồng cung, thì "Thiên bàn" và "Địa bàn" hoàn toàn giống nhau. Nếu cung Thân và cung Phúc đức đồng cung, thì "địa bàn" và "nhân bàn của địa bàn" hoàn toàn giống nhau.

Chú ý phân biệt, "Thiên bàn" - "Địa bàn" - "Nhân bàn", chỉ có cung Mệnh là khác cung độ, trong đó 14 chính diệu được bài bố khác nhau, còn các sao khác ở các cung viên đều không thay đổi.

KỸ THUẬT LUẬN ĐOÁN NHÂN BÀN

1- Cung phi động và tác dụng giao thoa của lưu diệu

Nguyên cứu Tử Vi Đẩu Số, nếu chỉ quan sát các sao ở 12 cung "Thiên bàn", thì chỉ có thể luận đoán cách cục cơ bản của mệnh tạo (tức khuynh hương Tiên thiên). Nhưng người có cách cục tốt, chưa chắc Năm hạn nào cũng tốt ; người có cách cục xấu, chưa chắc Năm hạn nào cung xấu. Do đó cần phải mang tinh bàn "phi động" ra để nghiên cứu tỷ mỉ, xem vận thế của Mệnh tạo trong mỗi một Năm hạn. Đây mới là chỗ tinh hoa của Đẩu Số. (Thuyết "phi động" người đầu tiên nói đến là Quan Vân Chủ Nhân trong Tử Vi Đẩu Số tuyên vi).

Đẩu số giống với khoa Tử Bình, cứ 10 năm được coi là một Đại hạn. Đại hạn khởi đầu từ cung mệnh, dương nam âm nữ đi thuận, âm nam dương nữ đi ngược, đếm đến cung vị nào thì đó là cung Mệnh đại hạn 10 năm. Rồi cũng khởi đầu từ cung mệnh của Đại hạn đếm theo chiều nghịch (của chiều kim đồng hồ), bày lần lượt 11 cung còn lại, mà không cần chú ý đến tên gọi gốc của "Thiên bàn".

Giả thiết mệnh tạo là Dương nam, thuộc mộc tam cục, Mệnh lập tại Dần, xét Đại hạn Mậu Thìn 23 - 32 tuổi, cung mệnh của Đại hạn ở cung Mậu Thìn, tức là cung Phúc đức của Thiên bàn tại Thìn, thế là từ cung Mậu Thìn, bầy bố theo chiều nghịch

- Cung Đinh Mão là cung Huynh đệ của Đại hạn
- Cung Bính Dần là cung Phu thê của Đại hạn
- Cung Ất Sửu là cung Tử Tức của Đại hạn
...v.v...
- Cho đến cung Kỷ Tị là cung Phụ Mẫu của Đại hạn

Tới đây, có thể căn cứ vào tổ hợp sao của các cung, tham khảo những điều đã luận thuật ở chương trước để luận đoán, thì có thể biết mệnh tạo trong đại hạn 23 - 32 tuổi sẽ gặp các tình huống cát hung thế nào.

Tinh bàn gốc đã bài bố chỉ là "Thiên bàn", hoặc Địa bàn cố định bất động, lúc muốn luận đoán 12 cung của Đại hạn, còn phải thêm vào các "Lưu diệu" thuộc đại hạn đó. Lưu diệu được dùng trong phái Trung Châu có mấy loại như dưới đây:

1)- Lưu diệu dựa vào thiên can của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Hóa Lộc, lưu Hóa Quyền, lưu Hóa Khoa, lưu Hóa Kị, lưu Lộc (lộc tồn), lưu Dương (kình dương), lưu Đà (đà la), lưu Khôi (thiên khôi), lưu Việt (thiên việt), lưu Xương (xăn xương), lưu Khúc (văn khúc)

2)- Lưu diệu dựa vào địa chi của cung mệnh (đại hạn) để an: lưu Mã (thiên mã)

Theo ví dụ trên:
- Cung mệnh của Đại hạn từ 23 - 32 tuổi là ở cung Mậu Thìn, cho nên can Mậu là can của cung mệnh Đại hạn
- Vì vậy trong Đại hạn này, căn cứ vào can Mậu, thì lưu hóa Lộc là Tham Lang, lưu hóa Quyền là Thái Âm, lưu hóa Khoa là Thái Dương (??? kiểm), lưu hóa Kị là Thiên Cơ, lưu Lộc ở cung Tị, lưu Dương ở cung Ngọ, lưu Đà ở cung Thìn.
- Lại vì Thìn là chi của cung mệnh Đại hạn, cho nên lưu Mã ở cung Dần.

Người mới nghiên cứu Đẩu Số, tốt nhất nên điền các "lưu diệu" vào một tinh bàn mới (Nhân bàn), còn đối với người đã thuộc phương pháp an sao, thì các lưu diệu ở đâu chỉ nhìn một cái thì biết liền, không cần điền vào tinh bàn. Nhất là lúc luận đoán "Lưu niên", "Lưu nguyệt", "Lưu nhật", giả dụ như điền hết các Lưu diệu vào thì cả tinh bàn chi chít toàn sao, sẽ làm rối mắt, đồng thời sẽ làm ảnh hưởng đế sự suy nghĩ tính toán. Do đó thuộc lòng phương pháp an sao là rất quan trọng. Nếu không thì nên lập nhiều tinh bàn - tức là nhân bàn của từng thứ loại.

Khi luận đoán Lưu niên - Lưu nguyệt - Lưu nhật, thì có một nguyên tắc cần phải biết như sau:

1) Phàm có các Lưu diệu thì lấy Lưu diệu làm chủ, các sao ở mệnh bàn gốc (thiên bàn) không xung thì không sinh ra tác dụng (xin nhắc lại là nếu không xung thì không sinh ra tác dụng). Ví dụ như, tinh bàn gốc có Lộc tồn ở cung Tị, lưu Lộc ở cung Thân, cả hai chẳng ở phương vị tam phương tứ chính. Hay như Kinh dương gốc ở cung Ngọ, lưu Dương ở cung Dậu, còn Đà là gốc ở cung Thìn, lưu Đà ở cung Mùi, cung không có quan hệ hội hợp với các sao ở tam phương tứ chính. Cho nên khi luận đoán, Kình dương, Đà la, Lộc tồn của tinh bàn gốc tuy có ảnh hưởng đối với 12 cung của Đại hạn, nhưng tác dụng không lớn. Trái lại, lưu Lộc, lưu Dương, lưu Đà sẽ có tác dụng khá lớn.

2)- Nếu các sao ở trong tin bàn gốc, xung hội với "Lưu diệu" ở tam phương tứ chính, thì sác mạnh tăng thêm, hai bên sẽ phát huy tác dụng. Ví dụ như Lộc tồn nguyên cục ở tại cung Tị, lưu Lộc ở cung Hợi, nguyên cục "Lộc" và "Lưu Lộc" hai bên đối xứng. Hoặc như Kình dương ở cung Ngọ mà lưu Dương ở cung Tí, Đà la ở cung Thìn mà lưu Đà ở cung Tuất, như vậy nguyên cục và Lưu hai bên cũng đối xứng, làm cho tổ hợp các sao mạnh thêm nhiều. Do đó khi luận đoán 12 cung của Đại hạn, toàn bộ 6 sao trong đó 3 sao của nguyên cục và 3 sao "lưu" đều có tác dụng.

3)- Các sao xung động với "lưu diệu" thì lấy trường hợp đồng cung là mạnh nhất ; trường hợp tương xung ở đối cung là kế đó ; trường hợp hội chiếu ở cung tam hợp là cuối cùng.

4)- Khi luận đoán Đại hạn, cần lưu ý quan hệ xung hội của tinh bàn gốc với "lưu diệu" của Đại hạn.

Lúc luận đoán Lưu niên, cần lưu ý quan hệ xung hội giữa lưu diệu của Đại hạn với lưu diệu của lưu niên. Các sao tương đồng ở tinh bàn gốc có ảnh hưởng rất nhỏ, trừ trường hợp có hai "lưu diệu" đồng thời xung động, nếu không, về căn bản không cần lưu ý. Theo như ví dụ trên, lúc luận đoán Lưu niên, Lộc Tồn của tinh bàn gốc ở cung Tị, không có Lộc Tồn của Đại hạn ở tam phương tứ chính hội chiếu, cũng không có Lộc Tồn của Lưu niên hội chiếu. Nên khi luận đoán Lưu niên, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Nhưng Kình dương, Đà là, Lộc tồn của đại hạn thì có Kình dương, Đà la, Lộc tồn của lưu niên ở đối cung của chúng xung đột, sức mạnh của hai bên mạnh thêm. Do đó khi luận đoán Lưu niên, chỉ cần xem xét Kình dương, Đà la, Lộc tồn của Đại hạn và Lưu niên.

Như tình huống ví dụ đã nói trên, Lộc tồn gốc tại cung Tị, Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, theo đó Lộc tồn gốc tuy không hội chiếu với Lộc tồn của đại hạn ở cung Tý, nhưng xung hội với Lộc tồn của Lưu niên ở cung Hợi, do đó vẫn có thể phát sinh sức mạnh.

Có điều, giả dụ Lộc tồn của Đại hạn ở cung Dậu, như vậy lại tương hội với Lộc tồn gốc tại cung Tị, thì sao Lộc Tồn này, do đồng thời có lưu Lộc của Đại hạn ở Dậu và lưu Lộc của Lưu niên ở Hợi, tam phương hiệp trợ, nên sức mạnh của nó tuyệt đối không được xem thường.

Lúc luận đoán Lưu nguyệt, chỉ xem trọng lưu diệu của Lưu nguyệt và lưu diệu của Lưu niên. Chỉ khi nào lưu diệu của Đại hạn cũng ở trong tình huống bị xung động mới có sức mạnh, các sao tương đồng trong tinh bàn gốc (Thiên bàn), sức ảnh hưởng rất nhỏ, có thể không cần lưu ý gì thêm.

Lúc luận đoán Lưu nhật, sức mạnh lần lượt giảm thêm, thông thường lưu diệu của Đại hạn, và các sao tương đồng của tinh bàn gốc có thể không cần lưu ý gì thêm.

Các nguyên tắc kể trên rất quan trọng, khi luận đoán Đại hạn, Lưu niên, Lưu nguyệt, Lưu nhật, không được xem thường. Nếu không sẽ rối mắt, mà không cách nào luận đoán. Nhất là khi luận đoán Lưu nhật, trong tinh bàn đầy dẫy lưu diệu, hơn nữa, nhất định tình trạng Cát Hung sẽ lẫn lộn, nếu không biết nguyên tắc cái nào lấy cái nào bỏ, thì sẽ không biết định tính chất Cát Hung của các sao hội hợp như thế nào.

2)- Quy tắc quan sát các sao của Đại hạn và Lưu niên

Sau khi biết rõ các nguyên tắc thuật ở trên, và đã tìm hiểu về "tinh bàn phi động", cho tới cách nhập thêm lưu diệu, tốt nhất ta nên bắt đầu từ Đại hạn và lưu niên, để nghiên cứu phương pháp luận đoán.

Để tiện cho việc thuyết minh, tốt nhất tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế:

Mệnh bàn của một phụ nữ, âm nữ, kim tứ cục, mệnh chủ Văn khúc, Thân chủ Thiên đồng, mệnh lập tại cung Ất Mùi vô chính diệu gặp Tuần Không.

Điều đáng chú ý là cung Phu ở Tị có Thiên cơ, Hữu bật, Thiên mã đồng độ, hội tinh hệ Thiên đồng, Cự môn hóa Lộc ở cung Tân Sửu (Di), Thái âm ở cung Kỷ Hợi, cung Đinh Dậu vô chính diệu (Phúc), vì vậy mượn Thiên lương, và Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu. Các sao có tổ hợp dạng này thoạt nhìn thấy rất tốt, Hóa Lộc, Hóa Quyền và Lộc tồn cùng chiếu, có vẻ như có thể lấy được người chồng giầu sang.

Nhưng Thiên cơ ở cung Phu vốn có tính chất hiếu động, trôi nổi, thêm vào đó còn có Thiên mã đồng độ, tính chất hiếu động trôi nổi càng tăng. Cung Phu không ưa Tả phụ Hữu bật, nhưng hai sao này lại đồng độ và hội hợp cung Phu. Ngoài ra, Thái dương và Thiên lương, Thiên đồng và Cự môn đều chẳng phải là tổ hợp sao có lợi cho cung Phu, cho nên cung Phu trong mệnh bàn có thể nói là cát - hung lẫn lộn. Cát hay Hung thì ảnh hưởng của Đại vận là tất lớn.

Lúc vào Đại hạn Bính Thân từ 14 - 23 tuổi, cung Phu ở cung Giáp Ngọ, thấy Tử vi xung chiếu Tham lang ở Tý, gặp thêm các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, nhưng đáng tiếc lại hội chiếu Văn xương hóa Kị ở cung Mậu Tuất, sao Kị này lại xung khởi Liêm trinh hóa Kị của Đại hạn ở đồng cung ; sao Văn xương là sao lễ nhạc, Liêm trinh là sao chủ về tình cảm, cùng lúc đều Hóa Kị, cho nên trong đại hạn này, tìm không được người bạn đời ký tưởng là điều có thể thấy trước. Huống hồ Kình dương và Linh tinh ở cung Mậu Tuất lại xung khởi lưu Dương của đại hạn cung Giáp Ngọ, cho nên ắt sẽ có sóng gió, trắc trở về tình cảm.

Đến đại hạn Đinh Dậu từ 24 - 33 tuổi, cung Phu của đại hạn ở cung Ất Mùi, vô chính diệu, mượn Thiên đồng và Cự môn ở đối cung để "nhập cung an sao" cho cung Mùi. Trong đại hạn Đinh Dậu thì Cự môn hóa Kị, cùng với sao Hóa Lộc của nguyên cục tổ hợp thành tinh hệ "Kị xung Lộc", đồng thời có Thái âm hóa Lộc ở cung Kỷ Hợi, Thái dương hóa Quyền ở cung Tân Mão hội chiếu. "Âm Dương Lộc Quyền" hội hợp, vì vậy đây là vận trình kết hôn, nhưng có lưu Dương của đại hạn ở cung Ất Mùi và Cự môn hóa Kị cùng thủ cung Phu của đại hạn, nên đã ngầm phục nguy cơ; thêm vào đó "Thái dương Thiên lương" có Thiên nguyệt đồng độ, là tinh hệ chủ về bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh, mà cung Kỷ Hợi lại có Địa kiếp, do đó cuộc tình duyên này thực tình không dám khen ngợi, tâng bốc.

Năm Mậu Ngọ 1978, cung Mệnh của lưu niên và cung Phu của lưu niên cùng hội hợp Tham lang hóa Lộc ở cung Canh Tý, lại thêm các sao "đào hoa" đồng độ, vì vậy chủ về "thành hôn mà không có nghi lễ chính thức". Tốt nhất ta xem tình huống cung Phu của lưu niên (cung Nhâm Thìn) có lưu Đà đồng độ, xung hội với Đà là của mệnh bàn, cũng chẳng thể khen.

Cho nên sau khi kết hôn năm Kỷ Mùi 1979, vào năm Quý Hợi 1983 cung Phu của lưu niên mượn tổ hợp "thái dương Thiên lương" và Thiên nguyệt ở cung Tân Mão, để "nhập cung an sao" cho cung Đinh Dậu, bị Kình dương của lưu niên ở cung Tân Sửu hội chiếu, dẫn động lưu Đà của đại hạn ở cung Quý Tị, thế là tình cảm vợ chồng đổ vỡ, nguyên nhân là do chồng sử dụng ma túy (bệnh mãn tính thuộc hệ thần kinh).

Lại xem cung Phúc (Kỷ Hợi) của đại hạn Đinh Dậu, bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn hội chiếu, ở tinh bàn gốc lại có Địa không, Địa kiếp (Kỷ Hợi), thêm vào đó lại xung chiếu Thiên cơ, Thiên mã, Hữu bật từ cung Quý Tị, cho tới mượn phép "an sao nhập cung" của cung Tân Sửu là tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" cho cung Ất Mùi, và "Thái dương Thiên lương", đều là nhóm sao chủ về điều tiếng thị phi.

Còn trùng hợp một điều nữa là, cung mệnh của đại hạn Đinh Dậu cũng hội hợp với tinh hệ đồng dạng, đây chính là tượng trưng cho tinh thần của mệnh tạo ở trong tình huống rất bối rối khó xử.

Năm Giáp Tý 1984, "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Phúc (Canh Dần) bị Thái dương hóa Kị ở cung Tân Mão và Kình dương của lưu niên, cùng với Cự môn hóa Kị ở cung Tân Sửu và Đà la của lưu niên giáp cung. Đây là tổ hợp tam trùng "Hình Kị giáp ấn", "song Kị giáp", "Dương Đà giáp", mà còn là cách xấu "Linh Xương Đà Vũ". Vì vậy năm đó đã từng có ý không còn muốn sống, nhưng may mắn được Lộc tồn của đại hạn ở cung Giáp Ngọ, nên không chết.

Từ phân tích ở trên, thiết nghĩ bạn đọc đã có cái nhìn nhật định về phương pháp luận đoán các sao của mệnh bàn.

Bây giờ ta xem thêm một ví dụ khác, đồng thời nghiên cứu vài quy tắc về cách quan sát các sao.

Nữ mệnh, âm nữ, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa linh, mệnh nguyên cục ở cung Giáp Tý có Tham lang tọa thủ. Trong mệnh bàn, cung vị xấu nhất là cung Đinh Tị (tức cung Nô), cung vị này có Kình dương và Đà la giáp cung, trong cung có Thiên cơ hóa Kị tọa thủ, cấu tạo thành cách xấu "Kình Đà giáp Kị", mà Thiên cơ lại có Hỏa tinh đồng độ, cũng đồng dạng bị Kình Đà giáp cung, tính cứng rắn hình khắc, cũng vì vậy mà mạnh thêm. Mở mệnh bàn ra, trước tiên nên tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, là quy tắc 1 của phép quan sát các sao.

Có 3 cung vị bị cung Đinh Tị gây ảnh hưởng, đó là Tân Dậu, Quý Hợi, Ất Sửu, trong đó có cung Tân Dậu là xấu nhất, bởi vì nó đồng thời tương hội với Linh tinh của cung Ất Sửu, tức là bị 2 sao Hỏa tinh và Linh tinh cùng chiếu xạ theo kiểu "song phi hồ điệp"

Cung Tân Dậu là cung mệnh của đại hạn từ 34 - 43 tuổi (Tử nữ). Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất hoặc tốt nhất, tiếp đến phải tìm ra "tam phương ức hiếp" mà nó bị ảnh hưởng, tức là vì bị chúng ảnh hưởng mà biến thành cung xấu hay biến thành cung tốt, đây là quy tắc 2 của phép quan sát các sao.

Do cung mệnh của đại hạn có khuyết điểm, vì vậy cần  tiếp tục tìm ra cung vị nào xấu hơn trong đại hạn. Ta có thể lưu ý cung Bính Thìn (quan lộc), trong cung nguyên cục có Thất sát và Đà la tọa thủ ; lúc vào đại hạn Tân Dậu thì Đà là của nguyên cục tương xung với lưu Đà của đại hạn của cung Canh Thân (Tài bạch), do đó tính cứng rắn hình khắc được phát động, hơn nữa còn đối diện với lưu Dương của đại hạn ở cung Nhâm Tuất, tính cứng rắn hình khắc càng mạnh thêm. Cung Bính Thìn là cung Tai Ách của đại hạn Tân Dậu, cho nên ta cần lưu ý xem trong hạn có vận xấu gì về phương diện cung Tai Ách hay không.

Sau khi tìm ra vận hạn tốt xấu, ta lại tìm cung vị tốt xấu của vận hạn này, để quyết định vận hạn này tốt thế nào, xấu thế nào, là quy tắc 3 của phép quan sát các sao.

Đến đây, ta quay trở lại cung Đinh Tị (cung Nô) của nguyên cục được xem là xấu nhất, cung vị này là cung mệnh của lưu niên Nhâm Tuất, có "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình đồng độ, lại có lưu Dương của đại hạn và lưu Đà của lưu niên bay vào. Hai lưu diệu này chia ra cùng hội chiếu với Kình dương và Đà la của mệnh bàn gốc, sức mạnh hai bên mạnh thêm. Càng xấu hơn là, vào năm Nhâm Tuất có Vũ khúc hóa Kị ở cung Giáp Dần đến hội chiếu; toàn bộ tinh hệ ở cung mệnh của lưu niên biểu thị có tổn thương thuộc kim. Sau khi tìm ra cung vị xấu nhất của đại hạn, tiếp theo là tìm lưu niên xấu, là quy tắc 4 của phép quan sát các sao.

Rồi ta lại truy tìm tiếp, xem năm Quý Hợi kế tiếp ở cung Tai Ách, là năm bị Văn xương lưu Hóa Kị của cung Kỷ Mùi, và Thiên cơ hóa Kị của cung Đinh Tị hội chiếu. Cung Mậu Ngọ là cung Tai Ách của lưu niên, có Tử vi và Kình dương đồng độ, Kình dương này bị Kình dương của đại hạn xung động, hội hợp với "Liêm trinh Thiên phủ" và Thiên hình của cung Nhâm Tuất, còn bị Tham lang hóa Kị của lưu niên tương xung, thêm vào đó còn có Thiên Hư và Thiên Khốc đồng độ, lại hội Địa kiếp của cung Giáp Dần. Cho nên có thể luận đoán, mệnh tạo vào năm Quý Hợi phải bị phẫu thuật. Sau khi tìm ra sự kiện, tiếp tục truy xét của năm kế tiếp, là quy tắc 5 của phép quan sát các sao

Sau đây ta tiếp tục phân tích một tinh bàn của nam mệnh làm ví dụ. Dương nam, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Tham lang, Thân chủ Hỏa tinh.

Mệnh bàn nguyên cục:

- Cung mệnh lập tại cung Quý Hợi, có Thiên cơ (Hóa Kị) Hỏa tinh, Thiên tài, Thiên nguyệt, Lâm quan tọa thủ.
- Phụ mẫu lập tại cung Giáp Tý, có Tử vi ngộ Tiệt không, Vượng
- Phúc đức lập tại cung Ất Sửu, có Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên không, Tiệt không, Suy
- Điền trạch lập tại cung Giáp Dần, có Phá quân, Thiên mã, Địa không, Cô thần, Nguyệt giải, Thiên vu, Âm sát, Bệnh
- Sự nghiệp lập tại cung Ất Mão, vô chính diệu, có Thiên quan, Thiên phúc, Hồng loan, Thiên hình, Tử.
- Giao hữu lập tại cung Bính Thìn, có Thiên phủ, Liêm trinh, Đà la, Hữu bật, Hoa cái, Mộ.
- Thiên di lập tại cung Đinh Tị, có Thái âm, Lộc tồn, Thiên thọ, Kiếp sát, Phá toái, Nguyệt đức, Tuyệt
- Tật Ách lập tại cung Mậu Ngọ, có sao Tham lang (Hóa Lộc) Kình dương, Bát tọa, Tuần không, Thiên khốc, Thiên hư, Thai
- Tài bạch lập tại cung Kỷ Mùi, có Thiên đồng, Cự môn, Linh tinh, Thiên việt, Tam thai, Long đức, Dưỡng
- Tử tức lập tại cung Canh Thân, có Vũ khúc, Thiên tướng, Địa kiếp, Tam thai, Phỉ liêm, Trường sinh
- Phu thê lập tại cung Tân Dậu, có Thái dương, (Khoa) Thiên lương, Thiên hỉ, Hàm trì, Thiên đức, Mộc dục.
- Huynh đệ lập tại cung Nhâm Tuất, có Thất sát, Tả phụ, Phượng các, Ân quang, Thiên quý, Quả tú, Giải thần, Quan đới.

Mệnh bàn này, điều khiến ta chú ý nhất là cung Mệnh có Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Hỏa tinh, nhưng cung Di (Đinh Tị) lại là Thái âm hóa Quyền đồng độ với Lộc tồn, vì vậy có thể luận đoán, mệnh tạo lợi về tiền tài nếu rời xa quê hương.

Nhưng Thái âm lạc hãm, hội Thái dương hóa Khoa ở cung Dậu cũng rơi vào nhược địa, thêm vào đó còn bị tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở Dậu và Thiên cơ ở Hợi xung chiếu, cung Sửu hội hợp lại vô chính diệu, phải mượn "Thiên đồng Cự môn", Linh tinh, Thiên việt của cung Mùi để "an sao nhập cung" cho cung Sửu. Vì vậy có thể luận đoán mệnh tạo ở nơi xa, tuy có thể phát tài, nhưng điều tiếng thị phi, thậm chí phạm pháp.

Vận trình sáng sủa nhất là từ 32 đến 41 tuổi vào đại hạn Giáp Dần, cung Di của đại hạn này là cung Canh Thân có Vũ khúc hóa Khoa, cung mệnh của đại hạn này là cung Giáp Dần có Thiên mã có lưu Lộc tồn của đại hạn, thành cách "Lộc Mã giao trì", lưu Lộc còn xung động Tham lang hóa Lộc của cung Ngọ, vì vậy trong đại hạn này mệnh tạo có thể phát tài ở nơi xa.

Nhưng cũng trong đại hạn này, cung Phụ mẫu của đại hạn (cung Ất Mão) vô chính diệu, phải mượn thái dương hóa Kị (vốn là hóa Khoa) và Thiên lương để theo phép "an sao nhập cung" cho cung Phụ mẫu, dẫn đến tình hình có lưu Dương và Thiên hình đồng độ, cho nên không những chủ về cha mất trong hạn này, hơn nữa, lưu niên đến hai cung Mão và Dậu còn sợ rằng sẽ có sự cố phạm pháp.

Năm Canh Thân 1980 cung mệnh của lưu niên này có Vũ khúc (đại hạn thì hóa Khoa, lưu niên thì hóa Quyền), có Thiên tướng và Lộc tồn của lưu niên đồng độ, thêm vào đó, cung Di của lưu niên lại có Thiên Mã của lưu niên bay vào, thành cách lưỡng trùng "Lộc Mã giao trì", vì vậy chủ về năm đó thu hoạch rất khá.

Nhưng năm kế tiếp, cung mệnh lưu niên tới cung Tân Dậu có Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị) và Thiên lương, hội hợp Văn khúc (lưu niên thì Hóa Khoa) và Văn Xương (lưu niên thì Hóa Kị) của cung Sửu, lại hội hợp với Thiên đồng và Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) mượn của cung Mùi để an sao, còn hội hợp với Thái âm hóa Quyền và Lộc tồn của tinh bàn gốc. Ta nên chú ý cung Dậu, có lưu Dương lưu Đà của đại hạn cùng chiếu, thêm vào đó còn có Thiên hình từ cung Mão và Kiếp sát từ cung Tị đến hội. Cho nên năm đó (1981), tuy có Lộc tồn của lưu niên xung khởi Lộc tồn của tinh bàn gốc, nhưng vẫn chủ về có dính dáng đến pháp luật, kiện tụng và phá tài.

Đến năm Ất Sửu, cung mệnh lưu niên là cung Sửu vô chính diệu, mượn "Thiên đồng Cự môn" và Linh tinh, Thiên việt của đối cung để nhập cung, lại có Đà la của đại hạn đồng độ, rồi lại hội hợp với Thái âm lạc hãm (lưu niên thì Hóa Kị) và Thái dương (đại hạn thì Hóa Kị), vì vậy mà bị cuốn vào vòng thị phi, bất hòa, tranh chấp.

Tương lai đến năm Đinh Mão, cung mệnh lưu niên là cung Mão, vẫn là cung vô chính diệu, lại mượn Thái dương hóa Kị từ cung Dậu là đối cung, để "an sao nhập cung" cho cung Mão, lại hội hợp với Cự môn (lưu niên thì Hóa Lộc) và Thiên cơ hóa Kị, mà còn kèm theo Đà la của lưu niên, nguyên cục lại có Hỏa tinh, Linh tinh cùng chiếu, lại gặp thêm các sao hung Thiên hình, Đại hao, Thiên nguyệt, nên cẩn thận, nếu không e rằng sẽ vì phạm pháp mà phá tài lớn.

Ghi chú về phép định Tiểu hạn

Tiểu hạn là chủ về Cát - Hung của một năm. Do phái Trung Châu không dùng Tiểu hạn, mà chỉ dùng Lưu niên để luận đoán, nên Tôi không trình bày phép định Tiểu hạn trong chương này.

3)- Cách luận đoán Lưu nguyệt

Dùng Đẩu Số để luận đoán Lộc Mệnh, không nên thường xuyên luận đoán cát - hung của lưu Nguyệt, bởi vì quá tỉ mỉ, bất kể cát hay hung cũng đều sẽ ảnh hưởng đến tâm trạng của mệnh tạo. Nhưng cũng có một số tình huống, thí dụ như năm đó dễ xảy ra tai nạn giao thông, thì tốt nhất là luận đoán lưu Nguyệt để trợ giúp thêm, xem vào tháng nào có hung hiểm để cố tránh đi xa bằng xe cộ. Bởi vì trên thực tế khó mà hoàn toàn không đi xa trong vòng một năm, cho nên luận đoán lưu Nguyệt để bổ trợ.

Đơn cử một ví dụ:
Mệnh tạo bị tai nạn giao thông, vì vậy mà gãy xương, Vương Đình Chi tôi căn cứ vào mệnh bàn để truy tìm điềm báo của sự cố: Âm nữ, Thủy nhị cục, Mệnh chủ Cự môn, Thân chủ Thiên cơ. Mệnh lập tại cung Ngọ, có Cự môn (hóa Kị), Lộc tồn tọa thủ.

Vào tháng 5 năm Ất Mão 1975, cung mệnh của đại hạn ở cung Mậu Thân, có "Thiên đồng Thiên lương" đồng độ, có Địa không và Địa kiếp đối củng, hội hợp Thiên cơ, Hỏa tinh ở cung Nhâm Tý (vốn là hóa Khoa, đại vận thì hóa Kị), với Thái âm (hóa Lộc) Thiên hình đồng độ ở cung Giáp Thìn.

Cung Di của lưu niên ở Giáp Dần vô chính diệu, mượn sao của cung Mậu Thân để "an sao nhập cung", biến thành Địa không và Địa kiếp đồng cung (cung Dần) hội hợp với Cự môn hóa Kị (còn gọi là "Kình Đà giáp Kị"), còn hội hợp với Thái dương lạc hãm ở cung Canh Tuất.

Kết cấu của tinh hệ đã hiển thị điềm hung hiểm trong đại hạn này, vì vậy cần phải tìm năm nào xảy ra.

Mệnh tạo vào năm Tân Hợi 1971 và năm Quý Sửu 1973 đều đã từng lái xe đi xa, nhưng chưa bị thương gì (bạn đọc thử luận đoán xem tại sao). Nhưng đến năm Ất Mão 1975, cung mệnh của lưu niên ở cung Ất Mão, trùng hợp với tình hình Kình dương của lưu niên và Đà la của lưu niên giáp cung (tuy chẳng phải "giáp Kị", nhưng do Thiên phủ ở cung Mão không hóa Kị, nên cũng thuộc tính chất không cát tường), hội cung Hợi vô tính diệu, nên mượn "Liêm trinh Tham lang" của cung Tị để an sao, hai sao lại bị lưu Dương và lưu Đà của đại hạn giáp cung. Ngoài ra, ở đối cung là cung Dậu có "Vũ khúc Thất sát", cung Mùi là Thiên tướng của "Hình Kị giáp ấn".

Điều xấu nhất là, cung Tai Ách của lưu Niên bay đến cung Tuất có Thái dương lạc hãm ở đây, tương chiếu Thái âm (vốn gốc hóa Lộc, lưu Niên thì hóa Kị), Đà la của đại hạn, Kình dương của lưu Niên và Thiên hình; hội hợp với "Thiên đồng Thiên lương", Đà la của lưu niên ở cung Dần, và hội hợp với Cự môn hóa Kị (Hóa Kị này xung khởi Thiên cơ hóa Kị của đại hạn) và lưu Dương của đại hạn ở cung Ngọ. Các sao sát - kị đều nặng, nên năm đó chủ về có tai nạn.

Sau đó mới xem đến lưu Nguyệt.

Năm Mão, Đẩu Quân tại cung Hợi, tức tháng Giêng khởi từ cung Hợi, đến tháng Năm thì cung mệnh của lưu Nguyệt đến cung Mão, tức là trùng với cung mệnh của lưu Niên. Tính phép độn can, năm Ất Mão khởi Mậu Dần (tháng Giêng), tháng Năm thì can chi của cung mệnh là Nhâm Ngọ, vì vậy cung Di có Vũ khúc Hóa Kị (cung Dậu), cung mệnh của lưu Nguyệt lại có Kình Đà của lưu Niên giáp cung, hơn nữa Kình Đà của lưu Nguyệt còn xung khởi Đà la Kình dương của lưu Niên, xung khởi Đà la Kình dương của đại hạn, toàn bộ đồng loạt bắn vào cung Tai Ách của lưu Nguyệt ở cung Tuất. Cung Tuất còn bị Đà la của lưu Nguyệt đối nhau với Thiên hình ở cung Thìn, còn bị Thái âm hóa Kị từ cung Thìn vây chiếu. Do đó luận đoán vào tháng 5 mà xuất hành sẽ có hung hiểm.

Vũ khúc hóa Kị và Thất sát đồng độ ở cung Di (Dậu) đã hiển thị tính chất bị thương tổn thuộc Kim.

Từ ví dụ này có thể biết, muốn luận đoán lưu Nguyệt, cần phải bắt đầu tìm từ đại hạn, sau đó tìm lưu Niên, tiếp sau đó rồi tìm lưu Nguyệt, thì mới có ý nghĩa ứng dụng thực tế. Bởi vì, mục đích luận đoán lưu Nguyệt chỉ là trợ giúp trong việc "xu cát tị hung". Nếu cứ tìm loạn xạ một tháng để luận đoán, do không có mục đích nên quá mông lung, sẽ dễ lạc vào mê cung.

Thêm một ví dụ về Cách luận đoán lưu nguyệt

Bé gái sinh năm Nhâm Tuất 1982, dương nữ, Thổ ngũ cục, Mệnh chủ Lộc tồn, Thân chủ Văn xương.

- Mệnh lập tại cung Kỷ Dậu, có Vũ khúc (khóa Kị), Thất sát

- Năm kế tiếp mắc bệnh không thuyên giảm, cha mẹ của bé gái mời Vương Đình Chi luận đoán. Vương Đình Chi cho rằng: có thể đường hô hấp có khối u, khuyên nên mời bác sỹ chuyên khoa kiểm tra thật kỹ lưỡng. Cha mẹ liền mang bé gái nhập viện kiểm tra, đã chứng thực là khí quản có khối u, may mà chưa ác hóa, có hy vọng trị khỏi.

- Cung Tai Ách mệnh bàn này là Thái âm tọa thủ tại cung Giáp Thìn, nhưng có tứ sát Linh tinh, Kình dương ở Điền trạch cư Tý tam phương ức hiếp, mắc bệnh là điều không còn nghi ngờ, vấn đề là mắc bệnh gì. Thái âm vốn chủ về bệnh âm phần hao tổn, nhưng cung Tai Ách của mệnh bàn nhiều lúc chẳng hiện thị bệnh tật khi còn bé, trái lại, có thể thấy ở cung mệnh.

- Một tuổi chưa vào hạn cung Dậu trong tinh bàn, lưu Niên Nhâm Tuất Vũ khúc hóa Kị ở tiểu hạn một tuổi (tức cung mệnh của thiên bàn), cho nên luận đoán là đường hô hấp có khối u.

- Hạn 2 tuổi của bé gái ở cung Tài bạch tại cung Ất Tị, là năm Quý Hợi, gặp Kình Đà của lưu Niên của tam phương hội chiếu tiểu hạn tại cung Ất Tị, trong cung Tị lại có Tham lang hóa thành sao Kị, còn hội hợp với tạp diệu Thiên hình ở Sửu, Kiếp sát, Đại hao, chủ về mắc bệnh có tính chất hao tổn. Trong thực tế, năm đó bé gái tiếp nhận xạ trị, thể chất đương nhiên bị hao tổn.

- Hạn 3 tuổi ở cung Tai ách tại Thìn, lưu Niên là năm Giáp Tý, trong hạn Thái âm tọa thủ mà có Thái dương hóa Kị tại Tuất vậy chiếu, còn có tứ sát tinh cùng chiếu, bệnh tình rất nguy hiểm, sau may mắn có thể vượt qua là nhờ sức của Thiên lương và Hoa cái hội chiếu. Hơn nữa, Kình Đà của thiên bàn chưa bị Kình Đà của lưu Niên xung khởi, sức ảnh hưởng chưa mạnh mà thôi.

- Đến hạn 4 tuổi dần dần khởi sắc, được Thiên thọ vây chiếu nên không có tai biến gì. Mệnh này rất khó xác định có yểu mạng hay không, bởi vì có liên quan đến Tổ đức, cha mẹ của bé gái đều đôn hậu hiền hành, nên đại hạn lúc 3 tuổi đã an nhiên vượt qua, có thể nói là sự may mắn trời ban

Phụ lục: phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con

Cách tính tuổi để khởi Đại hạn là căn cứ vào ngũ hành cục số, tối thiểu là thủy nhị cục hai tuổi mới vào vận, tối đa là hỏa lục cục phải sáu tuổi mới vào vận. Vì vậy từ lúc sinh ra cho tới khi vào vận có một khoảng trống, phải lấy phương pháp tính tiểu hạn cho trẻ con để bổ xung.

Tính hạn của trẻ con tổng cộng có 6 cung, nhưng khi ứng dụng thì căn cứ vào tuổi khởi đại hạn để làm chuẩn, ví dụ 3 tuổi khởi vận thì chỉ đi 3 cung. Các cung tính hạn từ khi sinh ra cho tới khi vào đại hạn như sau:

- Một tuổi ở cung Mệnh
- Hai tuổi ở cung Tài bạch
- Ba tuổi ở cung Tật ách
- Bốn tuổi ở cung Phu thê
- Năm tuổi ở cung Phúc đức
- Sáu tuổi ở cung Sự nghiệp (quan lộc)

Khi xem tính hạn cho trẻ con, chỉ xem "tam phương tứ chính" của bản cung, không bày bố thêm 11 cung còn lại. Nói cách khác, chỉ luận đoán cung Mệnh (tức bản cung), không luận đoán kèm lục thân và hoàn cảnh xung quanh. Đây là chỗ giới hạn của phương pháp tính hạn cho trẻ con.

4)- Cách luận đoán lưu nhật

Vương Đình Chi không chủ trương luận đoán lưu Nhật, bởi vì "nước trong quá thì không có cá, người xét nét quá thì không có bạn", không nên mang vận trình ra luận đoán quá chi li. Nhưng trong một số tình hình cá biệt, thì luận đoán lưu Nhật có lúc lại cần thiết. Ví dụ trường hợp luận đoán "tử kỳ" cho một người bệnh sắp chết, để gia đình chuẩn bị hậu sự, hoặc là Tháng có thể xảy ra tai nạn giao thông, mà có chuyện cần thiết nhất định phải đi, bất đắc dĩ không còn cách nào, buộc phải chọn Ngày để đi.

Luận đoán lưu Nhật là khởi ngày mồng 1 từ cung mệnh của lưu Nguyệt, ngày muốn luận đoán rơi vào cung vị nào đó, thì cung đó là cung mệnh của lưu Nhật, sau đó tham chiếu vạn niên lịch để tìm "can chi" ngày muốn luận đoán, thông qua can chi này để tính lưu diệu của lưu Nhật.

Ví dụ như tháng 4 cung mệnh (của lưu nguyệt) ở Tuất, tức là khởi ngày mồng 1 ở cung Tuất, đi thuận, nếu muốn tìm cung mệnh của lưu nhật ngày mồng 4, thì đếm thuận đến cung Sửu là được. Tra vạn liên lịch, tháng 4, năm Ất Sửu, can chi của ngày mồng 4 là ngày Nhâm Tuất, do đó lấy can chi "Nhâm Tuất" để tìm lưu diệu, như Thiên lương hóa Lộc, Tử vi hóa Quyền, Thiên phủ hóa Khoa, Vũ khúc hóa Kị, Lộc tồn ở cung Hợi, Mã nhật ở cung Thân,.v.v...

Nếu có tháng Nhuận, thì lấy nửa tháng đầu tính thuộc tháng trước, nửa tháng cuối tính thuộc tháng sau. Lưu nhật thì vẫn luân chuyển theo chiều thuận. Năm Giáp Tý đó Nhuận tháng Mười, từ ngày mồng 1 đến ngày 15 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng Mười, từ ngày 16 đến ngày 29 của tháng 10 nhuận là thuộc tháng 11.

Ví dụ như lưu Nguyệt tháng 10 ở cung Dậu, tức cung này khởi ngày mồng 1 đếm thuận đến ngày 13 và ngày 25 thì trở về cung Dậu, đến cung Dần là ngày 30, vẫn đếm tiếp theo chiều thuận đến ngày mồng 1 của tháng 10 nhuận, tức là cung Mão làm cung mệnh của ngày mồng 1 tháng 10 nhuận. Muốn an lưu diệu thì phải tra vạn niên lịch để biết ngày mồng 1 là ngày Tân Dậu, vì vậy lấy can Tân để tra lưu diệu.

Còn ngày 16 của tháng 10 nhuận, thì khởi từ cung mệnh của tháng 11, tức là cung Tuất, đi theo chiều thuận. Lưu nguyệt dùng can chi của tháng 11, tức tháng Bính Tý, đối với lưu nhật đương nhiên vẫn dùng can chi của ngày đó.

Đơn cử một nhật bàn làm thí dụ:

- Dương nữ, mộc tam cục, Mệnh chủ Vũ khúc, Thân chủ thiên tướng.
- Mệnh lập tại cung Mậu Tuất, có Liêm trinh (hóa Kị) Thiên phủ
- Phụ mẫu tại cung Kỷ Hợi, có Thái âm, Thiên khôi, Thiên hỉ
- Phúc đức tại cung Canh Tý, có Tham lang, Văn khúc
- Điền trạch tại cung Tân Sửu, có Thiên đồng (hóa Lộc), Cự môn, Thiên hình, Phá toái.
- Sự nghiệp tại cung Canh Dần, có Vũ khúc, Thiên tướng, Đài phụ, Long trì
- Giao hữu tại cung Tân Mão, có Thái dương, Thiên lương, Địa không
- Thiên di tại cung Nhâm Thìn, có Thất sát, Đà la, Thiên hư
- Tật ách tại cung Quý Tị, có Thiên ơ, Lộc tồn, Đại hao, Thiên vu, Thiên diêu, Hồng loan
- Tài bạch tại cung Giáp Ngọ, có Tử vi, Hữu bật, Linh tinh, Kình dương
- Tử tức tại Ất Mùi, có Thiên nguyệt, Địa kiếp
- Phu thê tại cung Bính Thân, có Phá quân, Tả phụ, Thiên mã, Thiên khốc
- Huynh đệ tại cung Đinh Dậu, có Hỏa tinh, Thiên việt.

Đương số đang ở trong đại hạn Ất Mùi, cung Mùi vô chính diệu, mượn các sao của cung Sửu để an. Thế là biến thành Thiên hình và Thiên nguyệt đồng độ, có Địa kiếp và Địa không tương hội.

Thiên đồng và Cự môn chủ về bệnh liên quan đến thần kinh cột sống. Cho nên trong đại hạn này, mệnh tạo có thể mắc bệnh này, mà còn là mãn tính. Bởi vì Thiên hình và Thiên nguyệt là điềm bệnh tật triền miên, kéo dài khiến cho người bệnh giống như bị tra tấn. Có Thái dương và Thiên lương hội hợp, làm mạnh thêm tính chất này.

Tra lưu niên, đến năm Nhâm Tuất, cung mệnh của lưu niên ở Tuất, có Liêm trinh hóa Kị hội Vũ khúc (lưu niên thì hóa Kị) ở Dần, Đà là của lưu niên bay vào cung Tuất, xung động Đà la và lưu Dương của đại hạn ở cung Thìn, còn xung động cả lưu Đà của đại hạn. Lại còn gặp Kình dương của lưu niên ở cung Tý và lưu Đà của đại hạn ở cung Dần, lại xung khởi Kình dương Linh tinh ở cung Ngọ đến hội, cho nên có thể đoán định năm đó ắt sẽ có tai ách.

Tính chất của Tai ách là gì? Do Vũ khúc hóa Kị xung khởi Liêm trinh hóa Kị, thông thường đều chủ về tai nạn chảy máu, có điều, năm đó cung Thiên di (Nhâm Thìn) là Thất sát tọa thủ, nên không phải tai ách chảy máu ở nơi khác.

Có nhiều loại tai ách chảy máu, nữ mệnh có thể là đường sinh dục, trụy thai, cũng có thể là vết thương có mủ, đương nhiên cũng có thể là bị thương do kim loại. Thế là phải truy tìm đến cung Tai ách của lưu niên.

Cung Tai ách của lưu niên ở cung Quý Tị, có Thiên cơ tọa thủ, bị hai sao Kình dương Đà la đều xung động giáp cung, và Thái âm hóa Kị ở Hợi xung chiếu, chủ về tổn thương, Thái âm và Thiên cơ tương hội, chủ về bệnh liên quan đến hệ thần kinh, còn tương hội với tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình ở cung Sửu, lại hội hợp với "Thái dương Thiên lương" mượn ở cung Mão nhập cung Dậu, tam phương ứng hiếp, dó đó có thể đoán định là bị thương bát ngờ gây ảnh hưởng đến thần kinh cột sống.

Tra đến lưu nguyệt, năm Nhâm Tuất tháng Giêng khởi Nhâm Dần, mà Đẩu quân năm Tuất cũng trùng hợp ở cung Dần, cho nên lấy cung Dần làm cung mệnh của lưu Nguyệt.

Tháng Nhâm Dần thì Vũ khúc lại hóa Kị, trùng điệp với lưu niên hóa Kị, sức mạnh rất lớn, lại tương hội với lưu niên Đà, nguyệt Đà của cung Tuất, còn tương hội với Kình dương và Linh tinh ở cung Ngọ (tam phương tứ chính của hai sao này bị vận Đà, niên Đà, nguyệt Đà, niên Dương, nguyệt Dương xung khởi, nên, tuy là Kình dương và Linh tinh của nguyên cục, nhưng vẫn có tác dụng [ví lưu nguyệt của cung mệnh), vì vậy có thể đoán vận trình của tháng này không được tốt.

Tra lưu nhật đến ngày mồng 5 là ngày Nhâm Tý, cung mệnh của lưu Nhật ở cung Ngọ, vì can của ngày là Nhâm, nên Vũ khúc của cung Dần lại hóa Kị lần nữa, thành Vũ khúc ba lần hóa Kị, xung động Liêm trinh hóa Kị ở cung Tuất. Ở tam phương tứ chính tổng cộng gặp 8 sát tinh Kình dương Đà la và Linh tinh, cực kỳ nghiêm trọng.

Thêm vào đó, cung Tai ách của lưu nhật, là cung Sửu có "Thiên đồng Cự môn" và Thiên hình, còn bị lưu nhật hóa Kị và lưu nhật Kình dương giáp cung. Vì vậy ngày hôm đó (ngày 5 tháng Giêng, năm Nhâm Tuất 1982) khó tránh tai nạn giao thông, chảy máu, gãy xương, sau trị khỏi vẫn còn bị tổn thương thần kinh cột sống, phải vật lý trị liệu.

Người phụ nữ này sau khi bị tổn thương, ảnh hưởng đến sinh hoạt tính dục, chồng vì vậy mà thay đổi, đến năm 1985 Ất Sửu có nguy cơ phải ly hôn. Bạn đọc thử xem xét cung Phu của bà ta từ lưu niên Nhâm Tuất xem sao.

5)- Cách luận đoán lưu thời

Tử Vi Đẩu Số tuy có phương pháp luận đoán "lưu thời", nhưng khi luận đoán lưu thời, sẽ rơi vào tình trạng chi ly thái quá, nên phái Trung Châu ít dùng đến.

Phép tính lưu thời là khởi cung mệnh của giờ Tý ở cung Tý, khởi cung mệnh của giờ Sửu ở cung Sửu,.v.v... đến khởi cung mệnh của giờ Hợi ở cung Hợi. Nhưng can chi thì dùng ngũ Thử độn như sau:

- Ngày Giáp Kỷ khởi giờ Giáp Tý
- Ngày Ất Canh khởi giờ Bính Tý
- Ngày Bính Tân khởi giờ Mậu Tý
- Ngày Đinh Nhâm khởi giờ Canh Tý
- Ngày Mậu Quý khởi giờ Nhân Tý

Như đối với ví dụ trên, ngày Nhâm Tý khởi giờ Canh Tý, đến giờ Ngọ độn can là Bính, cung mệnh của lưu thời ở Ngọ, có Liêm trinh hóa Kị, còn có Kình dương bay vào cung mệnh, cho nên tai nạn giao thông xảy ra vào lúc 12 giờ 20 phút, là thuộc giờ Ngọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết đoán mệnh của Vương Đình Chi

Bài trí phòng ngủ –

- Giường không nên đặt lộ liễu ở nơi hay ra vào hoặc đối diện với cửa. Tác dụng lớn nhất của giường là đạt được hiệu quả ngủ nghi, nếu như đặt giường đối diện với cửa, khi đóng và mớ cửa sẽ làm ảnh hướng đến sự yên tĩnh của người đang ở giường, làm m

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Giường không nên đặt lộ liễu ở nơi hay ra vào hoặc đối diện với cửa.
Tác dụng lớn nhất của giường là đạt được hiệu quả ngủ nghi, nếu như đặt giường đối diện với cửa, khi đóng và mớ cửa sẽ làm ảnh hướng đến sự yên tĩnh của người đang ở giường, làm mất đi tác dụng ngủ nghỉ của nó. Giường đối diện với cửa, từ ngoài nhìn vào đã thấy ngay giường, như vậy thật bất tiện, sẽ tạo áp lực và làm mất đi cảm giác an toàn.

anh_sang

– Đầu giường không nên sát với cửa.

Người nằm trên giường khó nhìn thấy sự việc diễn ra bên ngoài, khi có người từ ngoài cửa bước vào phải chuyến người mới có thể nhìn thây được. Đột nhiên có tiếng động bên ngoài thường dễ bị giật mình, sẽ không tốt cho tinh thần và sức khoẻ, lâu ngày như vậy sẽ dễ bị mắc các bệnh về thần kinh.
– Đầu giường không được để xà nhà chiếu thẳng xuống
Trong kiến trúc nhà ở một số địa phương xà nhà thường lộ ra ngoài. Nếu ở vị trí đặt giường có xà nhà lộ ra là không tốt. Theo quan điểm dương trạch, đầu giường không được thẳng chiếu lên xà nhà, trong phòng ngủ nếu có xà nhà, tốt nhất là dùng tấm đệm trần che lại. Nhìn từ góc độ tâm lý học, khi nằm trên giường mà mặt đối diện với xà nhà thì trong tư tưởng luôn có cảm giác bị đè nén, lâu ngày như vậy giấc ngủ không yên, thường gặp ác mộng, tâm thần bất an, dẫn đến nhân sinh quan và thái độ xử lý sự việc kém, tinh thần không ổn định sẽ ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội.

– Không đặt giường nơi có ánh sáng mạnh

Tục ngữ có câu: “Quang sảnh ám phòng”. Ý nói là phòng khách phải sáng sủa, phòng ngủ thì không nên quá sáng. Theo cách nói trung y: “Can khai khiếu vu nhãn”. Nghĩa là mắt thể hiện cho gan, ánh sáng quá mạnh sẽ kích thích đến mắt, từ đó hại đến gan, làm gan bị nóng, tỳ khí thay đổi xấu đi. Có thể sử dụng rèm che cửa sổ để điều tiết ánh sáng, ban ngày kéo rèm ra để tận hưởng ánh sáng tự nhiên, ban đêm kéo rèm lại.
– Cửa phòng không để đối diện với cửa phòng bếp, phòng kho và phòng vệ sinh.
Bếp là nơi chế biến, nâu nướng thức ăn, tuy đã có thiết bị hút mùi nhưng khó xứ lý hết được, nếu như cửa phòng ngủ đối diện với cửa phòng bếp, hai luồng không khí nóng từ bếp và lạnh từ phòng ngủ đối lưu nhau và phòng ngủ sẽ phải hấp thụ một lượng khí từ phòng bếp, như vậy sẽ hại đến sức khoẻ.
Ngoài ra, phòng để đồ và phòng vệ sinh chứa nhiều khí có hại sức khoẻ, không nên để cửa đối diện với cửa phòng ngủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí phòng ngủ –

Chùa Bút Tháp - Bắc Ninh

Chùa Bút Tháp nằm tọa lạc ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa Bút Tháp mang vẻ đẹp cổ kính như trong tranh khác hẳn so với những ngôi chùa xung quanh
Chùa Bút Tháp - Bắc Ninh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bút Tháp nằm tọa lạc ở thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây được trụ trì bởi Đại đức Thích Thanh Sơn. Chùa Bút Tháp khác hẳn so với những ngôi chùa khác là tạo sự thu hút vào trong chùa bằng lối kiến trúc đồ sộ mà tinh xảo. Chắc chắn Chùa Bút Tháp sẽ làm hài lòng du khách từ khắp mọi miền khi đặt chân đến đây.

Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) hay còn gọi là chùa Nhạn Tháp, từ lâu chùa đã nổi tiếng bởi vẻ đẹp độc đáo về nghệ thuật kiến trúc, lịch sử lâu đời, cũng như phong cảnh hữu tình. Chùa là sự dung hội của hai nền văn hoá Việt – Hoa. Chùa có pho tượng Quan Thế Âm nghìn mắt nghìn tay bằng gỗ lớn nhất Việt Nam và tòa cửu phẩm liên hoa với những giai thoại kỳ bí của dòng thiền Mật Tông.

Lịch sử  chùa Bút Tháp

Tương truyền, chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”.

Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.

Góc sân của Chùa Bảo Tháp
Góc sân của Chùa Bảo Tháp

Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.

Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.

Kiến trúc chùa Bút Tháp

Chùa còn lưu giữ lại nhiều di vật từ thế kỉ 17. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm 10 nếp nhà nằm trên mộ trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái. Chùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường – Thiên hương – Thượng điện tạo thành chữ “công”. Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các pho tượng.

Tháp Bảo Thiên - Chùa Bảo Tháp
Tháp Bảo Thiên – Chùa Bảo Tháp

Đặc trưng của chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 789 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm.

Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng – nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc. Phật ngồi trên toà sen hồng qua bệ tượng hình vuông được trang trí bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại như bao quát cả không gian vũ trụ.

Tượng Quan Âm hai tay chắp trước ngực, hai tay để trên đùi với những ngón tay đan chéo biểu tượng cho dáng hành đạo và nhập định; các chùm tay để trần từ sườn, vai, lưng, trên người; những tay được xếp vòng tròn từ lớn đến nhỏ hướng vào tâm (ngay sau gáy Phật) trong lòng mỗi bàn tay lại hiện lên một con mắt. Nhìn tổng thể tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay như những vòng hào quang toả ra từ tâm điểm.

Ngoài ra, trong chùa có hơn 70 pho tượng gỗ được tạc trong tư thế quỳ, đứng, ngồi với nét mặt thành kính trông rất sinh động như pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ,… còn tượng La Hán lại thể hiện cảm xúc nội tâm, mang nặng ý tưởng Phật giáo.

Phủ thờ nằm sau Phật điện là ngôi nhà 5 gian có hai pho tượng đáng chú ý. Hai pho tượng này là chân dung hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (nhà Lê) đầu đội vương miện nhưng khoác áo tu hành, và công chúa Ngọc Duyên. Cả hai pho tượng đều ngồi theo dáng toạ thiền.

Từ thượng điện, đi qua một chiếc cầu đá có ba nhịp uốn cong dẫn đến ngôi nhà gọi là Tích Thiện am. Trên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông hoa lá. Tích Thiện am là một ngôi nhà có ba tầng mái.

Trong Tích thiện am, có cây Cửu Phẩm Liên Hoa, là một tháp bằng gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.

Chùa có tháp Bảo Nghiêm thờ Hoà thượng Chuyết Chuyết, trông tháp giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05 m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn tầng trên gần giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Lòng tháp có một khoang tròn đường kính 2,29 m. Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng trệt của toà tháp này có mười ba bức chạm lấy đề tài động vật làm chính. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa.

Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động.Chùa Bút Tháp tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc cổ của các ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ, cả về giá trị nghệ thuật và lịch sử.

Chùa được cấp bằng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia từ năm 1962. Đây không nhưng là nơi sám hối, cầu nguyện của phật tử mà còn là điểm du lịch lý thú cho du khách trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bút Tháp - Bắc Ninh

Bàn về Tài Mệnh tương đố

Trong truyện Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung có 4 nhân vật đại gian , đại ác hợp thành một nhóm gọi là Tứ Ác, đứng đầu trong nhóm tà đạo để chống lại phe chính phái. Khoa Tử Vi cũng vậy, có sao thiện thì cũng có sao ác. Cầm đầu trong nhóm hung tinh này là hai đại sát tinh Địa Không và Địa Kiếp mà chúng ta thường gọi là Không Kiếp. Hai sao này cũng như những sao khác, có thể nhìn thấy bất cứ một nơi nào trên lá số, nhưng đặc biệt khi Địa Không tọa thủ tại cung Mệnh và Địa Kiếp tọa thủ tại cung Thân, hoặc Kiếp ở Mệnh, Không ở Thân làm thành cách Mệnh Kiếp Thân Không, và đó là mẫu người đặc biệt, có thể gọi chung là mẫu người Không Kiếp mà chúng ta sẽ bàn đến.
Bàn về Tài Mệnh tương đố

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trước khi phác họa những nét chính về cuộc đời của mẫu người này, chúng ta hãy nói sơ qua những đặc tính của hai sao này. Không Kiếp thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi. Tại cung Tỵ và Hợi thì KHÔNG KIếP đồng cung cho nên dù tốt xấu, uy lực của Không Kiếp sẽ gấp đôi so với Không Kiếp xung chiếu nhau ở hai cung Dần Thân.  
 
Xét về ngũ hành thì Không Kiếp tọa thủ tại cung Tỵ là tốt nhất vì hành của sao và hành của cung cùng hành Hỏa. Vị trí thích hợp thứ hai là cung Dần vì hành Mộc của cung tương sinh cho hành Hỏa của Không Kiếp, làm cho uy lực của Không Kiếp khá mạnh mặc dù là đơn thủ.  
 
Nói chung, dù đắc hay hãm, KHÔNG KIếP chủ sự hung hiểm, phá tán, bất hạnh, hoạch phát, hoạch phá. Dù nam hay nữ mà cung Mệnh hay cung Thân có Không Kiếp đắc địa tọa thủ cùng với những sao tốt là người kín đáo, thâm trầm, biết suy xét, có mưu trí và rất gan dạ. Tuy nhiên người Không Kiếp không được kiên nhẫn, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng và sớm thấy kết qủa. Cho nên nếu không được như ý hay chỉ thất bại lần đầu là nản chí ngay, bỏ cuộc dễ dàng. Nếu Không Kiếp đắc địa cùng những sao xấu tọa thủ ở Mệnh thì những đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số thành người thủ đoạn và dễ đi vào con đường tà đạo.  
 
Nếu hãm địa thủ Mệnh + những sao tốt, dù nam hay nữ, bản tánh trở nên bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt lúc xấu, vui buồn bất chợt khiến cho những người giao tiếp với đương số phải e dè. Nếu Không Kiếp hãm địa thủ Mệnh cùng với những sao xấu thì tánh tình nham hiểm, xảo quyệt, thủ đoạn, hung dữ, bạo ngược.  
 
Người Mệnh / Thân có Không Kiếp đắc địa hay hãm địa thường bị những chứng bệnh về da như mụt nhọt, ghẻ ngứa vì dị ứng, những chứng bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, viêm cuống họng, hen suyễn, khó thở… Đã mang danh là đại sát tinh cho nên những bệnh tật hay tai họa do Không Kiếp mang đến chắc không phải là đơn giản, nhẹ nhàng. Dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thì vấn đề chế giải tùy thuộc vào phúc đức của mỗi người và tùy theo sự bất hạnh xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời. Không Kiếp như Đào Hồng, càng về cuối cuộc đời thì càng tác hại nặng nề hơn lúc trẻ.  
 
Trong cuốn Tử Vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử có đề cập đến quan điểm Không Kiếp Vô Luận. Quan điểm này cho rằng: những người sinh vào tháng 4 (tháng Tỵ) và tháng 10 (tháng Hợi) thì không bị Không Kiếp phá tán vì có sự ứng hợp với hai cung Tỵ Hợi, là hai vị trí đắc địa của Không Kiếp. Quan điểm này đưa đến 2 nghi vấn, đầu tiên là Không Kiếp an theo giờ sinh, vậy tại sao chỉ vô luận đối với tháng sinh mà không áp dụng “vô luận” với giờ sinh? Thứ hai là Không Kiếp cũng đắc địa ở Dần Thân, nhưng tại sao những người sinh vào tháng Dần, và tháng Thân lại không được hưởng cách Không Kiếp Vô Luận? Theo quan niệm cổ xưa của phương đông, đàn ông chú trọng đến công danh sự nghiệp, còn đàn bà nặng về chồng con. Đối với người Không Kiếp thì hai chữ công danh, phú quý phải nhìn theo một quan niệm căn bản của khoa Tử Vi, hung tinh đắc địa phát dã như lôi, có nghĩa là hung tinh đắc địa sẽ phát nhanh như sấm sét. Điều đó sẽ kéo theo một hệ qủa không thể nào tránh được, bạo phát thì bạo tàn. Bởi vậy, người Không Kiếp làm việc gì cũng đạt đến kết qủa một cách nhanh chóng, nhưng những gì đã ở trong tầm tay lại khó giữ được lâu bền.  
 
Đó chính là hai mặt của Không Kiếp, con dao hai lưỡi, một tay nâng mình lên, một tay xô mình ngã, càng cao danh vọng thì càng lắm đau thương. Ý nghĩa đó chúng ta phải nhìn thấy để đừng qúa tin tưởng vào sự tốt đẹp của Không Kiếp khi hai sao này đắc địa, hoặc có những sao khác kiềm chế. Đặc tính của Không Kiếp là như vậy, trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu, điều mà chúng ta nghĩ là may mắn thì đó cũng chính là mầm móng của tai họa trong nay mai. Bởi vậy cái quan niệm thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, xem ra có vẽ thích hợp với mẫu người Không Kiếp, cờ đến tay thì phất, có trong tay thì hưởng.  
 
Như vậy, những sao nào có thể kiềm chế nổi hai đại sát tinh này? Có người cho rằng Tử Phủ miếu vượng thì đủ uy lực chế ngự Không Kiếp. Nhưng theo thiển ý của người viết, nếu Tử Vi hay Thiên Phủ cho dù có miếu địa mà đúng riêng lẻ một mình cũng tối kỵ Không Kiếp. Tử Vi gặp Không Kiếp khác gì Vua bị gian thần lộng quyền. Thiên Phủ mà gặp KHÔNG KIếP thì nhà kho trống trơn. Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh không đủ uy lực để chế ngự hai đại sát tinh này mà chỉ có những võ tinh như Sát Phá Liêm Tham và Thiên Tướng miếu vượng là không sợ Không Kiếp. Trói buộc được Không Kiếp chỉ có Tuần Triệt.  
 
Trường hợp đặc biệt là các văn tinh chỉ có Nhật Nguyệt là không sợ các sao “không” như Thiên Không, Địa Không mà ngược lại, vì ý nghĩa chữ “không” đối với NN là một bầu trời xanh thẳm không gợn áng mây, là điều kiện lý tưởng cho NN tỏa sáng.  
 
Đối với nữ Mệnh, Không Kiếp là hai sao bất hạnh cho đường tình duyên. Nữ mệnh có Không Kiếp là người cao số, lúc thiếu thời thì tình duyên lận đận, khi lập gia đình thì khắc chồng, khắc con. Sự xung khắc nặng hay nhẹ thì vẫn tùy thuộc vào từng lá số và mỗi thời điểm trong cuộc đời, lúc còn trẻ, nhẹ thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng thì tử biệt.  
 
Nổi bất hạnh của nữ mệnh có KHÔNG KIếP còn tùy thuộc vào những sao mà Không Kiếp đi cùng, chẳng hạn hư Đào Hồng, Riêu Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Xương Khúc… (điều này thấy không hợp lý bởi vì KHÔNG KIếP không bao giờ đi cùng với Xương Khúc. Các bạn nên cân nhắc vấn đề này) Gặp Không Kiếp thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc mệnh. Tình duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại, làm kế, làm lẽ, hai ba đời chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc, hay bạo hành vì tai nạn hay vì tính lẳng lơ, buông thả mà thất trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự chọn làm gái giang hồ v.v… đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người đàn bà gặp những cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua.  

Tuy nhiên các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Không Kiếp thì cuộc đời cũng khá nhiều gian truân nhưng không đến nổi tan tác hay trầm luân như những tuổi khác. Nếu 4 tuổi Thìn, Tuất Sửu, Mùi đắc cách Không Kiếp kiếp Tỵ Hợi thì công danh phú quý sẽ đạt được một cách dễ dàng, và thật bất ngờ. Những tuổi khác cũng được hoạch phát nhưng không giữ được lâu bền.  

Trong một lá số nếu Mệnh và Thân tốt thì cuộc đời từ ngày lọt lòng mẹ cho đến khi tư giã cõi đời đều được sung sướng. Hoặc nếu Mệnh Thân được một tốt, một xấu thì ít ra cuộc đời cũng có một khoảng thời gian sung sướng. Trường hợp nếu Mệnh và Thân cùng xấu thì cả cuộc đời là những chuỗi ngày gian truân. Và đó là nét đặc biệt của mẫu người Mệnh Không Thân Kiếp, hay Mệnh Kiếp Thân Không, một mẫu người có đầy đủ tất cả những hình ảnh đã nêu trên. Và nếu Nguyễn Du dùng truyện Kiều đễ diễn đạt cái quan niệm tài mệnh tương đố của mình, thì chúng ta cũng có thể nói rằng, mẫu người Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không là mẫu người đa tài, đa năng, đa dạng và cũng đa truân, là mẫu người mà khi bước chân vào đời đã phải ở trong cái vòng tài mệnh tương đố của tạo hóa.  
 
Tuy vậy, chúng ta cũng còn một biệt lệ cho những người Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không sinh vào các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại có sự ứng hợp, cho nên cuộc đời sẽ chiết giảm được rất nhiều những điều bất hạnh do Không Kiếp mang đến.  
 
Nếu đã nói như vậy thì niềm an ủi cũng là sự kiêu hãnh mỗi một khi mình vươn lên được trước những thử thách cay nghiệt đó, càng phong trần danh ấy càng cao. 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn về Tài Mệnh tương đố

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi Giáo sư Lê Trung Hưng
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :

1. Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2. Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không, Kiếp
3. Đời là bể khổ: cung ách
4. Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5. Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6. Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7. Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8. Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9. Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10. Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.

Bây giờ xin vào chi tiết:

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy).

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó:
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi

Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc:
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10- Anh hùng tạo thời thế:
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi

Con đường sự nghiệp của người tuổi Tuất

Trong 12 con giáp, không một tuổi nào có được sự trung thành và đáng tin cậy như người tuổi Tuất. Đó là những người luôn đề cao chữ tín, tận tụy với nhiệm vụ
Con đường sự nghiệp của người tuổi Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được giao và vì vậy mà họ được rất nhiều người tôn trọng, quý mến.

Con duong su nghiep cua nguoi tuoi Tuat hinh anh
Sự nghiệp người tuổi Tuất

Họ thường cư xử với mọi người rất đúng mực, sống chân thành, hết mình vì bạn bè, đồng nghiệp. Sự cần cù và nỗ lực trong công việc của họ được cấp trên đánh giá cao và trọng dụng. Nhờ vậy, con đường sự nghiệp của họ rất thuận buồm xuôi gió.

Trong công việc, họ luôn biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người khác. Điều này giúp họ có thêm nhiều kinh nghiệm cũng như tránh được sai sót không đáng có. Ngoài ra, với lòng chính trực, tinh thần trượng nghĩa, sẵn sàng đấu tranh với mọi bất công, họ có thể gánh vác những công việc khó khăn cho tập thể hay cộng đồng. Nếu biết phát huy ưu điểm trên và không ngừng phấn đấu thì con đường sự nghiệp của họ sẽ luôn rộng mở.

Dù biết lắng nghe nhưng không ít người tuổi Tuất có tinh thần tự lập cũng như khả năng làm việc độc lập rất cao. Chính vì vậy họ có thể đứng vững trên đôi chân của mình bằng ý chí, sức lực và tài năng. Họ ít khi chịu chấp nhận phụ thuộc hay tụt hậu so với người khác.

Người tuổi Tuất vốn không được trời phú cho óc hài hước và cũng ít người trong số họ ưa lãng mạn. Tuy nhiên cuộc sống vui vẻ và giản dị vẫn là điều mà họ luôn mong ước.

Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con đường sự nghiệp của người tuổi Tuất

Mơ thấy kiến –

Bạn ghét kiến, bởi chúng đốt rất đau. Nhưng nếu mơ thấy chúng và khám phá những điều thú vị phía sau giấc mơ ấy, bạn sẽ thấy chúng đáng yêu hơn nhiều đấy! Nằm mơ thấy kiến, là dấu hiệu của một tương lai giàu sang, vương giả. Nếu mơ thấy kiến bu quanh
Mơ thấy kiến –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy kiến –

Sao Thiên Sứ

Hành: Thủy Loại: Hung Tinh Đặc Tính: Hao tán, tai nạn, trở ngại, thị phi, khẩu thiệt, quan tụng. Sao Thiên Sứ đóng ở vị trí cố định ...
Sao Thiên Sứ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Hung TinhĐặc Tính: Hao tán, tai nạn, trở ngại, thị phi, khẩu thiệt, quan tụng.
Sao Thiên Sứ đóng ở vị trí cố định là cung Tật. Sao này là hung tinh, chỉ dùng để xem hạn, đặc biệt là tiểu hạn, chớ không có ý nghĩa lắm trên toàn cuộc đời. Thành thử, bao giờ cần giải đoán vận hạn, thì mới nên lưu ý đến vị trí và sự hội tụ của Thiên Sứ với các sao khác.
Thiên Sứ có nghĩa là buồn thảm, xui xẻo, không may, ngăn trở mọi công việc, mang lại tang thương, bệnh tật, tai họa. Ý nghĩa này chỉ có khi xét vận hạn.
Ý Nghĩa Thiên Sứ Ở Cung Hạn

  • Thiên Sứ, Kình Dương, Hỏa Tinh, Thiên Riêu, Cự Môn: Hại của, hại người.
  • Thiên Thương, Thiên Sứ: Hay ốm đau (Thiên Sứ) hay rắc rối vì hạn.
  • Thiên Sứ, Thiên Cơ, Cự Môn, Thiên Hình: Kiện tụng.
  • Thiên Sứ, Thái Tuế: Chết nếu đại hạn xấu.
  • Thiên Sứ, Thiên Không, Lưu Hà, Kình Dương đồng chiếu vào hạn: Chết.
  • Thiên Sứ, Tang Môn, Bạch Hổ: Có tang. Ở cung nào tang có thể xảy ra cho người đó.
  • Thiên Sứ ở Tý, Kình Dương, ĐàLa, Thái Tuế vào nhị hạn: Chết.
  • Thiên Sứ gặp Lục Sát: Chết.
  • Thiên Sứ ở Tý, Dần: Độc.
  • Thiên Sứ, Kình Dương, Đà La: dữ (Tử, Đồng Lương giải được).
  • Thiên Sứ , Văn Xương: Khoa trường, thi cử lận đận.
Theo Nguyễn Mạnh Bảo, năm hạn mà gặp sao này không chết thì cũng nguy mạng, nếu thiếu sao giải đủ mạnh.
  • Họa sẽ đến mau nếu Thiên Sứ ở Dần,Thân,Tỵ, Hợi.
  • Họa sẽ đến thật mau nếu: Thiên Sứ ở Tý, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi; Thiên Thương ở Sửu, Mão, Thìn, Dậu, Tuất.
Những Sao Giải Thiên Sứ
Chính Tinh:
  • Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thiên Đồng.
Bàng Tinh:
  • Hóa Khoa, Hóa Lộc, Tả Phù, Hữu Bật, Quang Quý, Khôi Việt.
  • Thiên Giải, Địa Giải, Giải thần.
  • Thiên Quan, Thiên Phúc.
  • Tuần, Triệt.
Cung Phúc Tốt:
Ngoài ra nếu Phúc có nhiều sao tốt và mạnh thì sẽ chế giải khá mạnh và toàn diện.Tuy nhiên, việc chế giải ở đây không có nghĩa là sự việc đó hoàn toàn không xảy đến, mà là nếu có đến, chuyện chẳng may đó không tác họa đúng mức, nếu gặp sao giải hiệu lực.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Sứ

Mơ thấy sinh em bé là sắp phát lộc

Người ta vẫn hay nói về giấc mơ sinh - dữ, tử - lành, nhưng trên thực tế, giấc mơ thấy chính mình sinh em bé lại là điềm báo cuộc sống gia đình bạn rất
Mơ thấy sinh em bé là sắp phát lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Người ta vẫn hay nói về giấc mơ sinh - dữ, tử - lành, nhưng trên thực tế, giấc mơ thấy chính mình sinh em bé lại là điềm báo cuộc sống gia đình bạn rất êm ấm, hạnh phúc. 

  Bạn mơ thấy mình sinh con trai, đó là tin rất tốt lành. Giấc mơ này có ý nghĩa rằng chồng bạn sắp được thăng quan tiến chức. Lúc đó, bản thân bạn cũng sẽ được mọi người nể trọng, thậm chí ngưỡng mộ.   Nếu mơ thấy mình sinh bé gái, điềm báo này ám chỉ rằng con gái bạn sẽ được gả vào một gia đình nề nếp, gia giáo.   Nếu bạn mơ thấy một người phụ nữ khác sinh con là điềm lành báo rằng tài lộc đang đến với bạn.   Mơ thấy tự mình đỡ đẻ là điềm báo bạn sẽ có được niềm vui, hạnh phúc. Khi bạn mơ thấy người khác đỡ đẻ cho ai đó thường là điềm báo bạn sẽ được quý nhân phù trợ.

Mo thay sinh em be la sap phat loc hinh anh
Ảnh minh họa
  Nằm mơ thấy vợ sinh là điềm sa sút trong gia đình.   Nằm mơ thấy sinh ra đứa trẻ bị tàn tật là điều tai ương.   Nếu bạn nằm mơ thấy sinh đôi, điều này ám chỉ đến những mâu thuẫn hay xung đột trong ý tưởng của bạn. Nếu bạn mơ thấy sinh sinh tư, điều này báo hiệu rằng bạn đang trải qua một sự thay đổi tích cực. Nó cũng báo hiệu rằng những mong muốn của bạn có thể trở thành hiện thực.    Nếu trong giấc mơ bạn mơ thấy sinh non, điều này cảnh báo bạn không được tiết lộ hoặc lặp lại một công việc hay tình huống nào đó khi nó chưa được hoàn thành. Nó cũng cho thấy bạn đang cảm thấy chưa sẵn hoặc không có sự chuẩn bị trước cho một nỗ lực mới.   Nếu bạn nằm mơ thấy sinh đẻ ra một sinh vật không phải con người, điều này cho thấy bạn đang quá lo lắng đến sức khỏe của em bé. Bạn sợ nó sẽ bị dị tật bẩm sinh. Đây là loại giấc mơ thường gặp ở bà mẹ tương lai trong tam cá nguyệt thứ hai của họ. Còn nếu như bạn không hề có thai, thì giấc mơ này thể hiện sự sợ hãi của bạn trước kết quả của một số quyết định hay công việc mà bạn thực hiện. Bạn đang cố gắng để vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.   Đặc biệt, nếu bạn mơ thấy sinh ra một con quái vật, điều này cho thấy những năng lượng sáng tạo và tiềm năng bên trong của bạn vẫn chưa được khám phá và phát triển. Bạn có một số do dự trong việc thể hiện bản thân mình vì sợ những người khác sẽ đánh giá hoặc không chấp nhận bạn. M Nếu bạn nằm mơ thấy mình sinh ra một em bé nặng bất thường, điều này cho thấy bạn đang lo ngại rằng người khác sẽ lợi dụng, dựa dẫm hoặc đòi hỏi ở bạn. Nếu bạn mơ thấy người khác sinh đẻ một em bé rất nặng, điều này cảnh báo có người đang đè gánh nặng của họ lên vai bạn.   Nếu bạn nằm mơ thấy người mẹ bị chết trong khi sinh, giấc mơ này báo hiệu của sự chấm dứt hay kết thúc của một điều nào đó và tạo ra một sự khởi đầu mới. Cuộc sống của bạn sẽ có một số thay đổi hơn.    Nếu bạn mơ thấy em bé chết trong khi sinh, điều này cho thấy rằng bạn đang gặp khó khăn khi mang thai. Nó cũng phản ánh sự  lo âu của bạn về cách chăm sóc cho một đứa trẻ.

► Tham khảo thêm: Giải mã những giấc mơ và điềm báo hung cát

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sinh em bé là sắp phát lộc

Xem tướng phụ nữ hiếm con –

Tướng phụ nữ hiếm con hoặc không có con thể hiện qua các đặc điểm khuôn mặt và thân hình như sau: Xem tướng phụ nữ. - Tóc thô vàng và khô; lông mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng, hầu như không có. - Trán nhô quá cao; mắt lõm sâu, khu vực Lệ Đườn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng phụ nữ hiếm con hoặc không có con thể hiện qua các đặc điểm khuôn mặt và thân hình như sau:

Xem tướng phụ nữ.

image_26573_200910248116-5

– Tóc thô vàng và khô; lông mày ngắn, hẹp, thưa và mỏng, hầu như không có.

– Trán nhô quá cao; mắt lõm sâu, khu vực Lệ Đường (dưới mắt) khuyết lõm, ánh mắt mông lung và hỗn tạp, không có thần thái.

– Mũi quá thấp, quá cao hoặc gãy, nhọn và có gân hay vết hằn tự nhiên.

– Môi cong lên, hoặc môi trên bao phủ môi dưới, màu sắc xanh xám hay trắng bệch; nhân trung hẹp và bằng phẳng; da mặt không có thần sắc, mặt nhỏ nhọn, tai quá nhỏ.

– Đầu nhũ hoa hướng xuống dưới, núm nhũ hoa thụt sâu vào trong.

– Da mỏng, thịt khô hoặc thịt nhiều trong khi xương quá nhỏ.

Các nét tướng trên đều là xấu đối với phụ nữ. Tuy nhiên, nếu chỉ mang một vài điểm liên quan đến diện mạo (mắt, môi, tai…) kể trên thì người này chỉ hiếm con chứ không phải là hết hy vọng về đường con cái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng phụ nữ hiếm con –

Mơ thấy đà điểu: Tượng trưng cho thành công và vận may –

Giấc mơ với hình ảnh đà điểu là dự báo về thành công và vận may. Mơ thấy đà điểu, cho thấy trong tiềm thức của bạn hiện hữu dự định sẽ đi châu Phi một chuyến. Hình ảnh con chim kỳ lạ này trong mơ là điềm báo công thành danh toại; nếu bạn mơ thấy cảnh
Mơ thấy đà điểu: Tượng trưng cho thành công và vận may –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đà điểu: Tượng trưng cho thành công và vận may –

Ý nghĩa ngày 29 tháng 2: ngày phụ nữ cầu hôn

29/02 không chỉ đặc biệt với những người có sinh nhật vào ngày này, mà còn đặc biệt với cả những người phụ nữ muốn cầu hôn.
Ý nghĩa ngày 29 tháng 2: ngày phụ nữ cầu hôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo lịch phương Tây (lịch dương) thì ngày 29/02 là ngày nhuận, 4 năm mới có một lần. 29/02 không chỉ đặc biệt với những người có sinh nhật vào ngày này, mà còn đặc biệt với cả những người phụ nữ muốn cầu hôn vì cơ hội này chỉ tới 4 năm một lần. 

 
Y nghia ngay 29 thang 2 ngay phu nu cau hon hinh anh
Ảnh minh họa

 
Theo truyền thuyết, vào thế kỷ thứ 5 lại Ireland, vị nữ thánh Kildare có than phiền với thánh Patrick rằng những người phụ nữ Ireland phải chờ đợi rất lâu mới được đàn ông trong vùng cầu hôn. Chính vì vậy, thánh Patrick đã đồng ý, và cho phép phụ nữ trong vùng được cầu hôn bất kỳ đàn ông nào mà họ thích vào ngày 29 tháng 2 mỗi năm nhuận.
 
Cho đến năm 1288, ở Scottland truyền thống này được nâng lên thành một đạo luật ban bố bởi nữ hoàng Margarite và ngày 29/2 trở thành "Ngày Quyền Lợi Phụ Nữ". Trong ngày đặc biệt này, những người phụ nữ Scottland có thể cầu hôn với bất cứ người đàn ông nào mà họ yêu thương. Theo thời gian, phong tục này được lan rộng ra cả Châu Mỹ và châu Âu, đây được coi là cơ hội 4 năm mới có 1 lần để phái yếu bày tỏ tình cảm với phái mạnh mà không phải chịu bất cứ rào cản nào.
 
Y nghia ngay 29 thang 2 ngay phu nu cau hon hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Và những người đàn ông khi được tỏ tình, nếu không muốn nhận tình cảm của người phụ nữ đó thì phải có một món quà hồi đáp là 1 bảng Anh hoặc phải tặng một tấm áo lụa xem như món quà để xoa dịu nỗi buồn cho người phụ nữ ấy.
 
Ở Đan Mạch, người đàn ông khi từ chối lời tỏ tình phải tặng cho cô gái đó 12 đôi găng tay, còn ở Phần Lan người đàn ông phải tặng một tấm vải để phụ nữ may váy.
 
Trong lịch sử đã có rất nhiều nhân vật nổi tiếng nên duyên nhờ chủ động cầu hôn trong ngày này. Còn ngày nay thì cũng có rất nhiều những sự kiến thú vị đã diễn ra như vào ngày 29/02/2004, hơn 7.000 phụ nữ Anh "rủ nhau" chủ động cầu hôn bạn trai, trong đó một MC đã cầu hôn thành công bạn trai ngay trên sóng truyền hình.

=> Xem thêm: Những phong tục kì lạ trên thế giới

S.T
  12 cô nàng hoàng đạo mơ nhận được món quà cầu hôn nào?
Giây phút hạnh phúc nhất trong tình yêu là nhận được lời cầu hôn – chìa khóa mở ra chặng đường hạnh phúc mới từ chàng. Món quà cầu hôn nào 12 chòm sao nữ mơ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa ngày 29 tháng 2: ngày phụ nữ cầu hôn

Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Dần, Mão

Con tuổi Tý, Thìn, Ngọ, Tuất, Hợi: Nhìn chung, gia đình đầm ấm, yên vui. Mọi người luôn quan tâm, đùm bọc lẫn nhau, con cái được cha mẹ yêu thương, chăm sóc
Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Dần, Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cha mẹ tuổi Dần

- Con tuổi Tý, Thìn, Ngọ, Tuất, Hợi: Nhìn chung, gia đình đầm ấm, yên vui. Mọi người luôn quan tâm, đùm bọc lẫn nhau, con cái được cha mẹ yêu thương, chăm sóc cẩn thận. Tuy nhiên, hai bên vẫn xảy ra những xung đột nhỏ nhưng sẽ được giải quyết ổn thỏa.

- Con tuổi Sửu, Dần, Mão, Tỵ, Mùi, Thân, Dậu: Gia đình có xung khắc, không được yên ấm lắm, con cái hay cãi lại cha mẹ hoặc đi thoát ly sớm. Nhìn chung, cha mẹ và con cái thường không hiểu nhau.

Tuoi Ty (7)
 

2. Cha mẹ tuổi Mão

- Con tuổi Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu: Gia đình tràn ngập tiếng cười, hạnh phúc ấm êm. Tuy nhiên, cha mẹ không nên quá nghiêm khắc với con tuổi Ngọ để con có thể phát triển được tốt nhất.

- Con tuổi Tý, Sửu, Dần, Tuất, Hợi: Gia đình không được hòa thuận lắm, thậm chí còn lạnh nhạt và bế tắc. Cha mẹ ít có điều kiện chăm sóc con cái. Chính vì vậy, con cái cũng không hiếu thuận, hay cãi lại cha mẹ, nói dối hoặc bất đồng quan điểm.

(Theo Đời người qua 12 con giáp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ tuổi Dần, Mão

3 chòm sao nữ vị tha, có tầm lòng độ lượng

Có những người bị tổn thương cũng tự mình chịu đựng, người khác xin lỗi là lập tức tha thứ. 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.
3 chòm sao nữ vị tha, có tầm lòng độ lượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có những người nội tâm không ai nhìn thấu, tuy rằng bề ngoài kiên cường nhưng trong lòng lại rất yếu đuối, bị tổn thương cũng chỉ có thể tự mình chịu đựng, chỉ cần người khác mở lời xin lỗi là lập tức đồng cảm, tha thứ. Trong 12 cung hoàng đạo, thì 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.

 

3 chom sao nu vi tha, co tam long do luong hinh anh
 

 

Thủy Bình (Bảo Bình)

  Cô nàng Thủy Bình chân thật mà nói thì không thanh cao nhưng vô tâm, lười cùng người khác đôi co, tranh đoạt. Người với với người kết giao quan trọng nhất là cái tình, sự thấu hiểu và tương giao nên Thủy Bình suy nghĩ rất đơn giản, hợp thì ở chung, không hợp thì tách ra, ít oán trách thì đời vui vẻ.   Thủy Bình với việc ăn nói cũng không thông thạo, sợ rằng lời mình nói ra không đủ rõ ràng, không hết ý trong lòng khiến người khác hiểu lầm nên tốt nhất là không nói. Lâu dần, người ta cho rằng chòm sao nữ vị tha này thanh cao.

Mời bạn xem thêm: Bảo Bình và cung hoàng đạo nào có mối lương duyên trời định? 

 

Thiên Yết

  Đối với Thiên Yết mà nói, nếu là bạn bè thì không cần giải thích, không bạn bè thì giải thích cũng chẳng ích gì. Nếu đã không liên quan đến nhau thì gặp gỡ cũng không chuyện trò, ta đi đường ta, người đi đường người, không vướng bận.   Đây là chòm sao ngoài lạnh trong nóng điển hình, lúc nào cũng lãnh đạm đấy nhưng nội tâm lại yếu đuối, lo lắng bị người khác nhìn thấu, không an toàn nên dần lùi bước, tự dưng có cảm giác “cao cao tại thượng”, xa vời với người khác. Dần dần trở thành không quan tâm tới sự đời, nếu không phải chuyện quá nghiêm trọng thì đều bỏ qua. Cũng có thể coi Thiên Yết là chòm sao nữ hiền lành. Tìm hiểu thêm: 360 độ về Thiên Yết

Sư Tử

  Bề ngoài là chòm sao quảng giao nhưng trong vấn đề tình cảm lại hoàn toàn yếu thế. Sư Tử là chòm sao thanh cao thật, không phải chỉ vô tình hay cố tình làm thế, đó là khí chất tự nhiên. Họ thuần túy, đơn giản và không bao giờ mưu tính hại người, cũng không thù lâu nhớ dai, tha thứ được đều tha thứ.  
3 chom sao nu vi tha, co tam long do luong hinh anh
 
Sư Tử thường sợ làm tổn thương người khác nên chính mình nhận lấy tổn thương, thà rằng bỏ qua chứ không muốn dây dưa thêm phiền hà. Thà là một mình mình chịu ấm ức chứ không muốn cả đôi bên đều phải tổn hại. Cô nàng này quả nhiên là chòm sao nữ lương thiện.

Có thể Sư Tử quan tâm: 9 Điều khiến nhiều người yêu mến Sư Tử

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 chòm sao nữ vị tha, có tầm lòng độ lượng

Giải nghĩa nốt ruồi dưới cằm của nam và nữ –

Dưới cằm là vị trí mà rất nhiều người cả nam và nữ đều có nốt ruồi mọc. Và ở vị trí này, nốt ruồi cũng sẽ mang những ý nghĩa nhất định. Với nam và nữ, các ý nghĩa này có thể khác biệt nhau rất lớn. Nốt ruồi dưới cằm nam giới Với nam giới, có thể thấy
Giải nghĩa nốt ruồi dưới cằm của nam và nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải nghĩa nốt ruồi dưới cằm của nam và nữ –

Treo gương bát quái trên cửa nhà có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện không

Chắc hẳn nhiều người sẽ băn khoăn, không biết treo gương bát quái trên cửa có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện hay không?
Treo gương bát quái trên cửa nhà có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện không

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi một vòng qua các khu nhà, bạn có thể phát hiện ra rằng có rất nhiều nhà treo gương bát quái hoặc gương bát quái trên mi cửa chính . Mục đích của việc treo gương bát quái chính là nhằm mục đích hóa giải các khí xấu chiếu vào nhà hoặc hấp thụ khác luồng khí tốt ở xa nhà. Trong tình trạng hiện nay, đất cát khan hiếm, nhà nọ nối tiếp nhà kia xây san sát nhau, cửa chính nhà này đối diện cửa chính nhà kia hoặc cửa sổ đối diện nhau là hết sức phổ biến. Chắc hẳn nhiều người sẽ băn khoăn, không biết treo gương bát quái trên cửa có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện hay không?

Để hiểu được rõ vấn đề trên bạn đọc cần phải hiểu qua công dụng của Gương bát quái trong phong thủy. Gương bát quái được chia làm 3 loại, gương lồi, gương lõm và gương phẳng

1. Gương bát quái lồi:

Gương lồi có một đường cong hướng ra ngoài cạnh của nó, phản xạ và làm đổi hướng những sát khí có hại. Gương lồi giống như mai rùa, có hình cầu lồi lên, là 1 công cụ hóa giải sát khí. Có rất nhiều vật thể mang sát khí trong phong thủy như cột đèn, các vật thể có hình dáng nhọn sắc, con đường chạy thẳng vào nhà, nhà thờ, cột cờ, khoảng không gian giữa 2 tòa nhà cao, biển báo giao thông, ống khói…

Khi nhà ở bị các vật thể mang sát khí xung chiếu, gương lồi sẽ có tác dụng rất hữu hiệu. Nếu cửa chính hoặc cửa sổ bị các vật mang sát khí chiếu thẳng vào, có thể treo gương lồi trước cửa để hóa giải.

Các trường hợp dùng gương lồi:

- Nhà đối diện ngõ, ngã 3, bị con đường xuyên thẳng vào nhà

- Nhà đối diện cột đèn, cột điện, cây nhọn chĩa thẳng vào nhà

2. Gương bát quái lõm:

Gương lõm có tác dụng hấp thụ các khí tốt, tích tụ các nguồn năng lượng, nó cong lõm vào trong. Tác dụng của gương lõm lại trái ngược so với gương lồi: gương lồi dùng để “phân tán”, còn gương lõm dùng để “tích tụ” năng lượng. Nếu phương vị phong thủy nào có hiện tượng thất tán khí hoặc các vật thể được coi là tốt đẹp lại cách nhà quá xa, có thể treo gương lõm để thu hút năng lượng tốt.

Ví dụ, khi cửa chính đối diện cầu thang đi xuống, khí cát trong nhà sẽ thất tán. Lúc này nên treo 1 gương  lõm trước cửa. Hoặc trong trường hợp từ cửa sổ có thể nhìn thấy 1 ngọn núi với hình dạng đẹp, thuộc loại núi Văn Xương (có lợi cho đường học vấn), nhưng lại cách nhà quá xa, hãy treo 1 tấm gương lõm trước cửa sổ để thu nạp khí tốt của núi.

Gương bát quái lõm dùng trong trường hợp

- Phía xa nhà có nguồn năng lượng tốt như 1 ngọn núi

- Tuổi của chủ nhà hợp với hướng của nhà, muốn hấp thụ nguồn khí tốt

- Trong nhà có cầu thang đối diện cửa, treo gương bát quái để tránh khí tốt bị tản ra

3. Gương bát quái phẳng:

Một gương phẳng được coi là trung lập. Đối với gương phẳng, nếu đặt trong nhà cũng có tác dụng thu hút, thâu tóm năng lượng tốt trong phong thủy. Nếu treo ngoài cửa chính hoặc cửa sổ sẽ có tác dụng phản xạ.

Treo gương phẳng tại phương vị cát lợi sẽ có tác dụng thu hút khí tốt; đồng thời, khi treo gương phẳng tại phương vị bị xung sát lại có tác dụng ngăn cản, hóa giải khí xấu.

Sau khi đã hiểu rõ tác dụng của các loại gương bát quái, có thể khẳng định một điều, cho dù có bị gương bát quái chiếu thẳng vào nhà cũng không có gì đáng ngại. Bát quái là một ký hiệu của vũ trụ , chỉ có tác dụng hóa giải điềm dữ, hoặc thu hút khí tốt chứ không hề gây bất lợi. Về cơ bản, bản thân bát quái không gây sát khí. Thông thường bát quái được in trên chất liệu gỗ, thi thoảng còn đính kèm gương nhỏ ở chính giữa nên được gọi là gương bát quái .

Tuy nhiên, nếu trên gương bát quái lại kèm thêm chạc đinh ba hoặc tranh thần tướng cưỡi hổ, tay cầm vũ khí thì sự việc sẽ khác. Vì chạc đinh ba và vũ khí trên tay thần tướng đều là vật sắc nhọn, hổ trắng cũng mang sát khí, nếu đối diện với cửa nhà người khác cũng gây sát khí cho họ. Bởi vậy bạn không nên treo gương bát quái dạng này đối diện với nhà hàng xóm.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo gương bát quái trên cửa nhà có gây ảnh hưởng cho nhà đối diện không

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd