Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Các lễ hội tiêu biểu trong ngày 2 tháng 8 âm lịch - Lễ Hội Mai Viên

Lễ Hội Mai Viên được tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 8 âm lịch hàng năm tại huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội tiêu biểu trong ngày 2 tháng 8 âm lịch - Lễ Hội Mai Viên

Các lễ hội tiêu biểu trong ngày 2 tháng 8 âm lịch - Lễ Hội Mai Viên

Lễ Hội Mai Viên

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thành Hoàng Làng là nhị vị công chúa Áo Đỏ Đại Vương.

Nội dung: Hội Mai Viên có lễ dâng hương cúng Thành hoàng được diễn ra trong một bầu không khí trang nghiêm. Lễ vật dùng để dâng cúng là: lợn đen, xôi, rượu. Phần hội cũng khá đông vui, nam nữ thanh niên tổ chức các tiết mục liên hoan văn nghệ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội tiêu biểu trong ngày 2 tháng 8 âm lịch - Lễ Hội Mai Viên

Mơ thấy chìa khóa: Tượng trưng cho quyền lực –

Chìa khóa đại diện cho quyền lực. Mơ thấy đánh mất chìa khóa có nghĩa là bạn mất đi quyền khống chế, hay không đủ điều kiện để có được quyền lực. Mất chìa khóa trong mơ còn tượng trưng cho cảm giác bất lực của bạn khi không tìm được phương pháp cần t
Mơ thấy chìa khóa: Tượng trưng cho quyền lực –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chìa khóa: Tượng trưng cho quyền lực –

Tử vi Mậu tý Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi Mậu Tý là chuột trong kho lẫm, là người có tấm lòng lương thiện, làm việc công bằng, cả đời của cải không thiếu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

MẬU TÝ: TÍCH LỊCH HỎA

Trong tử vi Mậu Tý là chuột trong kho lẫm, là người có tấm lòng lương thiện, làm việc công bằng, cả đời của cải không thiếu.

Tích lịch Hỏa là 1 tia sáng trên trời, có hình chớp điện ngoằn ngoèo, mạnh mẽ giống như tiếng vó ngựa ầm vang. Hỏa này cần có lôi hỏa phong trợ giúp mới có thể biến hóa.

Tích lịch Hỏa là Hỏa trong Thủy, không có thần long không thể có nó.

Trong tử vi nếu như nhật trụ, thời trụ gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy là Dẫn phàm nhập thánh cách.

Gặp Ất Mão Đại khê Thủy cũng được cát lợi. Duy Tý Mão phạm hình, trong cát có hung.

Các Thủy khác, ví dụ như Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy đều vô dụng.

Gặp Mộc chỉ ưa Tân Mão Tùng bách Mộc; Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc, các Mộc khác vô dụng.

Ưa gặp Đinh Tỵ Sa trung Thổ, Kỷ Mão Thành đầu Thổ, lại có Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy trợ giúp, ắt được quý hiển.

Kim ưa Giáp Tý, Ất Sửu Hải trung Kim; Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, nhưng cần có Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy, chủ về cát lợi. Các Kim khác đều vô dụng.

Không ưa Bính Dần Lư trung Hỏa, quá nóng, e rằng yểu thọ.

Cũng không ưa Bính Thân Sơn hạ Hỏa, chủ về nghèo hèn.

Nhật trụ và thời trụ có Mão, gọi là Lôi đình đắc môn cách. Duy nhật trụ có Mão là khắc vợ hoặc chồng; thời trụ có Mão, khắc con trưởng.

Nạp âm có Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, gọi là Liệt phong lôi vũ cách. Người đắc cách này không sợ Tý Ngọ xung, Tý Mùi hại.

Nạp âm có Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa gọi là Thiên địa trung phân cách, không sợ Tý Ngọ tương xung.

Mậu lộc tại Tỵ, Địa chi của các trụ khác ưa Tỵ, không có Tỵ mà gặp Thân cũng được cát lợi.

Tý mã tại Dần, Địa chi của các trụ khác không ưa có Thân, có Tỵ, mã bị hình, không nên kinh doanh, chủ về bỏ mạng nơi đất khách.

Mậu quý tại Mùi, gặp Mùi đều cát lợi.

Gặp năm Tý, năm Ngọ, trong nhà không yên ổn. Nếu như bản thân không bị thương hại thì ngưòi nhà cũng khó được yên ổn.

Bạn đời không nên lấy người sinh năm Giáp, Ất. Nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.

Mệnh nữ có năng lực, có chí khí nhưng phần lớn vất vả.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Mậu tý Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Mặt trời và nguồn năng lượng dương

Một trong những cách dễ nhất để thu hút năng lượng là bảo đảm rằng không gian trong nhà bạn thỉnh thoảng được tắm trong ánh nắng. Điều này là bởi mặt trời là biểu tượng mạnh nhất và là nguồn năng lượng dương.
Mặt trời và nguồn năng lượng dương

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mặt trời cùng một lúc có thể thanh lọc và cung cấp năng lượng dương. Vì lý do này, ngôi nhà không có đủ ánh sáng mặt trời bị xem như thừa năng lượng âm. Và như vậy, nó rơi vào tình trạng có qua nhiều năng lượng kém may mắn. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do cây cối um tùm che khuất ánh sáng mặt trời. Cây trồng xung quanh nhà nên được tỉa cành thường xuyên để ánh sáng mặt trời có thể rọi qua. Có nhiều phương pháp sử dụng năng lượng dương quý báu của mặt trời để tăng cường toàn bộ điều kiện phong thủy cho ngôi nhà. Cụ thể như :

– Bạn có thể dùng nước được cung cấp năng lượng dương để bổ sung cho nước dùng tưới cây, nước trong ao, bể cá và nước đổ bình bông. Đặt một chậu nước trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời ít nhất trong ba giờ. Nắng ban mai là tốt nhất. Nên nhớ rằng nước được cung cấp năng lượng mặt trời thì đầy sức sống.

– Bạn có thể treo pha lê dọc theo cửa sổ để trực tiếp đón ánh mặt trời rọi qua các bức tường. Pha lê sẽ làm tan sắc ánh nắng và tạo nên nhiều cầu vồng rực rỡ trong nhà. Điều này sẽ khiến ngôi nhà bạn tràn ngập năng lượng dương quý báu tạo nên sự hòa thuận và không khí vui tươi trong nhà.

– Bạn cũng có thể làm tươi mới năng lượng của ánh nắng trong ngôi nhà bằng cách mở tất cả cửa ra vào, cửa sổ, màn cửa để ánh nắng tràn vào ngôi nhà. Điều này sẽ làm sạch tất cả năng lượng âm tù đọng tích lũy bấy lâu. Hãy làm điều này mỗi tháng một lần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mặt trời và nguồn năng lượng dương

Ý nghĩa phong thủy của hoa Đào –

Đào cũng vốn được trồng từ Trung Quốc, mang những nét đặc sắc văn hóa của người Trung Quốc. Trong dân gian, tôn giáo, quan niệm thẩm mỹ đều có những lời lẽ ca ngợi chúng. Hoa đào đỏ, trắng, phấn hồng, đỏ đậm, lan man phương phi, kiều diễm xuất chúng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

dsc_1221

Người Trung Quốc thường lấy hoa đào để ví với sắc đẹp kiều diễm của mỹ nhân và chữ “đào” thường dùng trong tên của những người con gái, ví dụ như: Đào hoa trang, Đào hoa vận, Đào sắc tân văn… Văn hoá này cũng được truyền sang Nhật Bản, Phong lữ dương của Nhật Bản (bồn tắm) cũng được ghi chữ “đào chi đang”, “tùng chi đang” (bồn tắm nữ, hồn tắm nam). Nhưng người ta ai cũng thích đào.

Người xưa tin đào có linh khí, đào vào tháng 3 mà không nở hoa, ắt dự báo có hỏa hoạn. Thắng 3 cũng được gọi là “đào nguyệt”. Trong thần thoại Trung Quốc có nói cây đào biến thành cây trượng cầm tay của Hoá Phu. Trong “Sơn Hải kinh” có ghi lại: “Khoa Phụ và cuộc rượt đuổi mặt trời, khi tiếp cận được mặt trời, ông khát muốn được uống nước, uống nước ở sông vị, Vị Hà không đủ. bèn chạy đến biển Bắc Hải nhưng trên đường đi thì chết vì khát, bỏ lại cây trượng, hoá thành Đặng Lâm. (Đặng Lâm tức là rừng đào)”.

Trong Thái hình ngự lâm có dẫn “điển thuật” viết: “Đào giả. ngũ mộc chi tinh dã, cố khuyển phục tà khí giả giã. Đào chi tinh sinh tại quỳ môn, chế bách quỷ, cố kim tác đào nhân canh tru môn, dĩ khuyển tà khi (Đào là tinh khí của Ngũ mộc, nên có thể trừ tà khí vậy). Đào ché bách quỷ, quỷ vị đào mộc. Người xưa thường dùng gỗ đào làm thành những vật phẩm để trừ tà như: Đào ấn, Đào phù, Đào kiếm, Đào nhân…

Từ thời Ngũ đại hậu Thục (Trung Quốc) bắt đầu viết những câu đối trên gỗ đào. Giờ đây, mỗi khi xuân đến, người ta vẫn lưu truyền cách thức dân gian này, chỉ có thay bằng vật liệu là giấy đỏ. Tết Đoan Ngọ, người ta cắm cành đào ngoài cửa cũng xuất phát từ quan niệm xưa cho rằng đào có thể tránh tà khí. Cây đào hoa đẹp, quả tươi, trong tâm lí dân gian đó là để dẫn cát tránh tà, lại giảm bệnh tật mà để trống, chính vì vậy trong cốc vườn cây, hoa viên thường trong loại cây này.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của hoa Đào –

Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình –

Mỗi màu sắc đều có ý nghĩa riêng, màu vàng tượng trưng cho sự giàu có, màu xanh lá cây sẽ tràn đầy sinh khí. Cùng ## xem phong thủy nhà ở và khám phá xem màu sắc theo phương hướng mang đến may mắn cho gia đình như thế nào nhé! 1. Hướng
Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

jy6Z7ygyaNhYb Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình

Mỗi màu sắc đều có ý nghĩa riêng, màu vàng tượng trưng cho sự giàu có, màu xanh lá cây sẽ tràn đầy sinh khí. Cùng ## xem phong thủy nhà ở và khám phá xem màu sắc theo phương hướng mang đến may mắn cho gia đình như thế nào nhé!

1. Hướng Đông – màu đỏ

## thấy theo truyền thống, màu đỏ tượng trưng cho niềm hân hoan, nhiệt tình, táo bạo và dám làm. Theo phong thủy, hướng Đông tượng trưng cho tuổi trẻ và tinh thần mạo hiểm, dũng cảm. Vì vậy, hướng Đông nên bài trí vật dụng gia đình với sắc đỏ là màu chủ đạo, như vật trang trí bằng gỗ lim, tấm thảm màu đỏ… Điều này sẽ thúc đẩy nguồn năng lượng dồi dào, có lợi cho sự nghiệp và học hành của các thành viên trong gia đình.

2. Hướng Nam – màu xanh lá cây

Trong phong thủy, hướng Nam chi phối năng lượng linh cảm và giao tiếp xã hội. Màu xanh lá cây có nghĩa là tràn đầy sinh khí và sự tươi mới. Ở hướng Nam, nên bố trí các loài thực vật có màu xanh lá cây, ngoài việc tăng thêm tính thẩm mỹ khi phối hợp với cây cỏ còn có sự tác động tích cực đến các mối quan hệ giữa các cá nhân.

3. Hướng Tây – màu vàng

Màu vàng được dùng để tượng trưng cho sự giàu có. Hướng Tây được coi là phương vị chi phối sự nghiệp và tài vận. Nếu bài trí phụ kiện nội thất trong gia đình như đá thạch anh màu vàng thì có thể khiến cho tài vận thịnh vượng, đường sự nghiệp rộng mở.

4. Hướng Bắc – màu cam

Theo ## thì hướng Bắc phụ trách các mối quan hệ tình cảm, hôn nhân. Màu cam có nghĩa là nhiệt huyết dâng trào. Muốn thúc đẩy tình cảm của các cặp tình nhân, vợ chồng thì phòng ngủ ở phía Bắc nên để một chiếc đèn ngủ màu cam, tấm thảm nhỏ hoặc gối ôm đều sẽ có lợi cho tình cảm của các cặp tình nhân và vợ chồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình –

Hướng cửa chính 'đón rước' giàu sang

Trong phong thủy nhà ở, cùng với hướng nhà, hướng cửa chính được coi là quan trọng nhất vì đây chính là nơi thu hút năng lượng và tài lộc cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong đó, hướng cửa chính dựa vào hai yếu tố: Cung mệnh của chủ nhà và phương hướng theo thuật phong thủy hiện đại. Đối với thuật phong thủy hiện đại, hướng Đông và hướng Nam của căn nhà được coi là hai hướng đẹp nhất.

Chọn theo phong thủy hiện đại

Theo quan điểm phong thủy hiện đại thì mỗi hướng nhà đều có những ưu và nhược điểm riêng. Sau đây là những ưu và nhược riêng của từng hướng mà gia chủ có thể tham khảo và quyết định cho ngôi nhà theo mong muốn thay đổi, để củng cố thêm về công việc hay cuộc sống gia đình.

 huong cua chinh 'don ruoc' giau sang - 1

Cửa chính là nơi quan trọng nhất thu hút năng lượng và tài lộc cho gia chủ. Ảnh minh họa.

- Hướng Tây Bắc: Cửa nhà nằm hướng Tây Bắc sẽ rất tốt cho người đứng đầu gia đình. Hướng này gia cố thêm phẩm chất lãnh đạo, tạo thêm sự tin tưởng và tôn trọng của các thành viên trong gia đình với người “trụ cột”.

- Hướng Bắc: Đây là hướng tạo sự yên tĩnh trong cuộc sống. Tuy nhiên, để sự yên tĩnh không trở thành sự lạnh nhạt và sự ủy mị thì gia chủ nên sơn cửa màu nâu và treo một quả cầu trong phòng khách của gia đình. Những yếu tố này còn tạo sự hòa hợp trong gia đình.

- Hướng Đông Bắc: Đây là hướng xấu nhất cho cửa chính. Nó làm phơi bày sức mạnh của gia chủ ra bên ngoài và mang quá nhiều ánh sáng vào ngôi nhà. Chỉ nên dùng hướng này cho những người trẻ vốn có cuộc sống tươi mới nhiều năng lượng.

- Hướng Đông: Cửa nhà hướng Đông là hướng tốt cho những người trẻ tuổi, đặc biệt những người mới bắt đầu sự nghiệp và sẵn sàng biến ước mơ của mình thành hiện thực. Đây là hướng cửa trước thuận lợi cho các doanh nhân và chủ doanh nghiệp.

- Hướng Đông Nam: Là hướng cửa nhà cho những ai muốn cải thiện tài chính của mình, nhưng sự tiến bộ sẽ chậm. Tuy nhiên, hướng Đông Nam được coi là một trong những hướng tốt tạo cho  gia đình sự bình yên và hạnh phúc.

- Hướng Nam: Là hướng lý tưởng cho những người hoạt động xã hội. Nó mang lại sự công nhận và nổi tiếng cho gia chủ. Tuy nhiên, khi để cửa chính ở hướng này, gia chủ cũng nên cẩn thận vì hướng này có thể gây ra căng thẳng và tranh luận trong gia đình. Nhưng bạn có thể hạn chế điều này bằng cách sơn cửa màu đen hoặc xanh đen.

- Hướng Tây Nam: Hướng này thuận lợi cho những bà mẹ. Nó giúp cải thiện và tăng cường các mối quan hệ trong gia đình. Tuy nhiên, nó có thể làm gia tăng quá mức quyền lực của người phụ nữ trong gia đình. Để hạn chế điều này, hãy thay đổi kích thước của cửa chính.

- Hướng Tây: Là hướng tốt nhất cho các gia đình có trẻ nhỏ, hướng này giúp trẻ tăng trưởng và phát triển tốt. Nó cũng mang lại sự lãng mạn và niềm vui trong gia đình. Để hài hòa với cửa hướng Tây bạn nên sơn cửa màu của đất như màu vàng hoặc nâu.

 huong cua chinh 'don ruoc' giau sang - 2

Hướng cửa chính phải phù hợp với cung mệnh của gia chủ. Được như vậy ý nghĩa của mỗi hướng mới thật sự hoàn hảo.

Chọn theo trạch mệnh gia chủ

Về việc chọn hướng nhà theo trạch mệnh riêng của các gia chủ, thuật phong thủy phân con người ra hai nhóm: Đông tứ mệnh và Tây tứ mệnh; đất đai cũng có hai loại là Đông tứ trạch và Tây tứ trạch. Dựa vào năm sinh dương lịch, phong thủy bát trạch cũng chia con người thành 8 phi cung là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Những người thuộc bốn phi cung Khảm, Chấn, Tốn, Ly thuộc Đông tứ mệnh. Đi cùng bốn cung này là hợp với kiểu nhà Đông tứ trạch bao gồm bốn hướng: Đông, Đông Nam, Bắc, Nam.

Bốn phi cung còn lại là Càn, Cấn, Khôn, Đoài thuộc Tây tứ mệnh. Bốn hướng: Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc và chính Tây phù hợp với hướng nhà người Tây tứ mệnh.

Sau đây là các hướng nhà cụ thể với 8 phi cung nói trên giúp cho gia chủ có thể lựa chọn hướng cửa chính theo đúng nguyện vọng của mình:      

1/ Nếu bạn thuộc Càn trạch:

Càn trạch là những người sinh vào các năm:

- Nam giới: 1931, 1940, 1949, 1958, 1967, 1976, 1985, 1994, 2003, 2012...

- Nữ giới: 1937, 1946, 1955, 1973, 1982, 1991, 2000, 2009, 2018...

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Càn:

+ Đông Nam: Họa hại

+ Chính Nam: Tuyệt mệnh

+ Tây Nam: Phú quý

+ Chính Đông: Ngũ quỷ

+ Chính Tây: Sang trọng

+ Đông Bắc: Sang trọng

+ Chính Bắc: Lục sát

+ Tây Bắc: Phục vị    

2/ Nếu bạn thuộc Khôn trạch:

Khôn trạch là những người sinh vào các năm:

- Nam giới: 1932, 1935, 1941, 1944, 1950, 1953, 1959, 1962, 1968, 1971, 1977, 1980, 1986, 1995, 1998, 2004, 2007, 2013...

- Nữ giới: 1933, 1942, 1951, 1960, 1969, 1978, 1987, 1996, 2005, 2014...

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Khôn:

+ Đông Nam: Ngũ quỷ

+ Chính Nam: Lục sát

+ Tây Nam: Phục vị

+ Chính Đông: Họa hại

+ Chính Tây: Có thăng tiến

+ Đông Bắc: Có thăng tiến

+ Chính Bắc: Tuyệt mệnh

+ Tây Bắc: Vợ chồng hòa hợp     

3/ Nếu bạn thuộc Cấn trạch:

Cấn trạch là những người sinh vào các năm:

- Nam giới: 1938, 1947, 1956, 1965,1974,1983, 1992, 2001, 2010...

- Nữ giới: 1936, 1945, 1948, 1954, 1957, 1966, 1972, 1981,1990, 1993, 1999, 2002, 2008, 2011...

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Cấn:

+ Đông Nam: Tuyệt mệnh

+ Chính Nam: Họa hại

+ Tây Nam: Nhà giàu có

+ Chính Đông: Lục sát

+ Chính Tây: Con cháu hưng vượng

+ Đông Bắc: Phục vị

+ Chính Bắc:  Ngũ quỷ

+ Tây Bắc: Nhà giàu có  

4/ Nếu bạn thuộc Đoài trạch:

Đoài trạch là những người có tuổi sau:

- Nam giới: 1939, 1948, 1957, 1966,1975,1984, 1993, 2002, 2011...

- Nữ giới: 1038, 1947, 1956,1974, 1983, 1992, 2001, 2010....

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Đoài trạch:

+ Đông Nam: Lục sát

+ Chính Nam: Ngũ quỷ

+ Tây Nam: Phát huy vinh quang của tổ tiên

+ Chính Đông: Tuyệt mệnh

+ Chính Tây: Phục vị

+ Đông Bắc: Gia đạo hưng vượng, phát đạt

+ Tây Bắc: Phát huy vinh quang của tổ tiên

5/ Nếu bạn là trạch Chấn:

Trạch Chấn sinh vào các năm:

- Nam giới và nữ giới: 1934, 1943, 1952, 1961, 1970, 1979, 1988,1997, 2006, 2015....

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Chấn:

+ Đông Nam: Thăng quan, đông con cháu

+ Chính Nam: Sự nghiệp thăng tiến

+ Tây Nam: Họa hại

+ Chính Đông: Phục vị

+ Chính Tây: Tuyệt mệnh

+ Đông Bắc: Lục sát

+ Chính Bắc: Sự nghiệp thăng tiến

+ Tây Bắc: Ngũ quỷ 

6/ Nếu bạn là trạch Tốn:

Trạch Tốn là những người sinh năm:

- Nam giới: 1933, 1942, 1951, 1960, 1969, 1978, 1987, 1996, 2005, 2014...

- Nữ giới: 1935, 1944, 1953, 1962, 1971, 1980, 1989, 1989, 1998, 2007, 2016...

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Tốn:

+ Đông Nam: Phục vị

+ Chính Nam: Giàu sang

+ Tây Nam: Ngũ quỷ

+ Chính Đông: Phát văn chương

+ Chính Tây: Lục sát

+ Đông Bắc: Tuyệt mệnh

+ Chính Bắc: Giàu sang

+ Tây Bắc: Họa hại

7/ Nếu bạn là trạch Khảm:

Trạch Khảm là những người sinh năm:

- Nam giới: 1936, 1945, 1954, 1963, 1972, 1981, 1990, 1999, 2008, 2017...

- Nữ giới: 1932, 1941, 1950, 1959, 1968, 1977, 1986,1995, 2004, 2013...

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Khảm:

+ Đông Nam: Đông con cháu

+ Chính Nam: Làm ăn phát đạt

+ Tây Nam: Tuyệt mệnh

+ Chính Đông: Đông con cháu

+ Chính Tây: Họa hại

+ Đông Bắc: Ngũ quỷ

+ Chính Bắc: Phục vị

+ Tây Bắc: Lục sát

8/ Nếu bạn là trạch Ly:

Trạch Ly là những người sinh năm sau:

- Nam giới: 1937, 1946, 1955, 1964, 1973, 1982, 1991, 2000, 2009, 2018...

 - Nữ giới: 1931, 1940, 1949, 1955, 1964, 1973, 1982, 1991, 2000,2009, 2018...

Ý nghĩa ứng với người mệnh hướng Ly:

+ Đông Nam: Con hiền tài

+ Chính Nam: Phục vị

+ Tây Nam: Lục sát

+ Chính Đông: Con hiền tài

+ Chính Tây: Ngũ quỷ

+ Đông Bắc: Họa hại

+ Chính Bắc: Tích tụ tiền tài

+ Tây Bắc: Tuyệt mệnh

Chuyên gia Nguyễn An
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng cửa chính 'đón rước' giàu sang

Ngũ hành tương sinh tương khắc là gì?

Tìm hiểu về khái niệm và bản chất của ngũ hành tương sinh tương khắc. Ứng dụng ngũ hành tương sinh, ngũ hành tương khắc trong đời sống thường ngày.
Ngũ hành tương sinh tương khắc là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúng ta chỉ mới hiểu Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim tuy nhiên không hiểu rõ về ngũ hành tương sinh tương khắc thì khó có thể phán đoán đầy đủ được rằng cặp vợ chồng đó có phú - bần - thọ - yểu - quý - tiện - sang - hèn - vinh - nhục hay không.



Khi kết hôn hay sinh con chúng ta thường nghe mọi người nói về mệnh vợ chồng hợp hay xung khắc nhau, mệnh con hợp hay khắc mệnh bố mẹ. Vậy phải hiểu ngũ hành là gì và như thế nào là ngũ hành tương sinh tương khắc mới là đúng?   

Ngũ hành tương sinh
 

Hàm nghĩa của tương sinh được hiểu rằng hành này bồi đắp, nuôi dưỡng cho hành kia được lớn mạnh và phát triển.    Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim bởi:

- Mộc sinh Hỏa: Hỏa lấy Mộc làm nguyên liệu để đốt cháy, Mộc cháy tận, Hỏa sẽ tự động tắt.

- Hỏa sinh Thổ: Hỏa sau khi đốt cháy sự vật, vật thể hóa thành tro bụi, tro bụi đó vùi đắp thành Thổ.

- Thổ sinh Kim: Kim ẩn trong Thổ, đá, sau khi kết tinh mới chắt lọc, lấy ra được.

- Kim sinh Thủy: Kim nếu bị nung chảy sẽ hóa thành dạng dịch thể, dịch thể thuộc Thủy.

- Thủy sinh Mộc: Thủy tưới cho Mộc, nên cây cối sum sê tươi tốt.

Tham khảo: Mệnh Kim hợp màu gì, mệnh Thổ hợp màu gì, mệnh Mộc hợp màu gì?
   
 

Ngũ hành tương khắc

  Hàm nghĩa của tương khắc là ức chế, bài trừ, đối lập lẫn nhau, là để chỉ một sự vật có tác dụng ức chế, hạn chế tới sự phát triển và tác dụng của một sự vật khác.   Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim bởi:

- Thủy khắc Hỏa: Chúng (đông, nhiều) thắng quả (ít), nên Thủy thắng Hỏa, vì Hỏa gặp Thủy sẽ tắt.

- Hỏa khắc Kim: Tinh thắng kiên, nên Hỏa thắng Kim, vì Hỏa nóng mạnh sẽ nung chảy Kim.
 
- Kim khắc Mộc: Cương khắc nhu, nên Kim thắng Mộc, vì Kim là cái để chế tạo ra công cụ có thể khoan, cắt Mộc.
 
- Mộc khắc Thổ: Chuyên thắng tán, nên Mộc thắng Thổ, vì mầm gốc của cây có sức mạnh mẽ, có thể phá trở ngại của đất.
 
- Thổ khắc Thủy: Thực thắng hư, nên Thổ thắng Thủy, Thổ có thể ngăn chặn Thủy...
  Hiện tượng tương sinh, tương khắc không tồn tại độc lập với nhau. Trong tương khắc luôn có mầm mống của tương sinh, trong tương sinh luôn có mầm mống của tương khắc. Do đó vạn vật luôn luôn tồn tại và phát triển.   
 

Theo ngũ hành thì vợ chồng như thế nào gọi là hợp mệnh?

  Có những người mới chỉ nghe: Vợ chồng mệnh này tương sinh, thì cho rằng như thế là tốt lắm. Tuy nhiên, không phải cứ tương sinh là tốt, và tương khắc thì ngược lại, phải hiểu Ngũ hành tương sinh, tương khắc được coi là tốt, hoặc không tốt chỉ giữa hai hành đó với nhau.   Vậy phải hiểu vợ chồng như thế nào là ngũ hành tương sinh tương khắc mới đúng? Yếu tố đầu tiên cần quan tâm là, mối quan hệ tương sinh đó sẽ có hai tình trạng sinh xuất và sinh nhập chứ không thể cùng tình trạng là sinh xuất hay sinh nhập. Có nghĩa, sự tương sinh chỉ có tính chất một chiều. Chẳng hạn: Kim sinh Thủy chứ Thủy không sinh Kim, Thổ sinh Kim chứ Kim không sinh Thổ.
 
Quan hệ sinh một chiều sẽ dẫn đến có sự khác biệt giữa hai hành trong mối tương sinh đó. Cái này sinh cho cái kia thì đó là sự sinh xuất, có nghĩa tình trạng sinh xuất sẽ thể hiện sự thua thiệt hơn để phù trợ cho cái được sinh (tình trạng sinh nhập). Cái này được sinh do cái kia sẽ được lợi, được phù trợ do cái kia đem lại. 
 
Trong quan hệ vợ chồng, sự tương sinh giữa hai bản mệnh là rất cần thiết vì có sự tương sinh thì gia đình mới hòa thuận. Tuy nhiên, bản mệnh của người vợ phải ở tình trạng sinh xuất cho bản mệnh của người chồng thì sẽ tốt hơn. 
 
Nếu vợ sinh xuất sẽ hỗ trợ chồng trên con đường con đường công danh, sự nghiệp. Ngược lại, chồng trong tình trạng sinh nhập thì người vợ sẽ được lợi hơn, trong khi đó người chồng không nhận được sự giúp đỡ từ vợ.   Vấn đề thứ 2 là: Vì có tính chất Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành nên khi nói đến tương sinh, cần chú ý đến nguyên tắc về Âm - Dương của 2 hành tương sinh đó. Sự tương sinh chỉ xảy ra khi hai hành đó có tính chất Âm (-), Dương (+) khác nhau, ví dụ: Âm Kim sinh Dương Thủy, Dương Thổ sinh Âm Kim.   Bên cạnh việc căn cứ vào Âm Dương của Ngũ hành, cần phải cân nhắc, xem xét đến yếu tố thứ 3 là bản chất lý tính của Ngũ hành (tức nạp âm thủ tượng, còn gọi nạp âm ngũ hành) của các hành đó để đưa ra kết luận: Thực chất mối quan hệ tương sinh của các hành đó như thế nào? Không thể cứ thấy đặc tính Ngũ hành tương sinh là khẳng định luôn các hành đó tương sinh, cũng không thể chỉ thấy thuận lý Âm (-) Dương (+) thì cho rằng như thế là được.   Phải biết bản chất lý tính của các hành đó là gì để căn cứ mà luận giải chứ không phải chỉ Thủy sinh Mộc được xem là tốt. Chẳng hạn Bình Địa Mộc (Mậu Tuất - Kỷ Hợi: Cây đất bằng) rất cần có Thiên Hà Thủy (Bính Ngọ - Đinh Mùi: nước mưa trên trời) tưới xuống để tốt tươi, lớn mạnh, ngược lại, nếu Bình Địa Mộc gặp Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất - Quý Hợi: Nước biển rộng) thì cây non mới đâm cành trổ lá làm sao mà tồn tại nổi.
 
Vì thế, khi xét mệnh 2 người có hợp nhau không thì phải đặt ra câu hỏi ngũ hành tương sinh tương khắc là gì và lần lượt xét theo những mặt sau:
 
+ Đặc tính của Ngũ hành và tình trạng sinh xuất - sinh nhập.
 
+ Tính chất Âm - Dương của Ngũ hành.
 
+ Bản chất lý tính của Ngũ hành (còn gọi là nạp âm Ngũ hành).

HaTra

Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là gì? Soi đặc điểm chỉ ra bạn và người ấy có tướng phu thê từ kiếp trước
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành tương sinh tương khắc là gì?

Tại sao nhà ở phải cách xa chùa, miếu? –

Những người quan niệm có thần linh trên thế gian đều cho rằng những nơi như chùa, miếu, đền thờ, đạo quán, nhà thờ là nơi gần thần linh nhất, là nơi trấn quỷ diệt tà, vì thế ở đó sẽ có cảm giác an toàn. Trên thực tế, những nơi gần chùa miếu, đền thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người quan niệm có thần linh trên thế gian đều cho rằng những nơi như chùa, miếu, đền thờ, đạo quán, nhà thờ là nơi gần thần linh nhất, là nơi trấn quỷ diệt tà, vì thế ở đó sẽ có cảm giác an toàn.

aa

Trên thực tế, những nơi gần chùa miếu, đền thờ v.v… nếu dựa trên nguyên tắc Phong Thủy là nơi vô cùng không thích hợp cho cư ngụ vì đây là những nơi “âm khí” nặng nhất vì một số “âm linh” đều tập trung ở nơi này tạo nên “âm sát”.

Phong Thủy học truyền thống chủ yếu nghiên cứu trạng thái của trường khí, mà âm dương hai khí có cân bằng hay không đều có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cơ thể và tâm lý con người. Lý luận Phong Thủy cho rằng nơi gần chùa, miếu… vì có quá nhiều u oán, cũng có thể nói là “âm khí” tập trung nhiều gây nên sự mất cân bằng âm dương, cho nên ở gần chùa miếu không có lợi cho người cư ngụ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao nhà ở phải cách xa chùa, miếu? –

Bài viết về Tứ Hóa Phái góp nhặt trên diễn đàn tuvilyso.org

Một bài viết sưu tầm, gom nhặt từ diễn đàn tuvilyso.org. Mời cá bạn tham khảo.
Bài viết về Tứ Hóa Phái góp nhặt trên diễn đàn tuvilyso.org

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết copy sưu tầm về Tứ Hóa của các cao thủ trao đổi trên tuvilyso.org như AlexPhong, WhiteBear, HoangNhiMai,..

Đây là bài viết tóm tắt được lấy trong sách của tứ hóa, về những bước đơn sơ nhất của Tứ Hóa Phi Tinh, post lên cho những bạn chưa có sách nắm được một số ý.

Ở đây, trong bài viết này nhắc chủ yếu nhất là Khâm Thiên Môn, một chi phái quan trọng.

- Xét về Nam Phái, chú trọng nhất là tình của các sao. Tứ Hóa năm sinh, đại vận, hay lưu niên cũng được dùng, nhưng không lấy làm chính.

- Xét về Tứ Hóa Phái lại lấy Tứ Hóa làm dụng thần. Thứ nhất là để xét cách cục Nguyên Thủy. Thứ hai là để xem vận, trong đó gồm 3 mặt "bản dịch", "giao dịch", "biến dịch", gọi là Phi Cung Hóa Tượng để luận đoán cát hung.

- Ta đã biết, đẩu số là học thuyết liên quan đến Dịch lý Hà Lạc, "dịch" có thể hiểu là Nhật Nguyệt, Âm Dương. Thì Âm Dương tương tác tạo ra cát hung.

- Tứ hóa Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ xuất phát từ Hà Đồ. Lấy Lộc Kỵ là trung tâm, giống như Âm Dương vậy. Còn Quyền Khoa chỉ là quá trình. Nhiều lúc có Lộc mà Xấu, có Kỵ mà lại tốt. Nhiều khi lại Lộc còn hung hơn Kỵ

- Mọi vật đều có tượng của đó. Cao, thấp, béo, lùn, dài, ngắn....là "hình tượng". Cũng như vậy Mệnh lý dùng hợp sinh chế hóa, thể dụng gọi là " hóa tượng". Theo Khâm Thiên Môn thì Tứ hóa phi tinh Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ nhập cung là "thùy tượng".

- Khâm Thiên Môn dùng "thùy tượng" để chỉ nguồn cơn họa phúc, dấu hiệu, định hướng nên tránh,..

- Hiểu theo nghĩa cơ bản, Lộc là "lành", Quyền là "biến đổi", Khoa là "yên", Kỵ là "lỗi lầm". Nhưng thực tế, đã là tượng thì có sự biến đổi, nên phải hiểu biến đổi theo tam dịch, "bản dịch", "giao dịch", "biến dịch".

- Theo Khâm Thiên Môn, tối đa chỉ có Song Lộc, Song Kỵ, Lộc Kỵ, chứ không có Tam Lộc, Tam Kỵ, hay Tam Lộc Kỵ, vì chỉ có thành cặp, thì mới có đối đãi, có cát hung.

+ Kỵ thì ảnh hưởng tại cung nó đóng, và tương tác cả đối cung. Song Kỵ thì càng xấu hơn.

+ Song lộc, nếu mà Lộc tiên thiên, với Lộc hậu thiên có thể trở thành xấu, do Lộc quá nặng, sinh ra hao tổn.Nhưng cũng có lúc lại tốt, lại thành song lộc thật. Chỉ có 2 lộc hậu thiên đồng cung thì ổn định hơn.

- Tứ Hóa cần xem xét tiên thiên, hoặc hậu thiên. Xem về xung chiếu nhau, xem cái gì hóa ra, nếu thêm tự hóa thì càng phức tạp hơn.

- Chỉ cần Tứ Hóa bị nhập vào cung thì cung sẽ động. Lộc, Quyền, Khoa thì luận "chiếu". Riêng Kỵ thì luận "xung", ý chỉ hai cung đối nhau.

-----

Tượng có bản của tứ hóa phi tinh

Hoá Lộc:

Là sự khởi đầu, Nó tượng trưng cho sự bắt đầu cái mới. Chính vì lẽ đó, nó là "duyên"khởi, cung vị nào có Hóa Lộc, thì cung vị đó là nơi duyên tụ.

Ví dụ: 1) Hóa Lộc năm sinh ở cung Thiên Di thì Thiên Di sẽ là khởi nguồn cho "duyên", hay tốt hơn là lập nghiệp ở đất khách quê người sẽ tốt

2) Mệnh Tham Lang Hóa Lộc năm sinh. Thì phải xem Tham Lang ở đây thế nào, tuy Mệnh đều là nơi duyên tụ. Tham Lang tạo Phúc, hay tạo nghiệp

Tạo phúc thì Tham Lang phát huy Hóa Lộc nên tính tài hoa, nghệ thuật. Tạo nghiệp thì hay dụng đào hoa.

Hóa Quyền

Thể hiện tính tự lập, bền bỉ, hành động.

Về người: chủ hành động, tự lập, nghiêm nghị, nhưng hơi cô độc.

Về việc: chủ hành động, khai sáng

Về vật: chủ về lớn, hay thay đổi về phương diện vật chất.

Về số lượng: tăng thêm.

Hoá Khoa

Là sự nối tiếp nhân duyên trong vũ trụ, Hóa Khoa là xu hướng "quay về" khởi niệm cũ. Khác với Hóa Lộc, là khởi niệm cho cái mới

Về người: điềm tĩnh, danh dự, bình hòa, không vội cũng không gấp.

Về việc: ổn định, tích lũy, công tác kế hoạch.

Về vật: thương hiệu nổi tiếng, trang nhã, có phẩm chất trên phương diện tinh thần

Về số lượng: trung bình

Hóa Kỵ

Sau khi đã diễn biến quá trình: Lộc Quyền Khoa, đương nhiên phải có hồi kết của nó, chính là Hóa Kỵ.

Về người: tâm địa không xấu, lập dị, cố chấp.

Về việc: vô duyên, bất lợi, không thuận lợi`

Về vật: đồ cũ, đồ xấu tệ

Về số lượng: ít

--------

Căn cứ trên phương diện lấy Cung vị làm Tượng để luận đoán mà phân loại, thì Tử Vi Đẩu Số có hai Đại pháp môn: "Tam hợp pháp" và "Tứ Hóa pháp" (hay còn gọi là Tứ tượng pháp).

"Tam hợp pháp" là lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hợp", thêm vào cung Thiên di làm "Tứ chính" hợp thành "Tam phương Tứ chính". Theo địa chi tam hợp mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu Số.

"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hội", nhưng "Tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu, tức là lấy cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di và cung Điền trạch làm "Tứ chính", khác với "tam hợp pháp" ở chỗ là, Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các Sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán việc.

Tam hợp pháp gặp trường hợp cung vị không có chính diệu, thì mượn chính diệu của đối cung để dùng.

Tứ hóa pháp gặp trường hợp ở cung vị không có chính diệu, lại không mượn chính diệu ở xung cung để dùng, vì nguyên do nó dùng tượng ở can của Cung.

Ngoài ra, Tam hợp pháp theo thuyết Ngũ hành, chú trọng Tinh đẩu, cho nên tinh diệu mới có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm". Còn Tứ hóa pháp thì phối hợp với Quẻ và Lý Số, chú trọng Tượng Số, cho nên Tinh diệu không có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm".

Nói về sự biến hóa của Tử Vi Đẩu Số, ngoại trừ các lưu phái chính như đã nói trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn như tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, quái tượng, thậm chí cả đến số mục hay mầu sắc của các sao... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ, không kém sự phân loại của khoa học hiện đại, khiến cho người học đời sau, có lẽ phải mất tinh lực của cả đời người, mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa Tử Vi Đẩu Số.

Theo Tử vi Đẩu số - Tứ Hóa phái (Bắc phái), cung quan trọng dùng để xem sự cố tai ách bất ngờ, đương nhiên phải láy bốn cung Mệnh viên - Thiên di - Tử nữ - Điền trạch làm chủ, vì bốn cung này là cung tứ Chính.

Cung Tứ Chính là chủ về các sự tình di động, dời chuyển, dịch mã, bất ngờ, tai ách. Do đó, muốn luận đoán tình trạng có ý thức thay đổi và tai ách bất ngờ có xảy ra hay không, thì phải dùng bốn cung tứ Chính này để khảo xét.

Còn có một phương pháp đơn giản khác dùng để luận đoán "tai ách bất ngờ", đó là lấy cung vị Quan lộc của cung Thiên di (tức cung Phu thê), nếu can cung Quan lộc này hóa Kị nhập các cung Huynh đệ, cung Nô bộc, cung Mệnh, thì có thể đoán định có tai nạn bất ngờ.

Nếu can cung Quan lộc của cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Tài bạch, cung Phúc đức thì đoán định không có tai nạn xảy ra.

------

Trong tử vi đẩu số phi tinh, khi ta sử dụng thiên can của các cung để an tứ hóa, có thể thấy 12.4 = 48 loại tứ hóa chạy trong các cung. Tuy vậy, khởi là Hóa Lộc, Diệt là hóa Kỵ, và Lộc theo Kỵ mà đi. Tùy vào dáng điệu của hóa Kỵ, ta có rất nhiều loại hóa Kỵ sau đây:

  1. Lưu xuất kị: Thiên can của cung làm cung xung chiếu hóa kị, chủ không nên tích trữ..
  2. Nghịch Thủy Kỵ: Giống Lưu xuất kị, nhưng gặp thêm Hóa Kị gốc hoặc tự hóa ở cung đối. Chủ hung họa.
  3. Tương Khiếm Kị: tức là Kỵ gốc + tự hóa kị + Tứ Mộ. Chủ tuy ko tốt, nhưng không dẫn tới hung họa.
  4. Thuận Thủy Kị: tức cung A phi kỵ tới cung B, không phải cung đối diện, chủ khí tiết sang B.
  5. Tuần hoàn Kỵ: tức cung A phi kỵ sang cung B, cung B phi kị sang cung A. Chủ quan hệ đối đãi nhau, ăn miếng trả miếng, tốt cùng tốt.
  6. Phản cung Kỵ: tức đại vận tới tam hợp + tứ hóa đại vận xung chiếu mệnh tài quan nguyên thủy. Ta coi đó là double Kỵ.
  7. Thị Phi Kị: A phi Kỵ sang B, B phi Lộc sang A. Tức là A đểu với B, nhưng B vẫn tốt với A.
  8. Xung Hỗ Kỵ: Tức là 2 cung khác nhau, phi kị sang 2 cung xung chiếu nhau, thì hai cung gốc có quan hệ rối rắm, dễ tranh chấp, do đó dễ xung đột.
  9. Tứ Mã Kỵ: tức là bốn cung Mã, có hóa kị gốc + Tự hóa. Chủ bôn ba vất vả.
  10. Nhập Khố Kỵ: tức là tứ mộ gia thêm Hóa Kị gốc, không có tự hóa. Chủ giữ được tiền. Nhưng nếu tự hóa là hỏng.
  11. Tuyệt Mệnh Kỵ: tức là Mệnh hoặc Điền có Hóa Kị gốc, nếu Mệnh quan điền đại vận phi kị gia thêm vào mệnh Điền tiên thiên, gọi là Tuyệt Mệnh Kị. Đặc biệt Hung Hiểm.
  12. Tiến Thoái Mã Lộc Kị. Tại các cung Tý Sửu Dần Mão, nếu ta phi kị/lộc tiến lùi 2 cung, gặp tự hóa, thì sẽ nhảy tiếp 2 bước nữa.
  13. Thoái Mã Kị, cũng là phi kị đi 2 cung, gặp tự hóa, nhưng không ở Dần mão Tý Sửu, thì Kị sẽ tự lùi lại, không tiến bước nữa. Chủ Tổn Thất.
  14. Nghịch Thủy Kỵ, cung A hóa kị cung xung chiếu, gặp hóa kị gốc. Chủ đại quý. Nhưng nếu tự hóa kị hoặc tự hóa lộc thì sẽ tạo thành tam kị, chủ đại hung, Thủy Tiết Kị.

-----

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

-----

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

------

Về lá số của bà Từ Dũ: sinh ngày 19/05/Canh Ngọ (20/06/1810), giờ Dần.

Lá số bà Từ Dũ cũng là một ví dụ kinh điển. Lá số này giải quyết được những vấn đề như:

1. Thế nào là quý?, phải chăng cứ có lục sát tinh là không còn quý.

2. Thế nào là họa, phải chăng cứ có cát tinh là hết họa.

3. Cung trọng điểm, mặc dù đó là bàng cung như cung Tử Tức.

Lá số này, tinh hoa không hội tụ ở mệnh như Nam Phương Hoàng Hậu, mà hội tụ ở cung Tử Tức. Lịch sử cho biết bà là mẹ vua Tự Đức, vua số 4 của triều đại nhà Nguyễn. Sau khi con trai lên ngôi thì bà mới có "giá" và được tôn vinh.

Cung tử tức có Tham Vũ giáp Nhật Nguyệt, tam hóa liên châu, tọa Khôi hướng Việt, có Quang Quý giáp Thai Tọa. Đầy đủ cát hóa và lục quý. Một lần nữa thể hiện sức mạnh giáp cung của trục sửu mùi. Nhưng ngoài ra, ngũ sát tinh Không Kiếp Kình Đà Linh hội tụ đầy đủ, thêm Thiên Hình. Cho nên cung tử tức đầy đủ Cát, Quý và Sát. Tại vị trí Đế Vượng, năng lượng của cung tử tức cực hạn không gì ngăn cản nổi.

Đến đây có hai làn ý kiến:

1. Phải đầy đủ cả quý và sát thì cái sự Quý mới trọn vẹn là Quý.

2. Quý là quý, và sát là tai họa rình rập. Ta biết về sau vua Tự Đức bị đậu mùa nên vô sinh, trong hoàng cung mà em nào có bầu thì coi như chọn cái chết không cần xét xử. Nhưng ngoài ra, thì bà Từ Dũ và vua Tự Đức đều khá viên mãn không gặp đại họa hay bạo bệnh gì như Nam Phương Hoàng Hậu.

Có thể nói cung tử tức là cung trọng điểm của lá số, kể cả về đời thực cũng như mệnh lý. Hay nữa là vòng đại vận theo chiều sớm qua cung tử tức. Mà cung tử tức là bàng cung của tử vi (tuy nhiên nó thuộc tứ chính mệnh di tử điền).

Có khả năng lá số của bà Từ Dũ được fake từ nhỏ để lấy vua, vì thời phong kiến khi mà chưa có cuộc khởi nghĩa của giai cấp công nông xảy ra thì u ám lắm, mê tín lắm, hoàng cung vẫn dựa vào mệnh lý để chọn vợ cho vua. Khả năng ông Bộ Trưởng bố bà Từ Dũ thuê thợ giỏi fake lá số cho con gái cũng có khả năng. Thế nhưng sau này lá số khá ứng hợp, thì cũng có thể đây là lá số thực của bà Từ Dũ. Kỳ lạ hơn, mùa thu năm Kỷ Sửu bà sinh vua Tự Đức, thái tuế nhập quái ứng cung tử tức của bà ởi Sửu tức là chân mệnh thiên tử.

Mệnh sinh cục, âm dương thuận lý. Mệnh thân có Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tướng Quân Đẩu Quân Quốc Ấn, Long Phượng Tả Hữu, Xương Khúc Lộc Khoa Kỵ. Thân có Lộc Mã. Phu có Cự Nhật Lộc Thanh Long Lưu Hà, Long Phượng Hổ Cái. Thì bản thân là người tài năng, và có số vượng phu lấy vua cũng đúng. Quan trọng là đại vận sớm đi qua những cung này.

Năm 38 tuổi, Đinh Mùi, vua Thiệu Trị qua đời. Năm Đinh nhập Cự Môn hóa Kỵ cung phu nguyên thủy. Lưu niên nhập điền trạch, số phận đã gọi, không thể không trả lời. Cha mất chồng mất với nhà thường dân là chuyện buồn nhưng với thái tử và mẹ thái tử là chuyện thăng tiến. Thái tử thì lên ngôi, còn mẹ thái tử vốn chỉ là phi thì bây giờ thành Hoàng Thái Hậu. Những cung phi khác khi tiên hoàng còn sống có thể kêu ồm ộp như con ếch hàng đêm, chứ bây giờ không dám ho he nửa câu. Cho nên với mẹ con bà thì đây là cát vận. Với bà Từ Dũ thì từ đây không còn ai trên mình nữa.

Năm 74 tuổi, Quý Mùi, vua Tự Đức qua đời. Lại năm mùi nữa lưu niên tới cung điền, nhưng lần này năm Quý Hóa Kỵ nhập tử tức nên con bà qua đời. Kể từ đây vận nước rối ren, thời huy hoàng của bà cũng hết. Cung trọng điểm là tử tức, con chết thì mẹ cũng mất điểm tựa.

Năm 93 tuổi, Nhâm Dần. Đại tiểu vận trùng phùng tại cung Thân. Đại vận Giáp Thân làm Thái Dương hóa Kỵ. Lưu niên Nhâm Dần làm Vũ Khúc hóa Kỵ tạo thành thế tam Kỵ ép cung trọng điểm nên Thái Hoàng Thái Hậu tắt nắng. Tháng 4 có Liêm Phá Kình Không Hồng Loan, ngày 5 nhập cung Tử Tức có Hình Kiếp, hoàn thành miếng ghép cuối cùng của bức tranh Từ Dũ.

Cuộc đời bà theo đúng vòng Trường Sinh, Sinh ở tỵ xuất thân là con gái Bộ Trưởng, tiền đề để bước vào hoàng cung, Vượng ở sửu nên đời lên hương từ đại vận này theo lộc con trai, Mộ ở cung dậu nên tới đại vận này con trai tắt nắng, và tuyệt ở cung thân cho nên bà mất ở cung thân.

Có thể nói đây là một lá số có thể dùng làm SGK cho tử vi. Qua lá số này có thể gạt bỏ những hồ nghi cho phương pháp thùy tượng của Nam phái.

Dưới góc độ Nam phái, lá số này không những cho thấy tác dụng hiển nhiên của vòng Trường Sinh mà còn cho thấy người xem Nam phái hiện nay cần thay đổi nhận thức về Sát tinh. Sát tinh một khi đi cùng Quý tinh thì không còn mang nghĩa "xấu" theo cách hiểu thông thường nữa. Nói cách khác chỉ có Quý tinh mới có thể ngự được Sát tinh. Dưới áo hoàng bào lấp ló thanh trường kiếm. Nhưng thanh kiếm đó là Thượng Phương Bảo Kiếm chứ không phải con dao cắt cổ cả nhà đại gia gỗ của sát thủ Bình Phước.

------

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

------

Theo Tử vi Đẩu số - Tứ Hóa phái (Bắc phái), cung quan trọng dùng để xem sự cố tai ách bất ngờ, đương nhiên phải láy bốn cung Mệnh viên - Thiên di - Tử nữ - Điền trạch làm chủ, vì bốn cung này là cung tứ Chính.

Cung Tứ Chính là chủ về các sự tình di động, dời chuyển, dịch mã, bất ngờ, tai ách. Do đó, muốn luận đoán tình trạng có ý thức thay đổi và tai ách bất ngờ có xảy ra hay không, thì phải dùng bốn cung tứ Chính này để khảo xét.

Còn có một phương pháp đơn giản khác dùng để luận đoán "tai ách bất ngờ", đó là lấy cung vị Quan lộc của cung Thiên di (tức cung Phu thê), nếu can cung Quan lộc này hóa Kị nhập các cung Huynh đệ, cung Nô bộc, cung Mệnh, thì có thể đoán định có tai nạn bất ngờ.

Nếu can cung Quan lộc của cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Tài bạch, cung Phúc đức thì đoán định không có tai nạn xảy ra.

Posted Image

Nếu can cung Quan lộc của cung Thiên di hóa Kị nhập cung Phụ mẫu xuất xung cung Tật ách, hoặc nhập cung Quan lộc hóa xuất xung cung Phu thê, thì tai ách tất xảy ra, phần nhiều là rất nặng.

Xem can cung Phu thê hóa Kị nhập vào cung nào, đây chính là Nguyệt lệnh của số tai ách.

Ngoài ra, can cung Thiên di của Lưu niên Hóa Kị xung cung Mệnh nguyên cục, hoặc can cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Quan lộc nguyên cục, hoặc can cung Thiên di Hóa Kị nhập cung Điền trạch nguyên cục, thảy đều có tai ách. Phép luận giải này, cứ mỗi 12 năm thì có một lần, cho nên phải lấy Đại vận để phân biệt.

Xem xét lúc cung Thiên di của Lưu niên, can cung Thiên di lưu niên Hóa Kị xung cung Mệnh nguyên cục, hay Hóa Kị xung cung Quan lộc nguyên cục, hay Hóa Kị xung cung Điền trạch nguyên cục, sao Hóa Kị này, đồng thời cũng phải ở một trong các cung Mệnh - Di - Tử - Điền của Đại vận, hay đồng thời xung một trong các cung Mệnh - Di - Tử - Điền của Đại vận. So sánh các trường hợp trên, thì xung cung mệnh nặng hơn cung Điền trạch.

Trường hợp can cung Thiên di Hóa Kị xuất xung cung Quan lộc của Đại vận tuy sẽ xảy ra, nhưng tai ách không nghiêm trọng.

Tóm lại, những tổn hại bất ngờ, đều có liên quan đến các cung Mệnh viên - Thiên Di - Điền trạch - Tử nữ.

Đối với trường hợp bệnh tật phát đột ngột, hoặc bệnh ngầm đột nhiên trở nặng và thậm chí nguy hiểm đến tính mạng, thì phải xem xét tới tuyến Nô - Huynh.

Can cung Tật ách khiến Hóa Kị nhập cung Mệnh, thường thường chủ về bệnh tật bẩm sinh (tiên thiên) hay di truyền, rất khó có khả năng trị tận gốc.

Can cung Tật ách khiến Hóa Kị nhập cung Phúc đức, chủ về mắc bệnh tinh thần, ví dụ như bệnh tâm thần phân liệt do di truyền, chứng hưng phấn - trầm cảm, hoặc bệnh tâm thần do tổn thương thực thể (phần nhiều là do tổn thương não bộ).

Can cung Thiên di khiến Hóa Kị nhập cung Tử nữ và xung cung Điền trạch, là ý tượng: trong cuộc đời dễ xảy ra sự cố tai nạn giao thông nghiêm trọng. Vì vậy, lúc cung Thiên di đại vận khiến cho Hóa Kị nhập cung Tử nữ và xung cung Điền trạch của Đại vận, là chủ về trong đại vận này sẽ xảy ra tai nạn giao thông.

Can cung Điền trạch khiến Hóa Kị nhập cung Thiên di và xung cung Mệnh, cũng chủ về trong cuộc đời dễ xảy ra tai nạn giao thông nghiêm trọng. Vì vậy, lúc Can cung Điền trạch của Đại vận khiến Hóa Kị nhập cung Thiên di Đại vận và xung cung Mệnh đại vận, là chủ về trong Đại vận này dễ xảy ra tai nạn giao thông, hoặc tổn hại.

Khi ứng dụng vào thực tế trải nghiệm đối với từng cung của đại vận, phải quan tâm đến ý tượng: có bị tổn hại do nhân tố bên ngoài gây ra hay không.

Can cung Điền trạch khiến Hóa Kị nhập cung Phụ mẫu và xung cung Tật ách, hoặc nhập cung Tật ách và xung cung Phụ mẫu, cũng chủ về gặp sự cố tai nạn giao thông, hoặc phải chịu tổn hại do nhân tố bên ngoài mạng lại.

Ngoài ra, lúc cung Thiên di lưu niên tự Hóa Kị, hoặc cung Mệnh lưu niên tự Hóa Kị, như vậy trong Lưu niên này phải đặc biệt cẩn thận đề phòng xảy ra sự cố tai nạn giao thông. "Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai", can cung Điền trạch khiến Hóa Kị nhập cung Phụ mẫu, ngoài nội dung đã thuật ở trên, còn chủ về nguy cơ phá sản, hoặc "phá tài" một cách nghiêm trọng.

Cần chú ý đề phòng.

...

Một, làm sao bắt đầu học tập " Phi tinh tứ hóa tử vi đẩu số "?

Đầu tiên, cũng y bình thường phương pháp trước tiên cần hiểu năm thuật cơ sở ( tức Thiên can, địa chi, âm dương, Ngũ hành, xung, hợp cùng quái vị vân vân ) sau đó lại từ sắp xếp mệnh bàn học lên, lại quen thuộc tinh hệ và cách cục (mười bốn chủ tinh cùng phụ tinh chính), đón lấy mới tiến vào tứ hóa phi tinh nhập môn.

Hai, ở sắp xếp mệnh bàn thì cần chú ý cái gì?

1. Sắp xếp mệnh bàn thì chỉ cần sắp xếp ra mười bốn chủ tinh, sáu Cát tinh, sáu sát tinh, lộc tồn, Thiên Mã, thiên diêu, thiên hình, Thiên Mã, âm sát cùng sinh niên tứ hóa ( cần chú ý Canh can tứ hóa là dùng thiên đồng hóa kỵ ).

2. Đại nạn là từ mệnh cung khởi vận.

3. Hết thảy tinh hệ đều không cần miếu vượng hãm các loại, ngoại trừ Thái Dương Thái Âm.

Ba, "Phi tinh tứ hóa tử vi đẩu số " nội dung trọng điểm?

Này thuật bên trong dung rất nhiều, mà bình thường dùng để suy luận mệnh người thì ứng dụng chủ yếu lý luận cơ cấu có: Lập thái cực, thể dụng (âm dương), tam tài, tứ tượng, cung vị chuyển hoán, cung vị trọng điệp, lộc kỵ tinh kỳ phổ, âm dương hợp mà số sinh, thiên nhân hợp nhất, tứ hóa phi tinh quỹ tích vân vân.

Bốn, "Phi tinh tứ hóa tử vi đẩu số " nội dung trọng điểm có tác dụng gì?

1. Lập thái cực: Tức cái gọi là lập tiêu điểm, là dùng để khi chúng ta luận một sự kiện, thì lấy cái gì làm tiêu điểm hoặc cung vị nào sẽ dùng.

2. Thể dụng: Ý tứ chủ yếu là phân ra đối ứng sự hạng, tức là nói sự kiện phân ra "Chủ " cùng "Khách", nói cách khác phân "Âm dương ".

3. Tam tài: Tức là thiên địa nhân, là dùng để phân ra sự kiện "Ứng số " hoặc "Định số " cùng lấy tượng.

4. Tứ tượng: Tức là tứ hóa tinh,là đẩu số dụng thần, là dùng để xâu chuỗi quan hệ giữa các cungn vị.

5. Cung vị chuyển hoán: Hiểu rõ cung vị hình thành, đột phá hạn chế 12 cung tạo thành thiên biến vạn hóa hàm ý.

6. Cung vị trọng điệp: Dựa vào quan hệ tương hỗ giữa các cung vị mà lấy tượng

7. Lộc kỵ tinh kỳ phổ: Sáng tỏ tứ hóa phi tinh đặc thù tác dụng.

8. Âm dương hợp mà số sinh / thiên nhân hợp nhất: Là dùng để phán đoán tính chắc chắn / tính cục thể của sự kiện.

9. Tứ hóa phi tinh quỹ tích: Là khâu thâm sâu và quan trọng nhất trong tứ hóa phi tinh, diễn giải lý luận, cơ cấu và nguyên tắc của tứ hóa.

Các trọng điểm kể trên, cũng không thể đơn độc ứng dụng, thiếu một thứ cũng không được, đó là xâu chuỗi với nhau, hoàn hoàn liên kết mà thành một bộ nắm giữ dịch số, dịch lý cùng hà lạc lý số chi "Tứ hóa phi tinh lý luận cơ cấu" tinh hoa.

Năm, mệnh bàn nguyên lý là lấy lý, khí, số, tượng phân tích nhân sinh chuyển vận; từ đẩu số mà suy luận, Thiên can biểu thị không gian, địa chi biểu thị thời gian, Thiên can địa chi hội hợp, thêm vào 12 cung vị, đại biểu thiên địa nhân tam tài, thiên lấy quan tượng, địa lấy danh số, nhân lấy thẩm khí, tức là thiên thùy tượng mà tỏ cát hung, nhân vì thế có vận trình chuyển hợp, tức là thời không nhân duyên biến hóa, dẫn dắt bản thân khởi tâm động niệm, do đó có cát hung chi hiển tượng.

Ba, " lý, tượng, khí, số ( là đẩu số triết lý, cũng có thể nói là đấu số vận dụng lý lẽ hoặc trình tự, nói tóm lại, liền như chúng ta sở học toán học công thức, khi muốn giải đáp một vấn đề thì, thiết yếu y công thức trình tự mà nhập, như vậy mới có thể thu được chính xác kết quả hoặc đáp án. Phía dưới liền thuyết minh "nội hàm" và "quy tắc":

(một) nội hàm:

1. Lý: "Lý" chính là "Đạo lý", đem "Lý" ký thác "Đạo" bên trong; "Đạo" đó là âm dương vậy. Âm dương hợp thành cũng gọi là thái cực, cho nên Tử Vi Đẩu Số vận dụng "Lý", gắn liền với Âm Dương trong đó, để quan sát biến hóa của cung, tinh, tượng, để giải thích vũ trụ vạn sự vạn vật.

2. Tượng: "Tượng", chính là hiện tượng hoặc dấu hiệu, tức biểu thùy hiện ra một số dấu hiệu của sự vật. Theo "Dịch lý" mà nói chính là tứ tượng. Tứ tượng, thái dương thái âm thiếu dương thiếu âm vậy. Tử Vi Đẩu Số mà nói, "Tượng", tức là tứ hóa tượng, chính là chỉ lộc quyền khoa kỵ tứ hóa phi tinh rơi vào mệnh bàn chi thùy tượng.

3. Khí: "Khí" chính là tượng hóa một loại lưu hành hoặc động thái, bởi vì do quá trình "bản dịch", "giao dịch" cùng "biến dịch", sẽ hiện ra hoặc sinh ra biến hóa cát hung khác nhau.

4. Số: "Số" chỉ chính là "Không gian" cùng "Thời gian", trong đẩu số gọi là đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật các loại.

(hai) qui tắc:

Tử Vi Đẩu Số " lý, tượng, khí, số ( diễn dịch qui tắc, đại thể trước tiên lấy tứ hóa phi tinh ở mệnh bàn khởi điểm quan sát thùy "Tượng", mà "Tượng" sau khi trải qua "thiên can huyền độ phi hóa", hình thành bản dịch, giao dịch cùng biến dịch các loại âm dương biến hóa, hiện ra cát hung tựu tại "Khí", trải qua hành vận không gian trưng nghiệm, ứng với địa chi thời gian - là "Số", lấy "Lý" xâu chuỗi thành MỘT. MỘT này, là kết quả, đáp án.

Bốn, theo qui tắc trên, "Khí" và "Số" chính là ứng với hành vận, hành vận hay chính là đại hạn, lưu niên, lưu nguyệt, lưu nhật, cho nên học Tử Vi Đẩu Số nhất định phải trước tiên hiểu được nội hàm của "Lập cực" và "Tượng", chờ sau khi thông hiểu toàn thể, lại tuần tự học tập"Khí" (quan sát cát hung) cùng "Số" (ứng thời), thì "Lý" sẽ lại nội hàm trong đó. Nói cách khác, thể theo phương thức học tập như này, có thể tránh khỏi tự loạn lý tự, dẫn tới kết quả là "dục tốc bất đạt".

...

Hóa Kị+Tự hóa Kỵ ở cung tử tức, có nghĩa là có cơ hội để "Đào Hoa" nhưng cơ hội này sẽ biến mất sớm.

Hóa Lộc+ Tự hóa Lộc ở cung tử tức, nghĩa là Lộc xuất. Khi đó Lộc xuất sẽ chảy tới cung có hóa kị nguyên thủy, theo nguyên tắc Lộc tùy Kị Lai.

Hóa Kị+Tự hóa Kỵ ở cung tử tức, có nghĩa là có cơ hội để "Đào Hoa" nhưng cơ hội này sẽ biến mất sớm.

Hóa Lộc+ Tự hóa Lộc ở cung tử tức, nghĩa là Lộc xuất. Khi đó Lộc xuất sẽ chảy tới cung có hóa kị nguyên thủy, theo nguyên tắc Lộc tùy Kị Lai.

Tứ hóa

...

Kết hợp ý nghĩ cung vị và các ý nghĩa phi hóa trong tài liệu được dịch của cuốn tứ hóa và tam họp Trung châu thì hiểu được chứ có gì đâu. Tôi thì chưa hiểu vì đầu đất và không có thời gian để đào vào đó. NTT có thể chia xẻ cái gì đó để hiểu nhanh hơn được thì tốt quá. Đỡ phải đọc, nghiền ngẫm, so sánh, đúc kết quy luật.

Cái hình hôm trước có ba tầng, tầng dưới cùng có mũi tên đỏ bắn sang cung đối, sau đó không thấy đi ngược lên các tầng trên, theo hướng nào, nên vẫn khó hiểu quá.

...

Em xin bổ sung thêm có gì sai anh chỉ bảo thêm cho em: lưu quan phúc để dùng tài thiên hợp sức chế tài địa.

Có vài chỗ chưa hiểu với lí thuyết chế hoá sát tinh mong anh giải đáp cho:

- vai trò của khôi việt với quang quý như thế nào với không kiếp?

- vài trò của thai toạ với quan phúc như nào với hoả linh?

- cách an của thai toạ nữa?

Bản chất hóa học của Không Kiếp là nitroglycerine loại chất lỏng nhớt không màu, khi gặp Hỏa Linh sẽ nổ với tốc độ truyền nổ là 7700 m/s.

Khôi Việt là anh chàng kỹ sư, Quang Quý là thông minh. Khôi Việt Quang Quý là chàng kỹ sư đến từ Harvard có thể dùng thuốc nổ để phá núi mở đường hay đào hầm thông cống, chứ để nitroglycerine vào tay mấy anh hàng chợ, các anh ấy lần sờ như sờ rốn Ngọc Trinh thì nó nổ cái bum không báo trước. Vì nitroglycerine rất nhạy với tác động vật lý.

4 C3H5(ONO2)3(Posted Image) Posted Image 12 CO2(g) + 10 H2O(g) + 6 N2(g) + O2(g)

Phản ứng oxy hóa xảy ra tức thời. Nguyên tử carbon đạt số oxy hóa cao nhất là +4, nguyên tử nitrogen từ +5 nhận điện tử về 0, nguyên tử oxygen từ -2 cho điện tử về 0. Nitrogen trong chất nổ đóng vai trò là chất oxy hóa mạnh, mạnh hơn cả oxygen không khí. Bằng chứng là N+5 còn đẩy ngược khí oxy ra khỏi hợp chất. Từ 4 mol lỏng nổ đánh bum ra 29 mol khí, cho nên sức nổ gấp 1.5 lần TNT.

Chính Huyền Sơn Nhân và lý thuyết bay tứ hóa

Tứ hóa thiên can chính là tinh túy của tử vi đẩu số, nếu như vận dụng chính xác thì tài năng tăng tiến vạn dặm, nếu không biết vận dụng thì chỉ là nói nhảm.

Tại thiên bàn mà nói, Tứ hóa được an theo thiên can của năm, ví dụ sinh năm Canh Thân thì Thái Dương Hóa Lộc, Vũ Khúc Hóa Quyền, Thái Âm Hóa Khoa, Thiên Đồng Hóa Kị. Tại đại vận 10 năm, Tứ hóa được dựa theo thiên can của cung để an tứ hóa.

Khía cạnh lưu niên tứ Hóa, theo lưu niên nơi chi cung hoạt động như lưu niên mệnh cung, dùng thiên can để an tứ hóa.

Llưu nguyệt tứ Hóa, từ lưu niên mệnh cung khởi đi, đếm nghịch theo tháng sinh, đếm thuận theo giờ an tháng giêng, sau đó dùng ngũ hổ độn để an tứ hóa. Tương tự với Lưu Nhật và Lưu thời hạn.

Cung can tứ Hóa pháp: Phương pháp trung tâm của Tử Vi Lý Số "cung can tứ Hóa pháp", dựa vào vị trí đi vào đi ra của các sao tứ hóa mà ta luận cát hung.

Bây giờ phương pháp này có thể sử dụng tại thiên bàn, lưu vận và lưu niên, nhưng khi dùng với lưu niên phải lấy cung tuổi của năm tiểu hạn để lập tứ hóa 12 cung.

Có khác một điểm phải chú ý chính là, này phương pháp đó có thể thấy được sự cát hung nhưng chỉ là tương đối. Mệnh cung Phi Hóa:

Phi Hóa cơ bản gồm có sao tự Hóa, Hóa nhập, Hóa xuất. Như:

Tứ Hóa nhập mệnh cung, Quan Lộc, tài bạch, Cung Điền Trạch như Hóa nhập. Như: Hóa Lộc nhập nhập tứ cung vị chủ kiếm tiền. Hóa Quyền nhập nhập tứ cung chủ có thực Quyền. Hóa Khoa nhập nhập tứ cung chủ có quý nhân hiện. Hóa Kị nhập nhập tứ cung chủ giữ tiền.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch như Hóa nhập, chủ đầu tư, nhưng kiếm tiền ít,lao lực Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Quan Lộc như Hóa nhập, chủ đầu tư, nhưng không nhất định kiếm tiền. Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch như Hóa nhập, chủ giữ tiền, tiết kiệm.

Tứ Hóa nhập anh em, phu, tử, tật, thiên, nô, phúc, phụ... cung vị như Hóa xuất.

Hóa Lộc nhập nhập cung vị như Hóa xuất, giữ tiền không được. Hóa Quyền nhập nhập cung vị như Hóa xuất, chủ hỉ tranh Quyền, biến thành có tranh chấp. Hóa Khoa nhập nhập cung vị như Hóa xuất, chủ quý nhân không hiện. Hóa Kị nhập nhập cung vị như Hóa xuất, chủ tổn hại tài. Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tử nữ cung như Hóa xuất, chủ đầu tư, nhưng không nhất định kiếm tiền. Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập thiên di như Hóa xuất, chủ tại ngoại kiếm tiền nan, không thuận.

Phi Hóa chú ý tam phương tứ chính.

Tam phương: Quan Lộc, tài bạch, thiên di cung. Tứ chính: mệnh cung hợp tam phương đồng đều tam phương tứ chính. Mệnh cung, tử nữ cung, thiên di cung, Cung Điền Trạch, cũng đồng đều tứ chính vị. Tứ chính vị: đại biểu dịch mã, biến hoạt động. Thiên di cung Hóa Kị nhập tử nữ, như dịch mã, trùng với Cung Điền Trạch chủ xuất quốc, ra ngoài.

Mệnh cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:

Mệnh cung tự Hóa Lộc nhân duyên tốt đẹp, cá tính ganh đua độc lập, trí tuệ cũng ganh đua cao.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung có huynh đệ, cùng với huynh đệ ganh đua có duyên phận, kháo huynh đệ hướng đến hỗ trợ thành công.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập phu thê cung hôn nhân duyên tảo, dị tính chất bạn bè ganh đua đa.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung có tử nữ, đông tử nữ, nên quý tử.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch kiếm tiền dễ, dựa vào chính mình nỗ lực kiếm tiền, thả biến thành có nghiêng về tài vận.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập tật ách cung như nhân ganh đua nhạc quan, biến thành có tính trơ.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập thiên di cung người ở bên ngoài duyên tốt đẹp, quý nhiều người, kiếm tiền gặp dịp đa, tại ngoại đắc ý.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung tại ngoại bạn bè đa, giao tế ứng thù cũng đa, bạn bè bang hỗ trợ đại.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung công tác khinh tông tiền lương cao, sang nghiệp ganh đua có thể kiếm tiền.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch gia đình hoàn cảnh tốt đẹp, bố trí hào hoa, thả có tổ nghiệp.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung đa hưởng thụ, già vận tốt, phúc trạch tốt đẹp.

Mệnh cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung có dài bối duyên, thưởng tứ, đề bạt.

Mệnh cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:

Mệnh cung tự Hóa Quyền cá tính khả năng, hỉ chưởng Quyền, thông minh có khả năng.

Mệnh cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung có huynh đệ, hỗ trợ như tranh Quyền, ý kiến ganh đua đa.

Mệnh cung Hóa Quyền nhập phu thê cung hỗ trợ như tranh Quyền, ý kiến ganh đua đa.

Mệnh cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung tử nữ đa, cá tính ganh đua khả năng, cái ống nữ ganh đua nghiêm.

Mệnh cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch chưởng tài, chủ sang nghiệp, thích hợp việc buôn bán.

Mệnh cung Hóa Quyền nhập tật ách cung niên thiếu đa tai, điều da, hoa đào đa, tham sắc dục khả năng.

Mệnh cung Hóa Kị nhập thiên di cung tại ngoại không thuận, biến hóa tính chất đại, đa tố ít thành.

Mệnh cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung như sự nghiệp quan tâm bận rộn, công tác thời gian đa, đoạt được ít.

Mệnh cung Hóa Kị nhập nô bộc cung bạn bè tương xử không tốt, không cách nào bang hỗ trợ.

Mệnh cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch giữ tiền nô, tổ nghiệp không phong, gia nội lăng loạn.

Mệnh cung Hóa Kị nhập phúc đức cung phúc đức yếu kém, hưởng thụ ít, lao lục.

Mệnh cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung phụ mẫu duyên bạc, thân đa tai, khiếm tốt đẹp.

Thiên di cung Phi Hóa:

Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:

Thiên di cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: tại ngoại kiếm tiền, chính có thể hưởng thụ.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: tại ngoại có thể được huynh đệ hướng đến hỗ trợ kiếm tiền, cũng có thể bang hỗ trợ huynh đệ.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập phu thê cung: tại ngoại sự nghiệp đắc ý, có thể được đáo phối ngẫu hướng đến hỗ trợ.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã nghi ra ngoài, xuất quốc.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại tài vận.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập tật ách cung: tại ngoại như ý, thể xác và tinh thần khoái trá, nhân duyên tốt đẹp.

Thiên di cung tự Hóa Lộc: tại ngoại đắc ý, kiếm tiền dễ, tự kiếm tự hoa, tại ngoại thời gian dài.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: tại ngoại bạn bè đa, nhân duyên tốt đẹp, giao tế quảng, có thể được bạn bè hướng đến hỗ trợ.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: tại ngoại kiếm tiền gặp dịp đa.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: chủ biến hoạt động, dịch mã, nghi xuất ngoại.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: tại ngoại tài vận tốt đẹp, bằng lòngkhả hưởng thụ.

Thiên di cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: tại ngoại có dài bối quý nhân, ít quan tâm.

Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:

Thiên di cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: nhân duyên tốt đẹp, tại ngoại có quý nhân.

Thiên di cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: tại ngoại có huynh đệ bang hỗ trợ.

Thiên di cung Hóa Khoa nhập phu thê cung: tại ngoại sự nghiệp bình thuận, làm cho phối ngẫu vô buồn phiền ở nhà.

Thiên di cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã hoạt động là dấu hiệu, nhưng thuận lợi.

Thiên di cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại tài vận bình thuận.

Thiên di cung Hóa Khoa nhập tật ách cung: nhân duyên tốt đẹp, có quý nhân.

Mệnh cung Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại không thuận, biến hóa tính chất đại, đa tố ít thành.

Mệnh cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: như sự nghiệp quan tâm bận rộn, công tác thời gian đa, đoạt được ít.

Mệnh cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: bạn bè tương xử không tốt, không cách nào bang hỗ trợ.

Mệnh cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: giữ tiền nô, tổ nghiệp không phong, gia nội lăng loạn.

Mệnh cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: phúc đức yếu kém, hưởng thụ ít, lao lục.

Mệnh cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: phụ mẫu duyên bạc, thân đa tai, khiếm tốt đẹp.

Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:

Thiên di cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: tại ngoại đắc ý, dục chưởng Quyền, biến thành có tranh chấp.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: tại ngoại anh em bạn bè đa, giao tế cổ tay tốt đẹp.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập phu thê cung: tại ngoại đắc ý, phối ngẫu chưởng Quyền, biến thành có ý định kiến.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã, hoạt động là dấu hiệu ganh đua tiểu.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại như tài bận rộn.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập tật ách cung: tại ngoại như ý, Quyền năng lực, dục vọng cao, biến thành có phân tranh.

Thiên di cung tự Hóa Quyền: tại ngoại dục chưởng Quyền, hỉ bảng hiện, biến thành đắc tội tiểu nhân, thả cá tính khả năng.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: tại ngoại anh em bạn bè đa, giao tế cổ tay tốt đẹp.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: sang nghiệp có xung kính, trách nhiệm tâm trọng, nhậm chức biến thành thụ thủ trưởng thưởng thức.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: chủ biến hoạt động, dịch mã, hoạt động là dấu hiệu ganh đua tiểu.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: tại ngoại tài tốt đẹp, hưởng thụ ganh đua hải phái.

Thiên di cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: tại ngoại có dài bối, quý nhân thích giờ bang hỗ trợ.

Thiên di cung Phi Hóa -- Hóa Kị:

Thiên di cung Hóa Kị nhập mệnh cung: người ở bên ngoài duyên không tốt, có ý định ngoại hướng đến tai, không thuận.

Thiên di cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: tại ngoại anh em bạn bè đa tổn hại, giao tế cổ tay yếu kém.

Thiên di cung Hóa Kị nhập phu thê cung: tại ngoại không thuận, thay phối ngẫu tăng ma phiền, thả sự nghiệp không thuận.

Thiên di cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: chủ biến hoạt động, dịch mã, ganh đua không thuận.

Thiên di cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: tại ngoại cầu tài không như ý.

Thiên di cung Hóa Kị nhập tật ách cung: tại ngoại không thuận, ảnh hưởng thể xác và tinh thần.

Thiên di cung tự Hóa Kị: xuất ngoại không thuận, thường có tranh chấp, nhân duyên khiếm tốt đẹp, cá tính ganh đua cổ quái.

Thiên di cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: tại ngoại tổn hại và anh em bạn bè, tăng ma phiền, thả anh em bạn bè không giúp được gì.

Thiên di cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: tại ngoại đa tố ít thành, hành sự không thuận.

Thiên di cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: chủ biến hoạt động, dịch mã, ganh đua không thuận.

Thiên di cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: tại ngoại không như ý, phúc trạch yếu kém, lao lục.

Thiên di cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: tại ngoại hành sự không thuận, nhượng phụ mẫu quan tâm.

Cung Tài Bạch Phi Hóa

Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Lộc:

Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập mệnh cung: dựa vào chính mình năng lực kiếm tiền.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: kiếm tiền sau khi bang hỗ trợ huynh đệ.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập phu thê cung: kiếm tiền sau khi, có thể âm phối ngẫu.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập tử nữ cung: hợp khỏa sự nghiệp có thể kiếm tiền, có thể tử nữ ganh đua có tiền.

Cung Tài Bạch tự Hóa Lộc: chính kiếm tiền, chính hoa, tiền lai được dễ, hoa được khinh tông.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập tật ách cung: kiếm tiền ganh đua khinh tông, khoái trá.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập thiên di cung: tại ngoại đắc ý, xuất ngoại kiếm tiền gặp dịp đa.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập nô bộc cung: kháo bạn bè bang hỗ trợ kiếm tiền có thể gặp gỡ tư hỗ trợ bạn bè.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: tài do sự nghiệp thượng lưu kiếm lai.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: đầu tư không nhúc nhích sản cung nghiệp.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập phúc đức cung: kiếm liễu tiền, chính có phúc hưởng thụ.Cung Tài Bạch Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: có dài bối quý nhân tương trợ, có thể hiếu kính phụ mẫu.Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Quyền:Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập mệnh cung: dựa vào chính mình, đối tài là dục vọng đại, có tiền nghĩ tái tăng.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: kiếm tiền sau khi, bang hỗ trợ huynh đệ có thể tài Quyền rơi vào huynh đệ trong tay.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập tử nữ cung: đầu tư kiếm tiền tái tăng tư.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập phu thê cung: tài Quyền rơi vào phối ngẫu trong tay.Cung Tài Bạch tự Hóa Quyền: tiền tài dục vọng cao, thả tự chưởng tài Quyền, độc tư tốt đẹp.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập tật ách cung: kiếm tiền ganh đua bận rộn, lao tâm.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập thiên di cung: tại ngoại hoạt động năng lực khả năng, kiếm tiền gặp dịp đa.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập nô bộc cung: bằng lòngkhả cùng với bạn bè hợp khỏa đầu tư, nhưng tài tiền nắm giữ tại bạn bè trong tay.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: đầu tư kiếm tiền hậu, nghĩ tái tăng tư.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: đầu tư không nhúc nhích sản, kiếm tiền tái đầu tư, đầu tư dục khả năng.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập phúc đức cung: hưởng thụ ganh đua hải phái.Cung Tài Bạch Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: cần tiền giờ, có thể được đáo dài bối bang hỗ trợ.

Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Khoa:Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập mệnh cung: tiền kiếm nhiều ít, toán nhiều ít, không hoạt động mạnh rất, theo đó ngộ mà an.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: lượng nhập như xuất, bang hỗ trợ huynh đệ.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập phu thê cung: tiền tài vững vàng, phối ngẫu như quý nhân một trong.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập tử nữ cung: hợp khỏa sự nghiệp bình thuận, kiếm tiền nhiều ít toán nhiều ít, bất kể ganh đua.Cung Tài Bạch tự Hóa Khoa: tài nguồn gốc bình thuận, vô phong ba.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập tật ách cung: kiếm tiền ganh đua khinh tông, bình thuận.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập thiên di cung: tại ngoại cầu tài bình thuận, quý nhân hiện.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập nô bộc cung: bạn bè sẽ không tổn hại đáo chính là tiền tài.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập Quan Lộc cung: sự nghiệp đầu phí, tài năng lực vững vàng.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: tài cầm lại gia dụng, bình thuận tiết kiệm, lượng nhập như xuất.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập phúc đức cung: lượng nhập như xuất hướng đến hưởng thụ.Cung Tài Bạch Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: kiếm tiền bình thuận, sẽ không nhượng phụ mẫu thương thần.Cung Tài Bạch Phi Hóa -- Hóa Kị:

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập mệnh cung: giữ tiền, kiếm tiền không dễ dàng nhưng tiết kiệm.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập huynh đệ cung: vì huynh đệ việc phá tài, có thể tài rơi vào huynh đệ trong tay.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập phu thê cung: vì phối ngẫu việc mà phá tài có thể kiếm là tiền rơi vào phối ngẫu trong tay.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tử nữ cung: đầu tư không nhất định kiếm tiền, tử nữ tiêu vặt rất ít.

Cung Tài Bạch tự Hóa Kị: tự kiếm tự hoa, nhưng kiếm tiền ganh đua khổ cực.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tật ách cung: kiếm tiền lao lục chúc kháo thể hiện ra năng lực lao hoạt động người.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại không thuận, kiếm tiền nan, đầu tư tổn hại thất, hoa tiền ganh đua lận.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập nô bộc cung: vì bạn bè tổn hại tài.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: đầu tư sự nghiệp, không nhất định kiếm tiền.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: giữ tiền không đổi, thả tiền tài không tụ.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập phúc đức cung: mặc kệ kiếm tiền cùng với phủ, quân quan trọng hưởng thụ, thị phi ganh đua đa.

Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: chu chuyển ganh đua gặp gỡ không được, khủng vì tài thương thân.

Quan Lộc cung Phi Hóa:

Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: dựa vào chính mình năng lực kiếm tiền, sự nghiệp làm được ganh đua bình thuận.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: sự nghiệp kháo huynh đệ giúp việc, hợp khỏa sự nghiệp kiếm tiền.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập phu thê cung: sự nghiệp có thể được đáo phối ngẫu là bang hỗ trợ, thả bình thuận kiếm tiền.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: bằng lòngkhả kinh doanh hợp khỏa sự nghiệp, thích hợp ngu nhạc sự nghiệp.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: kiếm liễu tiền tái đầu tư, tư kim đủ.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập tật ách cung: công tác ganh đua khinh tông, khoái trá.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập thiên di cung: tại ngoại có quý nhân, sự nghiệp tại ngoại đắc ý.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: đồng sự tương xử hòa hợp, cùng với bạn bè hợp tư sự nghiệp kiếm tiền.

Quan Lộc cung tự Hóa Lộc: có sang nghiệp năng lực, chính kiếm tiền chính hoa.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: kinh doanh không nhúc nhích sinh sản ý.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: sự nghiệp gặp gỡ kiếm tiền, cũng có thể hưởng thụ.

Quan Lộc cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: sự nghiệp có thể được phụ mẫu chi trì, nhậm chức ganh đua địa vị cao.

Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: như sự nghiệp bận rộn, tự chưởng Quyền, sang nghiệp năng lực khả năng.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: hợp khỏa đầu tư kiếm tiền, kinh doanh Quyền tại huynh đệ trong tay.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập phu thê cung: sự nghiệp vì phối ngẫu hướng đến hỗ trợ kiếm tiền, kinh doanh Quyền tại phối ngẫu trong tay.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: kiếm tiền dục vọng đại.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền dục vọng đại, tái đầu tư.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập tật ách cung: trách nhiệm cảm trọng, ganh đua lao tâm.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập thiên di cung: tại ngoại sự nghiệp đắc ý, kiếm tiền gặp dịp đa.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: bạn bè chưởng sự nghiệp kinh doanh Quyền, đầu tư sự nghiệp kiếm tiền.

Quan Lộc cung tự Hóa Quyền: đối sự nghiệp ganh đua có sang nghiệp năng lực, sự nghiệp tâm trọng.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: doanh không nhúc nhích sinh sản ý, nhưng dục vọng cao.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: sự nghiệp kiếm tiền, thả bài tràng đại.

Quan Lộc cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: sự nghiệp có thể được phụ mẫu dài bối chi trì, Quyền tại dài bối trong tay.

Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: sự nghiệp bình thuận, thích hợp nhậm chức trên dưới ban như nghi.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: hợp khỏa đầu tư sự nghiệp bình thuận, đây đó vô tình kiến, vô khẩu thiệt hướng đến tranh.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập phu thê cung: sự nghiệp vững vàng, phối ngẫu mong muốn không nên vì sự nghiệp thái lao luy.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: đầu tư sự nghiệp bình thuận.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền bình thuận, phong ba tiểu.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập tật ách cung: công tác khinh tông, thấy bình thản.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập thiên di cung: sự nghiệp tại ngoại có quý nhân tương trợ, bình thuận.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập nô bộc cung: cùng với đồng sự tương xử hòa hợp, sự nghiệp bình thuận.

Quan Lộc cung tự Hóa Khoa: sự nghiệp ganh đua bình thuận.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: kinh doanh không nhúc nhích sinh sản ý vững vàng.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập phúc đức cung: tài vững vàng, vô đại phong ba.

Quan Lộc cung Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: phụ mẫu dài bối như sự nghiệp thượng lưu là quý nhân, nhậm chức tắc bình thuận.

Quan Lộc cung Phi Hóa -- Hóa Kị:

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập mệnh cung: sự nghiệp không thuận, lao tâm lao lực, thường nghĩ biến đổi công tác, biến động công hành động.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: đầu tư sự nghiệp không thuận, đây đó ganh đua đa ý kiến phân tranh.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập phu thê cung: phối ngẫu tại sự nghiệp thượng lưu bang không hơn mang. Sự nghiệp biến hóa đại.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: sự nghiệp biến hóa đại, hợp khỏa bất lợi.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền ganh đua nan, đầu tư thu về mạn, tư kim không đủ.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập tật ách cung: trách nhiệm cảm trọng, nhưng ganh đua lao lục, thả sự nghiệp không thuận.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại công tác thường biến hoạt động có thể không thuận.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: vì sự nghiệp liên quan hệ, nhượng bạn bè quan tâm.

Quan Lộc cung tự Hóa Kị: sự nghiệp ganh đua không thuận, kiếm tiền ganh đua nan.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: kinh doanh không nhúc nhích sản, nhưng kiếm được ít. Thả ganh đua lao lục.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: sự nghiệp kinh doanh không giỏi, phá tài, phúc trạch yếu kém.

Quan Lộc cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: sự nghiệp không chiếm được dài bối hướng đến hỗ trợ.

Phu thê cung Phi Hóa:

Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:

Phu thê cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: phu thê duyên tốt, cảm tình tốt đẹp.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, gặp gỡ chiếu cố anh em bạn bè.

Phu thê cung tự Hóa Lộc: phối ngẫu nhân duyên tốt đẹp, cá tính theo đó hòa.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ có duyên, đối tử nữ tốt.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: phu thê cảm tình tốt đẹp, thả đối chính hướng đến tiền tài có bang hỗ trợ.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập tật ách cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, quan tâm của ngươi thân, có ái tâm.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập thiên di cung: phu thê duyên tảo, cảm tình tốt đẹp, bang hỗ trợ kiếm tiền.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, gặp gỡ chiếu cố anh em bạn bè.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu đối sự nghiệp có bang hỗ trợ, thả phối ngẫu người ở bên ngoài duyên tốt đẹp.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu cùng với bạn bè tốt đẹp, thả phù thê cảm tình tốt, sinh hoạt mĩ mãn.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: phối ngẫu chính có việc nghiệp, có thể bang hỗ trợ tiền tài, có thể hưởng thụ.

Phu thê cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu duyên tốt đẹp, tương xử dung 冾.

Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:

Phu thê cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, tương xử hòa hợp.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: phối ngẫu đối chính là anh em bạn bè theo đó hòa.

Phu thê cung tự Hóa Khoa: phối ngẫu nhân duyên tốt đẹp, tốt mặt mũi, cá tính theo đó hòa, gia thế thanh minh.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: đối tử nữ ganh đua có ái tâm.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: phu thê cảm tình tốt đẹp, một tiền giờ hoàn gặp gỡ giúp ngươi điều độ.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập tật ách cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, có ái tâm, quan tâm thân.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập thiên di cung: phối ngẫu như quý nhân bang thủ, làm cho tại ngoại ganh đua bình thuận.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập nô bộc cung: phối ngẫu đối chính là anh em bạn bè theo đó hòa.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu người ở bên ngoài duyên tốt đẹp, bình thuận, đối sự nghiệp có bang hỗ trợ.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu cùng với chính hắn là bạn bè tương xử hòa hợp, gia đình sinh hoạt mĩ mãn.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập phúc đức cung: phối ngẫu chính hướng đến công tác vững vàng, lượng nhập như xuất.

Phu thê cung Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu tương xử dung 冾, gia đình hoàn cảnh tốt đẹp.

Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:

Phu thê cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: phu thê duyên tốt, nhưng ý kiến đa.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, nhưng là hiểu ý kiến ganh đua đa.

Phu thê cung tự Hóa Quyền: phối ngẫu cá tính khả năng, gặp gỡ quản đối phương.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: hỉ cái ống nữ và chính là huynh đệ, đối điền trạch dục vọng cao.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: phối ngẫu chưởng tài Quyền, đối chính hướng đến tài có thể thích giờ bang hỗ trợ.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập tật ách cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, khả năng chế tính chất quan tâm của ngươi thân, hoa đào cũng đa.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập thiên di cung: ganh đua gặp gỡ quản, thường tại ngoại giao tế ứng thù.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: phối ngẫu đối chính là huynh đệ bạn bè thái độ tốt, nhưng ý kiến đa.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu tại ngoại chưởng Quyền, để tránh khỏi đắc tội với người. Thả chính chưởng kinh doanh Quyền.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu ganh đua gặp gỡ quản chính hắn là bạn bè, thả tại gia cũng vậy dục chưởng Quyền.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: phối ngẫu chưởng chính chuyện nghiệp Quyền, có thể bang hỗ trợ tiền tài, có hưởng thụ.

Phu thê cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu ý kiến đa, nhưng duyên phận tốt đẹp.

Phu thê cung Phi Hóa -- Hóa Kị:

Phu thê cung Hóa Kị nhập mệnh cung: phu thê tương xử không hòa hợp, đa câu oán hận.

Phu thê cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: phối ngẫu cùng với anh em bạn bè vô ấn tượng tốt, vô duyên.

Phu thê cung tự Hóa Kị: phu thê duyên bạc, nhân duyên bất hảo.

Phu thê cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: phối ngẫu đối tử nữ không tốt, có thể bất công, tại gia không thói quen.

Phu thê cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: phu thê vì tài khởi tranh chấp, thả phù thê cảm tình bất hảo.

Phu thê cung Hóa Kị nhập tật ách cung: phu thê cảm tình không tốt, tính chất sinh hoạt không phối hợp, hoa đào đa.

Phu thê cung Hóa Kị nhập thiên di cung: phối ngẫu tại ngoại không giúp được gì, thả phù thê duyên bạc, cá tính bất hòa.

Phu thê cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: phối ngẫu cùng với anh em bạn bè vô ấn tượng tốt, vô duyên.

Phu thê cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: phối ngẫu tại ngoại không thuận, đối việc của mình nghiệp một bang hỗ trợ.

Phu thê cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: phối ngẫu cùng với chính hắn là bạn bè tương xử không tốt, bạn bè ít. Phu thê cảm tình khiếm tốt đẹp.

Phu thê cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: phối ngẫu sự nghiệp không thuận có thể như gia đình chủ phụ.

Phu thê cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: phối ngẫu cùng với phụ mẫu bất hòa, làm cho chính tinh thần yếu kém, thả phối ngẫu keo kiệt.

Tật ách cung Phi Hóa

Tật ách cung Phi Hóa -- Hóa Lộc:

Tật ách cung Hóa Lộc nhập mệnh cung: có người duyên, nhạc quan, thân tốt đẹp.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ có duyên, cảm tình tốt đẹp.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập phu thê cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, đông ái thê ( phu ) tử, tính chất sinh hoạt đa.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên tốt đẹp, đông tử nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, một tiết chế.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập Cung Tài Bạch: tài vận tốt đẹp, tiền kiếm được khinh tông, ganh đua có dài bối quý nhân hỗ trợ.

Tật ách cung tự Hóa Lộc: như nhân nhạc quan, bất kể ganh đua.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập thiên di cung: người ở bên ngoài duyên tốt đẹp, bạn bè đa, hỉ ngoạn nhạc.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập nô bộc cung: cùng với bạn bè duyên tốt đẹp, bạn bè đa, thả hoa đào ganh đua đa.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung: công tác khinh tông khoái trá, đồng sự gian tương xử sự hòa thuận.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập Cung Điền Trạch: có tài vận, thân tốt đẹp, tại gia bình thuận.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập phúc đức cung: nhân duyên tốt đẹp, phúc trạch tốt, thả thân tốt đẹp.

Tật ách cung Hóa Lộc nhập phụ mẫu cung: cùng với dài bối có duyên phận, quý nhiều người, tại ngoại đắc ý.

Tật ách cung Phi Hóa -- Hóa Quyền:

Tật ách cung Hóa Quyền nhập mệnh cung: cá tính khả năng, niên thiếu đa tai.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ gặp gỡ có ý định kiến, gặp gỡ quản huynh đệ.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập phu thê cung: phu thê cảm tình tốt đẹp, tham sắc dục đa, nhưng ganh đua gặp gỡ quản phối ngẫu, thường có ý định kiến.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên tốt đẹp, cái ống nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, một tiết chế.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch: kiếm tiền ganh đua bận rộn, tiền là dục vọng đại, ganh đua lao tâm.

Tật ách cung tự Hóa Quyền: cá tính khả năng thả cổ quái, trưởng thành sớm.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập thiên di cung: tại ngoại bận rộn, nhân duyên tốt đẹp, cùng với bạn bè ganh đua có ý định kiến.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập nô bộc cung: cùng với bạn bè duyên tốt đẹp, nghĩ giao càng nhiều là bạn bè.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập Quan Lộc cung: công tác ganh đua lao tâm, trách nhiệm cảm trọng, quản bộ chúc đồng sự.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập Cung Điền Trạch: tài dục vọng cao, tại gia chưởng Quyền.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập phúc đức cung: nhân duyên tốt, năng lực khả năng, nhưng lao lục lao tâm, thả đa tai.

Tật ách cung Hóa Quyền nhập phụ mẫu cung: có dài bối thích giờ bang hỗ trợ, tại ngoại thường có ý định kiến tranh chấp.

Tật ách cung Phi Hóa -- Hóa Khoa:

Tật ách cung Hóa Khoa nhập mệnh cung: nhân duyên tốt đẹp, nhạc quan, thể xác và tinh thần khoái trá.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ cảm tình gặp gỡ, thích bằng lòngkhả mà chỉ.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập phu thê cung: cùng với phối ngẫu cảm tình bất hòa hài.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên tốt đẹp, đông tử nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, nhưng có tiết chế.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập Cung Tài Bạch: tiền tài bình thuận, lượng nhập như xuất.

Tật ách cung tự Hóa Khoa: thân tốt đẹp, phong độ tốt, bệnh có lương y.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập thiên di cung: người ở bên ngoài duyên tốt đẹp cùng với bạn bè gặp gỡ thích bằng lòngkhả mà chỉ, tại ngoại bình an.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập nô bộc cung: trạch bạn bè mà giao, vô tổn hại bạn bè.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập Quan Lộc cung: công tác khinh tông, đồng sự tương xử dung 冾.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập Cung Điền Trạch: tại gia bình thuận, tiền tài lượng nhập như xuất.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập phúc đức cung: nhân duyên tốt đẹp, thân cũng tốt đẹp, có quý nhân.

Tật ách cung Hóa Khoa nhập phụ mẫu cung: cùng với dài bối tương xử hòa hợp, có dài bối quý nhân, tại ngoại bình thuận.

Tật ách cung vì Hóa phi sao -- Hóa Kị:

Tật ách cung Hóa Kị nhập mệnh cung: thân yếu kém, cùng với bạn bè gặp gỡ tổn hại hại đáo chính thân.

Tật ách cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung: cùng với huynh đệ duyên phận mỏng, cảm tình không tốt.

Tật ách cung Hóa Kị nhập phu thê cung: cùng với phối ngẫu cảm tình mỏng, sinh hoạt bất hòa hài.

Tật ách cung Hóa Kị nhập tử nữ cung: cùng với tử nữ duyên bạc, cái ống nữ, thả tính chất sinh hoạt đa, nhưng có tiết chế.

Tật ách cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch: tiền tài không thuận, như tài lao lục mà thương thân.

Tật ách cung tự Hóa Kị: thể hiện ra nhược thả ganh đua đa bệnh, lao lục, trưởng thành sớm.

Tật ách cung Hóa Kị nhập thiên di cung: tại ngoại không thuận, cùng với bạn bè gặp gỡ tổn hại và thân, thả ganh đua đa tai.

Tật ách cung Hóa Kị nhập nô bộc cung: cùng với bạn bè duyên bạc, vì bạn bè mà tổn hại hại thân.

Tật ách cung Hóa Kị nhập Quan Lộc cung: công tác không thuận, lao tâm lao lực, đồng sự tương xử không hòa hợp.

Tật ách cung Hóa Kị nhập Cung Điền Trạch: tiền tài không thuận, thân khiếm tốt đẹp, lao lục.

Tật ách cung Hóa Kị nhập phúc đức cung: thể hiện ra nhược đa bệnh, nhân duyên không tốt, phúc trạch yếu kém.

Tật ách cung Hóa Kị nhập phụ mẫu cung: cùng với dài bối tương xử không tốt, thân cũng không tốt. Tại ngoại không như ý.

Cái khác huynh đệ cung, tử nữ cung, nô bộc cung, Cung Điền Trạch, phúc đức cung, phụ mẫu cung Phi Hóa, tự hành biến thông.

Cách sử dụng tứ hóa phi tinh:

Trừ tứ hóa (của?) của cung vị cố định trên lá số, thì lá số có thể linh hoạt vận dụng.

Như cung huynh đệ của bản mệnh, cũng là cung điền trạch của tài bạch, có thể suy ra sự chu chuyển của tiền bạc có hay khôngHuynh đệ cung Hóa Kị nhập phúc đức cung trùng với tài cung: mượn không được tiền, hướng bạn bè tiền tài chu chuyển, có khó khăn.

Cung Tài Bạch-Hóa Kị nhập nô bộc cung trùng với huynh đệ cung: mượn không được tiền, hướng bạn bè tiền tài chu chuyển có khó khăn.

Huynh đệ cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch trùng với phúc đức cung: trùng với trước mượn không được tiền, trùng với sau khi bằng lòngkhả mượn đáo.

Tật ách cung trừ nhìn bản thân trạng huống ở ngoài, hoàn hãy nhìn sự nghiệp doanh vận là trạng thái, bởi vì, tật ách cung cũng Quan Lộc cung là Cung Điền Trạch.

Tấn ách cung-Hóa Kị nhập phúc đức cung xung với Cung Tài Bạch: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.

Tật ách cung Hóa Kị nhập phu thê cung xung với Quan Lộc cung: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.

Tật ách cung Hóa Kị nhập thiên di cung xung với mệnh: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.

Tật ách cung Hóa Kị nhập mệnh cung xung với thiên di cung: chủ sự nghiệp không kiếm tiền.

Tật ách cung tứ Hóa, Hóa Lộc nhập Quan Lộc cung, Hóa Quyền nhập Cung Tài Bạch, Hóa Khoa nhập thiên di cung: quân chủ sự nghiệp kiếm tiền.

Nô bộc cung cũng phúc đức cung là Cung Điền Trạch, như Hóa Kị nhập tử nữ cung, trùng với chính là Cung Điền Trạch, tắc gặp gỡ tổn hại chính là tài cách.

Phụ mẫu cung cũng phu thê cung là Cung Điền Trạch: như cha mẫu cung Hóa Kị nhập tử nữ cung lai trùng với chính là điền trạch, phu thê là điền trạch trùng với chính là Cung Điền Trạch, biểu thị chủ phu thê bất hòa, tại gia đãi không được, thả hướng thái thái quan trọng tiền ganh đua nan.

Phụ mẫu cung Hóa Kị nhập thiên di cung trùng với Cung Điền Trạch: chủ phu thê duyên bạc, kết hôn muộn.

Phụ mẫu cung Hóa Kị nhập tử nữ cung trùng với Cung Điền Trạch, bảng phu thê là điền trạch trùng với chính là điền trạch, chủ bổn gia cùng với nhà mẹ đẻ bất hòa, cũng họ Chủ Phụ mẫu cùng với chính vô duyên.

Phu thê cung đúng là tật ách cung là Cung Điền Trạch, phu thê cung Hóa Kị nhân phụ mẫu cung trùng với tật ách cung, chủ phu thê duyên bạc.

Cung Tài Bạch nô bộc cung là điền trạch, Cung Tài Bạch Hóa Kị nhập tử nữ cung trùng với Cung Điền Trạch, chủ tài không tụ, cùng với bạn bè đầu tư hợp khỏa, tiền gặp gỡ bị lấy đi.

Phúc đức cung như huynh đệ là Cung Điền Trạch, phúc đức cung Hóa Kị nhập nô bộc cung trùng với huynh đệ cung, chủ anh em bạn bè vô duyên, cũng chủ không thể cân gặp gỡ.

Phúc đức cung Hóa Kị nhập huynh đệ cung trùng với nô bộc cung: chủ anh em bạn bè vô duyên, không thể cân gặp gỡ có thể trước thời gian tiêu gặp gỡ.

Nô bộc cung như phúc đức cung là Cung Điền Trạch, nô bộc cung Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch trùng với phúc đức cung: chủ cùng với tài có liên quan, cũng không có thể tham gia tiêu gặp gỡ có thể trùng với trước, không nên cân gặp gỡ, trùng với sau khi tắc bằng lòngkhả.

Thiên di cung như Cung Điền Trạch là Cung Điền Trạch, vì Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập thiên di cung trùng với mệnh cung, chủ biến hoạt động gặp gỡ dọn nhà, tài sản dựa vào chính mình tránh.

Tử nữ cung như nô bộc cung là Quan Lộc cung, nhìn hợp khỏa đầu tư.

Tử nữ cung Hóa Kị nhập thiên di cung trùng với mệnh, cùng với bạn bè không thể hợp khỏa, chủ đối chính bản thân bất lợi.

Tử nữ cung Hóa Kị nhập phúc đức cung trùng với Cung Tài Bạch, chủ bạn bè bản thân bất lợi.

Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập có thể trùng với mệnh: chủ cùng với duyên phận có liên quan.

Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập Quan Lộc có thể trùng với Quan Lộc: chủ cùng với sự nghiệp có liên quan ( sự nghiệp không thuận ).

Cung Điền Trạch Hóa Kị nhập Cung Tài Bạch có thể trùng với Cung Tài Bạch: chủ cùng với tài có liên quan, có tổn hại tài.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài viết về Tứ Hóa Phái góp nhặt trên diễn đàn tuvilyso.org

Xem bói tướng miệng biết họa phúc cuộc đời

Tướng miệng dày, hồng nhuận là quý; tướng miệng vuông là thông minh, tướng miệng cao quý thì góc cạnh phải rõ ràng, sắc đỏ chu sa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Miệng là cánh cửa của ngôn ngữ, là công cụ để ăn uống, là then chốt của vạn vật tạo hóa và cũng là cửa sổ của trái tim. Thưởng phạt là do miệng nói ra, đúng sai cũng lại là ở miệng. Chính trực đôn hậu, không nói năng bừa bãi gọi là khẩu đức. Kẻ lắm lòi, đặt điều phỉ báng người khác gọi là khẩu tặc.

Tướng miệng vuông vắn, to rộng, có góc cạnh, báo hiệu là người trường thọ mà cao quý. Hình dáng miệng giông như chiếc cung là tướng cách của người phú quý. Miệng rộng, dày, báo hiệu là người giàu có, phúc đức. Miệng thẳng mà không lệch, dày mà không mỏng là tướng của người không sợ thiếu thốn về mặt cơm áo gạo tiền. Miệng vuông hình chữ “tứ", báo hiệu là người giàu có. 

Tướng miệng nhọn lại cong, lệch lại mỏng là tướng của kẻ hàn tiện. Miệng không nói mà tự mở, lại có hình dáng giông như miệng con ngựa là dấu hiệu của người nghèo khổ đói khát.Miệng nhọn như miệng chuột là tướng hay đố kỵ, gièm pha, phi báng người khác. Miệng chúm lại giông như tư thế đang thổi lửa là tướng của kẻ cô độc. Miệng giông như miệng chó thường là mệnh bần cùng, hạ tiện. Miệng có nếp nhăn dọc thì có số ăn không được no. 

Sắc môi tím đen là người khốn khổ, vất vả. Môi trên to, báo hiệu là người hay nói xấu người khác. Môi dưới dài là tướng cách của người tiêu tài tốn của.

Răng lộ ra ngoài là tướng của người không có trí tuệ, đoản thọ. Trên miệng có nốt ruồi đen, báo hiệu là người giàu có, cuộc sống đề huề. Môi có màu đỏ nhạt là tướng người không sợ thiếu ăn. Miệng nhọn giống chiếc móc câu, báo hiệu là người bần cùng. Miệng to có thê nhét vừa nắm tay là tướng cách của người làm quan tướng. Miệng mềm mại, đầy đặn là người giàu tài lộc.

Môi là thành quách của miệng, lưỡi là lưỡi dao của miệng.Thành quách phải dày, dao phải sắc, dày tức là không có vết lõm, sắc tức là không dễ cùn, đây chính là tướng quý của môi và lưỡi. Lưỡi phải đỏ mà không được xuất hiện màu den, đỏ nhạt mà không được trắng. Lưỡi đỏ tươi như màu máu thì có số làm quan, được hưởng lộc. Lưỡi dài chấm tới mũi là tướng của bậc công hầu. Trên lưỡi có đường vân dài, cũng là báo hiệu của người được phong công hầu. Trên lưỡi có nhiều đường vân là tướng của người giàu có. Lưỡi lớn miệng nhỏ là người có số bần hàn lại đoản mệnh.

Lưỡi nhỏ mà ngắn là kẻ bần hàn lại hạ tiện. Lưỡi có sắc tía, xám đen người có số bần hàn, hay gặp chuyện nguy nan. Lưỡi thè ra giống lưỡi rắn là tướng của kẻ độc ác, đoản thọ. Thế của lưỡi phải sâu dài, hình dáng phải vuông thẳng, sắc phải đỏ, phát âm phải vang dội, khẩu đức phải đoan chính, môi phải tròn và dày mới là tướng miệng đẹp.

Trong sách xem bói Linh đài bí quyết có viết: Miệng là cánh cửa của cơ thể con người, trên thông với Nhân trung, dưới là huyệt Thừa tương, hai bên trái phải là 2 bộ vị Tỉnh táo và Tế trù. Miệng trong Ngũ nhạc gọi là Hằng sơn, trong ngũ phương gọi là phương Bắc, trong ngũ tạng thì ứng với tim, thông suốt Thủy Hỏa, còn được gọi là cửa xuất nạp, lại là nơi cư trú của sao Thủy, là cơ quan nhận thức ăn nuôi dưỡng toàn bộ cơ thể. là cơ quan nói chuyện giao tiếp và cũng là mâu chô"t của chuyện thị phi. Biển lớn nhận nước đố ra từ trăm ngàn con sông khác nhau, còn miệng thì ăn hàng trăm loại thực phẩm đế nuôi dưỡng cơ thể con người.

Xem bói tướng miệng cao quý phải có những đặc điểm sau

- Các góc cạnh của miệng rõ ràng, khi ngậm lại miệng phải nhỏ, khi mở miệng thì phải rộng, môi trên và môi dưới có đường nét góc cạnh rõ ràng, khẩu hình giống chiếc cung; tức là phải có hình dáng giống như đang ngậm nước, miệng vuông như hình chữ “tứ”, thêm sắc miệng đỏ giống như ngậm chu sa. Người nào có tướng miệng như vậy tất sẽ là quý nhân.

- Dù có đầy đủ những điều kiện nói trên nhưng môi lại mỏng thì cũng không phải là tướng quý. Người môi mỏng đại đa số là người thích ca hát, tụ tập chốn đông người.

Tướng miệng nhọn, chúm lại như đang thổi lửa là tướng của kẻ nghèo khó. Miệng như miệng chuột, báo hiệu là người hay đố kỵ, gièm pha phỉ báng người khác. môi trên môi dưới tương xứng với nhau là người văn hay chữ tốt.

Phụ nữ nếu như hai môi khép lại mà răng vẫn lộ ra ngoài, báo hiệu sinh nở khó khăn. Môi dưới to chờm môi trên là tướng hại chồng. Môi trên nhô ra chòm xuống môi dưới là tướng kẻ xảo trá. Phụ nữ mang thai nếu trên mặt có sắc xanh kéo dài từ khóe miệng trái vào miệng, báo hiệu sẽ sinh con trai; nêu có sắc đỏ từ khóe miệng phải vào miệng, báo hiệu sinh con gái. Xung quanh miệng có sắc đen, dự báo thai phụ và thai nhi khó bảo toàn tính mạng. Khóe miệng trễ xuống, nếu là phụ nữ thì là tướng hạ tiện lại bi đát, không làm thiếp thì cũng là mệnh tì nữ.

Miệng như ngậm chu sa là tướng phú quý. Khi cười lộ răng, đa số là người không lịch sự. Miệng nhọn mà không có góc cạnh là tướng người vất vả. Môi thô, dày, sắc tía, nếu là nữ thì là tướng không chồng, nói chuyện không rành mạch, báo hiệu là kẻ thiếu tín nghĩa, khó có thể sông tương trợ, hòa thuận với hàng xóm.

Xem bói tướng miệng: Dày, hồng nhuận là quý

Miệng mang lại họa phúc cho con người, đồng thời cũng mang tới cả cái lợi và cái hại. Miệng là nguồn gốc của họa phúc mà họa phúc lại là điều căn bản của lợi hại. Do vậy, lợi hại hay họa phúc đều là do con người tự tạo nên, vì thế nói năng không được tùy tiện.Có câu nói rằng: Khi những lời lẽ không hay mà đã được nói ra thì sẽ mang đến tai họa. 

Người trung hậu ít nói, sẽ tránh được việc phải nghe những lời thô tục. Người có cát tướng là người không nói nhiều. Nếu như cẩn thận, ít nói thì sẽ tránh được nhiều chuyện không hay. Người ăn nói ngông cuồng, thích phỉ báng người khác sẽ gặp nhiều tai họa. Cái gọi là phỉ báng nhiều lời chính là có những lời nói xấu sau lưng người khác. Người này sẽ gặp nhiều chuyện tai ương gây hại tới chính bản thân mình. 

Đầu quân vào hàng tướng nếu là người có miệng rộng có thể nắm quyền hành. Họ có thể thu được quyền hành về tay mình.

Môi phải dày dặn, nói năng phải đứng đắn, nghiêm túc, giọng nói phải thanh thoát rõ ràng, sắc môi phải sáng nhuận. Môi quý là môi dày dặn, nói chuyện hay là ở chỗ đứng đắn, nghiêm túc, giọng nói quý ở chỗ âm hưởng vang xa, sắc môi quý ở chỗ sáng nhuận. 

Ngưòi có môi trên và môi dưới có nhiều đường vân đan xen vào nhau, báo hiệu là con cháu đầy nhà. Người có viền môi rõ nét là tướng của người nhân ái tín nghĩa.

Người có sắc môi đỏ tươi như máu trong nhà dư dả tiền bạc, người có miệng chúm lại như kén tằm đại đa sô" là người bần hàn. Môi đỏ tươi như màu máu, báo hiệu là người vô cùng giàu có.

Người có miệng giông như ngậm đan báo hiệu là người giàu tài nghệ, người có miệng giông như đang thổi lửa là tướng của kẻ bần hàn. Trong sách tướng xưa có viết: Nếu môi như đang ngậm đan phần đa là thiên về nghệ thuật, miệng như đang thổi lửa tất sẽ là tướng cô đơn.

 Khi ngậm 2 môi lại thì miệng phải nhỏ, mở ra thì miệng phải rộng. Miệng không được mím chặt lại.

Tướng miệng vuông thẳng là thông minh

Khi ăn, nếu giống như kiểu ăn tham lam của loài chó, hoặc giống như loài ngựa gặm cỏ lúc đói hoặc ăn như chuột đều là tướng của kẻ hạ tiện.

Miệng không cân xứng có nghĩa là 2 môi trên dưới không cân xứng vói nhau. Nếu 2 môi không khít nhau sẽ không hiển thị rõ khóe miệng. Người như vậy khi nói chuyện rất kiêu ngạo, tự cao tự đại, là hung đồ thiếu tín nghĩa.

 Người thiếu thông minh lại đoản mệnh thường môi trên chòm lên môi dưới. Nếu môi cong cũng là tưóng của người không có trí tuệ.

 Miệng xuất hiện màu xanh đen sẽ có tai họa xảy ra, xuất hiện màu vàng trắng là điểm báo bệnh tật liên miên. Nếu miệng xuất hiện màu xanh đen, báo hiệu sắp có tai họa ập tới. Nếu miệng xuất hiện sắc vàng trắng là điềm báo sắp bị bệnh nặng.

 Hai bên mép có nếp nhăn thô chủ là người hung ác, cuộc đời gặp nhiều tai hoa lao tù. Nếu bên ngoài đường Pháp lệnh có nếp nếp nhiều tai hoa lao tù. Nếu bên ngoài đường Pháp lệnh có nêp nêp nhăn nhỏ, bên ngoài nếp nhăn nhỏ này có nếp nhăn thẳng nữa, những nếp nhăn này cắt ngang đường Pháp lệnh, báo hiệu người đó có cuộc sống đói khổ, bần cùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tướng miệng biết họa phúc cuộc đời

Một số kiên thức cơ bản trong phong thủy văn phòng là gì? –

1 Phong thủy văn phòng cần phải dùng một người phụ trách hoặc chủ quản cao nhất làm chủ, để đi tìm những phương vị cát lợi. 2 Cửa chính của văn phòng cần phải to hơn cửa đối diện, bởi vị to tức là trong khí thế thắng, nhỏ tức bại. 3 Trần nhà hoặc tườ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1 Phong thủy văn phòng cần phải dùng một người phụ trách hoặc chủ quản cao nhất làm chủ, để đi tìm những phương vị cát lợi.

2 Cửa chính của văn phòng cần phải to hơn cửa đối diện, bởi vị to tức là trong khí thế thắng, nhỏ tức bại.

3 Trần nhà hoặc tường nhà của văn phòng không nên thấm nước, rò nước hoặc có vết nứt.

noithat3

4. Trần nhà cửa văn phòng phải cao mới cát, quá tháp sẽ có cảm giác đè nén không cát lợi. hơn nữa ảnh hường đến sự phát triển của ngành nghề, đồng thời thông gió sẽ không tốt. 

5 Cửa chính của văn phòng ky nhất, là đối thẳng với cột điện, cây to, ống khói, đường đi.

6 Những người chủ quản, người phụ trách của văn phòng bên cạnh có vòi phun nước tức là rò tài, sau lưng tất phải có chỗ dựa vững chắc.

7 Cầu thang của văn phòng không thể đối thẳng với cửa chính, nếu không nạp khí và xung bài khí, đối tài khi, sửc khỏe không có lợi.

8 Tài vị của văn phòng, ở góc chếch với của vào, vị trí này phái sáng rõ, sạch sẻ, kỵ cửa không, đặt hoa giả…

9 Cửa chính đi vào văn phòng, nhà vệ sinh ở bên cạnh là đại hung. Bởi vì nhà vệ sinh căn đoạn sinh khí đi vào, chính vì vậy mà tài vận, sự nghiệp không cát lợi.

10 Văn phòng không có cửa sổ là đại hung. Bởi vì không khí không có cách nào giao lưu, tử khí trầm xuống.

11 Bàn làm việc đối thẳng với cửa nhà vệ sinh, sẽ chịu trệ khí nhà vệ sinh, lâu ngày tất hại.

12 Bàn làm việc không thể phá cũ hoặc phá hỏng, nếu không sẽ có tổn thất đến vận đồ.

13 Bàn làm việc tốt nhất là dùng vật liệu gỗ, dùng sắt hoặc chế biến từ sắt sẽ ảnh hưởng đến từ trường, sẽ không tốt lắm.

14 Bàn làm việc phía trên không thể có xà ngang hay đèn treo, nếu không thì sẽ thiên di, thi vạn bất lợi.

15 Phía sau lưng bàn làm việc kỵ nhất là của không. Cửa không chính là phía sau là cửa hoặc cửa sổ, do có cảm giác thiêu an toàn, không tập trung tinh thần dễ làm việc.

16 Bàn làm việc của người phụ trách hoặc người chủ quản đối thẳng với nhà vệ sinh, ảnh hưởng đến doanh vận tổng thể và sự phát triển sự nghiệp, đồng thời có hại tương đối lớn đến tài vận.

16 Bàn làm việc tốt nhất là một đầu dựa vào tường, tương đối chắc chắn, tối kỵ đặt chếch với phòng làm việc.

18 Phía sau bàn làm việc không nên động. Tối kỵ phía sau có lối đi hoặc có người đi lại, bởi vì thiếu cảm giác an toàn, tinh thần không yên.

19 Phía sau bàn làm việc cần có chỗ dựa, những chỗ dựa đó phải tương đối ổn định, có lợi cho sự phát triển nghiệp vụ. Bàn làm việc của người phụ trách hoặc kế toán phải có tính kín dáo là tốt.

Ánh sáng của vàn phòng phài sáng rõ, mã ánh sáng đó nếu là ánh sáng mặt trời tự nhiẽn là tốt nhất, ánh sáng nhân tạo không tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một số kiên thức cơ bản trong phong thủy văn phòng là gì? –

Văn khấn cầu tự

Việc cầu tự tức là nói đến sự cầu mong của các gia đình muốn cầu con cái do hiếm muộn. Chuẩn bị sắm lễ và văn khấn cầu tự nên như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc cầu tự (cầu con cái) tức là nói đến sự cầu mong của các gia đình muốn cầu con cái do hiếm muộn hay do muốn có thêm con cái. Chuẩn bị sắm lễ và văn khấn cầu tự nên như thế nào?

van-khan-cau-tu

1. Sắm lễ:

13 tờ tiền

13 loại quả khác nhau

13 đồ chơi trẻ con.

2. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy 9 phương trời, lạy 10 phương Phật, Chư Phật 10 phương.

- Con lạy Thiên Quan – Linh thần nơi bản địa ở khu vực này.

Đệ tử con là ………………sinh ngày…………

Cùng chồng/vợ………… .sinh ngày…………

Ngụ tại:…………………………………



Hôm nay nhân ngày lành tháng tốt, khí tiết năm ………bầu trời cao vút tỏa sáng phúc lành. Vợ chồng con thành tâm thiết lễ cùng dâng sớ trạng kính lạy Trung thiên mệnh chủ, Bắc cự tử vi, Ngọc đế Thiên quân bệ hạ, giáng trần soi xét cho hạnh phúc gia đình con được có con trai/con gái. Hạnh phúc sum vầy truyền vào hậu thế.

Con lạy Nhật Cung Thái Dương, Nguyệt Cung Thái Âm - Đông Phương Thanh Đế, Bắc Phương Hắc Đế, Tây Phương Bạch Đế kính cáo tôn thần, chư vị các thần linh giáng trần soi xét chữ cương thường đạo lý vợ chồng cho vợ chồng con được cửa rộng nhà cao tiền của dồi dào, có con trai/con gái thông minh học hành chăn chắn một niềm kính thiện.

Con lạy quan Nam Tào Bắc Đẩu, Thái Bạch Thái Tuế, Văn Xương, Văn Khúc, Nhị thập bát tú ngũ hành tinh quân. Trước án liệt vị linh quân tôn thần Tản Viên đại thánh, Trần triều Hưng Đạo Quốc Tảng đại vương cùng Tiên Phật Thánh Thần Quan Âm Bồ Tát chí đức tôn linh hiển thánh thần thông tiết độ cho con được có con trai/con gái để trọn vẹn hiếu sinh hạnh phúc gia đình trong ấm ngoài êm để Ông Bà, chồng vợ chân tình thương yêu chăm sóc. Làm điều thiện được âm dương báo đáp, cây trái thêm hoa sinh sôi nảy nở. Trước án liệt vị các linh quân tôn thần xa thôi lại theo gần xin giải trừ vận hạn tiêu trừ yêu ma tai ách làm muộn đường con trai/con gái.

Chúng con người trần nhục nhãn nan chi, việc trần thế chưa tường việc âm chưa tỏ. Thân sinh nơi trần tục mệnh bởi cung trời cầu xin Thần Phật đức độ cao dầy, hạ trần giáng thế cho con điều thiện, cho con hạnh phúc có con trai/con gái có của, vượng đinh như vượng tài để trên gánh việc thánh dưới gánh việc trần, phúc địa đãi phúc nhân gia đình hai dòng họ vui chữ Nghi Gia truyền vào hậu thế.

Gia đình chúng con bút son thêm số, sổ ngọc thêm năm vượng đinh vượng tài, thêm người thêm của. Hạnh phúc của gia đình dòng họ cùng cuộc đời chúng con lại như nước tràn đầy chảy đến. Một nhà vui vẻ, oanh yến đậm đà, đào hồng thắm biếc. Vậy xin yết cáo tôn thần cùng dân sớ trạng CẦU TỰ xin tỏ tấc thành giáng ban trăm phúc.

Trăm lạy các tôn linh. Cúi nhờ ơn đức.

Sở nguyên thành tâm. Con xin cảm tạ.

Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn cầu tự

Chọn trâu phong thủy như thế nào để phúc lộc mãn đường

Từ lâu, trâu đã được coi là biểu tượng của sức mạnh, củ ý chí chiến đấu và tinh thần nhẫn nại cần cù. Vậy bạn có biết trâu phong thủy có tác dụng gì không?
Chọn trâu phong thủy như thế nào để phúc lộc mãn đường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ lâu, trâu đã được coi là biểu tượng của sức mạnh, của ý chí chiến đấu và tinh thần nhẫn nại cần cù. Vậy bạn có biết trâu phong thủy có tác dụng gì không? Cùng Lịch ngày tốt đi tìm câu trả lời nhé.
Trâu là loài vật có tính cách hiền hòa, làm việc chăm chỉ, chẳng nề hà gian khổ. Trong phong thủy, trâu cũng được xem là linh vật, có công dụng rất lớn đối với vận thế tài lộc cũng như phúc khí của con người. 
  Nhiều người biết được điều đó nên đã bày trâu phong thủy để mang lại vận may cho bản thân và người nhà, giúp cho phúc khí, tài khí, vận khí và sức khỏe đều được gia tăng. Vậy bạn đã biết những điều cấm kị khi bài trí trâu phong thủy trong nhà cũng như ở văn phòng làm việc hay chưa? Có những điều gì cần lưu ý khi lựa chọn tượng trâu hợp phong thủy. Hãy cùng Lịch ngày tốt giải đáp những câu hỏi này nhé.  

1. Trâu có tác dụng gì trong phong thủy?

  Trong văn hóa phương Tây, trâu tượng trưng cho sức mạnh và tài lộc, còn trong văn hóa phương Đông thì trâu lại gắn liền với hình ảnh chăm chỉ, cần cù. Vậy trâu phong thủy có tác dụng gì?   Trâu có dáng đứng vô cùng vững chắc, bốn móng chắc khỏe, như cột nhà to lớn có thể chống đỡ được trước những trận cuồng phong. Khí thế bá đạo của trâu cũng giống như đang chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó với mọi điều có thể xảy ra, vượt mọi khó khăn trở ngại để hướng tới thành công. 


y nghia cua trau phong thuy
 
  Những chú trâu mạnh mẽ, dũng cảm có thể giúp bạn vượt qua những chướng ngại trên con đường sự nghiệp, giúp cho công việc thuận lợi, thuận buồm xuôi gió. Bạn sẽ thấy mình được tăng thêm ý chí chiến đấu, thêm quyết đoán, thêm tự tin cũng như có mục tiêu rõ ràng để phấn đấu đạt được.   Trâu phong thủy đặt trong nhà chẳng những có thể chiêu tài gọi lộc, tăng thêm phúc khí, vận khí cũng như sức khỏe cho gia chủ mà còn có thể trấn trạch trừ tà, xua đuổi tiểu nhân, tăng thêm cát khí, vạn sự như ý.   Trâu theo phong thủy chủ yếu vượng Thứ Tài, rất hợp cho những người làm kinh doanh, là vật may mắn của dân làm ăn. Nếu bạn ngoài công việc chính còn làm thêm những công việc khác thì chú trâu theo phong thủy sẽ giúp cho vận trình Thứ Tài của bạn càng thêm hanh thông. Đặc biệt với những ai làm nghề bất động sản, đầu tư, ngân hàng hay các ngành nghề liên quan đến tài chính thì đây càng là bảo vật phong thủy không thể thiếu.    Đặt trâu ở vị trí Tài tinh sẽ vượng tài hóa sát, tăng thêm may mắn, giúp cho vận trình thuận bề tăng tiến. Với những người mệnh Thổ hoặc hành Thổ là Tài tinh thì dùng trâu phong thủy sẽ càng có tác dụng trong việc vượng tài tụ tài. Bài trí biểu tượng con Trâu sẽ mang lại tài lộc dồi dào.   Với cửa hàng cửa hiệu, đặt tượng trâu ở bàn thu ngân có thể giữ cho việc kinh doanh ngày càng phát đạt, tài lộc dồi dào. Ở công ty bài trí tượng trâu ngoài việc thúc đẩy tài lộc thì còn củng cố thêm vị trí, thương hiệu của công ty, gây dựng hình tượng tốt đẹp và bền vững.  

2. Nên chọn trâu phong thủy như thế nào?

 

Chất liệu

  Trâu phong thủy được làm bằng vàng sẽ có tác dụng mạnh nhất. Kim Ngưu toàn thân tỏa ra ánh vàng rực rỡ, sẽ giúp cho con đường công danh sự nghiệp ngày càng tăng tiến, tài lộc vượng phát, sinh tài sinh lộc.   Tượng trâu được làm bằng đồng thì tốt nhất nên dát vàng trên bề mặt để tạo độ bóng sáng cũng như giúp trâu có vầng hào quang chiếu tỏa xung quanh.   Còn nếu chú trâu của bạn được làm bằng gốm thì cần chú ý hơn về vị trí đặt trâu để tránh những vị trí xung sát.   Tuyệt đối không dùng trâu phong thủy làm bằng gỗ, đó là điều đại kị bởi theo ngũ hành thì Sửu thuộc hành Thổ, Mộc Thổ xung khắc sẽ khiến chú trâu của bạn bị vô hiệu hóa, chẳng thể phát ra linh khí để trợ giúp cho bạn.  

Thần thái, màu sắc

  Việc chế tác có tinh xảo hay không là điều vô cùng quan trọng, bởi nếu tượng trâu không có thần thái uy lực như vốn có thì linh khí sẽ giảm bớt nhiều phần. Trâu phải có nét hiền hòa, trung thực, nhân hậu, thể hiện được khả năng nhẫn nại, chịu khó chịu khổ.


theo phong thuy trau mang lai tai loc
 
  Màu sắc tốt nhất cho tượng trâu theo phong thủy là màu vàng kim hoặc vàng đất.  

Vị trí bài trí và số lượng trâu

  Trâu thuộc hành Thổ, tốt nhất bạn nên đặt ở hướng Đông Bắc thiên Bắc, đây là vị trí cực kì thích hợp để trâu có thể phát huy hết uy lực của mình. Hơn nữa, Tị Dậu Sửu tam hợp nên hướng Tị và hướng Dậu cũng là lựa chọn không tồi để bạn bài trí trâu hợp phong thủy.   Hướng Tây Nam thiên Nam thì không nên đặt trâu bởi đó là hướng Mùi, Sửu Mùi tương xung, không thích hợp bài trí. Theo đó, người tuổi Mùi cũng không nên bày trâu phong thủy trong nhà, sẽ khiến cho tài khí phúc khí bị tiêu tan.   Theo phong thủy đời sống, muốn sự nghiệp thăng tiến, tăng lương thăng chức, bạn có thể để tượng trâu ở văn phòng, ở vị trí chính giữa trên bàn làm việc hoặc trên giá sách. Nếu muốn chiêu tài, nên đặt trâu ở nơi gần cửa ra vào, đối cửa chính hoặc đối cửa sổ đều được. Muốn trấn hung hóa sát, bổ khuyết cầu an thì đặt trâu ở nơi khuyết góc trong nhà. Đây là một trong những cách đơn giản để hóa giải nhà khuyết góc theo quy tắc phong thủy.
 
Về số lượng trâu, không nên tham bày quá nhiều mà nên chú ý đến chữ “tinh”, thậm chí chỉ cần một con nhưng linh khí mạnh là đủ để phát huy tác dụng rồi.  

3. Có nên bày tượng trâu trong phòng ngủ?

  Trong phong thủy, trâu thuộc hành Thổ nên thông thường người ta bày trâu ở phòng khách, sảnh đường, tuyệt đối không nên bày trâu trong phòng ngủ, dễ phạm phải xung sát, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.  

4. Bài trí tượng trâu ở văn phòng như thế nào?

  Nhiều người thường đặt tượng trâu ở nơi làm việc để có thể giúp cho sự nghiệp được hanh thông, tinh thần được minh mẫn, ý chí được kiên trung. Song bạn cũng nên chú ý một vài điểm sau khi bài trí trâu ở văn phòng, cần dùng trâu phong thủy đúng cách để phát tài vượng vận.   Không nên bày tượng trâu đứng, sừng trâu xoay về phía mình bởi sừng trâu sát chủ, dễ gây họa tranh đấu, thị phi, không có lợi cho con đường tăng tiến sự nghiệp.   Không nên chọn tượng trâu có hình thù kì dị, có thể khiến cho phong thủy vốn đang tốt trở nên xấu, thậm chí có thể khiến cho những sự việc không hay ngoài ý muốn xảy ra.   Ở văn phòng, nên đặt trâu ở hướng Tây Bắc, sẽ giúp cho tài vận và vận trình thêm thuận lợi.   Để trâu trong ngăn bàn sẽ rất có lợi cho những người đang trong giai đoạn khởi nghiệp hoặc đang ở trong giai đoạn khó khăn của sự nghiệp. Nên đặt tượng trâu trong ngăn kéo bạn thường xuyên sử dụng, sẽ giúp cho tài lộc sẵn có thêm vững chắc, mời gọi thêm tài lộc mới, tiền bạc ào ào đổ về nhiều không kể xiết.  

5. Tượng trâu nên ngẩng đầu hay cúi đầu?

  Như đã nói ở trên, trâu theo phong thủy không nên chọn dáng đứng thẳng mà nên chọn dáng hơi gò người xuống, tạo sự chắc chắn, bền vững.   Trâu tượng trưng cho sự trung thực, nhân hậu, song chỉ dáng ngẩng đầu hay cúi đầu của trâu cũng có những tầng ý nghĩa không giống nhau. Trâu ngẩng đầu thể hiện cho khí thế bình ổn, không muốn ganh đua tranh đấu với đời, nhưng vẫn có ý chí phấn đấu, dựa vào chính năng lực của mình để đạt được mục tiêu đã định.   Trâu cúi đầu lại có ý nghĩa khiêm nhường hơn, thể hiện sự hài hòa, nhẫn nại, có chút nhún nhường. Trâu cúi đầu để mời gọi nhân duyên, tăng thêm quý khí, mở rộng mối quan hệ, tự tạo vận quý nhân cho mình.        An An      
Chiêu tài bằng tì hưu thế nào là chuẩn nhất? Cóc 3 chân ngậm tiền: Dùng đúng không lo nghèo khó, xui xẻo Rồng phong thủy, bài trí đúng để nâng tầm quyền lực Đừng bỏ qua kiến thức về ngựa phong thủy để “mã đáo thành công”

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn trâu phong thủy như thế nào để phúc lộc mãn đường

Xem bói vận mệnh người tuổi Tý mệnh Hỏa

Người tuổi Tý mệnh Hỏa là những người sinh năm Mậu Tý 1948 hoặc 2008. Họ thường có vẻ ngoài tràn đầy sức sống và trái tim nhiệt huyết, luôn lạc quan, yêu
Xem bói vận mệnh người tuổi Tý mệnh Hỏa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuoi Ty (8)
 

Người tuổi Tý mệnh Hỏa là những người sinh năm Mậu Tý (1948 hoặc 2008). Họ thường có vẻ ngoài tràn đầy sức sống và trái tim nhiệt huyết, luôn lạc quan, yêu đời. Họ mang trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, không ngại khó khăn, gian khổ, luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây cũng là những người chính trực, giỏi giao tiếp, được bạn bè và đồng nghiệp quý mến.

Với tính cách cởi mở, phóng khoáng, người tuổi Tý mệnh Hỏa thích tham gia các hoạt động tập thể cùng bạn bè, người thân. Họ cũng rất có hứng thú với các môn thể thao mạo hiểm như leo núi, bơi lặn… Tuy có khá nhiều ưu điểm nhưng nếu rèn luyện được tính kiên nhẫn thì hình ảnh của họ trong mắt mọi người sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. Đức tính kiên nhẫn cũng sẽ giúp họ đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp và cuộc sống.

Người tuổi Tý mệnh Hỏa có Phúc thần tương trợ trong bản mệnh. Họ được hưởng sự yên bình và hạnh phúc trọn đời.

Các bài viết sau cùng chủ đề người tuổi Tý, có thể bạn quan tâm:

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tuổi Tý hợp với tuổi nào trong tình yêu, hôn nhân Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào? Bài trí phong thủy văn phòng cho người tuổi Tý dễ phát tài

(Theo 12 con giáp về cuộc đời và sự nghiệp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói vận mệnh người tuổi Tý mệnh Hỏa

Bảo bối phong thủy cho 12 con giáp phát tài phát lộc

Bảo bối phong thủy cho 12 con giáp phát tài phát lộc bao gồm đồ gốm, cành đào, chậu hoa sen... Xem những đồ vật phong thủy phù hợp với 12 con giáp
Bảo bối phong thủy cho 12 con giáp phát tài phát lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Những vật mang thuộc tính Thủy sẽ đem lại tài lộc cho người tuổi Tý. Họ nên đặt một bể cá vàng hoặc một chậu cây thủy sinh có thể nở hoa ở hướng Bắc của văn phòng để tăng vận tiền tài.


Tuổi Tý – Thêm Thủy ở hướng Bắc

Những vật mang thuộc tính Thủy sẽ đem lại tài lộc cho người tuổi Tý. Họ nên đặt một bể cá vàng hoặc một chậu cây thủy sinh có thể nở hoa ở hướng Bắc của văn phòng để tăng vận tiền tài.

Tuổi Sửu – Thêm Hỏa ở hướng Nam


Bao boi phong thuy cho 12 con giap phat tai phat loc hinh anh
 
Người tuổi Sửu thuộc nguyên tố Thổ, theo ngũ hành Hỏa sinh Thổ, do đó vật phẩm giúp vượng khí tốt nhất cho họ phải mang hành Hỏa. Ở hướng chính Nam của nơi làm việc hoặc nhà ở, người cầm tinh con Trâu nên treo một miếng vải màu đỏ, màu của lửa.

Ngoài ra, các nhà phong thủy cũng khuyên họ đặt một số vật phẩm trang trí bằng gốm ở hướng Tây Nam, vì đồ gốm được nung bởi lửa.

Tuổi Dần – Thêm Thổ, Mộc ở hướng Đông

Người tuổi Dần thuộc nguyên tố Mộc, Mộc khắc Thổ sinh tài. Vì thế hãy dùng các vật mang tính Mộc và Thổ để thu hút tiền tài. Bạn có thể dùng mã não phỉ thúy màu xanh lục hoặc những chậu cây xum xuê cành lá để thúc vượng tài vận.

Tuổi Mão – Thêm Thổ ở hướng Đông Bắc

Người cầm tinh con Mèo được khuyên đặt một miếng ngọc ở hướng Đông Bắc của phòng ngủ để tài vận hanh thông. Người ta tin rằng, ngọc bích được chôn ở dưới đất hàng nghìn năm là tinh hoa của đất trời và nó sẽ đem lại may mắn cho người tuổi Mão.

Ngoài ra, do Hợi, Mão, Mùi là tam hợp nên bạn có thể dùng vật trang trí hình con lợn để đón tài lộc. Đây cũng là một trong những bảo bối phong thủy giúp người tuổi Mão dễ phát tài phát lộc.

Tuổi Thìn – Thêm Thủy ở hướng Tây Bắc

Tây Bắc là hướng đem lại tài lộc cho những người tuổi Thìn. Hãy đặt một chậu hoa sen ở hướng này của phòng ngủ để có thể dễ dàng phát tài.

Bao boi phong thuy cho 12 con giap phat tai phat loc hinh anh 2
 
Tuổi Tỵ - Thêm Kim ở hướng Tây


Theo phong thủy, những vật phẩm màu ánh kim, màu sáng trắng như các đồ trang sức, đặc biệt là bằng vàng hoặc bạc sẽ đem lại may mắn cho người tuổi Tỵ. Đeo những đồ trang sức bằng vàng hoặc bạc sẽ giúp người cầm tinh con Rắn có cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Họ cũng có thể đặt các đồ vật làm từ gốm, sứ ở hướng Tây của căn nhà để vượng tài khí.

Tuổi Ngọ - Thêm Kim ở hướng Tây Bắc

Bạn có thể đặt một con cóc bằng đồng ở phía Tây Bắc của phòng ngủ, điều này có thể giúp bạn thăng quan tiến chức cũng như thúc vượng tài vận.

Tuổi Mùi – Thêm Mộc ở hướng Bắc

Bạn nên để một hộp bằng gỗ gụ ở hướng chính Bắc của văn phòng, và đặt một vật dụng liên quan đến ngành nghề của mình bên trong. Ví dụ, một đầu bếp có thể đặt một cái thìa nấu ăn trong hộp.

Tùy biến màu sắc 4 hướng chính cho ngôi nhà hút tài sinh lộc
– Sử dụng chuẩn màu sắc phong thủy cho 4 hướng chính của ngôi nhà, gia chủ càng khỏe mạnh, hạnh phúc và dễ phát tài trong năm 2016.
Tuổi Thân – Thêm Mộc ở hướng Tây


Để tăng tài lộc, bạn có thể đặt một cây (thường là cao hơn đầu người) ở hướng Tây của nhà mình.

Tuổi Dậu – Thêm Mộc ở hướng Tây


Người tuổi Dậu nên đặt một số hạt giống vào một cái hộp (không phải bằng kim loại) màu đem đậm. Những hạt giống này có sức sống mãnh liệt, do đó nó sẽ đem lại may mắn và tiền tài cho bạn.

Tuổi Tuất – Thêm Mộc ở vị trí trung tâm


Bao boi phong thuy cho 12 con giap phat tai phat loc hinh anh 3
 
Người tuổi Tuất nên tránh các vật phẩm mang tính Thủy và Thổ. Họ nên trưng một số cành đào (vật mang tính Mộc) ở nơi vị trí trung tâm nơi làm việc, tuy nhiên không nên đặt chúng trong nước hoặc chôn dưới đất.

Tuổi Hợi – Thêm Hỏa ở hướng Bắc

Theo quan điểm phong thủy, những người tuổi Hợi cần sử dụng các vật phẩm mang tính Hỏa để khai thông tài khố. Bạn có thể để một bộ ấm chén trong phòng khách, bởi lẽ đồ gốm sứ được nung nóng bởi ngọn lửa.

► Xem phong thủy theo ngũ hành để đón lành tránh dữ

Phùng Hiền

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảo bối phong thủy cho 12 con giáp phát tài phát lộc

10 điều tuổi trẻ thường lãng phí

10 điều tuổi trẻ thường lãng phí. Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong hành trình tạo dựng một cuộc đời có ý nghĩa, nếu bạn lỡ coi thường một trong 10 điều thiết yếu dưới đây, coi như bạn đã tự đánh mất một phần nhựa sống của chính mình.

Sức khoẻ: Lúc còn trẻ, người ta thường ỷ lại vào sức sống tràn trề đang có. Họ làm việc như điên, vui chơi thâu đêm, ăn uống không điều độ…. Cứ như thế, cơ thể mệt mỏi và lão hoá nhanh. Khi về già, cố níu kéo sức khoẻ thì đã muộn.

Thời gian: Mỗi thời khắc “vàng ngọc” qua đi là không bao giờ lấy lại được. Vậy mà không hiếm kẻ ném 8 giờ làm việc qua cửa sổ. Mỗi ngày, hãy nhìn lại xem mình đã làm được điều gì. Nếu câu trả lời là “không”, hãy xem lại quỹ thời gian của bạn nhé!

Tiền bạc: Nhiều người hễ có tiền là mua sắm, tiêu xài hoang phí trong phút chốc. Đến khi cần một số tiền nhỏ, họ cũng phải đi vay mượn. Những ai không biết tiết kiệm tiền bạc, sẽ không bao giờ sở hữu được một gia tài lớn.

Tuổi trẻ: Là quãng thời gian mà con người có nhiều sức khoẻ và trí tuệ để làm những điều lớn lao. Vậy mà có người đã quên mất điều này. “Trẻ ăn chơi, già hối hận” là lời khuyên dành cho những ai phí hoài tuổi thanh xuân cho những trò vô bổ.

Không đọc sách: Không có sách, lịch sử im lặng, văn chương câm điếc, khoa học tê liệt, tư tưởng và suy xét ứ đọng. Từ sách, bạn có thể khám phá biết bao điều kỳ thú trên khắp thế giới. Thật phí “nửa cuộc đời” cho nhưng ai chưa bao giờ biết đọc sách là gì!

Cơ hội: Cơ hội là điều không dễ dàng đến với chúng ta trong đời. Một cơ may có thể biến bạn thành giám đốc thành đạt hay một tỷ phú lắm tiền. Nếu thờ ơ để vận may vụt khỏi tầm tay, bạn khó có thể tiến về phía trước.
Nhan sắc: Là vũ khí lợi hại nhất của phụ nữ. Có nhan sắc, bạn sẽ tự tin và chiếm được nhiều ưu thế hơn so với người khác. Tuy nhiên, “tuổi thọ” của nhan sắc có hạn. Thật hoang phí khi để sắc đẹp xuống dốc. Hãy chăm sóc mình ngay từ bây giờ.

Sống độc thân: Phụ nữ ngày nay theo trào lưu “chủ nghĩa độc thân”. Thực tế là khi sống một mình, bạn rất cô đơn và dễ cảm thấy thiếu vắng vòng tay yêu thương của chồng con. Bận bịu gia đình chính là một niềm vui. Sống độc thân, bạn đã lãng phí tình cảm đẹp đẽ ấy.

Không đi du lịch: Một vĩ nhân đã từng nói: “Khi đi du lịch về, con người ta lớn thêm và chắc chắn một điều là trái đất phải nhỏ lại”. Vì thế, nếu cho rằng đi du lịch chỉ làm hoang phí thời gian và tiền bạc, bạn hãy nghĩ lại nhé!

Không học tập: Một người luôn biết trau dồi kiến thức sẽ dễ thành công hơn người chỉ biết tự mãn với những gì mình biết. Nếu không học hành, bạn đang lãng phí bộ óc đấy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 điều tuổi trẻ thường lãng phí

Xếp hạng phong thủy từng bộ phận trên cơ thể phụ nữ

Ngực của người phụ nữ cũng ảnh hưởng rõ ràng tới vận thế, đó là lý do vì sao các nữ minh tinh thường hay diện những trang phục khoe ngực hết sức táo bạo.
 Xếp hạng phong thủy từng bộ phận trên cơ thể phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngực của người phụ nữ cũng ảnh hưởng rõ ràng tới vận thế, đó là lý do vì sao các nữ minh tinh thường hay diện những trang phục khoe ngực hết sức táo bạo.

 Xep hang phong thuy tung bo phan tren co the phu nu  hinh anh
Ảnh minh họa
1. Ngực
 
Ngực mềm mại, trắng hồng thì theo phong thủy được đánh giá là tốt nhất. Phụ nữ không thể lý giải được vì sao đàn ông lại có ham muốn cao với bộ ngực của họ và có thể cả đêm lưu luyến không rời. Ngực của người phụ nữ cũng ảnh hưởng rõ ràng tới vận thế, đó là lý do vì sao các nữ minh tinh thường hay diện những trang phục khoe ngực hết sức táo bạo.   2. Môi
 
So với những vị trí kín đáo thì môi có tác dụng phong thủy lớn hơn rất nhiều. Có thể bạn không biết nhưng môi mang tính thể hiện, lộ ra ngoài nên tác dụng phong thủy của nó cao hơn.   3. Khuôn mặt
 
Khuôn mặt khác nhau thì vận trình sẽ khác nhau, cấp bậc phong thủy cũng sẽ khác nhau. Bạn nên xem theo niên vận trong nhân tướng học của con người.   4. Vùng kín   Phong thủy vùng kín có cấp bậc rất cao nhưng cũng không phải là cao nhất. Tuy nhiên, phụ nữ nên cẩn thận nếu không sẽ bị xâm phạm.   5. Eo

 Xep hang phong thuy tung bo phan tren co the phu nu  hinh anh
Ảnh minh họa
Trong phong thủy, eo có cấp bậc khá tốt, bởi khi nam thanh nữ tú ngồi bên nhau thì người con trai thường thích vòng tay ôm eo người phụ nữ để thỏa mãn cảm giác được chiếm hữu.   6. Đùi
 
Đùi cũng chiếm vị trí quan trọng, đàn ông vốn thường mê mệt những người phụ nữ chân dài, đùi thon vậy nên cấp bậc phong thủy tự nhiên cũng sẽ tốt.   7. Mông
 
Mông là một đường cong quyến rũ bởi vậy, cấp bậc phong thủy rất cao, thậm chí đàn ông thích những người phụ nữ có vòng 3 săn chắc và hơi nảy nở một chút.   8. Hai tay
 
Đối với bàn ông mà nói, khi được cầm tay người mình yêu điều đó có nghĩa là họ đã chấp nhận làm tù binh cho nàng. Bời vậy, người phụ nữ có đôi tay đẹp là một trong những dấu hiệu vận thế may mắn.
 
9. Tóc

 Xep hang phong thuy tung bo phan tren co the phu nu  hinh anh
Ảnh minh họa
Tóc có sức hấp dẫn đặc biệt, đại đa số đàn ông đều thích phụ nữ tóc dài. Vậy nên, vẻ đẹp của mái tóc có liên quan chặt chẽ tới vấn đề phong thủy.   10. Cổ
 
Cổ cũng có cấp bậc khá quan trọng trong phong thủy, dù cổ có thể chịu ảnh hưởng của khuôn mặt nhưng khi xem vận thế tuyệt đối không thể bỏ qua yếu tố này.

► Xem nốt ruồi biết số mệnh, vận hạn chuẩn xác

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xếp hạng phong thủy từng bộ phận trên cơ thể phụ nữ

Bói tình yêu, người phụ nữ quyến rũ

Xem bói tình yêu trên bàn tay cũng có thể cho biết ai sẽ trở thành người thứ ba...Đường Hôn nhân và đường Tinh cảm giao chạc
Bói tình yêu, người phụ nữ quyến rũ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu là hòn đảo nhỏ chỉ có hai người, khi có người thứ ba xuất hiện thì mọi thứ sẽ trở thành một mớ bòng bong, hạnh phúc sẽ bị phá vỡ, ngọt ngào cũng sẽ biến thành quả đắng.  Xem bói tình yêu  trên bàn tay cũng có thể cho biết ai sẽ trở thành người thứ ba…

Đường tình cảm và Đường trí tuệ có hình xoắn xích

Nếu đường Tình cảm và đưòng Trí tuệ trên bàn tay của người phụ nữ là hình hình xoắn xích , họ sẽ là người rất thích quan hệ vối người khác giới, hơn nữa vê mặt tình cảm họ cũng vô cùng tự tin, rất độc lập, cũng rất chủ động, luôn mạnh dạn thố lộ tình cảm của mình.

Ngoài ra, ngoài đường Tình cảm và đường Trí tuệ trên bàn tay đều hiện lên hình xoắn xích, nếu bàn tay còn có nhiều ô vuông và mềm mại, thì chính là bàn tay của ngưòi phụ nữ cảm tính. Người đàn ông thông thường đều rất thích kiểu người phụ nữ này.

Đường Hôn nhân và đường Tinh cảm giao chạc

Đường Hôn nhân và đường Tình cảm giao nhau cho biết trong chuyện tình cảm người này thường không đủ lý tính, dễ xảy ra chuyện tình cảm với bất kỳ ai mà ảnh hương tới danh dự của bản thân, sự phát triển sự nghiệp cũng bị trắc trở, gia đình mất đi sự hòa hợp. Nếu đồng thời xuất hiện vân đảo sẽ cho thấy tình hình rất xấu, đã tới mức không thể cải thiện.

Đường Tình cảm xuất hiện vân đảo

Đường Tình cảm xuất hiện vân đảo, vân đảo càng nhiều cho thấy chuyện tình cảm càng có nhiều vấn để phức tạp. Người này thường xuyên chọn nhầm đối tượng, có tình yêu với người không nên yêu, sẽ phá hoại gia đình hạnh phúc của người khác, trở thành kẻ thứ ba trong mắt mọi người. Bản thân người này lại chìm đắm trong u mê, không cho rằng đó là một sai lầm về tình yêu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tình yêu, người phụ nữ quyến rũ

Cách treo quạt giấy trang trí đúng phong thủy –

Thông thường, quạt giấy dùng để trang trí có kích thước khá lớn, được bố trí các hình vẽ rực rỡ và thường được nhuộm màu đỏ. Vậy bày quạt giấy trong nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không? Rất nhiều gia đình thích bày quạt giấy trong nhà như một món đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thông thường, quạt giấy dùng để trang trí có kích thước khá lớn, được bố trí các hình vẽ rực rỡ và thường được nhuộm màu đỏ. Vậy bày quạt giấy trong nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không?

Rất nhiều gia đình thích bày quạt giấy trong nhà như một món đồ trang trí tô điểm thêm cho căn phòng. Thông thường, quạt giấy dùng để trang trí có kích thước khá lớn, được bố trí các hình vẽ rực rỡ và thường được nhuộm màu đỏ. Vậy bày quạt giấy trong nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không?

quat-giay

Tiếng Hán quạt giấy gọi là “chỉ phiến”, chữ “phiến” ở đây có âm đọc giống chữ “thiện” nghĩa là từ thiện, tốt đẹp giỏi giang. Do vậy nhiều người treo quạt giấy trong nhà, tục ngữ có câu: “Nhà làm nhiều việc thiện, thế nào cũng có lúc phát đạt”. Vì vậy treo quạt giấy có ý khuyến khích tu nhân tích đức.

Những người theo đạo giáo thường vẽ bùa chú trên quạt giấy cũ, rồi treo trước cửa, có khả năng trừ tà ma, giải vận hạn.

Đa số quạt giấy dùng để trang trí được nhuộm màu đỏ, vì theo quan niệm của người Á Đông, màu đỏ là màu may mắn, tốt lành. Tuy nhiên, điều cần chú ý là quạt giấy khi được nhuộm màu đỏ sẽ thuộc hành Hỏa.

Đặt Hỏa ở 8 phương vị khác nhau sẽ gây ra những ảnh hưởng riêng biệt. Nếu không hòa hợp về ngũ hành của phương vị thì có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt.

– Nếu đặt tại hướng Đông hoặc Đông Nam (thuộc Mộc), theo ngũ hành, Hỏa khắc Mộc nên sẽ không tốt cho gia chủ.

– Nếu đặt tại hướng Nam (thuộc Hỏa), sẽ khiến Hỏa khí quá mạnh nên không tốt.

– Nếu đặt tại hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc (thuộc Thổ), theo ngũ hành Hỏa sinh Thổ nên rất tốt.

– Nếu đặt tại hướng Tây hoặc Tây Bắc (thuộc Kim), hành Hỏa của quạt giấy sẽ khắc hành Kim của phương vị nên cũng bất lợi.

– Nếu đặt tại hướng Bắc (thuộc Thủy), hành Thủy của phương vị sẽ khắc chế hành Hỏa của quạt giấy. Treo quạt ở vị trí này không tốt cũng không xấu.

Quạt giấy nếu được đặt ở đúng phương vị sẽ rất có lợi cho gia chủ, giúp tinh thần minh mẫn và công việc được thuận lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách treo quạt giấy trang trí đúng phong thủy –

Dự báo tổng quan vận thế tháng 2 của 12 con giáp

Biết được vận thế tháng 2 của 12 con giáp, bạn sẽ đón Tết cổ truyền chủ động, vui tươi và hạnh phúc hơn.
Dự báo tổng quan vận thế tháng 2 của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Biết được vận thế tháng 2 của 12 con giáp, bạn sẽ đón Tết cổ truyền chủ động, vui tươi và hạnh phúc hơn.


1. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Tý

Thang điểm: 91/100
Tiền bạc: Chính tài rất tốt, nguồn thu nhập chính tăng mạnh, nhưng cần lưu ý tiết kiệm chi tiêu.
Sức khỏe: Chú ý bị thương tật tay chân.
Sự nghiệp: Có khá nhiều quý nhân phù trợ.
Tình cảm: Vận đào hoa tăng trở lại, cẩn thận trong các mối quan hệ.
Lưu ý: Trong tháng đi đứng cẩn thận, tránh bị té ngã, thương tật.

2. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Sửu


Thang điểm: 89/100
Tiền bạc: Chính tài vượng, thu nhập chính tốt nhưng thứ tài kém sắc, nguồn thu phụ giảm.
Sức khỏe: Chú ý đề phòng các chứng bệnh về đường hô hấp như cảm lạnh, nghẹt mũi, khó thở.
Sự nghiệp: Hành sự cẩn thận, đề phòng gặp thất bại.
Tình cảm: Nhân duyên khởi sắc, tình cảm trên đà thuận lợi.
Lưu ý: Cẩn thận cảm lạnh khi tham gia các hoạt động ngoài trời.

Du bao tong quan van the thang 2 cua 12 con giap hinh anh
 
3. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Dần

Thang điểm: 81/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, thu nhập chính tạm ổn nhưng thứ tài kém, hầu như không có các khoản thu phụ.
Sức khỏe: Lưu ý tới sức khỏe của trẻ nhỏ và người già trong gia đình.
Sự nghiệp: Gặp khá nhiều trở ngại, cần điều chỉnh lại cách thức làm việc đồng thời cân bằng thu chi.
Tình cảm: Cẩn thận phạm đào hoa sát, vướng vào nhiều mối quan hệ phức tạp, khó tránh việc tranh cãi.
Lưu ý: Điều quan trọng là phải tiến hành hóa giải hung hạn và điều chỉnh lại cuộc sống.

4. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Mão


Thang điểm: 90/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, nguồn thu chính tạm ổn. Thứ tài kém, hầu như không có thu hoạch.
Sức khỏe: Chú ý trong nhà có người bị bệnh cũ tái phát.
Sự nghiệp: Gặp không ít trở ngại, cần thận trong khi xử lí mọi chuyện.
Tình cảm: Nhân duyên kém sắc, tình cảm trục trặc, lên xuống thất thường.
Lưu ý: Hành sự thận trọng.

Du bao tong quan van the thang 2 cua 12 con giap hinh anh 2
 
5. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Thìn


Thang điểm: 92/100
Tiền bạc: Chính tài vượng, thu nhập chính khá. Thứ tài kém hơn, thu nhập phụ trung bình.
Sức khỏe: Đi đứng cẩn thận, tránh bị thương bất ngờ.
Sự nghiệp: Quan vận sáng, sự nghiệp hanh thông.
Tình cảm: Vận đào hoa giảm, tình cảm gặp trở ngại.
Lưu ý: Giữ thái độ điềm tĩnh, ổn định khi xử lý mọi việc.

6. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Tỵ

Thang điểm: 88/100
Tiền bạc: Cả chính và thứ tài đều khả quan, nguồn thu chính và phụ đều dồi dào.
Sức khỏe: Trí não hoạt động quá nhiều dẫn tới căng thẳng, mệt mỏi.
Sự nghiệp: Công việc suôn sẻ, thoáng đạt.
Tình cảm: Chuyển biến tích cực, tình yêu thăng cấp.
Lưu ý: Có thể đi du lịch trong tháng.

7. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Ngọ

Thang điểm: 90/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, nguồn thu chính tạm ổn. Thứ tài kém sắc, hầu như không có nguồn thu phụ.
Sức khỏe: Chú ý hệ tiêu hóa, đặc biệt là dạ dày.
Sự nghiệp: Vận trình sự nghiệp vẫn hanh thông, thuận lợi như thường lệ.
Tình cảm: Vận đào hoa cực vượng, tình cảm nở hoa kết trái.
Lưu ý: Ăn uống quá độ, đừng quên nghỉ ngơi và luyện tập thể thao.

Du bao tong quan van the thang 2 cua 12 con giap hinh anh 3
 
8. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Mùi


Thang điểm: 87/100
Tiền bạc: Đón nhiều tin vui về tiền bạc, chính tài vượng, thu nhập chính tăng. Thứ tài khởi sắc, nhiều nguồn thu ngoài.
Sức khỏe: Trong tháng, gặp không ít rắc rối về hệ tiêu hóa, dạ dày.
Sự nghiệp: Được quý nhân giúp đỡ, sự nghiệp thăng hoa.
Tình cảm: Tình duyên, hôn nhân đều thuận lợi, thăng cấp.
Lưu ý: Giữ thái độ điềm tĩnh, đề cao cảnh giác, nhìn kĩ lòng người.

Tiết lộ 5 con giáp “dựa hơi” Thần Tài, kiếm tiền như hái năm Bính Thân
– Được Thần Tài che chở và ưu ái đặc biệt, những con giáp dưới đây không chỉ gặp nhiều may mắn về tiền bạc mà còn dễ phát tài phát lộc trong
9. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Thân


Thang điểm: 65/100
Tiền bạc: Chính và thứ tài đều kém sắc, cẩn thận phá tài, tổn thất tiền của.
Sức khỏe: Chuẩn bị tâm lí đón nhận những điều phát sinh bất ngờ.
Sự nghiệp: Gặp nhiều khó khăn vì gặp hạn Thái Tuế.
Tình cảm: Nhân duyên kém, tình yêu đôi lứa bước vào gia đoạn khủng hoảng.
Lưu ý: Hành sự thận trọng, nâng cao cảnh giác với kẻ tiểu nhân.

10. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Dậu

Thang điểm: 95/100
Tiền bạc: Chính và thứ tài khởi sắc mạnh, thu nhập chính và phụ đều dồi dào.
Sức khỏe: Chú ý các chứng bệnh vặt, cảm lạnh.
Sự nghiệp: Có quý nhân trợ lực, sự nghiệp hanh thông.
Tình cảm: Tình yêu, hôn nhân, tình cảm gia đình hài hòa, hạnh phúc.
Lưu ý: Thực hiện phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

11. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Tuất

Thang điểm: 92/100
Tiền bạc: Thu nhập chính dồi dào, thu nhập phụ trung bình.
Sức khỏe: Chú ý tới hệ tiêu hóa, ăn uống điều độ.
Sự nghiệp: Vận trình sự nghiệp tăng trở lại.
Tình cảm: Về cơ bản, tình cảm ổn định.
Lưu ý: Những chuyến đi công tác hoặc du lịch đều thuận lợi.

12. Tổng quan vận thế tháng 2 của người tuổi Hợi


Thang điểm: 70/100
Tiền bạc: Chính tài trung bình, thu nhập chính chững lại. Thứ tài kém, cẩn thận mất tiền vì những trò đỏ đen, may rủi.
Sức khỏe: Nên ra ngoài đi đây đó, luyện tập thể thao, tăng cường sức khỏe.
Sự nghiệp: Rơi vào thế khó khăn, trở ngại.
Tình cảm: Bình ổn và có xu hướng phát triển thuận lợi.
Lưu ý: Cần tìm cách hóa giải hung hạn phạm Thái Tuế, mọi sự sẽ bình an.

► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Ngọc Điệp

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự báo tổng quan vận thế tháng 2 của 12 con giáp

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Sự thật về ngôi làng bị thánh vật - sát đàn ông - Phần 1

Quãng đường dài chưa đầy 1km người ta đã đếm đến hơn 30 trường hợp bị điên, còn những người phụ nữ góa bụa thì kể mãi mà chẳng hết.
Sự thật về ngôi làng bị thánh vật - sát đàn ông - Phần 1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở nơi ấy đang tồn tại lời đồn về xứ sở “sát đàn ông”. Tất cả đều bắt nguồn từ chuyện đập phá đình chùa, tượng Phật trong quá khứ, đang là nỗi ám ảnh người dân ở xóm Tây Tiến, xã Phú Lạc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Nhóm PV Đường dây nóng 0988811123 đã về địa phương để tìm hiểu sự thật.

Đình ngôi làng bị thánh vật

Đình chùa của làng giờ đã được xây mới. Ảnh: Đ.T

Từ chuyện xúc phạm thánh thần…

Nhiều người cao tuổi trong làng cho biết, trước đây Phú Lạc cũng có phong trào bài trừ mê tín dị đoan, tuy nhiên việc thực hiện đã có sự “quá tay”, khiến cả những công trình, kiến trúc không thuộc “mê tín dị đoan” vẫn bị phá hủy. Người làng kể lại, có một ngôi chùa cổ nằm trên quả đồi hoang đã bị phá, tượng thánh thần thời ấy được người ta sử dụng làm bù nhìn canh ngô hay vứt xuống sông hồ, ao rãnh. Một ngôi đình nằm ngay giữa làng cũng bị phá. Những chiếc cột to bằng cả chiếc vành xe chắc nịch hai người ôm không xuể được đục chạm bằng gỗ mít cũng bị cắt xẻ ra làm ghế ngồi. Chùa ấy hiện nay vẫn trơ lại nền, thuộc khu 7 xã Phú Lạc, cách Tây Tiến chưa đầy cây số.

Những ngôi đình, chùa, miếu thật vững vàng cổ kính, rêu phong xưa, là “hồn vía” của làng đã không còn. Thế rồi từ những năm sau đó, Tây Tiến liên tiếp phải gánh họa lớn. Những câu chuyện tâm linh có thật hay không, hoặc chỉ do người dân thêu dệt nên thì không ai rõ nhưng có một sự thật là hiện có đến vài chục phụ nữ sống cảnh đơn độc hoặc mẹ góa con côi ở Phú Lạc. Cả xóm nhỏ nằm san sát trên con đường làng lạnh lẽo ấy chiều về chỉ bảng lảng vài bóng đàn bà và mấy người tâm thần đi dần vào bóng tối cô quạnh, nhìn mà thấy buồn. Bây giờ Tây Tiến đã xây lại đình chùa bằng công nghệ bê tông cốt thép và sơn nó bằng những loại sơn ngoại đắt tiền. Nền đình cổ xưa nay đã trở thành những nhà cao tầng. Nhưng bấy nhiêu thứ dường như vẫn chưa đủ để xóa đi cái buồn sâu thẳm của Tây Tiến.

Nhiều năm qua, những người phụ nữ độc thân ở đây đặt ra câu hỏi tại sao họ lại phải sống cuộc sống như vậy. Hầu hết những người lớn tuổi kể câu chuyện đập phá đình chùa của làng ra làm nguyên nhân để lý giải cho số kiếp đau buồn của con cháu. Đã nhiều thế hệ người dân của xã Phú Lạc đón thầy phong thủy từ tận miền Nam ra để tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng kì bí này nhưng đến tận bây giờ câu trả lời vẫn còn để ngỏ.

Đến chuyện về ngôi làng “sát đàn ông”

Đến đầu xã Phú Lạc rẽ vào con đường dài thượt nhếch nhác, nham nhở rồi đi tiếp khoảng 1km là đến xóm “rùng rợn”, những câu chuyện tâm linh huyền bí ma quái. Người ta gọi là xóm rùng rợn từ bao đời nay vì nơi này nổi tiếng với những câu chuyện như: Cả nhà đều điên, bốn mẹ con đều góa bụa… Những người dân ở đây cũng thừa nhận rằng đàn ông trong xóm ấy “ra đi” rất kỳ lạ. Họ không chỉ chết do ung thư, tai nạn, đột tử, tai biến mạch máu não mà có khi đang ăn dưa hấu cũng mắc nghẹn mà chết. Khi nghe mọi người kể câu chuyện trên chúng tôi bán tín bán nghi, muốn “mục sở thị” mới tin. Nhiều nhà có năm người thì điên bốn, có gia đình cả ba bốn mẹ con góa bụa, họ dọn về ở chung một nhà thế là thành ngôi nhà góa chồng.

Đến đây tôi mới thấy được tận cùng nỗi đau chẳng kém gì những lời đồn thổi. Tôi tìm đến nhà ông Lê Xuân Phiên, người mà dân làng vẫn quen gọi là lão già đau khổ vì ba người con điên đã gây cho lão bao tang tóc, ông bất mãn đến mức phải nhờ hàng xóm đến nhà đóng cũi để nhốt con mình trong 7 năm qua. Chắc lão Phiên cũng khổ tâm lắm nhưng không làm vậy thì không ổn. Khi chưa bị cùm nhốt, nó đã dùng cuốc bổ vào đầu ông và nhiều lần làm cho ông chết hụt, người con khác của ông thì dùng chày giã gạo đập nát đầu đứa con dâu hiền dịu đang là lao động chính của gia đình. Làm chuyện động trời ấy xong nó vào nhà ngồi rít thuốc lào như không có chuyện gì xảy ra. Ông Phiên không chết thay cho con dâu được thì phải sống. Căn nhà lão Phiên ở bây giờ đẹp lắm, đó là tiền nhà báo xin được để xây cho ông căn nhà trước đã bị thằng con trai thứ ba mắc tâm thần nổi cơn điên lừa cả nhà đi vắng kì cạch dỡ đem bán dần cho chủ lò gạch làm củi đun. Nó bán để lấy tiền ra chợ mua thịt và thuốc lá hút phì phèo.

Chúng tôi hỏi ông Phiên về những người đàn bà góa trong xóm, ông cười xòa: “Úi trời! Hỏi tôi già rồi đầu óc lẩm cẩm kể trước quên sau, xóm này người góa nhiều lắm, hay để tôi đêm về nằm nghĩ đã rồi thống kê ra giấy, mai anh quay lại lấy được không?”.

Tò mò về cái xóm chết gần hết đàn ông ấy, chúng tôi nhờ ông Phiên đưa đến nhà ai đó cao tuổi một chút nhưng lão lại chỉ đường cho tôi đến nhà một người đàn bà bị mù. Chúng tôi thắc mắc, sao lại cho người mù làm “công tác thống kê”? Ông Phiên kéo xoẹt chiếc áo đã cáu bẩn bạc màu lẩm bẩm gì đó rồi đứng dậy nói “Các anh cứ đi theo tôi”.

Nhà chị Đức có năm người, trong đó bốn người bị mù. Ngoài chị Đức còn có hai người anh trai trên tuổi cũng không nhìn được mặt trời và mẹ đẻ ra chị Đức cũng bị mù đã vài chục năm. Căn nhà lá đơn sơ ấy chỉ có ông Lê Văn Vít đã gần 80 nhưng vẫn là lao động chính. Chị Đức biết nhiều chuyện làng chuyện xóm vì đôi mắt ngầu đục như cùi nhãn ấy chỉ nhìn vào một bầu trời riêng mịt mù tăm tối nhưng trí tuệ chị lại rất “sáng”. Có ai đó nói rỉ tai chuyện gì là nhớ ngay, khả năng tổng hợp thông tin của người đàn bà mù này rất tốt. Chị Đức bắt đầu kể vanh vách như thể người hướng dẫn viên thực thụ. Như lời chị giới thiệu, khu 3, khu 4 là nơi nhiều người góa nhất, khu này gọi là khu Tây Tiến, xã Phú Lạc, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Chị Đức còn hỏi rõ chúng tôi xem hỏi tên những gia đình có phụ nữ lấy chồng sau đó chồng chết hay cả những người không lấy chồng. Người phụ nữ ngồi lẩm bẩm: “Nhiều, nhiều thật, có những nhà còn ba bốn thế hệ góa bụa sống nuôi nhau”. Khu Tây Tiến nằm rải rác trên con đường nhầy nhụa dẫn vào trung tâm hành chính xã, phía tay trái đường vào là con ngòi lấp dở đang gồng mình chảy vì sỉ than và gạch vụn đang đổ tràn lan từ mấy lò gạch to uỵch cạnh đó. Sông ngòi chết, người bên sông cũng chết làm cho cảnh vật nơi đây không thể buồn hơn.

Kế bên dòng nước ngầu đục hắt hiu là cánh đồng hoang nẻ toác, trên cánh đồng có bóng vài người phụ nữ thong thả làm thay phần việc của đàn ông. Đồng hoang và dòng nước “chết” phần nào cũng thể hiện được sự khổ đau và nghèo đói của người dân nơi đây. Họ chỉ tập trung ở dọc bên phải con đường vào UBND xã nên việc thống kê phụ nữ góa bụa của chị Đức rành mạch hơn. Chị bắt đầu tính từ đầu thôn Tây Tiến: Bà Ngô Thị Đào, bà Nguyễn Thị Thịnh, chị Lê Thị Phương, bà Đinh Thị Trọng, bà Lê Thị Thu… Chị cứ kể, nhà báo cứ ghi nhưng ghi mãi vẫn không sao liệt kê một cách tỉ mỉ về số người phụ nữ góa bụa của Tây Tiến. Chị đột ngột dừng lại hỏi: “Ơ! Hình như chưa có tôi trong số đó nhỉ, tôi cũng không có chồng mà, chị bỗng dưng cười, nụ cười ấy có gì đó buồn lắm. Năm nay đã ngoài 40 nhưng chị chẳng đi đâu, chị muốn lấy chồng nhưng chẳng ai lấy, khối người khiếm thị kém sắc hơn mà họ vẫn lấy chồng, sinh con, họ vẫn được làm mẹ nhưng khốn nỗi chị lại sinh ra ở khu có những người đàn ông “rủ nhau” chết nên chẳng ai dám “rước”. Vì sao đàn ông trong làng lại “rủ nhau ra đi” kỳ lạ như thế? Việc này liên quan gì đến việc phá đình chùa khi xưa và lời đồn đại những người đàn ông của làng phải hứng chịu cơn nổi giận của thánh thần?

Đọc phần 2: Sự thật về ngôi làng bị thánh vật - sát đàn ông - Phần 2


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự thật về ngôi làng bị thánh vật - sát đàn ông - Phần 1

Luận giải vận số của người tuổi Sửu theo ngày sinh

Do Tý hợp với Sửu nên người sinh giờ Tý luôn có cuộc sống vui vẻ, có mắc bệnh nhẹ nhưng sẽ tự khỏi.
Luận giải vận số của người tuổi Sửu theo ngày sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh ngày Tý: Do Tý hợp với Sửu nên người sinh giờ này luôn có cuộc sống vui vẻ, có mắc bệnh nhẹ nhưng sẽ tự khỏi.

Sinh ngày Sửu: Là người cầu được, ước thấy, sự nghiệp và tài vận tốt đẹp.
Sinh ngày Dần: Ngày này có sao Thái Dương chiếu mệnh nên hay buồn phiền, thường có cảm giác trống rỗng trong lòng. Nếu là nam sẽ có số đỗ đạt, hay gặp được mỹ nhân. Là nữ có số vu quy, vợ chồng hòa hợp, hạnh phúc.

tuoi ty (3)
 
 
Sinh ngày Mão: Mão mệnh Mộc nên khắc Sửu mệnh Thổ. Người sinh ngày này hay nóng nảy vô cớ, lại có thói tranh giành nên dễ bị thất bại.

Sinh ngày Thìn: Ngày này có sao Thái Dương chiếu mệnh, dương nghịch âm hòa, vì vậy những người này thường ít có được cuộc sống yên ổn.

Sinh ngày Tỵ: Tỵ - Dậu - Sửu thuộc tam hợp, vì vậy người sinh ngày này tài lộc hanh thông, được quý nhân phù trợ. Tuy nhiên, do phạm phải sao Chỉ Bối nên phải rất thận trọng trong việc kết bạn.

Sinh ngày Ngọ: Do có sao Nguyệt Đức chiếu mệnh nên những người sinh vào ngày này thường gặp nhiều may mắn trong cuộc sống.

Sinh ngày Mùi: Là người giàu có nhưng hay gặp chuyện rắc rối, trong đời nhiều nạn, nên tu nhân tích đức.

Sinh ngày Dậu: Vì được sao tốt chiếu mệnh nên người tuổi Sửu sinh ngày này thường có tướng hổ vượng, rất thành đạt trong sự nghiệp.

Sinh ngày Tuất: Người sinh ngày này có sao Thiên Đức chiếu mệnh nên sự nghiệp rộng mở, lập nghiệp xa nhà.

Sinh ngày Hợi: Sửu mệnh Thổ khắc Hợi mệnh Thủy nên những người sinh ngày này cả đời phải chịu cảnh sống ở những nơi xa xôi, hẻo lánh

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)

 

 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Sửu theo ngày sinh

Giải mã việc mơ thấy cánh tay khi ngủ

Hình ảnh cánh tay trong giấc mơ tượng trưng cho khả năng giao tiếp và chăm sóc người khác của bạn. Mơ thấy cánh tay có ý nghĩa gì?
Giải mã việc mơ thấy cánh tay khi ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Hinh anh canh tay trong giac mo tuong trung cho kha nang giao tiep va cham soc nguoi khac cua ban. hinh anh
Ảnh minh họa

Hai cánh tay cũng chính là “vũ khí” mà bản thân được trang bị. Mơ thấy 2 cánh tay trong giấc mơ thì sắp tới bạn sẽ phải đương đầu với nhiều thách thức trong cuộc sống đó. Bạn phải cứng rắn để bảo vệ bản thân nhé.

Chiêm bao thấy tay mình bị thương là bạn đang thiếu khả năng tự chăm sóc bản thân và phải phụ thuộc vào người khác. Có thể bạn đang cảm thấy mình bị kiểm soát mọi hoạt động và bị mất tự do.

Chiêm bao thấy mình xé toạc 2 cánh tay của người khác, cho thấy bạn đang cực kỳ khó chịu với hành động của người ấy nhưng trong cuộc sống hiện tại bạn không có cơ hội bộc lộ sự giận dữ. Vì bạn là người có thói quen giữ cảm xúc trong lòng nên trong mơ, cảm xúc ấy mới bộc lộ mãnh liệt như vậy.

Chiêm bao thấy 2 khuỷu tay ám chỉ bạn đang muốn ở một mình, bạn muốn có một không gian riêng. Giấc mơ này còn ám chỉ bạn đang sợ hãi thế giới xung quanh, không muốn mọi người chú ý tới mình.

Thấy 2 khủyu tay của bạn trong giấc mơ nhưng chúng lại bị thương, điều này phản ánh trong bạn đang tồn tại sự lo âu về vấn đề tình dục. Ngoài ra, giấc mơ này cũng cho thấy bạn đang thiếu khả năng điều hành công việc trong một số hoàn cảnh đặc biệt.

Mơ thấy nách biểu thị cho mối quan hệ của bạn với người khác, nó biểu thị cho nét đặc trưng và tính cách của bạn trước đám đông.

Ngửi nách của bạn trong mơ, ám chỉ rằng bạn đang điều chỉnh tính cách để làm dịu một hoàn cảnh hoặc mối quan hệ. Ngoài ra, điều này cón ám chỉ rằng bạn đang tìm kiếm sự chấp nhận.

Giai ma viec mo thay canh tay khi ngu hinh anh
Ảnh minh họa


Mơ thấy tay không có lực và biến thành màu vàng điềm báo bệnh tật.


Mơ thấy tay bị bỏng là bị người khác đố kị.


Mơ thấy tay bị chặt ngụ ý sẽ trở thành người thắng trong tình cảm.


Mơ thấy đôi tay bị chặt nhất định sẽ được thần linh phù trợ.


Mơ thấy tay hồng hơn bình thường là đường quan vận hanh thông.


Mơ thấy đôi tay đang cầm tiền là nhất định gia đình phát tài.


Mơ thấy tay vừa dài vừa chắc chắn ngụ ý sự nghiệp sẽ thành công.


Nữ giới mơ thấy tay mình biến thành kiên cố ngụ ý mệnh cô ấy rất vững.


Mơ thấy bắt tay người lạ sắp kết giao bạn bè.


Mơ thấy đôi tay nhiều ngón là sắp có quý nhân thăm viếng.


Mơ thấy ngón tay ngắn ám chỉ cuộc sống gặp khó khăn về kinh tế. 


Mơ thấy tay mình biến dài dự báo chuyện làm ăn hưng thịnh.

Mơ thấy tay không có vân tay là bạn sắp lợi dụng lòng tham để kiếm tiền.


Mơ thấy ngón tay có máu ngụ ý tương lai sẽ bị lừa tiền.

Mơ thấy tay có vết là vận tài lộc sắp tăng cao, có lẽ cho thường ngày hành vi lời nói đoan chính đúng mực sẽ giúp bạn nhận được những tiền thưởng bất ngờ.


Mơ thấy tay bị trói là mặt quan hệ xã giao xuất hiện phiền phức. Người bạn luôn có thành kiến với bạn sẽ nhân cơ hội mà nói xấu sau lưng, lúc này bạn nên có một thái độ độ lượng để ứng phó, không nên quá gay gắt.


Mơ thấy mồ hôi tay ra nhiều là mặt tình cảm không thuận lợi. Ngôi sao tranh cãi đang ở trên đầu bạn, có thể đôi bên sẽ cãi cọ gay gắt tới mức động tay chân kết quả là ly tán không vui. 

► Tham khảo thêm giải mã giấc mơMơ thấy cámơ thấy tiềnmơ thấy máu

Tổng hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã việc mơ thấy cánh tay khi ngủ

Tuổi Tân Dậu 1981 hợp làm ăn với tuổi nào?

Sinh năm 1981 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi nào? Nên chọn nghề nào, đặt bàn làm việc hướng nào thì hợp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh năm 1981 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn muốn biết tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi nào? Nên chọn nghề nào, đặt bàn làm việc hướng nào thì hợp.

Tuổi Tân Dậu 1981 hợp làm ăn với tuổi nào?

Những bài viết mới nhất:

+ Tuổi Canh Thân hợp với tuổi nào trong làm ăn

+ Tuổi Kỷ Mùi hợp làm ăn với tuổ nào?

+ Tuổi Mậu Ngọ hợp làm ăn với tuổi nào?

Vài nét về tuổi Tân Dậu:

Tuổi Tân Dậu, sinh năm 1981 tuổi con gà, cung mệnh Càn, mạng cốt tinh Mộc.

Tính cách của người tuổi Tân Dậu: Là người thông minh, lanh lợi, sáng suốt, được người khác nể trọng, thích cuộc sống tự do, không chịu gò bó. Là người hiền hậu, có đạo đức, những tâm trạng thường hay buồn rầu vô cớ. Có ý chí tự lập, không nên quá tự cao, sỹ diện mà rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Nếu tỉnh táo và sáng suốt thì sự nghiệp mới có thể thăng tiến.

Nghề nghiệp thích hợp với người tuổi Tân Dậu: Nghề kỹ nghệ, hoặc kỹ thuật, mỹ nghệ hoặc mỹ thuật thì thích hợp hơn.

Tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi nào?

Chọn những người có mệnh Thủy ( gồm các tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu) thì tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi này, công việc thuận lợi, làm ăn phát đạt.

Chọn những người có mệnh Hỏa ( gồm các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi) thì người tuổi Tân Dậu thường là trợ lí hoặc cấp dưới của người mệnh Hỏa thì công việc mới thuận buồm xuôi gió.

Chọn những người có mệnh Mộc ( gồm các tuổi Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu) thì công việc bình hòa, làm ăn thuận lợi.

Tuổi Tân Dậu hợp làm ăn với tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi ( thuộc mệnh Thổ) thì người tuổi Tân Dậu tạo được điều kiện phát triển trong sự nghiệp.

Chọn những người có mệnh Kim (gồm các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ) thì tuổi Tân Dậu không hợp làm ăn với các tuổi này thì sẽ gặp khó khăn, công việc nhiều trở ngại.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Tân Dậu:

Màu hợp với tuổi Tân Dậu: Tuổi Tân Dậu hợp với màu xanh lúc, xanh biển đậm, tránh màu sáng, ánh kim, đen.

Hướng đặt bàn làm việc hợp tuổi Tân Dậu: Phương vị tài thần hợp với tuổi Tân Dậu nam mạng là hướng Tây - Bắc, đối với nữ giới nên đặt bàn làm việc nhìn hướng Tây - Nam.

Trên đây là những tuổi hợp làm ăn với người tuổi Tân Dậu và các tuổi không hợp làm ăn với  người tuổi Tân Dậu. Bạn có thể tham khảo để chọn được đối tác làm ăn phù hợp nhất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tân Dậu 1981 hợp làm ăn với tuổi nào?

Phong thủy văn phòng đúng vượng “đào hoa”, thúc đẩy tài vận –

Làm thế nào làm đúng vượng “đào hoa" Rất nhiều người hỏi vui bạn mình: “Dạo này có vận đào hoa không?”. Quả thực người mang mệnh đào hoa là chỉ những người hy vọng mình có vận đào hoa có thể ở đào hoa vị của mình đặt một bình hoa nhiều nước, trong b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm thế nào làm đúng vượng “đào hoa”

Rất nhiều người hỏi vui bạn mình: “Dạo này có vận đào hoa không?”. Quả thực người mang mệnh đào hoa là chỉ những người hy vọng mình có vận đào hoa có thể ở đào hoa vị của mình đặt một bình hoa nhiều nước, trong bình hoa có cắm hoa tươi, tốt nhất là cắm vào đó cành hoa đào.

bai-tri-cay-xanh-noi-lam-viec-theo-phong-thuy_1781573185

Làm thế nào xác định được đào hoa vị của bản thân mình? Các đào hoa vị thuộc con giáp: Thân, Tý, Thìn thì ở phía chính Tây, người trông rất xinh đẹp, có thiên phú trong phương diện văn học hoặc văn nghệ, nhưng sự đào hoa này là chỉ sự nghiêm chỉnh.

Người có vận đào hoa không vượng có thể bố trí lại đào hoa vị của mình, từ đó có thể tăng vượng cho duyên kỳ tính của mình, nhưng nếu xếp đặt không chính xác sẽ khiến cho vận đào hoa của mình cũng không còn nữa.

Các đào hoa vị thuộc con giáp: Dần, Ngọ, Tuất thì ở phía chính Đông.

Các đào hoa vị thuộc con giáp: Hợi, Mão, Mùi thì ở chính Bắc.

Các đào hoa vị thuộc con giáp: Tỵ, Dậu, Sửu thì ở phía chính Nam.

Có hiệu quả thúc đẩy tài vận

Vị trí tài lộc (tài vận) trong văn phòng đặt một số đồ để thôi tài có thể khiến cho tài vận của cả văn phòng chuyển vượng. Tài vị cần thầy phong thủy tiến hành đo đạc, thăm dò một cách chuyên nghiệp mới có thể định ra một cách chính xác hoành tài vị hoặc phiến tài vị, chính tài vị, có một số đồ vật thời tài (thúc đẩy tài lộc) không thể đặt một cách tùy tiện, ví dụ như bình uống nước, bể cá vàng, máy làm mát… Tuy nhiên, có một số vật cát tường thì dù không hiểu biết gì về phong thủy nhưng khi đọc cuốn sách này cũng có thể bài trí được.

Ví dụ: Phỉ thư (tượng) (hay còn gọi là tránh tà), kỳ lân, long quy, kim chán đều là những tượng vật phong thủy thôi tài nhanh chóng. Nhưng khi sắp đặt lại có sự khác biệt, ba vật trước, khi xếp đặt cần phải quay đầu ra cửa hoặc cửa sổ, còn kim chán lại ngược lại, đầu của nó phải quay đầu vào trong phòng, bởi vì phì thư, ký lân, long quy đều là thu nạp tài lộc về nhà, mà kim chắn thì lại nhả tiền, cho nên chúng có sự xếp đặt khác nhau. Ngoài ra, những vật thôi tài này nhất định phải được khai quang thì mới có hiệu quả.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy văn phòng đúng vượng “đào hoa”, thúc đẩy tài vận –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd