Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Tử Vilà âm Thổ, Thuộc hệ thống bắc đẩu đế tọa, là một bộ phận quan trọng của các sao, hóa khí là tôn quý, làm chủ cung quan lộc. Trong số chuyên quản về tước lộc, có khả năng giải ách (tiêu trừ tai ách, biến hung thành cát), tuổi thọ (trong hạn mà gặp sao tử Vi, có thể giữ được bình an), chế hóa (có công năng để chế phục và giải hóa hung tính của các sát tinh), có sức bao dung, che chở, ở các cung đều có thể dáng phúc tiêu tai.
Sao Tử Vi là sao đế tinh, địa vị tôn quý, nhưng lại không thích đứng một mình, khi bị đứng một mình chẳng khác gì một vi vua bị cô độc, thiếu hiền thần phụ tá, dễ trở nên độc đoán chuyên quyền, khiến gian thần tiểu nhân thừa cơ, kẻ dưới phạm thượng, khó phát huy được uy nghiêm, mà rơi vào đơn độc, mang tâm trạng có trí mà khó thực hiện, và hay dùng kiến giải nghiệp dư để chỉ đạo người chuyên nghiệp.
Sao Tử Vi ưa gặp sao Tả Phù, Hữu Bật làm phò tá; gặp Thiên Tướng, Văn Xương, Vũ Khúc làm bộ tòng; gặp Thiên Khôi và Thiên Việt làm kẻ truyền lệnh; gặp Thái Dương và Thái Âm làm các ti; gặp Thiên Phủ làm thủ khố, chủ kho hàng. Nếu được các sao cát tinh này đồng cung hay tam hợp chiếu thì gọi là cách cục "Quân thần khánh hội", một cách rất tốt. Uy lực của sao Tử Vi có thể khống chế được các sao hỏa tinh, Linh Tinh thành thiện, có thể giáng Thất Sát thành chủ về quyền lực. Sao Tử Vi mà gặp hung tinh, tuy hóa cát nhưng vô đạo.
Sao Tử Vi nằm tại cung Ly "Ngọ", không bị sát tinh xung phá, là cách "Cực hướng li minh", địa phú quý đến hàng công khanh. Hai đế tinh Tử Vi và Thiên Phủ nếu đồng cung hoặc ở đối cung đến chầu chiếu cung mệnh, tam phương tứ chính lại gặp cát tinh, là cách cục "Tử phủ triều viên", tước lộc dồi dào.
Ca quyết:
Tử Vi nguyên thuộc Thổ; quan lộc cung chính tinh;
Hữu tướng vi hữu dụng; vô tướng vi cô quân;
Chư cung giai giáng phúc; phù hung phúc tự thân;
Văn Xương phát khoa giáp; Văn Khúc thụ hoàng ân;
Tăng đạo hữu sư hiệu; khoái lạc độ xuân thu;
Chúng tinh giai vây chiếu; vi lại hiệp công bình;
Nữ nhân hội Đế Tọa; ngộ cát sự quý nhân;
Nhược dữ Đào Hoa hội; Phiêu đãng lạc phong trần;
Kình Dương Hỏa Linh tụ; thử thiết cẩu thâu quân;
Tam phương hữu cát củng; phương tác quý nhân luận;
Nhược hoàn vô phụ bật; Chư ác cộng khi lăng;
Đế vi vô đảo chủ; khảo cứu yếu tri nhân;
Nghĩa là:
Tử Vi vốn thuộc thổ; làm chính tinh cung quan lộc;
Có tướng thì hữu dụng; không tướng là vua côi;
Mọi cung đều giáng phúc; gặp hung phúc sự tinh;
Văn Xương lợi khoa giáp; Văn Khúc lợi ơn vua;
Tăng, đạo có chân sư; vui vẻ qua năm tháng;
Các sao đều đến chầu, làm quan rất công bình;
Nữ nhân gặp Đế Tọa; gặp quý nhân mà nên duyên;
Nếu gặp gỡ Đào Hoa; Phiêu bạt chốn phong trần;
Gặp Kình Dương, Linh, Hỏa; Thảy là phường trộm cắp;
Vạn vật đất trời cùng tồn tại trên trái đất này tự thân đều có tương sinh, tương khắc. Vậy nên chúng ta thường thấy nhắc đến Âm Dương là lẽ đó. Bởi con người là thể thống nhất giữa Âm và Dương theo quan niệm phong thủy. Vậy nên ở một nơi âm khí quá nặng trong một thời gian dài ắt con người sẽ chịu những ảnh hưởng không mong muốn, mà ta hay quen gọi là“âm thịnh dương suy”. Dễ khiến con người ta chịu những rủi ro triền miên, sức khỏe suy giảm, dễ tan gia bại sản hay gặp phải những chuyện không may. Vậy âm khí nặng rốt cuộc là như thế nào? Làm sao để chúng ta có thể hóa giải nó?
1. Ánh sáng không đủ
Có những ngôi nhà mà phòng khách tuyệt nhiên không có cái cánh cửa nào, hay cả phòng khách và phòng ngủ đều ở hướng Bắc. Điều đó khiến ngôi nhà thiếu hụt nguồn ánh sáng mặt trời, Dương khí suy giảm, cảm giác như đang ở một nơi lạnh lẽo.
2. Cây cối quá nhiều
Thảm thực vật bản thân chúng có tác dụng khá nhiều trong phong thủy như chúng ta thường thấy. Thế nhưng nếu trồng quá nhiều cây cối thì khó tránh khỏi âm khí nặng nề cho căn nhà, và sau cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe.
3. Môi trường xung quanh quá nhiều âm khí:
Ví dụ như một ngôi nhà cao tầng nằm ngay trước mặt thì tất nhiên là nhà chúng ta chẳng có chút ánh sáng nào cả. Ví như những ngôi nhà gần nghĩa trang hay bệnh viện …Tất cả những điều đó đều được coi là ở trong môi trường Âm khí nặng hay thiếu Dương khí.
Vậy thì cách nào phổ biến để có thể hóa giải được điều đó?
Lắp hệ thống đèn chiếu sáng rộng, thời gian chiếu sáng dài
Trong nhà dùng những bóng đèn có sức chiếu sáng rộng, thời gian bật đèn dài. Đặc biệt là trong các ngày mùng 1, rằm thì nên để đèn sáng lâu hơn bình thường, điều này giúp tăng Dương khí cho ngôi nhà, căn phòng.
Thay giấy dán tường, màu sơn mới
Chọn giấy dán tường hoặc màu sơn có gam màu ấm để tăng thêm sự ấm áp cho căn nhà của bạn. Tuyệt nhiên cũng làm giảm Âm khí rõ rệt và ngôi nhà cũng ấm cúng hơn nhiều.
Thường xuyên mời bạn bè đến chơi
Một bầu không khí tràn ngập tiếng cười nói, vui đùa thì cũng làm tăng Dương khí lên khá nhiều. Một ngôi nhà lạnh tanh, không chút tiếng người thì tự nhiên cho ta cảm giác vắng lặng, lạnh lẽo. Vậy nên đừng ngần ngại mời bạn bè đến nhà chơi, không gian vui vẻ sẽ mang đến nhiều thay đổi cho ngôi nhà của bạn đấy.
Thường xuyên nấu ăn
Âm khí nặng thì khí thái con người cũng không thể tốt. Trong đó việc thường xuyên nhóm bếp nấu ăn hay không cũng là một nhân tố quan trọng. Thường xuyên nấu ăn khiến khí thế thay đổi, ngôi nhà cũng trở nên ấm áp hơn.
Thường xuyên vệ sinh
Việc quét dọn, lau chùi, vệ sinh nhà cửa thường xuyên cũng đồng nghĩa với việc bạn dọn dẹp hết những Âm khí trong nhà đi. Đặc biệt là với nhà vệ sinh, đồ dùng trong phòng ngủ… những nơi kín đáo, việc dọn dẹp giúp thổi bay những tà khí, và âm khí cũng giảm xuống mức tối đa.
Theo Mai NguyễnKhampha.vn Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Vô Chính Diệu là cách ít gặp trong Tử vi, khi luận đoán lá số thì coi Chính Diệu xung như Chính Diệu tọa.
Thiên Di Vô Chính Diệu
Lá số tử vi Vô Chính Diệu nếu rơi vào trường hợp bình thường thì không thể giàu có lớn được, cho dù có nhiều sao sáng sủa hợp chiếu nếu Thiên Di Vô Chính Diệu. Ra ngoài dễ bị chi phối bởi môi trường, ngoại cảnh. Tuần Triệt án ngữ tốt hơn nhưng lại dễ chết xa nhà. Hung sát tinh độc thủ, ra ngoài dễ kiếm tiền, thường kiếm được bất ngờ, nhưng lại hao hụt nhanh chóng. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì tốt đẹp, gặp thuận lợi khi ra ngoài. Tật Ách Vô Chính Diệu
Ít bệnh tật tai họa nhưng tai họa đến thì khó tránh khỏi. Tuần Triệt án ngữ tốt, ít bệnh tật, tai họa. Tài Bạch Vô Chính Diệu
Người có lá số tử vi Vô Chính Diệu thì tiền tại không đều đặn, lúc có lúc không, không bền vững. Nếu rơi vào trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì không thể giàu có lớn được, cho dù có nhiều sao sáng sủa họp chiếu. Tuần Triệt án ngữ ban đầu thường khó khăn, sau mới thuận lợi nếu được nhiều sao tốt hội chiếu nhưng cũng không thể giàu có được. Nếu rơi vào trường hợp có hung tinh đắc địa độc thủ thì hoạch phát hoạch phá, không bền, chỉ có một giai đoạn. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu là tốt đẹp, nhiều tiền của về hậu vận. Tử Tức Vô Chính Diệu
Tử Tức Vô Chính Diệu thì không có con, ít con, chậm con, hoặc không nhờ cậy được con, hoặc con đầu lòng sinh ra khó nuôi. Tuần Triệt án ngữ thường chậm có con hoặc sinh con ban đầu khó nuôi nhưng con khá giả. Hung tinh đắc địa độc thủ, con cái khá giả nhưng khó nuôi con hoặc muộn sinh con, con cái không hợp với cha mẹ. Có Nhật Nguyệt chiếu thì con khá giả, quý hiển. Phu thê Vô Chính Diệu
Người có lá số tử vi cung Phu Thê Vô Chính Diệu thường lập gia đình chậm trễ, không có xu hướng lập gia đình, hoặc hay thay đổi đối tượng, chóng chán, không yêu ai mặn nồng, yêu cũng chỉ trong một giai đoạn. Nếu lập gia đình sớm dễ bị hình khắc Gặp Tuần Triệt án ngữ, buổi đầu tuy có khó khăn trắc trở nhưng sau lại tốt hơn, lập gia đình muộn thì tốt, sớm không bền vững. Gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt. Đắc Tam không Hỏa Mệnh thì chồng vợ tốt, hoà thuận. Hung sát tinh độc thủ, cả hai tuy cương cường, đảm đang nhưng không hoà thuận, dễ hình khắc hoặc chia ly. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu, vợ chồng tốt đẹp, nhưng nếu có Nhật Nguyệt đóng cùng thì vợ chồng không nhường nhịn, thường hay tìm cách lấn nhau. Gặp Tuần Triệt án ngữ lại bị trục trặc trắc trở ban đầu về tình duyên, lập gia đình sớm dễ đổ vỡ. Huynh Đệ Vô chính Diệu
Thường không ở gần anh chị em, anh em ly tán nếu cung Huynh Đệ Vô Chính Diệu. Tuần Triệt án ngữ thì tốt hơn, nhưng có anh chị trưởng chết sớm, anh em khá giả về hậu vận, còn tiền vận thì long đong. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu, anh em thương nhau, gặp Tuần Triệt án ngữ thì càng tốt hơn. Hạn Vô Chính Diệu
Trường hợp lá số tử vi Vô Chính Diệu lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ, mọi sự đều lăng nhăng, không cảm thấy ưng ý, không thể phát trong giai đoạn này được, thường có nhiều sự thay đổi về công việc, nơi ở,… Tuần Triệt án ngữ, tốt đẹp nếu chính tinh xung chiếu tốt, và thường phải gặp trắc trở trước. Không lo ngại về mọi sự xấu xa xảy ra nếu có. Hung tinh đắc địa độc thủ, phát nhanh nhưng phá nhanh, rất hợp với Mệnh có cách Sát Phá Tham. Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu, tốt đẹp nhưng có nhiều sự thay đổi xảy ra trong hạn này. Gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt. Hạn đắc Tam không, tốt đẹp trong một giai đoạn tuy có gặp trục trặc ban đầu.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn
Xuân đến là khoảng thời gian rất tốt để nam nữ tiến hành kết hôn. Tuy nhiên, cũng có những cấm kỵ khi kết hôn vào mùa xuân mà các cặp đôi phải hết sức lưu ý.
Sau Tết âm lịch, xuân đến là khoảng thời gian rất tốt để nam nữ tiến hành kết hôn. Tuy nhiên, ngay cả trong mùa cưới tưởng như tốt nhất năm nay, cũng có những cấm kỵ khi kết hôn vào mùa xuân mà các cặp đôi phải hết sức lưu ý.
1. Tổ chức hôn lễ vào tiết Vũ ThủyTrong 24 tiết khí truyền thống hàng năm, có những tiết khí không thích hợp để tổ chức hôn lễ nên dù là mùa xuân mà rơi vào những tiết khí này, cũng nên cân nhắc tổ chức chuyện trọng đại. Sau Lập Xuân là tiết Vũ Thủy, được coi là một trong bốn tiết khí đại kị kết hôn của năm, nên cần phải tránh. Vũ Thủy bắt đầu từ khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 3 dương lịch. 2. Kết hôn vào tháng tuổi Điều cấm kị khi kết hôn vào mùa xuân là tổ chức hôn lễ vào tháng tuổi của cô dâu chú rể. Ví dụ, cô dâu tuổi Dần hoặc sinh giờ Dần mà có ý định kết hôn vào tháng Giêng âm là rất không tốt, phải tránh đi. Các tháng mùa xuân lần lượt là tháng Dần, tháng Mão, tháng Thìn. 3 cách cục tử vi tuyệt đối không nên chọn làm bạn đời Xem tử vi chọn bạn đời không chỉ giúp bạn tìm được hồng nhan tri kỉ ưng ý mà còn đảm bảo tương lai tốt đẹp cho cuộc sống gia đình. Trường hợp nữa là tháng định kết hôn cùng tứ hành xung với năm sinh hoặc giờ sinh của cô dâu chú rể cũng nên kiêng. Hội hướng có hại cho hôn nhân, ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình sau này. Tốt nhất là nên chọn tháng sinh tam hợp.3. Tham gia hôn lễ của người khác
Nhiều người cùng lựa chọn mùa xuân làm thời điểm kết hôn nên có thể xảy ra trường hợp khi đang chuẩn bị hôn lễ thì có người mời đám cưới. Thông thường, hôn lễ và tang lễ không thể cùng đi, nên cũng như vậy hỉ sự không thể cùng hướng, nên tránh tham gia hôn lễ của người khác khi mình sắp cưới.
► ## cung cấp công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự
Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Văn Khấn trong tang lễ – Lễ Triệu lịch Điện Văn được dùng trong lễ Triệu tịch Điện văn là lễ cúng cơm trong 100 ngày
Văn khấn trong tang lễ – Lễ Triệu lịch Điện Văn
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
– Con lạy Đức Đương cảnh Thành hoàng chư vị Đại vương
– Con kính lạy ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân
– Con kính lạy chư gia tiên Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ tỷ
Hôm nay là ngày……tháng……….năm………..
Con trai trưởng (hoặc cháu đích tôn) là………
Vâng theo lệnh của mẫu thân (nếu là mẹ hoặc phụ mẫu nếu là cha), các chú bác, cùng anh rể, chị gái, các em trai gái dâu rể, con cháu nội ngoại kính lạy.
Nay nhân ngày lễ cúng cơm trong trăm ngày theo nghi lễ cổ truyền.
Lông mày là một trong năm ngũ quan trên khuôn mặt, gọi là Bảo thọ quan. Đặc điểm của lông mày quyết định số mệnh vất vả hay tướng tốt lành,hưởng hạnh phúc.
Lông mày là một trong năm ngũ quan trên khuôn mặt, được gọi là Bảo thọ quan. Đặc điểm của lông mày quyết định số mệnh của người bôn ba, vất vả hay tướng tốt lành, thanh cao, hưởng hạnh phúc.
Người có lông mày dài tựa mày hổ, cả đời vất vả
Người có lông mày đen dày, trông không cân xứng với mặt, chủ vất vả cả đời. Trong Ngũ tổng quy có nói: Lông mày rậm đen, tóc thô dày cuộc sống sẽ không thuận lợi.
Trong Vạn kim tướng nói: Nam là dương, người con trai mà có lông mày tựa mày hổ cả đời vất vả. Vậy lông mày như thế nào gọi là lông mày hổ? Lông mày đen dày đậm tức là lông mày hổ. Người mà có lông mày hổ, cả đời chẳng gặp nhiều chuyện vui vẻ. Từ 26 đến 35 tuổi vận số không tốt, chủ vất vả.
Lông mày tựa hình trạng của chim nhạn bay trên bầu trời là tướng tốt lành
Trong Quảng giám tập có nói: Lông mày tượng trưng cho vua, mắt tượng trưng cho bề tôi. Lông mày thanh tú mà dài hơn so với mắt, hình trạng của lông mày tựa như hình trạng của chim nhạn bay trên trời là tướng tốt lành. Người có lông mày ngắn hơn so với mắt khó có anh em. Nếu có nhiều anh em, hầu hết cũng vất vả chẳng cậy nhờ được.
Trong Vạn kim tướng có nói: Người có lông mày dài hơn so với mắt sẽ có 5 - 6 anh em; lông mày dài hơn so với mắt, lại có hình trạng tựa như cầm chổi quét, người đó có 8 - 9 anh em. Người có lông mày và mắt dài bằng nhau, chỉ có 1 đến 2 anh em. Người có lông mày ngắn hơn so vối mắt, không có anh em, còn nếu có 1 đến 2 anh em thì cũng không phải là anh em ruột thịt. Từ 26 đến 35 tuổi về cơ bản có khoảng 4 - 5 năm vận số không tốt.
Người có xương mày nổi cao không nên kết giao
Lăng cốt nổi cao tức là người có xương nơi lông mày nổi cao lớn và lộ rõ ra, cử chỉ thô lỗ, làm việc máy móc, chỉ biết hướng về phía trước mà không biết tùy cơ ứng biến nên lùi về sau. Họ chỉ biết giữ mà không biết mất, chỉ biết thành công mà không biết đến thất bại. Kiêu ngạo, tự cao, tự đắc, rõ ràng biết việc không thể thành công nhưng vẫn theo đuổi một cách mù quáng, tính tình nóng vội, có tâm sát phạt. Người như thế không thế kết giao.
Người có lông mày tựa trăng đầu tháng, cả đời hạnh phúc
Trong Quảng giám tập có chép: Lông mày được xem là vua của mắt, mầm của túi mật, vẻ ngoài của mặt. Lông mày thanh tú tức là tựa như vầng trăng khuyết, người như thế, đầu óc thông minh, có trí tuệ, có tài năng văn học, rất phú quý, địa vị hiển hách, cả đời giàu có.
Từ năm 26 tuổi đến trung niên, công danh hiển hách. Quách Lâm Tông nói: Người có lông mày tựa như trăng khuyết, danh vang thiên hạ. Hứa Phụ nói rằng: Người có lông mày cong tựa hình trăng khuvết, chẳng phải lo chuyện cơm áo, cả đời chẳng nghèo khổ. Trong Thái thanh thần giám cho rằng: Người có lông mày cong cong, học thức cao siêu.
Giữa 2 mày rộng thoáng, cả đời hưởng phúc
Giữa 2 lông mày là Ấn đường, cũng được gọi là cung Quan lộc, cung Tướng mạo, cung Phúc đức, cung Tử khí. Trên mặt người, Ấn đường có mối quan hệ rất mật thiết với chuyện họa phúc của đời người. Người mà giữa 2 lông mày rộng thoáng, chia ra hai bên nhập vào tóc mai, cả đời hưỏng phúc, là người quý hiển.
Năm 26 tuổi mới bắt đầu vận số, đến thời kỳ trung niên mới có thể có được công danh. Có một vị chân nhân là Vệ Lâm từng nói: Lông mày được tượng trưng bởi hai sao La hầu và Kế đô, mày rộng là tướng tốt. Mày nhập vào cung Tử khí là tướng xấu. Ngoài ra, 2 lông mày không được gần sát nhau.
Trần Đồ Nam từng nói rằng: Người mà có lông mày thanh tú tức là tựa như vầng trăng khuyết, người như thế, đầu óc thông minh, có trí tuệ, có tài năng văn học, rất phú quý, địa vị hiển hách, cả đời giàu có.
Trong Quảng giám tập cho rằng: Người mà có 2 lông mày giao nhau chẳng thể làm được tể tướng.
Lông mày dựng thẳng, lòng lang hiểm độc
Người có lông mày dựng đứng có tâm thích sát phạt.
Trong Đại thống phú có chép: Người có lông mày dựng thẳng đứng, tính tình vội vàng, thần thái hung mãnh, thích tranh đấu với người khác, có sát khí, làm việc vô nguyên tắc.
Lại nói: Người có lông mày dựng thẳng đứng thường là người lòng lang hiểm độc.
Lông mày giao nhau ở Ấn đường, cả đời bôn ba
Hai lông mày tại vị trí của Ấn đường có sự giao hòa với nhau, tức là mọc lấn vào vị trí Ấn đường. Vì Ấn đường được gọi là cung Quan lộc nên người mà lông mày không mọc lấn vào Ấn đường sẽ được làm quan, lại có cuộc sống an nhàn.
Người mà có lông mày giao nhau, chẳng có được quan lộc, ngược lại còn phải bôn ba vất vả kiếm sống. Ấn đường cũng được gọi là cung Mệnh, lông mày được gọi là sao La, Kế, cho nên người mà có sao La, Kế nhập vào cung mệnh, cùng không được hưởng quan lộc.
Lông mày dài sát mắt, tai họa không ngừng
Trong Quảng giám tập có nói: Lông mày là hai sao La hầu, Kế đô, tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời của mắt. Lông mày sát mắt, tức là lông mày và mắt có sự tương liên, như thế là biểu hiện của 2 sao La hầu, Kế đô xâm phạm vào Thái âm và Thái dương. Mà Thái âm, Thái dương là sự hòa hợp của mặt trăng và mặt trời, là chủ của thân. Cho nên người có tướng này, từ 26 đến 29 tuổi vận thế không tốt; 37, 38, 39 tuổi cũng không thuận lợi. Tình hình như thế, nếu có sao Nguyệt bột chiếu rộng, Nhật, Nguyệt rõ ràng thì tai họa có thể giảm đi.
Không biết tự bao giờ, “câu đối đỏ” đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong ngày Tết của người Việt. Mỗi độ xuân về, người người thi nhau tìm cho mình những câu đối hay nhất để treo ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Đó là một thú chơi tao nhã, một mỹ tục trong ngày Tết Nguyên Đán đã và đang được các thế hệ người Việt Nam ra sức gìn giữ. Nhân dịp xuân về, chúng ta cùng nhau dành chút thời gian thả hồn lãng du cùng câu đối Tết.
Trong chương trình hôm nay, giáo sư Nguyễn Khắc Thuần sẽ minh thị một số chi ktiết đáng chú nhất của mỹ tục này. Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần hiện sống tại thành phố Hồ Chí Minh, ông là một học giả kỳ cựu và có nhiều công trình đóng góp quan trọng trong lĩnh vực lịch sử văn hóa Việt Nam.
Câu đối trong văn hóa truyền thống Việt Nam
Lê Phước : Thân chào giáo sư Nguyễn Khắc Thuần. Trước tiên xin chân thành cám ơn giáo sư đã nhận lời tham gia chương trình. Nhân dịp xuân về, Ban biên tập RFI Việt Ngữ tại Paris xin kính chúc giáo sư cùng toàn thể gia quyến một năm mới :Vạn sự như ý. Thưa giáo sư, câu đối là một thú chơi tao nhã thể hiện tinh hoa của chữ nghĩa. Vậy trước tiên, xin giáo sư cho biết đôi điều về câu đối trong văn hóa Việt Nam nói chung ?
GS. Nguyễn Khắc Thuần : Thân ái chào quý vị và các bạn. Trước hết, cho phép tôi được gửi tới quý vị và các bạn lời chúc một năm mới mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công. Tôi xin được trình bày đôi điều tản mạn về câu đối Tết của người Việt.
Người Việt chúng ta có truyền thống trọng chữ. Trong lịch sử, người Việt thường sử dụng nhiều loại chữ khác nhau. Nhưng ngày xưa, loại chữ quý giá và được tôn sùng nhất vẫn là chữ Nho, thường được gọi là “chữ của thánh hiền”. Trong lịch sử cũng có hai quy ước bất thành văn, thường được người Việt rất chú ý tuân thủ. Thứ nhất là không viết chữ khiếm nhã lên các tờ giấy, thứ hai là không vứt những tờ giấy có chữ vào chỗ rác bẩn. Vậy chữ được dùng để làm gì ?
Có bốn mục đích khác nhau. Một là để ghi chép sự việc, từ đó tạo ra văn tự, từ đó tạo ra khế ước. Hai là chuyển tải suy tư, từ đó tạo ra sử sách, từ đó tạo ra hi phú văn chương, triết lý.
Thứ ba, chữ để làm quà tặng, từ đó tạo ra lời hay và ý đẹp. Xuân về người ta thường có những chữ như : Cung hạ tân xuân, xuất nhập bình an, vạn sự như ý, ngũ phúc lâm môn, khai trương hùng phát, bình bút hoa khai, an khang thịnh vượng ... Đây là những chữ làm quà tặng quá quen thuộc, nên tôi xin phép không dịch lại. Và từ chỗ chữ làm quà tặng, nó tạo ra cả những câu đối-câu liễn với nhiều nội dung phong phú khác nhau. Mục đích thứ tư là chữ để trang trí công đường hoặc nhà ở, từ đó tạo ra thư họa hay thư pháp, từ đó tạo ra những bức tranh chữ.
Nét riêng của câu đối Việt
Lê Phước : Thưa giáo sư, trong văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam đều có câu đối. Vậy không biết câu đối của người Việt ta có những nét đặc sắc gì ?
GS. Nguyễn Khắc Thuần : Trong các thể cổ văn, câu đối được dùng rất phổ biến. Ở đây có ba vấn đề chúng ta cần lưu ý.
Vấn đề thứ nhất, người Trung Quốc gọi câu đối là “đối liên”, và chia làm ba loại. Loại thứ nhất là “Tiểu đối”, tức mỗi vế có từ 4 chữ trở xuống. Loại thứ hai là “Thi đối”, mỗi vế là một câu đối ngũ ngôn hoặc một câu thất ngôn, cũng có khi gồm cả hai câu ngũ ngôn và thất ngôn. Loại thứ ba là “Phú đối”, tức là câu đối viết theo niêm luật của thể phú, là một thể cổ văn. “Phú đối” được chia thành: Câu đối “Song quan”, mỗi vế có từ 6 đến 9 chữ, ghép lại thành một đoạn; Rồi câu đối “Cách cú”, mỗi vế chia thành hai đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài; Rồi câu đối “Hạc tất”, mỗi vế có từ ba đoạn trở lên.
Vấn đề thứ hai, trong câu đối người Việt, ta có thể chia làm mấy loại sau đây. Thứ nhất là câu đối Tết. Thứ hai là câu đối bày tỏ sự chung vui, ví dụ như chung vui lễ hội hay chung vui trong các cuộc giao lưu. Thứ ba là câu đối chia sẽ, ví dụ như chia sẽ về những tổn thất trong thiên tai địch họa, vì đau ốm hay trong các đám ma chay. Thứ tư là câu đối để chúc mừng, như câu đối mừng tân gia, mừng tân hôn, mừng đỗ đạt, mừng thăng quan, mừng sinh quý tử. Thứ năm là câu đối để ghi nhớ một sự kiện hay một vấn đề, ví dụ như trùng tu chùa chiền, đình miếu, tôn tạo hay xây dựng một số công trình công cộng, dựng bia…
Vấn đề cần chú ý thứ ba, đó là câu đối người Việt thường được viết bằng nhiều loại chữ khác nhau, trong đó nổi bậc lên có ba loại chữ. Một là câu đối viết bằng chữ Hán. Với loại câu đối này, bạn đọc là những người trẻ tuổi, chưa có điều kiện tiếp xúc với chữ Hán, thì phải có người dịch ra mới hiểu được. Thứ hai là câu đối viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm là chữ viết của dân tộc, nhưng không phải ai cũng đọc được. Ngày nay, số người Việt đọc được chữ Nôm là quá ít. Thứ ba, là câu đối viết bằng chữ Việt hiện đại, và là câu đối phổ biến nhất hiện ngày nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, rồi trên các công sở hiện nay, câu đối viết bằng chữ Việt rất phổ biến.
Các loại câu đối Tết tại Việt Nam
Lê Phước : Trong các loại câu đối đó, thì câu đối Tết có vai trò như thế nào, thưa giáo sư ?
GS. Nguyễn Khắc Thuần : Trong tất cả các loại câu đối, nổi bật hơn cả vẫn là câu đối Tết. Câu đối Tết trở thành sinh hoạt văn hóa rất phổ biến và lâu đời. Ngày nay tuy không ai dùng chữ Hán và chữ Nôm nữa, hay nói đúng hơn là quá ít người dùng chữ Hán và chữ Nôm, nhưng không phải vì thế mà câu đối ít đi. Xưa cũng như nay, câu đối trở thành một món quà không thể thiếu.
Xem lại, câu đối Tết của người Việt có 07 loại sau đây :
1) Loại câu đối Tết dùng chung cho tất cả mọi nhà, ai treo cũng được, gia đình sang hèn, nghèo giàu đều treo được. Ví dụ như câu :
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh
Đây là câu đối viết bằng chữ Nôm. Rồi cũng có câu đối viết bằng chữ Hán mà nhà nào treo cũng được :
Lộc tiến vinh hoa gia đường thịnh Phúc sinh phú quý tử tôn vinh (Tài lộc dẫn đến sự vinh hoa, nhà thì ngày một thêm thịnh đạt Phúc sinh ra sự phú quý, con cháu trở nên vinh hoa)
2) Loại câu Tết thường để ở các đình làng hay công sở. Chẳng hạn như :
Chúc Tết đến trăm điều như ý Mừng xuân sang vạn sự thành công (Câu đối viết bằng chữ Nôm)
Hoặc câu đối viết bằng chữ Hán:
Sơn thủy thanh cao xuân bất tận Thần tiên lạc thú cảnh thần tiên (Núi sông thanh cao, mùa xuân bất tận Thần tiên vui vẻ lạc thú cảnh thần tiên ở nơi trần thế)
3) Loại câu đối Tết thường để ở đền chùa miếu mạo. Ví dụ câu đối chữ Nôm sau đây :
Mừng xuân hỉ xả thêm công đức Đón Tết từ bi bớt não phiền
Hoặc câu đối chữ Hán:
Pháp luân vô ánh oanh thiên hạ Tâm niệm vô thanh chấn tứ phương (Pháp luân tuy không có tỏa sáng nhưng có thể làm run cả trời đất Tâm niệm tuy không phát ra thành tiếng nhưng nó có thể gây chấn động cả bốn phương)
4) Loại câu đối Tết thường có trong các nhà quyền quý. Ví dụ như :
Xuân tái đáo, môn tiền phúc đáo Hoa hựu khai, thiên ngoại thi khai (Xuân lại đến, trước cửa phúc lại đến Hoa lại nở, ngoài trời thơ lại mở ra)
Hoặc câu :
Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức hiển gia phong (Tổ tiên để lại tiếng thơm trong sử sách Con cháu tích đức thì gia phong được hiển hách)
Hay là :
Nhập môn tân thị kinh luân khách Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân (Vào cửa khách toàn là người hiểu kinh luân Ngồi đầy nhà toàn là những bậc mặc áo gấm áo thêu, tức là những người sang trọng quyền quý trong xã hội).
5) Loại câu đối Tết thường có trong các gia đình nghèo khó. Chẳng hạn như câu :
Tết đến gượng cười, mong con cháu chăm ngoan, nhà có dư gạo thóc Xuân sang gắn vui, cầu vợ hiền mạnh khỏe, vườn đủ quả đủ rau
Hay là câu :
Nợ nần theo gió lạnh bay đi, vợ lại tươi như hoa nở thắm Của cải cùng khí ấm tràn vào, lòng chồng vua tựa trống hội vang
Ta thấy ở đây là những ước muốn bình dị, thể hiện ước nguyện giản dị nhưng cũng rất sâu sắc và mãnh liệt của những người bình dân nghèo khó trong xã hội.
6) Loại câu đối Tết viết theo lối tự trào, viết để cho vui, ai nghe cũng được, không phải treo ở đâu cả, mà để gắn vào tâm tưởng của mỗi người, kích động suy nghĩ của mọi người, và cùng vui với mọi người. Ví dụ như câu đối sau đây của Nguyễn Công Trứ :
Chiều ba mười nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà Hoặc là câu đối sau đây của Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ lừng danh cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19: Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt kẻo Ma Vương đưa quỉ tới Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang cho thiếu nữ rước xuân vào
7) Loại câu đối Tết thường thấy trong các gia đình Việt Kiều.
Tôi có dịp đi nhiều nước trên thế giới và gặp gỡ các Việt kiều, thấy trong gia đình họ cũng có những câu đối Tết. Đọc qua tôi thấy rất cảm động, chẳng hạn như :
Nghi ngút tỏa khói hương, xa đất mẹ vẫn nhớ về nguồn cội Tôn nghiêm mâm ngũ quả, chốn quê người nặng trĩu nghĩa cố hương
Hoặc như câu :
Xuân tha hương, vấn vương thương đất mẹ Tết xa nhà, xao xuyến nhớ quên cha
Đó là những lời thể hiện tình nghĩa nồng nàn đầm thắm của những người con xa quê, thực sự xứng đáng là dòng giống con Lạc cháu Hồng. Đó không chỉ là lời bày tỏ tình cảm, mà quan trọng hơn đó còn là lời thể hiện một truyền thống viết câu đối của người Việt dù ở bất cứ nơi đâu.
Nhân dịp Tết đến, tôi hy vọng rằng, những câu đối hay của bà con Việt kiều lại tiếp tục lan tỏa từ gia đình này đến gia đình khác, từ địa phương này sang địa phương khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Và lời câu đối chính là lời nhắc nhở về một truyền thống lâu đời của dân tộc.
Thực trạng văn hóa câu đối Tết tại Việt Nam
Lê Phước : Thưa giáo sư, mấy mươi năm trước, trong bài thơ Ông Đồ, nhà thơ Vũ Đình Liên miêu tả cảnh câu đối Tết ngày càng bị “thất sủng”. Mở đầu bài thơ, Vũ Đình Liên Viết :
Mỗi năm hoa đào nở, Lại thấy ông đồ già Bày mực hàng giấy đỏ Trên phố đông người qua.
Ngày tháng trôi qua, không biết hiện tại mỹ tục câu đối Tết tại Việt Nam có còn được lưu giữ không, thưa giáo sư?
GS. Nguyễn Khắc Thuần : Ở Việt Nam hiện nay, truyền thống viết câu đối Tết vẫn được lưu giữ và được phổ biến khá mạnh. Bằng chứng là trên tất cả các báo xuân, hầu như báo nào cũng có một vài câu đối, và thường là những câu đối viết bằng tiếng Việt hiện đại. Bằng chứng thứ hai, đó là ở nhiều thành phố lớn và các khu đô thị luôn luôn có những người ngồi viết câu đối Tết, và họ gọi đó là “ông đồ” mặc dù họ chỉ viết chữ Việt hiện đại chứ không phải là chữ Hán hay chữ Nôm.
Tôi là thành viên của Hội đồng Tư vấn về kỷ lục, có lúc tôi đã chứng kiến sự hội ngộ của cả trăm ông đồ cùng viết câu đối. Tất nhiên, câu đối ở đây là những câu đối đã được phổ biến rộng rãi hoặc những câu đối chủ yếu do khách yêu cầu họ viết và viết câu đối theo thư pháp hiện đại. Đó là một trong những biểu hiện của việc tiếp nối truyền thống và phổ biến văn hóa câu đối Tết ở Việt Nam.
Như đã nói ở trên, câu đối là một thú chơi tao nhã, nhưng rất khó chơi, nó thể hiện trình độ học vấn và chữ nghĩa của những người được gọi là có ăn có học. Các cụ thường cho rằng: “nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”.
Ngày xưa, dân gian ta có tục đến gặp ông đồ xin chữ. « Xin chữ » là bởi vì trong làng xã các ông đồ-tức các nhà nho, được xem là người nắm giữ tri thức xã hội. Mỗi câu đối gồm có hai vế. Gọi là « câu đối » vì hai vế này phải “đối nhau” một cách tinh tế về mặt chữ nghĩa. Người xưa thường lấy câu đối ra để thử tài nhau, và lấy việc đối hay đối dỡ để đánh giá trình độ học vấn.
Riêng về câu đối Tết, như giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã nói bên trên, ta thấy rằng, câu đối Tết đã trở nên phổ biến trong dân gian. Nó vẫn luôn còn đó chứ không hề bị mai một. Bên cạnh những bằng chứng đã nêu trên, ta còn thấy ở miền quê Việt Nam, ngày Tết nhiều người vẫn đi tìm mua câu đối Tết. Câu đối được viết bằng chữ Việt hiện đại người mua hiểu đã đành, nhưng có khi người ta còn mua cả câu đối viết bằng chữ Hán dù không biết trong đó nói gì. Không biết ý nghĩa cụ thể mà vẫn mua vì mọi người ai cũng hiểu rằng, tất cả các câu đối Tết đều có một mục đích chung là : cầu mong những điều tốt lành trong năm mới.
Một điểm đáng mừng nữa, đó là hiện tại, không chỉ có hình ảnh “ông đồ già” mà đã xuất hiện nhiều “ông đồ” tuổi mới đôi mươi mặc áo dài khăn đóng ngồi viết câu đối Tết. Và như giáo sư Nguyễn Khắc Thuần đã nhận định, đó là một biểu hiện của việc bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc, mà cụ thể ở đây là câu đối Tết. Thưa quí vị, Tết Nguyên Đán là truyền thống lâu đời và có thể được xem là một bản sắc của văn hóa Việt Nam, trong khi đó câu đối Tết chính là một bản sắc của ngày Tết Nguyên Đán.
Trong thời đại toàn câu hóa ào ạt như ngày nay, việc bảo tồn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là một yêu cầu cấp thiết để tránh việc các nền văn hóa trên thế giới bị đồng nhất. Trong ý nghĩa đó, tình trạng “khỏe mạnh » của câu đối Tết như đã nêu trên tại Việt Nam rõ ràng là một tin vui.
Niềm vui đó hòa chung vào niềm vui bất tận của năm mới. Nhân dịp xuân về, chúng ta nâng ly cùng nhau tận hưởng niềm vui bất tận đó :
Già trẻ gái trai đều khoái Tết, Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân.
Xem tướng phụ nữ khắc chồng - Phụ nữ thế nào thì khắc chồng ?
Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồng chia ly hay đứt đoạn.
Ngoài ra khi luận đoán về sự hình khắc của phụ nữ đối với chồng, ta còn cần phải đặc biệt chú ý đến chính bản thân người chồng nữa.
Nếu toàn thể bộ vị của người chồng tốt đẹp, nhất là mạng cung thê thiếp không khuyết hãm thì sự tai hại của hình khắc giảm thiếu rất nhiều. Trái lại, bản thân người chồng (cả hình tướng lẫn tâm tướng) đều dưới mức trung bình thì sự tác dụng của hình khắc do người vợ đem lại sẽ rất lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lãnh vực sinh hoạt của đấng phu quân. Xin độc giả lưu ý điểm này trước khi đoán xét về tướng hình khắc chồng của phụ nữ. Đại để các dấu sau đây đều bị tướng học liệt kê vào tướng phụ nữ khắc chồng:
- Phía dưới hai mắt vô bệnh tật mà có sắc khí xanh xám .
- Mắt lớn lồi (nhỏ và dài mà lồi thì đỡ tai hại hơn). Lông mày thưa vàng và ngắn .
- Mày thô, mắt có sát khí
- Hai mép miệng và hai phát lệnh đều có nốt ruồi
- Phần sống mũi nổi gân máu
- Trán cao, hai phần Nhật Nguyệt giác nổi cao và hướng lên
- Tiếng nói như nam giới hoặc oang oang như sấm động hoặc âm thanh sắc cao như sói vào tai người nghe
- Trán vuông, mày lớn cao và đậm
- Xương lưỡng quyền vừa thô vừa lộ
- Trán lồi, cổ ngắn, hoặc trán cao mặt hãm
- Mũi hếch thấp, mắt thuộc loại tam tứ bạch, hoạc hình tam giác mà lộ hung quang. Có đủ tất cả là tướng đại hình khắc và yểu
- Sắc da mặy thô xạm như màu đất chết
- Mặt chè bè về chiều ngang (phần Trung đình) mà lại sát thanh nghĩa là tiếng nói lanh lảnh như tiếng kim khí va chạm nhau khiến người nghe cảm thấy ớn lạnh xương sống .
- Trán hẹp, nhọn, tai thấp hoặc trán nhỏ nhọn hẹp và lông mày giao nhau
- Trán có tật bẩm sinh (vết sẹo, vằn trán thuộc loại loạn văn rất rõ lúc còn niên thiếu) .
- Mũi hếch, tai khuyết hãm, mày thô và mắt có tia máu ăn lan từ tròng trắng xuyên qua lòng đen đén đồng tư, thuật ngữ tướng học gọi là Xích mạch xâm đồng
- Sơn căn có nốt ruồi và dưới mắt có nhiều vết nhăn (đây nói phụ nữ ở trung niên trở lại)
- Xương lưỡng quyền nổi cao và nhọn như chỏm núi
- Tác có phù quang (trơ trẽn không có sinh khí), da trắng và khô mốc
- Mặt dài quá, cộng với miệng lớn (thành ngữ nói là miệng ngoác tới tận mang tai như miệng cá sấu)
- Ấn đường có một lằn sâu chạy thẳng lên trán, thuật ngữ tướng học gọi là Luyến trâm văn .
- Lông mày thưa và mường tượng như co rút lại (nghĩa là đầu và lông chân mày lớn ngang nhau trái với lẽ thường là đầu lông mày thon dần còn chân lông mày lớn)
1. Lông mày đứt đoạn, tiền vận khó tụ tàiTheo Nhân tướng học, người có lông mày đứt đoạn, không đồng đều thường kém gặp may mắn về tiền bạc. Người này phải chi tiêu nhiều khoản trong khi đó thu về lại không được là bao, tiền vận khó tụ tài, trung vận cuộc sống an nhàn hơn nhờ vào phúc đức của chồng hoặc vợ. Tuy nhiên, nếu không học cách tích lũy và chi tiêu tiết kiệm, người này sẽ trắng tay khi về già. 2. Mắt nhìn lúc sáng lúc mờ, tiêu tiền như nướcThế nào là mắt nhìn lúc sáng lúc mờ? Đó là kiểu mắt khi thì rất linh hoạt, có thần sắc rõ ràng nhưng lúc lại lờ đờ như vẫn chưa tỉnh ngủ. Người có kiểu tướng mắt này khó giữ được tiền của, hơn thế lại mắc cái tật tiêu tiền như nước, chỉ biết thỏa mãn thú vui của ngày hôm nay mà không suy tính cho tương lai.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, người này thường được sinh ra trong gia đình có nền tảng kinh tế khá. Khi kết hôn cũng được gia đình hậu thuẫn về tài chính nên cuộc sống dư giả, ít khi phải lo nghĩ về tiền bạc. 3. Mũi bóng nhẫy, trung vận khó giữ được tiền củaNếu một ngày nào đó bạn thấy khả năng tập trung kém, mũi bóng nhẫy bất thường, tâm trạng thất thần, lo lắng viển vông thì đó là dấu hiệu cho thấy khi bước vào tuổi trung niên, bạn sẽ trải qua sóng gió lớn về tài chính, nhiều khả năng đó là nguy cơ phá sản. 4. Xương gò má thấp lõm, không biết cách quản lí tiền bạcTheo Nhân diện học, xương gò má đại diện cho tính tích lũy và khả năng khống chế của con người. Đa phần người có xương gò má cao thì tính tình mạnh mẽ, coi trọng sự nghiệp và làm việc có kế hoạch rõ ràng. Ngược lại, nếu xương gò má quá thấp, thậm chí lõm lại thì khả năng kiềm tiết chế cảm xúc kém, dễ rơi vào trạng thái bị động và không biết cách quản lí tiền bạc nên cuộc sống chỉ ở mức trung bình. Ngọc Lan (Theo MGSP) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Bích Ngọc (##)
Sử dụng sức mạnh năng lượng từ nước theo phong thủy?
Khi sự giận dữ dẫn đến bạo lực và cãi nhau lớn tiếng trong gia đình, bạn hãy dùng một chiếc bình để áp dụng liệu pháp nước âm. Bình có nghĩa là bình an, thanh
bình. Người Trung Quốc thường trưng bày nhiều bình đẹp trong nhà để tạo không khí thanh bình và hòa hợp. Tuy nhiên, bình chỉ có tác dụng tốt khi được đổ đầy nước và đặt trong nhà không có rác hay đồ linh tinh để bừa bãi. Nước ở đây là nước âm, có khả năng hấp thụ và trung hòa sự giận dữ.
Nếu cãi nhau và xung đột giữa 2 người yêu nhau hoặc vợ chồng thì nước có năng lượng của mặt trăng sẽ mạnh mẽ hơn.
Đặt một chậu nước đầy trên mặt đất hoặc trên ban công vào đêm trăng tròn. Để nước hấp thụ năng lượng của mặt trăng và rồi mang vào nhà, đổ vào bình đẹp. Những bình này có tác dụng giữ gìn sự thanh bình trong nhà.
Cũng có thể treo một bức tranh vẽ hình chiếc bình trong ánh trăng để tăng cường liệu pháp này. Ngoài ra, những nhà phong thủy của Lão giáo còn dùng tranh để tạo ra một loại rung động khí đặc biệt trong nhà.
Trong sách xưa có viết: Chỉ cần có xương ngọc chẩm thì đều là hình tướng phú quý. Như tăng đạo tuy không phú quý nhưng có xương ngọc chẩm đều trường thọ. Có xương ngọc chẩm mà hơi nhô lên thì sẽ có phúc lộc và trường thọ, nếu xương này vừa bằng vừa lõm thì người này phúc thọ đều không được lâu.
Trong cốt pháp của người quan trọng nhất là xương đầu và xương trán.
Chẩm cốt, xương sau đầu, của người trưởng thành giống như ngọc trong đá núi, ngọc trai trong biển, có thể quyết định vinh hiển hay không. Do đó có thể nói, cho dù con người có cốt pháp tốt thì cũng cần có tướng mạo tương ứng mới được, chỉ có thần khí thanh thoát mới có thể hưởng thụ thiên lộc.
Chẩm cốt: Xương này như ngọc, có thể biết vinh đạt hiển quý. Hình dạng khác nhau thì mệnh không giống nhau
Người có xương ngọc chẩm, đều là quý tướng
Xương chẩm nhô lên thành hình chữ “nhất” chủ về người coi trọng thành tín, tính cách cứng rắn, mạnh mẽ.
Xương chẩm phát triển thành vòng gọi là Suất phúc chẩm, chủ về 3 đời đều phú quý.
Xương chẩm phát triển sang trái gọi là Tả trường chẩm, hướng lệch sang trái gọi là Tả tản chẩm, lệch sang phải là Hữu tản chẩm, đây đều chủ về người có phú quý và trường thọ.
Xương chẩm có hình chữ “tam” (H), chủ về có nhiều việc vui. Trên xương chẩm có 2 xương nối liền gọi là Liên chẩm, cũng gọi là hoàn chẩm, nếu nối liền với phần xương ở sau tai thì sẽ phú quý, trường thọ, nhưng tính cách không tốt.
Xương chẩm phát triển giống quả trứng gà thì gọi là Kê tử chẩm, chủ về tính cách nóng nảy, hay tự cho mình là đúng. Xương chẩm giống hình chữ “sơn” thì gọi là Sơn tự chẩm, cũng gọi là hoành sơn nhất tự chẩm, chủ về thành thực, tính cách cương cường. Xương chẩm phát triển giống huyền châm thì gọi là Huyền châm chẩm. Xương chẩm phát triển giống như chiếc kim rủ xuống thì gọi là Thùy châm chẩm, cũng gọi là ngọc chẩm, chủ về trường thọ.
Xương chẩm giống như chén rượu gọi là tửu tôn chủ về có quý, có lộc nhưng sẽ không có quan chức. Xương chẩm thành hình chữ “Thượng”, gọi là Thượng tự chẩm, chủ về chí khí cao, dũng cảm, nhiều thành bại, ít nhiều quý khí.
Xem xương chẩm biết thêm vận mệnh
Xương chẩm lồi lên giống như bụng trông gọi là Yêu cổ chẩm, chủ về tiểu quý, nhiều thành bại.
Xương chẩm nhô lên thành hình ngọc trai gọi là Châu chẩm, chủ về sẽ phú quý nhưng không thực mà chỉ là hư danh.
Xương chẩm có hình chữ “đinh” gọi là Đinh tự chẩm, chủ về tính tình khoan hòa, có thể phú quý.
Có 3 xương thẳng nhô, 1 xương nằm ngang ở dưới đỡ gọi là Sơn tự chẩm, chủ về thông minh, phú quý, trường thọ. Có 1 xương hình tròn, có 1 xương hình vuông gọi là Điệt ngọc chẩm, chủ về hưởng vinh hoa phú quý. Có 1 xương nhô lên mà nhọn gọi là Tượng nha chẩm, chủ về có thể nắm quyền binh tướng. Xương chẩm nhô lên phân thành 4 góc gọi là Huyền châm cốt, chủ về được phong làm tế sát võ thần. Có một xương cắt ngang gọi là Nhất dương chẩm, chủ về phát tài lớn, trường thọ.
Đỉnh đầu vuông tròn, trán bằng đầy đặn là mệnh quý hiển
Nếu bộ vị Thái dương nổi cao, người đó có thể làm quan lại được trường thọ. Nếu tóc thưa mỏng, da mặt cũng mỏng chủ nghèo khổ. Nếu hai bên trái phải đầu đều lệch, người đó sẽ khắc hại cha mẹ.
Người có đầu ngắn, cổ dài thường rất nghèo khổ. Nếu đầu cong tựa đầu rắn, người đó chẳng đủ cơm ăn áo mặc. Nếu đầu người ngắn lại tròn thường là người được phúc lộc không ngừng. Nếu bụng rủ xuống thấp, chủ người làm nô bộc. Nếu người đầu nhỏ mà tóc dài, chủ về mất tung tích. Người đầu dài nhưng lại hẹp, chủ vận mệnh chẳng thể dài lâu.
Nếu tóc mọc lấn đến tai, chủ người bần cùng đói khổ. Nếu tóc cuộn tròn tựa hình xoắn ốc, chủ người gặp thương tật. Nếu tóc người sớm đã trắng, người đó có thể gặp hung họa. Nếu tóc trắng sau đó biến thành đen, là tướng tốt lành.
Nếu tóc dày người đó rất khó làm đến chức thừa tướng. Nếu tóc đột nhiên mọc dài người đó không khỏe mạnh. Thông thường, tóc tốt nhất là đen lại sáng bóng, dày dặn và khô. Nếu đỉnh đầu chia làm 2 người đó tất sẽ khắc hại cha.
Thần sát trong mệnh cục của Tứ trụ , trong các sách cổ, có sách khẳngđịnh, cũng có sách phủ định. Theo kiểm nghiệm trong dự đoán thực tế có thểkhẳng định thần sát có vai trò của nó, có cái tác dụng lớn như kình dương dùngđể đoán việc xấu rất chuẩn. Còn những thần sát khác như hoa cái, thiên y, trạchmã, đào hoa, v.v là dùng bàn về khác như hoa cái, thiên y, trạch mã, đào hoa, v.v. làdùng để bàn về tính cách của con người và nghề nghiệp rất hay. Còn trong dựđoán cát hung cho một đời người thì tác dụng của những thần sát này không nổi bật như kình dương, thiên đức,nguyệt đức.
Thần sát phần nhiều lấy địa chi làm căn cứ, nên nó có thể làm tăng thêm lực hình, xung, hợp , hại. Thầy Thiệu Vĩ Hoa trong cuốn sách “Chu dịch dự đoán học” và “Dự đoán theo Tứ trụ” đã thu hút những tinh hoa của các hiền nhân để đi đến những kiến giải độc đáo trong thực tiễn dự đoán. Vì vậy ở đây không bàn chi tiết nữa, mà giống như cuốn sách “Nhập môn chu dịch dự đoán học”, ở đây cũng chỉ đưa ra những phương pháp ghi nhớ các quy luật một cách nhanh nhất để giới thiệu cho mọi người.
1. CÁT THẦN VÀ HUNG SÁT
Cái gọi là cát thần thực ra không phải là nói trong Tứ trụ cát thần càng nhiều càng tốt, hay cái gọi là hung sát cũng không phải là nói trong Tứ trụ không có là tốt. Rất nhiều thần sát luôn luôn có cát, có hung. Từ kinh nghiệm đã tổng kết được ta thấy người có nhiều thần sát là mệnh cục tương đối phức tạp, nhưng nếu tổ hợp Tứ trụ tốt lại phối với thần sát thì người đó thường là những người siêu quần xuất chúng. Còn nói chung đối với người dân bình thường thì thần sát không nhiều, thần sát càng ít thì việc dự đoán càng đơn giản. Đương nhiên mọi việc không bao giờ là tuyệt đối, cũng như người hung sát nhiều chưa chắc đã gặp xấu, mấu chốt của vấn đề là phải xem các tổ hợp của Tứ trụ và tổ hợp của tuế vận là hỉ hay là kị.
Ngoài ra thần sát hoặc cát hoặc hung cũng không phải là tuyệt đối, mà chỉ có thể nói rằng một thần nào đo lấy cát làm chính, một sát nào đó lấy hung làm chính. Cát thần mà gặp phải hình xung khắc hại thì cũng như không có, hung sát mà bị chế hợp không đủ sức để làm hại thì cũng chẳng còn gì đáng gọi là kị. Nói chung các thiên can và các địa chi đóng địa chi đóng dưới nó gặp phải cát thần hay hung sát nhờ đó mà trở thành vượng hay suy. Phải xem các can chi đó bị hình hợp , xung khắc hay không để xem nó tác dụng hay không có tác dụng. Trong mệnh cục gặp được cát thần thì cả cuộc đời thuận lợi trọn vẹn, trong vận, trong năm gặp được cát thần thì đã tốt càng thêm tốt. Trong Tứ trụ kị gặp hung thần vì như thế cả cuộc đời hay bị tai hoạ, trong vận, trong năm gặp phải hung thần thì hung càng thêm hung.
Chương này chỉ giới thiệu những cát thần và hung sát có tác dụng nổi bật, còn những thần, sát khác ít có tác dụng hoặc ít gặp thì không bàn đến. Cách tra thần, sát rất nhiều. Độc giả tự tìm cách nhớ thuận tiện cho mình là được .
2. THIÊN ĐỨC, NGUYỆT ĐỨC
Lấy tháng sinh để tra các thiên can hoặc địa chi trong Tứ trụ .
1. Thiên đức quý nhân.
Tháng tí thấy tị, tháng sửu thấy canh, tháng dần thấy đinh, tháng mão thấy thân, tháng thìn thấy nhâm, tháng tị thấy tân, tháng ngọ thấy hợi, tháng mùi thấy giáp, tháng thân thấy quý, tháng dậu thấy dần, tháng tuất thấy bính, tháng hợi thấy ất.
Phàm người tháng sinh tra thấy các can chi trong Tứ trụ như ở trên là có thiên đức quý nhân.
Cách tra thiên đức quý nhân của người sinh vào tháng tí, ngọ, mão, dậu là từ ngôi trường sinh của ngũ hành mà ra. Ngoài ra còn có cách gọi tháng tí gặp quẻ tốn thìn là thủy đức, vì nguồn xuất thuỷ quy mộ về cung tốn ; tháng mão gặp quẻ khôn mùi là mộc đức, vì nguồn xuất mộc quy mộc về cung khôn ; tháng ngọ gặp quẻ càn tuất là hoả đực, vì nguồn xuất hỏa quy mộ về cung càn ; tháng dậu gặp quẻ cấn sửu là kim đức, vì nguồn xuất kim quy mộ về cung cấn, tức là lấy ngũ hành dương vượng, chính ngôi phối với mộ, tức là quẻ của bản cung mà ra. Thiên đức chỉ dùng địa chi , không dùng thiên can, cho nên lấy bốn quẻ trên. Trong kiểm thực tế lấy chính ngôi trường sinh để xác định tháng tí, ngọ, mão, dậu còn chia ra thành tị, hợi, thân, dần là khá chuẩn. Độc giả có thể căn cứ vào thiên, nguyệt đức của những người sinh vào bốn tháng trên, xem xét quá trình gặp hung hóa cát của họ để kiểm nghiệm.
2. Nguyệt đức quý nhân
Lấy chi tháng làm chủ để tra các thiên can trong Tứ trụ .
Sinh các tháng dần, ngọ, tuất thấy bính ;
Sinh các tháng thân , tí, thìn thấy nhâm ;
Sinh các tháng hợi, mão, mùi thấy giáp ;
Sinh các tháng tị, dậu, sửu thấy canh ;
Phương pháp nhớ cách tra nguyệt đức là căn cứ vào khí của tam hợp , ví dụ dần, ngọ, tuất thuộc hỏa thì lấy bính hỏa làm đức ; thân, tí, thìn thuộc thuỷ thì lấy nhâm thuỷ làm đức ; tí, dậu, sửu thuộc kim thì lấy canh kim làm đức ; hợi, mão, mùi thuộc mộc thì lấy giáp mộc làm đức để quy nạp. Phàm các tháng trong cục gặp can dương vượng khí đều là gặp nguyệt đức .
Hai quý nhân thiên đức và nguyệt đức đều chủ về người có cuộc đời không nguy hiểm. Thiên đức quý nhân là cát tinh phúc tường, tính tình nhân từ đôn hậu, cuộc đời phúc nhiều, ít nguy hiểm, gặp hung hóa thành cát, hóa hiểm thành an, như là có thần bảo hộ. Nguyệt đức quý nhân là cát tinh phúc thọ. Trong Tứ trụ có cả thiên, nguyệt đức là người có năng lực gặp hung hóa các rất mạnh, gặp được cát thần thì càng thêm tốt, gặp phải hung thần cũng bớt xấu rất nhiều, nhưng gặp phải xung khắc thì vô dụng.
3. THIÊN ẤT QUÝ NHÂN
Cách tra là lấy can ngày hoặc can năm làm chủ để tra các địa chi trong Tứ trụ .
Can ngày, năm là giáp, mậu thấy sửu, mùi ;
Can ngày, năm là ất, kỷ thấy tí, thân ;
Can ngày, năm là canh , tân thấy dần , ngọ ;
Can ngày, năm là nhâm , quý thấy mão , tị ;
Người mà trong Tứ trụ tra được như trên là có thiên ất quý nhân. Cát tinh này chủ về thông minh, trí tuệ, là thần gặp hung hóa cát. Nếu hợp hóa thành dụng thần, hoặc hỉ thần là rất tốt, rất kị gặp hình, xung, khắc, hại, suy, bệnh, tử, tuyệt. Người mà thân vượng thì phúc đức càng tăng thêm, cuộc đời ít bệnh tật, người mà thân nhược thì bệnh nhiều hoặc giảm phúc quý.
Thiên ất quý nhân là ngôi sao ở phía trái sao tử vi trong thiên thể, là chủ tể của muôn thần. Trụ năm hoặc trụ tháng gặp được hai quý nhân là có ý phân âm dương để trị, hàm ý trong ngoài có khác nhau. Thìn, tuất là vị trí của sao khôi canh, cho nên quý nhân không đến.
4. LỘC THIÊN CAN
Lấy can ngày làm chuẩn để tra các địa chi trong Tứ trụ .
Phàm can ngày mà gặp lộc trên chi năm gọi là tuế lộc, trên chi tháng là kiến lộc, trên chi ngày là chuyên lộc, tọa lộc, trên chi giờ là quy lộc. Thần lộc vượng mà gặp địa chi kiếp tài, không gặp phải hình xung, khắc, phá là chủ về công danh thuận lợi. Thân vượng mà lộc nhiều nên bị khắc cho xì hơi, thân nhược mà lộc vượng lại không bị phá đều là quý mệnh. Lộc kị bị xung phá , ví dụ giáp lộc là dần, gặp thân là bị phá , mão lộc kị gặp dậu, tị lộc kị gặp hợi, ngọ lộc kị gặp tí. Vì quan viên gặp phải thì mất quan mất chức, nghèo khổ hư danh, người thường gặp phải thì phải cơm áo không no, bôn ba vất vả.
Ngày giáp lộc ở dần ; ngày ất lộc ở mão.
Ngày bính, mậu lộc ở tị ; ngày đinh, kỷ lộc ở mão.
Ngày canh lộc ở thân ; ngày tân lộc ở dậu .
Ngày nhâm lộc ở hợi ; ngày quý lộc ở tý.
Lộc nhờ có thế lực mà được hưởng thì được gọi là lộc, là cát thần. Lộc là khí của bốn mùa, tuỳ theo ngũ hành vượng, trong đó bính lộc ở tị, đinh lộc ở ngọ, mậu lộc ở tị, kỉ gửi ở ngọ, hỏa sinh thổ là tí nhờ mẹ mà được hưởng lộc, thìn, tuất là khôi canh là chỗ ác địa, kém cỏi cho nên lộc thần không gửi. Sửu mùi là cửa xuất nhập của thiên ất quý nhân cho nên lộc lánh xa, do đó không có lộc. Cách nhớ thập can lộc chỉ cần nhớ can ngày, bản khí của nó là địa chi là được . Ví dụ dần mộc tàng can của bản khí là giáp mộc.
5. VĂN XƯƠNG
Cách tra là lấy can ngày, can năm làm chuẩn để tra các địa chi trong Tứ trụ .
Can ngày, năm giáp thấy tị ;
Can ngày, năm ất thấy ngọ ;
Can ngày, năm bính, mậu thấy thân ;
Can ngày, năm đinh, tị thấy dậu ;
Can ngày, năm canh thấy hợi ;
Can ngày, năm tân thấy tí ;
Can ngày, năm nhâm thấy dần ;
Can ngày, năm hợi thấy mão ;
Những người trong Tứ trụ tra thấy như trên gọi là có sao văn xương.
Sao văn xương nhập mệnh thì thông minh hơn người . Trong Tứ trụ kiêm có học đường thì chủ về học tập ưu tú, khí chất nho nhã, và còn có tác dụng gặp xung hoá cát.
Sao văn xương là thực thần lâm quan, là chỗ trường sinh. Ví dụ giáp lấy bính làm thực thần, bính lâm quan ở tị cho nên giáp lấy tị làm văn xương. Căn cứ nguồn gốc của sao văn xương ta có thể tìm ra cách nhớ.
Có một số việc mà chúng thường cho rằng “chẳng có vấn đề gì đâu”, tuy nhiên, dựa trên cơ sở phong thủy học thì đó là những việc tiềm tàng nguy cơ mạt vận.
Có một số việc mà chúng thường cho rằng “chẳng có vấn đề gì đâu”, tuy nhiên, dựa trên cơ sở phong thủy học thì đó là những việc tiềm tàng nguy cơ mạt vận.
►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm
Lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 16 tháng 8 âm lịch - Hội Nghinh Ông Vũng Tàu
Hội Nghinh Ông Vũng Tàu
Thời gian: tổ chức từ ngày 16 tới ngày 18 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: lăng Cá Ông, đường Hoàng Hoa Thám, thành phố Vũng Tàu.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.
Nội dung lễ hội: Lễ hội Nghinh Ông đình Thắng Tam (Bà Rịa Vũng Tàu) được bắt đầu từ sáng sớm ngày 16 với một đoàn người gồm các vị kỳ lão, kỳ hương... lên một chiếc ghe lớn (có trang trí hoa, cờ, bàn thờ và bài vị thuỷ tướng, có đoàn nhạc ngũ âm, chiêng, trống và đội múa lân rộn ràng) đi đến địa điểm đã định rồi dâng hương, rượu. Sau đó, đoàn thuyền về bến rước Ông đến lăng, tiếp đến là các lễ cúng Tiền Hiền, Hậu Hiền, đọc văn tế, sắc phong, học trò dâng trà, hoa, rượu...
Ðến với lễ hội, du khách còn được thưởng thức các tiết mục: Võ thuật, múa lân, hát Bội... cùng với nhịp điệu hoà âm của chiêng, trống trong khói hương nghi ngút.
Hội Đền Đông Cao
Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: làng Đông Cao, xã Yên Lộc, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn An Dương Vương và Mỵ Châu.
Nội dung: Hội đền có lễ tế dâng hương lên Thánh Thần, lễ kiệu Mỵ Nương đến yết kiến cha, tiếp đó là lễ tạ tội với cha.
Hãy xem hình dạng móng tay và cho chúng tôi biết bạn là người như thế nào nhé.
1. Móng tay dài và thẳng (hình 1)
Bạn thuộc tuýp tỉ mỉ, cẩn thận, sáng tạo và có trí tưởng tượng phong phú. Bạn sống thiên về tình cảm, tính cách ôn hòa, dễ gần, thân thiện với mọi người.
Ngoài ra, người có tướng móng tay này sẽ có bán cầu não phải phát triển tốt hơn. Nên đôi khi gặp chút khó khăn khi giao tiếp với những người có bán cầu não trái phát triển. Thậm chí, đôi bên này sinh xung đột, mâu thuẫn.
2. Móng tay ngắn và rộng (hình 2)
Sở hữu móng tay này, bạn chân thành nhưng lại dễ nổi nóng, hay mơ mộng, không thực tế. Đa phần người này có bán cầu não trái phát triển mạnh hơn nên có khả năng hùng biện tốt.
Bạn ăn nói khéo léo, dễ tạo ấn tượng về sự đơn giản và rõ ràng của bản thân. Bạn luôn luôn nói sự thật và thường đưa ra lời khuyên cho người khác. 3. Móng tay tròn hoặc hình quả trứng (hình 3 và 4)
Những người này thường vô tư, vô lo, ung dung tự tại và luôn lạc quan, hướng đến những điều tốt đẹp. Họ sống theo nhịp điệu cuộc sống của riêng mình và không quan tâm đến tiểu tiết.
Ngoài ra, họ hòa đồng, dễ gần, ghét sự cạnh tranh, xung đột. Do đó, khi xung quanh xảy ra xung đột, họ sẽ là trung gian hòa giải, giúp mọi việc ổn thỏa.
4. Móng tay hình vuông (hình 5)
Bạn có phẩm chất của những người lãnh đạo: mạnh mẽ, quyết đoán, khéo léo và dũng cảm. Bạn rất nghiêm túc trong công việc, tuy nhiên đối với bạn bè thân thiết thì lại mềm mỏng, thân thiện.
Nên nhớ, sự nghiêm túc là điều tốt, tuy nhiên nếu quá cứng nhắc và bảo thủ lại là khuyết điểm khiến bạn dễ bị mọi người xa lánh.
Đọc vị tính cách qua độ dài các ngón tay Xòe bàn tay và quan sát xem độ dài các ngón tay thuộc kiểu nào dưới đây, bạn sẽ hiểu hơn về tính cách của chính mình. 5. Móng tay hình tam giác đứng hoặc ngược (hình 6, 7)
Những người có móng tay hình tam giác thường thông minh, cầu toàn, sáng tạo và cá tính. Họ có tài năng thiên bẩm, đầu óc nhạy bén, do đó dễ dàng thu hút sự chú ý, quan tâm của mọi người xung quanh.
Người có móng tay hình tam giác ngược còn có chút tự cao về bản thân trong khi người sở hữu móng tay hình tam giác thẳng thì nhạy cảm thái quá và chúa ghét những ai vô duyên, có lối sống dễ dãi. 6. Móng tay hình quả hạnh (hình 8)
Bạn là người chung thủy, chân thành, thân thiện và có bề ngoài xinh đẹp. Bên cạnh đó, bạn tốt bụng, luôn có mặt khi người khác cần sự giúp đỡ. Chính vì thế, bạn luôn được mọi người yêu quý, ủng hộ.
Bạn thông minh, giàu ý tưởng sáng tạo trong công việc. Bên cạnh đó, ngoài cuộc sống bạn nhã nhặn, cư xử lịch thiệp. Tuy nhiên, có nhược điểm cần phải khắc phục đó là tính khí nóng nảy của bạn.
7. Móng tay hình kiếm (hình 9)
Tập trung, truyền cảm hứng và có tầm nhìn xa trông rộng là những từ được sử dụng để miêu tả con người bạn. Bạn tập trung vào các mục tiêu dài hạn, có tầm nhìn chiến lược, luôn khuyến khích, động viên, truyền cảm hứng cho mọi người.
► Xem tử vi ngày mai của bạn được cập nhật liên tục tại Lichngaytot.com
Quà tặng phong thủy không chỉ thể hiên tấm lòng của chủ nhân mà nó còn gửi gắm những lời chúc, những hi vọng tốt đẹp đến người nhận. Một số vật phẩm phong thủy truyền thống đầy ý nghĩa dưới đây sẽ là gợi ý hay cho bạn khi lựa chọn một món quà .
Phong bao màu đỏĐây là món đồ phong thủy bắt nguồn từ Trung Quốc, được coi là mang lại nhiều may mắn, sức khỏe và tài lộc. Bạn có thể bao gói món quà của mình như một chiếc phong bao màu đỏ hoặc bỏ vài đồng tiền xu, vài viên tinh thể đá trong suốt vào phong bao đỏ làm quà. Khi bạn gửi đến mừng tân gia, khai trương nó mang tới sự thịnh vượng; nếu tặng cho người bệnh nó có nghĩa là một lời chúc mau chóng bình phục. Vật phẩm đôi Các vật phẩm đôi là một trong những món quà phong thủy rất hữu hiệu để thu hút, tăng cường năng lượng của tình yêu và hôn nhân. Biểu tượng phong thủy này có năng lượng của sự hòa hợp hoàn hảo và sự cân bằng. Nó thường được đặt ở phía Tây Nam của ngôi nhà. Cốc đôi, đôi uyên ương bằng sứ, cặp kim đồng ngọc nữ,… là những món quà rất ý nghĩa cho các cặp đôi mới cưới. Đồng xu may mắnNhững đồng tiền xu Trung Quốc cổ hình tròn với một lỗ vuông ở trung tâm được làm bằng đồng hoặc đồng thau ẩn chứa trong nó nguồn năng lượng bảo hộ, may mắn, sức khỏe và tài lộc. Đồng xu may mắn được sử dụng phổ biến nhất trong phong thủy bằng cách cho tiền. 3 đồng tiền xu xâu bằng một sợi dây màu đỏ là món quà đặc biệt ý nghĩa nếu bạn muốn gửi tới người ấy sự bảo vệ và vận may tài chính. Cây tiền
Một nhầm lẫn phổ biến là mọi người coi cây tiền như một vật phẩm phong thủy mang ý nghĩ cầu tài lộc, nhưng thực chất nó mang đến sức khỏe và có tác dụng chữa bệnh. Cây tiền thường do nhiều đồng tiền xu gắn lại tạo thành, còn được gọi là cây đá quý. Phong thủy truyền thống cho rằng cái cây xanh tốt, phát triển thịnh vượng, sum sê ấy sẽ cung cấp nguồn năng lượng mạnh mẽ, tốt lành giúp cải thiện sức khỏe của gia đình bạn.Gương bát quáiMặc dù là một vật phẩm phong thủy rất phổ biến nhưng gương bát quái không phải là vật trang trí và nên được sử dụng một cách thận trọng. Trước tiên, không bao giờ đặt gương bát quái trong nhà. Thứ hai, chỉ sử dụng nó để hóa giải năng lượng xấu và phải đặt đối diện với nhà hoặc văn phòng của bạn. Nó có thể trở thành một món quà nếu người nhận đang gặp phải vận xấu, những điều xui rủi, sự căng thẳng và bạn muốn giúp họ giải tỏa điều đó.Tượng Rồng
Trong phong thủy, Rồng là một trong bốn linh thú và là biểu tượng tốt lành nhất để đặt trong nhà. Có một con Rồng trong bất kỳ khu vực nào của nhà bạn đều có lợi miễn là nó được đặt ngay ngắn và tôn trọng. Là biểu tượng dương, mang nguồn năng lượng mạnh mẽ tượng trưng cho nam giới, tượng Rồng là món quà phong thủy tốt cho những người đàn ông quan trọng với bạn. Phật ngọcTượng Đức Phật làm từ ngọc biểu tượng cho sự thịnh vượng và may mắn, là vật phẩm phong thủy tăng cường sự giàu có, thịnh vượng. Đây là món quà thích hợp cho những ai chú trọng tới phong thủy, những người kinh doanh. Chuông gióGió có nhiều ứng dụng trong phong thủy. Mặc dù cách sử dụng tốt nhất của chuông gió là bên ngoài nhà nhưng cũng có thể đặt nó trong nhà để chữa bệnh. Những chiếc chuông gió bằng gỗ hay kim loại với hình nửa mặt trăng, đồng xu kêu vang hấp dẫn là món quà phong thủy thích hợp cho những người đang bị bệnh hoặc cần tăng cường sức khỏe. Bầu rượu Bầu rượu là món quà thú vị với những người đam mê phong thủy. Nó là biểu tượng của may mắn và cuộc sống lâu dài, có tác dụng thu hút tài lộc và chữa bệnh. Phổ biến nhất là bầu rượu làm bằng kim loại hoặc gỗ, nhưng cũng có những bầu rượu làm bằng ngọc bích, sứ hoặc thủy tinh. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Hương Giang (##)
Phong thuỷ phòng ngủ giúp gia chủ phát tài - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi
Phong thuỷ phòng ngủ giúp gia chủ phát tài, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Phong thuỷ phòng ngủ giúp gia chủ phát tài, tu vi Phong thuỷ phòng ngủ giúp gia chủ phát tài, tu vi Phong thủy phòng ngủ
Phong thuỷ phòng ngủ giúp gia chủ phát tài, nên sắp xếp nội thất phòng ngủ hợp phong thủy, “mệnh Đông tứ” nên ngủ ở “giường Đông tứ”, còn “mệnh Tây tứ” thì nên ngủ ở “giường Tây tứ”.
Phong thuỷ phòng ngủ giúp gia chủ phát tài
1. Đầu giường hợp với tuổi
Theo những nguyên tắc về sắp xếp nội thất phòng ngủ hợp phong thủy, “mệnh Đông tứ” nên ngủ ở “giường Đông tứ”, còn “mệnh Tây tứ” thì nên ngủ ở “giường Tây tứ”. Những người thuộc ngũ hành Thuỷ, Mộc, Hoả đều thuộc “mệnh Đông tứ” do đó, giường ngủ đặt ở hướng Bắc, Đông, Nam và Đông Nam sẽ tốt. Những người thuộc mệnh Kim, Thổ trong ngũ hành thuộc “mệnh Tây tứ” giường ngủ nên đặt ở hướng Đông Bắc, Tây Bắc , Tây Nam và Tây. 2. Phòng ngủ nên sáng sủa
Phòng ngủ sáng sủa không nên tối tăm: Môi trường phòng ngủ lý tưởng nhất là ban ngày thông thoáng, ánh sáng tràn ngập tránh tù túng tạo âm khí, còn ánh đèn ban đêm thì dịu mắt khiến tâm hồn thư thái, yên tĩnh. Phòng ngủ tối tăm sẽ làm cho ý chí tiêu trầm, trong trường hợp này nên kê giường ngủ tới gần cửa sổ để có nhiều ánh sáng hơn.
3. Giường ngủ êm ái
Trong phong thuỷ phòng ngủ, vật dụng không thể thiếu với không gian phòng ngủ đó là một chiếc giưòng êm ái. Giường ngủ nên được đặt giữa phòng, tránh hướng đối diện với cửa ra vào cũng như tránh kê sát một bên tường. Chăn nệm êm, thoải mái từ chất liệu thiên nhiên cũng là yếu tố thiết yếu cho một phòng ngủ lý tưỏng.
4. Không đặt gương đối diện giường ngủ
Đặt gương soi phản chiếu giường ngủ là điều tối kỵ trong sắp xếp phòng ngủ theo phong thủy. Đồng thời bạn nên hạn chế đến mức tối đa lắp đặt các thiết bị điện tử như tivi, máy vi tính trong phòng ngủ.
5. Chọn màu sơn phù hợp
Màu sơn cũng là một yếu tố quan trọng giúp bạn có được giấc ngủ sâu thư giãn. Khung màu trung tính từ trắng ngà cho đến màu sôcôla sữa đều là những màu sắc lý tưởng và bất cứ sự phối hợp màu sắc nào giữa những màu trên sẽ làm cho phòng ngủ của bạn thực sự trở thành thiên đường theo thuyết phong thủy.
6. Không đặt cây xanh trong phòng ngủ
Bạn nên nhớ là không nên đặt cây xanh trong phòng ngủ trừ khi phòng của bạn rất lớn, vì cây xanh quang hợp sẽ hút khí oxy và phá hỏng giấc ngủ thư thái của bạn.
Nếu đốt trên dài hơn đốt dưới, đây là kiểu phụ nữ có ham muốn rất mạnh mẽ. Cô nàng này thích kiểm soát và quyết định mọi chuyện…
Nhìn bàn tay đoán tính cách
Bàn tay nhọn:
Bàn tay có hình dáng xinh xắn, mảnh mai, các ngón tay thon dài như búp măng là người đa cảm đa sầu nhưng lại rất khoan dung, nhân từ. Người có bàn tay nhọn yêu thơ văn, hội họa và sự thẩm mỹ. Đây cũng là người rất đa tình, khi đã yêu thì sẽ yêu hết mình, không tính toán, vụ lợi trong tình yêu.
Người có kiểu tay này thì trực giác rất nhạy bén. Linh cảm có thể mách bảo cho họ nhiều điều và mang đến cho cuộc sống của họ không ít sự bất ngờ thú vị. Họ có ngoại hình ưa nhìn và là người luôn vươn tới cái đẹp và sự hoàn mỹ trong cuộc sống.
Bàn tay hình nón:
Chủ nhân của bàn tay tròn trịa và mềm mại này có đôi mắt rất tinh tường cùng khả năng quan sát tinh tế và nhạy bén. Mang trong mình tố chất nghệ sĩ, họ khát khao tìm kiếm cái đẹp của cuộc sống và cả trong tâm hồn con người. Đây cũng là những con người duy cảm.
Bàn tay hình vuông:
Là bàn tay có hình dáng thô kệch, da dày, xù xì, to và ngắn. Đây là bàn tay của người lao động, thuộc dạng người kém thông minh, ít suy nghĩ, biết hôm nay và không lo ngày mai. Những người có bàn tay này thường thật thà, chất phác, nhân hậu và thủy chung trong tình yêu.
Họ khá chăm chỉ, yêu lao động, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Tư duy logic giúp họ giải quyết công việc một cách dễ dàng.
Bàn tay có hình thìa (hình lá):
Đặc điểm nổi bật là lòng bàn tay mở rộng ra từ gốc tay. Chủ nhân là người cầu toàn, thông minh và giàu tính kiên trì. Họ có thể đạt được nhiều thành công trong cuộc sống. Họ tận dụng mọi khoảng thời gian có được để làm việc và ít khi để nó trôi qua một cách vô ích.
Bàn tay hình chiếc quạt:
Những người sở hữu bàn tay có hình dáng như chiếc quạt xòe với những ngón tay cũng xòe ra là người trực tính, nóng nảy và liều lĩnh. Họ thường hay quan tâm đến bạn bè, người thân, thẳng thắn và thành thật. Tính tình không đa nghi, không hay can thiệp vào chuyện của người khác.
Nhìn hình dáng bàn tay cho biết cách nàng làm “chuyện ấy”
Độ dài các đốt của ngón cái
Yếu tố đầu tiên cần quan sát là ngón cái. Cụ thể hơn là quan sát đốt trên và dưới của ngón cái. Đốt trên tượng trưng cho “ham muốn” và đốt dưới tượng trưng cho “lý trí”.
Nếu đốt trên dài hơn đốt dưới, đây là kiểu phụ nữ có ham muốn rất mạnh mẽ. Cô nàng này thích kiểm soát và quyết định mọi chuyện.
Tính cách này thoạt đầu có thể khiến “chuyện ấy” hấp dẫn hơn, tuy nhiên, về lâu dài sẽ khiến bạn cảm thấy khó chịu. Suy cho cùng, bạn phải ép bản thân mình chiều lòng nàng dù không muốn.
Trong khi đó, nếu đốt dưới dài hơn, trước mặt bạn là một người phụ nữ luôn hành động theo lý trí. Nhược điểm của cô nàng này là thiếu sự liều lĩnh. Điều mà bạn thấy hài hước và thú vị có thể sẽ bị nàng cho là phi lý hoặc ngớ ngẩn.
Đầu ngón tay
Sau khi đã khám phá “ham muốn” và “lý trí” của nàng, mục tiêu tiếp theo chính là hình dạng của đầu ngón tay. Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung, cách phân loại đơn giản nhất là đầu ngón tay nhọn và vuông.
Đầu ngón tay nhọn cho biết bạn đang gặp gỡ một cô nàng mơ mộng, luôn nhìn thế giới bằng màu hồng. Nàng biết thưởng thức cái đẹp và luôn giữ thái độ lạc quan với mọi chuyện. Kiểu phụ nữ này thường không có dự tính lâu dài cho tương lai và muốn tìm kiếm một người đàn ông có cùng tư tưởng sống với mình.
Ngược lại, đầu ngón tay vuông là một dấu hiệu rõ nét cho thấy nàng thuộc mẫu phụ nữ thực tế. Đừng cố chơi trò “mèo vờn chuột” với họ. Ngoài ra, những chiêu trò lãng mạn với nàng cũng chỉ là một sự nhạt nhẽo và lố bịch.
Đường chỉ tay
Đường trái tim (đường nằm ngang cao nhất trong lòng bàn tay) tiết lộ chiều sâu cảm xúc và ham muốn tình dục của một người. Phụ nữ với đường trái tim dài và đậm có xu hướng trải nghiệm những cung bậc cảm xúc cao nhất của “yêu” và “hận”, trong khi người có đường trái tim ngắn hoặc gãy lại biết cách kiểm soát cảm xúc của mình và kiềm chế tình cảm rất tốt.
Người với đường trái tim ngắn và thẳng có ham muốn tình dục cao và đặc biệt hứng thú với “tình một đêm”, thay vì gắn bó với một mối quan hệ lâu dài.
Cảm giác khi chạm vào bàn tay
Yếu tố cuối cùng cần để tâm chính là cảm giác khi chạm vào bàn tay của nàng. Có hai loại cảm giác chính là mềm mại và thô ráp.
Bàn tay mềm mại cho biết trước mặt bạn là một tín đồ của nghệ thuật. Nói đến đây chắc hẳn trong đầu bạn đang nghĩ có thể lấy lòng nàng bằng một bữa tối lãng mạn và một bộ phim tình cảm đằm thắm.
Tuy nhiên, sự thật là cô nàng sẽ ấn tượng hơn với một chuyến đi tham quan quanh viện bảo tàng, nhất là những viện bảo tàng đẹp. Để chiều lòng mẫu phụ nữ này, đàn ông phải có tính sáng tạo cao.
Nếu bàn tay bạn đang chạm vào cho cảm giác thô ráp, bạn cần phải tiếp cận nàng một cách thận trọng. Đây là kiểu phụ nữ có cá tính hết sức mạnh mẽ. Khi yêu, họ sẽ yêu hết mình, yêu điên cuồng nhưng đến lúc tức giận cũng sẽ hết sức khủng khiếp.
Ngoài ra, bạn sẽ thấy cô nàng thiếu sự khéo léo, tinh tế trong cách cư xử, thậm chí khiến bạn suốt ngày phải lạy trời mong cô ấy đừng thẳng tính quá như vậy. Nhìn chung, sự thẳng thắn, trung thực của cô nàng sẽ khiến bạn choáng ngợp.
xem tuong phu nu, xem tay, xem ngon tay, xem ban tay Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Ngọc Sương (##)
Cách cục Nhật chiếu lôi môn (Mặt trời chiếu cửa sấm)
Hay còn được gọi là cách cục Nhật xuất phù tang (mặt trời mới mọc), tức sinh vào ban ngày, sao Thái Dương và Thiên Lương trấn mệnh tại cung Mão được Lộc Tồn, Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu là phù hợp với cách cục này. Nhưgn chỉ có người sinh năm Ất, Tân, Nhâm mới hợp cách, trong đó tốt nhất là sinh năm Ất. Nếu Sinh vào những năm khác cũng chủ về cát lợi, nhưng tại cung tam phương, tứ chính không được có sát tinh xung phá. Nếu gặp sát tinh là phá cách, chủ về bị tiểu nhân ám hại.
Ưu điểm: Tính tình thẳng thắn, có tài năng lãnh đạo nổi trội, có tinh thần trách nhiệm, giàu lòng nghĩa hiệp, có tài giao tiếp, xuất thân giàu sang hoặc sớm thành đạt trở nên nổi tiếng.
Khuyết điểm: Không hợp với mệnh nữ, vì có chí khí của nam giới, lấn át chồng, dễ bị sa ngã bởi đàn ông.
Ca quyết như sau: Thái Dương Mão vị quý kham khoa Tất chủ bình sinh phú quý gia Thuần túy thiếu niên đăng giáp đệ Chinh chiến thanh thế động di Hoa
Nghĩa Là: Thái dương tại Mão thật hiển quý Ắt chủ bình sinh được giàu sang Tuổi trẻ khoa danh sớm đỗ đạt Chiến công lừng lẫy khắp biên cương
Trong kinh văn có viết: "Mặt trời (Thái Dương) chiếu cổng sấm, phú quý vinh hoa". Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Đây là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
ÐÂY LÀ LỜI PHẬT
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Nhớ ơn mẹ ta, chín tháng mười ngày, cưu mang nặng nhọc.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sinh lúc nở, đau đớn vô cùng.
Nhớ ơn mẹ ta, khi sanh lúc nở, quên cả âu lo.
Nhớ lại công ơn, mẹ ăn miếng đắng, lại nhả miếng ngon, dành dụm cho con.
Nhớ lại công ơn, chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo xê con.
Nhớ ơn mẹ ta, ba năm bú mớm, nuôi nấng thuốc thang, trong khi sài đẹn.
Nhớ ơn mẹ ta, giặt diệm hong phơi áo quần dơ dáy, ô uế tanh hôi mẹ đành cam chịu .
Nhớ ơn mẹ ta, khi đi đâu xa, vì thương nhớ con, trong lòng cầy cậy, một phút chẳng ngơi .
Nhớ công ơn mẹ, vì sanh nuôi con, mà mẹ cam lòng tạo bao nhiêu ác nghiệp.
Nhớ công ơn mẹ, lòng rất thương con, trọn đời yêu dấu, không phút nào ngơi.
ÐỆ NHẤT ÂN: CHÍN THÁNG MƯỜI NGÀY CƯU MANG NẶNG NHỌC
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
ÐỆ NHỊ ÂN: KHI GẦN SANH NỞ
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
ÐỆ TAM ÂN: SANH NỞ
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
ÐỆ TỨ ÂN: ĂN ÐẮNG NHẢ NGỌT
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
ÐỆ NGŨ ÂN: XÊ CON TỰ THẤP
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
ÐỆ LỤC ÂN: BÚ MỚM NUÔI NẤNG
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
ÐỆ BÁT ÂN: ÐI XA LÒNG MẸ THƯƠNG NHỚ
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
ÐỆ CỬU ÂN: VÌ SANH CON MÀ CAM LÒNG TẠO BAO ÁC NGHIỆP
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
ÐỆ THẬP ÂN: MẸ TRỌN ÐỜI THƯƠNG YÊU CON
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Ví có kẻ nào, hai vai kiệu cõng, cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng dưới biển, hai vai nặng trễ, mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân hận, cũng chưa báo được công đức mẹ cha, kể trong muôn một.
Ví lại có người. Gặp khi đói kém, cắt hết thịt mình, cung nuôi cha mẹ, khỏi lúc nguy nàn, riêng mình cam chịu, thịt nát xương tan, trăm nghìn muôn kiếp, để báo thâm ân, chẳng được một phần, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, tự tay cầm dao, khoét đôi mắt mình, luyện làm thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, đều tự tay mình, cầm dao khoét ruột, móc lấy tim gan, luyện thành thang thuốc, chữa bịnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng dao, băm vằm thân thể, thịt nát xương tan, như thế cũng là, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt lên, làm cây đèn thịt, cúng dàng chư Phật, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy, để làm thang thuốc, chữa bệnh mẹ cha, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Ví lại có người trải trăm nghìn kiếp, vì cứu mẹ cha, trải trăm nghìn kiếp, nuốt viên sắt nóng, cháy sém cả mình, như thế cũng là, chưa trả được ân, kể trong muôn một.
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Ngũ hành không những có quan hệ tương sinh hay tương khắc đơn thuần mà ngay trong mỗi mối quan hệ đó cũng có những trường hợp cụ thể, có sự khống chế lẫn nhau.
Ngũ hành không những có quan hệ tương sinh hay tương khắc đơn thuần mà ngay trong mỗi mối quan hệ đó cũng có những trường hợp cụ thể, có sự khống chế lẫn nhau. Ví dụ đối với quan hệ tương sinh, nếu một trong hai hành quá mạnh hay quá yếu đều bất lợi. Đó chính là lý do mà thuật phong thủy luôn coi trọng sự hài hòa, cân bằng ngũ hành. Dưới đây là điều nên và kỵ của ngũ hành sinh khắc, chế hóa.
Biểu đồ ngũ hành tương sinh và tương khắc
1. Hành Kim
- Kim gặp Hỏa mạnh sẽ trở thành vũ khí có ích.
- Kim có thể sinh Thủy, nhưng Thủy vượng thì Kim chìm (Kim tuy cứng nhưng cũng có thể bị Thủy làm cùn đi).
- Kim có thể khắc Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị mẻ; Mộc yếu gặp Kim vượng thì sẽ bị Kim chặt đứt.
- Kim nhờ Thổ mà sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp; Thổ có thể sinh Kim nhưng Kim nhiều thì Thổ biến thành ít.
2. Hành Hỏa
- Hỏa vượng gặp Thủy thì trở thành ứng cứu cho nhau, tạo sự cân bằng.
- Hỏa có thể sinh Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Hỏa dập tắt.
- Hỏa có thể khắc Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa tắt; Kim yếu gặp Hỏa tất sẽ nóng chảy.
- Hỏa nhờ Mộc sinh, Mộc nhiều thì Hỏa mạnh, tuy Mộc có thể sinh Hỏa nhưng Hỏa nhiều thì Mộc bị đốt cháy.
3. Hành Thủy
- Thủy mạnh gặp Thổ sẽ thành ao hồ.
- Thủy có thể sinh Mộc nhưng Mộc nhiều thì Thủy co lại; Thủy mạnh khi gặp Mộc thì Thủy yếu đi.
- Thủy có thể khắc Hỏa nhưng Hỏa nhiều thì Thủy yếu đi; Hỏa yếu gặp Thủy tất bị dập tắt.
- Thủy nhờ Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy đục; Kim có thể sinh Thủy nhưng khi Thủy nhiều thì Kim lại bị chìm xuống.
4. Hành Thổ
- Thổ mạnh gặp Mộc thì việc tốt đẹp.
- Thổ có thể sinh Kim nhưng Kim nhiều thì Thổ trở thành ít; Thổ mạnh gặp Kim thì sẽ bị chống chế.
- Thổ có thể khắc Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi; Thủy yếu mà gặp Thổ tất sẽ bị chặn lại.
- Thổ nhờ Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ bị đốt cháy; Hỏa có thể sinh Thổ nhưng nếu Thổ nhiều thì Hỏa bị tàn lụi.
5. Hành Mộc
- Mộc mạnh gặp Kim sẽ trở nên tốt đẹp.
- Mộc sinh Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Mộc bị đốt cháy; Mộc mạnh gặp Hỏa thì Mộc trở thành yếu.
- Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị lấn át; Thổ yếu gặp Mộc thì sẽ trở thành khô cằn, nứt nẻ.
- Mộc nhờ Thủy sinh nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt; Thủy có thể sinh Mộc nhưng Mộc nhiều thì Thủy bị co lại.
Bạn có nhận ra rằng thói quen hàng ngày nhỏ nhất cũng có thể mang lại khiến may mắn của bạn trôi tuột đi mất? Dưới đây là 10 thói quen có thể khiến bạn trở nên nghèo túng.
1. Chẳng màng đến những đồng tiền lẻ
Mọi người có xu hướng coi thường những đồng tiền lẻ năm trăm, một nghìn đồng và thường cho luôn người bán hàng mà chẳng cần nhận tiền thối lại. Điều này khiến bạn đang vô tình đem vận may tiền bạc cho người kia. Cầm lại mọi đồng tiền lẻ, vì dù ít hay nhiều chúng đều là mồ hôi công sức của bạn. Bạn có thể bị kì thị là keo kiệt nhưng tại sao phải quan tâm khi bạn đang tích lũy để gia tăng của cải.
2. Không nhặt tiền rơi
Nếu bạn làm rơi bất cứ đồng tiền lẻ nào trên sàn nhà, ngoài đường,...thậm chí cả những nơi bẩn thỉu thì đều nên nhặt lại. Đừng để tiền bạc, hay nói chính xác hơn là may mắn về của cải, bị bay đi mất vào tay người xa lạ.
3. Vứt tiền khắp nơi trong nhà
Một số người có thói quen bạ đâu vứt đó, kể cả tiền bạc. Họ nhét tiền ở kẽ ghế sofa, trên nóc tủ lạnh, trên mặt bàn phòng khách, ngăn kéo bàn làm việc,...Nếu bạn thấy mình cũng có thói quen này thì nên thay đổi ngay lập tức vì nó tượng trưng cho sự phân tán tiền bạc. Bạn sẽ chẳng bao giờ tích tụ được nhiều tiền để làm việc lớn cứ với thói quen này.
4. Không kiểm tra túi quần áo trước khi giặt
Một số người trong chúng ta không có thói quen lộn trái túi quần, túi áo để kiểm tra trước khi cho vào máy giặt. Đó là một sai lầm không nên trong thời gian dài vì nó tượng trưng cho sự giày có của bạn đang bị rửa trôi.
5. Đặt két sắt sai vị trí
Trong phong Thủy, chỉ khi đặt két sắt ở đúng vị trí tài vận trong nhà mới có thể kích hoạt được may mắn về tài lộc. Nếu đặt két sắt lung tung trong nhà, nó có thể mang đến cho mọi người trong gia đình nhiều điều bất hạnh.
6. Viết tên lên tiền
Nếu bạn hay thích viết tên hay kí lên tiền và đem tặng thì đây là lúc để dừng lại. Lúc đem tặng tờ tiền chính là lúc bạn đang ban phát hết vận may của mình.
7. Bỏ rơi những tờ tiền rách
Nếu bạn có một đồng tiền bị rách, dù ít hay nhiều thì cũng nên đến ngân hàng và đổi lấy một tờ tiền mới. Chẳng mất phí gì cả mà bạn còn có tiền để tiêu. Đừng vứt chỏng chơ những tờ tiền rách nát ở nhà hoặc đưa cho người khác. Nếu đây vốn là cách bạn tiêu tiền thì hãy nghĩ về hậu quả sau này - bạn sẽ nghèo túng vì không trân trọng những tờ tiền nhỏ.
8. Không tôn trọng tiền bạc
Những đồng tiền lẻ hay được nhiều người sử dụng vào những mục đích khác nhau như gấp trái tim, gấp hạc,...Điều này là một sự thiếu tôn trọng với chính những đồng tiền, hay còn là tài vận của bạn. Nó sẽ khiến vận may tiêu tán hết và bạn sẽ trở nên đói nghèo.
9. Coi tiền như rác
Có một lần, một công ty điều hành một chiến dịch tiếp thị đã quăng tiền qua cửa sổ xuống các tòa nhà bên dưới và bây giờ nó đã bị phá sản. Do đó, hãy luôn nhớ giữ gìn từng đồng tiền mình kiếm được.
Vì vậy, bạn phải tôn trọng bất kì tờ tiền nào dù chúng có giá trị lớn hay nhỏ thì bạn sẽ nhận lại được kết quả tương xứng. Những tỉ phú giàu có nhất trên thế giới cũng đều chi tiêu hợp lý dù cho họ có trong tay rất nhiều tiền.
Đôi khi, người ta mải mê chạy theo những điều phù phiếm mà lãng quên bản chất thật của tình yêu.
1. Thấu hiểu nỗi đau của người khác là món quà to lớn nhất mà bạn có thể trao tặng họ. Thấu hiểu là tên gọi khác của yêu thương. Nếu bạn không thể thấu hiểu, thì bạn chẳng thể yêu thương. Yêu là hiểu, yêu là cảm thông. Người ta chỉ có thể thực sự yêu khi có lòng đồng cảm và hiểu biết sâu sắc về đối phương. 2. Nói “Tôi yêu bạn” có nghĩa là “Tôi có thể mang tới cho bạn sự bình yên và hạnh phúc”. Để làm được điều đó, trước tiên, chính bạn phải là người có được những điều đó đã. Yêu không phải là làm nhau đau khổ, yêu là mang đến hạnh phúc cho nhau. Nói lời yêu cần rất nhiều trách nhiệm, sẵn sàng mở rộng vùng trời bình yên của mình bao bọc lấy người kia. 3. Nếu bạn yêu ai đó nhưng hiếm khi dành thời gian cho họ thì đó không phải tình yêu thật sự. Triết lý tình yêu này quả thực khiến nhiều người giật mình tự nhìn lại bản thân. Nói yêu nhưng chưa từng dành thời gian bên nhau, vậy tình yêu liệu có quá giản đơn? 4. Cội nguồn của tình yêu nằm sâu trong mỗi chúng ta. Chúng ta có thể giúp người khác hạnh phúc. Một lời nói, một hành động, một suy nghĩ cũng có thể làm vơi nỗi buồn và tăng hạnh phúc cho người khác. Hạnh phúc là lan truyền, tình yêu là tăng tiến. Hai người ở bên nhau là để mang hạnh phúc của mình truyền tới người kia và nhận lại hạnh phúc từ người ấy. Mỗi chúng ta đều có tình yêu và cần thêm nhiều tình yêu từ người khác. Triết lý tình yêu của Phật giáo thông qua phát ngôn của Thiền Sư Thích nhất Hạnh chứa tuy không cầu kì, phức tạp nhưng tự nhiên và chân thực. Vốn dĩ, tình yêu là không màu mè, chỉ là chuyện của hai tấm lòng, hai trái tim chân phương nhất mà thôi.
► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm
Nếu vợ chồng không thống nhất về màu sắc cho phòng ngủ, bạn hãy lựa chọn các tông trung tính như xám ghi, nâu, be, trắng... Sau đó, bạn hãy lựa thêm một vài điểm nhấn để không gian sinh động hơn.
Sắc đỏ, tím luôn gợi tới sự nóng bỏng, lãng mạn, phù hợp với không gian phòng ngủ.
Màu sắc tươi sáng sẽ giúp cho ngôi nhà có cảm giác thoáng đãng. Các cặp vợ chồng trẻ nên bổ sung thêm họa tiết hoa lá hay màu tươi sáng ở các đồ như gối dựa, đèn, chăn ga.
Nếu sử dụng tông màu trầm, bạn có thể bố trí thêm gương khổ lớn ở vị trí phù hợp giúp phòng có cảm giác rộng hơn.
Những chi tiết vàng đồng đem lại nét sang trọng cho không gian sử dụng nhiều nội thất mộc mạc.
Nếu bên ngoài có khung cảnh đẹp, bạn nên mở cửa sổ cao từ sàn tới trần nhà.
Trong căn phòng đơn giản với sắc nâu và ghi xám, vài chi tiết nhỏ như rèm cửa hay hoa sẽ khiến không gian nhẹ nhàng hơn.
Tông màu be chủ đạo cùng chiếc đèn chùm lộng lẫy khiến phòng trông sang trọng như ở khách sạn.
Nếu bạn là người thích sự chỉn chu, ngăn nắp, căn phòng có sự đối xứng cửa sổ, bàn, gương... sẽ là lựa chọn phù hợp.
Màu xanh nhạt đem lại cảm giác bình yên, sự thư giãn cần có cho không gian nghỉ ngơi của hai vợ chồng.
Hạn tam tai tức là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi. Tam - Ba, số 3, thứ ba; Tai- tai họa, họa hại. Trong một đời người, cứ 12 năm thì có 3 năm liên tiếp gặp hạn tam tai.
Về cơ bản: năm đầu Tam tai, không nên bắt đầu làm việc trọng đại; năm giữa tam tai, không nên dừng việc đang tiến hành (vì thường sau đó tiếp tục dễ gặp trở ngại); năm cuối Tam tai, không nên kết thúc việc quan trọng vào đúng năm này.
Tuy nhiên, nhiều người khi bước vào tuổi 30 (tức 31 tuổi âm) nghĩ rằng mình đang bắt đầu hạn tam tai; cũng có người cho rằng hạn 3 năm liên tiếp – sao Thái bạch, Thủy diệu, Kế đô (với nữ) là năm tam tai. Vậy tính năm bắt đầu tam tai như thế nào?
Hạn tam tai sẽ tính theo nhóm tuổi Tam hợp, nghĩa là những người sinh năm con giáp tam hợp sẽ chịu chung một hạn tam tai. Cụ thể:
(1) Các tuổi Thân, Tý, Thìn: Tam tai tại các năm : Dần, Mão, Thìn (2) Các tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Tam tai tại các năm : Thân, Dậu Tuất (3) Các tuổi Hợi, Mão, Mùi: Tam tai tại các năm : Tỵ, Ngọ, Mùi. Nhóm tam hợp này bước vào hạn Tam tai từ năm nay – 2013 Quý Tỵ.
(4) Các tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Tam tai tại các năm: Hợi, Tý Sửu.
Như vậy, có 4 tuổi sẽ gặp hạn tam tai năm thứ 3 vào năm tuổi của mình: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Vào năm này, những ai gặp hạn sao La Hầu (nam) và Kế đô (nữ) sẽ có cùng lúc 3 hạn: Tam tai, năm tuổi, sao hạn.
Vậy nên, sẽ có một nhóm người có hạn Tam tai rơi vào giai đoạn sao hạn Thái bạch – Thủy Diệu – Kế đô (nữ giới). Sao Thái bạch và Kế đô là những sao xấu đối với nữ giới. Cũng có nhóm người sẽ có hạn Tam tai bắt đầu vào tuổi 30 (tức 31 tuổi âm) như: Quý Hợi, Canh Thân.
Đối với nhóm tuổi bị hạn tam tai năm Quý Tỵ - Hợi, Mão, Mùi về cơ bản sẽ gặp hạn: Năm đầu bị người mưu hại, năm thứ hai việc mờ ám có hại, năm cuối tổn tài, phòng tang sự.
Theo Ngũ hành, nếu được tương sinh thì năm hạn Tam tai cũng nhẹ. Điều này đồng nghĩa nếu tương khắc (bị khắc chế), năm hạn Tam tai có thể có nhiều tai ương.
(Theo TTVN) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Thư (##)
Vận mệnh (tử vi) của chúng ta có thể thay đổi hay không? Khẳng định là có thể thay đổi. Nhưng các vị phải nên biết, đoán mạng rất khó đổi, xem tướng, xem phong thủy đều không thể thay đổi, Phật pháp nói ra đạo lý này cho chúng ta.
Phong thủy là gì vậy? Là hoàn cảnh cư trụ. Người Trung Quốc gọi là phong thủy, người nước ngoài gọi là từ trường, từ trường đích thực chính là phong thủy mà người Trung Quốc thường gọi, người Trung Quốc cũng gọi là vận khí, đều là một ý nghĩa. Chúng ta hãy dựa vào thuyết Nhân Quả.
Phật nói với chúng ta “y báo tuỳ theo chánh báo chuyển”, chúng ta phải hiểu đại đạo lý này. Y báo là gì vậy? Thân thể của chúng ta là y báo, tướng mạo cũng là y báo, hoàn cảnh cư trụ vẫn là y báo, chúng ta nương vào đây để sinh tồn. Chánh báo là gì vậy? Chánh báo là ý niệm của chúng ta, là tâm của chúng ta. Tâm của bạn tốt thì tướng mạo của bạn liền tốt, thân thể cũng tốt, hoàn cảnh cư trụ cũng tốt, mọi thứ tự nhiên liền chuyển đổi. Tâm không tốt, dù phong thuỷ có tốt đi nữa thì khi bạn vừa đến nơi đó, phong thuỷ liền biến xấu đi, phong thủy sẽ thay đổi, không phải không đổi. Cho nên nói “người phước ở đất phước, đất phước người phước ở”, bạn chính mình phải tu phước, hướng thiện.
Vận mệnh (tử vi) của chúng ta có thể thay đổi hay không? Khẳng định là có thể thay đổi. Nhưng các vị phải nên biết, đoán mạng rất khó đổi, xem tướng, xem phong thủy đều không thể thay đổi, Phật pháp nói ra đạo lý này cho chúng ta.
Bạn thấy trên kinh điển thường hay khuyên bảo chúng ta tích công bồi đức, làm nhiều việc tốt thì tướng mạo và số mệnh của bạn tự nhiên liền được chuyển, số mệnh bạn tốt lên và tâm địa của bạn rất thanh tịnh, tâm địa rất từ bi. Tâm không tốt, ngày ngày nghĩ đến việc xấu, thì mọi người vừa nhìn thấy bạn sẽ nghĩ rằng con người này tướng mạo rất đáng sợ và số phận của bạn cũng thay đổi xấu đi. Đây chẳng phải là tùy theo tâm chuyển hay sao? Rất là hiện thực, bạn còn phải xem tướng làm gì nữa?
Phong Thủy xấu không thể hại được người tốt. Trong một cuốn sách phong thủy do ông Man-Ho Kwok viết, ông có kể vài câu chuyện như sau :
"Vài thế kỷ trước ở bên Tàu, có một ông thầy Địa lý rất nổi tiếng, nhưng tính tình ông này thì rất hẹp hòi và nóng tính. Vào một ngày của mùa hè ông ta được lệnh của Vua đi tìm long mạch và Huyệt kết cho nhà vua dùng làm nơi xây mồ mả tổ tiên.
Thời kỳ đó phương tiện giao thông khó khăn nên phần đông người ta đi ngựa và đi bộ mà thôi. Sau nhiều ngày băng rừng vượt núi, ông thầy đã tìm được huyệt quý. Ông ta vui mừng trở về phúc trình với Hoàng đế. Trên đường về, ông ta đã cạn hết lương thực và nước uống, giữa vùng rừng núi hoang vu, ông ta không biết tìm đâu ra được mạch suối ngầm để lấy nước uống giữa mùa hè nóng bỏng.
Trong cơn tuyệt vọng, ông ta đến được một khu rẫy. Chủ nhân là một người đàn bà trung niên và 3 người con trai đang cuốc đất. Ông ta mừng quá chạy ngay vào xin nước uống. Người đàn bà vui vẻ đi lấy cho ông ta một bát nước đầy. Nhưng trước khi đưa bát nước cho ông ta, bà hốt một nắm lá cây bỏ vào bát. Ông thầy rất giận nhưng vì đang khát, ông ta cũng ráng dằn xuống mà uống hết bát nước cho qua đi cơn khát. Trong bụng ông ta đã có ý định trả thù người đàn bà vô lễ kia.
Sau khi hỏi thăm ông ta biết được chồng của người đàn bà nghèo khổ kia đã chết vài năm trước, để lại cho bà một mảnh đất hoang và 3 đứa con nhỏ. Ông ta tự giới thiệu tên và cho biết ông ta là một nhà phong thuỷ nổi tiếng làm việc cho triều đình. Ông ta bảo muốn coi giúp về phong thủy của căn nhà của người đàn bà tội nghiệp kia.
Sau khi quan sát căn nhà và cấu trúc địa lý xung quanh, ông ta bảo căn nhà của bà không tốt, nếu sống ở đó thì suốt đời nghèo khổ vất vả. Rồi thì ông ta bảo cho người đàn bà biết rằng, ông ta biết được có một căn nhà bỏ hoang lâu đời với đất đai rộng rãi ở bên kia núi, ông ta khuyên người đàn bà nên dọn về đó ở sẽ tốt hơn. Ông ta nói xong thì vội vã bỏ đi, trong lòng vui sướng vì đã trả được thù, khu đất và căn nhà hoang không chủ mà ông ta chỉ cho người đàn bà là một khu đất chết phạm vào Ngũ Quỷ xung sát, là một khu đất cực xấu, ai sống ở đó đều chết yểu.
Sau một thời gian khá lâu, ông ta có dịp đi ngang qua vùng đất Ngũ Quỷ xung sát đó, ông gặp lại người đàn bà và ông ta hết sức kinh ngạc vì người đàn bà nghèo khổ ngày xưa bây giờ là một người đàn bà giàu có, nhà cao cửa rộng.
Người đàn bà đón tiếp ông rất ân cần vì biết ơn ông đã chỉ cho bà một khu đất tốt, từ khi dọn vào, bà luôn luôn trúng mùa, tiền bạc dư giả, con cái học hành tới nơi tới chốn, 2 trong 3 đứa con trai đang làm quan, đứa con thứ ba thì thông minh xuất chúng, đang dạy học và rất có tên tuổi. Ông ta kín đáo quan sát căn nhà, và vùng đất xung quanh, tuy có sang trọng hơn nhưng trên căn bản vẫn là vùng đất phạm Ngũ Quỹ xung sát (Five Ghosts Dead Place ). Lòng càng hoài nghi dữ dội, cuối cùng ông ta thú thiệt về việc trả thù của ông ta vì ngày xưa người đàn bà đã vô lễ bỏ lá rác vào bát nước trước khi trao cho ông uống. Người đàn bà giải thích rằng, sỡ dĩ bà ta làm như vậy là vì lúc đó trời đang nóng bức, ông ta lại đang khát sắp chết, nếu trao cho ông ta bát nước bình thường thì ông ta sẽ uống cạn ngay, sẽ khiến ông ta bị sốc mà bị nguy hiểm đến tính mạng, cho nên bà bỏ lá cây khô vào là để ông ta từ từ uống vì phải vừa uống vừa gạt bỏ lá qua một bên.
Đến lúc đó ông thầy mới chợt hiểu, vì những gì bà làm để cứu mạng của ông ta đã tạo nên công đức, đủ để hoá giải đi cái ảnh hưởng xấu của vùng đất chết. Cũng như chuyện anh học trò nghèo có tướng phải chết nhưng lòng hiếu thuận và can đảm vì người mà quên mình của anh đã thay đổi đi cái số mạng yểu tử bần hàn mà sau này đỗ đầu bảng vàng, trạng nguyên vinh quy bái tổ".
Có thể nói là Vận mạng của mỗi người không cố định mà có thể thay đổi tùy theo hành động. Sống thiện, tu tâm tích đức sẽ giúp thay đổi số mạng tốt hơn.
Nếu chúng ta thường xuyên biết cảm thông chia sẻ làm nhiều điều thiện cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số mệnh chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp lắm.
Lời bàn:
Ngược lại, dù có chọn các thầy cao thủ, kiếm phong thủy cho nhà cửa thật tốt chăng nữa mà tâm xấu ác thì Phong thủy cũng chả giúp được gì. Tai họa vẫn trên trời rơi xuống.
Khổng tử có câu rất hay: "Tâm còn chưa thiện, phong thủy vô ích. Thời vận không thông, mưu cầu vô ích. Việc tốt hay xấu hay thời vận đến với ta không thể do phong thủy quyết định mà chính tư tưởng và hành vi thiện ác của mình mới là nguyên nhân quan trọng".
Thế mới có câu "Đức năng thắng số"!
"Việc hung ác người ta không tránh Thì đời không có cảnh an vui Nhiều kẻ ác nhiều cơ đói khổ Nhiều người hiền nhiều chỗ ấm no Ác không thể được phước cho Chỉ hiền mới có thơm tho mang vào"