Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí

Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí, hãy cùng tham khảo nội dung bài viết dưới đây, bạn sẽ thấy câu trả lời.
Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong bát tự, giờ sinh có quan hệ trực tiếp đến vận thế của mỗi người. Vậy giờ sinh hưởng trọn phúc khí là lúc nào đối với 12 con giáp?


 

 

Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh
 

Tuổi Tý

Xem giờ sinh 12 con giáp. Người tuổi Tý có Ngũ hành thuộc Thủy, phương vị chính Bắc. Nếu được sinh ra vào khoảng thời gian đêm khuya, chính là 21 giờ - 23 giờ là thích hợp nhất, họ sẽ luôn vui vẻ hạnh phúc.  

Tuổi Sửu


Người tuổi Sửu có Ngũ hành thuộc Thổ, sinh ra vào giờ Tỵ (9 giờ - 11 giờ sáng) hoặc giờ Dậu (17 giờ - 19 giờ) thì năm sinh và giờ sinh sẽ tạo ra một phần của Tam hợp kim cục: Tỵ - Dậu - Sửu. Mệnh chủ có giờ sinh này khi nhỏ được trưởng bối yêu thương, về già có con cháu hiếu thuận.
 
  Bí pháp phong thuỷ vượng vận 2016
Cổ thư dạy: Đạo phong thủy, lấy căn gốc từ việc an thân, không thể không xem. Cửa chính là con đường nạp khí cho gia trạch, vì vậy nó có ảnh

Tuổi Dần


Người tuổi Dần có Ngũ hành thuộc Mộc, phương vị Đông Bắc (hay chính là Cấn trong Bát quái). Nếu mệnh chủ được sinh ra vào giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ), có ngụ ý Núi cao đón gió, sẽ là người có địa vị trong xã hội.

Tuổi Mão


Người tuổi Mão có giờ sinh là giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) thì đạt được nhiều phúc khí nhất, đó là bởi vì Mùi là Thái Âm, đại diện cho mặt trăng, thích hợp với mệnh chủ năm Mão.
 

Tuổi Thìn

 
Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh 2
 
Người tuổi Thìn có Ngũ hành thuộc Thổ. Đại trạch là nơi tập trung Thủy, Thìn là hồ chứa nước, nên nếu được sinh ra vào giờ Tý (23 giờ - 1 giờ), hình thành mệnh cục: Thìn quy đại hải, vận thế vô cùng tốt.
 

Tuổi Tỵ


Người tuổi Tỵ có Ngũ hành thuộc Hỏa. Khi được sinh ra vào giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) thì "rắn hóa rồng", nâng cao mệnh cục của người đó.
 

Tuổi Ngọ


Người tuổi Ngọ là con giáp có Ngũ hành thuộc Hỏa. Sinh vào giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) thì vận thế hanh thông, vào giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ) sẽ nhận được phú quý.
 

Tuổi Mùi

 
Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh 3
 
Tuổi Mùi có Ngũ hành thuộc Thổ điền viên. Khi được sinh ra trong giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ), tính cách ôn hậu có đức, cương nhu phối hợp, có kiếu ngoại giap, điều này đặc biệt tốt đối với sự nghiệp.

 

Tuổi Thân


Người tuổi Thân có Ngũ hành thuộc Kim. Nếu được sinh ra vào giờ Tý (23 giờ - 1 giờ) hoặc giờ Thìn (7 giờ - 9 giờ), tạo thành một phần của Tam hợp Thủy cục: Thân - Tý - Thìn, thì cả đời bình an, cát tường.
 

Tuổi Dậu


Người tuổi Dậu sinh vào giờ Dần (3 giờ - 5 giờ), thì theo mệnh lý đây là cách cục tốt nhất, cả cuộc đời thuận lợi, may mắn.
 

Tuổi Tuất

 
Gio sinh 12 con giap the nao de huong tron phuc khi hinh anh 4
 
Người tuổi Tuất khi sinh vào giờ Ngọ (11 giờ - 13 giờ) hoặc giờ Dần (3 giờ - 5 giờ) thì cả cuộc đời gặp phúc khí, ít gặp điều phiền phức.
 

Tuổi Hợi


Người tuổi Hợi có Ngũ hành thuộc Thủy, hơn nữa là Thủy thiên hà. Khi được sinh ra vào giờ Mão (5 giờ - 7 giờ) hoặc giờ Mùi (13 giờ - 15 giờ) thì cả đời phúc lộc không ngừng.
 
=> Xem ngày tốt, giờ hoàng đạo chuẩn nhất tại Lichngaytot.com


Chi Nguyễn

Xem Clip về Nhân duyên: Nghiệt duyên và chữ duyên  
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giờ sinh 12 con giáp thế nào để hưởng trọn phúc khí

Dương Liễu Mộc - Gỗ của cây Dương Liễu

Đôi nét về mạng Dương Liễu Mộc (gỗ của cây dương liễu) Mộc vào đất tử mộ dù được Nhâm Quí thủy sinh cũng vẫn yếu nhược nên gọi bằng Dương Liễu Mộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dương Liễu Mộc - Gỗ của cây Dương Liễu

Dương Liễu Mộc - Gỗ của cây Dương Liễu

Tìm hiểu về mạng Dương Liễu Mộng

Sách Bác Vật Vựng Biên viết: “Nhâm Ngọ Quí Mùi, mộc tử ở Ngọ, mộ ở Mùi. Mộc vào đất tử mộ dù được Nhâm Quí thủy sinh cũng vẫn yếu nhược nên gọi bằng Dương Liễu Mộc. Cành liễu mảnh mai, lá liễu buông rũ, thứ mộc không có cốt khí. Hình chất thì vậy nhưng tâm sự lại rất thấu đáo, tình cảm phức tạp đa đoan.

Dương Liễu Mộc thuộc âm nên tính tình kín đáo, chỉ thiếu căn bản suy tư luôn luôn theo gió mà ngả nghiêng. Bén nhậy với thực tế, tâm không mấy chính trực. Dương Liễu Mộc khó là một người tâm phúc trung thành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dương Liễu Mộc - Gỗ của cây Dương Liễu

Câu chuyện tử vi với mục tiêu cải số mạng

Một bài viết chia sẻ quan điểm về cải số mạng của cụ Hoàng Hạc. Cụ viết chủ đề này rất hay!
Câu chuyện tử vi với mục tiêu cải số mạng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của cụ Hoàng Hạc

Học tử vi

Ông bạn tôi cố gắng lắm để học, nhưng rồi sau chịu thua ngay. Cứ hỏi tôi mãi: Tại sao học quá xá mà rồi không đoán được gì cả.

Tôi bảo:

- Tôi nghĩ học đồ này, chắc là phải có “khiếu” trước hết. Nếu không có khiếu, sợ khó học đến nơi đến chốn.

Anh bạn tôi:

- Tôi cứ tra ra, rồi ngồi đó nhìn như nhìn đám rừng! Tại sao anh nhìn sơ qua là thấy? Phải đợi anh đến chơi mới vác ra hỏi.

Tôi cười:

- Mỗi người mỗi có một sở trường. Có người giỏi xem về tai nạn, dường như họ có cái tài đoán về việc ấy mà thôi. Còn mấy việc khác họ đoán xoàng lắm. Cũng như có ông thầy coi tay, họ coi chuyên về tai nạn xe cộ, nói đâu trúng đó, nhưng về hôn nhân hay công danh thì không có gì đặc sắc cả. Tỉ như anh là y sĩ nhưng trước sau gì anh cũng chỉ chuyên về vài môn thôi. Ít có ai mà có tài bao quát vì cái học này có thể nói là vô cùng và học mãi sẽ thấy vẫn còn thiếu mãi. Mình cứ đi lần vào…và đến đâu hay đó.

Lý thú ở chỗ bàn cãi

Những ông nào tự cho là mình “tài” nhất, là người không đáng tin cậy. Tụi tôi thường hay hợp nhau đem một lá số ra để mà vấn nạn nhau. Khổ vì không có thầy thật giỏi để học, nên muốn học thì xúm nhau học với nhau. Nhưng học như vậy lý thú lắm.

Có khi quây quần bàn tán suốt cả đêm với nhau mà không thấy mệt. Cũng là một cuộc giải trí lành mạnh.

Học lấy Tử vi có nhiều cái lợi, không phải đi lấy số ăn tiền mà để xem cho con cháu trong nhà tìm cho nó một con đường đi đúng với khả năng.

Anh bạn Trung Hoa nói trên đây của tôi, gặp tôi thường nhắc:

- Dù sao, ngày nay tôi có được cái nghề và có cơm ăn áo mặc đầy đủ là do ảnh hưởng dẫn cho tôi, bằng không tôi đâu có biết tôi tài về khoa nào!

Tôi có mấy đứa cháu, đứa nào tôi cũng thử lấy một lá số. Và đến nay chúng đã trưởng thành, chưa có một đứa nào là đoán sai.

Bên cạnh nhà tôi có một vị tuần phủ (ở ngoài Bắc vào). Cụ rất tinh vi về Tử vi, lúc cụ còn là tuần phủ, ngoài việc quan, cụ chuyên học về Tử vi với mọi ông thầy Tử vi trong địa hạt ông cai trị. Bởi vậy ông đã móc ruột non ruột già của các cụ trong xứ. Cứ mỗi tuần vào chiều thứ bảy là qua nhà tôi cùng ngồi uống trà để đàm đạo về Tử vi. Thật lý thú hơn cái gì cả. Trong khi ấy lại bàn qua việc đời, việc nước, việc triết lý…ai đã từng nếm qua cái lý thú ấy sẽ thấy nó “mê ly” không biết chừng nào. Tử vi, tự nó chưa đựng một triết lý vô cùng sâu sắc vì cuộc đời mà các bậc chân tu không thể bỏ qua không khảo cứu.

Cái hay của Tử vi là cải được số

Là vì mình có thể “cải số” và từ cái “họa” đưa về cái “phúc”. Sau đây tôi sẽ thuật về việc “Xu kiết tỵ hung” và “cải thiện đời sống mình bằng lá số Tử vi”.

Nói về cái hay của lá số tử vi, đâu phải là vì nó cho ta biết họa phúc sẽ đến để mà “lo” hay mừng một cách thụ động. Nó còn có cái hay là chỉ đường cho mình “xu kiết và tỵ hung” nghĩa là sửa đổi được cái số mạng của mình.

Lá số của ông Ngô Đình Nhu

Một khi nọ, trước ngày đảo chánh 1-11-1963 có mấy anh bạn Tử vi xúm nhau bàn về lá số của ông Ngô Đình Nhu.

Ông Ngô Đình Nhu sinh năm Canh Tuất, tháng 9 ngày mùng 3, giờ Thìn; Mạng Kim, lập tại cung Ngọ, có Thiên Tướng Liêm Trinh ngộ Triệt.

Lá số giống từa tựa về đại cương lá số của Hàn Tín, xuất Tướng nhập Tướng, có phần làm lớn như Tướng Quốc. Nhưng Tướng Quân mà thiếu Quốc Ấn; nên làm vua mà không có Ấn. Sao Quốc Ấn lại ở cung Thê cho nên bị đàn bà nắm giữ quyền hành mất đi. Số “Thiên Tướng ngộ Triệt” là số tướng mà mất đầu, lại nữa ở cung Tật có Thiên Khôi Thiên Hình hạn lại gặp “Thương Hao “Thiên Không, Kiếp, thì vào hạn 53 trở lên, nên bỏ quan thì làm sao bị chết đâm chết chém. Hạn Thiên Không mà không vong thân, vong cả sự nghiệp làm sao được. Đó là lý luận của ông bạn B.

Nhưng ông bạn QT, lại nói:

- Đành là như vậy, nhưng nếu ông này chịu thối lui, bỏ quan mà đi ra xứ ngoài…như người ta mở đường thoát cho ông ta, thì cũng khó mà chết. Là vì cung Thiên Di đẹp lắm. Các sao “giải” ách đều ở đó. Nào là Phá Quân cư Tý, thì số muốn an thân nên xuất ngoại, vì cung này tam phương củng chiếu, có nào là Lộc Tồn (cung Phúc) Thiên Giải (cung thê) Thiên Phúc (cung Mạng) Giải Thần (cung Thiên). Xấu nhất là hai năm 53 và 54 tuổi. Đại tiểu hạn trùng phùng ngộ Kiếp Sát Thiên Không Địa Không, Địa Kiếp; theo phép thì Thiên Thọ, Thiên Tài (ẩn vào cung Thiên Di) che giấu được bổn mạng. Ít ra nếu ông ấy chịu thối lui và xuất ngoại thì sẽ không chết.

Ông bạn B…cãi lại:

- Chết! Tôi sợ không ai khuyên ông ta nghe đâu. Là vì Quốc Ấn ở cung Thê, có cả Thiên Tài thì ông này “sợ vợ” quá xá. Cung Thiên này lại còn bị cung Thê áp đảo, nên dù muốn nhượng bộ ra đi, thì cũng không đi nổi. Tướng Quân mà lệ thuộc Quốc Ấn ở cung Thê thì “bà hét” ông sẽ “xuôi lơ” đâu dám cãi. Huống chi cung mạng có Thiên Tướng ngộ Triệt chiếu thẳng vào e rằng ông ấy khó thoát.

Anh bạn QT bảo:

- Như vậy nghe có lý, nhưng nếu ông ta chịu nghe mà đi…thì tôi chắc chắn sẽ thoát nạn được.

Thật vậy, qua năm Mẹo (1963) người ta yêu cầu ông từ chức và xuất ngoại, ông vẫn cố không nghe. Rất tiếc nếu ông sáng suốt thì có lẽ Quốc dân không đến như ngày nay, và đó sẽ là một bằng cớ để chứng minh rằng “nhơn định thắng thiên” cũng là một đầu đề hay cho chúng ta bàn phiếm.

****

ÔNG NGÔ ĐÌNH NHU

  • Ông Ngô Đình Nhu, sanh năm Canh Tuất, tháng 9, mùng 3, giờ Thìn, mạng Kim, lập tại Ngọ, có Thiên Tướng, Liêm Trinh ngộ Triệt
  • Nếu chính ông Ngô Đình Nhu biết số tử vi, giỏi số tử vi, có thể ông đã biết được cách cải số mạng của ông để làm xấu thành tốt.
  • Nhưng cũng vì số mạng đã an bài, nên trời khoác vào tâm trí ông những tánh tình cương ngạnh, và sự cải số thật khó, trừ phi chính ông biết rõ lá số của ông.
  • Tiếc rằng các nhà cầm quyền đời nay lại chính mình không biết rõ khoa tử vi, hoặc không có quân sư tử vi thật tốt.

****

2 mặt trận tử vi: chuyện Hàn Tín và Trương Lương

Cuộc bàn cãi trở nên hào hứng vì 2 lập trường tư tưởng đã dàn mặt trận: một mặt trận cho rằng số mạng chứ không làm gì cải số được, một mặt trận chủ trương là có thể cải số.

Anh bạn B nói:

- Cái chủ trương của anh QT sai, vì trường hợp Hàn Tín cũng đã không cải số, thì “sức mấy” mà cải. Chẳng qua là đã muồi rồi thì ráng chịu. Hạn của Hàn Tín 32 tuổi, tiểu hạn ngộ Thiên Thương Hóa Kỵ, Thái Tuế, Kiếp, Không xung chiếu, còn đại hạn thì gặp Kình Đà xung chiếu…làm sao mà thoát khỏi tai họa ở cung Vị Ương, nếu anh nói tỵ hung thì trường hợp Hàn Tín “tỵ” ở cung nào?

Một anh bạn khác cùng phe bảo:

- Vô phương. Cái số mạng của con người phần lớn ở nơi cái (số bên trong) mà tôi gọi là (destinee interieure). Mình dù muốn cãi cũng không được. Như trường hợp Hàn Tín. Nếu Hàn Tín mà khôn ngoan, dĩ nhiên Hàn Tín đâu phải hạng người ngu phu ngu phụ, nhưng vì lòng tham danh của ông ta khiến ông ta không thể dừng ở chỗ nên dừng, vì vậy mà ông không chịu nghe lời Trương Lương. Hán Bái Công đâu có ưa gì Trương Lương, nhưng Trương Lương khuôn và biết dừng nơi lúc phải dừng, hành được cái chước (rút lui) để bảo toàn thân mạng. Trương Lương sinh năm Giáp Ngọ, tháng 5, ngày mồng 6, giờ Thìn Mạng Tử Phủ ở cung Dần, Thiên Di có Thất Sát (Thất Sát Dần Thân là ngon) nhưng cung tốt nhất vì có Thanh Long cư Thìn (tức là Long cư Long vị). Huống chi Mạng ngộ Lộc Tồn (chân nhân chi tú) thì bản thân không ai hại nổi. Đó là số, nên sở dĩ ông vẫn tìm tiên học đạo tuy là thất ngôn mà tựu trung lòng không tham luyến gì cả. Cho nên sở dĩ Trương Lương cũng là người mà Hán Cao Tổ cũng không muốn để yên song vì cái mạng trong và mạng ngoài ăn nhau nên không ai hại nổi. Có Trời mà cũng có Ta mà; Còn như Hàn Tín là sao Thiên Tướng thủ Mạng lại có cả Tướng Quân đồng cung thì quả là một võ tướng bất khuất, háo danh, háo thắng. Mạng ông Ngô Đình Nhu cũng vậy: không phải họ không hiểu rằn nếu họ rút lui thì êm đẹp, những Thiên Tướng có cái hay nhưng cũng có cái dở, lại không thể chịu thua ai, nhất là kèm có Liêm Trinh. Dù Thiên Tướng chế được cái ác của Liêm Trinh, nhưng chế mà không thể diệt nổi. Phải là bậc phi thường (Đại hùng, đại lực) như các bậc thánh thì mới thắng nổi lòng tự cao tự phụ của Liêm Trinh.

Anh bạn “triết lý” một hồi nghe khoái lỗ tai quá xá!

Nhưng anh QT liền chận lại:

- Thế thì anh cũng nhận là có thể thay đổi số mạng nếu mình có chí như các bậc Thánh, tại sao mình không lo “Tu”. Có ai mà tự nhiên sinh ra làm ông “Thánh” ngang chăng? Nếu Hàn Tín cũng như Ngô Đình Nhu biết dẹp cái lòng hiếu thắng tự cao tự đại của mình, và biết “công thành thân thối” thì quả quyết sẽ không làm sao bị giết. Cho nên cái tánh của mình nó rất liên hệ đến cái Mạng (số mạng) của mình.

Cho nên tôi nói “có trời mà cũng có ta”. Bằng không mình học làm gì mình tu để làm gì…, và bấy giờ con người là một trò chơi của tạo hóa hay sao? Số tử vi của ai mà không có hào Tử Tôn, vậy các ông thầy tu, họ cũng phải có con hết sao? Cái thuyết thụ động tin vào số mạng một cách tuyệt đối như các anh, nguy hiểm.

Bàn cãi với nhau về số mạng các bạn tôi đem các lá số xưa như của Hàn Tín Trương Lương rồi đến Hạng Võ, mà nói nghe thật “khoái” tai hết sức!

Nhưng rồi tôi đòi các bạn một kết luận.

Bạn QT nói:

- Thì kết luận rồi đó còn gì!

- Ở đâu?

- Thì ở chỗ “có trời mà cũng có ta”

- Nói vậy thì “nhân định thắng thiên” hay sao? Và như thế thì coi số để làm cái quái gì! Vô ích.

- Sao lại vô ích.

- Là vì rốt cuộc “Số Mạng” không trúng, coi làm gì?

- Có hai cách coi số, đi coi số để biết tương lai, tốt thì mừng, xấu thì buồn. Như vậy vô ích, thà đừng biết gì cả còn hay.

Tôi ngắt ngang:

- Nên đặt lại vấn đề. Anh bảo rằng đi coi bói để biết tốt xấu, tốt thì mừng mà xấu thì buồn, tôi e không đúng.

- Sao không đúng?

- Anh nói vậy là anh chưa đi guốc trong bụng các người đi coi bói. Họ đi coi, nhưng không phải họ tin mà coi, mà thật sự họ đi coi bói là để tìm an ủi. Nếu thầy bói nói họ tốt, họ mừng và đặt hết hy vọng là họ sẽ thành công, đó là cách để khuyến khích họ hăng hái trong việc làm của họ thêm. Cái đó tốt lắm. Dù thầy bói có nói trật đi nữa nhưng người đi coi mong được thế, và đặt hy vọng cho việc làm của mình để thành công. Còn rủi việc ấy hỏng thì họ cũng bỏ qua. Bất quá “rủa” ông thầy nói “ẩu” rồi thôi. Chứ làm gì họ. Trái lại nếu thầy bói nói xấu, họ đâu có buồn lo. Họ không nói ra, nhưng vẫn hy vọng rằng bói là láo, tin sao nổi. Họ cũng cứ làm như thường vì họ hy vọng rằng thầy bói sẽ nói sai. Có khi họ đả phá thầy bói để lừa dối họ rằng bói là láo.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu chuyện tử vi với mục tiêu cải số mạng

Cách đơn giản lựa chọn vật phẩm may mắn cho bản thân

Nhiều gia chủ đưa ra câu hỏi: Làm cách nào để lựa chọn vật phẩm may mắn cho bản thân? Câu trả lời đúng nhất là dựa vào mệnh lý và mục đích sử dụng.
Cách đơn giản lựa chọn vật phẩm may mắn cho bản thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều gia chủ đưa ra câu hỏi: Làm cách nào để lựa chọn vật phẩm phong thủy may mắn cho bản thân? Câu trả lời đúng nhất là dựa vào mệnh lý và mục đích sử dụng của gia chủ.

 
Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh
 
1. Vật phẩm may mắn lưu niên
Mặt dây Hắc diện thạch Tỳ Hưu vượng vận, vòng dây Tam Hợp cục thạch anh trắng, mặt dây Quan Âm Bồ Tát, Tỳ Hưu Hắc diện thạch hanh thông tài vận,…
2. Chiêu tài vượng tài

Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh 2
 
Vật phẩm may mắn chiêu tài phải kể đến: phụ kiện Tỳ Hưu chiêu tài bằng tụ ngọc, Bát tụ bảo hoàng ngọc, vòng tay Tỳ Hưu thạch anh vàng, Thiềm Thừ bằng đồng,…
Ngắm những bức ảnh tuyệt đẹp về Tết Hà Nội xưa
Hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến xuân về là nhiều người lại có những cụm từ so sánh “tết ngày xưa vui hơn, tết ngày xưa không có cái này, ngày xưa thường.... Hãy
3. Thăng quan tiến chức

Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh 3
 
Hắc diện thạch thăng quan, Phúc Phật như ý cát tường, phụ kiện Tỳ Hưu bằng tụ ngọc vượng quan vận,…   4. Cầu học vấn

Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh 4
 
Gia chủ muốn con em mình đạt được thành tích học tập cao trong năm mới, có thể xem xét các vật phẩm: Tháp Văn Xương, Ngao đầu Hắc diện thạch, ống đựng bút hình Tháp Văn Xương    5. Cầu bình an

Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh 5
 
Hồ Lô ngũ hành thạch anh, gậy Như ý đỏ, Đồng xu ngọc thạch đỏ, …   6. Cầu tình duyên

Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh 6
 
Để cầu tình yêu đôi lứa lưỡng tình tương duyệt, kim ngọc lương duyên, đầu bạc giai lão, hãy sử dụng vòng tay đá dâu tây, mặt dây hồ ly đá phù dung, Tỳ Hưu đá đỏ.
7. Đi xe ô tô
Cach don gian lua chon vat pham may man cho ban than hinh anh 7
 
Để chuyến đi bình an, gia chủ có thể tham khảo vật phẩm phong thủy: phụ kiện khắc Thần Chú bình an Hắc diện thạch, Dây treo Quan Âm giải ác giữ bình an bằng gỗ, Gỗ đào long phụng cát tường, Thạch anh thiên nhiên 

Chi Nguyễn

Xem Clip tìm câu trả lời: Tiêu chí đầu năm?
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đơn giản lựa chọn vật phẩm may mắn cho bản thân

Phải chăng đinh mệnh là có thật?

Số phận hay định mệnh luôn là một lĩnh vực bí ẩn, chưa ai có thể giải đáp hay chạm tới. 3 câu chuyện dưới đây phần nào cho thấy sự kì lạ của vòng xoay tạo hóa.
Phải chăng đinh mệnh là có thật?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Số phận hay định mệnh luôn là một lĩnh vực bí ẩn, chưa ai có thể giải đáp hay chạm tới. 3 câu chuyện dưới đây phần nào cho thấy sự kì lạ của vòng xoay tạo hóa. 


Phai chang dinh menh la co that hinh anh
 
1. Em trai của người ám sát Abraham Lincoln cứu mạng con trai của Lincoln

Edwin Booth đã cứu mạng Robert Todd Lincoln, con trai của Abraham Lincoln, khỏi một tai nạn xe lửa. Robert bị ngã ở một nhà ga xe lửa tại New Jersey, và Booth đã kéo anh lên khỏi đường ray.
 
Không lâu sau sự cố đó, anh trai của Booth, John Wilkes Booth đã ám sát Abraham Lincoln. Tạo hóa quả thật xoay vòng.
 
2. Mark Twain với sao chổi

Sao chổi Halley di chuyển với một quỹ đạo lặp lại với trái đất khoảng mỗi 75 năm. Sao chổi đã tới gần trái đất và xuất hiện trên bầu trời khi văn hào Mark Twain ra đời năm 1835. John H. Lienhard, giáo sư lịch sử tại Đại học Houston, trích dẫn những tiên đoán của Twain:
 
“Tôi đã đến cùng với sao chổi Halley. Nó sẽ trở lại nơi đây, và tôi kỳ vọng sẽ ra đi cùng nó. Thượng Đế toàn năng đã nói, và không còn nghi ngờ gì nữa: Giờ đây có hai sự kiện kỳ dị, chúng đến cùng nhau, chúng phải ra đi cùng nhau”. Tiên đoán của Twain đã trở thành hiện thực, ông qua đời ngày 21/4/1910 khi sao chổi Halley di chuyển tới gần Trái đất lần thứ hai như một định mệnh.

3. Hai anh em song sinh bị tách rời từ nhỏ sống cuộc đời giống hệt nhau

Hai anh em song sinh bị tách rời từ nhỏ và được 2 gia đình khác nhau nhận nuôi nhưng có số phận gần như không khác biệt. Cả hai gia đình, không hề biết nhau, đều đặt tên đứa con nuôi là James. Cả hai cậu bé sau này đều vào làm trong ngành cảnh sát. Cả hai cưới các phụ nữ có tên là Linda, ly dị rồi tái hôn. 
 
Cả hai đều tái hôn với các phụ nữ tên là Betty. Một người đặt tên con trai mình là James Alan, người kia đặt tên con trai là James Allan. Chỉ tới khi gặp nhau họ mới biết những chuyện đó. Câu chuyện của họ được kể lại trên tạp chí People.  
► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Theo tinhhoanet

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phải chăng đinh mệnh là có thật?

Phụ nữ mang thai có nên đi tảo mộ tiết Thanh Minh?

Đó là một trong những thắc mắc thường thấy về những điều kiêng kị phong thủy khi đi tảo mộ tết Thanh Minh. Cùng lichngaytot.com tìm hiểu rõ phong tục này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Phụ nữ mang thai không nên đi tảo mộ

Nơi tảo mộ có âm khí nặng, sẽ ảnh hưởng không tốt tới phụ nữ mang thai. Bên cạnh đó, việc đi tảo mộ thường rất đông đúc, khó tránh tình trạng va chạm nhẹ, vì an toàn của thai phụ và thai nhi, tốt hơn hết nên tránh việc đi tảo mộ.

tao mo kk1
 
2. Không nên chụp ảnh khi tảo mộ

Mục đích đi tảo mộ là để lễ tạ tổ tiên, không phải là trò đùa. Có thờ có kiêng, có thiêng có lành, khi đi tảo mộ, cần thể hiện thái độ tôn kính với người đã khuất, không nên chụp ảnh tập thể, thậm chí ảnh quang cảnh quanh đó cũng không được, kẻo sẽ nhiễm trường khí không tốt, gây mất cân bằng âm dương, ảnh hưởng xấu tới vận thế của mỗi người.

3. Sức khỏe yếu không nên đi tảo mộ


Nếu đang mắc bệnh hoặc cơ thể suy nhược, tốt nhất bạn không nên cùng người nhà đi tảo mộ. Bởi khi sức khỏe suy yếu kéo theo vận thế cũng ảm đạm, dễ thu hút sự xui xẻo, hỉ khí giảm sút, nhân khí khuyết thiếu, bệnh càng thêm nghiêm trọng.

tao mo kk2
 
4. Cỏ dại mọc ở phía đầu phần mộ, cần phải loại bỏ


Khi đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh, nếu thấy phần đầu mộ (chỗ đặt bia mộ) có cỏ dại mọc, cần phải loại bỏ, dọn dẹp sạch sẽ.

Bản thân từ “tảo mộ” cũng mang hàm ý dọn dẹp những vật gây bất lợi cho mộ phần tổ tiên. Phía đầu bia mộ mà bẩn, nhiều cỏ dại mọc cũng ảnh hưởng không tốt tới vận khí, sức khỏe của con cháu đời sau.

5. Kị đùa cợt, mắng chửi, phỉ báng người đã khuất


Không ít gia đình mang cả con, cháu nhỏ đi tảo mộ cùng. Lúc đầu không khí khá trang nghiêm, nhưng khi gần kết thúc quá trình tảo mộ thì lại đùa cợt hay tranh giành, mắng cãi chửi nhau. Điều đó thể hiện sự bất kính, làm phiền tới âm linh người đã khuất, nói xa hơn, có thể bị báo ứng.

Ngoài ra, nên nhớ, không được có những hành động phỉ báng người đã khuất như dẫm đạp lên mộ phần, đá đồ cúng trên mộ... Điều đó sẽ mang lại điều không may mắn cho bản thân.

6. Thời gian tảo mộ

Nên đi tảo mộ vào thời điểm mà dương khí khá vượng, từ 9h sáng tới khoảng trước 3h chiều. Lúc trước 9h sáng và sau 3h chiều, âm khí dần tăng lên, không tốt cho những ai đang có vận khí xấu hay sức khỏe suy giảm.

Hoàng Lam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ mang thai có nên đi tảo mộ tiết Thanh Minh?

Phụ nữ như nào là khắc chồng –

Trong phong thủy có cách nhận biết như nào cho người phụ nữ khắc chồng không ạ? Mình có nghe nói nhiều đến vấn đề này nhưng lại thiếu thông tin, các bạn cung cấp cho mình chút thông tin với ạ? Mình rất cảm ơn ạ! Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rấ
Phụ nữ như nào là khắc chồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phụ nữ như nào là khắc chồng –

Bố cục căn nhà tọa Bính hướng Nhâm –

Bố cục căn nhà toạ Bính hướng Nhâm: Tài vận và sức khoẻ vận tương đối bình ổn, không có thay đổi to tát. Tài vận: Hướng Bắc của căn nhà là hướng vượng khí tài thần, nên đặt vật phong thuỷ như đồng tiền ngũ đế, tỳ hưu ở vị trí này để tăng cường tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục căn nhà toạ Bính hướng Nhâm: Tài vận và sức khoẻ vận tương đối bình ổn, không có thay đổi to tát.

Tài vận: Hướng Bắc của căn nhà là hướng vượng khí tài thần, nên đặt vật phong thuỷ như đồng tiền ngũ đế, tỳ hưu ở vị trí này để tăng cường tài vận.

p42

Sức khỏe nhân đinh: Hướng Bắc của phòng khách là vị trí vượng khí của Đinh thần, đặt nồi cơm điện ở đấy cực kỳ tốt cho sức khoẻ. Ngoài ra, hướng Tây Nam của phòng khách là hướng sinh khí của Đinh thần, ta cũng có thể đặt nồi cơm điện tại vị trí này để có lợi cho sức khoẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục căn nhà tọa Bính hướng Nhâm –

Luận giải vận số của người tuổi Thân theo giờ sinh

Người tuổi Thân sinh sinh giờ Tý hay bị tiểu nhân quấy rối, sự nghiệp tuy có phát đạt nhưng chức vị bị khắc chế nên khó thăng tiến.
Luận giải vận số của người tuổi Thân theo giờ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Sinh giờ Tý (23-1h):
Thân mệnh Kim sinh Tý mệnh Thủy. Người sinh giờ này hay bị tiểu nhân quấy rối, sự nghiệp tuy có phát đạt nhưng chức vị bị khắc chế nên khó thăng tiến.

(Hình minh họa)

Sinh giờ Sửu (1-3h): Sửu mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Người sinh vào giờ này cuộc đời thuận buồm xuôi gió, mọi sự tốt đẹp, uy danh lừng lẫy.

Sinh giờ Dần (3-5h): Thân mệnh Kim khắc chế Dần mệnh Thổ. Người sinh giờ này có số làm quan lớn nhưng vận mệnh trôi nổi, hữu danh vô thực.

Sinh giờ Mão (5-7h): Thân mệnh Kim khắc chế Mão mệnh Mộc. Nhờ sao Tử Vi chiếu mệnh nên cuộc đời tuy có lúc thất bại nhưng cũng vượt qua gian khổ. Người này có số may mắn, gặp hung hóa cát.

Sinh giờ Thìn (7-9h): Thìn mệnh Thổ sinh Thân Mệnh Kim. Người sinh vào giờ này tài năng nổi trội, mọi việc đều tốt đẹp. Tuy nhiên, một điều không may là bị sao Thiên Tuế chiếu mệnh nên dễ bị phá tài.

Sinh giờ Tỵ (9-11h): Tỵ mệnh Hỏa khắc chế Thân mệnh Kim. Người sinh giờ này số được quý nhân phù trợ trong sự nghiệp. Đôi khi, họ gặp chuyện cãi cọ rắc rối nhưng nhờ sao Thiên Đức chiếu mệnh nên điều xấu được hóa giải.

Sinh giờ Ngọ (11-13h): Ngọ mệnh Hỏa khắc chế Thân mệnh Kim. Người sinh vào giờ này ít may mắn, cả đời phải âu lo.

Sinh giờ Mùi (13-15h): Mùi mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Người này trong đời dễ mắc bệnh tật, nhân duyên khó được thuận hòa, êm ấm.

Sinh giờ Thân (15-17h): Tuổi Thân sinh giờ này là người nghĩa hiệp nhưng dễ bị tổn thương, trong đời có nhiều niềm vui. Tuy nhiên, cần cẩn trọng trong việc kết giao bạn bè để tránh phải lao tâm, suy nghĩ.

Sinh giờ Dậu (17-19h): Thân mệnh Kim sánh với Dậu mệnh Kim. Người sinh giờ này cuộc đời nhiều u ám, dễ trở thành kẻ chơi bời, phá phách.

Sinh giờ Tuất (19-21h): Tuất mệnh Thổ sinh Thân mệnh Kim. Người sinh giờ này cuộc đời gặp nhiều khó khăn, ưu phiền.

Sinh giờ Hợi (21-23h): Thân mệnh Kim sinh Hợi mệnh Thủy. Người này có số trắc trở, bị tiểu nhân quấy phá, dễ gặp chuyện kiện tụng, sự nghiệp đôi lúc bị thất bại. May nhờ được sao Thái Dương chiếu mệnh nên vận xấu được hóa giải.

Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà

 

 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Thân theo giờ sinh

Mơ thấy châu chấu: Nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm –

Châu chấu bay đến đâu, nơi đấy không còn màu xanh sự sống, tượng trưng tốc độ lan nhanh của bệnh truyền nhiễm. Mơ thấy châu chấu bay thành đàn, có nghĩa là nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm. Mơ thấy châu chấu bị tiêu diệt, nghĩa là bệnh truyền nhi
Mơ thấy châu chấu: Nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy châu chấu: Nơi ở sẽ xuất hiện bệnh truyền nhiễm –

Chùa Phúc Khánh - Hà Nội

Chùa Phúc Khánh có tên gọi khác là Chùa Sở. Chùa Sở được coi là nơi linh thiêng thu hút hàng vạn tín đồ phật giáo về cầu an, giải hạn mỗi năm
Chùa Phúc Khánh - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Phúc Khánh nằm tại số 382 phố Tây Sơn, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, TP. Hà Nội. Chùa được Đại đức Thích Minh Định (Thanh Quyết) trụ trì.

Chùa Phúc Khánh có tên gọi khác là Chùa Sở. Chùa Sở được coi là nơi linh thiêng thu hút hàng vạn tín đồ phật giáo về cầu an, giải hạn mỗi năm. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1988.

Chùa được dựng vào thời Hậu Lê. Vào thời Lê, chùa là cơ sở đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Sau đó gặp hỏa hoạn bị hư hỏng hoàn toàn. Có tài liệu cho chùa nằm trong khu vực diễn ra trận đánh Đống Đa năm 1789 nên bị đổ nát, sau được nhà sư Chiếu Liên xây dựng lại với sự hổ trợ của Đô đốc Trần Văn Lễ (thời Tây Sơn) đã từng ém quân ở chùa. Ông còn cho đúc quả đại hồng chung và pho tượng Cửu Long cúng chùa.

Chùa qua nhiều lần trùng tu, xây dựng vào các năm 1853, 1921, 1932, 1935, 1940, 1993, 1996, 1998. Đặc biệt, năm 1940, Hòa thượng trụ trì Thích Trung Thứ đã cho kiến thiết ngôi chùa, làm cơ sở đào tạo tăng tài, điểm An cư kiết hạ hàng năm của chư Tăng.

Năm 1950, dân làng đã góp công góp của xây dựng ngôi chùa ngày nay. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. ở đây có 20 pho tượng có giá trị nghệ thuật cao. Chùa có 21 tấm bia đá, tấm cổ nhất là năm 1698; 3 đại hồng chung, chuông cổ nhất đúc năm 1796; 14 bộ bao lam (cửa võng) và các đồ thờ khác như bát hương đồng, long ngai, nhang án…

Chùa Phúc Khánh là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng ở Hà Nội, dịp đầu xuân mỗi năm có hàng ngàn người đến dâng sao giản hạn ở đây. Vào ngày rằm, mùng 1, rất đông khách thập phương tới chùa. Nếu muốn được tĩnh tâm hay ngắm cảnh thì bạn nên đến chùa vào ngày thường để không phải chen lấn xô đẩy. Phật tại tâm, miễn là thành tâm thì đi chùa ngày thường cũng tốt như ngày rằm, mùng 1. Khi đi lễ chùa bạn cũng nên ăn chay cho tâm hồn thanh thản. Gần chùa Phúc Khánh có một quán chay khá ngon là An Phúc (Quán nằm ở số 11 ngõ 131 Thái Hà, cách chùa Phúc Khánh gần 1km).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Phúc Khánh - Hà Nội

Xem tướng qua sắc khí –

Sắc khí của Diện tướng cũng là phần tham khảo quan trọng trong khi xem xét hình tướng một ai. sắc khí thể hiện ở mặt là đại diện và dễ dàng nhận thấy. Nhưng sắc khí thuộc “duy biến” và cả “thường biến”. Tuy nhiên muôn định được những thông tin thì ta

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉ để ý đến “duy biến” sắc diện khi người đó đang ổn định, khỏe mạnh. Như vậy sắc khí chỉ nặng về tham khảo.

1397838897_news_92

1. Sắc khí bị thường biến (hay thay đổi) nên cho ta nhận định nhất thời mà thôi, như do: Bệnh, thời tiết, sự kiện… ví dụ như bệnh tật. Nó có giá trị cho các thầy thuốc chẳng hạn:
– Da vàng khè, đột nhiên trên hình thể yếu kém là dấu hiệu bệnh gan, sốt rét v.v…
– Da sám đen: nhiễm độc nặng v.v… Về tướng sắc khí, ta không quan tâm đến khía cạnh đó nhiều. Và sau đây là những biểu hiện tướng sắc: hay, dở, thiện, ác, được, mất.

2. Các tướng sắc khí duy biến (thay đổi do mệnh số).
– Tướng sắc khí có hai phần: sắc là màu sắc của da mặt. Trong đó quan tâm đến sắc tổng thể của mặt và của ngũ nhạc, ngũ quan, gò, tiểu khu…
– Khí lại có hai phần nhỏ:
+ Thần khí của mặt tổng thể và thần khí của năm giác quan và năm nhạc.
+ Khí là hơi thở ra của người đó thường xuyên “duy biến” và đột biến (đột ngột).

3. Sắc tương đối ổn định – duy biến gồm:
– Sắc mặt tổng thể:
+ Trắng trẻo tươi nhuận: Tướng phong lưu, thiện tâm.
+ Đen sạm: tâm đức không thiện, mưu mô.
+ Hồng phớt hai lưỡng quyền: Nặng tình cảm luyến ái. sắc này người ta gọi là sắc hoa đào.
+ Sắc nhạt, mặt phình phình: Người dâm loạn, nhẫn tâm, kẻ “tú bà” như cụ Nguyễn Du nói trong truyện Kiều.
+ Mặt đỏ tía: Nghĩa khí dũng cảm.
+ Mặt trắng bệch: Yểu tướng (không thọ).
+ Mặt vàng bóng: Quý, hiền nhân.
+ Mặt xanh ngắt: Yểu tướng, ốm yếu đôi khi là tài nhân.
+ Mặt xanh sạm: Bệnh hoạn, vô lối
Da vàng bình thường là da đặc trưng của người Việt Nam, nó không mang tính khí điển hình và không tham khảo vào tướng lý.

4. Sắc da “thường biến” – thường thay đổi theo nội tạng bị bệnh tật hay do thời khí, do tác nhân kích thích nên không đề cập trong tướng sắc như khi:
– Giận dữ thì sắc mặt hoặc đỏ bừng bừng ở người mệnh Hỏa. Hoặc tái mét ở người mệnh Kim.
– Giận mà nét mặt, sắc mặt không thay đổi là người cực kỳ nguy hiểm, thù dai và hay báo thù.
– Trời nóng thì sắc da hồng hào.
– Trời lạnh thì sắc da nhạt sỉn.
– Uống quá nhiều rượu thì hoặc đỏ gay hoặc tái mét.
– Sợ sệt thì sắc mặt tái sám, tái mét…
Đó là sắc diện bị kích ứng do các loại kích thích không cần quan tâm trong tướng pháp.

5. Trong y học thì Đông, Tây y đều quan tâm sắc khí:
Hải Thượng Lãn Ông viết trong “Đạo y dự vận” rằng:
Con hư thì cướp hai khí của mẹ, cho nên phế hư thì sắc mặt trắng khô, da nhăn lông rụng…” (Phần bàn về y lý – Hải Thượng Lãn Ông).
Người Tây cùng bàn về sắc diện và bệnh lý (Bác sỹ Joself Renald) ông là một bác sỹ gốc Áo (Autralia) là một bác sỹ, đa tài, giỏi về giải phẫu mà còn rất dam mê tướng pháp. Ông có nhiều tác phẩm liên quan và gắn kết cả hai lĩnh vực này. Bệnh lý và tướng pháp (patholofique và Anatolie pathologique et physiognomie et horoscopie) (… malade fait changer la couluer de la figuré…) (đau ốm làm thay đổi sắc da mặt).

6. Khí
Khí: ở đây tướng pháp quan tâm cả thần khí. Duy biến và thường biến, cả hơi thở, khí đột biến và duy biến.
– Thần khí không nên hiểu là “thần thái” sự kết hợp giữa thần khí và thái – phong thái.

7. Thần khí: Người có thần khí tốt thì ung dung, điềm đạm. Người ta hay nói câu: “Mặt thất thần” (mặt như kẻ mất hồn). Và “mắt có thần” nghĩa là nhìn vào đôi mắt: Sáng và sống động ngược với đôi mắt “đờ đẫn” mất “ngơ ngác”, ngái ngủ. Đấy là cái gọi là có thần khí, hay không còn thần khí.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua sắc khí –

Hình dạng ngón chân nhìn thấu con người bạn

Theo một số nghiên cứu, độ dài và hình dạng của ngón chân có thể nêu đặc điểm nổi trội về con người bạn.
Hình dạng ngón chân nhìn thấu con người bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban
hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban-1
hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban-2
hinh-dang-ngon-chan-nhin-thau-con-nguoi-ban-3

Mộc Trà (theo Avenue)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dạng ngón chân nhìn thấu con người bạn

Lựa chọn hình dáng giường ngủ theo thuyết Ngũ hành –

Lựa chọn hình dáng của giường ngủ theo thuyết Ngũ hành là một trong những yếu tố quan trọng mang đến giấc ngủ ngon cho người sử dụng. Theo thuyết Ngũ hành, mỗi hình dáng đều gắn với 1 trong 5 yếu tố cơ bản của Ngũ hành. Khi chọn giường hợp phong thủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lựa chọn hình dáng của giường ngủ theo thuyết Ngũ hành là một trong những yếu tố quan trọng mang đến giấc ngủ ngon cho người sử dụng.

Theo thuyết Ngũ hành, mỗi hình dáng đều gắn với 1 trong 5 yếu tố cơ bản của Ngũ hành. Khi chọn giường hợp phong thủy, bạn cũng nên quan tâm đến hình dáng của đầu giường. Bởi kiểu dáng đầu giường có thể kết hợp hài hòa với mệnh của người ngủ giúp mang lại vận khí tốt cho căn phòng. Ngược lại, nếu sử dụng những hình dáng đầu giường “khắc” với mệnh của người ngủ sẽ gây nên nhiều điều bất lợi về khí vận cho người ngủ trên giường.

giupong-ngu

Dựa vào thuyết Ngũ hành, chúng ta có thể chọn những kiểu dáng đầu giường cơ bản ứng với các yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ như sau:

Mệnh Kim ứng với hình tròn, hình bán nguyệt, hình cung

Mệnh Mộc ứng với hình chữ nhật

Mệnh Thủy ứng với hình sóng nước

Mệnh Hỏa ứng với hình nhọn, hình quả trám

Mệnh Thổ ứng với hình vuông

Sự kết hợp giữa hình dáng đầu giường với mệnh người ngủ theo thuyết Ngũ hành:

Khi bạn là mệnh Mộc, nên chọn hình dáng đầu giường hình chữ nhật hoặc hình sóng nước.

Khi bạn là mệnh Hỏa, nên chọn hình dáng đầu giường hình chữ nhật hoặc hình quả trám, hình nhọn.

Khi bạn là mệnh Thổ, nên chọn hình dáng đầu giường hình vuông hoặc hình quả trám, hình nhọn.

Khi bạn là mệnh Kim, nên chọn hình dáng đầu giường hình vuông hoặc hình tròn.

Khi bạn là mệnh Thủy, nên chọn hình dáng đầu giường hình tròn hoặc hình sóng nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn hình dáng giường ngủ theo thuyết Ngũ hành –

Sự sống sau cái chết

Ngưỡng cửa của nguồn là im lặng. Nhưng bạn phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực sinh ra. Ở đó bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ tồn tại, ý thức và tiềm năng cho các rung động nảy sinh.
Sự sống sau cái chết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhà khoa học kể lại câu chuyện tâm linh
(Đọc trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được  tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010).

(Ông nói: Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện).
Câu chuyện, đã trở thành nổi tiếng trong tài liệu cận tử, thuộc về một nghệ sĩ tên là Mellen-Thomas Benedict chết vì u não năm 1982. Việc ông chết một tiếng rưỡi rồi hồi tỉnh thật không thể tin được đối với các tiêu chuẩn phương Tây. Trong Phật giáo Tây Tạng ông có thể được coi là một delog, và các kinh nghiệm của Benedict chi tiết như mọi câu chuyện của  các delog khác. Tôi sẽ kể chi tiết câu chuyện này vì cuộc du hành của Benedict thực sự đã cung cấp cả một bách khoa toàn thư về cõi sau sự sống.    
Ông phát hiện ra mình ở bên ngoài thể xác, nhận biết rằng thi thể vẫn nằm trên giường. Lĩnh hội mở rộng-ông có thể nhìn bên trên, xung quanh và bên dưới ngôi nhà của mình-và ông cảm thấy mình bị bao bọc trong bóng tối, nhưng chẳng bao lâu một ánh sáng chói lòa trở nên rõ rệt. Ông di chuyển về hướng ánh sáng, biết rằng nếu rơi vào đó ông sẽ chết.
   
Tại điểm này, Benedict đã ra một quyết định kinh ngạc. Ông đề nghị kinh nghiệm dừng lại và nó dừng lại. Việc ông tìm cách khống chế những gì xảy ra sau cái chết có thể không làm một rishi ngạc nhiên, nhưng nó gần như duy nhất trong tài liệu cận tử.

Benedict ra lệnh dừng lại như vậy để ông có thể nói chuyện với ánh sáng. Trong khi ông hành động như vậy, ánh sáng thay đổi hình dạng liên tục, khi thì tạo nên hình Chúa Trời hay đức Phật, khi thì chuyển thành các hình thù phức tạp như đàn tràng mandala hoặc các hình ảnh nguyên bản và các kí hiệu như ông muốn.

Ánh sáng nói với ông (hay chính xác hơn là truyền thông tin vào tâm trí ông) rằng người chết được cho “một vòng liên hệ ngược” của các hình ảnh tương xứng với hệ thống tín ngưỡng riêng họ: tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn thấy các hình ảnh Thiên Chúa giáo, Phật tử nhìn thấy các hình ảnh Phật giáo… Là một cái vòng, người chết có thể đi vào bên trong kinh nghiệm và tạo hình nó, như Benedict đã làm. (Ánh sáng giải thích rằng ông là một ca hiếm; đa số người ta đi tiếp mà không hỏi gì cả).
   
Việc Benedict nhìn thấy nhiều hình ảnh hoán đổi nhau có thể liên quan tới niềm say mê các tôn giáo và truyền thống tâm linh của thế giới sau khi ông bị chẩn đoán mắc ung thư. Sau đó Benedict nhận ra cái ông nhìn thấy thực ra là ma trận Bản Ngã Tối Cao, mà ông mô tả là “mandala của linh hồn con người”; chính là hình mẫu vũ trụ của ý thức.

Ông nhận ra mỗi người có Bản Ngã Tối Cao là siêu linh mà cũng là kinh mạch trở về nguồn. Những thuật ngữ này, gần như không thay đổi, nghe giống Vedanta thuần túy. Điều này gây nên sự ngờ vực, bởi vì Benedict có thể bị các kinh sách Ấn Độ ông đọc cách đó không lâu ảnh hưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, về phía ông, kinh nghiệm đã trải qua là hoàn toàn bột phát và hiện thực.   


 
Chăm chú nhìn ma trận của các linh hồn, Benedict nhận ra là tất cả chúng liên kết với nhau; nhân loại hình thành một tồn tại; mỗi chúng ta là một khía cạnh của tổng thể này. Ông bị lôi kéo vào cái ma trận mà ông mô tả là đẹp không tả xiết. Nó toát ra một tình thương trị liệu và bổ dưỡng xâm chiếm ông. Ánh sáng truyền đạt tới ông rằng ma trận linh hồn hình thành một mức năng lượng vi diệu bao bọc quanh trái đất và ràng buộc mọi người lại với nhau.

Benedict đã mất hàng chục năm dồn hết tâm trí vào lĩnh vực giải trừ vũ khí hạt nhân và sinh thái học, nhưng vấn đề khó khăn khiến ông hết sức bi quan. Ông nói giờ đây ông được đối diện với vẻ đẹp thuần khiết của mỗi linh hồn con người và thật bàng hoàng.    
Ông đặc biệt kinh ngạc khi không có linh hồn nào chứa đựng cái ác, và ánh sáng cho ông biết linh hồn không thể nào độc ác di truyền. Sự kiếm tìm tình yêu nằm trong mọi hành vi của con người, và khi người ta bị lôi kéo vào những hành vi tồi tệ, nguyên nhân gốc rễ là thiếu tình thương. Khi ông hỏi như thế có phải là nhân loại có thể được cứu rỗi, một hồi kèn vang lên trong ánh sáng xoáy ốc, và Benedict được nhắn nhủ rằng chớ bao giờ quên câu trả lời: loài người đã được cứu rỗi, dù cho tình hình hiện tại có vẻ kinh khủng đến thế nào đi chăng nữa.
   
Benedict trải nghiệm sự khoan khoái tột độ khi ông bị hút sâu hơn vào ánh sáng, đạt tới vùng khác vi diệu hơn và bao la hơn nhiều. Ông nhìn thấy một “dòng ánh sáng khổng lồ, thoáng đạt và chan chứa sâu trong trái tim sự sống”. Khi ông hỏi cái gì đấy, ánh sáng trả lời rằng đó là dòng sông sự sống và ông cần uống nước từ đó để trái tim mình thỏa mãn.
   
Tràn ngập nỗi tò mò vô hạn, bây giờ ông xin ánh sáng hé mở cho ông cả vũ trụ “phía sau mọi ảo ảnh nhân loại”. Ông được đề nghị cưỡi lên dòng sự sống, và khi thực hiện, ông vừa vượt qua một đường ngầm và nghe thấy “những tiếng động nhẹ nhàng”. Tốc độ của ông vượt quá tốc độ ánh sáng khi ông rời khỏi hệ mặt trời, xuyên qua tâm giải Ngân hà, và nhận biết vô số thế giới và nhiều hình thái sự sống, tất cả trong một sự hối hả chóng mặt. Ở đây Benedict có một phát hiện quan trọng, rằng điều tưởng như là du hành xuyên qua vũ trụ thực ra chỉ là mở rộng ý thức của chính mình. Sự hiện diện của các ngân hà và tinh vân lướt qua chính là ý thức của ông trôi qua hết giới hạn không-thời gian này đến giới hạn khác.
   
Benedict mô tả toàn bộ các dải ngân hà mất hút vào một điểm, về các hình thái sự sống bộc lộ sự tồn tại của chúng, về một ánh sáng thứ hai chứa đựng mọi rung động trong vũ trụ. Theo các rishi Veda, đó là các rung động nguyên thủy mà từ đó vạn vật xuất hiện, có nghĩa là Benedict đã là nhân chứng của chính hoạt động ý thức. Benedict đã tìm được ngôn ngữ riêng của mình cho giai đoạn này, khi nói rằng ông đối mặt với hình ảnh ba chiều của vũ trụ.
   
Khi đi vào vùng ánh sáng thứ hai, ông thể nghiệm sự chuyển biến sang im lặng và tuyệt đối bất động. Có một điều xảy ra là ông có thể nhìn thấy vô tận. Ông ở trong trống rỗng, hoặc là tiền sáng thế như cách ông gọi, và ý thức của ông vô hạn. Ông đã tiếp xúc với cái tuyệt đối không phải là một kinh nghiệm tôn giáo mà là một trong những nhận thức không ràng buộc. Ông nhận thấy vạn vật tự phát sinh không có bắt đầu hay kết thúc. Thay vì một Big Bang, sự kiện duy nhất đã tạo ra vũ trụ, Benedict nhận thấy hàng triệu Big Bang liên tục sản sinh ra những vũ trụ mới. Bởi vì ông ở ngoài thời gian, điều này xảy ra đồng thời ở khắp mọi hướng.
   
Sau khi đạt đến sự diện hiện vũ trụ này, cuộc du hành của Benedict tự quay về, từng bước một, và ông thức dậy trên giường mình tại nhà với nhận thức không lay chuyển, giờ đây rất giống trong tài liệu kinh nghiệm cận tử, rằng cái chết là ảo giác.
   
Ông Benedict đã đồ rằng sẽ trở về cõi trần là một đứa bé, với một kiếp sống mới. Thế nhưng khi mở mắt ra, ông vẫn có cơ thể cũ, cái cơ thể đã chết hơn một tiếng đồng hồ theo lời kể của nhân viên nhà tế bần có mặt lúc đó (ở đó không có máy đo đạc hay bác sĩ). Nhân viên nhà tế bần, người khóc bên xác Benedict, cam đoan với ông rằng ông đã có mọi dấu hiệu của cái chết, kể cả cơ thể lạnh cứng dần. Một ống nghe khoách đại không phát hiện ra nhịp tim. (Dưới góc độ y học, xác nhận này tự thân quá kì quặc khiến một người hoài nghi phải trừ hao mọi phần khác trong câu chuyện của Benedict).
   
Mặc dầu lúc đầu bị mất phương hướng ghê gớm, ông Benedict cảm thấy dễ chịu hơn là trong cuộc sống trước kia. Phải mất ba tháng ông mới dám liều đi chụp não lại, dễ hiểu là ông lo ngại về khối u-nhưng lại nhận được những tin tuyệt vời. Mọi dấu vết của khối u ác tính đã biến mất, vị bác sĩ chuyên khoa ung thư giải thích đó là sự thuyên giảm tự phát, một trường hợp u ác tính tự tiêu biến rất hãn hữu. Đây là sự lãng tránh vấn đề khỏi bệnh thông qua cái chết chưa từng bắt gặp trong sách y học, và hiện tượng khỏi bệnh ung thư ác tính cấp, như tôi được biết, là hiếm xảy ra nhất.

2. Nói về hoạt động trí não
* Trí óc vận hành trong cái manh mún, từng phần, chia chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó không bao giờ là cái toàn thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu biết nhưng vô hiệu. Vì chính bản chất của nó, nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức cũng thế; tư tưởng, phản ứng của kí ức chỉ có thể vận hành trong cái đã biết, hoặc lí giải từ kiến thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn hóa. Nó không thể vượt lên trên chính nó. Nó chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành nhà khoa học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật gia, kĩ thuật gia, nông gia… Nó hoạt động bằng cách phóng chiếu lên giai cấp xã hội, đặc quyền, quyền hành, uy thế của nó. Sự vận hành não bộ và giai cấp xã hội liên kết với nhau chặt chẽ, vì trí óc là một cơ quan tự bảo vệ. Chính từ nhu cầu này mà những yếu tố đối nghịch và chống trái của xã hội phát sinh. Nhà chuyên môn thì không có khả năng nhìn được toàn diện.  
(…) Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại, vì củng cố tính vị ngã; vì mang tính chia chẻ vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu chỉ có giá trị trong sự nhìn thấu toàn diện đời sống, sự nhìn thấu này nằm trong lĩnh vực của tâm chứ không phải của trí óc. Năng khiếu với sự vận hành của nó nằm trong giới hạn của trí óc, do đó năng khiếu trở nên nhẫn tâm, lãnh đạm đối với tiến trình toàn thể của đời sống. Năng khiếu gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự thành tựu của nó trở thành ưu tiên hàng đầu, nó đưa đến thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó chỉ có giá trị nếu nhận thức được toàn thể sự sống. (…).
 
(…) Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với sự chia chẻ manh mún, với những hoạt động cô lập lại nó trong địa hạt giới hạn của thời gian. Trí óc không có khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống; dù có được giáo hóa đến đâu, trí óc cũng chỉ là một phần chứ không phải là toàn thể. Chỉ có tâm mới thấy được cái toàn thể, và phạm vi của tâm bao trùm luôn trí óc; trí óc dù có làm gì đi nữa cũng không thể chứa đựng được tâm.
 
Để nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái buông xả. Buông xả hoặc phủ nhận không phải là đối nghịch của khẳng định; những cái đối nghịch đều liên kết với nhau. Sự phủ nhận không có cái đối nghịch. Để có được cái nhìn toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt đối; nó không được can thiệp vào bằng cách lượng giá, biện bạch, kết án và tự vệ. Trí óc phải im lặng mà không bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho trí óc chết cứng, chỉ có khả năng mô phỏng và tùy hợp. Chính trong trạng thái phủ nhận mà trí óc tĩnh lặng không lựa chọn. Chỉ chính lúc đó cái nhìn toàn thể mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh thức, và trạng thái này không gồm có người quan sát cũng như vật bị quan sát, mà chỉ có ánh sáng, chỉ có sáng suốt. Sự đối kháng và xung đột giữa người tư duy và tư tưởng kết thúc. (Jiddu Krishnamurti-danh nhân giác ngộ. Bút hoa (The Krishnamurti’s notebook); Ẩn Hạc dịch).

* Cần phải thừa nhận rằng trong các khoa học tự nhiên cũng có một phần lớn mang tính chủ quan. Với vai trò là sinh vật biết tư duy, nhà khoa học không thể quan sát Tự nhiên một cách hoàn toàn khách quan. Einstein từng nói: “Các khái niệm vật lí là những sáng tạo tự do của trí tuệ con người, ngay cả khi chúng có vẻ như được quyết định chỉ bởi thế giới bên ngoài.

Những cố gắng của chúng ta nhằm nắm bắt hiện thực cũng tựa như những nỗ lực của người tìm cách hiểu cơ chế hoạt động của một chiếc đồng hồ kín mít. Anh ta chỉ nhìn thấy mặt đồng hồ và các kim chuyển động, thậm chí còn nghe cả tiếng tích tắc, nhưng anh ta không có cách nào để tháo vỏ đồng hồ ra.

Nếu đủ thông minh, anh ta sẽ tạo ra hình ảnh của một cơ cấu đã gây ra tất cả những gì anh ta quan sát được, nhưng anh ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng hình ảnh mà anh ta tạo ra là duy nhất có thể giải thích được những quan sát của mình. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh được mô hình của mình với cấu trúc thực, và thậm chí cũng không thể hình dung ra được liệu sự so sánh này có một ý nghĩa nào không”. (Trịnh Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn.Cái vô hạn trong lòng bàn tay; (đồng tác giả: Mathieu Ricard); Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).

* Thực ra, ngành sinh học thần kinh đã chứng tỏ được rằng “hiện thực” chỉ xuất hiện đồng nhất đối với các sinh vật cùng loài có cùng một hệ thần kinh. Các loài khác nhau thì cảm nhận thế giới theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu đối với loài cá, chim và côn trùng đã chứng tỏ rằng màu sắc và hình dạng của các vật được các loài vật này cảm nhận theo những cách hoàn toàn khác với con người. Hiện thực chắc chắn bị thay đổi tùy theo hệ thống thần kinh cảm nhận nó. (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
* Nếu người ta phân tích một trong những cách tri giác nào đó, như cách tri giác của con người chẳng hạn, thì người ta sẽ nghiệm thấy đơn giản rằng, trong một số điều kiện, người ta quan sát và đo lường một số hiện tượng theo cách có thể tái tạo được. Nhưng làm như vậy, hiện thực của “vật” không vượt qua thân phận ban đầu của nó, tức là cái “nhãn mác tinh thần”. Quá trình thực nghiệm này chưa bao giờ chứng tỏ rằng cái mà người ta quan sát là tồn tại tự thân và có các đặc tính nội tại.

Chúng ta có thể nhìn thấy một nghìn lần hai Mặt trăng bằng cách áp một nghìn lần hai ngón tay vào nhãn cầu của chúng ta, và chắc chắn là việc nhìn thấy hai Mặt trăng này không hề có nghĩa là có hai Mặt trăng thật! (Mathieu Ricard-nhà sinh học; sách đã dẫn).

* Định lí về tính không đầy đủ của Godel thực tế ngụ ý rằng có tồn tại những giới hạn đối với sự suy luận logic, chí ít là trong toán học. Định lí này thường được coi là một phát minh logic quan trọng nhất của thế kỉ XX. (…) Năm 1931, ông đưa ra một định lí có lẽ là tuyệt vời và bí hiểm nhất trong số các định lí toán học.

Ông đã chứng tỏ được rằng một hệ thống số học nhất quán và phi mâu thuẫn chắc chắn sẽ chứa các mệnh đề “không giải quyết được”, tức là các phát biểu toán học mà người ta không thể bằng logic nói được chúng là đúng hay sai.

Mặt khác, không thể chứng minh được rằng một hệ thống là nhất quán và phi mâu thuẫn chỉ dựa trên cơ sở của các tiền đề (các mệnh đề đầu tiên được chấp nhận không cần chứng minh) có trong hệ thống này.

Ngược lại, cần phải “đi ra ngoài hệ thống” và đưa ra các tiền đề phụ bên ngoài hệ thống. Theo nghĩa này, hệ thống tự bản thân nó chỉ có thể là không đầy đủ. Chính vì thế, định lí của Godel cũng thường được gọi là “định lí về tính không đầy đủ”.
 
Định lí này quả thật chẳng khác gì cú sét trong thế giới toán học. Godel đã chứng minh rằng logic có những giới hạn và rằng giấc mơ của Hilbert (biết chứng minh một cách chặt chẽ sự nhất quán của toàn bộ toán học) là một ảo tưởng. Nó cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực khác của tư duy như triết học hay tin học. (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).

* Từ khi khoa học hiện đại ra đời vào thế kỉ XVI, vốn tri thức của chúng ta đã tăng lên theo hàm mũ, nhưng nó không làm cho chúng ta tỏ nên minh triết hơn.

Tình hình càng trở nên cấp bách khi con người hiện nay đang có khả năng sẽ làm đảo lộn sự cân bằng sinh thái của toàn bộ hành tinh, thậm chí còn có thể tự hủy diệt mình, khi các vấn đề đạo đức ngày càng trở nên gay gắt, và khoảng cách giàu nghèo vẫn không ngừng nới rộng thêm… (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).

 
* Nghiệp có thể chuyển thành chiếc chìa khóa để tìm hiểu chính bộ não. Các nhà thần kinh học lúng túng trước cái họ gọi là “hiệu ứng liên kết”, một lực lượng huyền bí kết nối các vùng khác nhau trong não lại. (…).  
(…) Chúng ta đều mang trong tâm trí mình một cơ sở dữ liệu thông tin rộng lớn mà chúng ta coi là nền tảng. Cơ sở dữ liệu này nắm giữ mọi thứ quan trọng mà chúng ta tin tưởng về thế giới. Đó là thế giới quan của chúng ta. Chúng ta phụ thuộc vào nó để sống sót thậm chí một thời gian ngắn. Các niềm tin phát triển qua nhiều thế kỉ, và do vậy một số nhà nghiên cứu coi niềm tin như bản thể dạng “gene ảo” trở thành các đặc tính cố định của bộ não. (…).
 
(…) Thế giới quan cung cấp lối mòn cho hành vi, không may là nhiều khi nguy hiểm. Các đặc tính như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự hiếu chiến tồn tại như các phản xạ tự nhiên. (…). Đây chính là cái Bhagavad-Gita ngụ ý với tên gọi là hiệu ứng trói buộc của nghiệp. (…). (Deepar Chopra-tiến sĩ y học, giảng dạy ở Đại học Boston. Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh; Trần Quang Hưng dịch).

* Cho tới đây chúng ta chỉ mới nói cái tác dụng bóp méo của dồn ép; còn một phương diện nữa mà ta phải đề cập đến không đưa đến bóp méo, nhưng biến một kinh nghiệm thành phi thực bằng tác động của não. (…).    
Tiến trình tác động óc não này được nối kết với tính chất mơ hồ của ngôn ngữ. Ngay khi tôi bày tỏ một cái gì bằng một chữ, một sự vong thân xảy ra, và trọn cả cái kinh nghiệm đã bị cái chữ ấy thay thế. Trọn cái kinh nghiệm chỉ thực sự hiện hữu vào cái giây phút nó được biểu thị bằng ngôn ngữ. Cái tiến trình thông thường của tác động óc não tỏa rộng và mãnh liệt trong văn hóa hiện đại hơn bất cứ lúc nào trước đây trong lịch sử. Chính vì càng ngày người ta càng đề cao kiến thức trí năng (…). (Erich Fromm-nhà phân tâm học. Thiền và phân tâm học (nhiều tác giả); Như Hạnh dịch).

* Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều gì đó được truyền đạt từ người này sang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để đi vào trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng.

Nhưng quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi sự. (Daisetz Teitaro Suzuki-thiền sư học giả. Nghiên cứu Kinh Lăng Già; Thích Chơn Thiện & Trần Tuấn Mẫn dịch).

* Một vài năm trước đây, một thí nghiệm với các con mèo con đã được các nhà khoa học tại Trường y khoa Harward thực hiện. Ngay từ khi sinh ra, người ta đã nuôi một số mèo trong một khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang; tất cả các tác nhân kích thích thị giác trong môi trường của chúng đều nằm ngang. Một nhóm khác được nuôi trong một khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và đó là tất cả những gì mà chúng có thể nhìn thấy.

Khi những con mèo này lớn lên, trở thành những con mèo già khôn ngoan; còn những con mèo chỉ tiếp xúc với những vạch ngang thì chỉ nhìn thấy thế giới nằm ngang, ví dụ như chúng va đụng vào những chân đồ đạc như thể những cái chân này không có ở đó. Những con mèo được nuôi dưỡng trong thế giới thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự với thế giới ngang.

Lẽ đương nhiên những điều này không có gì liên quan đến hệ thống lòng tin ở những con mèo này. Khi người ta nghiên cứu trí não của chúng, một nhóm mèo sẽ không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới ngang, còn nhóm kia cũng không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới thẳng đứng.

Sự trải nghiệm giác quan ban đầu của những chú mèo này và cách thức chúng hiểu sự trải nghiệm đó theo nhận thức của chúng ngay từ những ngày đầu mới sinh khi thị lực của chúng phát triển, đã thực sự hình thành sự phân tách hệ thần kinh của chúng. Rốt cục, những chú mèo này chỉ nhận biết được những gì mà người ta đã tạo ra cho chúng và chúng nhận biết được lập tức.
   
Một số nhà tâm lí học đã có thuật ngữ rất thú vị về hiện tượng này - họ gọi nó là “sự cam kết nhận thức sớm”. Sớm là vì chúng ta tiến hành việc này ngay từ giai đoạn đầu cuộc sống của chúng. Nhận thức là vì nó ảnh hưởng đến sự phân tách hệ thần kinh mà chúng ta nhận ra hay nhận biết về thế giới. Và sự cam kết là vì nó cam kết với chúng ta một thực tế nhất định.

Một số nhà khoa học có thể nói với bạn rằng ngay lúc này hệ thần kinh bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận dưới một phần tỉ của các tác nhân kích thích hiện hữu. Các tác nhân kích thích mà hệ thần kinh của bạn tiếp nhận được là những tác nhân tăng cường sự vận động, ý tưởng, cách hiểu của bạn về những gì mà bạn nghĩ là tồn tại ngoài kia.

Nếu bạn đã có cam kết với thực tế thì những thứ mà tồn tại bên ngoài khung cam kết sẽ bị hệ thần kinh của bạn loại ra, hệ thần kinh mà bạn sử dụng để tạo ra sự quan sát.

Tuỳ thuộc vào loại cơ quan thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc vào loại hình các sự quan sát mà bạn muốn tạo ra và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn tạo ra những quan sát này, tuỳ thuộc vào tất cả những điều đó, bạn tiếp nhận một phần giới hạn nhất định của thực tế. Rốt cục, hệ thần kinh của con người chỉ có thể tiếp nhận bước sóng ánh sáng từ 400 đến 750 nanomet. Và nếu chúng ta ngẫu nhiên đồng ý với các quan sát từ các giác quan của chúng ta và sự lí giải cho những quan sát này, thì chúng ta đã tạo ra một khuôn khổ cho những lí giải mà chúng ta thống nhất.
   
Chúng tôi gọi phương pháp này là “khoa học”. Chúng tôi thường coi khoa học như là một phương pháp khám phá sự thật khi mà trên thực tế, khoa học - như cách nó được kết cấu và hoạt động cho đến nay - thực sự cũng chẳng phải là một phương pháp để khám phá sự thật. Nói đúng hơn, nó là một phương pháp khám phá khung khái niệm hiện tại của chúng ta về những gì chúng ta cho là sự thật. (…). (Deepak Chopra-tiến sĩ y học. Vật lí lượng tử và ý thức (Trí tuệ nổi trội); Vũ Thị Hồng Việt dịch).

* Nền vật lí này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những liên quan vật chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái toàn thể.    
(…) Ngày nay vật lí hiện đại đã phát triển một thái độ rất khác. Nhà vật lí đã nhìn nhận rằng, tất cả lí thuyết của họ về hiện tượng tự nhiên, kể cả những quy luật mà họ mô tả, tất cả đều do đầu óc con người sáng tạo ra; tất cả là tính chất của hình dung của chính chúng ta về thực tại, chứ không phải bản thân thực tại.
   
(…) Trong vật lí lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn trong đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát hoàn toàn xoá nhoà, trong đó người và vật hoà nhập làm một.
   
(…) Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay đổi sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi từ tâm can - từ ý định ngự trị và điều khiển thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động. (Fritjof Capra-giáo sư tiến sĩ vật lí. Đạo của vật lí; Nguyễn Tường Bách dịch).  

* (…) Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).      
(…) Liệu con người trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia không? Sau khi tạo bộ gen và nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con người (sinh đẻ đứa trẻ) trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho mình chức năng tư duy chủ yếu. Trong quan niệm tôn giáo, khi đứa bé chào đời đu-khơ nhập vào đứa trẻ và ấn định những năng lực tư duy chủ yếu của con người.

Nghĩa là, chúng ta suy nghĩ chủ yếu nhờ vào đu-khơ sống ở thế giới tế vi. Nhờ năng lượng thế giới vật thể (ăn uống) não người có khả năng vặn các trường xoắn của thế giới tế vi và như vậy hỗ trợ đu-khơ trong quá trình tư duy.

Ngoài ra, não còn tạo các trường xoắn phụ hình thành đu-sa (sinh trường) ở dạng các thể thanh bai và các thể khác hỗ trợ cơ thể người hoạt động. Sau khi xác thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể thanh bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống ở thế giới tế vi để rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới. Vậy là con người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể nhờ các “nỗ lực” của thế giới tế vi, là sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể và thế giới tế vi.
   
Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (nghiệp), tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…) Chính con người khác biệt với con vật ở chỗ: bộ máy tư duy của con người có nhiệm vụ hoàn thiện đu-khơ (đưa vào đó nhiều thông tin xây dựng) và bằng cách đó, hoàn thiện hình thái sự sống ở thế giới tế vi. Nói cách khác, là đứa con thể xác của sự sống nơi thế giới tế vi, con người có sứ mệnh thông qua thế giới vật thể thúc đẩy sự tiến bộ nơi thế giới tế vi. Con người được tạo ra cũng là bởi lẽ đó. (…)
   
(…) Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng thay con người độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với hi vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì vậy có lẽ huyền thoại  về địa ngục và thiên đường có cơ sở. (Erơnơ Munđasep-nhà bác học lớn quốc tế. Chúng ta thoát thai từ đâu; Hoàng Giang dịch).

3. Một số trích đoạn (tùy hứng) từ một tác phẩm có giá trị lớn của ngài Deepak Chopra – một nhà khoa học đáng kính, một hành giả có sự chứng ngộ. (*)
(Các trích đoạn này góp thêm cảm hứng thăng hoa tâm trí đại thừa, giác ngộ).

* (…) Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó. Đâu đó trong thời không có những bình diện khác nhau đồng thời tồn tại. (…) Các bình diện tồn tại khác nhau tương ứng với các tần số ý thức khác nhau.

Thế giới vật chất chỉ là biểu hiện của một tần số nhất định. (…) Thế kỉ 20, khoa học phương Tây tìm hiểu ra rằng mọi vật thể rắn thực ra đều được tạo nên bởi những rung động vô hình. (…) Cũng đúng như các bình diện khác nhau của vật chất, tinh thần cũng có những bình diện khác nhau. (…) Nếu Trái đất là bình diện tinh thần đậm đặc, thì chắc chắn phải có những bình diện tinh thần cao hơn, chúng tôi gọi là Loka, mà giới thần bí học phương Tây biết đến như “bình diện siêu hình”. Các bình diện siêu hình có số lượng dường như vô tận này chia ra thành các thế giới siêu hình cao hơn và thấp hơn, và thậm chí thế giới thấp nhất cũng rung động với tần số cao hơn thế giới vật chất.
  * Để tìm ra vật chất và năng lượng đến từ đâu, vật lí học thừa nhận một trường vũ trụ chứa đựng không chỉ những gì chúng ta quan sát thấy mà cả mọi thứ có khả năng tồn tại. Vật lí hiện đại thấy thật dễ dàng làm thế giới vật chất biến mất trong hư vô, nhưng điều này gây hoang mang, cũng hoang moang như sự biến mất của người chết. Đây là cách biến mất của hòn đá, cây cối, hành tinh hay hệ thiên hà hoạt động.    
Trước hết, hòn đá, cây cối hay hành tinh biến mất khỏi tầm nhìn khi các nhà khoa học nhận ra rằng các vật chất thể rắn được tạo nên từ các nguyên tử không thể phát hiện bằng mắt thường.
   
Thứ hai, các nguyên tử biến mất khi người ta phát hiện ra rằng chúng được tạo nên từ năng lượng, đơn giản là các rung động trong trống rỗng.
   
Cuối cùng, năng lượng biến mất khi người ta phát hiện ra rằng các rung động là sự kích thích tạm thời trong một trường và trường đó tự nó không rung động mà duy trì một “điểm không” phẳng và bất biến. (…).

(…) Hỗn nguyên vì sao không hoàn toàn chiếm ưu thế thực sự vẫn là một bí ẩn lớn chỉ có thể được lí giải bởi Akasha (trường ý thức). (…). Các rishi tập trung vào ý thức như một nguyên lí vũ trụ. Nhưng để có một vũ trụ biết tư duy, họ cần phải giải thích trí tuệ vũ trụ hoạt động như thế nào, tự duy trì và tự tổ chức tư duy ra sao. Nếu “trường trí tuệ” hoàn toàn ổn định, nó sẽ là một vùng chết, hoặc nhiều nhất là chứa một tiếng ồn liên tục, vô nghĩa. (…).    
(…) Từng bước một, vật lí học bị lôi cuốn vào hư vô bởi vì không có gì trong thế giới hữu hình phù hợp để giải thích điều cần được giải thích. Điểm không trở thành “trường của trường” chứa đựng mọi hạt vô hình, hoặc ảo, trong vũ trụ. Theo tính toán, điểm không chứa năng lượng 10 lũy thừa 40 lần nhiều hơn vũ trụ hữu hình-tức là 40 số không sau số 1. Hư vô trở thành sự trao đổi năng lượng sôi sục, không chỉ giữa các photon và electron mà trong mọi sự kiện lượng tử có thể hình dung được. Đột nhiên cái vô hình trở nên mạnh mẽ hơn cái hữu hình một cách lạ thường. Nhưng với cách đó “trường của trường” có giống tâm trí, điều mà các rishi đang tìm kiếm hay không?
   
(…) Cái thực tế rằng những khoảng không, hay khe hở, giữa các vật liệu gene thật là quan trọng đưa chúng ta trở lại hư vô, nơi có cái gì đó sắp xếp các sự kiện ngẫu nhiên sao cho chúng có ý nghĩa.

(…) Có những việc khác mà trí óc có thể thực hiện tương tự như trong vũ trụ. Trí óc có thể theo dõi hai sự kiện riêng biệt trong thời gian-ví dụ chúng ta làm thế nào nhận ra một khuôn mặt đã nhìn thấy vài năm trước.

Tương tự như vậy, vũ trụ theo dõi hai electron trong một đôi bất kì. Chúng sẽ luôn luôn là một đôi thậm chí chúng cách xa nhau hàng triệu năm ánh sáng. Thật lạ thường, nếu một electron trong đôi thay đổi vị trí hay trục quay thì cái khác trong đôi cũng thay đổi cùng một lúc mà không cần phải truyền một tín hiệu nào đó du hành qua không gian. Trường Điểm Không truyền tin không theo thời gian, khoảng cách hay vận tốc ánh sáng. (…).
   
(…) Vì mục đích tìm kiếm bằng chứng cho cõi sau sự sống, việc chỉ ra ý thức tồn tại khắp nơi là vấn đề sống còn, bởi vì lúc đó không có nơi nào chúng ta đến sau khi chết mà không có ý thức.

(…) Nếu tâm trí của chúng ta có thể thay đổi trường lượng tử thì sao? Khi đó chúng ta sẽ có mối liên kết giữa hai mô hình, tư duy và vật chất. Mối liên kết này đã được thực sự đưa ra bởi Helmut Schmidt, một nhà nghiên cứu làm việc cho phòng thí nghiệm không gian của hãng Boeing tại Seattle.   (…) Schmidt đã chứng tỏ rằng một người quan sát có thể thay đổi hoạt động trong trường lượng tử bằng việc chỉ sử dụng tâm trí, điều này ủng hộ khả năng tại một tầng sâu nào đó tư duy và vật chất là một. Khẳng định của các rishi rằng chúng ta nằm trong trường Akasha (trường ý thức) có vẻ đáng tin hơn, nó khiến cho khả năng chúng ta không rời bỏ trường này sau khi chết cũng trở nên đáng tin hơn; nếu không chúng ta sẽ là thứ duy nhất trong Tự nhiên không là thành phần của trường này. (…).    
(…) “Ở cấp độ sâu sắc nhất, các nghiên cứu (Princeton) cũng giả định rằng hiện thực do mỗi người trong chúng ta tạo ra duy chỉ bằng sự chú ý của mình. Ở cấp thấp nhất của tư duy và vật chất, mỗi người trong chúng ta đang sáng tạo thế giới”. (L.M.Taggart).  (…).
   
(…) Akasha có thể được lí giải là một vùng nơi tâm trí hoạt động. 

(…) Thứ gì đó sắp xếp chính xác đến vậy điều cần một nguyên lí để giữ chúng cùng nhau và một môi trường để đưa thông tin từ một đầu của tạo hóa đến đầu kia. Khái niệm cũ về thinh không không đủ, nhưng Akasha (trường ý thức) thì đủ.    
(…) Mỗi rung động gửi những tín hiệu qua trường, và đến lượt mình trường gửi các tín hiệu ngược lại. Vũ trụ, hóa ra liên tục tự giám sát mình bằng cách phối hợp mọi rung động xảy ra bất cứ đâu trong vùng hữu hình hay vô hình.

(…) Chỉ dưới sự quan sát, một electron nhảy từ hiện thực ảo vào vũ trụ hữu hình, và hễ khi người quan sát ngừng nhìn, nó lại rơi ngược vào trường.
(…) Các rishi tuyên bố rằng chết cho phép chúng ta nhìn thấy hiện thực vĩnh hằng rõ ràng và tham gia vào nó đầy đủ hơn. Trong cơ cấu của Laszlo, trường Akasha (trường ý thức) hoạt động y hệt đối với mọi vật chất, năng lượng và thông tin. Các tương tác của chúng trong vũ trụ hữu hình là những phản ánh của các mối liên hệ vô hình có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xảy ra ngoài sân khấu. (…).
(…) Khi bạn xem ti vi, cái gì hiện thực hơn, hình ảnh bạn nhìn thấy hay là trạm phát tín hiệu? Tất nhiên là trạm phát hiện thực hơn, bức tranh chỉ là hình ảnh. Tương tự như vậy, Laszlo nói, Trường Điểm Không-Akasha-hiện thực hơn vũ trụ hữu hình. Akasha (trường ý thức) tổ chức và phối hợp mọi phóng chiếu chúng ta gọi là thời gian, không gian, vật chất và năng lượng. (…).    
(…) Đặt vào các điều kiện của loài người, chúng ta không cần phải sợ cái chết là một hành vi biến mất bởi vì sự sống luôn là một. Điều chúng ta quý nhất trong chính mình, khả năng của chúng ta suy nghĩ và cảm nhận, không phải có từ lúc đi vào thế giới vật chất. Nó được chiếu vào thế giới vật chất từ một nguồn, Trường Điểm Không, là gốc rễ của ý thức, mở rộng hàng tỉ năm về trước và hàng tỉ năm về sau có thể dự đoán được. Hoàn toàn không phải là nhãn quan tôn giáo, mô hình này giải thích vũ trụ tốt hơn bất kì mô hình nào khác, và cho chúng ta thứ mà các rishi và các nhà vật lí học hiện đại đòi hỏi: cây cầu bắc giữa tư duy và vật chất.
  * Ngưỡng cửa của nguồn là im lặng. Nhưng bạn phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực sinh ra. Ở đó bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ tồn tại, ý thức và tiềm năng cho các rung động nảy sinh. Ba điều này hiện thực nhất trong vũ trụ bởi vì tất cả cái khác chúng ta gọi là hiện thực đều từ đó mà ra. (…).
(…) Hiện nay quần chúng được biết rõ là các nghiên cứu về cầu nguyện chứng nhận là nó có tác dụng. Trong một thí nghiệm đặc trưng, những người tình nguyện, thường chọn trong các nhóm nhà thờ, được đề nghị cầu nguyện cho người ốm trong bệnh viện. (…) . Kết quả của các thí nghiệm này lạc quan đến kinh ngạc. Trong một trường hợp biết rõ nhất, tiến hành tại Đại học Tổng hợp Duke ở Bắc Carolina, các bệnh nhân được cầu nguyện nhanh chóng phục hồi hơn và có ít di chứng hơn các bệnh nhân không được cầu nguyện. Ở đây chúng ta có thêm một chứng minh là tất cả chúng ta được kết nối với nhau trong cùng một trường ý thức. Các đặc tính của trường này vận hành lúc này và ở đây:

   Trường hoạt động như một tổng thể.    Nó liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.    Nó nhớ mọi sự kiện.    Nó tồn tại ngoài thời gian và không gian.    Nó sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.    Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng tiến hóa.    Nó là ý thức.
(…)Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện.
   
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. Trước hết chúng ta là tâm trí và tinh thần, và điều đó đặt ngôi nhà của chúng ta ra sau các vì sao.
   
Biết rằng rồi một ngày mình sẽ quay về vùng để tìm nguồn gốc khiến tôi tự tin vô hạn vào mục tiêu cuộc sống. Cũng nhiệt thành như một tín đồ sùng đạo, tôi tin vào quan niệm này. Lòng tin của tôi luôn đổi mới mỗi lúc tôi có một khoảnh khắc chứng nghiệm đưa tôi chạm đến sự tĩnh lặng tồn tại của chính mình. Khi đó tôi không còn mảy may sợ hãi cái chết – mà thực ra, tôi đang chạm vào cái chết ngay lúc này, một cách vui vẻ. Nhà thơ Tagore nói về nó hết sức xúc động:
   
“(…) Và bởi vì tôi yêu cuộc sống này / Tôi cũng sẽ yêu luôn cái chết”.

* Khoa học ủng hộ tuyên bố rằng trường có khả năng nhảy vọt sáng tạo và chuyển hóa vô tận. (…).    
(…) Hóa ra nếu anh chỉ cần nghĩ về cỗ máy SQUID, không hề tìm cách thay đổi nó, thiết bị ghi cho thấy sự thay đổi trong từ trường xung quanh. (…).
   * (…) Những người nghi ngờ khả năng tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô số những nghiên cứu cho thấy ý nghĩ thông thường có thể thực sự tác động đến thế giới. Điều này đặc biệt quan trọng nếu tâm trí là trường.   * (…) Các bậc thánh nhân và hiền nhân có đặc quyền hiện diện đi đó đây tự do trong các cõi siêu hình mà không bị hạn chế bởi các ham muốn. Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai thế giới, và nếu những người thương yêu bị bỏ lại cứ cầu nguyện gọi hồn, cứ đau khổ, hoặc toan tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp tục xốn xang.
* (…) Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn tại của các thế giới vô hình. Hoàn toàn ngược lại.   * (…) Tiếp theo, như người chết đuối nhìn thấy cả cuộc đời mình trôi qua trước mắt, nghiệp của một người bung ra như chỉ gỡ khỏi suốt, và các sự kiện của cuộc đời này diễu ngược lại qua màn ảnh của tâm trí. Bạn thể nghiệm lại tất cả các thời điểm trọng đại từ khi sinh ra, chỉ có điều lúc này rất sinh động và rõ ràng khiến bạn nhìn thấy chính xác từng thời điểm có nghĩa gì. Cái đúng và sai cũng hiển hiện rõ ràng, không có sự tha thứ hay những giải thích duy lí. Bạn chịu trách nhiệm cho mọi điều đã làm. (…).   * Có thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một khả năng gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm linh cổ đại nhất thế giới.
(…) Điều làm cho sự đảo ngược này quan trọng là nó phù hợp thực tế. Các nhà thần kinh học chứng thực rằng đơn giản một ý định, một hành vi có mục đích của ý chí có thể thay đổi bộ não. Ví dụ những nạn nhân đột quỵ, có thể ép mình, với sự giúp đỡ của bác sĩ, chỉ sử dụng tay phải của họ nếu chứng liệt xảy ra về bên đó của cơ thể. (…).
* (…) Ramana học cách nhập nội trong cái định để thể nghiệm im lặng, và sau nhiều năm, nó đến với anh, nơi giải thoát khỏi hoạt động thường xuyên của tâm trí. (…).    (*): (Trích trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; tác giả: Deepak Chopra; dịch giả Trần Quang Hưng; NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2010 ).                 
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn) sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự sống sau cái chết

Thạch anh phong thủy – Tinh hoa của vũ trụ –

Từ thời xa xưa, thạch anh đã được coi là thứ đá màu nhiệm. Các nhà trường sinh học trên thế giới tin rằng nó giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp biết quá khứ và tương lai. Thạch anh thuộc loại đá bán quý, rất cứng, ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ thời xa xưa, thạch anh đã được coi là thứ đá màu nhiệm. Các nhà trường sinh học trên thế giới tin rằng nó giúp con người giao tiếp với vũ trụ và với thế giới siêu nhiên, giúp biết quá khứ và tương lai.
Thạch anh thuộc loại đá bán quý, rất cứng, chỉ cứng sau kim cương. Riêng thạch anh tím được xếp vào dòng họ đá quý và được gọi bằng tên riêng là đá quý Amethyst.

Thạch anh còn được gọi là viên đá phong thủy vì trải qua vài triệu năm hình thành, đá thạch anh thu hút năng lượng vũ trụ và phát ra 1 trường năng lượng dương cực mạnh, người ta tin rằng nó có thể đem đến sự may mắn trong cuộc sống và công việc, chống lại sự ảnh hưởng của năng lượng xấu.

Các doanh nhân Châu Á thường đặt đá thạch anh tại góc Thổ (Tây Nam hoặc Đông Bắc) của bàn làm việc, phòng làm việc hoặc phòng khách, giúp tăng cường mối quan hệ khách hàng, đồng nghiệp, đem lại thành công trong kinh doanh.

* Thạch anh trắng:

7-dscn0263

Là viên đá của vũ trụ, cung cấp nguồn năng lượng tinh khiết và mạnh mẽ. Thạch anh trắng tiếp nhận, kích hoạt, lưu trữ và khuyếch đại năng lượng vũ trụ; kích thích các chức năng hoạt động của não và tăng cường mức độ tập trung; ứng dụng tuyệt vời cho sự trầm tư mặc tưởng, tạo ra trạng thái cân bằng cho tâm hồn.

Con lắc được làm bằng thạch anh trắng có chất lượng tuyệt hảo áp dụng cho các nhà ngoại cảm, các chuyên gia cảm xạ học…
Trong dòng họ thạch anh trắng xuất hiện 1 loại thạch anh có năng lượng cực mạnh rất quý hiếm. Đó là thạch anh Tóc. Còn gọi là thạch anh Rutile, thạch anh titan.. Thạch anh Tóc là thạch anh trắng, bên trong có chứa các sợi tinh thể Titanium (TiO2) quý hiếm. Trên thế giới thạch anh Tóc thiên nhiên được xem là vô cùng quý hiếm.

* Thạch anh hồng:

Là viên đá của tình yêu, thạch anh hồng được cho là tăng cường năng lượng tích cực cho tình yêu và hôn nhân. Nó thường được dùng để dưới giường ngủ của vợ chồng để tránh các mối bất hòa có thể xảy ra, giúp tăng cường sự tự tin và khả năng sáng tạo, giúp ngủ ngon, không mơ hoảng, giúp phục hồi trí nhớ.

Ghi chú: nên để thạch anh hồng dưới chân giường thì tốt hơn để ở đầu giường, tránh năng lượng quá mạnh của thạch anh ảnh hưởng đến giấc ngủ…

* Thạch anh ám khói:

Là viên đá của sự bảo vệ và là hoa tiêu dẫn đường, thạch anh ám khói được cho rằng giúp phân tích tốt mọi việc ; Cân bằng năng lượng tinh thần và thể chất; Gắn bó tình cảm gia đình; Làm hết buồn phiền – buồn rầu; Tập trung tư tưởng tốt và giảm đau nhức.

Trong dòng họ thạch anh ám khói, đặc biệt xuất hiện thạch anh vàng hoặc vàng khói. Thạch anh vàng còn được gọi là viên đá kinh doanh, thường được các chủ nhà hàng, siêu thị, khách sạn để ngay tại quầy thu ngân để thu hút vận may tài lộc, buôn may bán đắt. Thạch anh vàng rất hiếm, đôi khi còn hiếm hơn cả thạch anh tím (đá quý amethyst).

Thạch anh ám khói ở trong 1 điều kiện môi trường đặc biệt sẽ chuyển thành thạch anh đen. Thạch anh đen có khối lượng riêng rất nặng và độ cứng cao nhất trong các loại thạch anh. Năng lượng của thạch anh đen thích hợp với người mạng Thủy, Mộc, Kim và người ta tin rằng nó giúp cho người sở hữu có thể tiếp xúc với quyền năng huyền bí của vũ trụ. Thạch anh đen tự nhiên cực kỳ hiếm. Tuy nhiên, nếu thạch anh đen được tạo nên do đốt xử lý sẽ mang trong mình năng lượng âm, ảnh hưởng ngược lại cho người sử dụng.

* Thạch anh tím:

Thạch anh tím còn gọi là đá quý Amethyst, là loại quý và hiếm nhất trong các loại thạch anh. Thạch anh tím biểu trưng cho sự tự chủ về mặt tinh thần; Có ý thức về mọi vấn đề; Niềm tin về tâm linh; Khả năng dự đoán – tiên tri; Sức sống mạnh mẽ; Tính chặt chẽ – chính xác; Đúng mực – thận trọng; Điều độ – tiết độ. Thạch anh tím đặc biệt rất thích hợp cho các doanh nhân và các nhà hoạt động xã hội -chính trị.

* Đá cảnh phong thủy:

Đá kiểng Phong Thuỷ bao gồm: Mã Não (Agate), Ca-xe-đon, gỗ hoá thạch… Đây là các loại đá bán quý cũng trong dòng họ thạch anh. Tính chất của các loại đá này thay đổi tuỳ theo loại đá, tuy nhiên với năng lượng Thổ rất mạnh gần bằng với năng lượng của đá thạch anh, chúng cũng được sử dụng để tăng năng lượng tại góc Tây Nam (chủ về mối quan hệ làm ăn) và góc Đông Bắc (chủ về học hành) của ngôi nhà.

Nét đẹp của đá kiểng Phong Thuỷ nằm ở hình dáng, nước đánh bóng và màu sắc của viên đá… Quý nhất là các viên đá được tìm thấy trong thiên nhiên mang dáng dấp các con vật như cá, thỏ, chó, chim ưng, bồ câu…

Cách thức tẩy rửa Thạch Anh: Thạch anh sau khi mua về phải ngâm trong nước muối biển hoặc hỗn hợp giữa muối hột và muối ăn trong vòng 7 ngày 7 đêm. Nghi thức này sẽ tẩy sạch tất cả năng lượng âm, kích hoạt mạnh mẽ năng lượng dương mà tinh thể thạch anh đã thu hút từ vũ trụ trong hàng trăm triệu năm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thạch anh phong thủy – Tinh hoa của vũ trụ –

Mơ thấy hạt giống: Sẽ xuất hiện cơ hội mới trong hy vọng của bạn –

Hạt giống trong mơ là tượng trưng của hy vọng và cơ hội. Trong mơ xuất hiện hạt giống, cho thấy bạn đang ấp ủ hy vọng trong lòng. Mơ thấy hạt giống, dự báo sẽ xuất hiện cơ hội mới cho hy vọng của bạn, từ đấy sẽ giúp bạn đúc kết được những kinh nghiệ
Mơ thấy hạt giống: Sẽ xuất hiện cơ hội mới trong hy vọng của bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hạt giống: Sẽ xuất hiện cơ hội mới trong hy vọng của bạn –

Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.
Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.

Xét ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”, người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày này.

Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…

Tết cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng. Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng, đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.

Theo tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình, trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.
Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).

Không biết Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!

                         

Ngày Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu. Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.
Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.

Tết là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này, cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết Việt Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Nguyên Đán ở Việt Nam

Cách hóa giải cửa nhà vệ sinh đối diện cửa chính –

Theo phong thủy, cửa ra vào các phòng trong nhà là nơi truyền khí nên cần được bố trí lệch nhau để không tạo ra sự xung khắc. Nếu chẳng may chọn nhầm căn nhà có cửa đối nhau thì phải tìm cách cải thiện để không ảnh hưởng đến gia chủ. 1. Cửa trước và

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, cửa ra vào các phòng trong nhà là nơi truyền khí nên cần được bố trí lệch nhau để không tạo ra sự xung khắc. Nếu chẳng may chọn nhầm căn nhà có cửa đối nhau thì phải tìm cách cải thiện để không ảnh hưởng đến gia chủ.

1(1)

Nội dung

  • 1 1. Cửa trước và cửa sau đối nhau trực diện
  • 2 2. Cửa nhà vệ sinh đối diện cửa chính
  • 3 3. Cửa nhà bếp đối diện cửa phòng ngủ
  • 4 4. Cửa nhà bếp đối diện cửa nhà vệ sinh
  • 5 5. Cửa phòng ngủ đối diện cửa chính

1. Cửa trước và cửa sau đối nhau trực diện

Thông thường, lối đi của nhà ở sẽ nhận sinh khí theo kiểu quanh co, tức cửa trước và cửa sau bố trí lệch nhau. Lúc ấy, luồng khí vận động trong nhà đều là những luồng khí tốt giúp nuôi dưỡng tinh thần và làm tăng tài vận. Còn nhà có cửa trước đối diện cửa sau sẽ dễ làm tan sinh khí vì khí vận vận động theo đường thẳng sẽ đi hết ra ngoài. Với thế cửa này, nhà ở tuy mát mẻ nhưng cũng chứa nhiều nguy hiểm vì ảnh hưởng đến sức khỏe người ở.

* Hóa giải:

Đặt bình phong, chậu cây, thân cao nhiều lá hoặc ghế sofa, ghế bố… ở khoảng trống đối nhau theo đường thẳng giữa hai cửa.

2. Cửa nhà vệ sinh đối diện cửa chính

Cửa chính là nơi hấp thu sinh khí vào nhà, mang lại tài lộc cho gia chủ. Nếu cửa nhà vệ sinh đối diện với cửa chính thì luồng sinh khí vào từ cửa chính sẽ xuyên thẳng vào nhà vệ sinh – vốn là nơi có luồng âm khí nặng nề tạo nên xung đột, đối kháng giữa với sinh khí và âm khí. Đây là một trong những thế cửa hung hiểm theo phong thủy vì dễ làm gia đạo bất an, gặp nhiều vận rủi do sự đối kháng khí vận diễn ra liên tục. Lúc này, cần phải chỉnh cho cửa nhà vệ sinh lệch đi so với cửa chính.

* Hóa giải:

Luôn đóng cửa nhà vệ sinh nếu không sử dụng hoặc thiết kế một cửa giả (không có khung) đặt trước nhà vệ sinh để ngăn chặn sinh khí tràn vào.

3. Cửa nhà bếp đối diện cửa phòng ngủ

Phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi nên cần có sự hài hòa, yên tĩnh và tránh sự xáo trộn của nước, lửa. Còn nhà bếp là nơi phải dùng lửa hằng ngày dùng lửa nên nếu cửa nhà bếp đối diện với cửa phòng ngủ thì khí nóng, khói bụi từ nhà bếp sẽ xông thẳng vào phòng ngủ, làm phá vỡ bầu không khí thanh khiết, khiến con người không thoải mái, dễ sinh bệnh. Ngoài nước và lửa, khí gas tỏa ra từ nhà bếp cũng sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe gia chủ, thậm chí có thể gây ngạt nên cần lưu ý.

* Hóa giải:

Cách hóa giải tốt nhất và duy nhất trong trường hợp này là phải xây dựng, điều chỉnh lại cửa phòng ngủ sao cho càng xa cửa nhà bếp càng tốt.

4. Cửa nhà bếp đối diện cửa nhà vệ sinh

Nhà ở có diện tích chật hẹp thường phạm phải thế cửa này. Thậm chí có trường hợp, nhà vệ sinh còn được dùng để rửa nguyên liệu nấu ăn. Theo phong thủy, nhà bếp là nơi chế biến thức ăn, còn nhà vệ sinh là nơi chứa khí ô uế nên nếu cửa của chúng đối diện nhau, không những ảnh hưởng đến nhu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn trông rất bất nhã. Hơn nữa, cách bố trí cửa hai khu vực vốn tương phản nhau như thế này không sớm thì muộn gì cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của gia chủ.

* Hóa giải:

Đối với thế cửa này, tốt nhất vẫn là sửa chữa sao cho cửa nhà bếp tránh xa cửa nhà vệ sinh hoặc luôn luôn đóng kín cửa nhà vệ sinh nếu không dùng tới.

5. Cửa phòng ngủ đối diện cửa chính

Như đã nói ở phần trước, phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi nên cần phải yên tĩnh và ổn định, còn cửa chính là nơi đón khí vận vào nhà, nơi người trong nhà hay bạn bè ra vào nên luôn luôn vận động và biến đổi. Vì vậy, nếu cửa phòng ngủ được bố trí đối diện với cửa chính thì sự yên tĩnh cần thiết sẽ bị phá vỡ do ảnh hưởng luồng khí vận động chạy thẳng vào từ cửa chính. Điều này tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ (ngủ chập chờn, gặp ác mộng) của gia chủ.

* Hóa giải:

Chỉ cần đổi vị trí giường ngủ hoặc điều chỉnh hướng đóng mở của cửa chính sao cho, khi mở cửa chính ra không nhìn thấy giường ngủ là được.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải cửa nhà vệ sinh đối diện cửa chính –

Những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng bếp –

Những căn phòng thiếu quy tắc không thể sử dụng để làm phòng bếp mà chỉ hợp để làm một nhà kho chứa đồ, bởi nó không có lợi cho sức khỏe của con người. Nên xây phòng bếp ở hướng Nam của ngôi nhà, ngoài ra cũng có thể chọn hướng Đông hoặc hướng Đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhung-diem-can-luu-y-khi-thiet-ke-phong-bep-4

  • Những căn phòng thiếu quy tắc không thể sử dụng để làm phòng bếp mà chỉ hợp để làm một nhà kho chứa đồ, bởi nó không có lợi cho sức khỏe của con người.
  • Nên xây phòng bếp ở hướng Nam của ngôi nhà, ngoài ra cũng có thể chọn hướng Đông hoặc hướng Đông Nam; kiêng kị xây ở hướng Bắc, hướng Tây hoặc hướng Tây Bắc.
  • Tốt nhất nên xây phòng bếp ở trong nhà, vì phòng bếp là tượng trứng cho của cải, cũng là nơi chăm sóc và đảm bảo sức khỏe cho cả gia đình. Không nên xây bếp ở ngoài hoặc tận dụng phần thừa ra của một phòng nào khác. Cũng không nên xây ở trên ban công sau nhà mà phần phía dưới ban công ấy bỏ trống.
  • Tuyệt đối không đặt phòng vệ sinh trong bếp, hoặc để cửa bếp thông với cửa phòng vệ sinh. Phòng bếp là nơi nấu nưống, trong khi đó, phòng vệ sinh là nơi tập trung nhiều loại vi khuẩn và chất ô nhiễm. Nếu để hai phòng đối diện nhau sẽ rất mất vệ sinh, và gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của con người.
  • Phòng bếp phải có đủ ánh sáng cần thiết, tốt nhất là để ở hướng mặt trời có thể chiếu thẳng vào.
  • Không khí trong phòng phải được lưu thông. Ngoài máy hút khói ra, còn cần có quạt thông gió như vậy mới có thể làm lưu thông không khí và giảm bớt nhiệt độ trong phòng.
  • Giữ cho không khí trong phòng trong lành mát mẻ.
  •  Không cửa ra vào phòng bếp đối diện với cửa bếp lò.
  • Không gian phía trên bếp lò phải thông thoáng và cao ráo.
  • Máy hút khói tốt nhất nên để ở chỗ khuất, âm thanh nhỏ, và cần được vệ sinh thường xuyên.
  • Cửa ra vào phòng bếp không được để đối diện với cửa ra vào nhà. Phòng bếp được coi là nơi cất giấu của cải, trong khi cửa nhà là nơi người nhà và khách khứa hay qua lại. Nếu để hai chiếc cửa này đối diện nhau, thì mọi thứ trong phòng bếp sẽ bị nhìn thấy hết, bao nhiêu của cải lộ hết ra ngoài, từ đó dễ dẫn đến gia đình sẽ gặp phải nhiều khó khăn về tài chính.
  • Ngoài ra, không nên treo các loại dao kéo trong phòng bếp lên tường mà hãy cất chúng ở trong ngăn kéo.
  • Kiêng kị đặt vị trí phòng bếp sát với phòng của chủ nhà.
  • Nhiệt độ trong phòng không được quá cao. Nếu không sẽ làm cho con người dễ cáu giận, và xảy ra xung đột. Để khắc phục điều này thì một chiếc quạt thông gió đặt trong phòng bếp là rất cần thiết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cấm kỵ trong phong thủy phòng bếp –

Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để đón rước tài lộc

Tùy thuộc vào điều kiện gia đình, văn phòng, gia chủ có thể bày tượng Phật Di Lặc phong thủy để đón rước nhiều tài lộc cũng như niềm vui trong cuộc
Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để đón rước tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tùy thuộc vào điều kiện gia đình, văn phòng, gia chủ có thể bày tượng Phật Di Lặc để đón rước nhiều tài lộc cũng như niềm vui trong cuộc sống.


Phật Di Lặc còn gọi là Phật cười, khá được ưa chuộng trong bài trí trong nhà hay văn phòng. Ông Phật cười tượng trưng cho sự may mắn và thịnh vượng. Chiếc bụng lớn của ông chứa đầy của cải, tài lộc. Mọi người thường hay lấy tay xoa bụng Phật Di Lặc để mong muốn nhận được nhiều may mắn và an lành. Nụ cười hả hê của ông như xua tan mọi lo lắng, buồn phiền trong cuộc sống.

Theo các nhà phong thủy, vị trí lí tưởng để đặt tượng Phật Di Lặc là ở độ cao khoảng 1m, nhìn thẳng ra cửa chính để thu hút tài lộc và may mắn. Nếu không có được vị trí trên, hãy bày tượng ở một chiếc bàn cạnh tường hoặc ở góc xa nhất của phòng đối diện với cửa chính.

Vị trí bày tượng Phật Di Lặc phong thủy

Dat tuong Phat Di Lac chuan phong thuy de don ruoc tai loc hinh anh
 
1. Ở phía Đông


Cuộc sống gia đình khó tránh những lúc mâu thuẫn, cãi vã khiến mọi thành viên trong nhà đều bị ảnh hưởng. Bạn nên đặt một bức tượng ông Phật cười ở phía Đông của ngôi nhà hay phòng khách để hóa giải những rắc rối đó, tạo ra sự hài hòa cho cả gia đình.

2. Ở cung Sinh Khí

Trong Bát Trạch có 8 hướng, Sinh Khí (hướng chính Bắc) là một trong số đó. Cung Sinh Khí thuộc sao Tham Lang, là sao tốt, thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

Do đó, đặt tượng ở hướng này sẽ giúp chủ nhân vượng tài khí, sức khỏe, may mắn và đạt được nhiều thành công trong cuộc sống.

Dat tuong Phat Di Lac chuan phong thuy de don ruoc tai loc hinh anh 2
 
3. Ở hướng Đông Nam


Hướng Đông Nam là cung Thiên Lộc. Bạn có thể đặt tượng Phật Di Lặc ở hướng này của phòng khách, phòng lễ tân, hội trường... sẽ đem lại tiền tài và may mắn.

Đối với những người nắm giữ chức vụ chủ chốt trong công ty hoặc các chính trị gia, đặt tượng Phật cười ở hướng Đông Nam văn phòng hay bàn làm việc sẽ giúp họ thêm bạn bớt thù và vạn sự hanh thông.

Bên cạnh đó, hình ảnh Phật với nụ cười sảng khoái cũng giúp tâm trí minh mẫn và giảm bớt căng thẳng.

4. Trên bàn làm việc

Đặt tượng Phật Di Lặc ở văn phòng, trên bàn làm việc sẽ mang tới nhiều cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp cũng như giảm bớt căng thẳng, mệt mỏi trong công việc cho bạn. Đồng thời, nó còn có tác dụng ngăn chặn xung đột, mâu thuẫn với đồng nghiệp, cấp trên và cấp dưới.

Học sinh muốn đạt thành tích cao có thể đặt tượng này trên bàn học để tập trung, tăng cảm hứng học tập và khả năng sáng tạo.

5. Trong xe ô tô

Với những người hay đi xe đường dài, đặt tượng Phật trong xe ô tô giúp giảm bớt lo âu, tránh tai nạn và thu hút tài lộc.

Tiết lộ bất ngờ về tính cách con người theo ngũ hành
– Mỗi người sinh ra đều có mệnh lý riêng, tương ứng với một yếu tố trong ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi hành lại mang những nét
Vị trí không nên đặt tượng Phật Di Lặc


Theo phong thủy nhà ở, kiêng kị đặt tượng Phật Di Lặc trong phòng tắm, phòng bếp hoặc phòng ngủ.

Việc đặt trực tiếp Phật trên sàn nhà cũng bị nghiêm cấm vì đây là những nơi không trang nghiêm, không thể hiện sự thành kính đối với Phật.

Không nên đặt Phật gần các thiệt bị điện tử bởi có từ trường xấu và tiếng ồn phát ra làm tiêu tan năng lượng tích cực mà Phật tạo ra.

Nếu phía trên tượng Phật là cầu thang, nơi mà mọi người thường đi lên xuống thì gia đình sẽ gặp nhiều chuyện lận đận, bất hạnh. Chính vì thế, nên tránh đặt tượng ở vị trí gần cầu thang.

Phùng Hiền

 
Xem thêm video: Luật nhân quả ở đời, sống lâu chết yểu là vậy!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tượng Phật Di Lặc chuẩn phong thủy để đón rước tài lộc

Bố trí sân thượng làm nơi thư giãn lý tưởng

Các gia đình Việt Nam thường sử dụng phần sân thượng nhà cao tầng làm nơi phơi đồ hoặc bỏ phí. Bạn nên dùng một khoảng sân để làm nơi thư giãn, trồng cây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


sân thượng 
Bạn đừng bỏ phí phần sân thượng của gia đình nếu đang sống trong ngôi nhà phố

sân thượng đẹp 
Với những chiếc ghế dài, bạn có thể nằm võng để nằm nghỉ buổi chiều mát hay tắm nắng sớm

sân thượng độc đáo 
Một không gian xanh cho bữa ăn sáng trong những ngày nghỉ
với cây xanh được cắt tỉa thường xuyên

sân thượng ấn tượng 
Với những bộ ghế xám - xanh bố trí xung quanh các bình hoa cảnh, bạn sẽ có được cảm giác thư thái
như ở các khu nghỉ. Ở trên sân thượng, bạn có thể ngắm nhìn không gian xung quanh bao la.

sân thượng xinh xắn 
Bạn có thể thiết kế những bộ sofa gỗ với đệm rời làm nơi tiếp bạn bè vào những ngày ít mưa

sân thượng mát mẻ 
Những giờ phút tụ tập thú vị với bạn bè là xem phim ngoài trời
khi hoàng hôn buông xuống đến nửa đêm

sân thượng vui vẻ 
Nếu thích các bữa tiệc ngoài trời, sân thượng là vị trí lý tưởng giúp bạn có được
một không gian thoải mái và không khiến nhà bị mùi

sân thượng mát mẻ 
Bạn nên lưu ý lựa chọn những loại đồ gỗ có khả năng chịu đựng thời tiết
ngoài trời, thường xuyên chăm sóc cây, cắt tỉa

sân thượng màu xanh 
Bên cạnh những loại cây xanh, các thảm cỏ nhân tạo cũng mang đến
màu xanh mà lại không tốn công chăm sóc

sân thượng nhỏ 
Bạn có thể thiết kế nhiều khu vực ghế ngồi khác nhau nhằm tạo ra sự riêng tư
tương đối cho những thành viên nằm nói chuyện, đọc sách

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố trí sân thượng làm nơi thư giãn lý tưởng

Tử vi trọn đời nữ mệnh Đinh Sửu 1997

Nữ mệnh sinh năm 1997 tuổi con Trâu năm Đinh Sửu, thuộc cung Ký mạng Giản hạ Thủy. Xem sinh năm 1997 thì mệnh gì, diễn biến cuộc đời như thế nào? nên kết hôn với tuổi nào thì hợp, tuổi nào thì hợp làm ăn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ mệnh sinh năm 1997 tuổi con Trâu năm Đinh Sửu, thuộc cung Ly mang Giản hạ Thủy.

Tử vi trọn đời nữ mệnh Đinh Sửu 1997

CUỘC ĐỜI CỦA NỮ MỆNH ĐINH SỬU

Tuổi Đinh Sửu tiền vận có nhiều vất vả buồn thương, qua trung vận mới được nhiều may mắn trong cuộc đời. Bổn mạng được nhiều tốt đẹp về vấn đề tình duyên lẫn tài lộc, hậu vận thì mới có kết quả và mang nhiều tốt đẹp cho cuộc đời, hy vọng sẽ có những thành công lớn về hậu vận, số sung sướng vào hậu vận, cuộc sống được bảo đảm và đầy đủ.

Tóm lại: Cuộc đời của nữ mệnh từ nhỏ vất vả, vào trung vận mới được hy vọng về tiền bạc, hậu vận mới được sung sướng an nhàn.

TÌNH DUYÊN CỦA NỮ MỆNH ĐINH SỬU

Về vấn đề tình duyên, bước đầu nhiều trở lực, không có một quyết định dứt khoát, nên thường hay bị lừa đảo trong chuyện tình cảm, làm cho cuộc sống đôi khi buồn khổ.

Vấn đề tình yêu của tuổi Đinh Sửu có ba trường hợp như sau:

Nếu bạn sinh vào tháng này thì cuộc đời phải có 3 lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sinh vào những tháng 4, 9 và 12 âm lịch. Nếu bạn sinh vào những tháng này thì cuộc đời bạn phải có hai lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc là khi bạn sinh vào những tháng 1, 2, 5, 8 và 10 âm lịch. Và nếu bạn sinh vào tháng 3, 6, 7, và 11 âm lịch thì bạn hoàn toàn được hưởng hạnh phúc, không có thay đổi về tình duyên.

Đó là về vấn đề tình duyên, còn với hôn nhân gia đình thì bạn nên lựa chọn những tuổi hợp với mình để kết hôn. Khi lựa chọn được những người hợp tuổi thì không những đường tình duyên của bạn được thuận lợi mà cả về tài lộc và sự nghiệp của bạn cũng phát triển hơn. Bạn nên lựa chọn những bạn nam tuổi sau đây để kết hôn: Mậu Dần (1998), Canh Thìn (2000), Giáp Thân (2004).

Nếu bạn sinh vào những tháng 1, 2, 4 và 5 âm lịch thì bạn cần phải cẩn thận trong việc lập gia đình mới có thể thành công toàn vẹn được.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH CỦA NỮ MỆNH ĐINH SỬU

Phần gia đạo có nhiều điều hay đẹp và không có gì xảy ra quan trọng trong cuộc đời. Nếu có công danh thì cũng chỉ ở mức độ bình thường, không phát triển được.

SỰ NGHIỆP TIỀN TÀI CỦA NỮ MỆNH ĐINH SỬU 1997

Sự nghiệp có thành công sớm hay muộn là do ở sự siêng năng và kiên nhẫn của bạn, vì cuộc đời còn phải trả qua sự tương hợp của bấn đề tình duyên. Như riêng về cá nhân thì hoàn thành sự nghiệp một cách khó khăn, phải ở tuổi 30 thì mới có sự nghiệp tốt đẹp. Tiền tài vừa đủ, không giàu sang phú quý, những cũng không thiếu hụt, tiền bạc chỉ ở mức độ trung bình không có mức dư giả.

DIỄN BIẾN CUỘC ĐỜI CỦA TUỔI ĐINH SỬU

Từ năm 20 tuổi đến năm 25 tuổi:

Năm 20 tuổi được khá về đường tài lộc và tình cảm. Năm 21 tuổi có bệnh tật, kỵ tháng 6 và tháng 7, nên cẩn thận trong hai tháng này, những tháng khác thì bình thường. năm 22 tuổi, năm này có phát triển về tài lộc và tình cảm được lên cao, toàn năm đều tốt. Năm 23 tuổi không nên đi xa, làm ăn nên cẩn thận nếu không thì tiền bạc sẽ thất thoát, năm có kỵ tuổi, nhất là những thangs1, 5, 7 và 10 âm lịch. Năm 24 tuổi, năm này rất tốt cho việc làm ăn, có lợi nhỏ và tháng 12 thì đại lợi. Năm 25 tuổi năm này cũng phát đạt về việc làm ăn, tài lộc khá dồi dào, toàn ăn thắng lợi nhiều hơn hại trên mọi lĩnh vực. Suốt thời gian này tình cảm ở mức trung bình không có gì đáng nói.

Từ năm 26 tuổi đến năm 30 tuổi:

Năm 26 tuổi, có kỵ tháng 3 tháng 4 có hao tài đôi chút, những tháng khác trung bình. Vào năm 27 tuổi khá tốt đẹp, có phát triển về đường tài lộc lẫn sự nghiệp đều tốt. Năm 28 tuổi năm này nên làm những việc gia đình, không nên giao dịch tiền bạc cũng như không nên làm ăn lớn. Năm 29, 30 tuổi hai năm này bình thường không có gì quan trọng xảy ra.

Từ năm 31 đến năm 35 tuổi:

Năm 31 tuổi, nên cẩn thận sẽ có đau nặng hay trong gia đinh có tang khó, năm này làm ăn không được khá. Năm 32 tuổi, năm này làm ăn không được tốt nhưng không có hao tài tốn của, tài lộc vẫn bình thường. Năm 33 tuổi, năm quá xấu cho bổn mạng và tuổi, năm này kị đi xa hay làm ăn về tiền bạc. Năm 34, 35 tuổi hai năm này đều tốt, có hoạnh tài vào năm 34 tuổi. Năm 35 tuổi nên cẩn thận việc gia đạo một chút, việc làm phát triển tốt.

Từ năm 26 đến năm 40 tuổi:

Tuổi 36 được tốt. Năm 37 tuổi có nhiều dịp may đưa đến, nên hùn hạp nay buôn bán thì tốt nhất. Năm 38, 39 tuổi có cơ hội thuận tiện cho sự phát triển nghề nghiệp và công danh lẫn tình cảm. Năm 38 tuổi kỵ vào tháng 9. Năm 39 tuổi kỵ tháng 2, hai tháng của năm, nên tránh đụng chạm tình cảm bất lợi. Năm 40 tuổi thì trung bình, tài lộc điều hòa, tình cảm hơi có rắc rối những rồi cũng ổn định.

Từ năm 41 đến năm 45 tuổi:

Khoảng thời gian này rất tốt đẹp về phần gia đạo, nên cần lo cho bổn mạng, nếu đi mua bán hay làm ăn có tính cách tiền bạc nên coi thường. Những năm này không nên đi xa, hãy xuất hành theo như trên thì tốt.

Từ năm 46 tuổi đến năm 50 tuổi:

Thời gian này cố tạo lấy một cuộc sống đầy đủ cho con cái thì hơn. Sẽ có nhiều dịp may đưa đến về phần tiền bạc và tình cảm. năm 47 tuổi thường đau bệnh, những năm khác bổn mạng vững.

Xem thêm sao chiếu mệnh của tuổi Đinh Sửu qua các năm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời nữ mệnh Đinh Sửu 1997

Văn khấn Thần tài, Thổ địa hàng tháng

Theo tục lệ xưa, các gia đình người Việt Nam thường làm lễ cúng Gia Thần, Gia Tiên để cầu xin cho mọi người trong gia đình được khoẻ mạnh, bình an, may mắn, thành đạt...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tục lệ xưa để lại, cứ vào ngày mồng Một và chiều tối ngày Rằm hàng tháng, các gia đình người Việt Nam thường làm lễ cúng Gia Thần, Gia Tiên để cầu xin cho mọi người trong gia đình được khoẻ mạnh, bình an, may mắn, thành đạt...Chuẩn bị sắm lễ và văn khấn Thần tài, Thổ địa ngày mùng một và ngày rằm hàng tháng nên như thế nào?

van-khan-than-tai-tho-dia

Sắm lễ

Lễ cúng vào ngày Mồng Một (lễ Sóc) và lễ cúng vào chiều tối ngày Rằm (lễ Vọng) thường là lễ chay: Hương, loa, trầu cau, quả, tiền vàng.

Ngoài lễ chay đúng cách, theo truyền thống, các gia đình có thể cúng thêm lễ mặn vào những ngày này gồm: Rượu, thịt gà luộc, các món mặn.

Sắm lễ ngày mồng một và ngày rằm chủ yếu là thành tâm kính lễ, cầu xin lễ vật có thể rất giản dị: hương, hoa, lá trầu, quả cau, chén nước.

Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.

- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân.

- Con kính lạy Thần tài vị tiền.

- Con kính lạy các ngài Thần linh, Thổ địa cai quản trong xứ này.

Tín chủ con là……

Ngụ tại………

Hôm nay là ngày… tháng… năm…

Tín chủ con thành sửa biện, hương hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả và các thứ cúng dâng, bầy ra trước án kính mời ngài Thần Tài tiền vị.

Cúi xin Thần Tài thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật phù trì tín chủ chúng con an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, lộc tài tăng tiến, tâm đạo mở mang, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.

Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ cúi xin được phù hộ độ trì.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Thần tài, Thổ địa hàng tháng

Các thế cờ trong Tử Vi

Một bài viết hay của tác giả Ma Y Cung về nhận định các cách cục trong Tử Vi. Đây là một bài viết rất hay!
Các thế cờ trong Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Ma Y Cung

Cái này là môn chơi Cờ Tử vi, Môn này không phải là Lý thuyết thuần túy mà là 1 Game chơi đấu trí, chuyên dùng sự kết hợp giữa Chính Tinh và Cung vị + Âm Dương Ngũ Hành, Quái số.v.v hùm bà lằng để suy luận cho ra tình thế trong nước khi Chính tinh đó (hay Mệnh) xuất hiện, có nghĩa là giải đoán Mệnh cung của Đương sự thông qua tình hình trong nước nhằm Mục đích vẽ ra 1 lộ đồ tổng quát trước mắt để đương sự dễ bề đinh liệu chí hướng cũng như tương lai của mình.

Đây là 1 môn đấu trí, nhiều khi chỉ 1 câu mà nghĩ vài giờ không ra, nhưng đa phần là dễ chứ không khó, nhưng khi suy ra 1 nước cờ, ví dụ như nước cờ: "Tiên Vương vừa mới Băng hà!" khi đưa ra 1 nước thì phải có lý do và lý do này phải được giải thích trong Phạm vi của Tử vi (và các Môn học liên quan như Dịch, Ngũ hành..) để người đọc có thể hiểu và chấp nhận. Chứ không phải muốn nói sao thì nói, hay "liêu trai chí dị" như Lão nói đâu.

Còn nước cờ Cao hay Thấp, đúng hay sai hay tạm chấp nhận được hay quá tệ... là do công lực, cơ trí và tu vi của mỗi người.

Khi chơi Bạn phải có Bản đồ 14 chính Tinh trước mắt (bấm tay cũng tốt), đó là điều tiên quyết. Nếu Bạn nào pót được thì hay quá!

Đứng ngoài Các Bạn có thể chỉ vẽ nước cờ, góp ý, hoặc đưa nguyên 1 Bàn cờ Thế của Bạn để mọi người luận giải, nếu không giải hết 100%,sau cùng Bạn phải tự giải.

Có thể nói chơi Tử vi tức là chơi cờ Tướng! Cờ Tướng thì có 32 Quân và 72 ô, Tử vi thì có khoảng 114 Tinh cùng 12 Cung, mỗi Chính tinh (hoặc 2 chính tinh) đóng ở cung nào cũng có 1 vị trí rất đặc biệt, xưa nay ít ai bàn đến, nay tại hạ xin được phép hạ cờ đi trước, tán gẫu vài dòng về 1 số Thế cờ.

1/ THẾ TỬ VI CƯ TÝ:

Đây thuộc Quẻ Địa lôi phục, nhất Dương sinh,

Tượng = Ấu Chúa đương quyền.

Tiên Vương mới vừa giá băng, Ấu Chúa chỉ vào khoảng 2t -16 t, lên đăng cơ trong khoảng thời gian từ 2- 6 tuổi.

Vì còn quá trẻ, việc Triều chính được giao cho 2 Quan Đại Thần nhiếp chính (1 Quan Thái Phó và quan Hình bộ Thượng thư), Thái hậu và đám Cung Tần của Tiên đế vì không có thực quyền (Thái hậu không phải là Mẹ ruột của Vua, Mẹ ruột đã quy tiên), lui về tỵ vị ở các cung phòng mé Đông bắc gần cựu Dinh của Thái tử.

Việc phòng vệ Cấm thành được giao cho 1 viên lão Tướng trấn giữ. Đế thường lui tới với đám Hoàng huynh ở miền Tây Bắc. Đám anh em này đang ngấm ngầm thông đồng cùng Thái hậu, âm mưu soán vị.

Tình hình trong nước tuy vậy tương đối ổn định, kho vựa đầy đủ, mặt trận miền Tây vẫn không xao động, mùa màng tuy có bị bão lụt,nhiều nơi dân cư xiêu tán, đồng ruộng bỏ hoang, nhưng chưa đến nỗi có nạn đói.

trước mắt nếu không có phương lược, e rằng nhân dân sẽ ta thán và có thể giặc giã nổi lên.

Thử giải 1 vài điều:

* Thuộc quẻ Địa lôi phục =

Thiên Nhất sinh Thủy, Địa nhị thành chi: tức trước tiên Thủy được sinh ra, ở đâu? dĩ nhiên là trên Địa cầu, có nước kết hợp với đất thì vạn vật sẽ được nảy sinh, cho nên nói là Địa nhị thành chi (thành = thành hình), Địa nhị = Khôn có số là 2, hoặc có thể hiểu là quẻ thuần Khôn.

Từ Mùi đi đến TÝ thì đã thành thế cực Âm (Lão Âm), cực Âm thì sẽ hóa sinh thành Thiếu Dương, như vậy Cung Tý nơi từ Thuần Khôn hóa thành Thiếu Dương,(hóa thành 1 Hào Dương bên dưới) sẽ biến ra quẻ Địa lôi phục.

Tử vi cư Tý là nơi Thiếu Dương vừa mới sinh ra cho nên được gọi là Ấu Chúa. Chúa tay Tả nắm Liêm - Phủ, tức nắm Quan lại và kho tàng (Liêm = Quan lộc chủ / Phủ = quan coi về kho tàng), tay Hữu nắm các ban Võ Tướng (Vũ khúc + Thiên Tướng) cho nên gọp lại gọi là Ấu Chúa nắm quyền.

Tiên Vương mới Thăng hà:

Trên bàn cờ này, Cung Phụ mẫu trống rỗng, Vô chủ tinh, mà Thái Dương là tượng Vua Cha đang ở Dậu cung = Mặt trời chìm về phương Tây, kết hợp Phụ mẫu VCD, Âm Dương đều hãm, Mẹ không ở bên cạnh khi còn thơ ấu, Cha không có mặt tại Triều dã (Ngọ cung) suy ra Cha Mẹ đều đã qua đời!

Môn này xưa kia Lã đại tiên (Lã động Tân, là người đầu tiên chế ra môn Tử vi), Ma y lão tổ (thầy của Trần Đoàn) bày ra, chỉ mấy ổng chơi với nhau nên rất ít người biết và đã tuyệt tryền từ lâu lắm,(ngay bên Tàu cũng không có),, bây giờ với góp tay của Quý Bạn, mong rằng môn này sẽ được phơi bày để tưởng nhớ đến công đức của chư vị Lão tổ.

Xin giải tiếp:

3/ Ấu chúa chỉ mới 2- 16 tuổi:

Tử vi cư Tý, Thủy nhị cục là 2t, cao nhất là người Hỏa 6 cục, Đại hạn đầu tiên là 2t -12 t, hoặc 6- 16, vậy nói chung là từ 2 - 16. Chúa lúc đó Không thể lớn hơn số tuôi này.

4/ Việc Triều chính giao cho Đại Thần:

Cung Quan lộc của 1 ông Vua,không phải là thường dân, nên hiểu là việc triều án, cung này có Liêm = chủ về Quan sự, hình ngục, liêm chính cho nên gọi là Hình Bộ TT, Thiên Phủ = Chủ tể Nam cực chư Tinh, chức vị giống như 1 Phó Vương, nên gọi là Thái Phó.

4/ Thái hậu không nắm Thực quyền:

Tiên đế mất, Vua kế vị còn trẻ, thường thì Thái hậu có quyền thùy liêm thính chính, nhưng ở đây Phụ Mẫu VCD, Thái Âm lại cư Tỵ = gọi là Tỵ vị = nhường, tránh né, ẩn náu. Mẫu thân có con lên làm Vua mà phải tỵ vị và vô quyền (ÂM Hãm = vô Quyền) thì ngờ là không phải Mẹ đẻ. Âm = còn chỉ Quần nữ, nên gọi là Phi Tần).

Tỵ = Đông Bắc. Dinh Thái tử theo tục lệ phải ở phía Đông của Cấm cung, cho nên nói là ở gần Cựu Dinh, vì Thái tử lên ngôi tất nhiên phải move nhà!

5/ Lão Tướng phòng vệ Cấm thành:

Tham cư Hỏa địa (Ngọ) là Tượng 1 Tướng lãnh đã từng xông pha trận địa (nơi khói lửa), Tham thuộc Mộc, Trường sinh tại Hợi, đến Ngọ là Tử, tức chỉ sống dưới 10 năm thì chết (Đại hạn tới là Mộ = nhập mộ = chết), nếu không già thì gọi là gì? Ngọ cung = Cấm thành.

6/ Hoàng huynh đang liên kết với Thái Hậu:

Thiên Cơ = chủ về anh em, Hợi = Tây Bắc. Trục Âm - Cơ = âm mưu giữa Thái hậu và các Hoàng Huynh (Cơ = cơ mưu, Âm = u ám, âm thầm / cũng chỉ Thái Hậu. Đám này vì không có thực quyền, thấy Vua còn trẻ, nên tính chuyện đoạt ngôi.

7/ Trong nước ổn định:

Thiên Phủ, Vũ khúc đều Miếu/ Đắc = kho vựa, kinh tế ổn định. Phía Tây thùy thấy Vũ - Tướng đóng nên đoán là có can qua ở đó. Vũ - Tướng Đắc địa ở thế mạnh, chứng tỏ Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh.

8/ Mùa màng:

Thiên cơ = cơn đói, nạn đói. Cơ cư Hợi = nạn đói đang xảy ra ở những chỗ ngập lụt, tuy vậy vẫn còn cá..khô để ăn, vì Hợi = Song ngư tòa.

Tỵ là Hỏa địa, chỗ đất nóng, mà thấy khí tròi âm u (Thái âm), và Tỵ = Tốn cung = chủ về gió bão, cho nên nói là có bão lụt.

Điền cung Vô chủ tinh, trống rỗng, cho nên nói là dân cư xiêu lạc, đồng ruộng thiếu nhân canh. Tuy nhiên kho thóc còn đầy đủ nên chưa đói lắm.

Đồng - Cự cư Ách = đang có sự kêu ca của dân chúng (Đồng = cùng nhau, đồng bào. Cự = kêu la, cụ nự), chỗ này tùy tình hình chính trị, kinh tế mỗi Thời, mỗi nơi, mỗi nước mà luận.

2/ THẾ CỜ LOẠN THẾ ANH HÙNG (ANH HÙNG THỜI LOẠN)

Tức Thiên Tướng cư Mão cách.

Thiên Tướng cư Mão là nơi lạc hãm,nơi đây có Tượng là:

- Liều mình vì nguyện ước.

- Dấn Thân chống cường tặc.

- Phê số là: Sinh bất phùng thời:

Nếu ngộ Ác tinh, Kỵ: Kình Đà Hình Triệt / Phá Đà Kiếp./ Hỏa Linh xung phá. Giáp / Canh sinh nhân = chủ khốn trệ, bất hiển.

- Phê số là: Phát võ Hầu Bá.

Nếu gặp: Sinh / Vượng + Đào Hồng Tả Hữu Quyền Xương (số Lã Bố). Hoặc ngộ Hình Quyền Tướng Ấn + Hổ Khốc Mã =

Đại công cáo thành. Ngộ Tả Hữu xương khúc = chấp chưởng đại quyền. Ất / Tân sinh nhân = Cát lợi.

BÀN CỜ:

Trên Bản đồ lộ số nhà Vua đã bò trống Kinh Thành, chạy tỵ nạn về hướng Đông Bắc, có mang theo 1 Đại Tướng và đoàn tùy tùng hộ giá.

Quân phiến loạn đã dàn 2 Binh đoàn đang trên đường Tây tiến, nay cách Hoàng cung 60 Dặm. Dân chúng hoảng sợ di tản bằng đủ loại phương tiện, cảnh vườn không nhà trống kéo dài đến gần trăm dặm!

Các Phiên Thần thì đang ở xa, nơi sơn cùng thủy tận không kịp về cứu giá, tình hình rất là nguy ngập,vì phần chính là lương thực rất giới hạn. Đại tướng quân thì không thể bỏ vua ra chiến trường ứng địch, còn lại đám bồi Thần, Mưu sĩ có trí mà không có sức thì làm gì được trong lúc kinh thành nguy loạn?

1/ Vua đã bỏ trống Kinh Thành:

Tử Vi từ Ngọ cung là Kinh đô chạy về đồn trú hưởng phước ở Tỵ cung (Tây Nam, không phải Tây Bắc), có mang theo 1 Đại Tướng tùy giá là Thất sát.

2/ Quân Phiến loạn đã dàn 2 Binh đoàn...:

Trong bàn cờ này, Thiên Tướng cư Mão tọa Mệnh được xem là nhân vật Chính, do đó Đối cung chính là đối phương =

phe Phiến loạn, 2 Binh đoàn = Liêm / Phá mỗi Tướng quân dẫn 1 Binh đoàn.

Cách Hoàng cung (Ngọ môn) 60 dặm:

Quân Phiến loạn cách Kinh Thành (Ngọ cung) chỉ có 2 cung 2 x 30 độ (1 cung = 30 độ) = 60. Cảnh vườn không nhà trống kéo dài cả trăm dặm vì + thêm Hoàng cung.

3/ Các Phiên Thần thì đang ở xa:

Thiên phủ = Phiên thần, tại Hơi cung là cung cuối cùng của vòng Đia chi,là nơi Mã không còn đường chạy (Mã cùng đồ) vã lại Hợi cung = Đại hải thủy nên gọi là chốn sơn cùng thủy tận.(sơn cùng = núi chạy đến biển thì phải dừng / sông (Thủy) cũng vậy }.

4/ Tuy có Cơ Lương tại Thìn nhưng vì đang loạn lạc, Điền tại Ngọ bỏ không, nên nói lương thực giới hạn.

Tình hình nguy ngập như vậy, rơi vào thế không ai ra ngăn giặc, Thiên Tướng lúc này đang ở sơn lâm (Mão) chắc đang là..Động chủ như Lê Lợi vậy, trong tay chưa có sự nghiệp (Quan lộc trống không), chỉ nhờ vào sự ủng hộ của 1 vài lãnh tụ địa phương (tay phải nắm Tài tinh Thiên Phủ) mà đến lúc phải đứng ra đối diện với quân thù.

Cách này nếu thành lập thành công thì có thể gọi là Loạn thế phùng Quân cách!

Xưa thì Cách này giống như tình thế của Anh Hùng Lê Lợi.Gần đây thì thấy giống như Đệ Nhị CH, thế Giặc cũng từ Tây nguyên tràn xuống (Dậu = Tây nguyên), đồng bào kéo nhau mang gia đình, vợ con, lều chõng, xe cộ, tài vật..v.v bám theo sát chân..lính Ngụy, cái bọn lính Ngụy này chạy đến đâu đồng bào chạy đến đó, không hiểu tại sao, cảnh vườn trống nhà không, chó không sủa mèo không kêu (vì đói,không ai cho ăn), khói lủa thì đâu đâu cũng có (đám đông chạy loạn bị Phiến quân lấy đại bác nện theo, xác chết nhiều đoạn làm nghẽn cả lối xe chạy), đọan đường tản cư gian hiểm này dài bao nhiêu? có bao người ngã gục? chẳng ai thèm nhắc đến, 1 trang sử đã qua.

Có điều TT Thiệu lại chạy về hướng Đông Bắc, và Thiên Tướng là ai cũng không bao giờ xuất hiện, đây đúng là thời buổi của những Anh Hùng vô lệ (không còn nước mắt để khóc), những anh Hùng sống trong Thành phố đông người mà thấy bị rình rập, lẻ loi và helpless! đây là thời đại của oan khiên ngút ngàn, tất cả những gì xấu xa ghê tởm nhất đều được đánh đổ lên con người và nhân phẩm của họ.

Đâu còn cái gì là của Anh Hùng thời loạn?

3/ THẾ LIÊM THAM TỴ/ HỢI

Tượng: Tha hóa kỷ cương,

Nhũng lạm dâm tà,

Ác nhân ác báo.

Phê số: Hình trượng nan đào.

Nam đa lãng đãng nữ đa dâm.

Tửu sắc táng thân, lưu đãng thiên nhai, bất thuần khiết, tao quan hình.

Hạ tiện cô hàn, bôn tổ ly gia.

Giáp Bính Mậu Kỷ Nhâm: dù được hưởng phúc cũng không bao lâu, ngộ Lộc tồn = phú quý khả kỳ.

Liêm Tham Tỵ / Hợi + Xương Khúc = đa hư thiếu thiệt.

Nếu gia thêm Hóa Kỵ, tuổi Bính bị họa, tuổi Giáp bất nghi.

Hội Kình tại Dậu = gông cùm khó thoát.

Nữ Mệnh: Các tuổi Bính Tân Ất Mậu = Thanh bạch..

Đa Sát tinh ; Xướng kỷ.

LIÊM THAM Tỵ / Hợi là 1 thế cách rất hay, còn tồn đọng những bí ẩn chưa ai giải thích, như tại sao Liêm thuộc HỎA rơi vào Hỏa cung mà lại xấu, Hãm?? Điều này tuy nhỏ, nhưng nếu giải thích được thì có thể áp dụng để giải thích những ngờ vực tồn đọng trong các tư thế Đắc Hãm còn chưa được giải quyết 1 cách rốt ráo.

Cũng như Cách Liêm Tham Tỵ / Hợi được gọi là VÂN LẬP VÔ PHONG! Tại sao?

Sao gọi là Đồ tể cách? Lãng đãng cách?

1/ LIÊM THAM TỴ / HỢI: VÂN LẬP VÔ PHONG cách.

Liêm là Âm Hỏa,tại Tỵ thuộc Bính Hỏa, tại Bính, Tứ Hóa là ĐỒNG CƠ XƯƠNG LIÊM, như vậy Liêm tại Bính (Tỵ) thì Tự Hóa và biến thành Hóa Kỵ!

Hóa Kỵ là Ám tinh có tượng là HẮC VÂN (mây đen), tại Tỵ = Tốn cung, chủ về gió bão, gió lại chủ về Thời cơ/ cơ hội. (như các câu Long Hổ phong vân, Long tòng vân Hổ tòng Phong, Phong vân tế hội, Đón gió trở cờ v.v Long Hổ là chỉ Anh hùng hào kiệt, Phong vân là chỉ Thời thế.

Ở dây ta biết Gió = chỉ cho Thời cơ, nhưng vì Tham Mộc cư Hỏa địa, hôi tận, cháy thành tro than ; Liêm tuy là Hỏa lạc vào Hỏa địa thì ĐẮC, nhưng đã tự Hóa thành Kỵ,như vậy 2 Chủ Tinh đều thuộc tình thế không Đắc cách,bị Hãm lạc cho nên khó gặp Thời cơ, tựa như 1 đám mây đen lơ lửng giữa lưng trời đứng gió, đó là nguyên nghĩa của Vân lập vô phong.

Mấy Cụ thời xưa rất thâm thúy,lại dư thì giờ nên có nhiều dịp để chơi chữ, người xưa đặt tên cho con cháu hay cho 1 con sông, hòn núi, hay tên 1 địa phương nào cũng vậy, nhất là tên Hiệu, Thụy/ Húy.v.v đều nghiên cứu rất kỹ, như 1 địa phương muốn thay đổi cái name của nó cũng phải đệ đơn lên, bị bác vài lần (thay đổi tên vài lần) mới được chấp thuận chứ không phải như ngày nay cứ đặt tứ tung, tên đường là Lê văn Tám! Võ thị Sáu, Kách mệnh tháng Tám, Ba tháng Hai, kết hợp với Đường số Bốn ngày xưa (tức Hồng Bàng / Charles Thompson) và đường Bùi hữu Nghĩa (đường số 5 & 7 cũ) với lại đường Église (Rue de # 1) thì ta sẽ có 1/2/4/5/ 6/7/8 số nào cũng có gần đủ 10, cứ làm như chơi số đề!

Đường Tự Do (Catinat) ngày xưa ngay trung tâm TP có tên hay như vậy đổi thành Đồng khởi (= Cánh đồng của những con khỉ / sự đồng lòng của bầy khỉ)nói chung thì nghe cũng hay hay, tuy có hơi rừng rú 1 tí.

Nhớ lại ngày xưa Nguyễn Ánh (không phải Nhạc sĩ Nguyễn ánh 9 đâu nhá) cùng triều thần bàn định việc phong Hiệu, không biết tay nào đưa ra từ GIA LONG thật là quá hay, Đời Hậu Nguyễn đến thời Nguyễn Ánh ai cũng cứ tưởng là đi đứt (Hoàng tộc bị giết gần hết) thế mà làm cách nào Nguyễn Ánh lại lóp ngóp bò lên được ngôi Vua thi không ai hiểu nổi. Gia = thêm vào, dựa theo âm vận. Long = Long mạch. Gia Long = nối tiếp, kế tục Đế nghiệp của nhà Nguyễn. và Gia = Gia Định Thành.

Long = Thăng Long Thành. Gia long = sự thống nhất đất nước từ Thăng long đến Gia định. Như vậy Hiệu Gia long có 2 nghĩa mà nghĩa nào cũng hay.

2/ LÃNG ĐÃNG CÁCH:

Tại Tỵ / Hợi, Liêm - Tham đều là Đào hoa tinh, dễ đa tình, đa dâm, đa phu / thê. Tỵ lại là 1 trong tứ Sinh / Mã. Liêm Mã / Tham Mã = Chơi bời phóng túng, không chịu ngồi yên ở nhà, vì thế có câu:

Nam đa lãng đãng, Nữ đa dâm.

3/ Phu Thê cung nếu có Liêm Tham Tỵ/ Hợi hoặc VCD bị Liêm Tham chiếu cũng vậy:

Thường thích lấy Vợ / Chồng là người đã trải qua kinh nghiệm (thường là có 1 đời vợ/ chồng), chứ không thích trai / gái mới lớn lên còn origin!

Vì Liêm = còn có nghĩa là Liêm khiết, thanh khiết.

Trinh khiết (còn Trinh trắng). Thế nhưng em gái Liêm rơi vào Tỵ cung bị Hãm!!! lại thấy có thằng quỷ dâm chúa Tham lang bên cạnh thì còn zì là....

Thôi dồi một đóa phù dung,

bướm ong nay đã thong dong mấy phùa...

4/ Có khuynh hướng thích CHÍNH TRỊ:

Liêm -Tham cư T/ H có tả = VŨ - SÁT, hữu = TỬ PHÁ, tức 1 mặt nhắm vào cái ghế của ông VUA Tử vi, một mặt khác nhắm vào Tài lực (VŨ) và Quyền hành (Sát, Vũ), cho nên tham vọng về chính trị khá rõ nét, chỉ cần Mệnh có Tuần / Triệt + Cát tinh là có khả năng lãnh đạo, tham chính và ngồi ở những chức vị cao (khoảng trên dưới Thống Đốc cho đến Tổng Thống / Chủ tịch Nước), nhưng cách này thừa hay bị ngồi Tù khá lâu rồi mới được lên ngai Vua (nước ta có Phạm Hùng từng tắm biển ở Côn đảo / Phi châu có ông TT gì quên tên cũng nổi tiếng lém, ngối tù trên 20 cuốn lịch xong mí làm TT).

5/ ĐỒ TỂ CÁCH:

Tại sao LIÊM THAM T/ H lại là đồ tể cách?

Cái này phải giải thích về Hình tượng:

THAM = Thịt các loại, thịt heo, con heo.

LIÊM = Hàng rào, nhà tù, cái chuồng...

Mệnh viên mà thấy có CON HEO cùng CÁI CHUỒNG = cái chuồng heo, Mệnh viên là tượng cho khung viên cái nhà mình ở lại có cái chuồng heo bên trong!

Quan Cung thấy có: VŨ / SÁT.

VŨ = cắt ra, mổ ra, chia ra, phân ra.

SÁT = giết

Vũ Sát = giết mổ, cắt giết.

Mệnh có chuồng heo, Quan lại chủ về giết mổ thì đương nhiên là làm nghề liên quan đến ĐỒ TỂ, có khi làm nhân viên xắc thịt, cung cấp thịt, làm trong những hảng xưởng cung cấp thịt bò, heo, cũng có khi làm những nghề như Công an đặc biệt, Sát thủ, Đao phủ thủ.

Ở những lá số bị giết xong bị cắt ra như vụ án không đầu, thường thì nạn nhân bị dính vào 2 cách trên.

LIÊM THAM Tại HỢI:

Nếu dùng tính chất Ngũ Hành thì thấy Liêm tại HỢI = Hỏa bị TỬ / TUYỆT. Tham Mộc lâm Hợi tuy là ĐẮC (Thủy cung sinh Mộc) nhưng không Hợp Cách là vì THAM là loài GIÁP mộc (Dương Mộc), Giáp Mộc sẽ bị phiêu phù (trôi nổi/ trôi giạt) tại Hợi vì Hợi cung nước nhiều mà không thấy có Thổ.

Như vậy tại Hợi, Liêm Tham vẫn tiếp tục bị HÃM. Về Tính cách thì vì nằm trong chung Trục TỴ/ HỢI nên Tổng quát mà nói thì luận giải như Liêm Tham cư TỴ, CHỈ KHÁC VÀI CHỖ:

- liêm tham cư Hợi nói chung đỡ vất vả hơn Tỵ vì sở đắc ÂM DƯƠNG sáng! Bộ ĐỒNG LƯƠNG / THIÊN CƠ cũng đắc cách hơn, nên phải nói Liêm Tham cư HỢI không có gì đáng lo cho lắm.

- Hội KÌNH tại MÃO (thay vì DẬU) = dễ tù tội.

- Tuổi KIM ngồi tại Thủy cung cũng đẹp, có sách nói cần thêm Hóa Kỵ, nhưng có lẽ KỴ là cần cho cung TỴ, chứ tại HỢI Thủy vượng không có lý cần thêm Hóa Kỵ.

- HỎA Mệnh tọa Hợi = Tử Hỏa, bất Cát.

VỀ Tính lý của Hành HỎA trong Tử vi, ta vẫn chưa xác định rõ ràng, chẳng hạn như có Bạn hỏi tại sao gọi TỴ LÀ Bính? (mà không phải là Đinh).

Gọi Tỵ là BÍNH là dựa theo cách An LỘC TỒN:

BÍNH / MẬU thì LỘC TỒN tại TỴ.

Đúng ra theo Luật ÂM / DƯƠNG thì TỴ = ÂM cung, Hỏa tại Tỵ phải là Âm Hỏa chứ?

Thật ra không hoàn toàn như vậy, có thể là Ngũ Hành thuộc Dương sẽ tọa ÂM cung và ngược lại, chẳng hạn như:

NHÂM Thủy là Dương Thủy tọa Âm cung (Hợi),

QUÝ Thủy là Âm Thủy tọa Dương cung (Tý)

Hai Hành MỘC và KIM thì thấy An đúng Vị Âm Dương.

NGOÀI ra Cách VÂN LẬP VÔ PHONG cũng chỉ dùng cho Liêm Tham cư TỴ, Đối với HỢI thì không đúng.

- Các Cách lãng đãng, phiêu lưu, mạo hiểm, Đồ tể, Dâm đãng, v.v đều áp dụng được tại HỢI,

- CÁCH tù tội tại HỢI vẫn áp dụng được nhưng không thể giải thích bằng Ngũ Hành mà phải giải thích bằng Cung vị.

(TUẤT - HỢI = Địa Võng, Thìn - Tỵ = Thiên La. Liêm Hãm = Tù Tinh Liêm cư Võng / La = TÙ TINH NHẬP VÕNG cách.)

Thổ Thành hay không thành là luận về KHÍ, cái này tôi đã luận qua trong 1 bài Tử Bình rùi, Còn đây là đang luận về CHẤT (không phải Vật chất nha!) cho nên nói không thấy THỔ (Hợi cung thành phần gồm NHÂM = 70 %, GIÁP = 30 %). Muốn hiểu tại sao Giáp trôi mà Ất không trôi thì phải vận dụng..đầu óc, nếu nghĩ không ra thì cò thể hỏi TkQ.

Khi luận Liêm Tham tại Hợi thì đa phần phải focus vào Trục Tỵ Hợi và lấy nó làm Chính để luận, vấn đề thứ nhì phải biết là dù có Khí mà không có Chất thì cũng chẳng làm gì được, tựa như biết làm và muốn làm 1 cái bánh Pizza mà lại không có bột vậy. NẾU HẠN có TRIỆT ở Liêm Tham Tại TỴ thì đã phá đi Cách Vân lập vô phong và những cách xấu khác, nếu tại đây có thêm đa Cát tinh thì sẽ thành Phản vi kỳ, rất đẹp.

Liêm Tham Tuyệt Linh là 1 cách rất HAY, thứ nhất là Bộ này không cần phải đóng tại Tỵ/ Hợi, tuy rằng tại T/H dường như có Tác dụng mạnh nhất. Thứ nhì là không cần phải đồng cung 9 Đồng cung thì nguy lắm),

Thứ ba, riêng bộ này đã có nghĩa là Bần khổ cô yểu rồi, gặp riêng Bộ này đã muốn...die rùi, cần gì phải có thêm bộ Kình Kiếp Không Hư Mã? vì riêng Bộ K KK HM đã có nghĩa là cô bần rùi. Cái này cũng giống như đập 1 Búa thấy còn ngáp ngáp thì chơi luôn 1 cái Búa tạ nữa cho..chắc!

Làm Chính trị ở thế Tử Phá / Liêm Tham thì phải chịu cảnh 3 chìm 7 nổi, vào tù ra khám, suýt mất mạng mấy lần mới Thành công chứ không phải thuộc loại ngồi trong Khách sạn Caravelle đưa Thỉnh nguyện thư...chống Chính phủ, không thể nói Đại Hạn tại TỴ lên hay không lên, Tuy rằng lá số này rất có Bản lãnh. Vì còn tùy thuộc Hoàn cảnh Khu vực, thế đứng của Đương sự, Thế của Đối phương (CQ), có những thứ có tính cách QUYẾT ĐỊNH mà nó lại nằm ngoài lá số.

4/ TỬ - THAM MÃO / DẬU CÁCH

Tượng: - Hôn Quân sa đọa.

- Bất Trung bất nghĩa cận gian nhân.

- Phụ nhân lưu lạc Phong trần.

- Quốc sư hối lẫn cách. Tăng nhân hữu sư hiệu.

- Thái Hoàng quy ẩn.

Phê số: Sa đọa, thối nát, bất nghĩa.

A/ TỬ - THAM cư MÃO:

Tuổi ẤT / KỶ / TÂN: kiến HỎA TINH = tốt đẹp, Quý.

GIÁP / ẤT / CANH /TÂN = Hưởng Quý cách nhưng không lâu bền.

HỢI / MÃO / MÙI = Cuối đời chẳng ra gì (chung thân bất năng hữu vi).

Phê: Nam Nữ tà dâm.

Bất trung bất nghĩa

Nặc cận gian nhân (Che giấu và gần gũi kẻ gian).

* Nếu không có TẢ HỮU + XƯƠNG - KHÚC lai chế = Vô ích chi nhân.

* Nếu XƯƠNG - KHÚC đồng cung = Đa hư thiếu thiệt (gian trá).

* Phùng KÌNH - ĐÀ = chỉ nghi kinh thương.

* Ngộ KIẾP - KHÔNG hoặc TỨ SÁT (K Đ L H) = Vi Tăng nhân.

* Nữ Mệnh: dễ sa ngã, đa DÂM / SÁT tinh hội = Lạc phong trần.

* Gia thêm XƯƠNG - KHÚC / CÁT tinh = đa phong lưu.

* Gia Lộc tồn = đa hưởng thụ.

B/ TỬ - THAM cư DẬU:

Tuổi GIÁP / ẤT / KỶ / CANH / TÂN = Chủ Quý nhưng không bền.

TỴ / DẬU / SỬU sinh nhân = Chung cục không ra sao.

Phê: Nam Nữ Tà dâm, Bất trung bất nghĩa, nặc cận gian nhơn.

* Vô TẢ HỮU - XƯƠNG KHÚC lai chế = Vô ích chi nhân.

* XƯƠNG - KHÚC đồng = Đa hư thiếi thiệt.

* Ngộ KÌNH - ĐÀ = Chỉ nên kinh thương.

* KÌNH DƯƠNG đồng = Vi đồ tể.

* Ngộ KIẾP - KHÔNG / TỨ SÁT = Tăng đạo.

* Nữ Mệnh đa Dâm / Sát = dị lạc phong trần.

Gia Tứ Sát = Nhật hậu bất mỹ (Về sau không tốt).

TỬ - THAM MÃO / DẬU = CỰC cư MÃO / DẬU Cách =

ĐÀO HOA PHẠM CHỦ CÁCH.

Tử vi = KỶ Thổ. THAM = GIÁP Mộc, khi Tử - Tham đồng cung, vì Tham đối với Tử vi là Quan tinh, do đó Tham có thể khắc chế, thống ngự (về mặt tinh thần) đối với Tử vi. Có nghĩa là Tử vi bị ảnh hưởng bỡi Tham lang.

Tử vi có tượng là Vua, Tham có tượng là Chính Đào hoa, là Dâm tinh.

Tại vị trí Mão / Dậu đều là vị trí Mộc dục, chủ về Dâm tàng và còn gọi là Bại Địa.

(Mộc dục: Vị thế Môc dục không có sách nào giải thích rõ ràng, Tam Mệnh thông hội cũng chỉ nói sơ qua. Theo tôi vì đây là chỗ mà Dương Ngũ Hành chuyển hóa qua Âm Ngũ Hành, tức từ Chính chuyển qua Phụ (Thứ cấp), từ Cương hóa Nhu, từ Hiển lộ thành Âm ám...mà lúc này thể chất vừa mới hoán chuyển, còn khá mong manh, tựa như thể chất của 1 đứa bé mới được sinh (Trường sinh) ra 3 ngày thì được làm lễ tắm gội (Mộc dục), cho nên bị gọi là Bại.)

Tử vi vi lúc này cư Bại địa, có nghĩa là không ở Thế Đắc địa, cho nên gọi là " Bất khả thi công " (khó bề thi thố), kiểu như là thúc thủ, bó...tai!

Mão / Dậu lại là ĐÀO HOA chi địa (Trụ sở của Đào Hoa).

Tóm lại, Tử vi tại Mão / Dậu đứng ở vị thế Bại địa, mất nhiều quyền ban bố hiệu lệnh cũng như giải nguy. Lại bị Tham lang khống chế, sống chung với Tham tại cư sở của Đào Hoa cùng Mộc dục, nên đã hình thành thế cách:

Tử + Tham + Đào - Mộc.

Tham đào Mộc là 3 Dâm tinh, đam mê sắc dục và ham chơi, phù phiếm, Tử vi lại không thể tự chủ (bị khống chế) cho nên Cách cục này bị xem là Hôn Quân sa đọa / Đào Hoa phạm Chúa / Bất trung bất nghĩa cận Gian nhân.v.v.

Một vài Tạp cách trong Thế Tử -Tham M / D:

1/ Tử -Tham ngộ Không - Kiếp / Tứ sát:

Cách này được gọi là " Đa vi thoát tục chi Tăng.", có Cách này thường là những Bậc tu hành có Sư hiệu, có tăm tiếng. Nếu lá số đẹp, có thể là Lãnh tụ giáo phái, chi phái, hoặc thậm chí là Quốc sư. Trên thực tế thấy nhiều khi không cần Tứ sát / Kiếp - Không:

Như Lá số của Thích trí Quang, lãnh tụ phe Ấn Quang đã từng xách động nhiều cuộc biểu tình chống phá chế độ ô. N Đ Diệm:

24 tháng 11 ÂL, QUÝ HỢI, GIỜ: MÃO.

2/ Tử -Tham - ĐÀO / RIÊU:

Đây là cách dâm loạn, dễ sa ngã, dễ lạc phong trần, nhưng phải cẩn thận, đừng vội vã kết luận vì khi đi với vài Bộ sao Đặc biệt (Bạn nào thích nghiên cú xin PM, sẽ trao công thức) sẽ có phản tác dụng, lật ngược lại tình thế 180 độ.

3/ Tử -Tham + HAO -KỴ:

Cổ ca có nói:

Tử vi Mão / Dậu Kỵ tương phùng

Văn Khúc sa đà khởi hữu thành

tá vấn thử thân hà xứ khứ?

Nạp y tiêu phát lập không Môn...

Hao ở đây không phải là Đại / Tiểu Hao mà là 1 tên gọi khác của Văn Khúc, có Cách này thường tiền tài bất tụ, mưu sự khó thành, sự nghiệp tay trắng hoàn không, hay nhất là cắt tóc (tiêu phát) quy y (mang áo Nạp y = áo vá trăm miếng, áo cà sa).

Tạm kết:

Tử - Tham tại Mão:

Mão = Lâm tuyền, cho nên được gọi là Vua ngự lâm tuyền, có nghĩa là đã thoái bào nhượng vị trở về quy ẩn, tu hành ở chốn Thiền lâm. Mão = Đông sơn (Eastern hill, Eastern monastery), vì lâm lúc nào cũng đi với sơn (núi rừng), thể như Hoàng Mai đông sơn là 1 Thiền phái ngày xưa.

Tử - Tham cư Dậu:

Dậu = Tây sơn, dãy núi phía Tây của Trung hoa chính là rặng Côn luân, phía Tây Côn luân là các Thiền phái áo đỏ của Tây tạng. Dậu ở đây cũng có nghĩa là Tây phương, là cõi Cực lạc, Đông sơn và Tây sơn vì thế đều có nghĩa là nơi am viện tu trì, nên có khi nói Trục Mão / Dậu là phương tụ hội của chư Phật / Thánh.

Thế Tử -Tham M / D vì những liên hệ bên trên, nên nặng về cách tu hành, Tử vi là Vua khi đi tu thì đã thoái vị, chỉ còn uy danh, quyền lực vì thế rất giới hạn nên sách nói là Đế bất khả thi công.

Tại MÃO cung, thuộc quẻ Chấn, chủ về sấm sét, nhưng bỡi Tử vi hay Tham lang đều có công năng áp chế được Hỏa / Linh cho nên cách Hỏa / Linh Hình Việt thừong mất tác dụng.

Vua bị sét đánh: Trong sử Tàu, có 1 ông Vua bi sét đánh đến mang bệnh (không có lá số), còn có vài ông Vua thì lại rất sợ tiếng sét, còn chuyện sét đánh cung điện lâu lâu cũng thấy xảy ra.

Tử -Tham cư MÃO: Thì Thái dương cư TÝ (Nhật lạc Nhàn cung)trong khi T-T cư DẬU thì Thái dương cư Ngọ cực Miếu, cho nên T-T tại Dậu tốt hơn tại Mão (chưa đề cập đến các Trung bàng tinh), Thái dương tuy không lạc vào Chính cung nhưng cũng lạc vào Hạn/ Vận và Nội cung mà Thái dưong là Quan lộc chủ tinh nên có cơ hội hơn.

5/ THẾ ĐỒNG - CỰ SỬU / MÙI

TƯỢNG: - NHÂN DÂN TA THÁN

Chống đối liên miên.

Chỉ có người nói, không có người nghe.

- CHÍNH QUYỀN /HÀNH CHÍNH BẤT TÀI,THAM Ô.

Phê số:

MÙI CUNG:

Vì ĐỒNG - CỰ cùng cư Lạc Hãm chi địa, ÂM - DƯƠNG cũng Hãm Lạc, nên Phê là HẠ CÁCH, BẦN CÙNG CHI SỐ (Chưa xét kỹ từng lá số, đây chỉ là Cách cục Sơ quát.)

SỬU CUNG:

ĐỒNG - CỰ cùng Lạc Hãm, ÂM - DƯƠNG đều Miếu địa, cho nên được liệt từ HẠ cách cho đến Trung cách.

CÁCH CỤC:

ĐỒNG - CỰ cư SỬU / MÙI: vì Nhị tinh đều lạc Hãm, cho nên Bản thân vô lực, Thiên Đồng khó lòng phát huy hết tác dụng của chữ PHÚC, lại thêm CỰ tinh nên Nam Nữ Mệnh tọa đều bị lao khổ, thị phi, chủ về Sơ vận trầm kha, nếu ngộ đa Sát tinh càng thêm nghiệm.

ẤT / BÍNH / TÂN sinh nhân, nếu ngộ được TỨ CÁT trở lên = Tài Quan cách, sự nghiệp thành công.

ĐINH sinh nhân nếu có ĐỊA KIẾP đồng cung + TỨ CÁT = Thành công trong lãnh vực kỷ nghệ, kinh doanh

CÁCH CỤC (Tiếp..)

1/ MỆNH VCD tại MÙI, ĐỒNG - CỰ tại SỬU cung chiếu Mệnh:

Các tuổi ẤT / ĐINH / TÂN / QUÝ + TỨ CÁT (hoặc Lục Cát càng tốt) = Là cách MINH CHÂU XUẤT HẢI, chủ là người Tài hoa, thường trải qua buổi thiếu niên lịch luyện, gian nan sẽ được thành công trong sự nghiệp, được nhiều người tán dương, nếu Đại hạn gặp Cách này, được hưởng 10 năm quang thái, nếu tại Tiểu hạn dễ được thăng thưởng trong công việc.

2/ MỆNH VCD tại SỬU, ĐỒNG - CỰ xung chiếu:

Vì có ÂM - DƯƠNG Hãm chiếu, nên nếu không gia hội Cát tinh thì là Hạ cách.

3/ Mệnh an Mùi cung, có ĐỒNG - CỰ Đồng cung:

Không phải là Cách Minh châu xuất hải, nếu có đa Cát tinh thì Tốt, ngược lại phùng Hao Bại Sát tinh = Tân lao thị phi bất miễn. Sự nghiệp gặp nhiều trắc trở, Phu Thê cung Thái Âm Hãm, Thái dương Hãm địa tại Phúc cung, đều chủ không đẹp.

Các PHỤ CÁCH:

- ĐỒNG -CỰ = Tại Mệnh / Thân, là người ưa la mắng, cự nự Chồng con.

- ĐỒNG - CỰ + KHÔNG - KIẾP = Là kẻ ưa phản đối, chống báng, tạo phản.

- CỰ - ĐỒNG - TRIỆT = Tại Đại hạn, chỉ khai mở bế tắc, được Hạn hanh thông, nếu đa Cát tinh càng tốt.

- CỰ - ĐỒNG -KỴ = ưa cự nư, kình cãi cho nên dễ bị cô lập, xa lánh.

- ĐỒNG - CỰ - THANH LONG = Lão bạng sinh châu cách, Cha già con mọn.

Vòng THÁI TUẾ là 1 vòng áp út (còn 1 vòng Tướng tinh nữa), em áp út mà muốn vọt lên làm Anh hai thì chắc cũng vì...tranh đoạt gia tài í, hí hí,,,

Đại khái là mấy cái Thiên can đó coi vậy mà khá quan trọng, trước 1975 tui thấy mấy ông Thầy bói nổi tiếng thường thuộc như cháo mấy cái Thiên can này theo từng Cách Cuc một, ví dụ 1 ông Thầy cầm lá số lên thấy Thân chủ có cách Âm - Cơ Dần / Thân thì ông ta phải nhớ ngay các tuổi GIÁP/ BÍNH / ĐINH, (+ Tứ/ Lục Cát) là những lá số vượt trội nhất. Ngoài ra còn có những Thiên Can xấu nhất nữa, cho nên Thầy mà muốn coi cho nhanh, người ta nể phục mà vẫn không sai nhiều lắm là đều phải dùng chiêu Thiên can này. Nhìn lá số chưa tới 1 phút là có thể đánh giá đương sự ở giai tầng nào rồi.

Nhìn 1 lá số VCD Đồng -Cự chiếu cũng vậy, nếu thấy không lọt vào Cách Tứ Quý (Ất Đinh Tân Quý) thì biết là lá số này chỉ phát khoảng trên Trung đẳng (ví dụ Trung đẳng = B, trên Trung đẳng có thể là B+ hay B ++),

VÍ DỤ:

Cách Đồng - Cự Tứ Quý nếu thấy chữ Đinh là Cao cấp nhất = A.

Nếu ngộ Nhị Cát = A+

ngộ Tứ Cát = A++

ngộ Lục Cát = A +++

ngộ Tam Hóa = A+++

ngộ Nhị Sát = A-

ngộ Tứ sát = A--

ngộ Lục sát = A---

Sát tinh & Cát tinh bình hòa = A.

Nếu dùng Bảng phân chia Cách cục kiểu này thì Mỗi 1 Cách cục (Ví dụ như Cách Âm - Dương Sửu / Mùi đi) ta sẽ có được 7 Cấp số (từ A 3+ đến A 3- + A), Đó là lá số Hạng cao cấp, ta còn có Hạng TRUNG và HẠ nữa, tính ra:

7 cấp x 3 hạng = 21 Cấp.

Như vậy đại loại nếu dùng chiêu này thì ta có thể phân định được ít nhất là 21 Cấp (Levels) trong xã hội (giống như Bài Blackjack), con số này không ít mà cũng không nhiều và tương đối tương ứng với các giai tầng trong 1 xã hội.

Sự phân chia này tuy chưa được chính xác lắm (vì chưa kể những yếu tố khác như hưởng hay bị gặp những CÁCH Tốt / Xấu phụ thuộc như Long -Kỵ Thìn / Tuất, Thanh Long nhập Mộ cư Phúc.../ Ta có thể gia thêm điểm, gặp Cách Kình Đà giáp Kỵ / Kiếp Không Tài, Phúc...thì giảm số điểm).

Ngoài ra còn phải tính đến sự sai biệt Quan trọng của Cách Cục Miếu Hãm nữa, chẳng hạn, Thái Âm cư Hợi Cấp độ phải hơn Thái Âm cư Tỵ.

Nhưng BẢNG CẤP SỐ có thể cho ta 1 cái nhìn tương đối chính xác về vị trí giai tầng của 1 lá số, nhằm cho ta biết mức độ phát triển cao nhất về công danh sự nghiệp, hưởng thụ vật chất...v.v ở khoảng mức độ nào, nếu không thì rất dễ bị mơ hồ, không biết lá số này có thể làm tới Trưởng phòng hay là Giám đốc 1 Đại công ty.

Dĩ nhiên các Huynh có thể tự chế cho mình 1 dạng thang Điểm thích hợp, nếu dùng lâu ngày quen tay, chấc chắc sẽ giúp ích khá nhiều trong việc phân định mức độ thành bại của mỗi lá số..

TÓM LƯỢC Cách ĐỒNG - CỰ tại SỬU / MÙI = Diễn tả cái gì?

ĐỒNG = CÙNG NHAU, ĐỒNG LOẠT

CỰ = CHỐNG ĐỐI, KÌNH CỰ

Suy ra đây chính là cái thế của 1 xã hội phức tạp, là vì cảnh tranh tối tranh sáng (ÂM - DƯƠNG Hãm ở Mùi cung / Sửu cung thì khá hơn nhiều). Quan lộc THIÊN CƠ cư HỢI,CƠ thuộc Ất Mộc lại không thể sinh trưởng ở vùng Đại hải Thủy (Hợi) các loại Mộc tại Hợi cung đều bị phiêu phù, trôi giạt (THAM / LƯƠNG Nhị Mộc đều cũng luận như vậy không khác).

Như vậy Quan lộc có Thiên Cơ lạc Hãm, mà Thiên Cơ lại chủ về Cơ hội, cơ vận, vận hội, cơ may... cho nên có thể nói là Sự nghiệp (Quan) khó có cơ hội (Hãm),tức có nghĩa là hoặc sống trong 1 xã hội mà mình thiếu cơ may trên con đường phát triển sự nghiệp hoặc xã hội đó không dành cơ hội để mình vươn lên, hoặc giả chính bản thân của mình (Đồng - Cự = dễ cự nự, nhất là đi với Tuế / Đà / Kình / Kỵ...) có thể đã gây ác cảm cho người cộng sự chung quanh mà làm cho con đường tiến thân bị trì trệ.

Tài cung VCD lại thấy các khoản Tinh diệu hội tụ như Dương - Lương / Đồng - Cự / Cơ đều Hãm lạc!!! Như vậy Tài cư Nhược cung mà ngộ chư Hãm Diệu thì vấn đề Tài chính. kinh tế bản thân cũng khá ảm đạm, nếu không có Cát tinh gia hội.

Cũng chính vì thể hiện của kinh tế khó khăn mà Cách Đồng - Cự cư MÙI có Tượng là:

Nhân dân ta thán, vì kinh tế èo uột.

Chống đối liên miên, vì Đồng - Cự = Chống đối, mà ở ngay tại Mệnh thì có nghĩa là ngày đêm đều...chống.

Trong 1 xã hội hỗn loạn như vậy, thường thì do Thượng bất chính, cho nên lại có Tượng là:

Chính phủ/ Hành chính (Quan lại) tham ô, hối mại, bất tài.v.v

Cũng lý luận tương tự, ĐỒNG - CỰ cư SỬU hiển nhiên trông khá sáng sủa, tuy cũng đang ở thế chống đối, nhưng không gay gắt bằng tại MÙI:

Thê / Phúc có Tinh diệu Miếu / Vương, Tài / Quan Tinh tú đều ở thế Trung đẳng, nếu không có đa SÁT tinh thì hoàn cảnh xã hội và cuộc sống không đến đổi cho lắm, chỉ ngại là Tinh tú tại bản Mệnh vẫn ở thế lạc Hãm, vì bất mãn, cố chấp, kình chống hay Tham chấp (vì nhị hợp Tham lang) mà làm cho lụt chí tiến thủ, hoặc làm ngăn trở trên con đường tiến thân.

trường hợp CỰ - ĐỒNG tại Sửu mà tuổi Ất thí ta có:

PHÚC CUNG = Nhật xuất phù tang cách là 1 Cách đẹp + QUYỀN - LỘC TỒN đồng cung, cung Phúc quá tốt.

QUAN = THIÊN CƠ + HÓA LỘC.

TÀI = VCD hội QUYỀN - SONG LỘC = DỄ GIÀU CÓ.

PHỐI = ÂM - KỴ = Vợ giàu và đẹp.

6/ TỬ -TƯỜNG THÌN/ TUẤT

TƯỢNG: - VUA THÂN CHINH TẢO LOẠN.

- QUÂN THẦN BẤT NGHĨA.

Phê số: Dám nghĩ dám làm.

Tranh quyền đoạt lợi.

CÁCH CỤC:

1/ TUỔI GIÁP / ẤT / KỶ / CANH / QUÝ = Tài Quan song mỹ.

là Thần bất trung, là Tử bất hiếu.

Chỉ Phú mà không có Quý, hoặc phú quý trong giai đoạn ngắn, hoặc chỉ có Hư danh.

Ở thế Quân Thần bất nghĩa = Thần là bề tôi, soán đoạt Quân vị, vì Vua tôi tương tranh nên gọi là Quân Thần bất nghĩa.

Đế tọa LA/ VÕNG = Hoàn vi phi nghĩa chi nhân, cuối cùng cũng trở thành kẻ Phi nghĩa.

CẦN:

* TẢ HỮU XƯƠNG KHÚC = Phú quý quyền uy, bách Quan triều củng Cách. Cũng có nghĩa là thành công trong sự nghiệp, là Lãnh tụ với đức tính ôn hòa, đôn hậu.

* QUYỀN - LỘC TỒN / HÓA LỘC = Có lợi cho sự tranh quyền vị, là kè thắng thế.

* TỬ - TƯỚNG ngộ TẢ HỮU - LỘC MÃ - Trường sinh = Phú Quý Mệnh.

* TỬ + VŨ - LỘC TỒN = Vũ Lộc đồng cung tại TÀI = Kỳ cách, Đại phú quý.

* TỬ VI NỮ Mệnh gia CÁT = Quý phụ, Phu nhân.

KỴ:

* Ngộ KÌNH / ĐÀ = Nên kinh thương, dễ gặp trắc trở phiền hà.

* Ngộ HỎA / LINH = Cuộc sống bôn ba, gian khổ.

* Ngộ KHÔNG - KIẾP / Hoặc kiếp không + tả hữu =

có tính phe đảng, bè nhóm, đầu cơ, có thể là đại ca đám giang hồ, hay trùm trộm cướp. Sự nghiệp thăng trầm.

* Đa SÁT TINH = dễ thay lòng đổi dạ, vô tình vô nghĩa.

Cách Tử Tướng T / T có PHÁ QUÂN cư Thiên Di tạo thành cách PHÁ- TƯỚNG = nếu gặp thêm Sát tinh thì PHÁ = Phá bỏ, Tướng là sao chỉ về ân cần, săn đón, tình cảm, như vậy Phá - Tướng = Sau 1 thời gian ân cần tình cảm láng lai thì vứt bỏ không thương tiếc, cho nên đây gọi là Cách Bạc tình Lang. Cũng có nghĩa là đầu mặt có vết sẹo.

* TỬ - TƯỚNG NỮ Mệnh vô CÁT = Luận là Bình thường, tính tình dễ thay đổi.

* Nếu có SÁT TINH & CÁT TINH tương bán (mixed) = Đời sống thăng trầm, lên voi xuống chó, hoặc ngay trong lúc Vận tốt công danh tiền bạc đang lên thì tự dưng bị Phá tán của cải, tai ương, bệnh tật.

* TỬ TƯỚNG + VƯỢNG KÌNH = Đa mưu yếm trá.

* ĐẾ tọa Thiên La, THÂN cư TRIỆT xứ = Người Tuổi GIÁP / KỶ chung thân nan toại chí, Thê nhi ngang trái, lắm nợ thê nhi. (Tuổi GIÁP / KỶ thì Thân cư Quan ngộ Triệt, nên công danh khó đạt.)

KẾT:

THẾ TỬ - TƯỚNG cư T/ T ngày xưa có Tượng là Vua thân chinh tảo loạn là lấy ý Tử vi = Vua, Vua có mang theo Thiên Tướng bên cạnh và đối Phương (Thiên di) Là Phá Quân (loạn quân) cho nên mới có tượng là Vua tảo loạn.

Vì Phá quân cũng được liệt vào cấp Tướng lãnh (Phá quân chuyên xung phong hãm trận) của Tử vi, mà 2 bên lại ở thế đối nghịch, có ý tranh đoạt ngôi vị, nên cũng được gọi là Quân Thần bất nghĩa.

Thế Tử - Tướng - Phá nếu kết hợp lại thường bị nhận định là Thần bất trung, Tử bất hiếu là do ở cái Thế Phá - Tử mà ra,

Bỡi phá là kẻ hay chống đối bất công, áp bức, Phá - Tử = Chống phá, phá hoại 1 Vương Triều. Nhưng đối với quan niệm xưa cũ, hễ anh chống Vua, chống Triều đình là đã có tội, tức thì bị liệt vào hạng Bất trung, không cần biết anh Phá quân này đúng hay sai, có Chính nghĩa hay không.

Tử vi cũng có nghĩa là Bề Trên, bề trên thì

trong đó có Ông Bà / Cha Mẹ, một khi ra mặt chống phá lệnh trên dĩ nhiên dễ bị kết án là con cháu Bất Hiếu.

Cho nên người ta thường lấy các lá số Tử - Tướng T /T để biểu thị sự bất trung bất hiếu.

Lá số VƯƠNG MÃNG, NGÀY 9 THÁNG 3, GIÁP THÂN / GIỜ TÝ.

Chết năm 53 tuổi, xin post giùm vì tui không biết cách làm. Đây là 1 ls có Cách Tử Tướng quá đẹp, cầm quân chống lại Hán triều, nhưng tiếc thay sự nghiệp không bền,

Có những Lý thuyết mới nghe qua thì thấy quá vô lý,vì nó đi ngược lại với Truyền thống xem bói thông thường. nhưng trong đám lý thuyết Vô lý đó có vài lý thuyết nếu biết sử dụng lại rất Hay (dĩ nhiên không phải lý thuyết nào được gọi là " VÔ LÝ " cũng xài được và hay.).

Chẳng hạn Lý thuyết coi 1 lá số sinh nhằm Giờ khe thì bắt buộc phải xem 2 Lá số, lá đầu xem trước 30 và lá sau xem sau 30 mà Anh TUVI NUT có lần đề cập, trước đây tui cũng có phát hiện như vậy nhưng không thể nói ra, vì nói ra Vấn đề thì rất dễ bị phản kích và vấn đề coi 1 lúc 2 lá số thì khá Phức tạp. Với lại đơn giản là nó đi ngược với truyền thống, bị phản kích là việc phải xảy ra, nên tui rất lấy làm tiếc là Anh TUVINUT chưa thấy tái xuất giang hồ...

7/ THẾ CỰ - CƠ MÃO / DẬU

TƯỢNG: -PHÚ HỮU LÂU ĐÀI.

Phê: -VỊ CHÍ CÔNG KHANH.

CÁCH CỤC:

* ẤT / TÂN / QUÝ = Tài Quan song mỹ.

* ĐINH / MẬU = Khi thành khi bại.

* GIÁP sinh nhân + KÌNH = Phá cuộc, làm hao tán Tổ nghiệp, tự dựng cơ đồ.

* ẤT / TÂN / KỶ / BÍNH = Gia Cát tinh, vị chí Công khanh.

* Kiến KÌNH -ĐÀ = Nam Nữ tà dâm, dù phú quý cũng không bền.

* Nữ nhân = Tuy phú quý, bất miễn dâm phù.Tứ Sát xung hợp thì dâm tiện và hình khắc.

* Tam Hợp SÁT tinh tấu hợp = dễ bị Hỏa ách.

Thiên cơ thuộc Ất Mộc, cá tính linh lợi, quyền biến, sáng ý.. lại cư Mão cũng thộc Ất Mộc cho nên coi như cư trú đúng ngôi nhà của mình, là Vượng địa.

Cự môn thuộc Quý Thủy, cư Mão là đất Trường sinh của Âm Thủy, sinh cơ bất tuyệt, vã lại Mão là Tháng Hai thuộc tiết Xuân phân, thường xuất hiện những đợt mưa xuân, Quý Thủy cũng có Tượng là Mưa (vũ,lộ) nên tại Mão có thể xem như thuộc Miếu địa.

Ất Mộc là thảo mộc, vào vụ Xuân thì rất cần mưa móc, tại Mão rất hay lại được Cự môn vũ lộ đồng cung, nên Cự - Cơ tại Mão là một Cách rất đẹp, tại Dậu không thể sánh bằng.

Tử Tường Tê Tê và THÂN cư Di mà Mệnh Kim / Thủy 8n nhiều vào Phá Quân thì dựa vào Phá quân mà luận tính cách của mình sau 30 tuổi vì Thân thuộc về Hậu thiên.

Phá Quân là sao chống phá, khám phá, nghiên cứu, phá phách, sáng tạo...Phá có năng lực tiềm tàng rất mạnh, là kẻ chịu được lao khổ và nhịn được nhục (không như Thất sát không thể nhịn nhục), do đó tùy theo Phá quân đi với những sao / Bộ sao gì mà luận,

THẾ CỰ - CƠ M/ D:

PHÚ HỮU LÂU ĐÀI:

CỰ = TO LỚN

CƠ = CƠ NGƠI, CƠ SỞ.

Cự - Cơ M / D là 1 Cách đẹp như trên đã nói, mà còn có nghĩa là Cơ ngơi to lớn, cho nên có Tượng là Phú hữu lâu đài (giàu có, có xe hơi nhà lầu / vì Cơ còn có nghĩa là động cơ, máy móc, xe cộ..)

* Cự - Cơ M / D, ẤT / TÂN / KỶ / BÍNH = Vị chí công khanh, 3 tuổi này đẹp có thể làm Quan lớn. Cần Tứ Cát.

* Cự - Cơ - Lộc tồn = Ngôn ngữ bất cẩn.

* Cự - Cơ - Lộc -Mã = Có tiền, giàu có nhưng phải bôn ba.

* Cự - Cơ - Song Lộc - Giàu sụ.

* Cự - Cơ tại Dậu = ngộ Cát tinh thì giàu sang, nhưng không bền.

* CỰ - Cơ = Phá đãng Cách, thường tiêu xài, ăn tiêu rộng rãi, nhất là đi với Song HAO, Nữ nhân ngộ Cát dễ Phú quý, ngộ Ác Sát xâm phạm thì hoang phí, dâm tiện.

* Cự - Cơ Nữ Mệnh, 2 tuổi ẤT / TÂN = MỆNH không bị Tuần / Triệt, đảm đang. Vượng Phu ích Tử.

* Cự - Cơ ngộ SONG HAO = CHÚNG THỦY TRIỀU ĐÔNG CÁCH.

, Nếu có LỘC = Kinh thương dị phú.

* Cự - Cơ + KÌNH - ĐÀ = thiếu thời gian khổ, thiếu thốn, thị phi, bất lợi hôn nhân.

* Cự - Cơ + KHÔNG - KIẾP = Phá Tổ nghiệp, có khi phá sản.

* Cự - Cơ - KỴ = Dụ dự bất quyết, dễ mất cơ hội, thị phi, khinh bạc bất mãn, hoài tài bất ngộ.

8/ THẾ LIÊM TRINH ĐỘC THỦ DẦN / THÂN:

TƯỢNG: - TIÊN PHUÔNG VÕ TƯỚNG.

- HIỀN TÀI DŨNG KHÍ.

PHÊ: - PHÚ QUÝ THANH DƯƠNG.

A / LIÊM tại DẦN:

- GIÁP / KỶ / CANH = Nhập Quý cách. Nhất là chữ GIÁP, là Cách Phủ tướng Triều Viên, vị đăng nhất phẩm, thực lộc Thiên chung.

- ĐINH = Hạng thứ (đứng hạng Nhì)

- Ngộ VĂN XƯƠNG = thích và giỏi về lễ nhạc.

- Ngộ LỘC TỒN = Có thể Phú quý.

- Cùng với ĐÀ LA = Bệnh nung mủ, lở chóc.

- Nữ Mệnh, BÍNH / TÂN / ẤT / MẬU = Năng thanh bạch.

B/ LIÊM tại THÂN:

- GIÁP / MẬU / CANH = Nhập Quý cách.GIÁP sinh nhân là Cách Phủ Tướng triều viên,Thiên chung thực lộc.

- BÍNH / ĐINH / KỶ = Hạng Thứ.

- MÙI / THÂN + HÓA LỘC - CÁT TINH = Phú quý cách. Nếu không có Tứ Sát thì Phú quý và danh tiếng.

- Ngộ VĂN XƯƠNG = Giỏi về lễ nhạc.

- Ngộ LỘC TỒN = Khả phú quý.

- Cùng ĐÀ LA = Bệnh nung mủ.

- HỎA TINH đồng tại Hãm / KHÔNG chi địa = Đầu hà tự tử.

- Nũ Mệnh: GIÁP / KỶ / CANH / QUÝ = Năng thanh bạch.

LIÊM TRINH thuộc về Âm HỎA, cư DẦN cung được xem là Miếu thì không có gì lạ, nhưng Liêm Hỏa cư THÂN là KIM cung, là tượng Cung bị Tinh khắc theo lý ngũ Hành thì đâu có Tốt, tại sao các sách đều ghi là Miếu / Vượng?

Vấn đề này xin được giải thích như sau:

Âm Hỏa bản chất nhu nhược và đôi khi vô hình ví như lửa từ các ngọn đèn, lửa đuốc, và dưới dạng vô hình là Điện, THÂN = Dương Kim thường không sợ Âm Hỏa,mà nhiều khi còn giúp sự vận hành của Âm Hỏa, chẳng hạn như giây điện, cột điện là Kim thì giúp cho chuyển động của điện là Âm Hỏa.

Đặc tính của Kim đối với Hỏa như vậy cũng tùy trường hợp, không phải lúc nào Kim cũng sợ Hỏa, ví dụ như Kim bạc Kim Bạch lạp Kim, Sa trung Kim...thì sợ Lô trung Hỏa, nhưng Kiếm phong Kim thì lại cần Lô trung hỏa nếu không thì không thể thành hình. Cho nên có thể nói Liêm trinh Hỏa đối với Canh Kim tại Thân cũng cùng 1 lý như Lô trung Hỏa đối với Kiếm phong Kim.

Về tư thế thì Liêm cư DẦN được MỘC sinh dĩ nhiên là có ưu điểm hơn Liêm tại THÂN, các vị trí Chính tinh khác như Tử - Tường / Vũ - Phủ cũng không sai biệt nhiều, có thể nói là các Tinh tú hội chiếu tại 2 vị trí Dần / Thân tương đối ít có sai biệt.

PHỤ CÁCH:

* LIÊM TRINH cư THÂN / MÙI vô SÁT = Phú quý, tiếng tăm lừng lẫy.

* LIÊM tại THÂN = Hùng tú Triều nguyên Cách, nếu ít ngộ SÁT tinh (Sát tinh, Hao Hình Kỵ) Và đa hội CÁT diệu là Cách Phú quý song toàn.

* Liêm tọa Cấn / Khôn (Dần / Thân) Nữ Mệnh trích lệ thương Phu =

Đàn bà nếu ngộ thêm CÔ - QUẢ thì dễ bị độc thân, cô đơn góa bụa, hoặc buồn thương vì Chồng, dễ đi vào đường tu hành, đàn ông cũng vậy.

* LIÊM tọa DẦN / THÂN, bán Văn bán Võ (đa tài, văn võ song toàn) nếu ngộ Tử tinh = Chủ về Võ nghiệp.

* LIÊM - KHÔNG - KIẾP = Thăng trầm,

* LIÊM - THAM + KHÔNG - KIẾP -KỴ = Tự vẫn.

* LIÊM - HỎA - KIẾP- KHÔNG = Tự vẫn.

* LIÊM -HAO - KHÔNG -KIẾP = Hao tán, phá sản.

* LIÊM -HỎA / LINH = Nóng tính, cực đoan, bôn ba.

, Hùng tú triều nguyên bị phá Cách.

* LIÊM - LỘC TỒN / HÓA LỘC = Thuộc Cách Liêm trinh năng thanh bạch.

* DI có THAM - HỎA - LỘC = Đột phát tiền tài.

SONG LỘC Đồng cung thế lực rất to lớn, Nhị Lộc giao huy làm sao sánh bằng (dĩ nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, vì còn tùy theo cung vị và cách cục đắc hãm của Chính tinh và Phụ tinh) nhưng đây là lý lẽ thông thường, chẳng hạn như KIẾP KHÔNG Đồng cung thì lực lượng phải mạnh hơn là đơn thủ, Đào- Riêu đ/c / Cự - Kỵ đ/c.v.v đều như vậy, có những câu sách nói

nhưng không đúng hoặc khuyếm khuyết, Cách Song Lộc đ/c không phải dễ có

V FOR đã viết:

ma y cung đã viết:

THẾ CỰ - CƠ M/ D:

PHÚ HỮU LÂU ĐÀI:

CỰ = TO LỚN

CƠ = CƠ NGƠI, CƠ SỞ.

Giời ạ, MYC nói như rứa không sợ bị chỉnh à???

Thưa Huynh V for,

Thường thì mỗi Tinh tú đều có Tượng của nó và một TINH lắm khi có nhiều TƯỢNG chứ không phải 1 vài.

Việc chọn Tượng dĩ nhiên là tùy theo Trường hợp chọn sao cho phù hợp, Ví như sao Thái Âm có khi ta luận Mẹ, có lúc là con gái, có khi là mái gia đình hay điền sản, như xem Mẹ bị bệnh thì dĩ nhiên phải lấy nghĩa Thái Âm là Mẹ chứ không thể suy Âm = điền sản được.

Câu Tượng của CỰ - CƠ M / D là PHÚ HỮU LÂU ĐÀI thì không thể luận CỰ là Khát vọng, CƠ là Mưu sĩ được,Mưu sĩ khác vọng không ăn nhập gì đến Câu Thiệu cả. nếu không thông hiểu tương đối đầy đủ các Tượng của cùng 1 Tinh tú. (Dĩ nhiên là không dùng Tượng Tầm bậy hay do mình create ra) thì rất khó để phân tích từng Thế trận, đó là lý do cho mãi đến nay chẳng có sách nào chịu PHÂN GIẢI, ngay cả VƯƠNG ĐÌNH CHI cũng không hề giải PHÊ và TƯỢNG, chưa nói đến Thế trận.

Cái khó của việc giải Phê / Tượng cũng giống như việc ngồi giải thích Thoán từ bên Dịch học. THOÁN TỪ rất QUAN TRỌNG vì vậy người ta mới đặt nó lên đầu Mỗi Quái, Và có khi Anh giải được mươi, mười lăm Quái, nhưng đụng đến Quẻ thứ 16 thì như đụng phải 1 bức tường, không thể đi tiếp được nữa.

Có những câu phú tuy thấy tầm thường nhưng nghĩa lý rất Hay,như:

CƠ - LƯƠNG THÁI TUẾ TANG MÔN, lâm vào chốn ấy vợ con biếng chiều!

Tại sao Cơ Lương Tang tuế mà liên quan gì đến Vợ con biếng chiều???

Hiểu được Tượng mới biết được phú là vậy, hiểu được Phú thì càng thấy chỗ thâm áo của Tử vi.

NẾU mình đưa ra 1 cau PHÚ không ai biết nguồn gốc và chưa bao giờ nghe thì bị hoài nghi, thì bây giờ tui đưa ra 1 ít TƯỢNG mới mà bị nghi ngờ thì cũng không có gì lạ, thời gian sẽ trả lời,

Các Tượng của mỗi TINH TÚ xưa nay vẫn bị dấu diếm, Tượng được phân thành nhiều loại: Vật phẩm, đồ dùng, nhân vật, địa hình, thời tiết.v.v Nếu nắm Tượng đúng thì LUẬN đúng với thực tế lá số, hiểu Tượng sai thì đoán trật là lẽ đương nhiên.

Việc lựa chọn Tượng LÀ DO NHẬN XÉT CÁ BIỆT và ĐỘC ĐĂC theo HIỂU BIẾT của MỖI NGƯỜI VÀ vì tôi không ép Các HUYNH phải theo Tượng như tôi đề ra nên xin các Huynh cũng đừng thắc mắc tại sao tôi dùng Tượng lạ đời như vậy.

Mỗi Thế cách đều có vài 3 Tượng khác nhau, tôi lựa Tượng nào theo tôi nghĩ là biểu hiện nhất của Cách đó, và có thể vài người không đồng ý, nhưng làm sao mà thập toàn cho được. Hôm nay tôi viết thế này, ngày Mai có người khác giỏi hơn tôi sẽ viết khác, vì cái nhìn của Họ cao hơn...

XIN tiếp tục về Thế LIÊM cư D / T:

- LIÊM cư DẦN hay THÂN thì đều được TỬ - PHỦ - VŨ - TƯỚNG Chiếu hội, Tử - Phủ là Chỉ về những thế lực Quyền Quý, Tướng là Chưởng Ấn tinh, chủ về Hành pháp Trung ương, có vai trò như một Thủ Tướng, còn Phủ là Bộ Trưởng Kinh Tế kiêm Ngân Hàng Quốc gia.

Như vậy có nghĩa là Thế lực của LIÊM TRINH ở vị trí Dần / Thân có Tiềm năng rất to lớn, giao du quen biết hoặc làm việc với các cấp Quyền thế, và có thể được sự ủng hộ của họ. Nhưng dĩ nhiên là phải tùy theo Cấp độ của từng lá số, không phải Liêm nào cũng quen biết với Các Ngài Thống đốc Ngân Hàng hay Chủ Tịch nước, có khi chỉ là ở cấp Giám đốc 1 Chi nhánh Ngân hàng hay thậm chí chỉ là Chủ...tiệm Cầm đồ.

- Trên 1 lá số LIÊM cư D / T Tốt đẹp, vì Tài Quan hội đủ Cách Tử - Phủ - Vũ - Tướng, nên tự thân có khả năng gồm đủ Phú (Vũ - Phủ) Quý (Tử - Phủ) và Uy Quyền (Tướng),nếu Mệnh cư Thân cung là Cách Hùng tú triều nguyên, vì vậy sách nói là Phú Quý thanh dương chiếm viễn danh = Phú quý và danh tiếng vang dội xa gần.

- LIÊM D/ T có Đối cung là THAM LANG nhàn tảng (Nhàn cung), hai anh chàng này đều được mệnh danh là CHÍNH / THỨ ĐÀO HOA, nên suốt đời không chạy trốn được sự vây bủa của lưới tình, thường dễ cô đơn,tuyệt vọng, Liêm thường là người chung tình mà những kẻ chung tình lại thường bị tình phụ! bỡi thích đối tượng có tính cách phản lại với tính cách của mình (nên mới dễ hình thành thế Âm Dương)...Đối cung Tham lang có thể hiểu là đối tượng truy cầu trong mộng của Liêm trinh, mà Tham lang thì làm sao tin tưởng chính chuyên? KẾT HỢP với PHU / THÊ CUNG ở Thế THẤT SÁT, ở Thế này thì bị Tảo khắc, tảo khắc thì thường được khuyên là không nên cưới hỏi sớm vì chưa đằm tính, ở với nhau vài 3 năm thì đồng sàng dị mộng, tiếng chì tiếng bấc vì Liêm HỎA khắc Thất Sát KIM, nhưng Thất Sát là Dương Kim, khắc thì khắc nhưng nếu biết nhường nhịn thì vẫn có thể sống với nhau lâu dài vì Âm Hỏa Dương Kim kết hợp vẫn có tác dụng Tốt đẹp như bên trên đã đề cập..

VỀ vấn đề dùng ĐỐI CUNG (THIÊN DI CUNG) làm Tượng cho 1 PHU / THÊ CUNG THỨ HAI:

Đây là phát hiện qua 1 số kinh nghiệm của tui, vì khi lớn lên và đã có gia đình, mỗi ngày thức dậy người mình gặp lá AI? người đó có thể gọi là ĐỐI PHƯƠNG hay không? Nếu không sai thì chúng ta có thể dùng THIÊN DI cung để chỉ cho người Hôn phối trong các Trường hợp thấy PHU / THÊ cung không Chính xác. Cũng như Nếu Thấy Phu / Thê cung không có TRUYỀN TINH thì nên xét đến THIÊN DI cung.

TANG MÔN là 1 sao chủ về buồn thương, buồn rầu nhung nhớ, lo buồn, ưu lo..Nếu đóng tại PHU / THÊ thì có sự lo buồn, đau khổ nhưng không hẵn có nghĩa hoàn toàn là người Phối ngẫu phải...đi trước. ngoài ý nghĩa người Phối ngẫu đi trước Tang tại Phối còn có nghĩa hai bên có 1 Thời gian chia tay lên tối vài năm trước khi sum họp lại, hoặc là cứ quen người nào 1 Thời gian rồi cũng chia tay, liên tục mấy lần như vậy.

9/ THẾ THIÊN CƠ SỬU / MÙI:

TƯỢNG: - MƯU THẦN ẨN DẬT.

- QUÂN SƯ CHỜ THỜI.

PHÊ: - MƯU THẦN ĐẮC THẾ (Gia Cát Tinh).

- ẨN SĨ THẤT THỜI. (Vô Cát)

- AN NHÀN HƯỞNG LỘC

- THIỆN ĐÀM BINH.

CÁCH CỤC:

- BÍNH / ĐINH / MẬU / NHÂM = Tài Quan song mỹ.

- ẤT / TÂN = LỘC HỢP Cách.

- Hội TẢ HỮU XƯƠNG KHÚC = Là Văn Quan thanh hiển, Võ Quan trung lương.

- TỨ SÁT xung phá = Hạ cuộc. Nên quay ra Kinh doanh, hoặc phát triển về Kỷ nghệ.

- ÁC SÁT Đồng cung = là loại trôm cắp.

- THIÊN DI + CÁT TINH = Cự thương cao mãi (buôn bán lớn).

- THIÊN LƯƠNG Đối cung = Hữu Thọ (sống lâu).

CÁCH CỤC:

Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, người sinh năm ẤT/ MÃO thì càng biểu hiện rõ nét của Thiên Cơ, Thiên Cơ có những đặc tính sau:

- Từ tâm,từ thiện, sùng tín Tôn giáo,

- Mưu trí, đa Tài đa nghệ, năng động, cứng đầu..

Tọa SỬU / MÙI Thiên Cơ bị Lạc Hãm nên rất cần Cát Tinh - Lộc tinh (Lộc tồn / Hóa Lộc) để giúp Cách cục trở nên Tốt đẹp. Nếu Vô Cát tinh, cuộc sống vất vả, ngộ Sát có thể nghèo khốn, bữa đói bữa no.

- THIÊN CƠ tại Viên = Xảo tài xuất chúng.

- THIÊN CƠ cư SỬU, đắc Thủy diệu = Hợp Cách vì Thiên cơ là Mộc cư Âm Thổ lại ngộ Thủy tinh nuôi dưỡng, Tài Quan song mỹ.

- CƠ - LƯƠNG tương hội = Dây cũng là cách Thiện đàm binh, cơ mưu quyền biến nhưng không đẹp / sáng bằng tại Thìn / Tuất.

-CƠ - LƯƠNG - KÌNH DƯƠNG Hội = Tảo vãn cô hình, có cách này dễ bị Cô đơn, đàn bà có thể góa bụa.

- CƠ - HÓA LỘC = Tài lai tài khứ, khó nắm giữ tiền bạc, nhưng dễ có cơ hội kiếm nhiều tiền.

-CƠ - KHOA = Cách này cần thêm Văn tinh (Khôi - Việt / Khúc xương), có thể dùng KÌNH / ĐÀ, để tạo thành Văn cách nổi bật.

- CƠ - KỴ Nữ Mệnh = Nếu có đa Cát tinh thì Cơ - Cự thành cách Thạch trung ẩn ngọc, ngộ KỴ nơi Mệnh sẽ biến thành Cách Mỹ ngọc hà tỳ (Ngọc đẹp bị vết), đời sống tình cảm có khúc mắc, buồn phiền không xứng ý cũng cứ giữ kín trong tâm, không chịu thố lộ.

- CƠ - Đa Văn tinh = Ngoài khả năng phát triển trên lãnh vực Văn chương, có thể là nhân viên Hành chánh, Văn phòng cao cấp, Kỷ sư, Kiều lộ, Công trình, Kiến trúc sư.v.v

Hoặc giả có thể làm Tham mưu, Cố vấn cho các Lãnh tụ, vì Giáp cung có TỬ - PHỦ. Trường hợp này gọi là Cận Quý Cách.

- THIÊN CƠ - TỨ SÁT Hội = Dã thiện tam phân, người có Thiên cơ hội Tứ Sát dù đa Sát tinh, nhưng vì căn bản là kẻ có chút từ tâm, lại có lòng tin vào các dấng thiên liêng (Tôn giáo), cơ duyên nhân quả.. nên dù sao cũng không phải là loại cùng hung cực Ác. Đời sống long đong vất vả.

- CƠ - MÃ THIÊN DI = làm công vụ ờ nước ngoài.

- CƠ - PHỤC cư NGỌ = làm Quan chức về quân đội.

- CƠ Hãm Địa + HÌNH - KỴ = Cô độc, dễ bị tàn tật.

- CƠ -TỬ - HAO = Bị đói, diet, Hạn xấu có thể chết vì đói, như bị bệnh bao tử, không ăn được, có cơm gạo nhưng đang bệnh không ai lo cơm nước bị lũy mà đi luôn.

- CƠ - XƯƠNG -KHÚC = Đa tài, mẫn tiệp, linh lợi, liếng thuắng, vui vẻ, đa dâm và đa tình.

- CƠ - LƯƠNG -TANG - TUẾ = Nhẹ thì vợ con lánh mặt, lạnh lùng, nặng thì có thể ly thân 1 thời gian.

- CƠ S/M + HÌNH - KỴ (+ KIẾP -KHÔNG / Thiên Hư - Âm Sát) = là loại Trộm cắp.

- THIÊN DI có LƯƠNG + CÁT TINH + LỘC TINH = Cự thương cao mãi Cách. Nếu Mệnh cung không đẹp nên đi xa lập nghiệp.

- CƠ -HỎA / - LINH (RIÊU) = Có khả năng nhìn thấy, mơ thấy, tiếp xúc đựoc với thế giới bên kia. dễ bị Ma nhập, ma ám.

- CƠ - KÌNH / -ĐÀ = thường gặp chuyện xung đột,thị phi, phiền toái vì tính ưa chống đối. Cơ hội tốt bị ngăn trở. Nếu ngộ thêm XƯƠNG - KHÚC = Chống đối thông qua văn chương, nghệ thuật.

- CƠ - KÌNH + KỴ -HÌNH - KIẾP = Sự chống đối chỉ đem lại tai họa.

- CƠ - KHÔNG - KIẾP = Bất hạnh, kém may mắn, lớn tuổi thường bị bệnh gan, thận, mật.

Dễ bị mất Cơ hội, mất nhà, mất chỗ ở.

- CƠ -HÌNH -KỴ = Ưa Chống đối.

- CƠ - KHỐC -HƯ = Bị bệnh Phổi, ho, ho lao, bệnh Phong đơn, mất ngủ.

- CƠ - HƯ - ÂM SÁT = là kẻ bất chính, nhiều âm mưu quỷ kế.

- CƠ - ĐÀO -HỒNG -XƯƠNG -KHÚC = Đẹp, quyến rũ, đa tình, đa dâm. Ưa thi từ, ca hát.

THIÊN CƠ SỬU / MÙI:

- THIÊN CƠ tọa SỬU:

Cơ tại Sửu thì Mệnh Hãm nếu không có Thủy tinh phù trợ, Tài cung Thiên Đồng Hãm địa (về ngũ Hành Mệnh tọa Thiên đồng cư Dậu là Đắc địa vì Thủy được Kim sinh nhưng về mặt Tính lý cũng như phối hợp ảnh hưởng các Sao thì bị liệt vào Hãm địa), Thiên đồng lại chủ tự mình gầy dựng cơ đồ không ai giúp đỡ và phát chậm kết hợp với Quan cung Cự môn đắc Vượng thì khoảng Trung niên cũng có cơ hội để phát triển sự nghiệp.

Thiên Cơ tại Sửu thì Tử vi - Thiên Phủ tại Dần Miếu / Vượng, chứng tỏ là đời ông bà (hoặc Cha Mẹ vì đây cũng là Phụ mẫu cung) phải khá giả hoặc có sản nghiệp, đến khi mình ra đời mới bị suy vi.

Về tầm vóc quốc gia mà luận thì Tử vi đang hồi thu tóm quyền hành,Vua đang ở tuổi Tráng niên (đã qua 3 Đại hạn) cho nên có thuyết nói Thiên Phủ chính là Hoàng hậu, dù đất nước vẫn còn trong tình trạng ảm đạm (Âm Dương Hãm) nhưng vấn đề Kinh tế rất hứa hẹn và về mặt Quốc phòng thì rẩt vững vàng. Nhà Vua lúc này đang lo tuyển lựa nhân tài ra công giúp nước, Thiên Cơ cư Sửu lại ở vị thế Cận Quý nhưng nếu không có Cát tinh gia tập thì hoặc là kẻ vô Tài, chỉ giỏi biện thuyết hão huyền hoặc không có cơ hội được tiến cử.

Thiên cơ cư Sửu thì Phối cung Thái dương Hãm địa, Vợ chồng cũng như mình xuất thân là đám bình dân, nếu đương sự là đàn bà thì thì thường trách móc /sỉ vả Chồng con, gia đạo khiếm hòa.

-THIÊN CƠ tọa MÙI:

Mùi cung là Tháng 6, tháng sáu bị Hạ Hỏa làm khô táo Thổ chất, cuối tháng sáu là Tiết Lập Thu có nghĩa là Mùi cung Thổ đang tiết khí để sinh Kim nên ở trạng thái hư nhược, vì vậy tại Mùi Thổ chất vừa Khô vừa Hư nhược khó có thể sinh Mộc (Thiên Cơ) nên gọi là Hãm địa. Vì Thổ chất Khô và Hư nên không những không tài bồi được cho Mộc mà còn có nguy cơ che lấp, chôn vùi Mộc khí (tại Mùi Mộc khí đang Suy vì Thiên khí sắp ngã về Tây phương). Để nuôi dưỡng Thổ khí tại đây thì cần Kim, Kim tại đây ví như lưỡi cày để xới vỡ đất khô cứng, Kim cũng dùng để dưỡng Thổ khí (lý luận có vẻ nghịch nhĩ!), không để Thổ quá sức Tiết khí và dùng làm Nguồn để sinh cho Thủy vì Hạ Thổ chắc chắn cần Thủy. Tóm lại Mùi Thổ thì cần nhất là Kim / Thủy.

Về mặt Xã hội, Thiên Cơ cư Mùi vì hưởng Âm Dương sáng đẹp nên về mặt Phúc phận, Hôn phối và Hành Vận đều sáng sủa hơn tại Sửu, Đàn bà dễ có cuộc sống ung dung vì được nhờ Chồng vì có ông Chồng tháo vát hoặc có địa vị và biết cách kiếm tiền, tuy vậy Vợ Chồng không tránh khỏi khắc khẩu, có thể ngày càng tệ hại.

Bên trên là lý luận về mặt CUNG KHÍ, có thể nói là thuộc 1 trang Cao cấp (Hì hì, lại Cao cấp, nghèo mà đòi xài hàng xịn không hè), rất ít người sử dụng cũng như giải thích. Cung Khí có 3 cách xem Chính:

như trên là Cách dùng Âm Dương Ngũ Hành để luận Cung khí.

Cách thứ Nhì là dủng Quái số.

Cách thứ ba là dùng Nạp Âm.

Lục thập Tinh hệ của Vương đình Chi chỉ là dùng Tinh phối Tinh, chưa luận đến Cung khí.

QUYENQUY viết:

Bác MaYCung viết bài về Thiên Cơ Sửu/Mùi hay quá ạ! Nhân chủ đề đang xôm tụ, cháu xin hỏi thêm bác một số câu hỏi nhỏ.

- "Thiên Cơ tại Sửu thì Tử vi - Thiên Phủ tại Dần Miếu / Vượng, chứng tỏ là đời ông bà (hoặc Cha Mẹ vì đây cũng là Phụ mẫu cung) phải khá giả hoặc có sản nghiệp, đến khi mình ra đời mới bị suy vi."

Cái này cháu áp dụng vào bản thân thì thấy cũng đúng lắm ạ, ông bà cháu khá giả nhưng về già thì lại sút giảm nhiều do chính sách ruộng đất.

- Về tầm vóc quốc gia mà luận thì Tử vi đang hồi thu tóm quyền hành,Vua đang ở tuổi Tráng niên (đã qua 3 Đại hạn) cho nên có thuyết nói Thiên Phủ chính là Hoàng hậu, dù đất nước vẫn còn trong tình trạng ảm đạm (Âm Dương Hãm) nhưng vấn đề Kinh tế rất hứa hẹn và về mặt Quốc phòng thì rẩt vững vàng. Nhà Vua lúc này đang lo tuyển lựa nhân tài ra công giúp nước, Thiên Cơ cư Sửu lại ở vị thế Cận Quý nhưng nếu không có Cát tinh gia tập thì hoặc là kẻ vô Tài, chỉ giỏi biện thuyết hão huyền hoặc không có cơ hội được tiến cử.

- Nhiều người nói rằng:Tử Phủ cư Thân thì đẹp hơn cư Dần vì Âm Dương tại trường hợp Tử Phủ cư dần là hãm địa còn Âm Dương trong trường hợp cư Thân lại là đắc địa. Nhưng cũng có ý kiến ngược lại cho rằng thế Tử Phủ cư Dần tượng trưng cho nhà vua đã trưởng thành và lãnh đạo đất nước theo chiều hướng đi lên, còn Tử Vi cư Thân được coi như nhà vua đang ở đỉnh cao của sự nghiệp và đang có chiều hướng đi xuống. Cháu rất mong nhận được ý kiến của bác về vấn đề này ạ!

- Thiên Cơ Sửu/Mùi, nếu trong trường hợp vừa được cát vừa có sát tinh thì sẽ phải nhận định như thế nào ạ bác, có chăng nên căn cứ vào lực lượng đôi bên mà đưa ra kết luận theo câu phú: "Chư tinh cát phùng hung dã cát, chư tinh hung phùng cát dã hung"?

- Thiên Cơ Sửu Mùi tối ái Tả Hữu Xương khúc là những phụ tinh phò tá bậc nhất, nhưng nếu trường hợp không có Xương Khúc thì có thể dùng Quang Quí, không có Tả hữu có thể thay bằng Thai Tọa không ạ.

- Về Cự môn cư Tỵ theo Bác là nơi đắc địa có đúng không ạ!

QQ đã đưa ra những câu hỏi rất..thông thái, xin trả lời:

Dần là đất Tam Dương khai thái, tam Dương là Quẻ Kiền,tượng là Vua (Quẻ kép vẫn là Kiền), nếu nói về Tượng Quẻ thì Hợp cách (cũng tựa như tượng Tử vi cư Ngọ vậy), cho nên Tử - Phủ Nhị Đế đến Dần cung theo tượng Quẻ thì là Miếu / Vượng.

Nếu nói về THẾ thì Tử vi tại Dần ở vị thế Tráng niên đang tiến đến Tỵ / Ngọ là nơi Hỏa địa cực thịnh cho Tử vi thuộc Thổ.

Nhưng về mặt Ngũ Hành thì Tử - Phủ đi đến Dần cung là Bệnh Thổ, nếu không có Cát tinh phụ bổ thì khó lòng phát huy tác dụng. Mà khi luận Cát Hung Miếu Lạc thì phải dùng Chính ngũ Hành làm cột trụ, Thời Thế và Quái số, Quái Tượng.. chỉ là Phụ (Tuy vậy cũng có những trường hợp Phụ lấn quyền của Chính, nhưng chỉ là thiểu số).

Cho nên nếu nói theo sách Tử - Phủ cư Dần là Miếu / Vượng là vì thấy Thế và Tượng đều Tốt, mà người nào nói Tử - Phủ cư Dần là Lạc Hãm thì cũng đúng nốt, vì đó là nhìn theo khía cạnh Ngũ Hành.

Tổng quát mà nói thì Tử - Phủ cư Dần về lực lượng (sức mạnh) thì yếu hãm, nhưng về Khí thế thì rất mạnh.

Tử - Phủ tại đây cũng tựa như 1 nhân tài đang ngọa Bệnh, chỉ cần cho uống thuốc bồi bổ (tức + Cát tinh) là khôi phục được tinh thần và sức mạnh,trở thành 1 Cách cục rất đẹp.

Tử - Phủ cư THÂN là Thổ đang thời kỳ tiết khí vì Tinh phải sinh cho Cung, nếu luận về thời Thế và Quái vị thì không bằng tại Dần, nhưng về mặt Ngũ Hành thì Tử - Phủ tại Thân chỉ tiết khí, không bị Cung khắc, nên lực lượng dĩ nhiên mạnh hơn tọa Dần.

Như vậy ta có thể rút ra kết luận:

Tử - Phủ tại Thân có lực lượng mạnh hơn, nhưng về Khí thế thì không bằng tại Dần. Nếu muốn nói bên nào HAY hơn thì rất khó vậy, vì có khi Tinh thần quyết định vật chất mà cũng nhiều khi thấy ngược lại, nhưng có lẽ nên chọn T- P tại THÂN vì đắc thêm Âm - Dương Miếu Vượng.

Trường hợp Thiên Cơ S/ M Hoặc bất kỳ CÁCH CỤC NÀO khác có Cách Cát / Hung hỗn tạp thì có thể luận theo 3 cách:

- Tiền Cát hậu Hung (sự nghiệp đang lên tốt đẹp, giàu sang phú quý... thì bị tỏa bại,phá tán, phải biết rút lui đúng lúc). Tức thuộc về dạng Phá cách, đây là trường hợp chiếm đa số.

- Cũng có thể luận là Cát Hung tương Bán: sự nghiệp trồi sụt, khi lên voi lúc xuống chó.

- Còn luận là Tiền Hung hậu Kiết thì ít khi xảy ra.

Câu " Chư Tinh Cát phung Hung dã Cát = Trường hợp này ám chỉ 1 nhóm nhiều Cát tinh tụ hội, nếu gặp 1, 2 thằng HUNG TINH thì chẳng sao, chẳng hạn như 1, 2 thằng ăn cướp mà gặp 4, 5 ông Cảnh sát hay FBI vậy,Hung tinh nếu không chạy thì phải xếp re.

Chư tinh Hung phùng Cát dã Hung = ngược lại 4, 5 thằng ăn cướp mà gặp 1 anh Cảnh sát đi lang thang, nếu không lảng đi chỗ khác thì có khi ăn đạn, đâu phải Cs hay F là ngon.

Thiên Cơ S / M nếu không có Tứ Cát mà phải dùng Thai Tọa / Quang Quý thì Cách cục bị xuống Cấp liền, khó thể thay thế tuy chưa xuống bùn đen, vẫn còn ngo ngoe được, có thể chờ đến hạn nào có Tứ Cát / đa Cát thì có thể bốc lên.

Cự Môn cư TỴ Không phải là Cách đẹp, dù sách có viết là VƯỢNG ĐỊA, cho nên nhiều khi nghe theo sách cũng nguy lắm.

CỰ cư TỴ chỉ đẹp với 2 tuổi TÂN / QUÝ mà thui, các Tuổi khác dù có Cát tinh đa tập cũng phú quý không bền (đa phần là phát chỉ 1 Đại hạn), cho nên sách cũng phán: Thủ Mệnh / Thân tại thử Cung bất Mỹ là vậy.

TUPHASONGHANH viết:

Lão giáo chủ ma đầu ơi sao tử vi cư ngọ ăn đứt cư tý. Tử tướng thìn tuất thế la võng, thiên hạ phân tranh, 2 phe cân bằng lực lượng sao hay bằng tại Tý khi đó bộ tuphuvutuong vẫn trên cơ ạ. Cháu hỏi thế vì sách phê tử tướng đắc vượng mà tý bình hòa.

Tử vi là Âm Thổ, cư Ngọ Hỏa địa là Cung sinh Tinh, cực tốt vã lại Ngọ cung là tượng của Cấm thành, Đế ngự tại đây là Chính vị, tại Tý không thể bì vì Tử vi cư Tý thuộc Quẻ Phục, Nhất Dương sinh = sinh ra 1 thằng con trai / 1 Hoàng tử, Hoàng tử mới sinh ra tuy được đăng cơ làm Vua, chung quanh có đầy đủ PHỦ VŨ TƯỚNG Miếu Vượng nhưng Bản Thân còn ít tuổi (dưới 15 tuổi)nên chỉ có cái vỏ, chẳng có quyền hành gì cả,vì ở vị thế Hào 1 nên bên trên còn nhiều người lắm, vả lại tọa Tý thì Ngũ Hành Thủy - Thổ xung khắc, Cung khắc Tinh không thể so với các cung khác được. Tại Tý mà phê Bình Hòa là nhờ Bản thân là Tử vi, nếu là dân dã thì đã bị phê là Hãm địa.

Tại Thìn / Tuất, tuy Vua phải chinh chiến (coi như để thoát vòng La/ Võng) nhưng Tử vi tại đây đắc Thổ khí, Thiên Tướng thì tọa Thủy Khố (Thìn) mà tại Thìn thì thuộc Quẻ Trạch Thiên Quải, Vua cư tột cùng ở thế ngũ Dương Hào, ở vị thế này Vua chỉ dưới quyền 1 người (Hoàng Thái Hậu) mà trên muôn vạn người nên vị thế cư Tý không thể sánh bằng.

Tại Tuất thuộc Quẻ Sơn địa Bác, Vua đã gần đứt hơi rùi, nhưng quyền hành vẫn còn nắm đầy đủ, lại cư Thổ vị nên vẫn oai phong hơn tại Tý.

Nói chung để luận vị thế Miếu Hãm của chư Tinh, người xưa đã kết hợp giữa Ý / Tượng của Hào / Quẻ cùng với Ngũ Hành của mỗi Cung đối chiếu với Tinh để luận ra kết quả, nếu không nắm được phương pháp Luận của Họ thì xem như...không thể giải thích.

Để đi sâu vào lãnh vực Tử vi thì chắc hẵn phải biết rõ về Dịch và Dịch số, những phần Miếu Hãm chỉ là..ngoài da mà thôi, chưa có là gì cả, nhưng phần ngoài da này cũng lắm cái khá hay.

"Lão giải thích nốt hộ cháu tại sao phá quân tại cung thân hành kim (đất tràng sinh của hành thủy) lại bị cổ nhân phê hãm lòi mà phá quân cư ngọ là miếu vượng ạ. "

Ông hỏi mấy câu hắc ám như vậy mấy Sư phụ làm sao trả lời cho đặng?, vì thông thường người ta chỉ học Ngũ Hành kỳ trận mà không học Phản Ngũ Hành. Nhưng chiêu Phá Quân này vẫn còn dùng Chính ngũ Hành giải thích được.

Phá quân thuộc Âm Thủy tức là Quý Thủy, Dương Thủy Trường sinh tại Thân và Tử tại Mão, do đó Âm Thủy có Trường sinh tại Mão, Mão Trường sinh thì đến Thân cung là chổ Tử của Âm Thủy,nên gọi là Hãm. Nhưng vì cung Thân có Canh kim sinh được cho Thủy nên trường hợp này gọi là Tử lý phùng Sinh (Trong chỗ Tử lại có được Sinh cơ). Như vậy đúng ra phải gọi là Bình chứ không thể nhận định là Hãm được. Trong quyển Tú Thiên Phái TVDS thấy đề là NHÀN (Bình), trong Hà lạc Dã phu thấy cũng đề là Bình. Các sách nào đề Hãm có lẽ người ta không thấy Cách Tử lý đào sinh??

Tại NGỌ:

Phá quân tuy thuộc Thủy, nhưng có đặc tính là thích kết hợp với Âm Hỏa, Âm Hỏa tựa như lò than (lô trung chi Hỏa) có tác dụng hung đúc nồi thuốc Phá quân trong phương diện luyện thuốc của Nho gia. Vì Ngọ là đất của Đinh Hỏa nên tại đây tuy Ngũ Hành xung khắc nhưng vẫn sản sinh được tác dụng tốt đẹp cho Phá quân, đây gọi là đắc Thế. Vã lại tượng Quẻ ở đây là Thủy Hỏa ký tế, nước và lửa có thế lực bình hòa, cả 2 đều có thể nương nhau phát huy nên 1 cách cục Tốt đẹp (Anh Tinh nhập Miếu cách), vì Thế và Tượng đều đắc cách nên Phá Quân tại đây được gọi là Miếu Vượng.

10/ THẾ TỬ VI TÝ / NGỌ:

A/ TỬ VI CƯ TÝ:

TƯỢNG: - ẤU CHÚA ĐƯƠNG QUYỀN.

- Hoặc ĐẾ VÔ SỞ QUYỀN.

(Nếu vô Tả / Hữu + Cát tinh)

PHÊ: - BẤT KHẢ THI CÔNG

(Tử vi tại TÝ là NHÀN cung, Cần Tả - Hữu Khôi - Việt - Hồng -Đào để biến Hư thành Thực.)

- ĐINH / KỶ / CANH = Quý Cách.

- NHÂM / QUÝ = Dù có Phú Quý cũng chóng tàn.

- Gia KHOA -QUYỀN - LỘC = Tối vi kỳ Cách.

- Nữ Mệnh gia TỨ SÁT = Mỹ ngọc hà điếm (ngọc đẹp bị vết tích), nhật hậu bất mỹ. Quý Cách bị Phá hoại.).

B/ TỬ VI CƯ NGỌ:

TƯỢNG: - ĐẾ CƯ ĐẾ VỊ.

phê: - QUÝ BẤT KHẢ NGÔN.

- VỊ CHÍ CÔNG KHANH.

- THIÊN CHUNG THỰC LỘC.

Cần: Tứ Cát (cần Tứ Cát vì Lục Cát rất hiếm khi có, Tứ Cát = Tả Hữu Khôi Việt). Hoặc Tam KỲ = Quý bất khả ngôn.

Kỵ: SÁT TINH, SONG HAO, TUẦN / TRIỆT tại Mệnh và TÀI, Chủ Hư ảo (phù du, phá Cách), Băng hoại (Có lúc bộc phát lên 1 đại Hạn hoặc 5, 3 năm, ăn chơi sa đà xong lại xuống bình thường Cách), Hoặc Cô độc.

- GIÁP / ĐINH / KỶ = Vị chí Công khanh.

- BÍNH / MẬU = Khi thành khi bại, có thể bị thương Tật.

- Nữ Mệnh gia CÁT = Vừa Quý vừa đẹp, lại vượng Phu ích Tử.

TRUONGTAMPHONG hỏi:

thưa anh ma y cung,nhân tiện anh cho tôi hỏi một chút

-tôi đọc 1 số sách thấy có sách nói thiên lương hành thổ có sách lại nói là hành mộc,tham lang sách thi nói hành thuỷ sách lại nói hành mộc vậy hành của sao thế nào mới là đúng

-tôi không hiểu lắm khi đọc câu phú:phủ phùng không ngộ thanh long phản vi cát tường,vậy thanh long có tương tác như thế nào mà thắng được cả tuần triệt

-người ta nói triệt đáo kim cung,tuần lâm hoả địa là tốt nhưng tôi không hiểu là vì sao nó tốt

-một số sách cho lâm quan,đế vượng là hành kim nhưng theo tôi được biết các tên trên không phải là sao mà chỉ là 1 chu trình trong vòng sinh diệt vậy căn cứ vào đâu mà người ta đặt cho nó hành kim hay đấy là sự khiên cưỡng đặt cho đủ?

Huynh TRUONGTAMPHONG,

- Vì Cổ thư có nhiều Nguồn, mỗi Chi phái Tử vi chỉ dùng nguồn sách của Họ mà Sách thì có khác nhau về chi tiết cho nên vấn đề Anh đưa ra hầu như rất khó giải quyết:

Thiên Lương = Thổ / Mộc.

Tham = Thủy / Mộc

Liêm = Mộc / Hỏa

Thất sát = Hỏa / Kim.v.v

Có khi lại nói Tham thuộc Mộc đới Thủy tính, Thất sát thuộc Kim đới Hỏa...

Bỡi không ai nắm rõ phương pháp liệt kê Ngũ Hành của Chư Tinh dựa vào đâu: Địa lý, Thiên văn, Thời khí,Tính chất của sao, Phương hướng, Tinh quang hay Chu kỳ vận hành? Không ai biết mấy ông thời xưa dựa vào đâu nên đây là 1 ngõ cụt. Cứ theo thói quen hay Trường phái mà lựa Ngũ Hành thôi.

Nhưng theo tui thì mấy ông hồi xưa đã dùng Tính chất của Sao để định ra Hành:

Tử vi = trung hậu, từ thiện, ôn lương, Thiên Phủ cũng có cá tính tựa như vậy, nhưng vì hai sao này là Chủ tể chư tinh nên lấy hành Thổ, bỡi thổ có những đặc tính trên ngoài ra còn có nghĩa sinh ra vạn vật.

Thiên Lương = Lương thiện, từ tâm, trung hậu, Thọ tinh cho nên có thể dùng hành Mộc (Hành Mộc chủ về nhân từ, thiện lương), có khi dùng hành Thổ vì hợp với chữ Trung hậu và lão thọ.

Tham lang = dùng hành Thủy vì cá tính dễ đam mê, thấy chỗ nào vui đẹp là sa vào rồi bỏ đi tìm chỗ khác, dùng hành Mộc cũng không sai vì ví ông Tham lang như khúc gỗ mục trôi lờ đờ trên dòng nước, đến đâu hay đến đó, vả lại trong câu Phiếm Thủy đáo hoa đã thấy cả 2 Hành Thủy / Mộc trong đó.

Mã = Ngày xưa người ta thường dùng ngựa trong những trường hợp khẩn cấp (Hỏa tốc) hoặc trong chiến trận (binh Hỏa can qua)..

Thái Dương = tượng Mặt Trời, thuộc Hỏa.

Thái Âm = tượng Mặt Trăng, mặt Trăng là Thủy chi tinh,nên thuộc Thủy..v.v

- Phủ phùng Không nhi ngộ Thanh long:

Phủ phùng Không tượng là cái kho, vựa trống không, cho nên thường nghèo, túng thiếu, Phủ thuộc Thổ ngộ Không cũng có nghĩa là Chỗ đất Hư địa hoặc Vô khí. Thanh long có tượng là Mạch khí, Long mạch, chỗ Hư địa vô khí mà được long mạch dẫn vào thì Khí thế phục hồi trở lại, biến Hư thành Thiệt, cho nên mới nói là phản vi Cát tường.

- Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa =

Có thuyết cho Triệt là Hành Kim, Tuần Hành Hỏa cho nên khi đến 2 cung này thì ngũ hành ám hợp, ít tác Hại hay được phù trì gì đó,nên gọi là Tốt, nhưng đây chỉ là 1 loại giả thuyết, trên thực tế thấy không đúng lắm.

- Vòng Tràng sinh:

Thấy 1 số sao của vòng Tràng sinh có ngũ hành là đúng vì mấy ông hồi xưa khoái Ngũ Hành lắm, thấy thằng nào (dù không phải là Sao) cũng đè cổ ra dán 1 chữ ngũ Hành vào mặt.

Nhưng nếu nhìn theo 1 phương diện khác, điều này cũng có thể tựa như các vị Thuốc Bắc, vị thuốc nào cũng phải có ngũ Hành để dễ bề phối chế, thì Tinh đẩu trong Tử vi cũng vậy, phải biết Thằng này thuộc Hành gì để dễ phối hơp với các sao khác, hoặc để xem tính chất có khắc kỵ với nhau hay không.

Căn cứ vào đâu?

Như đã đề cập bên trên, mấy Cụ xưa kia đã dựa theo TÍNH CHẤT của mỗi sao mà chọn HÀNH, ví dụ như Trường sinh, có nghĩa là sinh sinh bất tuyệt, thể như 1 dòng nước trên nguồn chảy xuống, cho nên có Hành Thủy, Mộc dục = Tắm gội, cho nên cũng thuộc Thủy. Quan đới = cái đai của các Quan ngày xưa, thường làm bằng kim loại hoặc viền kim loại nên thuộc Kim. Đế vượng = Quý tinh, đi với sao nào cũng làm rực rỡ (Đẹp) cho Sao đó. Hì hì, mấy cái Sao (người đẹp) ra đường mà muốn rực rỡ thì phải đeo thêm nữ trang, vàng bạc (thời xưa mà), trong ngũ Hành chỉ có thằng Kim mới hội đủ 2 yếu tố vừa Quý vừa Đẹp này, cha nào lựa Hành cho em Đế vượng cũng là dân chơi chứ không phải nhaqué đâu í,,

Suy = Tính chất Nhu nhược, yếu đuối cho nên phải dùng Hành Thủy.

Bệnh = những cơn bệnh thường làm cho thân thể gầy guộc, khô héo người đi giống như miếng thịt mỡ bỏ vào lò 15 phút lấy ra teo lại chỉ còn...phân nửa, cho nên Bệnh mà lấy hành Hỏa thì cũng không sai lém.

Tử = là thâm trầm, chết chóc, giảm thiểu, đa sầu đa cảm..chỉ có nước mới diễn tả được những đặc tính này: Thâm trầm = thâm sâu như nước biển, Giảm thiểu = nước bốc hơi, Chết chóc = tử thủy, nước đọng (nước đọng mang trong người những lợn cợn, vẫn đục khó tả).

Mộ = nhập Mộ, chết, chôn vùi...đều liên quan đến Thổ.

Thanh long (Blue Dragon): còn gọi là Thương long, đại biểu Đông phương / mùa Xuân, sắc Xanh, thuộc Mộc.

Nguồn gốc: Theo Cổ Thiên văn thì Thanh long là 1 trong Tứ Tượng (Thanh long, Bạch hổ, Chu tước, Huyền vũ), theo tui thì đây là nguồn gốc xưa nhất của Thanh long, vì Thiên văn xưa thoạt đầu chia nền Trời ra làm 5 Phương dựa theo Ngũ Hành, Phương thứ 5 tại Trung tâm chỉ có các chòm sao thuộc Tử vi viên như Tử vi, Đại Hùng.v.v không chứa bất kỳ sao nào trong Nhị thập bát tú. Bốn Hướng còn lại Đông Tây Nam Bắc thì mỗi Hướng có 1 Tượng trấn giữ.

Thanh long được chọn làm đại diện cho Đông phương vì Đông phương là nơi Mặt Trời mọc,khởi đầu cho 1 ngày, Hướng Đông cũng chỉ cho mùa xuân, khởi đầu của 4 mùa, nên Thanh long Mộc đóng tại đây. Vậy Thanh long là đứng đầu của Tứ Tượng trong Thiên văn, Tử vi cũng dựa phần lớn vào Kiến thức của Thiên văn nên có thể nói kiến giải về nguồn gốc của Thanh long không có gì khác.

Còn Mộc = cây cỏ chủ về sắc Xanh, cho nên lấy hiệu là THANH, Tứ Tượng thì lấy tích Tứ Linh: Long Lân Quy Phụng, nhưng hình thù các Chòm sao có lẽ không giống nên sửa lại là Long Hổ Quy Tước, vì chòm sao Đông phương có dạng hình dài nên người ta gán nó với con Rồng = Thanh Long.

Thanh long chỉ là 1 Tiểu tinh, tuy không có tác dụng lớn lao trong việc hổ trợ các Chính tinh khác nhưng vì Bản chất là Từ tường,thanh cao, Hỷ khí (tính tự nhiên vui vẻ, yêu đời), lại dễ nổi danh nên đi với Chính tinh nào cũng có bổ ích.

như Âm - Thanh Long = người có tấm lòng dịu dàng, vui vẻ. Phủ - Long = người hay bao bọc kẻ khác. Đồng - Long = kẻ hòa đồng, êm thắm với mọi người chung quanh.

Liêm (Miếu / Vượng)- Long = dễ nổi tiếng thanh liêm (không ngộ Sát tinh)...

Về Tướng Quân thì không thấy sách nào nói đến việc phản vi Cát, tui cũng không nghe nói đến sự kết hợp giải nguy của Tướng - Lộc. Nhưng nếu có Lộc tồn trong các Cường cung (không bị phá hoại) thì cũng may lắm, vì chưa chắc đã phản vi Cát tường nhưng về phương diện vật chất thì không sợ túng thiếu.

TỬ VI Tý / Ngọ:

* Tại Tý / Ngọ hội Tam Kỳ = Quyền Quý cách, gặp may mắn lạ kỳ.

* Tử vi cư Ngọ + Khôi - Khoa = Có tài lớn, phò tá vị Nguyên thủ.

* Tại Tý, tuổi NHÂM / QUÝ = Hay chán nản, dễ bỏ cuộc.

* Nữ Mệnh hội Tứ SÁT = Mỹ ngọc hà tỳ.

* Cần Quần thần khánh hội (Tả/ Hữu + Cát tinh), nếu không có Tả Hữu thì thuộc cách Tại dã cô Quân.

* Tử vi + đa SÁT = kẻ hoài tài bất ngộ.

Nếu có Lộc tinh, nên kinh thương.

* Tử vi cư Ngọ, vô Kình - Đà, Tuổi Giáp Đinh Kỷ = Vị chí công khanh.

* Tại Ngọ, tuổi BÍNH / MẬU = Hữu thành hữu bại.

* Tử vi + Quyền Lộc + Kình - Đà = Tuy hoạch Cát nhưng vô đạo, tâm thuật bất chính.

* Tử vi + Xương Khúc + Cát tinh = Quý cách, nhàn nhã.

* Tử vi - Lộc tồn Đ/c = Quý bất khả ngôn.

* Tại Ngọ hội Khôi - Việt - Tướng Quân = là Cách xuất Tướng nhập Tướng, có uy quyền và được kính mộ.

* Nữ Mệnh tại Ngọ = Vượng Phu ích tử.

* Tử vi - Khôi - Việt + Tam thai - Cát tinh = được Quan chức lớn.

* Tử vi Vô Tả -Hữu + Sát tinh = Cô Quân, tiểu nhân tại vị cách, là cách ngồi chơi xơi nước.

Nếu Tam phương có Cát tinh hội mà Bản cung có Sát tinh thì gọi là Quân tử tại dã, Tiểu nhân tại vị. Có cách này là người gian tác, ngụy quân tử.

* Tử - Hình - Vô Tả Hữu = làm quan chức nhỏ.

* Nữ Mệnh Tử vi tại Dần,Ngọ,Thân = Cát Quý Mỹ, chồng hiền con quý.

* Tử vi + Kiếp - Không = Nên tu hành, nghiên cứu về tâm linh, Triết học. Nếu gia Cát tinh có thể là nhà lãnh tụ Tôn giáo.

* Tử vi + Tứ Sát = Phong bãi hà hoa cách, như hoa bị mưa dập gió vùi, không tốt cho Nữ Mệnh.

* Tử vi ngộ Tuần / Triệt = Giảm Quý, mất oai quyền, giảm Thọ, giảm uy lực cứu giải.

* Tử vi tọa Tiểu hạn = có thể giải được tai nguy.

Tử vi Tý / Ngọ + Tam Kỳ = có thể là đến Đại hạn Tam Hóa thì được xơi đó!

Tử vi T/ N - Tam kỳ (kỳ cục) mà an không được thì mới là KỲ CÁCH chứ, an được thì đâu phải là Kỳ, he he...

Mệnh Tốt mà Phúc xấu hay Điền / Tài xấu theo kinh lịch

của tui thì cũng cứ hưởng như thường, bỡi vì Phúc khí thay vì tụ tại Phúc cung thì đã tụ tại Thân / Mệnh, bỏ mấy cung kia mặt tình, dù xấu cũng chẳng sao, cũng có nghĩa là Bạn thì Phát đạt giàu có thế quyền mà Họ hàng (Phúc cũng chỉ Họ hàng) thì nghèo xơ!

Phúc khí tựa như Tiền và Quyền tụ tại nhất Thân thì Bạn có ở gò mả cũng có người theo kỳ nèo săn đón...

Như ông Mao, chỉ có 1 người con trai được hưởng phú quý vì trong 1 dịp về thăm làng quê của ổng, HqP có dứng canh hầu suốt 1 đêm cho ông Mao ngủ, sau này ổng mới cất nhắc, còn 1 đứa con gái ruột thì te tua,ổng không ngó ngàng gì cả, trông hình của bà này tựa như mấy người lao động khốn cùng, thật là quái lạ,,

Cho nên Mệnh tốt mà Phúc xấu cũng có nghĩa là khi phất lên mình chẳng chia sẻ gì với hàng họ, thậm chí người Thân nữa

TỬ VI TÝ / NGỌ:

Thế Tử vi Tý và Ngọ đa phần các Chính tinh còn lại giống nhau về chỗ Miếu / Hãm, chỉ có Tử vi cư Tỳ vì Âm Dương lạc Hãm nên thường sinh trong gia đình trung lưu hay trung lưu thấp (Âm Dương Hãm hội chiếu Phụ Mẫu), nhưng từ từ lớn lên thì kinh tế cũng được ổn định vì Tử vi cư Tý vốn nắm được bộ Vũ- Phủ - Tướng rất hứa hẹn. Về mặt Hôn phối thì Phu Thê Thất sát tọa Nhàn cung phối với Thái Âm Hãm nên về mặt kinh tế người phối ngẫu vì công việc không ổn định, thu nhập bình thường và không giúp ích gì được nhiều, tại Tý Ngọ đều có khả năng phải qua 2, 3 lần đò bỡi Thất sát là sao thường có những quyết định nóng vội, và vì Tham Vượng cư Di, nhất là Tử vi tại Ngọ, Thiên Di có cách Phiếm thủy Đào Hoa, lại sắm trong tư thế lắm tiền nhiều bạc nên gia đạo dễ rối loạn. Có điều người Tử vi lúc nào cũng coi địa vị của Chính Thê rất quan trọng.

Tại Ngọ có ưu thế hơn Tý về Vị Thế (Đế cư Đế vị), Ngũ Hành (Cung Hỏa sinh Tử vi Thổ) và hưởng bộ Âm Dương sáng nên thường sinh trong 1 gia đình khá giả, sau này thì địa vị, danh cử, thu nhập, hưởng thụ đều cao vượt bực, đó là lý do tại sao tìm được 1 lá số có cách Tử vi cư Ngọ (Không bị Phá cách) rất là khó khăn.

Về Thế trận của Tử vi cư Ngọ thì không có gì đáng nói vì xã hội đang trong lúc phú cường, thiên hạ thái bình, nên binh bị có vẻ lơ là, nếu có điều gì oán trách là phát xuất từ sự đam mê dục vọng, có thể phần nhiều là bị Cha Mẹ trách cứ, nhưng không đến chỗ nghiêm trọng. Trận Thế của Tử vi cư Tý xin xem lại Trang # 2.

Hóa Kỵ tại Phúc nếu nói là bị khắc kỵ với người trong họ thì cũng không sai về mặt lý thuyết, nhưng tốt hơn là nên xem Kỵ tinh đi với những Bộ sao nào, ví như Kiếp Không Phục Kỵ (trộm cướp)/ Mộc Kiếp Kỵ (Hư thai) / Tsát Kiếp Kỵ (lãng lý hành chu)/ Liêm Kình Không Kỵ (bất đắc kỳ tử)/ Long Kỵ (có danh)/ Âm S/Mùi -Kỵ.v.v.. tam phương tứ hướng hội với Kỵ tại Phúc cung có thể dễ dàng biến đổi tính cách của Hóa Kỵ, cho nên nếu hỏi 1 Sao nào đó trên 1 Cung thường không được chính xác, ví như hỏi Riêu tại Phụ có nghĩa là gì thì không thể nói Phụ mẫu...hoang dâm mà phải kết hợp với các Bộ Sao đi với Riêu.

Cung Phúc thường chỉ cho dòng Họ của mình mà thôi, tui không nghĩ nó chứa cả xóm giềng. Xóm giềng thì Bạn có thể dùng 2 cung giáp cung của Đại Hạn hoặc dùng vị trí của Điền cung hay Lưu Điền để suy ra, nếu sống chung với Chủ nhà,thì dùng Nô cung, ví như Nguyệt Hạn đến Nô cung thấy có Mã Phục Không Kiếp = Bạn bè của bạn hoặc Chủ nhà của Bạn bị mất trộm xe.

Thất sát - Thanh Long = Sát long, chắc chắn là không sai. Giống nào cũng có con Hung con Hiền, nếu giết 1 con Ác Long thì có khi là 1 cử chỉ đẹp. Nhưng thời này long ở đâu mà giết, tùy theo hình Tượng có thể là giết cá, lươn, các loài bò sát như rắn, giun,,, nếu Sát Hãm có thể là Long Mạch bị Sát Khí,,

11/ THIÊN ĐỒNG MÃO / DẬU:

TƯỢNG: - PHÚC HẬU TÂM TỪ.

- HOÁN CẢI VÔ THƯỜNG.

- SÂU DÂN MỌT NƯỚC. (Dậu Cung)

PHÊ: - BẠCH THỦ THÀNH GIA.

CÁCH CỤC:

- Tại MÃO / DẬU: ẤT/ BÍNH / TÂN = Tài Quan song mỹ.

- Ngộ KÌNH = Dễ bị thương tích.

- Ngộ Hỏa / Linh = Tất sinh dị chí, trước là đồng chí sau là bất đồng ý kiến.

- Nữ Mệnh = Tính tình vui vẻ,hiền từ, Phúc hậu, ham vui, hay thay đổi.

- ĐỒNG + Đào Hồng - Xương Khúc = thích văn nghệ, nghệ thuật, có thể thành ca nhạc sĩ, diễn viên.

- ĐỒNG + Tả Hữu - Xương Khúc - LỘC TỒN = An nhàn hưởng thụ.

- ĐỒNG - KỴ = Đa thị phi.

- ĐỒNG - ĐÀ Đ/c = Mấc bị lé.

- ĐỒNG cư MÃO, Tuổi ẤT = Khắc Mẹ.

- THIÊN ĐỒNG, Tuổi ĐINH / GIÁP = Khắc Phu.

- ĐỒNG - Hỏa - Linh = đa lao khỗ.

- ĐỒNG - KHÔNG -KIẾP = Giảm phúc, bất hạnh, bị đau bộ phận Tiêu hóa.

- ĐỒNG + đa SÁT TINH = Chỉ làm lụng lặc vặt dung thân, hay thay đổi nghề nghiệp, chỗ ở.

- ĐỒNG + Khôi Khoa Xương Khúc = Có linh trí, sáng láng, liêm khiết.

- ĐỒNG -Cự - Tang Mã = Cùng nhau chia tay, chia ly.

- Có CỰ MÔN Hãm = Ngôn ngữ xảo trá, kẻ cả (lệnh sắc), tính tình hay thay đổi, hạ tiện.

- ĐỒNG cư MÃO, Nữ Mệnh tuổi TÂN = Hiền Thê, vượng Phu ích tử. Các tuổi khác cũng tốt nhưng không bằng Tân.

- ĐỒNG hội CÁT Tinh = sống lâu, tăng Thọ.

- ĐỒNG + Quyền Linh Kỵ + Lộc tinh (Lộc tồn / Hóa Lộc) = Buôn bán kiếm tiền dễ dàng.

- ĐỒNG - KHÔNG - Hổ = Không cùng chí hướng, chính kiến.

- ĐỒNG tại DẬU = Hoán cải vô thường, lật lọng có kế sách, làm gì cũng chủ cho tư lợi. (Cách cục không nói rõ ràng).

- ĐỒNG Hãm + Hình - Kỵ - Sát tinh = Phiêu bạt lao khổ, bị bệnh tật: Đau Bụng, Bộ tiêu hóa, tật ở Mắt, dễ mắc tai nạn và giảm thọ.

QUYENQUY có hỏi:

.....vậy phải chăng một lá số muốn có sự nghiệp lớn thì phải có hung tinh kèm theo các trung tinh phụ tá tinh tốt đẹp đi bên chính tinh để chính tinh có đủ khả năng định hướng cho các hung tinh này.

Và có phải hung tinh chỉ đi đúng với đại tướng chỉ huy với mình như Hỏa Linh phải gặp được Tham Lang, Kình Đà phải được Thất Sát, Không Kiếp phải được Phá Quân hoặc chí ít là có khả năng khắc chế được tính sát như Hỏa Linh gặp Tử Phủ, Không Kiếp gặp Vũ Tướng, Kình Đà gặp Tử phủ Vũ Tướng... mới phát triển được, còn đám mặc khách văn nhân Cơ Nguyệt Đồng Lương thì luôn phải chịu lép vế.

Các lá số dù có Cách cục lớn hay nhỏ mà chúng ta gặp phải hàng ngày đa phần đều thuộc Cách Cát Hung tham bán, tức Cát tinh và Hung tinh lẫn lộn tọa chiếu Mệnh viên. Các Hung tinh ngoài ý nghĩa Tai họa, bệnh tật,

cá tính xấu.v.v thì trong sự nghiệp nói chung chúng thường biểu thị tính cách trở ngại, thăng trầm, thất bại, khi đi chung với Cát tinh thường thì chúng tạo ra cách Tiền Hung hậu Kiết, có nghĩa là nếu đương sự có đủ khả năng, trí tuệ và nhẫn nại cũng như vốn liếng và vượt qua được những khó khăn cản trở do lũ Hung tinh gây ra trong quá trình xây dựng sự nghiệp thì chắc chắn sẽ hưởng được xứng đánh thành quả tốt đẹp, thành quả này là do sự kết hợp của Cát và Hung tinh, nên thường lớn lao và lừng lẫy hơn là những Cách cục có Cát tinh mà thiếu Hung tinh, cho nên sách nói Cát tinh đắc địa tầm thường sự nghiệp là vậy.

Ở Thành phố lớn này có 1 thương gia xây dựng sự nghiệp trải qua 4 lần thất bại mới thành công và ông ta đang lá 1 thương nhân giàu có nhất nhì tại địa phương, lần thứ 4 những người bạn hùn vốn cùng ông thấy thất bại trước mắt nên đã tìnm cách rút hết vốn ra, chỉ còn 1 mình, ông nãn chí lắm nhưng phóng lao thì phải theo lao, vì quay trở lại thì vốn liếng cũng không còn bao nhiêu, nếu lần đó mà ông buông trôi thì nay chỉ là 1 phó thường dân như vài người bạn chung vốn làm ăn khi đó.

Sát Phá Tham thì khắc chế và dùng được Lục Sát và Sao nào thần phục sao nào thì đã có nhiều tác giả đề cập, vấn đề này đã rõ ràng nên ta không cần nhắc lại. Còn Cơ Âm Đồng Lương thì không phải là không có khả năng lãnh đạo hay không có tài cán, 4 sao này về mặt trí tuệ và Tài năng có nhiều khi còn cao cấp hơn Sát phá Tham, nhưng vấn đề là Họ thụ động, nhút nhát và thiếu Hùng khí, thiếu lỳ lợm, thiếu gan góc,v,v biết là làm việc đó phần thắng lên đến 80 % nhưng vẫn không dám thử sức, vì sợ...20% còn lại quật lại thì chết, còn những Anh Sát Phá Tham thì khác, dù chẳng biết phần trăm thắng lợi là bao nhiêu, có thể là 5, 3 % vẫn có liều mình xông vào làm thử, đó là lý do tại sao đa phần người người thắng lợi lớn lại không phải là nhóm Văn tinh.

Đồng Quyền Linh Kỵ, trong đó Quyền Linh Kỵ = Quyền biến, linh động, chủ động nắm cơ hội (đây là chữ Anh dùng rất đúng trong trường hợp này), thêm Tuế / -Hình / Hình Kỵ Không Kiếp.v.v có thể đem lại thị phi, mờ ám

ĐỒNG CƯ MÃO thì cũng vậy, 2 tuổi ĐINH / GIÁP cũng bị Khắc Phu.

ĐỒNG cư MÃO ngộ TRIỆT = Tùy lá số mà luận, không thể nói tổng quát là tốt hay xấu, nói chung là Thiên Đồng hay bất kỳ sao nào có Cát tinh từ TAM PHƯƠNG chầu về mà bị Triệt thì không tốt, Cách cục bị giảm nhiều lắm, còn Tam phương Hung tinh đa thì lại có thể lại là Tốt.

Theo Tui thì chúng ta không thể lựa Chính tinh cho phù hợp với Nạp âm hành Mệnh của mình trong trường hợp chỉ có 1 Chính tinh trong ngôi nhà của Mình, nếu nó không phải là mình thì nó là ai?? không lẽ là Bà hàng xóm!

Các Cô Thiên Đồng mà Tui đã gặp tính tình và xử sự phải nói là không chê vào đâu được, hầu như những đức tính đáng yêu của phụ nữ họ đều dành ôm hết cả vào Thân, nên Thiên Đồng Nữ Mệnh đã có những đức tính tốt hình thành trong đó rồi, nếu không tại sao sách gọi là Phúc tinh? Mà có Đức mới sinh ra Phúc chứ, không có Đức tính / đức độ thì lấy gì sinh ra Phúc đức! nên chỉ có những gã đàn ông nào...mù mắt mới dám chê mấy Cô Thiên Đồng mà thui, ngay như các Cụ xưa có nhắc lấy Vợ thì nên lấy THIÊN ĐỒNG và THIÊN TƯỚNG chứ đừng có lấy mấy Bà la SÁT như mấy Cụ đã lẫm lờ.

THIÊN ĐỒNG MÃO / DẬU:

Thiên đồng thuộc Âm Thủy (có sách đề là Dương Thủy), tại Mão / Dậu có hội tụ của tam Thủy (Âm -Cự - Đồng) nên Khí lực rất mạnh, tại Mão vị vì phải sinh xuất cho Mộc Cung nên khí thế trở thành hòa hoãn, bình thường.

Tại Dậu thì Cung sinh Tinh đúng lý ra phải Miếu / Vượng nhưng vì Thái Âm là Tinh nguyên của Thủy bị Hãm, nguồn của Thủy bị Hãm thì khí thế giảm nhược. Vả lại Thiên đồng tại Dậu là Thủy sinh vào tháng Trọng Thu, nếu không có Bính (Thái Dương) xuất hiện thì Kim khí bị giá rét không thể sinh Thủy, vì 2 lý do này Thiên Đồng tại Dậu vẫn không thể ở vị trí Miếu / Vượng (thuộc chữ Bình cũng như tại Mão).

Tại Mão cung được hưởng Âm Dương sáng tọa Di / Phúc nên Cách cục tại Mão tốt đẹp hơn tại Dậu. Không ở vị trí Miếu / Vượng mà Thiên Cơ tọa Quan lộc bị lạc Hãm cho nên nếu Quan lộc không có đa Cát tinh thủ chiếu thì Cách Thiên Đồng Mão / Dậu phần đông chỉ làm công nhân viên chức Hạng Trung trở xuống.

Tại Mão không nên ngộ Hỏa Linh Không Kiếp, cuộc đời thường vất vả, khó khăn, lên thác xuống ghềnh, nhưng Thiên đồng dù lạc vào Hãm địa thường thì nghèo nhưng vẫn Thọ.

Đồng Mão / Dậu vì bị Cách Cự - Dương nên bất lợi cho Đàn Bà, cách này thường dễ khắc khẩu với người Tình hoặc người Chồng, trong trường hợp gia thêm các sao Thị phi (Tuế/ Kình / Đà / Khốc -Hư / Kiếp / Kỵ...) thì gia đình càng thiếu hòa khí vá Khắc Phu.

Đàn ông vẫn bị cách Cự Dương nhưng vì ngoại hướng nên thường khắc Cha và hay gây thị phi từ bên ngoài

Có 2 lá số THIÊN ĐỒNG cư MÃO:

1/ JEB BUSH: 11 FEB 1953, 20:50 Hr.

2/ JOHN McCAIN: 29 AUG, 1936, Giờ: Tỵ (9: 11 AM)

12/ THẾ CỰ- NHẬT DẦN / THÂN:

Tại DẦN:

TƯỢNG: - DƯ LUẬN THUẬN PHÒ.

PHÊ SỐ: - THỰC LỘC TRÌ DANH.

- NHẤT CỬ THÀNH DANH.

(Thái Dương cư Dần là điềm Thiên môn

Nhật lãng, nếu thêm Quyền Phượng sẽ thành

Cách Nhất cử thành danh).

Tại THÂN:

TƯỢNG: - LƯƠNG THẦN BỊ VU KHỐNG.

- VẠ MIỆNG HẠI THÂN.

(Chủ Hối tiếc buồn thương).

- QUAN PHONG TAM ĐẠI.

(Cần Tuần / Triệt tại Thân / Dậu).

PHÊ: - TU PHÒNG TÂM PHẾ.

(Dễ bị bệnh Tim / Phổi vì lo buồn)

- THỰC LỘC TRÌ DANH.

CÁCH CỤC:

* GIÁP / ĐINH / KỶ / CANH / TÂN = Tài Quan song mỹ.

* Vô Kiếp Không + Tứ Sát + Cát tinh = Thực lộc trì danh.

* Kiến KÌNH - ĐÀ + Cát tinh = Nam Nữ tà dâm, tuy Phú Quý nhưng không bền. Nữ khắc Phu.

* Tại Dần, ngộ Thiên Không - Hỏa Linh - Tang = Bị Hỏa Ách.

* Tại Thân = Tác sự tiên cần hậu lãng (làm việc gì cũng vậy lúc đầu thì hứng khởi sau thì lơ là).

+ Ngộ Sát Hình Kiếp Kỵ = đau yếu bệnh tật.

* Tại Dần = Tính hay rối trí. Kỵ ngộ Các sao Thuộc Thủy, giảm Tốt.

* CỰ hội THÁI DƯƠNG = Cát Hung tham bán.

* Tại Dần cung ngộ Đa Cát tinh = Phú Quý dương danh, Quan phong Tam đại Cách.

* Nữ Mệnh Cự - Nhật - Kỵ = Khắc Phu, khắc khẩu, dễ bị tan vỡ. Nam đa khắc Phụ (Cha).

* Ngộ Tuế - Lộc = Nên đi buôn.

* Mệnh VCD tại THÂN, DẦN cung có CỰ- NHẬT chiếu =

Trước có Danh tiếng, sau Tiền bạc mới đến (Tiên trì danh nhi hậu thực lộc).

Mệnh VCD tại Dần, Cự - Nhật tại Thân chiếu cũng vậy. 2 Cách này rất DỄ NỔI TIẾNG, nhiều khi có tiếng nhưng tiền không là bao.

* CƯ - NHẬT Dần / Thân, phúc hỷ Giáp / Canh sinh = Cần người tuổi Giáp / Kỷ dễ làm Quan lớn.

* Cự - Nhật D / T Kỵ ngộ Lộc tồn = Ngộ Lộc tồn là cách Cát xứ tồn Hung, nếu có Hung tinh tụ đảng dễ bị Phá sản, tai nạn, bệnh tật. Cho nên Cách này cần Hóa Lộc hơn Lộc tồn.

* Cự - Nhật Đ/c + Đa Cát tinh = QUAN PHONG TAM ĐẠI Cách.

QUYENQUY hỏi:

Thưa bác MaYCung, bác cho cháu hỏi thêm một số câu hỏi về hai lá số này với ạ!.

1. Lá số ông Maccain:

- Mệnh tài quan là Đồng Cơ Cự hội quyền lộc, đào hồng hỉ, khôi việt, cáo phụ;Thân cư dư có cách Luơng Âm Duơng hội thêm Lộc tồn, Xuơng Khoa nên rất đẹp nhưng lại bị một số phá cách rất đáng ngại như quan cung Thiên Cơ ngộ Hỏa, Phúc Cung Thái Duơng miếu đi cùng Lộc Xuơng và Khoa bị triệt, Di Cung Thái âm miếu ngộ Tuần. Nếu thông thường khi xem thì chẳng ai dám nghĩ là ông có thể là Thượng Nghị sĩ và đã từng tranh cử tổng thống có đúng không ạ vì quan cung đã bị phá cách khá nặng và Phúc cung cũng không được hoàn hảo!

2. Lá số ông Jeb Bush:

- Cháu thấy ông mệnh thân thuộc cách Đồng Cơ Cự nhưng mệnh triệt quan lộc bị tuần, hơn nữa thân cư tài bạch bị phạm vào cách Cự Lộc đồng cung cát xứ tàng hung nữa nhưng sao ông ta vẫn lên được Thống Đốc Bang ạ!

Những câu hỏi của cháu có thể hơi ngu ngơ nên mong bác thông cảm ạ, vì cháu thấy nhiều khi phú áp dụng vào giải đoán cũng không được chuẩn lắm ạ. Cháu xin cảm ơn bác!

Huynh QUYENQUY,

Anh nói đúng cung Phúc của McCAINE không được tốt vì Thái Dương sáng ngộ Triệt, nhưng nhờ vào Đại Hạn Phúc đức 23- 32 tuổi ta mới hiểu được Triệt này ảnh hưởng ra sao và không tốt ở chỗ nào.

Thái Dương thuộc Bắc đẩu tinh hệ ngộ Triệt thì cái xấu sẽ xảy ra vào nửa sau của Đại Hạn, nửa đầu của Đại hạn trên thực tế cho ta thấy công danh, sự nghiệp của ông ta vẫn đang đi lên.

Quan lộc Thiên cơ Mộc ngộ Hỏa cũng không tốt vì Mộc kỵ Hỏa phần, Thiên di Thái Âm sáng ngộ Tuần cũng vậy, chỉ mấy điểm này cũng cho thấy lá số này khó ngoi lên cao được.

Nhưng mà ông ta ngoi lên được mới là chuyện lạ.có lẽ nhờ vào Phúc / Ấm tụ tại Mệnh / Thân và Mệnh / Thân hội đủ Khoa Quyền Lộc + Tứ Cát - Tam Minh.

Ông này bị nạn vào năm 1967 Đinh Mùi, tức nhằm ngay cung Quan lộc, theo Tượng mà dò thì thấy không sai mấy khi có:

Phi (Liêm) - Cơ = Máy bay. Ngộ Thiên Không - Hỏa tinh = bốc cháy trên không.

Ách cung có: Điếu + Kình Đà Không Kiếp = vì té ngã mà bị què lọi tay/ chân.

Ông này bị bắn rơi xuống Hồ Tây = Cự - Hà.

Có Thanh long nhập Mộ, rồng xanh nhập Mộ mà sao ổng không chết, mà còn rên rỉ ca bài " Anh không chít đâu Em, anh chỉ vừa...chống nạn hôm qua..." Hè hè, ai mà biết được.

Hồ Tây hình như nằm bên Phải của Hà nội dựa theo cung vị trên ná số, chưa ra Bắc lần nào nên đâu biết nó mặt dày mặt mỏng như thế nào??

Ông Hai này Cung Quan lộc cung đâu có tốt gì nhưng nhờ cách Thanh long nhập Mộ, Long - Hà, và nhị Hợp lại có Khốc Hư đ/c hưởng 3 Cách Nổi tiếng cùng lúc, như vậy lá số của Ông này thuộc loại có Tiếng hơn là có Miếng!!

Sau đó dĩ nhiên là Ông 2 này ôm quần áo vào Hỏa Lò ngồi...ngâm thơ, đang ở Hạn Xương - Khúc Khôi Vịt Khoa mà, Hạn này níu không có Triệt thì ngồi viết sách cũng nổi như Diều.

Hèn chi người ta nói Cơ - Lương thì sợ Hỏa - Linh, Hạn này lái máy bay thì gặp..tên lửa, vô Tù ngồi cũng gặp Hỏa (Lò) đúng là chạy đi đâu cũng không thoát.

Nủa Đại hạn sau có Thái Dương + Âm ngộ Tuần - Triệt, mà Âm Dương = Tháng Ngày, Tuần Triệt = che chắn, nên thời gian này có thể nói là ông không thấy Mặt Trời Mặt Trăng đâu cả, ngày cũng như đêm đêm cũng như ngày chỉ biết làm Thơ như Cụ Trần văn Hương mà thui... (Ông Vũ thư Hiên cũng cùng chung cảm giác nên có Tác phẩm Đêm giữa ban ngày).

*

Về Ông Giép BUSH thì ông này Hên lắm, tui có học được chiêu Mệnh Triệt / Quan Tuần thì dễ bị Thất Thân trước khi lên xe hoa về nhà Chồng, vì lão ta là Đờn ông nên né được, không ai thèm phát giác...

Cách của Lão này Mệnh Quan bị T/ T, nhưng THÂN có Cự ngộ Tứ Cát thì đã hóa giải cái Hắc ám rùi (Chính Tinh Hãm ngộ Cát có thể hóa Cát), tạo thành Cách Cự - Lộc = hưởng lộc Lớn, ngoài ra PHÚC cung Tốt quá: Thái Dương Huy quang ở đất Trường sinh lại ngộ Tam Minh - Song Lộc, hổng biết Cụ Nội tổ chôn ở đâu mà phát dữ quá...

Như vạy Đồng - Lương mà có gặp Hỏa Linh cũng dừng lo lém, Phúc Ấm tại Thân không sợ Tai nguy mà, Cơ ngộ Hỏa cũng vậy, không chừng lại Nổi tiếng như số của lão nèi

12/ CỰ - DƯƠNG DẦN / THÂN:

Muốn nhìn thấy vị thế của Cự - Nhật có khi phải lùi 1 bước đứng ở cung Thiên di là Cung độ của Quan sát viên mới thấy được,

- DƯ LUẬN THUẬN PHÒ:

Cự Nhật tọa DẦN, Thiên Di tại THÂN ta thấy có:

Cơ - Lương = Cơ hội tốt đẹp. Cơ - Cự = Cơ hội to lớn.Thái Dương đang lúc Thăng Điện thì càng lúc càng sáng lại là sao chủ về công danh, phối hợp với Cơ Lương / Cự Cơ thì ta sẽ thấy được Cách = Có Cơ hội to lớn. tốt đẹp để lập chí công danh. Dư luận là chỉ ĐỒNG - ÂM / ĐỒNG - CỰ, nhưng vì Thái Dương đang lúc sáng sủa, công danh và tương lai sáng lạng, lại là người trong nhà ai lại trở mặt chống đối, lúc đó ĐỒNG - ÂM có nghĩa là đồng lòng, CỰ đã biến thành cánh cửa công danh to lớn, Thiên Di là ĐỐI CUNG (Cung của Đối thủ) vắng hoe, mà Cự lại nhập bọn với Đồng Âm để tâng bốc Thái Dương, cho nên có tượng là Dư luận thuận phò.

CỰ - NHẬT TẠI THÂN thì không đẹp bằng Dần.Tại THÂN thì ngược lại, từ vị thế thuận phò thì nay bị Vu Khống, từ vị thế đứng tươi cười trước cửa (Cự - Dương tại Dần = Người có danh chức đứng trước của) thì nay lấp ló phía sau cánh cửa! Uui, đúng là cánh cửa của Công danh, không biết đã bao lần đè chết bẹp cõi đời của mỗi con người,chỉ vì mỗi Vị thế khác nhau, nay thì Công danh đang trên đà đi xuống, Thái Dương (Công danh) đang đến lúc về chiều, Thái Dương là người có Danh chức, có tính cách trong sáng, sự nghiệp cung lại thấy ĐỒNG ÂM ẩn hiện nên cho thấy đây là 1 Lương thần (Đồng âm thường can gián không cho Vua làm điều sằn bậy, nên gọi là Lương Thần) Chủ nợ, Đối phương chưa thấy tới mà người nhà đã vội vàng trở mặt (Cự môn biến chất từ thuận tòng quay ra Vu Khống, chỉ trích). Thói đời là vậy, không có gì đáng phải ngạc nhiên. Từ nay kẻ có Thái Dương Hãm vận nói năng ắt phải đề phòng vì cớ Vạ miệng hại Thân.

QUAN PHONG TAM ĐẠI:

Ở đâu vậy? Tại sao lại đến tam Đại?

Mệnh VCD tại THÂN, Cự - Nhật chiếu:

Thái Dương là chủ về Quan chức, cư Dần là đất TAM DƯƠNG KHAI THÁI, Tam Dương = 3 vạch Dương = chỉ 3 người đàn ông. Nội Quái có 3 Hào Dương, Nội Quái lại ám chỉ trong gia đình, Tam Dương này chiếm vị trí từ Hào 1, 2 đến Hào 3, có nghĩa là về mặt Thứ cấp thì khác nhau, không sánh ngang vai được, Hào 1 là nhỏ nhất đại biểu là Cháu, Hào 2 là Cha, Hào 3 là Ông, nên gọi là Tam Đại = 3 Đời. Vả lại DƯƠNG KHAI THÁI nói theo kiểu chiết tự = Quan lộc được Hiển Đạt. Túm lại = 3 Đời Hiển đạt.

Quan Phong tam đại Cách chỉ cần không ngộ KIẾP KHÔNG / TỨ SÁT là Thành Cách.

Hay nhất là gia thêm Tả - Hữu (hoặc 2 Cát trong Lục Cát) + TAM KỲ / SONG LỘC = PHÚ QUÝ CỰC PHẨM.

Nếu ngộ KIẾP KHÔNG và TỨ SÁT = phá Cách.

- Thiên Di ngộ TUẦN / TRIỆT / HỎA - LINH = Cũng bị phá cách, bôn ba lao khổ, bất đắc chí..

Nếu ngộ HÌNH - SÁT = Xuất ngoại Hung nguy.

Các này VCD được 3 Cách đẹp chiếu hội là: CỰ - NHẬT cư Dần / ĐỒNG ÂM cư Tý / CƠ - LƯƠNG Cư Thìn, bộ nào cũng đẹp cho nên nói Quan phong Tam đại là cũng không ngoa.

KHÔNG Kiếp - Thiên không / Tuần Triệt.v.v không thể nào nói vài câu hay 1, 2 Bài là có thể giải thích hết được, mà nói thu tóm tổng quát cũng rất khó cho người ứng dụng vì sơ lược quá. Tùy mỗi lá số mà chúng biến đổi khác nhau, cho nên điều Quan trọng không phải là vấn đề giải thích (vì đã có rất nhiều giải thích về Kiếp Không / Tuần triệt trên TVLS và các Trang khác,)mà là Phương pháp làm việc.

Nếu các Bạn muốn đi sâu vào Tử vi (học Tài tử thì không cần) thì trước nhất phải có:

- Hồ sơ các lá số.

- Các Câu Phú và Công thức liên quan đến đề mục nghiên cứu,

- Phải chịu khó học thuộc lòng các câu Phú và công thức liên quan. Nếu không chịu khó học công thức thì coi như không xem được, hoặc nghĩ là mình xem được nhưng thực tế là mình chẳng hiểu gì cả. Nếu có trúng thì cũng chẳng biết tại sao trúng, Sai thì không biết tại sao sai.

Tui nói ví dụ như Kiếp - Tham = lãng lý hành chu.Nhưng qua đến Kiếp - Liêm cư Hỏa cung = có thể là Tự vẫn, đến Mã Tuế Kiếp = bị đâm chém. Cơ Tấu Tuế Kiếp = đăng đàn bái tướng.v.v Nó biến đổi rất mực vô chừng, nếu không học mà chỉ đựa vào Cảm tính để đoán thì rất nguy hiểm vì độ sai biệt rất lớn.

Những công thức này bắt buộc các Bạn phải học, học càng nhiều thì trình độ xem lá số càng dễ dàng, cũng tương tự như học Vocabulaires của 1 môn sinh ngữ vậy, có vài Trường phái chủ trương không cần học như vậy vì lý do này lý do kia, học như con Vẹt.v.v nhưng khổ thay Tử vi là 1 loại môn giống như Sinh ngữ / Hóa học, những môn này mà không học từng Chữ, từng Công thức thì làm sao mà Master.

Khi đã Master rồi thì mới nói đến chuyện không cần Phú / Công thức (vì chúng đã nằm sẵn trong đầu rồi, không cần suy nghĩ), tức là đi đến trình độ Vô Chiêu, Bạn có bao giờ thấy 1 sinh viên chỉ biết khoảng 1 hai nghìn từ ngữ tiếng Anh mà đã thông suốt được Anh văn không??

Đó là lý do học Tử vi tiến rất chậm, vì phải nhét vào đầu rất nhiều thứ, còn những Bạn đi theo trào lưu Hiện nay nhìn 1 đống sao rồi phân tích theo ý của mình mà chẳng cần học nhiều thì đó là Trường phái của Họ (chỉ cần biết Đặc tính của Từng Sao một là đủ roài), cũng như có những người học Tiếng Anh mà không cần học từ ngữ!!, chỉ cần học Văn phạm thui, học như vậy thì khỏe ru hà, chừng 2, 3 năm là đã ra trường làm Giảng sư được rùi,,

13/ THIÊN LƯƠNG TÝ / NGỌ:

TƯỢNG:

Tại TÝ: - LƯƠNG THẦN ẨN DẬT.

PHÊ: - HOÀI TÀI BẤT NGỘ.

Tại NGỌ: - LƯƠNG THẦN NHIẾP CHÍNH.

PHÊ: - QUAN TƯ THANH HIỂN.

- ĐINH / KỶ / QUÝ = Tại Tý là Phúc hậu. Tại Ngọ là Cách THỌ TINH NHẬP MIẾU, được Quan tư thanh hiển.

- CÁT tinh tương phùng = Bình sinh Phúc Thọ song toàn, không sợ Hung nguy.

- Gia TỨ CÁT - Tam Kỳ / Quyền - Lộc = Vị chí Đài cương, xuất tướng nhập Tướng.

- Tại TÝ, có DƯƠNG - XƯƠNG - LỘC Hội = Lô truyền đệ nhất danh. Tại Ngọ thì Mệnh phải tọa Thái Dương, gia thêm Lương Xương Lộc cũng thuộc Cách này.

* Thiên Lương Đắc địa = Thông minh, tử tế, hiền lương, bình sinh Phúc thọ.

* Thiên lương Hãm địa, đa Sát - Kỵ tinh = Đa bệnh tật,nếu ngộ các Cách Yểu vong xâm phạm = Vẫn bị yểu tử.

* Thiên lương + Văn tinh = là kẻ giỏi du thuyết, ăn nói hay và thuyết phục.

* Thiên lương = Chủ về Cô khắc, thường khắc Lục Thân (Anh em / Cha Mẹ / Thê nhi).

* Nữ Mệnh Thiên Lương Miếu / Vượng = Hiền từ. phúc hậu, trung trinh.

* Thiên lương Cát địa = Có công năng tiêu tai giải ách.

* Thiên lương là ẤM TINH = Nếu Miếu / Vượng, Cát tập thường được hưởng di sản, thanh danh, địa vị của Cha Ông để lại.

* Thiên lương = Thường là kẻ có mưu chước nhưng bản chất hiền từ nên thiếu thủ đoạn.

* Lương Hãm địa = Lận đận trong công ăn việc làm, hay thay đổi nghề nghiệp, chổ ở. kiếm tiền khó khăn, hay xa gia đình, ly hương lập nghiệp.

* LƯƠNG TÝ / NGỌ + NGUYỆT - LINH + Cát tinh = Đa Tài, hiển đạt.

* LƯƠNG - Hóa Lộc Đ/c = là người Bác ái, hay bố thí và làm việc thiện, cứu trợ xã hội...

* LƯƠNG Hãm ngộ MÃ = Là Cách Phiêu đãng vô nghi. Thường hay thay đổi chỗ ở, việc làm, chí hướng, hay đi xa. không bền chí, cuộc sống lông bông. Nhất là tại Tỵ / Hợi, thường là kẻ chơi bời lêu lổng, Nữ Mệnh thì Dâm dật, có thể là hạng đĩ điếm. Nếu gia thêm Ác Sát tinh là kẻ hạ tiện, nghèo hèn. Nam Mệnh thuộc Cách THÊ NHI LÃNG ĐÃNG.

* LƯƠNG - HÌNH = Hình khắc, hay bắt bẻ, trừng phạt.

* LƯONG + Việt Linh Hình = bị sét đánh, điện giựt.

* LƯƠNG - HỎA / LINH hội Thiên Di = Giỏi buôn bán lương thực, thực phẩm.

* LƯƠNG - KỴ = Bị cây cối đè.

* LƯƠNG + Đa Sát Kỵ tinh = Nhiều bệnh tật, phải sống nhờ thuốc thang.

* LƯƠNG + Tam Minh = Có thể vào nghề trình diễn, Văn nghệ, may vá, phục vụ nhan sắc...

* LƯƠNG + ĐÀO -HỒNG -Tả Hữu Xương Khúc Riêu = Nữ Mệnh là người Rất đẹp và có tài, có thể làm người Mẫu, Minh tinh, có nhiều người theo đuổi, ăn chơi hưởng lạc.

* LƯƠNG - LỘC TỒN Đ/c = Thiên lương thường không thiện quản lý kinh doanh,ngoại trừ những ngành như Thốc men, Thực phẩm, thực vật, có Lộc tồn đ/c thì có tiền nhưng sinh phiền toái.

* LƯƠNG gia CÁT tọa Thiên Di = Hoạnh phát kinh thưong.

* LƯƠNG - XƯƠNG / KHÚC Đ/c = Là kẻ lịch duyệt, khoan hòa và có thanh danh.

* LƯƠNG tại Tiểu Hạn = Nếu Miếu / Vượng, không ngộ Sát tinh / Không vong thì tài lộc hưng thịnh. Nếu Hãm ngộ Hung tinh, bất lợi về sức khỏe, tiền bạc, hoặc đau nặng, phá sản.

* LƯƠNG cư Mệnh, Phu / Thê là Cự Môn = Thuộc Cách Đa bất mãn hoài.

Sách nói Thiên Lương thuộc Âm Mộc, lại có sách khác nói là Dương Thổ, chúng thuyết phân vân, không biết đằng nào mà lần.

Nay xin theo sách của ngài Vân Đằng TTL làm Tiêu chuẩn, theo Cụ TTL thì Thiên lương thuộc Âm Mộc. Thiên lương thuộc Mộc thì cư Tý Miếu / Vượng là đúng, vì Tý là Thủy cung sinh cho Mộc tinh. Tại Ngọ vị vì là đất Trường sinh của Âm Mộc, theo Thể Tượng Thiên Lương có Tượng là 1 Lương Thần, Ngọ cung là chốn Triều đường

Lương Thần mà tọa tại chốn Triều dã thì có nghĩa là Lương Thần đắc dụng, được nhà Vua tin dùng,vì Thế (Trường sinh) và Tượng (Lương Thần đắc dụng) đều đắc cách nên Thiên lương cư Ngọ có thể liệt vào Hạng Miếu / Vựong, dù rằng về mặt Ngũ Hành không Tốt vì thuộc Diện Tinh sinh Cung.

Ngược lại thế Thiên lương cư Tý về mặt Ngũ Hành rất đẹp, nhưng về Thế và Tượng thì Thất cách, vì Thiên lương Mộc cư Tý là cư Bại Đia, sinh nhằm Bại địa dù có phát cũng là...Hư Hoa, Hư Hoa có nghĩa là không thiệt, giả tạo, chỉ được vẻ bề ngoài.v.v Thiên lương cư Tý vì ở vị thế Đối diện triều Thiên, có nghĩa là không ở trong Cung mà lang thang bên ngoài, Thiên lương là Mộc, Tỳ là tháng Trọng Đông, ở vị thế này có nghĩa là người đã từng làm Quan, từng được hương ân mưa móc của nhà Vua (Thái dương cư Ngọ là Tựong của nhà Vua, hiện tại thì đang run rẩy (vì mùa đông mà) để đợi sắc chỉ triệu hồi, hồi Kinh phục chức (đợi lệnh Vua cũng thể như ngày rét mà chờ ánh mặt trời vậy)/(có lẽ vì can gián, bẩm trình nghịch nhĩ hay sao đó mà bị Triều đình cho về Vườn...đuổi gà cho Bà xã!).

Tuy là ở Thế Lương Thần ẩn dật (Dùng chữ ẩn dật nghe cho nó lịch sự 1 tý chứ thật ra là bị ngưng chức hay bãi chức), tình trạng này sao giống từa tựa cái Ông đại thần Nguyễn trường Tộ quá.

So sánh giữa 2 tư Thế, Cư Tý thì đắc Ngũ Hành mà Thất Ý(Thế) và Tượng, ngược lại cư Ngọ thì Đắc Thế- Tượng mà Thất Ngũ Hành. Nên có thể nói là bình quân thu sắc, tùy trường hợp mà chọn, chưa chắc ai hơn ai.

Tại Tý, nếu Thân cư DI thì quá Tốt, từ vị thế Bại địa trở thành Đắc địa và Đắc Thế.

Tại Ngọ, nếu Thân cư Di sẽ biến thành Hãm cuộc (Thân cư Thái dương Hãm) tức từ vị thế Thành biến ra Bại.

Thật ra khi Thiên lương đơn thủ Tý / Ngọ thì tại Tý tốt hơn Ngọ, bỡi lẽ tại Ngọ có Thái Dương đối cung Hãm địa và về mặt Ngũ Hành cũng không tốt, nhưng Thiên lương cư Ngọ là đắc Thế / Tượng, chỉ cần có Văn Xương / Văn Khúc Đ/c gia hội Cát tinh là lập tức ứng với câu Phú:

- Thiên lương - Văn Khúc (hoặc Văn Xương) cư Miếu / Vượng, vị chí đài cương "

- Thiên lương Miếu Vựong, Tả Hữu Xương Khúc gia hội, xuất tướng nhập tướng.

Đây là Cách VĂN -LƯƠNG CHẤN KỶ, (Văn = Xương / Khúc, Lương = Thiên lương, chấn kỷ = Chấn hưng lại kỷ cương, luật pháp Quốc gia).

Cách này cần LƯƠNG Miếu / Vượng thủ Mệnh, tam phương có Lộc tồn, Cát tinh (nếu đắc Tam kỳ thì quá tốt)

chủ xuất chánh đường quan (làm Quan, công chức cao cấp) thành đại Quý, trong tay thu tóm bộ máy Hành chánh của nhà nước.

Cách Thiên Lương cư Ngọ vì Mộc cư Hỏa địa, xét về mặt Cung Khí nên cần dùng Kim / Thủy phối chế, có thể dùng Kình Hình Kỵ...nhưng về mặt Hậu quả không tốt bằng đi với Văn tinh Xương Khúc (vì Văn Thần thì cần Văn tinh và Khúc / Xương đi với Lương không mang lại Hậu họa).

Ví dụ như Lương - Hình = Hình khắc thái quá, nắm vận mạng Quốc gia mà thi hành chính sách quá độ khắc nghiệt, có thể đem hậu quả tai hại đến bản thân như trường hợp Thương Ưởng chấp chính nhà Tần, dùng chính sách Tân chính quá tàn bạo. Và Lương đã chủ về Cô khắc, nên có hậu quả không tốt.

Lương - Kình = lại chủ về Cô khắc, vì Thiên Cơ- Thiên lương - Kình Dương hội = Tảo vãn cô hình (sớm tối chỉ có...1 mình).

Lương - Kỵ = Sợ bị tai nạn cây, gỗ đè sập,,

Như vậy khi phối chế cần phải biết Hậu quả, có những cách rất đẹp nhưng cuối đời bị hoạn nạn, Bất đắc kỳ tử..v.v là vì tuy có thích nghi về lý Ngũ Hành nhưng không Thích hợp về mặt Nghĩa Tượng.

Bạn HOAPHOBUON,

Ma y cung có viết:

Tỵ = Đông Bắc. Dinh Thái tử theo tục

lệ phải ở phía Đông của Cấm cung, cho nên nói là ở gần

Cựu Dinh, vì Thái tử lên ngôi tất nhiên phải move nhà!

Và đoạn:

BÀN CỜ:

Trên Bản đồ lộ số nhà Vua đã bò trống Kinh Thành, chạy

tỵ nạn về hướng Đông Bắc, có mang theo 1 Đại Tướng và

đoàn tùy tùng hộ giá.

Về 2 đoạn trên xin Quý Bạn sửa lại giùm là TỴ = Đông Nam.Không phải Đông Bắc, Qua vài Bài sau đã có 1 Ông bạn nhắc nhở từ lâu nhưng tui nghĩ Quý Bạn sẽ thấy được những lỗi sơ đẳng đó nên cho nó đi luôn,,,

Và đoạn:

1/ Vua đã bỏ trống Kinh Thành:

Tử Vi từ Ngọ cung là Kinh đô chạy về đồn trú hưởng phước

ở Tỵ cung (Tây Nam, không phải Tây Bắc), có mang theo

1 Đại Tướng tùy giá là Thất sát.

Tình hình nguy ngập như vậy, rơi vào thế không ai ra

ngăn giặc, Thiên Tướng lúc này đang ở sơn lâm (Mão)

XIN Quý Bác 1 lần nữa sửa lại TỴ = Đông Nam. Vì sau khi viết xong tui chỉ check lại Chính tả, về mặt Từ nghĩa không sửa cho nên có khi bị những lỗi stupid như vậy.

Cám ơn Hoaphobuon đã chữa lại giùm.

Về đoạn:

Ngoài ra bác có nói Thiên Tướng cư Mão là vùng sơn lâm.

HPB xin được thắc mắc thế này,hướng Tây là vùng sơn

cước,núi cao vực sâu,nhìn về fương Đông (Mão) là miền

đồng bằng trù fú,như kiểu Móng Cái mà nhìn về đồng bằng

sông Hồng vậy. Cung Mão xưa nay được coi như biển Đông

liền kề đồng bằng trù fú màu mỡ,là những dải đất bằng fù

hợp với nông nghiệp,chỉ có những vạt rừng với cây thấp và

thân mềm từ sớm đã bị khai hoang. Vậy theo bác tại sao

cung Mão lại là vùng sơn (núi) lâm (rừng) ạ?

Trả lời:

Về mặt Địa lý mà nói thì tại Trunh Hoa hay Việt nam ở phía Đông đều là Biển,làm gì có rừng núi chi chi,, nhưng không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào điều này, vì phía Đông Trung Hoa vẫn có những ngọn núi lớn như Hoàng sơn, và tại phía Đông các Tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết giang là những Tỉnh giáp Biển đều có những ngọn núi tên là Đông sơn. Ví như phía Đông nước Lỗ ngày xưa cũng có 1 ngọn núi tên là Mông sơn mà Mạnh tử có viết: " Khổng tử đăng Đông sơn nhi tiểu Lỗ." tức Bác Khổng Khâu có lần trèo lên đỉnh Mông sơn đứng ngắm vị thế nứoc Lỗ và than rằng ui nước Lỗ của tui sao mà bé nhỏ quá!. Ngọn Mông sơn này là Đông sơn mà Khổng tử đã có lần đứng trên đỉnh.

Ngoài ra, Dần / Mão thuộc Đông, mà Dần = Cọp, Mão = Thỏ, 2 giống này thường chỉ có ở rừng núi cho nên lấy ý đó mà suy ra Mão vị là Đông sơn.

ma y cung đã viết:

THIÊN CƠ SỬU / MÙI:

- CƠ - KỴ Nữ Mệnh = Nếu có đa Cát tinh thì Cơ - Cự thành

cách Thạch trung ẩn ngọc, ngộ KỴ nơi Mệnh sẽ biến thành

Cách Mỹ ngọc hà tỳ (Ngọc đẹp bị vết), đời sống tình cảm

có khúc mắc, buồn phiền không xứng ý cũng cứ giữ kín

trong tâm, không chịu thố lộ

Trả lời:

Thiên CƠ Sửu / Mùi thì có CỰ MÔN cư Quan lộc tại Tỵ / Hợi, Cự - Cơ 1 tại Mệnh 1 tại Quan lộc sẽ tạo thành cách Thạch trung ẩn ngọc nếu tụ hội đa Cát tinh, nếu không hội đủ Cát tinh thì vẫn hoàn là 1 cục đá to tướng, chẳng phải Ngọc ngà gì cả (tại Tý / Ngọ cũng vậy). Sách chỉ nói Cự - Cơ Tý / Ngọ là Thạch trung ẩn ngọc nên có sự hiểu lầm như vậy, thật ra Cách này xuất hiện ở nhiều Cung khác nhau, nếu hội Cát tinh vẫn là những nhân tài có xuất chúng vươn lên từ địa vị nghèo hèn, do đó theo đại thể không có gì khác với Thạch trung ẩn ngọc cư Tý / Ngọ.

Ở mỗi cung vị đều khác nhau về Cách thức gia giảm, chẳng hạn Cự - Cơ Mão / Dậu cũng là 1 cách Thạch trung ẩn ngọc nhưng dùng Song Hao hơn là Tuần / Triệt, còn những Cung khác thì tui chưa làm 1 research đầy đủ nên chưa dám trả lời.

Hóa Kỵ = Hắc vân, vết nám, vết đen, dấu vết... Miếng ngọc hay hạt kim cương mà bị dấu vết, bụi than chẳng hạn thì bị giảm giá trị.

Nói chung Cách Cự - Cơ theo Tượng hình = Một hòn đá lớn, hòn đá này muốn có được ngọc ngà châu báu bên trong thì phải trải qua trăm ngàn ma chiết,học hành mài dũa kinh sách mới có ngày từ vũng đất lầy trở mình thành 1 báu vật tương tự như trường hợp cuộc đời của Ts Ngô bảo Châu vậy.

Và:

Thưa bác, Nhật-Cự nhập Mệnh tại Dần thì Cơ,Lương đóng Phúc

Đức tại Thìn. Còn khi có Cự-Cơ Mão-Dậu thì có Nhật-Nguyệt

đồng tranh tại Sửu-Mùi. HPB thắc mắc là tại sao lại có

Cự-Cơ trong mục Nhật-Cự Dần-Thân ạ?

Trả lời:

Cách Cự - Nhật tại Dần nếu đúng tại Thiên di cung thì sẽ thấy CƠ tại Thìn, CỰ tại Dần, hợp lại cũng là Cự - CƠ,

Vì nói đến Dư luận bên ngoài, do đó ta phải đứng ở cung Thiên di để quan sát, nếu đứng tại cung Dần / Thân cũng có thể giải thích nhưng không rõ bằng. Điều này cũng như khi ta đã nổi tiếng thì Dư luận Quần chúng sẽ đánh giá Ta qua các mặt: Bản Thân (Mệnh cung = Cư - Nhật)) / Họ Hàng, gia tộc (Phúc cung = Cơ - Lương) và tác phong của Bà Vợ (Tý cung = Đồng Âm). Từ đó người ta mới biết có nên thuận phò hay không.vì Quần chúng, xã hội có thể hiểu là Thiên Di nên phải đứng ở Thiên Di để quan sát.

Khi đối chiếu với các lá số thực tiễn bên ngoài, ngoài Cách Thạch trung ẩn ngọc có nhiều biến thể,(không chỉ giới hạn ở Tý/ Ngọ)một số cách khác cũng vậy, chẳng hạn Cách Đồng Âm cư Tý phùng Thiên việt mà sách nói là cách đàn bà rất đẹp và Quý cách:

Phúc diệu phùng Việt diệu ư Tý cung, định thị hải hà dục tú.

Hải hà dục tú có người dịch là đẹp đẽ uy nghi như sóng biển thì e chưa diễn dịch cái ý của nó, theo tui thì Hải hà = ráng mây trên mặt biển, Dục = Ánh sáng mặt trời trong 1 ngày tươi đẹp (1 ngày không u ám, gọi là Minh nhật = 1 ngày trong sáng), cũng như từ Dục dục = ánh sáng mặt trời chói lọi làm đoạt mục, phải quay mắt đi chỗ khác, nét đẹp đoạt mục có nghĩa là đẹp và quyến rũ quá xá làm ta phải tránh mắt đi chỗ khác nếu không muốn bị...đọat hồn,

Tại sao lại dùng Thiên Việt??

Thiên Khôi là chỉ nét đẹp của Đàn ông (Khôi ngô) hoặc nét dẹp có tính cách lồ lộ pha nét Dương tính của Đàn bà (như Hồng - Khôi), chẳng hạn vẻ đẹp của Elizabeth Taylor, Vẻ đẹp Thái Âm - Kỵ cư Hợi của Đàn Bà (như của Brooks Shields) có thể nói là tương đương với Đồng Âm - Việt. Nhưng Thái Âm thiên về Tròn trịa nên ngoài 30 tuổi thường giảm tốc độ, vì bị xồ xề...

Còn Thiên Việt thuộc Âm tính, nét đẹp có vẻ nhu mỵ và có chiều sâu (có duyên) hơn. Cái đẹp ở thế Đồng Âm cư Tý / Dậu có Dương bản là vẻ đẹp của Thái Dương - Thiên Không - Hóa Kỵ cư Mão (Vạn lý vô vân Cách) Hóa Kỵ đi với Thái Dương ở đây cũng có nghĩa là ánh sáng mặt trời mới nhô lên chiếu xuyên qua lớp mây sớm tạo thành những chòm rainbows ngũ sắc. Cách Thái Dương cư Mão thì dùng Thiên Không, còn Thiên Đồng cư Dậu thì dùng Địa Không, cùng ám chỉ là buổi trời có không gian trong trẻo,không mây, chỉ khác nhau buổi sáng và chiều mà thôi.

Vì Khôi / Việt đều là Quý tinh nên nét đẹp của Họ đều có dáng dáp cao quý.

Tú = Vẻ đẹp.

Có Bạn nào nhà ở gần biển và thường dạo biển vào buổi chiều khi mặt trời sắp lặn thì mới thấy được cái đẹp thu hồn này, mặt trời từ từ lặn xuống đáy biển tỏa ánh sáng còn đọng lại xuyên qua 1 vùng mây ráng...

Gộp lại các từ này ta có thể hiểu đại loại là:

Ánh sáng hoàng hôn trên mặt biển chiếu xuyên qua lớp mây ráng sẽ tạo nên 1 vẻ đẹp rực rỡ huyền kỳ...để diễn tả vẻ đẹp Hải hà dục tú tui xin đơn cử 1 Cô đào ci la ma của Pháp lang sa, đó là Sophie Marceaux:

Sinh: 17 NOV, 1966. Giờ = 2: 30 AM, Nhưng đừng dùng giờ SỬU mà phải xài giờ DẦN mới đúng.

Lá số này cũng thuộc Cách Hải hà dục tú nhưng không cần cư TÝ.

Cung Quan lộc có Vạn lý vô vân Cách cũng đẹp (đẹp về công danh / sự nghiệp).

Như Mệnh Thái Âm cư Hợi, Quan lộc có DƯƠNG - LƯƠNG tại Mão + LƯU HÀ - THIÊN HƯ. Đây cũng là 1 Cách của VLVV, nhưng ít người biết đến.

Ở đây Lưu Hà = Ráng trời.

Thiên Hư = Không trung.

Thiên lương = ngày đẹp,trong xanh và có gió mát.

Cho thấy Lưu hà có thể thay Hóa Kỵ, Thiên Hư có thể thay Thiên / Địa Không.

14/ PHÁ QUÂN THÌN / TUẤT:

TƯỢNG:

A/ - CÔ NGƯ LẬU VÕNG

(Cá lọt lưới Trời)

PHÊ: - CƯƠNG QUẢ CHI NHÂN.

(Nếu không có Tuần)

B/ - NGOAI CỪU QUY THUẬN.

PHÊ: - CẢI ÁC VI LƯƠNG.

(Nếu có Khoa/ Tuần)

CÁCH CỤC:

- BÍNH / MẬU = Tài Quan cách, phú quý.

- GIÁP / QUÝ = Được hưởng Phúc lộc.

- Gia Xương - Khúc = Nếu không Cát tinh, là kẻ bần sĩ, Hình khắc lao lực.

- Gia Kình / Đà Đ/c + Sát tinh = Có thể Tàn tật.Là loại bất trung bất nghĩa, tiên Thành hậu Bại.

- Thêm Hỏa -Linh = Bôn ba gian khổ.

- Kình /Đà + Hao - Kiếp tại Quan = Đáo xứ khất cầu.

- Hội Kình - Đà hoặc Linh - Hỏa + Lộc tồn = Nên Kinh thương.

- Mệnh PHÁ, Thân có KÌNH / ĐÀ, hoặc Thân cư Mệnh có PHÁ - KÌNH = Là kẻ thích làm rối loạn xã hội, chống kẻ đương Quyền, đây là KHÍ CÔNG HỌA LOẠN Cách. Thường hoạnh phát nhất thời, cuối cùng bị phá bại.

* PHÁ - CÁI - ĐÀO = Hôn nhân thiếu hạnh phúc.

* PHÁ - Phục Hình Riêu Tướng = Vì ghen mà Vợ/ Chồng có thể sát hại nhau.

* PHÁ - Binh Hình Tướng Ấn = Tướng lãnh tài ba.

* PHÁ - Hình - Quyền / Hình - Lộc + Cát tinh = Phá cư Tứ Mộ thường là kẻ cương quả (Kiên cường và Cô độc), ngộ Cát tinh hoặc Hạn vận Tốt gặp thời loạn lạc có thể làm nên sự nghiệp hiển hách, tiếng tăm lừng lẫy, muôn người khiếp sợ, là LOẠN THẾ ANH HÙNG Cách.

* PHÁ - Xương Khúc - Khôi Việt Khoa = Là nhà nghiên cứu giỏi, nổi tiếng.

* PHÁ Thìn / Tuất ngộ Khoa / - Tuần = Phá quân Thìn / Tuất là kẻ bất kiên lệ luật, cương cường cô độc, tình cảm dứt khoát, thường phá bỏ quan hệ tình cảm nên bị xem là kẻ bất nhân. Dĩ nhiên không phải ai có PHÁ QUÂN Thìn / Tuất cũng là kẻ bất nhân. Cách này nếu ngộ TUẦN / KHOA (Hay cả hai càng tốt) thì thành ra Cách CẢI ÁC VI LƯƠNG, là người Thiện lương, tuổi MẬU / QUÝ có Cách này dễ hoạnh phát tài danh...

* PHÁ - KÌNH + Tả- hữu = Khởi Ngụy Hoàng Sào. Không ai có lá số của Hoàng Sào (1 lãnh tụ nông dân khởi nghĩa ngày xưa) nên chẳng biết Cách cục ra sao, Ông N C Kỳ khi xưa làm Kách mệnh cũng đi xem thầy bói (Thầy Minh Lộc?) Thầy phán được! mới dám ra mặt hành động.

* PHÁ Hãm Thiên thương ư Thủy cung = Vương Bột đầu Hà! Vương Bột là 1 Thi nhân nổi tiếng, Cha bị biếm trích làm Thái thú ở Giao châu (Bắc Việt) sau khi làm bài Phú ĐẰNG VƯƠNG CÁC, chàng xuống thuyền đi Giao chỉ thăm Cha thì bị bão đánh chìm (chắc ở phía Nam Quảng châu sau này), khi được cứu lên bờ thì thần trí gần như điên dại, rất nhút nhát, ít lâu sau thì mất. Hàn mặc tử năm 17/ 18 cũng bị chết đuối ở biển Quy nhơn, cũng bị tán loạn thần kinh 1 thời gian.

Cách Phá Hãm cư Thiên thương này cũng chính là Cách Vũ Phá Tham hội ư TÝ / Thủy cung trong các câu Phú.

* PHÁ Hao Kình Linh Quan lộc vị = Đáo xứ khất cầu.

* PHÁ Hãm địa gia Sát tinh = Xảo nghiệp an thân (làm những nghề lao động khéo tay thì có cuộc sống ổn định.), Bất thủ Tổ nghiệp, dễ bị tàn tật, nghi Tăng đạo.

* Nữ nhân tọa PHÁ có Sát tinh xâm phá = Dâm đảng, vô sỉ.

* PHÁ Liêm Hỏa = Quyết khởi Quan phương, tính nóng nảy bạo tợn nên dễ bị liên quan đến hình luật.

* PHÁ - Hóa Lộc - Không Kiếp = Bạo phát bạo phá.

* PHÁ Hình Kỵ = Có thể bị tàn tật.

* PHÁ - Kiếp - Kỵ = Kẻ bị đố kỵ.

* PHÁ - Kình - Đào - Hồng = Tranh dành gái đẹp.

* PHÁ - Phục - Kỵ - Đào - Hồng = Tranh dành Vợ / đào của kẻ khác.

* PHÁ - Xương Khúc = Nếu không có Cát tinh nào khác,Phú gọi là: Nan bão vân song chi hận (thường mang mối tình hận trong lòng, tình trừong thất chí,,), là Cách NHẤT SINH BẦN SĨ, nghèo hèn, lận đận trong tình trường và tình đời. Đây chính là Cách PHÁ ngộ Văn tinh.

* PHÁ - VĂN KHÚC nhập vu Thủy vực = Ly Hương. tàn tật.

* PHÁ - Xương Khúc + Cát tinh = Nam Nữ Phú quý khả kỳ.

Nữ Mệnh phùng chi, vô môi tự giá (Nữ Mệnh gặp Cách này Không cần mối lái vẫn tiến tới Hôn nhân, hoặc sống chung không Hôn ước,), Táng tiết (Nữ Mệnh là kẻ không để ý đến chuyện trinh tiết, mai vùi trinh tiết) và Phiêu lưu (ưa mang Ba lô trên vai / không phải trước bụng).

* PHÁ Hãm cư Thân / Mệnh = Bôn tổ ly tông (sống xa quê hương, không màng đến cơ sàn của Cha ông).

* PHÁ - Hỏa -Hao = Bất tụ tài, dễ đi vào đường hút xách.

* Phá Hỏa Hao Hình Kỵ = Kẻ chống đối Quyền lực, áp chế.

* PHÁ -KỴ / PHÁ Kỵ Hình = Dễ vi phạm Luật lệ và những điều cấm cản.

* PHÁ - Việt Kình = Bôn ba lưu đãng.

* PHÁ Hỏa Linh Hình Kỵ + Không Kiếp = Tai họa lớn, có thể mất mạng.

PHÁ QUÂN là một sao có cá tình rất phức tạp khó hiểu cho nên xin được giải thích dài dòng đôi chút, Phá quân trong lãnh vực xã hội có khi được coi là là Anh Hùng vô đối, có khi là Gian Hùng,hay bất nhân bất nghĩa, trong lãnh vực nghiên cứu, sáng tạo nhiều người khá thành công vì Phá quân là kẻ chịu tìm tòi học hỏi và thường phá bỏ những lề luật cũ cho nên dễ đưa ra những phát kiến mới.

Trong Tình trường, Phá quân thường..vồn vã, say mê đắm đuối không thua gì Tham lang nhưng nếu cần thì có thể bỏ những gì tưởng chừng không thể nào bỏ, trong lãnh vực tình cảm gia đình cũng vậy, Phá quân có thể ra mặt dứt khoát tình cảm, xem người Thân như người..xa lạ (nếu có xung đột tình cảm xảy ra), dù trong lòng tình thương vẫn không thay đổi.

Vì tính khí quá đỗi cương cường, mãnh liệt, dứt khoát có thể phá bỏ những gì không thể bỏ, nên Phú có viết:

Phá quân nhất diệu tính nan minh!

Tính nan minh không phải là cá tính hồ đồ, thiếu sáng suốt hay ưa nịnh hót như có người đã diễn dịch, mà có nghĩa là kẻ có cá tính khó hiểu (Nan minh = Khó hiểu, ông nào dịch là hồ đồ thì thiệt là...không hiểu nổi), vì không theo 1 lề thói thông thường nào hay theo 1 tiêu chuẩn nào cả, đó là loại người Nhậm ngã Hành = Hành động tùy nghi theo ý thích, không muốn bị trói buộc bỡi lề thói thông thường.

Vì Không muốn bị trói buộc, và cũng không muốn có ai ngồi trên đầu của mình mà hành hạ mình, nên qua đó ta có thể hiểu được tại sao Phá cư Thìn / Tuất thường được xem là Cách BẤT TRUNG BẤT NGHĨA.

Phá cư Thìn / Tuất, là LA / VÕNG chi địa, tại đây Phá thuộc Thủy ngộ Thổ cung nên về lý Ngũ Hành dĩ nhiên là Bất hợp (Thủy Thổ bất hợp), là kẻ mang sẵn tính phản kháng, hành động theo hứng thú của mình, không xem luật lệ ra chi mà lại bị ngồi ở Thế Bất Hợp (không có Thế để vươn lên trong xã hội) và La / Võng chi Địa trói tay bó chơn chẳng làm đặng chuyện chi thì Phá Quân dĩ nhiên là không thể ngồi yên, Đối cung (tức là Đối Phương) lại thấy có Tử -Tướng là Tượng Vua thân chinh tảo loạn (có mang theo 1 Đại Tướng) cho nên Phá cư Thìn / Tuất bị Phê số là kẻ phản loạn, BẤT TRUNG BẤT HIẾU là vậy.

Cô ngư lậu võng là vì tính tình khoáng đạt khí khái, không thích bị gò bó, con cá nào mà thích ở trong rọ?? nhưng khi đã vào rọ thì đa phần phải chịu an phận, con cá Phá quân thì khác, chống đối tới cùng đến khi nào thoát lưới mới thôi, nên đây cũng thể hiện đôi nét Anh Hùng.

Nếu có Khoa / Tuần thì cuộc đời đổi khác, từ chỗ Bất Hợp biến thành thích Hợp cho nên chịu an thân và Hòa hoãn, nên từ vị thế Tử - Tướng (Đại diện cho Triều đình) quan sát thì thấy đó là cái Thế NGOẠI CỪU QUY THUẬN, kẻ cừu thù bên ngoài nay đã chấp thuận sống chung hòa bình. (Thế PHÁ QUÂN CƯ TÝ có Tượng là NGOẠI CỪU GIẢ PHỤC = Kẻ cừu thù cũng Quy phục, nhưng ở tư thế giả vờ.)

Nếu Mệnh cư ở Thế TỬ - TƯỚNG Thìn / Tuất mà THÂN / DI ở Thế Phá quân La/ Võng thì cũng cùng một lý, thường là kẻ chống đối (Chẳng hạn chống phá những người chung quanh hoặc nhiều khi không bằng Hành động mà chỉ là suy tưởng hoặc chống phá, nói đúng ra là chọc phá bằng Mồm mà thôi, xin đừng lầm Phá quân đều là những kẻ chống phá xã hội hay chính quyền), có khi phản loạn y như Thế Phá Quân La / Võng không khác, bỡi vì Thế Tử - Tướng THÌN / TUẤT và PHÁ QUÂN LA / VÕNG đều nằm trên 1 Trục. Nhưng dĩ nhiên nếu Mệnh / Thân tại PHÁ QUÂN thì sự chống phá, bài báng mạnh mẽ hơn là Tử - Tướng. Tử - Tướng Thìn / Tuất thì ôn hòa, đàng hoàng (bề mặt) hơn, nhưng nếu Thân cư DI thì lại khác...

Phá (không có Triệt) tại Thìn,Tuất Có Kình đ/c thì tính cách phản kháng âm ỷ, trường kỳ và dữ dội. Nếu Kình đi với Tử - Tướng thì mức độ phản kháng tương đối hòa hoãn hơn vì tính cách của Tử vi là ôn hòa, đôn hậu,

Phá cư Thìn / Tuất ngộ Triệt thì cũng giống như THAM LANG ngộ Triệt, tính cách biến đổi 180 độ hoặc giả giảm bớt khá nhiều, từ bỏ việc chống phá, phản kháng biến thành người..biết điều hơn, có quy củ và tuân thủ lề thói, luật lệ, dĩ nhiên cũng có đôi khi nổi loạn, nhưng rất hiếm.

PHÁ -KÌNH ngoài nghĩa chống phá còn là mẫu người gan góc, chí khí cao ngạo, gian khổ nào cũng phải vượt qua, hiểm nguy nào cũng không lùi bước, có Anh Hùng khí khái mà cũng có thể là loại Gian Hùng đội lốp Anh Hùng đức độ.

Vị Thế Phá quân Thìn / Tuất tương tự như nhau, nếu không đi sâu vào chi tiết (xét từng Cung) thì Phá cư Thìn tuy nói là Thủy - Thổ bất dung nhưng vì Thìn là Thủy Khố nên Phá cư Thìn đỡ khổ hơn cư Tuất, vì Tuất là Hỏa Khố, nhưng bỡi vì cư Tuất Hãm hơn cư Thìn vì thế mà tính Phản kháng cũng mạnh mẽ hơn.

Thế Phá quân Thìn / Tuất được xem là PHÚ đa mà QUÝ thiếu (đa phần phát giàu hơn là phát Quý, Quý = Quyền Quý, Quyền hành địa vị cao sang), là vì nếu Tinh diệu trong lá số phối hợp đắc Cách, ví như Cung Thổ sinh cho Kim / Kim tái sinh Thủy thì rất Đắc dụng, nếu gia Tứ Cát thì phú quý khả kỳ, thế nên Phá T/ T có khi rất cần Kình Đà (thuộc Kim) + Tả Hữu - Khúc Xương, nên Kình / Đà ở đây có Tượng là Đao Kiếm phá lưới Trời, thật ra thì cũng chỉ là Ngũ Hành phối hợp đúng lý mà thôi.

Tại sao Phú đa mà Quý thiểu? là vì nếu phối hợp đắc Cách thì thay vì Thủy - Thổ Bất tương dung, Thìn / Tuất Thổ cung sẽ dưỡng cho Phá quân Thủy (qua giai đoạn Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy...) mà Thủy là Tài tinh của Thổ, Phá quân đối với Cung T/ T Thổ là Tài, khi Phá Quân được Cung sinh / Dưỡng thì hiển nhiên là Tài phải Vượng, vì Tài Vượng nên Thế Phá quân T/T phát Phú nhiều hơn là Quý.

Thế Phá quân T/ T nếu nhìn dưới khía cạnh xã hội thì có thể được chia ra như sau:

PHÁ - TỬ / TƯỚNG = chống phá hoặc mưu đồ lật đổ Chính quyền / Vua chúa...(còn những nghĩa khác nữa)

PHÁ - TƯỚNG = Phá Trận, cầm Tướng (bắt giữ Tướng địch).

Đó là tư thế của Phá T /T, tức ở tư thế Thần Dân nổi lên làm Cách mạng.

Còn Tử - Tướng T/T = Vua đích thân cầm quân diệt giặc (Giặc = Phá quân).

Trục Tử - tướng - Phá T/ T khi đó hình thành 2 lực lượng đối lập chỉ chờ chực giết hại lẫn nhau vì Quyền vị, 1 bên là Vua (QUÂN = Vua, Quân ở đây không phải là Quân lính) 1 bên là THẦN = bầy tôi) cho nên mới có câu:

Tử - Tướng T/ T, Quân Thần bất nghĩa.

Bất nghĩa = Tình nghĩa Vua Tôi không còn nữa. Chữ Bất có ý nghĩa mạnh hơn chữ Không, nếu Dịch " không còn nữa " có khi không đúng, phải hiểu là không những ân nghĩa không còn mà còn trở mặt với nhau.

Và:

Trong trường hợp tuổi Canh Ngọ, mệnh Tử Tướng ngộ tuần, thân cư quan tại Dần… hổng có hội sát tinh nào thì bản tính đương số liệu có ứng với câu phú trên không ạ?

Trường hợp này vì Thân đã cư Liêm trinh, Liêm trinh nếu đắc địa (+ Vô Sát tinh) thường là kẻ có liêm sĩ, chính trực và Trung thành nên sẽ không ứng với câu Phú đó bao nhiêu, hoặc chỉ ứng khoảng tuổi trước 30.

Tuần / Triệt chỉ nên đóng tại cung Phá Quân thui, không nên đóng tại cung có Tử - Tướng, sẽ làm giảm độ Miếu / Vượng & sẽ xảy ra cái gọi là thiếu niên tân khổ, vì T/T đương đầu cũng ảnh hưởng đến cung Phụ mẫu, Cha Mẹ có thể bị..sứt mẻ! hoặc lúc nhỏ xa Cha / hoặc Mẹ, xa Phụ / mẫu thì thân thế cô đơn, thiếu người Thân bên cạnh chăm sóc, dễ bị kẻ khác ăn hiếp nên mới gọi là tân khổ,, Còn tại sao Cha Mẹ vẫn tốt thì phải xem lá số,,(có thể cho PM lá số không??) Cô Cháu gái có cách Phá - Triệt = khám phá, học hỏi, nghiên cú tới cùng cực cho nên học phải giỏi rùi (Kình cũng có nghĩa là ganh đua) và Phá ngộ T/ T thì thuộc Cách cải ác vi lương, từ cứng đầu,hình khắc biến ra bình thường ngoan ngoản thì đúng rồi,,Cung Phụ mẫu Thiên đồng Tỵ / Hợi Hãm ngộ Triệt cũng thành tốt, nhưng trong cái Tốt vẫn có cái xấu, Thân thì ngoài 30 mới ảnh hưởng nên chưa thể nói được.

Liêm - Hổ đ/c thì cũng hơi kẹt, nhưng Liêm Hãm mới sợ (Liêm Hãm có nghĩa là vô Liêm chính, tức là làm cái gì đó hơi mờ ám, như làm thu ngân viên mà thụt két lấy tiền bỏ túi đi chơi với trai chẳng hạn, Hổ = hành động táo bạo, không biết hổ thẹn (như hùng hùng hổ hổ), cho nên dễ bị đi tham quan mấy cái Xà liêm, ở trỏng mà ngâm thơ, nhưng nếu Liêm -Hổ không Hãm địa lại được Cát tinh chiếu qua chiếu lợi thì không có siu.

vai trò của T/T rất là Quan trọng, cò thể lật ngược Thế cờ từ hay ra dở và ngược lại như chơi,

Tại sao Tử vi Đài loan (Phái Tử Vân) bỏ T/T? thì ngay cả những người trong phái cũng khó hiểu vì Thầy Tử Vân không đề cập đến vấn đề này, nhưng người ngoài cuộc có thể dùng trí phân tích để hiểu vấn đề không có gì là khó,

Các phái Tử vi Đài loan thường nói họ dựa vào 2 cuốn Kinh điển là TVĐS TOÀN THƯ và TVĐS TOÀN TẬP, 2 Bộ này thì về căn bản không khác gì với hệ thống Tử vi VN, nếu thực sự nếu họ chỉ căn cứ vào 2 Bộ này thì giữa Ta và Họ coi như không có Khác biệt gì lớn lao trong lãnh vực lý thuyết, nhưng khổ 1 cái là Họ còn dựa vào 1 Nguồn (không phải 1 Quyển sách) trong Tử vi Bắc phái Đạo gia gọi là Phi tinh TVDS hay Thập bát Phi tinh TVDS hay 18 Phi tinh sách thiên TVDS, các sách này có 1 đặc điểm là

A* DÙNG THIÊN TINH PHI ĐỘ 12 CUNG LÀM CHỦ YẾU Y CỨ ĐỂ LUẬN CÁT HUNG, DĨ ĐỘ NHÂN CHI PHÚ QUÝ THỌ YỂU..

Đây chính là đầu mối của sự khác biệt về sau, vì các Phái TV Việt nam không biết đến hoặc không ứng dụng lý thuyết của Bắc phái Tử vi.

TỪ CÂU A* bên trên phái Tử Vân và các Nhóm TV khác đã từ từ dựng nên lâu đài nguy nga của Phi tinh và Tứ Hóa Phi tinh như ta thấy hiện nay.

Một khi Bạn đã lấy Tứ Hóa Phi tinh làm căn cứ Quan trọng bật Nhất để luận Cát Hung thì lý đương nhiên là phải dẹp bỏ Tuần Triệt / La Võng, cũng tựa như trên các vòng cầu trừơng đua xe (Phi Mã) có bao giờ Bạn thấy Họ để các rào cản (Tuần / Triệt) ra ngoài đường đua hay không?? Vì Phi Tinh có thể bay từ Cung này qua Cung khác trong luận đoán, muốn rộng rãi đường bay thì phải dẹp bỏ các bức mành mành, lưới Trời lưới đất, rào cản, cửa đóng then gài.v.v Vì đối với Bạn vai trò T/ T thì khá quan trọng, nhưng đối với các phái Tử vi Đài T/ T Không những có vị thế rất khiêm nhường mà còn có tác dụng...cản đường bay nữa, nếu tôi dùng Phi tinh tôi cũng phải dẹp.

Và khi đã dẹp bỏ rồi thì phải dẹp luôn, chứ không lẽ xem Tổng quát thì dùng T/ T mà vào luận đoán Vận Hạn thì bỏ không dùng??

Tóm lại nói Họ có Nguồn gốc của Đạo gia Bắc Phái, nhưng bây giờ các vị Đạo gia Bắc phái có sống lại đọc các sách Tứ Hóa Phi tinh hiện đại thì cũng mù tịt, chẳng hiểu mô tê chi cả. He He,,

Phá -Kình tại Tứ Mộ (trong đó có La/ Võng) bỡi vì Kình đắc địa cho nên nói là như rồng gặp mây vì 2 sao này coi như cùng chí hướng (Chống và Phá), nhưng đây chỉ là điều kiện nên có chứ chưa phải đầy đủ để hình thành 1 Cách cục phú quý, như vậy cũng còn tùy lá số đẹp, xấu ra sao.

Cũng là Phá - Kình nhưng nếu lá số Bình dân thì thuộc loại CÔ NGƯ LẬU VÕNG, một chú cá nhỏ lọt lưới, tuy lọt được lưới có đựoc tự do nhưng không ai phù trợ, tứ cố vô thân, thì cũng chẳng có chi đáng mừng,

Nếu có Cát tinh tụ hội thì lúc đó Kình = Cá voi, Kình ngư, chứ không lá cá nhỏ, khi đó sẽ là KÌNH NGHÊ PHÁ VÕNG chứ không là chú Tiểu ngư thoát lưới, tương lai và viễn cảnh sẽ to lớn, hứa hẹn hơn, nói cùng là 1 Cách Phá Kình nhưng phân ra Tốt Xấu 2 ngã.

Còn ĐÀ vì thuộc Âm, tính cách phản kháng âm ỷ bên trong và kéo dài, Phá - Đà tại Tứ Mộ (là nơi Đắc địa của Đà la) phản kháng 1 cách tiêu cực, không lộ diện hoặc chống đối qua người trung gian (đứng đằng sau chủ sử sự việc), bỡi không ra mặt dứt khoát giải quyết theo kiểu Trắng đen nên sự việc có khi cứ kéo dài, mức độ Thành bại có khi không rõ rệt hoặc không cao, do đó Cách này ít được chú ý, khác với Kình là chống phá theo Thế lưỡng lập, 1 sống 1 chết nên mức độ Thành Bại và nguy hiểm của Thế Phá Kình rất cao,

THẤT SÁT là sao nổi bậc trên lãnh vực giám sát, quan sát, Án sát (hạch hỏi)...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các thế cờ trong Tử Vi

Ngũ hành hỉ dụng thần với lựa chọn nghề nghiệp

Một người muôn đứng chân trong xã hội, muốn được phát triển thì việc tìm được một vị trí thích hợp trong xã hội là một điều vô cùng quan trọng. Tục ngữ có câu: “đàn ông chọn nghề nên đúng ngành, đàn bà chọn chồng nên đúng đối tượng”, đó là ý nói tầm quan trọng như trên, thế thì làm thế nào làm theo đúng lời thầy đoán mệnh dạy, căn cứ vào bát tự tứ trụ của mỗi người, xem ngũ hành hỷ kỵ gì, hoặc hỷ dụng thần nào để chọn nghề cho mình, cầu mong có được vị trí thích hợp, thời nay kể cả nữ giới cũng vậy. Tình hình đại để là:
Ngũ hành hỉ dụng thần với lựa chọn nghề nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Theo ngũ hành hỷ kỵ mà chọn nghề nghiệp

Mệnh chủ hỉ Mộc

Mệnh chủ hỉ Mộc, lấy nghề nghiệp có liên quan đến Mộc là hay nhất. Từ Mộc dẫn dắt đi, loại công việc này đại thể là nghề Mộc, máy xẻ gỗ, đồ dùng gia đình, công việc giống cây trồng, chè, thuốc, hoa quả, bông, nghề làm giấy, văn giáo, nhà văn, xuất bản, hiệu sách rồi đến chính trị, văn thư, công thương, giáo dục, y vụ, tôn giáo v.v...

Mệnh chủ hỉ Hoả

Mệnh chủ hỉ Hoả, lấy nghề có liên quan đến Hoả là tương đối tốt, do Hoả dẫn dắt, công việc đại thể là nghề ăn uống, hàng cơm, khách sạn, nhà máy, bách hoá, mỹ dung, quang học, máy ảnh, gương kính, điện lực, điện khí, pháo, công xưởng, in ấn, nhà bình luận, quân giáo

Mệnh chủ hỉ Thổ

Mệnh chủ hỉ Thổ, làm nghề có liên quan đến Thổ là tương đối thích hợp, do Thổ dẫn dắt, loại nghề này đại thể có nông nghiệp, chăn nuôi, sản phẩm đất, khoáng sản, nhà đất, kiến trúc, mua bán đồ cổ rồi đến môi giới, kinh tiêu, quản lý mua bán, mộ táng, thầy phong thuỷ v.v...

Mệnh chủ hỉ Kim

Mệnh chủ hỉ Kim, làm nghề gì có liên quan với Kim là tương đối thích hợp, Từ Kim dẫn dắt, nghề này đại thể là Ngũ Kim, tiền bạc, cơ giới, giao thông, ô tô, điện gia dụng mài dao, rồi đến nghề luật sư, diễn viên điện ảnh, âm nhạc, kế toán, khoa học kỹ thuật, khai thác, xưởng khoáng sản.

Mệnh chủ hỉ Thuỷ

Mệnh chủ hỉ thuỷ, làm việc gì có liên quan đến thuỷ là thích hợp. Từ thuỷ dẫn dắt, nghề đại thể là thuỷ lợi, hàng hải, thuỷ sản, bơi lội, quán trà nước, nhà tắm, tiêu thuỷ, rồi đến nghề mậu dịch, du lịch, phóng viên, nghề tự do V. V...

Theo ngũ hành hỷ kỵ để chọn nghề nghiệp, có hai vấn đề đáng chú ý. Một là thuộc tính của ngũ hành nghề nghiệp nhất thời chưa định ra được, ví dụ với diễn viên, có người cho rằng diễn viên đi lưu động nhiều, lẽ ra thuộc thuỷ, nhưng cũng có người cho rằng diễn viên lên bục diễn dưới ánh sáng đèn rất mạnh, nên thuộc Hoả là hợp nhất. Hai là ngũ hành hỷ kỵ, không thể không cùng kết hợp với ảnh hưởng của ngũ hành đại vận, nhất là trong mệnh lại có dịch mã, hoặc địa chi gặp phải hình xung thì càng chịu ảnh hưởng của ngũ hành đại vận.

Ngoài ra về ngũ hành nghề nghiệp, còn có vấn đề lẫn lộn, ví dụ như kiến trúc, ở đây tuy quy thuộc hỷ Thổ nhưng trong kiến trúc không thể không dùng cửa song sắt, cửa gỗ, như vậy đồng thời có cả tính chất Kim và Mộc nữa.

Trên đây chỉ nói về nghề nghiệp cá nhân, nếu như làm việc trong quốc doanh, tập thể, công ty, hầm mỏ và những công ty hợp doanh trong ngoài, vì không thuộc cá nhân nên không bị ngũ hành hạn chế, nếu không sẽ linh tinh lộn xộn.



2. Theo hữu thần khác nhau mà chọn nghề nghiệp

Dụng thần Chính quan

Thông thường là nhân viên làm việc cho chính phủ là tốt như cơ quan chính phủ, bộ môn quản lý hành chính cơ quan tư pháp v.v...

Dụng thần Thiên quan là những người làm công việc nghiêm túc là tốt, ví dụ như nhà quân sự, cảnh sát và người khai thác, phá nổ, thám hiểm leo núi, thầy thuốc ngoại khoa, chỉ huy âm nhạc v.v...

Dụng thần Chính ấn dụng thần là chính ấn thường làm công việc văn giáo là tương đối lý tưởng như văn học, giáo dục, nhà văn, thư ký, nghiên cứu học thuật, sự nghiệp tôn giáo, sự nghiệp từ thiện v.v...

Dụng thần Thiên ấn dụng thần là thiên ấn thông thường làm việc theo nghề nghiệp chuyên môn, ví dụ như nghiên cứu khoa học, thiết kế, phát minh sáng tạo kỹ thuật V.V...

Dụng thần Kiếp tài dụng thần là kiếp tài thông thường là người làm nghề tự do là tốt ví dụ như giáo sư, luật sư, thầy thuốc, thậm chí là người quảng cáo bán hàng cũng được.

Dụng thần Tỷ kiên dụng thần là tỷ kiên thường là người làm nghề tương đối tự do, ngoài ra còn thích nghi với người hợp tác kinh doanh, dĩ nhiên phải xem đúng đối tượng.

Dụng thần Chính tài dụng thần là chính tài thông thường là người làm công việc tài chính là tốt như ngân hàng, thương vụ, thuế vụ, kế toán v.v...

Dụng thần Thiên tài dụng thần là thiên tài thường là người làm thương vụ là tốt, có lợi như kinh doanh đầu tư, kinh tế mậu dịch, giao dịch chứng khoán v.v...

Dụng thần Thương quan dụng thần là thương quan thường với người làm việc có tính độc lập như công tác văn nghệ, như nhà thư pháp, mỹ thuật, nặn tượng, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, diễn viên, nhà văn, nhà viết kịch, biên tập v.v...

Dụng thần Thực thần dụng thần là thực thần thường là người làm công tác văn nghệ được phát huy như nhà thư pháp, mỹ thuật, nhà văn, thậm chí nhà ngoại giao, nhà diễn thuyết v.v...

Cách làm kết hợp dụng thần để chọn nghề nói trên, nhà mệnh lý học hiện đại của Đài Loan là Tân Thiết Bút đã quy nạp như sau: dụng thần là quan, sát thì nên làm quan chức chính quyền, quản lý hành chính. Dụng thần là tài tinh nên làm ngân hàng, tài chính, kinh doanh. Dụng thần là ấn khẩn nên làm văn giáo, nghiên cứu học thuật, tôn giáo, từ thiện. Dụng thần là tỷ kiếp nên làm nghề tự do, đấu võ, lưu động hoặc kết bạn làm ăn. Dụng thần là thực, thương nên làm nghề phục vụ, nghệ thuật, kỹ thuật, về cách nói này, ông Nhan Chiêu Bác của Đài Loan còn có cách giải thích hoặc bổ sung là: Sát ấn tương sinh, có quyền nên là giỏi võ; thương quan sinh tài, nguồn tài thịnh vượng, nên làm kinh doanh; thực thần Thổ tú, thông minh, tú khí, nên giỏi nghệ thuật; quan ấn tương sinh, chính quan thanh tuý, nên làm chốn quan trường; Tài cung, nhất chủ đều cường, bay ngang bay dọc, có thể tự mưu sinh phát triển.

Nhật chủ suy tuyệt, hoặc thân vượng không nơi nương tựa, nhưng cầu được yên tĩnh.

Thương quan khéo tay, có sức sáng tạo mới

Thực thần, hoà khí, khinh khứa đến đông

Thiên âm, trầm tư, có thể làm tham mưu

Chính ấn, hiền lành, điều giải được công việc

Kiếp tài là hỷ, bán tài sản tổ tông mà làm giàu

Kiếp tài là kỵ, ăn uống cờ bạc mà phá sản

Chính ấn văn tĩnh, chính quan cẩn thận giữ quan

Thiên ấn bế tắc, kinh doanh nên mở cửa hàng

Thất sát cứng cổ, thương quan mẫn tiệp, kinh doanh nên là trường đấu.

Quan sát, ấn tinh trong Bát tự trùng nhau là công chức, nhưng hỷ kỵ thì có cách xem khác.

Thực thương tài tinh trong bát tự trùng nhau, có thể làm kình doanh nhưng hỷ kỵ thì có cách xem khác.

Kinh doanh, bát tự hỷ Mộc, thì hành nghề thuộc Mộc là tốt, các loại khác cũng vậy.

Tổng hợp những điều nói trên, Lương Tâm Minh định cư ở Bản Kiểu Đài Loan cho rằng: Trong cuộc đời, con người đi tìm nghề nên thận trọng, nếu như tìm đúng được nghề hợp với hỷ thần trong mệnh là hay nhất, mà thành tựu cũng lớn, nếu làm nghề trùng với kỵ hung thần trong mệnh, thì lao tâm lao lực mà không đạt được gì.

Tuy nói như vậy, nhưng con người sinh ở trên đời, nghề nghiệp chịu nhiều nhân tố ràng buộc như hoàn cảnh, nhân sự, thòi cơ, hơn nữa, còn có vấn đề nhu cầu của xã hội, còn bị các nhân tố bên ngoài chi phối, không phải mình muôn làm gì là được làm việc ấy.

Cũng như những bông hoa trên một cây bị gió thổi lung lay có bông nằm trên gối thêu hoặc được cài trên đâu người đẹp, có bông rơi xuống vũng bùn, có bông bị người ta dày dưới gót chân, huống hồ là con người? Lý Bạch Đào đã nói thế này: “trời đã cho người ta tài ắt phải dùng” cứ nghĩ như vậy thì anh đừng buồn chán khi mình chưa tìm được vị trí thích hợp. Hãy cứ vững tin đứng chắc trên vị trí hiện có của mình, phát ra ánh sáng và ngọn lửa nhiệt tình, công hiến cho loài người tài năng đang có của mình, sẽ có cơ may điều chỉnh vận số” tương lai của mình.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành hỉ dụng thần với lựa chọn nghề nghiệp

Treo tranh con giáp trong nhà thế nào mới đúng

Không phải ai cũng phù hợp để treo tranh con giáp trong nhà. Hãy cùng ## tìm hiểu tường tận vấn đề tuy nhỏ bé nhưng lại có tác dụng phong thủy rất
Treo tranh con giáp trong nhà thế nào mới đúng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không phải ai cũng phù hợp để treo tranh con giáp trong nhà. Hãy cùng ## tìm hiểu tường tận vấn đề tuy nhỏ bé nhưng lại có tác dụng phong thủy rất lớn này.


1. Có nên treo tranh con giáp trùng với tuổi gia chủ?

Hiện nay, rất nhiều gia đình đã chú trọng tới việc treo tranh trong nhà, vừa tăng tính thẩm mỹ, lại tạo ra những yếu tố phong thủy hài hòa, thúc vượng gia vận cũng như tài vận.

Ngoài tranh phong cảnh thiên nhiên, một số tranh con giáp như “Tam Dương khai thái” (tranh Dê), “Mãnh hổ về rừng” (tranh Hổ), “Mã đáo thành công” (tranh Ngựa)...

Một trong những quy tắc cần chú ý đến khi treo tranh con giáp trong nhà, đó là phải chú ý tới yếu tố tam hợp và tứ hành xung. Vì thế, bạn không nên treo tranh con vật trùng với tuổi của mình, vì như vậy phạm phải tứ hành xung.

Treo tranh con giap trong nha the nao moi dung hinh anh
 
2. Treo tranh mãnh hổ trong phòng khách có phạm đại kỵ?


Câu trả lời là có. Theo quan điểm phong thủy, treo tranh mãnh hổ trong phòng khách sẽ khiến gia chủ sớm gặp đại họa. Hổ dữ xuống núi trông rất mạnh mẽ, uy phong, nhưng trên thực tế hổ xuống núi vì đói, muốn tìm mồi ăn.

Vì thế, không nên treo tranh 12 con giáp mãnh hổ trong nhà, đặc biệt là khi đầu con hổ đó treo hướng vào trong nhà lại càng không may mắn.

Ngoài ra, tranh con Hổ (không phải mãnh hổ), thích hợp với nhà có gia chủ sinh vào mùa thu.

Nằm lòng những nguyên tắc treo tranh phong thủy văn phòng
Treo tranh phong thủy văn phòng hợp lí sẽ mang lại nguồn vượng khí hưng thịnh và tài lộc dồi dào cho tất cả mọi người.
3. Nên treo tranh con rồng hướng ra ngoài?

Câu trả lời là sai. Rồng được coi là linh vật mang tới sự may mắn, quyền quý. Theo quan điểm treo tranh phong thủy, nên để đầu rồng hướng vào trong. Bởi nếu hướng ra ngoài, nó sẽ mang tiền bạc, may mắn đi mất.

Ngoài ra, vị trí treo tranh rồng đẹp nhất là ở góc bên trái phòng khách hoặc phòng làm việc.

Treo tranh con giap trong nha the nao moi dung hinh anh 2
 
4. Nên treo tranh con gà hướng ra ngoài?


Câu trả lời là đúng. Trong phong thủy, gà trống thường được sử dụng để giải trừ các thế sát cho ngôi nhà hoặc giải trừ đào hoa sát cho cá nhân nào đó hay tránh bị tiểu nhân nói xấu sau lưng.

Khi treo tranh gà, đầu và mỏ gà phải hướng ra ngoài cửa. Nếu như hướng vào trong sẽ dễ gây ra xích mích và ẩu đả giữa các thành viên trong gia đình.

5. Treo tranh ngựa ở hướng Nam là tốt hay xấu?

Câu trả lời là xấu. Tranh “Mã đáo thành công” thường được dùng nhằm mục đích cầu mong sự thăng quan tiến chức, phát triển sự nghiệp, công việc thuận buồm xuôi gió, bách chiến bách thắng. Loại tranh này thích hợp với mệnh chủ sinh vào mùa Thu Đông.

Treo tranh ngựa ở hướng Nam của ngôi nhà sẽ phạm vào cục diện “Hỏa thiêu thiên môn”, khiến gia chủ hay đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, con cái trong nhà bướng bỉnh, không nghe theo lời bố mẹ. Hướng treo tranh ngựa tốt nhất là Đông.

Ngọc Diệp

  Mẹo phong thủy giúp bạn đón ngày 8/3 trọn vẹn nhất
– Để đón ngày 8/3 vui vẻ, hạnh phúc trọn vẹn nhất, bạn cũng như nửa kia của mình có thể áp dụng một vài mẹo phong thủy dưới đây, đảm bảo hiệu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh con giáp trong nhà thế nào mới đúng

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd