Chùa Hiến có tên chữ Hán là “Thiên Ứng tự”, Là một trong những ngôi chùa cổ thuộc địa phận Phố Hiến Hạ, nay là đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, Hưng Yên.
Chùa Hiến có tên chữ Hán là “Thiên Ứng tự”, Là một trong những ngôi chùa cổ thuộc địa phận Phố Hiến Hạ, nay là đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên. Khu di tích đình, chùa Hiến là một trong những di tích nổi tiếng, hàng năm thu hút được hàng vạn lượt du khách về tham quan, chiêm bái.
Lịch Sử: Tương truyền chùa được khởi dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần. Trải qua nhiều lần tu sửa, ngôi chùa vẫn giữ được những nét kiến trúc nghệ thuật thời Lê đan xen Nguyễn.
Kiến Trúc: Chùa Hiến có bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm tiền đường, thiên hương, thượng điện và ba mặt là hành lang. Giữa thượng điện là tượng Quan Âm Nam Hải ở thế ngồi, có tám đôi tay, bố trí đăng đối. Đầu tượng đội mũ chạm hoa cúc, sen, phù dung. Phía trước là tượng tứ vị bồ tát ngồi trên tòa sen, khuôn mặt đầy đặn, trang nghiêm. Các pho tượng này đều có niên đại thế kỷ 19. Việc thượng điện đặt ban thờ nổi bật tượng Quan âm cùng tứ vị bồ tát thể hiện tâm lý sùng bái vị thần có nhiều phép cứu giúp chúng sinh trên sông, biển. Đây là đặc điểm khác biệt trong bố cục thờ tự của chùa Hiến so với các nơi khác, nơi nhiều thương nhân trong và ngoài nước đến sinh sống, buôn bán.
Phía trước sân chùa Hiến có hai tấm bia đá lưu giữ nhiều tư liệu lịch sử nói lên quá trình tụ cư của thương cảng Phố Hiến. Tấm bia “Thiên ứng tự – Tân tự trùng tu thạch bi ký” niên đại Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) ghi việc hưng công tu sửa chùa, có thể xếp chùa vào hàng thứ năm sau bộ “tứ đại khí” thời Lý.
Bia ghi nhận “Phố Hiến Nam nổi tiếng là nơi đô hội tiểu Tràng An của bốn phương” và trụ sở Ty Hiến sát Trấn Sơn Nam đóng ở đất Hoa Dương. Tấm bia “Thiên ứng tự – bia ký công đức trùng hưng” dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709) ghi việc góp công tu sửa chùa, có 481 người có quê quán nhiều vùng khác nhau, trong đó có 56 người Trung Quốc. Qua đó chúng ta có thể hình dung được khung cảnh của đô thị Phố Hiến, nơi hội tụ của nhiều cư dân đến buôn bán.
Chùa Hiến còn nổi tiếng có cây nhãn Tổ, chính xác ra tên gọi là cây nhãn tiến, nằm phía trước cửa chùa. Đây là ngôi chùa có cây nhãn tổ đầu tiên ở Việt Nam. Cây nhãn đường phèn có dáng hình đẹp, mã lụa, quả to, cùi dày, hương vị thơm ngon đặc sắc nhất. Mỗi mùa nhãn chín, nhãn thường được chọn hái để dâng đức phật, cúng thần thành hoàng và để quan lại địa phương tiến vua. Thân cây chính đã già cỗi, bọ ruỗng, đổ chỉ còn một nhánh, được đắp vun gốc, chăm sóc phát triển thành cây “hậu duệ”, hiện diện như một biểu tượng của giống nhãn đặc sản Phố Hiến – Hưng Yên.
Ngày nay, chùa Hiến là nơi hiện hữu “hậu duệ” cây nhãn tổ là điểm tham quan, chiêm bái không thể thiếu của du khách. Về với mảnh đất từng nổi danh: “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, ta thỏa sức đắm mình trong văn hóa tâm linh, của những truyền thuyết linh thiêng, và huyền bí..
Tương tự phòng tắm, phòng giặt là có nhiều năng lượng hành thủy và tác động “tiêu hao” tiềm ẩn đối với năng lượng của khu vực đó. Hãy sử dụng hiểu biết về tương tác ngũ hành để đánh giá liệu có nên điều chỉnh màu sắc và trang trí của những không gian
đó, tạo nên sự hài hòa hơn với vị trí của chúng trong bát quái đồ.
Phần lớn mọi người không nghĩ tới việc trang trí phòng giặt là, nhưng khi làm điều đó, bạn sẽ nhận thấy tác động rõ rệt. Những thay đổi nhỏ rất dễ dàng và thú vị, tác động có thể vượt quá quy mô của chúng. Hãy bắt đầu bằng cách kết hợp một số ý tưởng dưới đây cùng với khả năng sáng tạo của bạn, các khả năng luôn là vô tận.
– Phòng giặt là nằm ở cung Sự nghiệp: Đây là căn phòng thuộc hành thủy, các thiết bị màu trắng mang năng lượng hành kim có tác dụng trợ giúp. Màu crôm và màu xanh sẫm là những màu thích hợp. Hãy “thổi phồng” mối liên hệ giữa căn phòng này với nước và biến không gian này trở nên khôi hài, ngộ nghĩnh bằng những nam châm và tay nắm tủ hình cá. Đôi khi chúng ta quên rằng công việc được làm tốt nhất khi chúng ta cảm thấy như đang chơi đùa.
– Phòng giặt là nằm ở cung Học vấn: Năng lượng hành thủy ở đây có thể hơi yếu, vì thế hãy bổ sung năng lượng hành thổ để ổn định không gian này. Trang trí các vật màu nâu và xanh nhạt, chọn các vật dạng hành thổ như gạch trang trí hình vuông có màu đất để treo trên tường.
– Phòng giặt là nằm ở cung Gia đình: Hành thủy ở đây hỗ trợ năng lượng hành mộc. Tốt nhất là các gam màu xanh nhạt. Nếu có chỗ trống trên tường, hãy tạo ra một gallery ảnh gia đình thân mật.
– Phòng giặt là nằm ở cung Danh vọng: Thủy sẽ dập tắt năng lượng hành hỏa vốn gắn với cung Danh vọng, vì thế hãy bổ sung nhiều hành mộc (màu xanh, thực vật) để hút bởt thủy và nuôi dưỡng hòa, tìm cơ hội bổ sung năng lượng hành hỏa, ví dụ như sơn đỏ tất cả tay nắm của tủ và ngăn kéo.
– Phòng giặt là nằm ở cung Hôn nhân: Vị trí này sẽ được lợi từ nhiều tông màu đất và các điểm nhấn màu hồng, nhất là với các thiết bị màu trắng (năng lượng hành kim). Tránh các màu tối và tìm cơ hội xếp đặt đồ vật thành từng cặp, ví dụ như hai cái giỏ đựng đồ nhỏ xinh đặt cạnh nhau.
– Phòng giặt là nằm ở cung Con cái & Sáng tạo: Kim bị thủy làm suy yếu, vì thế hãy giữ trang trí màu trắng và sáng. Một vài mảng màu sáng là thích hợp, đặc biệt nếu đó là tác phẩm nghệ thuật của con cái.
– Phòng giặt là nằm ở cung Quý nhân & Du lịch: Cung bát quái này cũng thuộc hành kim, vì thế cần trang trí làm nổi bật màu trắng, xám và lấp lánh. Màu sắc và đỏ trang trí dạng hành thổ cũng thích hợp.
Phương vị từ trường có quan hệ như thế nào với phong thủy? –
Từ trường học địa cầu cho rằng: địa cầu là lấy hai cực Bắc Nam làm từ lực trường mạnh nhất của điểm mút. Loại từ trường này chuyển động cân bằng đối với sự ổn định địa cầu, có tính ổn định của mặt ngoài vật thể đối với địa cầu, có tác dụng rất quan t
Địa cầu có từ trường lớn mạnh trong quá trình tự vận động và vận động xung quanh mặt trời, sản sinh ra một loại lực hấp dẫn có từ hướng rất mạnh, đây là tính phương hướng của từ lực địa cầu. Do loại này có mang phương hướng sáng rõ tác dụng truyền cảm của từ lực, một số loại vật thể đặc biệt trên địa cầu sẽ sản sinh ra một loại cảm ứng từ tính, làm cho các vật thể này cũng sản sinh một loại năng lực tương ứng phân rõ phương vị. Ví dụ: Trung Quốc thời cổ đại phát minh ra kim chỉ nam, còn có cơ năng cảm ứng phân rõ phương hướng nội thể của loài người, loài chim, chính là cảm ứng từ hướng của địa cầu làm cho có công năng đó.
Đây chính là hiện tượng mà phương vị từ trường học phải nghiên cứu, từ trường, từ hướng và phương vị đã nói ở trên sản sinh sự ảnh hưởng khá lớn đối với nhân loại và sinh vật sống ở đó. Ví dụ, bố trí thiết kế vị trí của giường nằm và phương vị khi ngủ của con người sẽ chịu ảnh hưởng của lực hấp dẫn từ trường địa cầu: Người ở bán cầu Bắc nếu như ngủ đầu ở hướng Bắc thì sẽ có một cảm giác an định thoải mái, do từ trường của Bắc cực sẽ sinh ra một loại tác dụng an định, điều tiết đối với đại não của con người, khiến cho giấc ngủ của con người càng ổn định, sự nghỉ ngơi của đại não càng đầy đủ; người ở bán cầu Nam thì khi ngủ đầu nên hướng về phía Nam là tốt nhất, nguyên nhân cũng tương tự, chỉ có điều là từ trường của Nam cực có tác dụng chính diện: nếu như đầu hướng Đông hoặc hướng Tây mà ngủ, thì giấc ngủ có thể không tốt, một mặt tác dụng không đồng bộ với từ trường của Nam Bắc cực, mặt khác không hài hoà với lực hấp dẫn từ hướng tự vận động của địa cầu.
Đương nhiên, do một số vị trí địa điểm đặc thù thay đổi tác dụng lực của từ trường, có lúc đầu hướng Đông Tây mà ngủ cũng có thể thích hợp với phương vị của từ trường. Nếu như phương vị giường trong phòng ngủ không đối ứng với từ hướng địa cầu thì có thể sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thậm chí ảnh hưởng đến cả sự hoà thuận trong gia đình.
Với nguyên tắc như trên, nhà ở của Bắc bán cầu thường toạ Bắc hướng Nam: còn nhà cửa ở Nam bán cầu thường là toạ Nam hướng Bắc.
Đây là kết luận qua mấy nghìn năm quan sát nghiên cứu của phong thủy học truyền thông đúc kết được, chỉ có điều không có cách nào dùng khái niệm và nguyên lý khoa học tự nhiên để giải thích được nó mà thôi.
Nội hàm phong thủy học và một trong các sứ mệnh chính là: Phải kết hợp phong thủy học truyền thống với phương vị từ trường học địa cầu hiện đại; từ đó nghiên cứu từ hướng, phương vị địa cầu ảnh hưởng có tính quy luật đối với con người từ trạng thái nơi ở của họ; mong muốn tìm hiểu ra phương pháp làm cho con người và kiến trúc thuận ứng với phương vị từ hướng của địa cầu có lợi cho sức khỏe và phát triển sự nghiệp.
Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ cách tốt đẹp. Địa Không cư ở đây cũng tương tự.
Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ, lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế tinh có thể cộng tác với nhau. Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ.
Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong.
Phong thủy nhà ở là một trong những mối quan tâm hàng đầu của nhiều người khi sắp xếp đồ đạc. 5 lưu ý phong thủy trong trang trí nhà cửa dưới đây sẽ phần nào
Phong thủy nhà ở là một trong những mối quan tâm hàng đầu của nhiều người khi sắp xếp đồ đạc. 5 lưu ý phong thủy trong trang trí nhà cửa dưới đây sẽ phần nào giúp bạn có ngôi nhà ưng ý, nhiều may mắn, nhanh phát tài.
1. Lưu ý phong thủy trong trang trí nhà cửa đầu tiên là tuyệt đối tránh treo gương đối diện cửa trước. Nhiều người cho rằng treo gương ở cửa giúp quang cảnh rộng rãi, sáng sủa và thuận tiện cho việc chỉnh chu bề ngoài trước khi ra khỏi nhà. Nhưng điều này lại khiến những năng lượng tốt đẹp, những vận may về tài chính tiến vào trong nhà sẽ bị chiếc gương dội thẳng ra, chẳng mảy may tới được chủ nhân chút nào. 2. Màu đỏ trong phong thủy là màu sắc rực rỡ, tượng trưng cho may mắn và tài lộc. Vì nghĩ như vậy nên mọi người chọn màu đỏ để sơn cửa chính với mong muốn sẽ mang tiền bạc và vận may tới cho ngôi nhà. Tuy nhiên, ngược lại, màu đỏ với tính Hỏa mạnh mẽ tạo ra “lửa ở thiên cung” sẽ thiêu rụi những điều tốt đẹp muốn hướng tới ngôi nhà. Nó còn đặc biệt gây tổn hại tới cho người cha trong gia đình. 3. Lưu ý phong thủy trong trang trí nhà cửa cũng rất quan trọng khác là không đặt gương gần bếp nấu. Bếp có tính Hỏa rất mạnh, đặt gương sau bếp sẽ khuyếch đại năng lượng Hỏa thiêu đốt ngôi nhà. Hỏa khí quá mạnh cũng khiến sức khỏe mọi người trong gia đình trở nên xấu đi, không khí trong nhà thường xuyên căng thẳng. Nếu muốn đặt gương trong bếp để tạo sự sung túc cho gia đình thì nên đặt gương ở đối diện bàn ăn. 4. Cây có thể hút năng lượng của người vào ban đêm và làm suy yếu dần cảm xúc. Nước, đặc biệt là đang chảy hay chuyển động, theo phong thủy sẽ làm thất thoát tiền của và gây ra một số vấn đề về hô hấp, xoang, trầm cảm hoặc hôn mê. Vì vậy, theo phong thủy phòng ngủ thì nên tránh đặt cây và hoa (trừ trường hợp chữa bệnh) cũng như nước trong phòng ngủ. 5. Các đồ vật trang trí thủy tinh có tác dụng khá tốt trong phong thủy nhà ở nên nhiều người có xu hướng treo nhiều đồ thủy tinh ở cửa sổ, cửa ra vào để hút tài lộc và cầu may mắn. Tuy nhiên, nhiều quá hóa hại, cửa nào cũng treo hoặc treo quá nhiều ở một cửa sẽ phản tác dụng, chặn khí, gây ngưng trệ trong nhà. Tốt nhất là nên chọn một, hai cửa nhiều nắng, gió và mỗi cửa treo một món đồ thủy tinh là đủ. ST
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha. Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp, thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Trong quyển Triết HọcTrung Quốc Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. Lý thuyết Âm Dương NgũHành đã được trình bày cặn kẽ. Có thể tóm lược lýthuyết này qua những nét chánh yếu sau đây :
a) Lý thuyết này có từ trước đời nhà Tần. Tác giả nguyên thủy là Trân Diễn, sinh vào khoảng giữa thế kỷ 3 trước Tây Lịch. Ông sáng lập một triết phái mà các sử học gọi là Âm Dương giả.
b) Đến đời nhà Tần, các sách triết đều bị đốt và bị cấm lưu hành. Muốn học thì chỉ phải học đám quan lại, muốn đọc thì chỉ còn đọc những sách bói toán. Việc cấm đoán tự do ngôn luận khiến các học giả phải dựa vào các sách bói toán mà nghị luận. Sách bói toán bấy giờ là Kinh Dịch, những nghị luận trong sách đó là Dịch truyện. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành được tập Dịch truyện này quảng diễn thêm.
c) Đến đời Hán, một triết gia nổi danh là Đổng Trọng Thư đã khai triển sâu rộng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành vốn là sở trường của nền học của ông. Cái gì ông cũng ghép vào Âm Dương Ngũ Hành (như vua là dương, tôi là âm, cha là dương, con là âm, chồng là dương, vợ là âm… mùa xuân là mộc, hạ thuộc hỏa, thu thuộc kim, đông thuộc thủy, hướng Đông thuộc mộc, hướng Nam thuộc hỏa, hướng Bắc là thủy, trung ương là thổ). Luật biến hóa của Âm Dương Ngũ Hành được xem là luật biến hóa chung của vũ trụ và của cả con người, có thể áp dụng vào việc trị nước. Cho nên, đời Hán có các quan coi riêng về luật biến hóa này để khuyến cáo chính sách quốc gia, đề phòng tai trời ách nước. Việc khuyến cáo sai đưa đến sự huyền chức. Đó là tác dụng bói toán của lý thuyết này. Tác dụng đó đưa đến sự thành hình phái Tướng số, cũng do Đổng Trọng Thư dẫn đầu. Nhiều nho gia đã mượn thuyết Âm Dương Ngũ Hành này để chú thích Kinh Dịch thêm cho phong phú.
d) Phái học Tượng Số đó đến đời nhà Tống lại càng thịnh đạt và được phát huy mạnh mẽ để ứng dụng vào những môn học huyền bí. Công trình này do một đạo sĩ Trần Đoàn đã cụ thể hóa vào tướng số, trong đó khoa Tử – Vi là một ngành. Thành thử, tóm tắt có thể nói:
- Trân Diễn là nguyên tổ của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành.
- Đổng Trọng Thư là người khai triển và quảng bá lỗi lạc nhất.
- Trần Đoàn là tác giả khai sáng khoa Tượng số của họ Đổng và lập ra môn Tử – Vi
Đó là lược dẫn nguồn gốc của khoa Tử – Vi.
2) Nội dung lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành
Trở lại phần lý thuyết nguyên thủy của Âm Dương Ngũ Hành, triết sử ghi rằng: thuyết này nằm trong phần Vũ trụ luận, nhằm tìm hiểu nguyên gốc, đặc tính, qui luật biến hóa của vũ trụ, vạn vận sự thể hiện của vũ trụ, dứt điểm của vũ trụ. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành bắt nguồn từ học thuyết Thái Cực và các nghị luận rút trong Kinh Dịch.
Học thuyết này cho rằng nguồn gốc sơ khởi nhất của vũ trụ vạn vật là Thái Cực. Thái Cực cùng với Âm Dương là những ý niệm cơ bản của Kinh Dịch. Âm Dương được thống nhất trong Thái Cực. Sự phát sinh của Âm Dương từ Thái Cực theo một đại lịch trình (gọi là Dịch, nói khác đi là quy luật chuyển động biến hóa – loi des mouvments hay dialectique). Đại lịch trình đó được diễn tả qua trích văn sau đây, lấy trong Hệ từ truyện:
“Dịch là Thái Cực, sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh ra Bát Quái”.
Khởi điểm của lịch trình là Thái Cực, từ đó mới sinh ra Lưỡng Nghi (tức là 2 khí Âm, Dương), kế đến mới sinh tiếp Tứ Tượng (là bốn mùa), từ Tứ Tượng mới tiếp sinh Bát Quái (tức tám hiện tượng lớn và cơ bản của vũ trụ). Đó là Càn (chỉ Trời), Khôn (chỉ Đất), Chấn (chỉ sấm sét), Tổn (chỉ gió), Khảm (chỉ nước), Ly (chỉ lửa), Cấn (chỉ núi), Đoài (chằm hay đồng cỏ thấp có nước).
Trong Thái Cực, tiềm phục 2 khí Âm Dương. Về tính chất, 2 khí này vẫn đối lập nhau khi còn ẩn trong Thái Cực. Vạn vật sinh thành là nhờ 2 khí Âm Dương và cũng nhờ 2 khí đó mà biến hóa. Một khi đơn độc thì không sinh phát được. Phải có sự giao hợp giữa 2 khí thì mới sinh được vạn vật: Đó là cái luật lớn của Trời Đất (gọi là Đức lớn). Đức này là Đức Sinh.
Cái đức đó chủ sự sinh trưởng, nó là cái đà sống, cái sức thúc đẩy cuộc sống. Luật sinh này theo một qui tắc nhất định gọi là Đạo: đó là quá trình diễn biến của sự vật từ lúc bắt đầu đến khi hình thành. Quá trình này phải qua bốn giai đoạn là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, hay là 4 hiện tượng, 4 trạng thái diễn biến:
- Nguyên: là trạng thái tiên khởi của vật khí bắt đầu vào cuộc sống.
- Hanh: là hanh thông, thông đồng, sự tiếp xúc của nguyên vật với ngoại giới.
- Lợi: là nhuận lợi, tức là tình trạng của vật đã thích ứng được với hoàn cảnh khi tiếp xúc với ngoại giới của giai đoạn Hanh.
- Trinh: là sự thành tựu hẳn hòi của sự vật.
Nói khác đi, Nguyên Hanh Lợi Trinh là một quá trình cấu tạo do sự chuyển động nội tại của 2 khí Âm Dương để sinh ra sự vật (processus dialectique) qua các bước nói trên của Đạo.
Khi vật thành hình, vật cũng biến động theo một chu kỳ (cycle dialectique) gồm 4 bước: Thành, Thịnh, Suy, Hủy, đánh dấu mức độ phát triển và suy tàn dần dần của 2 khí Âm Dương giao tiếp:
- Thành: là giai đoạn của Thiếu Dương, giai đoạn Khí Dương vừa từ Thái Âm sinh ra.
- Thịnh: là giai đoạn của Thái Dương, giai đoạn của khí Dương phát triển cao độ.
- Suy: là giai đoạn Thiếu Âm, giai đoạn khí Âm vừa từ khí Dương sinh ra.
- Hủy: là giai đoạn của Thái Âm, giai đoạn khí Âm phát triển cực độ, lấn át hết khí Dương.
Cứ như vậy mà Âm Dương tiếp tục xoay vần, khi thịnh, khi suy, theo một tuần hoàn sinh hóa mà không bao giờ đứt đoạn của luật Đạo.
Cũng theo đạo biến hóa của Âm Dương và dưới sự thúc đẩy của đức sinh, 4 mùa và ngũ hành được cấu tạo. Đổng Trọng Thư viết:
“Khí của Trời Đất hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương tác ra làm 4 mùa, bày sắp thành ngũ hành”.
Ngũ hành được các triết gia xem là 5 nguyên tố căn bản của vũ trụ. Đó là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy.
- Mộc: là gỗ hay nói chung tất cả những loại cây.
- Hỏa: là lửa (chất) hay hơi nóng (biểu tượng).
- Thổ: là đất (chất) hay nói chung tất cả khoáng vật (trừ kim khí).
- Kim: là vàng hay nói chung là tất cả các loại kim khí.
- Thủy: là nước hay nói chung là chất lỏng.
Đổng Trọng Thư đã xếp ngũ hành theo thứ tự đó: “Một là Mộc, hai là Hỏa, ba là Thổ, bốn là Kim, năm là Thủy. Mộc là hành đầu của ngũ hành, Thủy là hành chót, Thổ là hành giữa. Đó là thứ tự tự nhiên”.
Thứ tự này có nhiều tác giả không đồng ý (như Ban Có đời Hậu Hán). Nhưng, quy tắc sinh khắc giữa 5 hành thì tương đồng giữa các tác giả. Qui tắc này là:
Hai Hành kế tiếp nhau thì sinh nhau, mà đứng cách nhau một hành thì khắc nhau.
Như vậy thì Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, theo chiều ấn định.
Qui tắc tương khắc là: Kim khắc Mộc, Thủy khắc Hỏa, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. (Có cách dùng chữ thắng thay cho chữ khắc, nhưng cùng đồng nghĩa với nhau).
Nếu Âm Dương có phương vị và đường lối lại riêng của Âm Dương thì ngũ hành cũng thế. Vậy, tất nhiên phải sinh mối quan hệ giữa Âm Dương và Ngũ Hành trong không gian và thời gian. Theo Đổng Tử thì gặp lúc khí dương đang thịnh mà hành Mộc thì hành Hỏa lại được khí Dương ấy giúp vào thì thành mùa xuân, mùa hạ và vạn vật sinh trưởng, gặp lúc khí Âm đang thịnh mà hành Kim, hành Thủy lại được khí Âm giúp vào thì thành mùa Thu, mùa Đông. Vì 2 cái khí Âm Dương đắp đổi thịnh suy và luôn luôn luân chuyển, cho nên ảnh hưởng của nó đối với ngũ hành không dứt và 4 mùa vì thế xoay vần bất tuyệt”.
Mỗi Hành làm chủ cái khí của một mùa.
“Mộc ở phương Đông là chủ khí Xuân, Hỏa ở phương Nam là chủ khí Hạ, Kim ở phương Tây làm chủ khí Thu, Thủy ở phương Bắc làm chủ khí Đông. Cho nên Mộc chủ sinh mà Kim chủ sát, Hỏa chủ nóng mà Thủy chủ lạnh. Thổ ở giữa gọi là Thiên nhuận. Thổ là chân tay của Trời, đức của Thổ tươi tốt, không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ được: cho nên có ngũ hành mà lại có tứ thời là vì Thổ kiêm cả Tứ thời.
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, tuy mỗi hành có một chức vụ, nhưng không nhờ nơi Thổ thì Kim, Mộc, Hỏa, Thủy không đứng vững.
Như vậy, Đổng Trọng Thư đã đặt cho Thổ một vai trò hết sức đặc biệt, vừa kiêm cả Tứ thời, vừa là chỗ dựa cho 4 hành còn lại. Điểm này được phản ảnh sau này trong khoa Tử – Vi.
Thuyết ngũ hành, nguyên được suy diễn từ pháp thuật ngũ hành của cổ nhân. Cổ nhân cho rằng có sự ảnh hưởng qua lại giữa con người và sự vật trong vũ trụ, cho nên quan sát các hiện tượng của vũ trụ có thể đoán phúc họa cho con người. Vì vậy, Phái Tượng Số mới ghép ngũ hành vào một trong 6 phép của thuật số. Sáu phép đó là: Thiên Văn, Lịch Phổ, Ngũ Hành, Thi Qui (bói có thi, bói rùa, Tạp Chiêm (đoán điềm), Hình Pháp (xem tướng). Thuyết ngũ hành được phổ cập rất nhiều ở thời chiến quốc, nhất là vào cuối thời này. Cái gì cũng được người ta ngũ hành hóa (bốn phương, bốn mùa). Trân Diễn còn đem ngũ hành vào triết học lịch sử, gán ngũ hành vào Ngũ đức. Nhưng cái dụng phổ biến nhất của thuyết ngũ hành là cái dụng bói toán của phái Tượng Số. Nhờ đó mà đạo sĩ Trần Đoàn mới khai sáng ra khoa Tử – Vi, dùng sao trên trời, được âm dương hóa và ngũ hành hóa, để xếp bày vận số của con người, để rồi từ đó, suy diễn trên qui luật biến hóa Âm Dương Ngũ Hành, những ý nghĩa trên con người.
Đến đây, tưởng cần xét về sự áp dụng qui luật biến hóa này vào khoa Tử Vi.
Tý mệnh Thủy khắc Tỵ mệnh Hỏa. Người tuổi Tỵ sinh giờ Tý cuộc đời gặp không ít trở ngại, tuy gặp nguy hiểm nhưng nhờ sao Long Đức bảo vệ nên tai qua nạn khỏi.
Sinh giờ Tý (23-1h): Tý mệnh Thủy khắc Tỵ mệnh Hỏa. Người sinh giờ này cuộc đời gặp không ít trở ngại, tuy gặp nguy hiểm nhưng nhờ có sao Long Đức bảo vệ nên tai qua nạn khỏi.
(Ảnh minh họa)
Sinh giờ Sửu (1-3h): Tỵ mệnh Hỏa sinh Sửu mệnh Thổ. Sinh vào giờ này mưu sự tất thành, tuy có sự bất trắc nhưng cuối cùng sự nghiệp vẫn thành công.
Sinh giờ Dần (3-5h): Dần mệnh Mộc sinh Tỵ mệnh Hỏa. Người sinh giờ này tiền đồ phát triển rực rỡ.
Sinh giờ Mão (5-7h): Mão mệnh Mộc sinh Tỵ mệnh Hỏa. Người sinh giờ này có vận số không xung, không khắc nhưng cả đời phải vất vả.
Sinh giờ Thìn (7-9h): Tỵ mệnh Hỏa sinh Thìn mệnh Thổ. Là người nhã nhặn, lịch sự. Mọi việc thuận buồm xuôi gió, cuộc sống yên vui, có duyên được bạn hiền giúp sức trong sự nghiệp.
Sinh giờ Tỵ (9-11h): Sinh giờ này phạm phải sao Chỉ Bối nên cuộc sống không yên ổn, số không có bạn thân.
Sinh giờ Ngọ (11-13h): Nhờ sao Thái Dương chiếu mệnh nên người sinh giờ này được bạn bè giúp đỡ nhiều trong công việc và sự nghiệp. Tuy có lúc gặp vận xấu nhưng rồi cũng tai qua nạn khỏi.
Sinh giờ Mùi (13-15h): Người này bị sao Nguyệt Sát chiếu mệnh nên số vất vả, vào sinh ra tử nhưng may mắn có được sức khỏe tốt.
Sinh giờ Thân (15-17h): Được sao Quý Nhân chiếu mệnh nên cuộc đời suôn sẻ, gặp nhiều may mắn. Tuy nhiên, cũng có lúc bị người khác làm phiền thậm chí hãm hại.
Sinh giờ Dậu (17-19h): Tỵ mệnh Hỏa khắc chế Dậu mệnh Kim. Người sinh giờ này có sao Thiên Tướng chiếu mệnh nên số giàu có. Tuy nhiên, cần đề phòng tiểu nhân quấy phá.
Sinh giờ Tuất (19-21h): Người tuổi Tỵ sinh giờ này số phải đi xa, hay bị phá tài, có thể mắc bệnh nhẹ.
Sinh ngày Hợi (21-23h): Sinh vào giờ này bị sao Dịch Mã chiếu mệnh nên số phải bôn ba, lăn lộn xứ người để mưu sinh, lập nghiệp.
Tử vi trọn đời người sinh ngày Ất Sửu thấy đạt được nhiều thành tựu từ trung vận. Hôn nhân của bản mệnh hạnh phúc do luôn thấu hiểu bạn đời.
Ngày Ất Sửu thuộc lệch Tài kho, tuy nhiên Sửu Thổ âm dữ, tàng khí Thiên quan Thiên ấn. Bản mệnh đường đời tất gặp Dần Mộc, thích hợp kết hợp với người sinh ngày Canh Tý.Người sinh ngày Ất Sửu dễ nổi loạn, cô độc, hành vi cổ quái, khiến người khác khó tiếp cận. Tuy có tác phong từ tốn, kỳ thực họ luôn có tâm kế sâu xa. Nắm chắc kiến thức phong thủy khi bày tượng Phật trong nhà Nhiều người với mong muốn nhận được sự phù hộ của Đức Phật đã thỉnh tượng Phật về nhà cúng dưỡng, tuy nhiên phong thủy cúng dưỡng tượng Phật không phải ai cũng Trụ ngày Ất Sửu thông minh, nhiều tài năng. Đối với công việc, họ có mục tiêu và chiến lược rõ ràng, hoàn thành công việc nhanh chóng và hiệu quả. Nhờ năng lực của bản thân, mệnh chủ dễ dàng đạt được nhiều thành tựu từ trung vận.Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Ất Sửu thấy hôn nhân hạnh phúc, ít những tranh cãi thường ngày. Bản mệnh luôn cố gắng thấu hiểu bạn đời, trọng nhân thủ nghĩa, thời gian càng dài thì tình cảm càng sâu đậm.
Bát tự trụ ngày Ất Sửu thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Ất Mão, Ất Tỵ, Bính Tuất, Bính Dần, Bính Ngọ, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Mão, Đinh Sửu, Mậu Thân, Mậu Tuất, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Kỷ Tỵ, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Kỷ Hợi, Canh Tý, Canh Ngọ, Canh Thân, Tân Dậu, Tân Hợi. CEO Snapchat: Gã nhà giàu nổi loạn ngay từ trong cung mệnh
► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
Tuổi này rất dễ bị lừa gạt về phương diện tiền bạc bởi họ sở hữu quan điểm quản lý tiền bạc vô cùng lỏng lẻo và có nhiều sơ hở. Con giáp này đã không ít lần khổ sở về chuyện tiền bạc vì thói quen tiêu tiền không có sự tính toán, bạ đâu tiêu đó, hôm nay ăn sung mặc sướng bất kể ngày mai bụng đói cồn cào.
Nhìn chung, cuộc sống của người tuổi này không được ổn định về mặt tài chính cho lắm vì không có khiếu quản lý tài sản của mình nên bỏ lỡ quá nhiều cơ hội làm giàu. Đặc biệt trong trường hợp uống rượu bia say bí tỉ, chỉ số bị “mắc lưới” lừa gạt của tuổi Sửu là rất cao.
No2: Tuổi Tý
Người tuổi Tý rất coi trọng chuyện tiền bạc trong cuộc sống. Đối với họ mà nói, tiền bạc cũng như “chĩnh gạo” của loài chuột, không có nó cuộc sống sẽ vô cùng gian nan, khổ cực. Vậy nên, đa phần mục tiêu mà người tuổi này đặt ra đều có mối liên quan nhất định đến chuyện tiền bạc. Tiếp đó là nỗ lực không ngừng, thậm chí nhịn ăn nhịn mặc để đạt được mục tiêu.
Vì khá chăm chỉ kiếm tiền, người tuổi Tý rất ít khi gặp phải khó khăn về vấn đề tiền bạc. Tuy nhiên, vì hay giúp đỡ người khác lại vốn tính thật thà nên tuổi này cũng rất dễ bị kẻ xấu lừa gạt.
No3: Tuổi Ngọ
Người tuổi này có khá nhiều thăng trầm trong cuộc sống, thành công cũng nhiều mà thất bại thì cũng không ít. Họ có thể kiếm được khoản tiền khổng lồ nhanh chóng nhưng cũng có thể rơi vào tình trạng phá sản bất cứ lúc nào bởi tính cách hay thay đổi của chính mình.
Tuổi Ngọ cần hết sức lưu ý đến vấn đề ổn định cuộc sống nhé, tránh tình trạng không một xu dính túi những lúc cần thiết vì bị người khác lừa gạt.
Mr.Bull
Top 4 cung hoàng đạo thông minh nhất
Thiên Bình đứng đầu luôn đó, tuy bị coi là "kẻ ba phải" nhưng thực chất họ biết chính xác điều mình cần phải làm nhé.
Tết Trung Thu là dịp vui chơi thoải mái, tiệc tùng linh đình cùng người thân, bạn bè. Nhưng hiếm có ai lại cao hứng như 4 chòm sao dưới đây, quẩy quên trời đất
Tết Trung Thu là dịp vui chơi thoải mái, tiệc tùng linh đình cùng người thân, bạn bè. Nhưng hiếm có ai lại cao hứng như 4 chòm sao dưới đây, quẩy quên trời đất luôn.
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất
Thiên Bình
Chòm sao Thiên Bình thích Tết Trung Thu vô cùng luôn, được diện quần áo đẹp này, được ăn ngon uống say, ca múa hát hò lại còn gặp gỡ hàn huyên, trò chuyện cùng bao nhiêu người nữa. Thiên Bình là chòm sao thích tiệc tùng để phát triển các mối quan hệ cá nhân nên đây là một dịp rất tốt, giúp ích cả về sau này. Vừa có thể vui vẻ lại vừa có lợi, đúng là đầu tư đúng hướng, một vốn bốn lời rồi còn gì.
Nhân Mã
Chòm sao ham chơi như Nhân Mã thì Tết Trung Thu là một lý do vô cùng hợp lý để lôi kéo đồng bọn tụ tập làm một chuyến dã ngoại ăn mừng. Tất nhiên là bình thường thì hứng lên là Mã Mã đi thôi nhưng Trung Thu thì cảnh đẹp vô cùng, trăng sáng, bạn hiền, đúng là ngập tràn ý thơ luôn. Mà lấy cớ đi chơi lễ thì cũng dễ dàng được phụ huynh phê duyệt hơn nữa chứ, tiện cả đôi đường, Nhân mã đúng là khôn ngoan.
Kim Ngưu
Còn gì tuyệt vời hơn khi Kim Ngưu có thể tận dụng dịp Tết Trung Thu để thưởng thức những món ăn thơm ngon, đặc biệt là bánh trung thu. Chòm sao này cực mê ăn uống, lại phải ăn ngon cơ, mà bánh trung thu dịp này là ngon nhất rồi, còn có cốm, có hoa quả đúng mùa nữa chứ. Quan trọng nhất là ăn trong không khí tưng bừng hội hè và cùng những người thân yêu lúc nào cũng ngon miệng hơn hẳn. Thảo nào mà Kim Ngưu phấn khích thế.
Song Ngư
Song Ngư thích nhất lễ tết, vì có quà lại còn được vui chơi. Dịp này nhất định họ sẽ cùng người yêu trải qua không khí lãng mạn, ngọt ngào như mật, cùng ngắm trăng tâm sự và trao nhau những lời tình tự. Chắc hẳn trong lòng Ngư nhi đã điểm qua không ít phương án rồi, chỉ còn chờ đến giờ là hành động thôi. Chúc Song Ngư có một mùa Trung Thu thật hạnh phúc và đáng nhớ bên người thương nhé. Bó tay với 4 chòm sao trở nên điên cuồng vì tìnhTop 4 chòm sao coi trọng sĩ diện đến mù quángBóc mẽ 4 chòm sao chơi chiêu để không phải nói lời chia tayTrình Trình
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ, những hậu quả mà nó mang lại cho chính ta và những người xung quanh ta.
Là một con người thì phải biết nghĩ, biết vận dụng trí óc và quyết định công việc đúng đắn. Chứ đừng làm xong rồi mới suy nghĩ, hối hận, lúc đó thì đã quá muộn.
Có những việc không cân nhắc kỹ mà đã làm rỗi thĩ khi đó hối hận cũng không còn có ích gì nữa. Có thể bạn hối hận cả đời người vẫn chưa thể bù đắp được. Và hãy rút kinh nghiệm và triết lý cho những việc làm sai trái trước đây của mình.
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng sẽ là những câu danh ngôn hay cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta suy ngẫm.
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng
1. Người khăng khăng muốn thấy rõ mọi thứ trước khi quyết định sẽ chẳng bao giờ quyết định. Chấp nhận cuộc sống, và bạn phải chấp nhận sự hối hận.
2. Hối hận, quả trứng chết người mà lạc thú sản sinh.
3. Vinh quang xây trên nền ích kỷ là hối hận và xấu hổ.
4. Sự hối hận sau một cuộc chiến không cần thiết rất lớn.
5. Nhiệt tình là một tật bệnh thường mắc phải của tuổi trẻ. Bên trong nhỏ một ít thuốc hối hận, bên ngoài bôi một ít thuốc cao kinh nghiệm thì sẽ trị khỏi ngay.
6. Nghe nhiều thêm khôn ngoan, nói nhiều thêm hối hận, im lặng là nghệ thuật lớn lao của cuộc đàm thoại.
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng
7. Ai cũng có sai lầm, nhưng người ít khinh suất nhất là người mau hối lỗi nhất.
8. Đừng làm gì mình sẽ thấy hối tiếc.
9. Sự hối hận ngủ ngon trong thịnh vượng nhưng gọi dậy ý thức cay đắng trong khó khăn.
10. Một người chỉ có lý do để hối tiếc khi anh ta gieo hạt và không ai gặt.
Bạn có thể tham khảo những câu nói hay về cuộc sống để rút ra những kinh nghiệm, triết lý sống cho mình nhé.
Hiện nay nhiều người ưa chuộng làm nhà lệch tầng, với mục đích tiết kiệm diện tích, điểm nhấn kiến trúc... Tuy nhiên, dưới góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt. Bản chất nhà lệch tầng là sự khác biệt về cao độ giữa các tấm sà
Hiện nay nhiều người ưa chuộng làm nhà lệch tầng, với mục đích tiết kiệm diện tích, điểm nhấn kiến trúc… Tuy nhiên, dưới góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt.
Bản chất nhà lệch tầng là sự khác biệt về cao độ giữa các tấm sàn hoặc các không gian. Vì vậy, làm nhà cao tầng cần phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tính chất sử dụng không gian, sở thích cá nhân, nhân khẩu trong gia đình, diện tích…
Có thể xuất phát từ sự cảm thấy đơn điệu trong những không gian nhà ống vốn đều và thẳng, nên người ta muốn thay đổi, nhất là khi điều kiện mặt bằng chật hẹp hoặc bị gò bó vào một khuôn khổ nhất định thì việc thay đổi các cao độ sẽ mang lại dáng vẻ lạ lẫm, mới mẻ cho không gian, đồng thời kèm theo nhiều ưu điểm khác.
Ưu điểm đầu tiên của nhà lệch tầng là giải quyết được vấn đề thông thoáng (khi kết hợp vói cầu thang, giếng trời) vì các tấm sàn không kéo dài suốt mà thay đổi và tạo những ống hút gió xiên giữa tầng này với tầng kia (tất nhiên phải có lối cho gió vào).
Thứ hai, tầm nhìn giữa các tầng đa dạng, phong phú, khả năng quan sát và đi lại thoải mái, không nhàm chán. Cầu thang sau khoảng chục bậc lại có thể đi vào được một tầng.
Do đó, đa số các ngôi nhà lệch tầng đều có chung cảm giác “là lạ”, tạo cảm giác căn nhà như có nhiều không gian, nhiều tầng và nhiều sự hấp dẫn.
Ưu điểm tiếp theo là sử dụng không gian hữu dụng hơn, chẳng hạn nhũng khu phụ để xe, kho, phòng cho người giúp việc… đặt nơi tầng trệt không cần cao, bên trên là phòng khách hoặc bếp.
Lệch tầng, có thể làm cao độ trần tùy thích, không giống như nhà thẳng tầng có chiều cao “cứng”.
Thế nhưng, nhà lệch tầng cũng có không ít nhược điểm:
– Thứ nhất là tổng thể ngôi nhà về mặt giao thông bị chia ra bỏi các cao độ khác nhau nối với nhau bằng cầu thang nên gây một số bất tiện, chẳng hạn như cứ ra khỏi cửa phòng là phải lên xuống cầu thang, nhất là với nhà nhỏ.
Điều này không phù hợp vói người cao tuổi, trẻ em hoặc người tàn tật. Nếu không làm phòng vệ sinh riêng theo từng tầng thì xảy ra tình trạng từ tầng này phải lên tầng kia để dùng.
– Về cao độ, nhà lệch tầng có thể sẽ không phù hợp vói một số quy hoạch có bắt buộc khống chế chiều cao từng tầng.
– Nhược điểm nữa là ở nhà lệch tầng, tỷ lệ chiếm chỗ của ô cầu thang và các chiếu nghỉ thang luôn lớn.
– Về mặt cơ động và đa năng hóa không gian, nhà lệch tầng cũng không linh hoạt bằng nhà thẳng tầng vì không gian bị giới hạn khi đi lại, chỉ phong phú trong điểm nhìn.
Dưói góc nhìn phong thủy, nhà lệch tầng không phải là kiểu nhà tốt. Nếu xây dựng không khéo dễ tạo thành những luồng xung khí từ cát mặt sàn tác động vào con người sống và sinh hoạt trong tòa nhà, ảnh hưỏng đến sức khỏe và tài vận của từng thành viên trong gia đình.
– Sử dụng giấy dán tường không chỉ mang lại giá trị về thẩm mỹ, nếu biết dùng đúng cách, nó còn phát huy nguồn năng lượng tích cực trong phong thủy, từ đó thu hút tài khí cho ngôi nhà.
1. Giá trị phong thủy của giấy dán tường
Theo chuyên gia phong thủy, không chỉ có căn nhà, mà những vật dụng trong nhà cũng có ảnh hưởng rất lớn đến tài vận, vượng khí và tiền bạc của gia chủ. Tuy nhiên, vẫn có rất nhiều người cho rằng những vật dụng không mấy quan trọng như giấy dán tường, tranh ảnh, cây cảnh.. sẽ không ảnh hưởng đến phong thủy. Quan niệm này không đúng. Giấy dán tường ngoài công dụng trang trí nhà cửa, đảm bảo yếu tố thẩm mỹ hoặc có thể cách âm, thì trong phong thủy, nó còn có thể mang đến năng lượng và tiền tài, bình an cho gia chủ. Nhưng nếu dùng giấy dán tường sai cách, thì tiền tài, an lành cũng theo đó mà "đội nón ra đi".
2. Những trường hợp sử dụng giấy dán tường sai cách khiến tài lộc thất thoát
Dùng giấy dán tường có hoa văn sắc nhọn, hình ảnh hung tàn Điều này được coi là tối kỵ trong phong thủy giấy dán tường, bởi nó sẽ tạo cảm giác nguy hiểm và thiếu thân thiện. Chủ nhà và các thành viên trong gia đình sẽ dễ bất đồng quan điểm, hay cãi vã và sinh ra bạo lực trong nhà. Không những vậy, loại giấy dán tường này khi dán trong phòng ngủ sẽ khiến chủ nhân ngủ không sâu, dễ mộng mị, mất ngủ. Bởi vậy khi lựa chọn giấy dán tường, cần đặc biệt chú ý đến họa tiết, màu sắc cho phù hợp. Nếu bạn thực sự muốn sử dụng họa tiết theo hình, thì nên chọn cho mình những bức tranh phong cảnh thiên nhiên hài hòa nhẹ nhàng, sẽ làm cho không gian trong nhà trở nên đầm ấm hơn.
Dùng giấy dán tường rách
Giấy dán tường sau nhiều năm sử dụng thì sớm muộn cũng sẽ rách và bong ra. Điều này theo phong thủy là rất xấu, bởi nếu giấy dán tường không khít, lệch, có khe hở hoặc rách sẽ khiến từ trường quanh nhà hỗn loạn, gia vận theo đó mà ngày càng đi xuống, nhất là những gia đình có thờ Thần Phật. Để tránh được việc này, nên chú ý đến việc sử dụng và gìn giữ giấy dán tường sao cho hợp lý. Không nên kê đồ đạc tiếp xúc trực tiếp với giấy dán tường, nên để cách 1-2 cm hoặc có miếng lót khi tiếp xúc. Tránh các vật sắc nhọn va đập mạnh gây trầy xước bề mặt giấy dán tường.Không để mực bút bi dính lên bề mặt giấy dán tường vì rất khó làm sạch. Xử lý vết bẩn bám trên tường nên sử dụng khăn tẩm xà bông lau sơ rồi dùng khăn sạch lau lại một lần nữa.Chọn giấy dán tường hợp phong thủy để tiền vào đầy hũMơ thấy giấy dán tường là cát mộng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thu Hương (##)
Lăng mộ của bà hàng nghìn năm sau cũng vẫn là những dấu hỏi lớn đối với hậu thế, không chỉ vì nó là lăng mộ duy nhất của các hoàng đế nhà Đường chưa bị khai quật, mà ngay cả những gì lộ thiên hiển hiện trước mắt người đời cũng chứa đầy bí mật. Trong lịch sử gần 3.000 năm của lịch sử phong kiến Hồng Kông, Võ Tắc Thiên là một người phụ nữ cực kỳ đặc biệt.
Trở thành Nữ hoàng đầu tiên và duy nhất được sử sách công nhận, những gì Võ Tắc Thiên đã làm thực sự là một đòn đau giáng vào cái thể chế phong kiến với tư tưởng trọng nam khinh nữ cố hữu ở xứ sở hàng tỷ dân. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của Võ Tắc Thiên đối với Hồng Kông không chỉ là khi bà còn sống.
Nhiều người tin rằng, ngay cả khi đã chết, Võ Tắc Thiên vẫn có những ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh quốc gia. Chẳng nói đâu xa, nhiều người tin rằng ngay Càn Lăng – nơi Võ Tắc Thiên lựa chọn làm nơi chôn cất của mình – cũng đã hàm chứa không ít những bí mật…
Chính nhờ ngôi mộ xây ở nơi này của các Vua đời Đường, mà Võ Mị Nương có thể lên ngôi hoàng đế, và vì lẽ đó bà cũng yêu cầu hợp tác cùng chồng.
Lăng mộ của bà hàng nghìn năm sau cũng vẫn là những dấu hỏi lớn đối với hậu thế không chỉ vì nó là lăng mộ duy nhất của các hoàng đế nhà Đường chưa bị khai quật mà ngay cả những gì lộ thiên hiển hiện trước mắt người đời cũng chứa đầy bí mật.
1. Tháng 2 năm 705, Võ hậu ốm nặng không còn lo việc triều chính được nữa. Nhân cơ hội đó, tể tướng Trương Giản Tri dẫn đầu các quan văn võ trong triều, thực hiện cuộc chính biến, xông vào hậu cung, bắt giết hai anh em Trương Xương Tông – những kẻ đang được Võ hậu vô cùng sủng ái – rồi buộc Võ hậu phải hạ chiếu nhường ngôi lại cho thái tử Lý Hiển.
Lý Hiển lên ngôi một lần nữa, sử gọi là Đường Trung Tông, Võ hậu lui xuống làm thái thượng hoàng rồi qua đời vào tháng 11 năm đó.
Khi lâm chung, Võ hậu yêu cầu Lý Hiển dùng thụy hiệu cho bà là hoàng hậu chứ không phải hoàng đế, do vậy bà không có miếu hiệu như những vị hoàng đế khác. Võ hậu cũng yêu cầu chôn mình ở Càn Lăng cùng với chồng mình là Đường Cao Tông Lý Trị, đồng thời dựng trên mộ bà một tấm bia trống (gọi là Vô tự bia) với ý rằng, công tội của bà sẽ do đời sau phán xét.
Cho tới nay, người ta vẫn chưa thể lý giải vì sao một người phụ nữ đầy tham vọng như Võ Tắc Thiên – người đã dám phá bỏ cả một vương triều lừng lẫy, tự lập nên vương triều của dòng họ mình – đến phút cuối cùng lại quay về thân phận một người vợ, yêu cầu hợp táng cùng chồng là Cao Tông.
Tuy nhiên, các nhà phong thủy thì tin rằng, một trong những nguyên nhân khiến Võ Tắc Thiên lựa chọn Càn Lăng làm nơi chôn cất của mình chính là vì địa thế phong thủy cực kỳ đắc địa của khu lăng mộ này. Càn Lăng được xây dựng trên đỉnh núi Lương Sơn, nằm cách huyện thành Thiên Càn 6km về phía Bắc.
Nơi đây cách Tây An – kinh đô thời Đường – khoảng 160 dặm, tạo thành thế hô ứng với các dãy núi Cửu Tông, Kim Túc, Ta Nga, Nghiêu Sơn… Khác với vị trí Chiêu Lăng do chính Lý Thế Dân – ông vua nổi tiếng triều Đường – tự lựa chọn, người ta nói rằng, vị trí của Càn Lăng được lựa chọn một cách cực kỳ chuyên nghiệp.
Người lựa chọn vị trí xây dựng Càn Lăng chính là thái sử lệnh Lý Thuần Phong – vị quan chịu trách nhiệm về âm dương và thiên văn của triều đại nhà Đường.
Thời nhà Đường, nhân tài rất nhiều, trong xã hội hay chốn cung đình đều không thiếu vắng những người tài năng. Lý Thuần Phong là một trong những nhân tài loại đó. Sử chép, họ Lý là một trong những nhà thiên văn và số học cổ đại có tiếng của Hồng Kông.
Ông ta cũng là người để lại không ít những tác phẩm mà ngày nay giới nghiên cứu phong thủy và thiên văn cổ đại Hồng Kông coi là sách giáo khoa gối đầu giường.
Cùng thời với Lý Thuần Phong lúc bấy giờ còn có một người khác tài danh không kém, gọi là Viên Thiên Canh. Giống như họ Lý, họ Viên là một tay cao thủ về việc âm dương bói toán.
Viên chính là người đã giúp Lý Thế Dân lựa chọn vị trí xây dựng Chiêu Lăng. Người đương thời tin rằng Viên là một “thần nhân”, bởi lẽ gần như không có việc gì Viên dự đoán mà xảy ra sai lệch.
Nói theo lối hiện đại, vào thời bấy giờ, Lý Thuần Phong và Viên Thiên Canh được coi là những đại trí thức, những nhân vật quyền uy bậc nhất về học thuật trong triều Đường.
Lý Trị vốn là con trai thứ 9 của Lý Thế Dân, do Hoàng hậu Trưởng Tôn sinh ra. Năm 649, khi Lý Thừa Càn bị phế, Lý Trị lên ngôi, trở thành Đường Cao Tông Hoàng đế. Sau khi lên ngôi không lâu, theo thông lệ cũ của nhà Đường, Lý Trị phái Lý Thuần Phong và Viên Thiên Canh thay mình đi tìm một nơi đất tốt để xây dựng mộ phần.
Theo những gì sử sách còn ghi lại thì họ Viên và họ Lý đã đi tới không ít nơi song vẫn chưa tìm được vị trí ưng ý. Mãi tới một hôm, sau khi Viên Thiên Canh tới Quan Trung, quan sát thiên tượng vào giờ Tý, mới phát hiện trên dãy núi xuất hiện một luồng khí màu tím xông thẳng lên sao Bắc Đẩu.
Khí màu tím xuất hiện trong quan niệm phong thủy chính là điềm lành. Lần theo luồng khí màu tím này, Viên Thiên Canh đã tìm được vị trí xây dựng Càn Lăng ngày nay. Lúc bấy giờ, để đánh dấu, Viên Thiên Canh đã chôn xuống dưới đất một đồng tiền bằng đồng.
Một điều trùng hợp là sau đó, Lý Thuần Phong cũng tìm tới nơi đây. Tuy nhiên, khác với Viên Thiên Canh, họ Lý lựa chọn Lương Sơn do những phân tích kỹ càng về địa thế phong thủy của ngọn núi này.
Sau khi nghiên cứu địa thế ngọn Lương Sơn, Lý Thuần Phong phát hiện ra rằng, hai đỉnh phía Đông và Tây của Lương Sơn nằm ở thế đối diện nhau, vì vậy nếu nhìn từ xa thì ngọn Lương Sơn trông giống như cặp vú của người phụ nữ.
Nếu nhìn rộng hơn nữa thì toàn bộ khu vực Lương Sơn giống như một người phụ nữ quý tộc đang say giấc nồng. Sau khi dùng các mảnh đá sắp xếp thành sơ đồ bát quái để tính toán, Lý Thuần Phong cũng xác định vị trí đặt lăng mộ ngay đúng chỗ mà Viên Thiên Canh đã lựa chọn.
Sau khi nhận được tin báo của họ Lý và họ Viên, Lý Trị lập tức cử người cậu của mình là Trưởng Tôn Vô Kỵ tới xem xét một lần nữa rồi mới đưa ra quyết định. Sử chép, khi tới nơi, Trưởng Tôn Vô Kỵ không khỏi kinh ngạc khi đầu của cây cọc sắt mà Lý Thuần Phong đóng xuống đất để đánh dấu chọc đúng vào ô vuông bên trong có đồng tiền mà Viên Thiên Canh đã chôn.
2. Do Lương Sơn – nơi xây dựng Càn Lăng – có địa thế rất giống với bộ ngực của người phụ nữ nên người dân địa phương nơi đây còn gọi núi Lương Sơn là Nãi Đầu Sơn. Ngọn núi này nhìn gần thì rất kỳ vĩ nhưng nhìn xa lại rất thấp. Viên Thiên Canh cho rằng, nơi đây âm khí nặng hơn, vì vậy nếu như không tính toán cẩn thận thì long mạch nhà họ Lý sẽ bị một người phụ nữ làm cho tổn hại.
Lý do mà Viên Thiên Canh đưa ra dường như rất hợp lý. Ngọn Lương Sơn nằm ở phía Tây của núi Cửu Tông, trong khi đó, long mạch của nhà Đường thì nằm ở phía Đông Cửu Tông. Vì vậy, Viên cho rằng, Chiêu Lăng – nơi chôn cất Lý Thế Dân – chính là phần đầu của long mạch triều Đường. Theo quan niệm truyền thống về phong thủy thì vị trí xây dựng lăng mộ cho Lý Trị phải nằm dưới phần đầu rồng này.
Như vậy, vị trí mộ lý tưởng nhất phải thuộc các dãy núi Kim Túc, Ta Nga, Nghiêu Sơn… Tuy nhiên, nay lại có một người phụ nữ ngồi ở trên đầu của những người đàn ông dòng họ Lý.
Xét về địa thế thì cả hai mặt Lương Sơn đều có nước vây quanh, là nơi tàng phong tụ khí, đích thực là một vị trí đắc địa về phong thủy. Các nhà phong thủy đương thời đều thừa nhận điều này. Người ta nói rằng, dãy Lương Sơn vốn là phần dư âm của long mạch từ thời Chu, vì vậy những người dân bình thường chọn đất này làm nơi mai táng thì có thể đảm bảo ba đời giàu sang, phú quý.
Tuy nhiên, đối với triều đại nhà Đường, ba đời e là quá ngắn ngủi. Hơn nữa, đại thế phong thủy của Lương Sơn lại không hô ứng với phong thủy của Chiêu Lăng vốn đã được Lý Thế Dân lựa chọn. Sự không hô ứng này khiến vương khí bị đứt đoạn, e là chỉ sau ba đời sẽ bị cản trở.
Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Thuần Phong đều nói đây là mảnh đất tốt, ngàn năm có một, trong khi đó Viên Thiên Canh thì lại kiên quyết khẳng định rằng nơi này không thích hợp. Đứng trước hai ý kiến hoàn toàn trái ngược, Lý Trị lúc bấy giờ cũng không biết quyết định ra sao. Khi đó, Võ Tắc Thiên mới là Chiêu nghi, nghe được chuyện này mừng lắm. Viên Thiên Canh từng dự đoán rằng, triều đại nhà Đường sẽ bị một người phụ nữ họ Võ xâm phạm.
Lý Thế Dân cũng vì lý do này mà giết không ít người họ Võ. Hơn nữa, khi trước, họ Viên khi xem tướng mạo của Võ Tắc Thiên đã nói rằng: “Nếu như không phải là nữ giới thì nhất định sẽ là chủ thiên hạ”. Như vậy, địa thế phong thủy của Lương Sơn chẳng phải là ứng với những gì Viên Thiên Canh đã dự đoán hay sao? Nghĩ vậy, Võ Tắc Thiên đã tìm mọi cách khuyên Lý Trị không nên do dự, nghe theo lời của cậu là Trưởng Tôn Vô Kỵ.
Lý Trị vốn là người nhu nhược nên chẳng mấy chốc đã bị Võ Tắc Thiên thuyết phục, việc lựa chọn vị trí xây dựng Càn Lăng được quyết định. Người ta nói rằng, Viên Thiên Canh sau khi biết chuyện đã thở dài mà than rằng: “Người thay nhà Đường không ai khác chính là Võ Chiêu nghi”. Lời nói của Viên sau này quả nhiên ứng nghiệm.
Mặc dù không nghe theo lời của Viên Thiên Canh, tuy nhiên những ý kiến của một bậc đại sư như Viên cũng khiến Trưởng Tôn Vô Kỵ và Lý Trị cảm thấy lo lắng. Vì vậy, sau khi lăng mộ được xây xong, Lý Trị muốn tìm một cái tên thật cẩn thận để lấy lại cân bằng với những khuyết điểm trong địa thế phong thủy của lăng mộ.
Lúc bấy giờ, có vị đại thần kiến nghị đặt tên lăng là “Thừa Lăng”, lấy ý kế thừa long mạch của Chiêu Lăng. Tuy nhiên, Trưởng Tôn Vô Kỵ lại căn cứ theo vị trí của Lương Sơn là nằm về phía Tây Bắc, theo Dịch lý thì nó thuộc cung Càn, vì vậy kiến nghị đặt tên là Càn Lăng.
Viên Thiên Canh chẳng nói là Lương Sơn âm khí quá nặng hay sao? Như vậy, đặt tên là Càn Lăng càng hợp lý vì Càn chính là thuộc dương, ở trên, Khôn ở dưới, thuộc âm, cả hai kết hợp lại là “Âm dương tương hợp định càn khôn”. Lý Trị nghe Trưởng Tôn Vô Kỵ giải thích vô cùng xuôi tai, vì vậy quyết định đặt tên lăng là Càn Lăng.
Tuy nhiên, việc đặt một cái tên đầy dương khí cho lăng mộ cũng không giúp Lý Trị và triều đại nhà Đường thoát khỏi lời nguyền. Đúng như dự đoán, sau khi Lý Trị qua đời, Võ Tắc Thiên bắt đầu từng bước thâu tóm quyền lực trong triều đình.
Tới tháng 9 năm 690, Võ Tắc Thiên chính thức lên ngôi hoàng đế, trở thành Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Hồng Kông.
Các nhà phong thủy cho rằng, chính địa thế phong thủy của Càn Lăng đã giúp Võ Tắc Thiên làm nên sự nghiệp lẫy lừng như vậy và chính vì thế nên đến cuối đời, Võ Tắc Thiên đã quyết định được chôn cất tại Càn Lăng chứ không phải vì muốn hợp táng với Đường Cao Tông Lý Trị.
Có rất nhiều bí ấn xung quanh mộ của Võ Tắc Thiên, như những bức tượng không đầu; việc NASA nhìn thấy khu lăng mộ họ Võ từ vũ trụ; bia mộ không khắc chữ cùng với những bí ẩn về vật liệu xây dưng.
Việc lăng mộ được nhìn thấy từ không gian là điều khiến cả thế giới kinh ngạc: ngày 26/7/1971, trên con tàu Apolo nhìn xuống trái đất, nhà du hành vũ trụ Mỹ – Ednin đã nhìn thấy Kim tự tháp châu Phi, Trường thành Hồng Kông và đột nhiên ông phát hiện tại Hồng Kông, ở 107.38 độ kinh đông và 34 độ vĩ bắc, có 9 đốm đen nhỏ dàn hàng ngang theo hình chữ nhất (-) đốm đen cuối cùng ở phía tây là rõ nhất, đây chính là Càn Lăng.
Bọn trộm mộ thường nhòm ngó đào bới của cải của những lăng mộ; những triều đại mới nổi lên, muốn trả thù triệt “long mạch” của triều đại cũ; các nhà khảo cổ khai quật để nghiên cứu… Thế nhưng lăng mộ của nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên thì người ta đào không nổi.
Khi qua đời, thế hệ sau của Võ Tắc Thiên có rất nhiều nữ nhi làm khuynh đảo các triều đại, mang trong mình ý muốn làm hoàng đế như Thái Bình công chúa con gái bà, Thượng Quan Uyển Nhi, và người đàn bà đã khép lại trang sử của chế độ phong kiến Hồng Kông là Từ Hy Thái Hậu. Nhiều người cho rằng khi được chôn tại Càn Lăng, vị hoàng hậu họ Võ này vẫn tiếp tục thao túng và điều hành đất nước theo cách nào đó.
Gần đây phong trào xem Tử Vi lan rộng. Sách Tử Vi xuất bản nhiều, và số người nghiên cứu Tử Vi cũng gia tăng. Nhiều người thích thú, vì nhờ vào sách Việt ngữ có thể thành lập một lá số Tử Vi, có thể đoán được đôi điều này, chút việc nọ. Từ chỗ thích thú như vậy, người nghiên cứu có thể ngộ nhận rằng Tử Vi là một môn toán học thuần túy, chỉ cần áp dụng đầy đủ các công thức bí truyền là có thể quyết đoán tất cả những tiểu tiết trong đời người. ý nghĩ đó đưa đến việc cố gắng tìm tòi các sách Tử Vi cổ truyền, sưu tầm các công thức Tử Vi. Người nghiên cứu chỉ đi tìm các công thức Tử Vi, cho rằng cứ đủ công thức là khám phá hết bí mật trong đời người.
Những gì thâm thúy của Tử Vi đều bị gạt sang một bên.
Như Tử Vi Đẩu Số, Đẩu Số là cái gì? Như Mệnh Viên thì Viên là cái gì? Cuộc sống này vội vã quá, quá nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết. Ai hơi sức đâu mà tìm hiểu những chuyện xa vời. Cứ cho rằng Tử Vi Đẩu Số là Số Tử Vi, cứ cho rằng Mệnh Viên là các cung Mạng cho tiện.
Mã đầu đới kiếm là cái gì? Nhật xuất Phù Tang thì Phù Tang là cái gì? Hữu Bật khác Tả Phụ ra sao? Văn Khúc khác Văn Xương thế nào? Thai Phụ nghĩa là gì? Tam Thai nói về ngôi Tam Công (Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo) vậy thì còn Bát Tọa là cái gì?
Cuộc sống này vội vã quá. Người nghiên cứu chỉ muốn biết ngay bộ Phụ Cáo chủ về cái gì, Thai Tọa chủ về việc gì, Phụ Bật chủ về những gì. Thế thôi. Cứ nói rằng Nhật xuất Phù Tang là quý cách, thế là đủ rồi, quý ra sao, quý thế nào, không thắc mắc cho lắm.
Người nghiên cứu có thể nóng lòng muốn áp dụng ngay công thức Tử Vi để biết được rằng đường tài lộc năm nay ra sao. Nhu cầu kinh tế, tài chánh còn thúc bách bằng trăm lần cái việc đi tìm hình ảnh của một "Mã đầu Đới Kiếm".
Cứ cái đà nghiên cứu vội vã, giản lược, trong một số công thức thì chẳng bao lâu Tử Vi chỉ còn là một mớ những bài toán cộng, trừ, khô khan, không còn thâm thúy. Và đến chừng ấy thì Tử Vi không còn là Tử Vi Đẩu Số theo đúng nghĩa cao siêu của khoa ấy.
Trước những băn khoăn về tương lai, nhiều người chỉ muốn biết ngay đáp số cho cuộc đời mình, cho đỡ khắc khoải, thắc mắc. Một số người đã vội vã coi Tử Vi như một môn toán học giản dị.
Trước khi xét định chân giá trị của Tử Vi, chúng ta cũng nên biết qua rằng có bao nhiêu lá số Tử Vi.
Nếu chỉ lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh. Từ Giáp Tý đến Quý Hợi thì chúng ta thì chúng ta chỉ có thể lập được sáu mươi (60) lá số.
Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm sinh và tháng sinh thì chúng ta sẽ lập được 60x12 = 720 lá số
Những năm nhuận tuy là có 13 tháng, nhưng, tính theo Tử Vi thì cũng chỉ có 12 tháng.
Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, tháng và ngày sinh thì chúng ta sẽ lập được 60x12x30 = 21 600 lá số
Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, tháng, ngày và giờ sinh thì chúng ta sẽ lập được 60x12x30x12 = 259 200 lá số
Nếu lập Tử Vi căn cứ vào năm, tháng, ngày, giờ sinh và yếu tố Dương Nam, âm Nam, Dương Nữ, âm Nữ thì chúng ta sẽ lập được 259 200 x2 = 518 400 lá số
Lá số của người sinh trên núi, trên song, nhà mở cửa hướng Bắc hay vào đầu giờ hay cuối giờ… đều không có thêm một vị sao nào khác. Do đó không thể nào lập hơn được 518 400 lá số Tử Vi.
Đến đây, chúng ta thấy rằng có rất nhiều người có lá số giống nhau. Nếu nói rằng ít người có lá số thượng cách, thì số người có lá số trung cách lại nhiều hơn.
Thí dụ như miền Nam chúng ta có 17 triệu người, thì vào khoảng (17 000 000: 518 400 xấp xỉ 32) người có lá số giống nhau. Đó là tính trung bình. Nếu ít người có lá số thượng cách thì càng nhiều người có lá số giống nhau.
Cứ hết một vòng hoa giáp 60 năm là lại có những ngày giờ sinh giống y như trước. Quả đất không ngừng quay, nhân loại không ngừng sinh sản vào những ngày giờ sinh của Khổng Minh, Trương Lương, Hàn Tính, Lã Hậu, Điêu Thuyền…
Từ xưa đến nay, cũng như hiện nay có rất nhiều người có ngày giờ sinh giống nhau.
Vậy thì Tử Vi nói lên những gì về số phận con người? Công dụng đích thực của Tử Vi ra sao?
Tử Vi nói về cái phần "phẩm" cái tính cách của vận số của mỗi người.
Thí dụ như "Tử Lộc đồng cung Phụ Bật chiếu, quý bất khả ngôn". "Quý bất khả ngôn" cao sang hết chỗ nói, cao sang khó tả, vậy thì làm đến chức gì, làm Thủ Tướng hay làm vua? Tử Vi không qui định phần lượng. Còn tùy các ảnh hưởng tương quan như âm phúc, địa lý, dòng dõi. Cái cao sang đây là nói tương đối, so với cái gia tộc của đương số. Nếu dòng dõi của đương số đã nhiều đời quá thấp kém, thì đến đời của đương số sẽ có những bước tiến vượt bậc so với trong dòng dõi, chứ không nhất thiết rằng "quý bất khả ngôn" phải là bá chủ thiên hạ.
Tử Vi chỉ nói đến đại phú, tiểu phú hay trung phú chứ không nói người này giàu có một tỷ bạc, người kia có mười triệu.
Tử Vi chỉ nói số thuộc về quý cách, phú cuộc, văn võ, tạp cuộc… thượng, trung, hạ cách… chứ nào có nói đến cách luận nhạc sĩ nào đánh dương cầm, nhạc sĩ kia đánh trống hoặc thổi kèn. ít ra thì tại miền Nam chúng ta một lá số có thể áp dụng để đoán cho khoảng 32 người, như chúng tôi đã chứng minh với những con toán kể trên.
Chẳng qua vì ngộ nhận Tử Vi chỉ có giá trị toán học thuần túy mà một vài người đã đem khuynh hướng riêng nhân sinh quan riêng của mình vào trong Tử Vi. Trước lá số của một vài người mà mình đã biết về cuộc đời, nghề nghiệp, thì cố móc sao nào, nối sao nọ, để giải đoán tiểu tiết nghề nghiệp hoặc để giải thích "phần lượng" của lá số.
Một cung chính, ba cung chiếu vào là bốn cung, kéo thêm một cung nhị hạp nữa là năm cung. Năm cung trên tổng số 12 cung bao gồm gần một nửa trong số 108 vị sao của lá số. Làm gì chẳng gặp một vài sao có tính chất tương tự để giải thích cái "phần lượng" của lá số theo quan điểm của mình.
Vậy thì cổ nhân lập ra Tử Vi để làm gì?
Việc đoán phú, quý, bần, tiện, thọ, yểu, việc đoán văn cách, võ cách, tạp cuộc… thượng trung hạ cách chỉ là một khía cạnh của Tử Vi.
Chúng ta không nên trụ vào khía cạnh đó mà xa rời các công dụng cao quý của Tử Vi.
Tử Vi Đẩu Số, một công trình đúc kết bằng bao nhiêu ngàn năm kinh nghiệm, học thuật của cổ nhân nào phải nào phải chỉ nhằm mục đích giản dị để "coi bói" thỏa mãn tính hiếu kì về công danh, sự nghiệp, vận hạn. Trần Đoàn tuy là có công đúc kết, bổ túc, hệ thống hóa các khoa học xưa, lập ra Tử Vi Đẩu Số, nhưng phần lớn những yếu tố quan trọng trong Tử Vi là công trình của những người đi trước Trần Đoàn quá lâu.
Những Thiên Can Giáp, Ất, Bính, Đinh… những Địa Chi Tý Sửu Dần Mão… những âm Dương, Ngũ Hành, Bát Quái, những thần sát như Thanh Long, Bạch Hổ, Mã, Lộc, Kình, Đà… đã có hàng ngàn năm trước Trần Đoàn. Cả một học thuật hàng ngàn năm đúc kết lại, chỉ nhằm một mục đích toán học giản dị để đoán xem vị bác sĩ này chữa răng, vị bác sĩ kia chữa bịnh bao tử hay sao?
Người xưa tìm ra những lý thuyết về âm Dương, Ngũ Hành, Bát Quái tìm biết ảnh hưởng của những thiên thể trong vũ trụ đối với con người, cốt để tìm cách tổ chức đời sống cá nhân, xã hội sao cho thuận thiên lý, thêm phần êm đẹp, nhẹ phần gay go.
Tử Vi Đẩu Số cũng không đi ra ngoài cái mục đích tìm hiểu để tu thân, xử thế cùa người xưa.
Đoán vận số trong đời người chỉ là một khía cạnh của Tử Vi. Đoán vận số rồi còn liệu đường hành động cương nhu, tiến thoái theo một số nguyên lý, hoặc là liệu đường kết hợp, xa cách, ngăn ngừa…
Thí dụ trong việc hôn nhân. Đoán Tử Vi không phải là chờ thời có người đến kết hợp với mình, mà chính là để xem có những năm nào nên lập gia đình.
Có một bạn trẻ, đem đến cho tôi xem một lá số Tử Vi, trong ấy ông thầy đoán là anh ta lập gia đình năm 25 tuổi, mà thật ra anh ta lập gia đình năm 27 tuổi, anh ta nghĩ rằng thầy Tử Vi đoán sai. Tôi giải thích rằng không hẳn là thầy đoán sai. Tử Vi nhằm mục đích xem những năm nào lập gia đình thì có lợi nhiều, chứ có ông sao nào trên trời sa xuống bắt ta phải đi lấy vợ đâu.
Cùng tuổi Bính Tuất, thế hệ này lập gia đình năm 27 tuổi là vừa phải. Các thế hệ trước, cùng tuổi Bính Tuất, cũng năm, tháng, ngày, giờ sinh ấy, người ta có thể lập gia đình năm 14, 15 tuổi. lại còn có trường hợp các bậc trưởng thượng ngày xưa xem số mà lập gia đình cho con cháu lúc được 12, 13 tuổi. Ấy là luận hình tính các sao tốt trong từng niên vận mà dựng vợ, gả chồng cho có lợi về sau. Chứ trong lúc còn bé thì có ai đợi xem các cách như là:
* Tướng ngộ Cái Đào Mộc Khúc, thuần tước dâm phong. Hạn ngộ Cơ Diêu vô phu nan tự khởi cô miên (không chồng thì khó dỗ giấc ngủ một mình).
Hoặc là:
* Âm tàng Hồng, Nhận, Kỵ, Diêu, tân liên hàm tiếu. Hạn phùng Xương Vũ, dâm tứ, xuân tình liên xuất phát (***)
Hãy còn bé quá làm gì có chuyện ấy được. Chẳng qua là xem cái phần lý số để liệu đường kết hợp, tiến thoái, cương nhu, vậy thôi!
Tử Vi không đóng khung mọi chi tiết sinh hoạt trong một mớ công thức toán học. Tử Vi chỉ nói lên cả vận số tương đối của mỗi người. Vì thế mà mới cần xem Tử Vi để liệu đường hành xử.
Tuy nhiên cái vận số tương đối của mỗi người còn bị chi phối bởi nhiều ảnh hưởng tương quan, mà người nghiên cứu không nên hấp tấp võ đoán. Thí dụ như hiện nay một vị Quốc Trưởng tại một tiểu quốc có thể thừa phương tiện xuất ngoại đi Mỹ nhưng không thể xuất ngoại du ngoạn Bắc Kinh như Tổng Thống Nixon được cho dù trong cung Mệnh, Thiên Di, Đại Hạn, Tiểu Hạn, có nhiều sao tốt đến đâu cũng không đi được. Vì cơ trời vận nước chưa thuận tiện.
Cái phần Lý Học của Tử Vi không phải chỉ giúp chúng ta thỏa mãn tính hiếu kỳ muốn biết một số bộ phận bị đóng khung từng tiểu tiết. Thí dụ như trong hôn nhân mà gặp cách "Nghi cầu trưởng nữ" thì chỉ có nghĩa là nên kết hợp với người trưởng nữ thì có lợi hơn. Chứ nào có nói rằng, trước sau tính toán thế nào cũng phải lấy người trưởng nữ.
Những tính cách "bất nghi viễn hành" chưa nhất quyết là không đi xa được, mà còn tùy vào ý nghĩa của các vị sao khác mà có thể là vẫn đi được nhưng không có lợi lộc gì, ở nhà thì đỡ mệt thân tâm, an nhàn, thảnh thơi hơn.
Vì vậy mà việc tìm hiểu ý nghĩa tên các vị sao, ý nghĩa các điển tích trong Tử Vi cũng rất quan trọng giúp cho người nghiên cứu có một cách nhìn thâm thúy về khía cạnh lý học, mục đích cao quý của Tử Vi, để liệu đường cân nhắc hành động, xuất xử ra sao.
Tuổi Ngọ khôn khéo và đáng yêu dễ dàng nhận được sự yêu quý, thiện cảm của mọi người xung quanh, đặc biệt là những người khác giới. Tháng này là thời điểm tuổi Ngọ sẽ nhận được sự quan tâm của rất nhiều “vệ tinh” xung quanh.
Trong tháng 9 này 3 con giáp may mắn nhất về tình yêu đã lộ diện
Top 1: Tuổi Ngọ
Tuổi Ngọ khôn khéo và đáng yêu dễ dàng nhận được sự yêu quý, thiện cảm của mọi người xung quanh, đặc biệt là những người khác giới. Tháng này là thời điểm tuổi Ngọ sẽ nhận được sự quan tâm của rất nhiều “vệ tinh” xung quanh. Rất có thể bạn và người bạn thầm thương trộm nhớ sẽ đạt được bước tiến lớn về tình cảm trong thời gian này. Nhiều khả năng tuổi Ngọ sẽ có tin báo hỷ trong thời gian này đấy. Bạn đừng do dự mà hãy tự tin và mạnh dạn để giành lấy hạnh phúc cho bản thân mình nhé!
Top 2: Tuổi Mùi
Nhiệt tình và sâu sắc, tận tâm và khiêm nhường chính là những đức tính khiến tuổi Mùi trở nên nổi trội và nhận được rất nhiều sự quan tâm của mọi người. Những cơ hội làm quen, gặp gỡ hay giao lưu luôn rộng mở trước mắt bạn. Rất có thể bạn sẽ tìm được ý trung nhân trong số những người bạn mới. Sự cư xử khéo léo và không kém phần cuốn hút chính là bí kíp vàng để trở thành ngôi sao đào hoa trong tháng 9 dành cho những người tuổi Mùi. Bạn sẽ nhận ra sự quan tâm ấm áp và ngọt ngào hơn bao giờ hết của “ai đó”, đừng bỏ lỡ người thực lòng yêu thương bạn để rồi phải hối tiếc nhé!
Top 3: Tuổi Thìn
Tháng 9 hứa hẹn là khoảng thời gian vô cùng ngọt ngào và hạnh phúc đối với những người cầm tinh con Rồng. Dư vị ngọt ngào của tình yêu luôn vây quanh khiến bạn ngây ngất. Sự tinh tế, quyến rũ trong cách cư xử của tuổi Thìn khiến mọi người không thể rời mắt và ngừng quan tâm đến họ. Với những người đã có đôi thì đây là thời gian vàng để hai người tận hưởng những giây phút lãng mạn, đắm say bên nhau. Còn với những bạn độc thân, đây cũng là thời điểm để sẵn sàng “thoát ế” với đầy ắp những cơ hội mở rộng mối quan hệ. Người ấy đã chờ bạn lâu lắm rồi, đừng trì hoãn thời gian thêm nữa nhé!
Người tuổi Thìn mệnh Mộc là những người sinh năm Mậu Thìn 1928, 1988...
Đây là người có chí tiến thủ mạnh mẽ, luôn tin vào khả năng của bản thân và sẽ cố gắng thể hiện hết mình nếu có cơ hội. Họ không phải là mẫu người bảo thủ. Vì thế, họ sẽ thừa nhận nếu làm sai việc nào đó. Tuy nhiên, họ cũng luôn đặt ra yêu cầu rất cao đối với những người khác.
Người tuổi Thìn mệnh Mộc sống hướng ngoại, có năng lực suy luận, óc sáng tạo và khá hiếu động. Họ thường được đánh giá cao bởi những suy nghĩ độc đáo, mới lạ. Tinh thần hợp tác trong công việc cũng giúp họ gây được thiện cảm với đồng nghiệp. Song, họ có nhược điểm là không biết cách tự kiềm chế và thường làm việc nửa chừng, dễ thay dao động, thay đổi.
Đa số người tuổi Thìn mệnh Mộc ham học, có ý chí, có vốn tri thức sâu rộng, biết kính trên nhường dưới và thường lên kế hoạch chu đáo cho mọi việc.
Nếu được sao tốt tương trợ, họ có thể đảm nhận tốt công việc giám sát, quản lý, tài chính, luật sư… Họ sẽ dễ dàng có được cả danh và lợi, phú quý, hiển đạt.
Nếu không được sao tốt tương trợ trong cung mệnh, người này sẽ không chuyên chú vào sự nghiệp học hành, thiếu ý chí vươn lên, cuộc sống gặp nhiều khó khăn, không ổn định. Tuy bề ngoài họ vẫn vui cười nhưng bên trong lại bất bối rối. Khi đó, họ cũng trở nên hiếu thắng và hay tranh cãi với mọi người hơn, gây nên nhiều rắc rối cho bản thân.
Họ thích cuộc sống tự do tự tại, không thích trói buộc, 10 người thì đến 8, 9 người không có bất động sản, thường xuyên chuyển nhà, nơi ở không cố định.
2. Nốt ruồi dưới mí mắt
Trong tình cảm, họ gặp nhiều sóng gió, khi yêu dễ xuất hiện kẻ thứ 3, dễ bị người yêu phản bội. Sau khi kết hôn, vì bất đồng trong dạy dỗ con cái nên giữa họ và đối phương có nhiều xa cách, ảnh hưởng đến tình cảm, nghiêm trọng hơn là dẫn đến ly hôn.
3. Nốt ruồi ở đuôi mắt
Đuôi mắt có nốt ruồi được xem là nốt ruồi đào hoa, nhân duyên tốt, nhưng chuyện tình cảm không mấy thuận lợi. Khi mới quen, tình cảm khá suôn sẻ nhưng mối quan hệ khó kéo dài, hôn nhân thường gặp nhiều trở ngại. Nếu nốt ruồi đen và sáng bóng, giữ mối quan hệ tốt với người khác giới sẽ thành công trong sự nghiệp.
4. Nốt ruồi bên cánh mũi
Họ khá phù phiếm, con trai thì đào hoa, con gái dễ dây dưa với nhiều chàng. Họ không đặt tâm trí vào công việc nên sự nghiệp không phát triển, tài vận bấp bênh, tiêu tiền phung phí.
5. Nốt ruồi ở chóp mũi
Cuộc đời của họ có thể sẽ kết hôn nhiều lần, mối quan hệ với người khác giới khá phức tạp, nhiều ham muốn, háo sắc. Nếu số mệnh trường thọ, họ có thể cô độc đến già, tài vận không thuận lợi, tiền tích lũy do nhiều nguyên nhân mà tiêu sạch, cuộc sống khó khăn.
6. Nốt ruồi ở dưới miệng
Cuộc đời của họ trôi dạt vô định, dù có tiền cũng không hợp mua bất động sản. Nếu là nốt ruồi tốt, cuộc sống sẽ trôi qua dễ chịu, thoải mái. Nếu nốt ruồi nằm ở vị trí trung tâm, họ dễ nghiện rượu, ý chí không kiên định, sự nghiệp khó có thành tựu.
7. Nốt ruồi ở cằm
Họ có cuộc sống không yên ổn, thường thay đổi công việc hoặc chuyển nhà. Bước qua độ tuổi trung niên, họ gặp nhiều trắc trở, lo lắng chuyện con cái. Ngược lại, nếu là nốt ruồi tốt, may mắn sẽ càng nhiều và tăng theo độ tuổi, cuộc sống của họ cũng trở nên thoải mái.
Khoa học Phong thủy được hình thành và xây dựng trên cơ sở triết lý văn hóa Đông phương với căn bản lý luận là Âm Dương và Ngũ hành. Do vậy việc vận dụng Ngũ hành trong xem xét hình thế nhà đất xưa nay luôn được coi trọng, nhất là khi xem xét thế đất và hình dáng nhà cửa.
Nguyên lý Ngũ hành sinh khắc và khả năng ứng dụng Nguyên lý Ngũ Hành Sinh Khắc xác định vạn vật trong vũ trụ được cấu tạo – phân tích – tổng hợp từ 5 yếu tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thực ra, bản chất của Hành là sự vận động, tương tác và biến chuyển. Do vậy, những vật chất cụ thể như nước, lửa, đất, cây cối… chỉ là ký hiệu bề nổi để người sử dụng dễ nhận diện, dễ nhớ mà thôi.
Quan hệ Sinh-Khắc của Ngũ hành có tính tương đối. Ví dụ Thủy sinh Mộc tức là nước giúp cho cây tươi tốt. Cây hút chất màu của đất nên Mộc khắc Thổ. Quặng kim loại khai thác từ lòng đất (Thổ sinh Kim)… Các hành trong Ngũ hành là những khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng và được tổng hợp từ mối các quan hệ vật chất trong thiên nhiên. Ngũ hành được ứng dụng khá nhiều trong Phong Thủy khi chọn hình thế nhà đất, phương hướng, sử dụng vật liệu, màu sắc sao cho Ttương sinh hòa hợp.
Theo Ngũ hành, thế đất được phân thành các hình như sau: ngoằn ngoèo (Thủy), hình dài (Mộc), hình nhọn (Hỏa), hình tròn (Kim) và hình vuông (Thổ). Mỗi thế đất tương ứng với mỗi hành đều tương sinh và tương khắc với các hành khác. Từ đó, có thể phối hợp – chỉnh sửa sao cho phù hợp. Ví dụ: khi ta gặp một khu đất vuông vức bằng phẳng có nhiều nhà mái bằng chung quanh, tức là địa điểm mang tính chất Hành Thổ, thì nên xây cất thế nào cho phù hợp Ngũ hành? Các khả năng sau đây sẽ xảy ra:
- Nếu kiến trúc làm có dạng Mộc (cao ốc vươn lên), thì do Mộc khắc Thổ, cao ốc này sẽ ảnh hường xấu đến chung quanh như lún nền , che khuất nắng gió, ồn ào… Do đó, cao ốc thường được quy hoạch thành khu riêng, không nên xen cấy giữa các nhà thấp.
- Làm theo dạng Hỏa, hình chóp nhọn, do Hỏa sinh Thổ nên khu lân cận được lợi. Khu đất này phù hợp để xây trường học, công trình công ích, biệt thự có mái ngói đỏ. - Làm theo dạng Thổ, hình nhà vuông vức, tức là Song Thổ Đồng Cung, ngôi nhà này hòa nhập với môi trường Thổ chung quanh. - Làm theo hành Kim, nhà sẽ có hồ nước tròn, bồn cây tròn, hoặc mái vòm, cửa tròn… Do hành Kim tượng trưng cho tiền bạc, nên các trung tâm tài chính, ngân hàng hay xây theo dạng có mái hoặc cổng có dạng vòm (thuộc Kim). - Làm dạng Hành Thủy, hình ngoằn ngoèo, uốn khúc với đất hành Thổ là bất lợi, vì Thổ khắc Thủy, các góc cong khó sử dụng, ít khi dùng cho nhà ở. Thường hành Thủy phù hợp với dạng khu vui chơi giải trí như nhà hát Opera Sidney là một công trình đặc trưng hành Thủy.
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên Đồng là dương Thủy, ngôi sao thứ tư trong chòm sao Nam Đẩu, có khả năng kéo dài tuồi thọ, giải ách chế hóa, là phúc tinh.
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên Đồng là dương Thủy, ngôi sao thứ tư trong chòm sao Nam Đẩu, có khả năng kéo dài tuồi thọ, giải ách chế hóa, là phúc tinh.
► ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác
Sao Thiên Đồng nếu miếu vượng thì không sợ kiếp sát xâm hại, không sợ nằm cùng cung với các hung tinh, nằm ở 12 cung đều chủ về phúc thọ (tuổi trẻ là phúc, tuổi già là thọ, tuy nhiên phúc nhiều thì thọ ít, phúc ít thì thọ nhiều). Sao Thiên Đồng có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sinh mệnh, là sao hưởng phúc, chủ về một đời bình yên, coi trọng hưởng thụ vật chất. Mệnh nam gặp sao này sẽ thiếu ý chí, thiếu quyết tâm, nói nhiều làm ít, không có nỗ lực phấn đầu vươn lên, không có quyết tâm sáng tạo đổi mới, bởi vậy sao này hợp với nữ, không hợp với nam. Sao Thiên Đồng chủ về hài hòa, dễ tính, có phúc nhưng đến trung niên hoặc về già mới được hưởng, tuổi nhỏ và trẻ phải vất vả và nỗ lực. Thời trẻ khó có thể tự lập nghiệp, vận thế gặp trở ngại. Sao Thiên Đồng có phúc nên không cần phải nỗ lực cũng có thể hóa giải được hung hại của 6 sát tinh Kình, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp một cách tự nhiên. Hơn nữa, nhờ lực xung sát của các sát tinh lại có thể tăng cường được sức sáng tạo của sao Thiên Đồng nhưng lại dẫn đến cảm giác “có phúc không biết hưởng”. Sao Thiên Đồng Hóa lộc là tốt, chủ về hưởng thụ, có “khẩu phúc” (được ăn ngon) nhưng tính cách dễ lười biếng, uể oải. Sao Thiên Đồng Hóa quyền thì lại vất vả hơn, không được hưởng phúc. Đồng thời nếu gặp Khoa, Quyền thì không những không lười biếng mà còn là người lạc quan, tích cực tiến thủ. Sao Thiên Đồng Hóa kỵ, chủ về bận rộn, vất vả, kỵ nhất là hai sao Văn Xương, Văn Khúc, vì là sao giờ nên tính hung của chúng ập đến khá nhanh, kém hài hòa, gặp nhiều bất mãn, hoặc ít cân bằng chức năng cơ thể khiến cho những phúc đức của Thiên Đồng nhanh chóng tiêu biến. Sao Thiên Đồng gặp cát tinh sẽ tốt lành. Gặp Tả, Hữu, Xương, Khúc, Lương chủ về hiển quý. Hợp với người sinh năm Nhâm, Ất, miếu vượng mà đóng tại cung mệnh ở Tỵ, Hợi, không hợp với người sinh năm Canh. Đóng tại Thìn, Mão không tốt, đóng tại Dậu, Tuất chủ về oán hận, trường hợp này càng không nên rơi vào cung Mệnh, Thân. Gặp bốn sát tinh Dương, Đà, Hỏa, Linh đóng tại Tỵ, Hợi là hình hãm, dễ gặp tàn tật, cô độc. Sao Thái Âm và Thiên Đồng cùng đóng tại Mệnh, hoặc Điền Trạch tại Tý là cách “Nguyệt sinh thương hải” (trăng mọc trên biển) hay “Thủy trừng quế ngạc” (nước trong hiện cành quế), sẽ có chức quan cao quý. Nếu bốn sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương tập hợp tại ba cung Mệnh, Tài, Quan là cách “Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương”, có lợi cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, truyền thông đại chúng. Nếu Thiên Đồng cùng Thái Âm cùng tọa Mệnh tại Ngọ, lạc hãm lại gặp sát tinh là cách “Nguyệt Đồng ngộ sát” chủ về thân hình gầy gò hư nhược, thường hay gặp chuyện không như ý.
ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
Phòng bếp ở hướng Nam nếu trưng bày cây xanh sẽ có tác dụng cho việc tích luỹ, tiết kiệm. Bếp ở hướng Nam chịu hồng thái dương khí mạnh sẽ vô tình có khuynh hướng chi tiêu tiền bạc bừa bãi. Cây xanh có thể làm dịu thái dương khí, làm giám khuynh hướn
Bếp ở hướng Đông là đại cát. Nếu bếp ở các hướng khác có thể để hoa hồng trên bàn hoặc gần tủ lạnh sẽ có lợi cho sức khoẻ.
Bếp ở hướng Tây, bên cạnh cửa sổ có để hoa màu vàng, hoa thuỷ tiên và tam sắc tử la lan, không chỉ có tác dụng ngăn chặn được ác khí mà còn có thể mang lại tài vận.
Khi bếp ở hướng Bắc, có thể dùng hoa màu phấn hồng, màu da cam, sẽ làm tăng thêm sức sống trong phòng.
Hệ thống đèn chiếu sáng trong bếp phải đủ sáng, các đồ dùng trong bếp như tạp đè dép lê, đệm… nên dùng loại có mầu sắc dịu.
Dụng cụ nhà bếp phải được sắp đặt ngay ngắn
Bếp là bộ phận quan trọng của ngôi nhà, vì thế phải thường xuyên thu dọn và vệ sinh sạch sẽ gọn gàng. Nhìn từ góc độ phong thuỷ, dụng cụ làm bếp phải thường xuyên dược làm sạch, xếp dặt dúng chỗ, một số điểm cần lưu ý là:
(1) Nồi và xẻng xúc cơm
Xoong nồi và xẻng xúc cơm dùng xong không được để liền nhau. Đây là hai loại dụng cụ thường dùng xào nấu thức ăn, tiếng kêu khi chúng cọ sát vào nhau vốn dĩ đã gây ồn ào, nếu dùng xong không rửa sạch hoặc rửa rồi lại xếp chúng vào cùng nhau thì sẽ không may mắn, tốt nhất hãy để riêng chúng ra, xoong nồi nên treo lên.
(2) Dao và thớt
Khi dùng dao thái đồ ăn, mỗi nhát dao đều chạm vào thớt. Dao và thớt dùng xong nên để tách riêng ra, tuyệt đối không được để dao cắm lên thớt, nếu không vừa thiếu mỹ quan vừa không có lợi.
(3) Cối và chày
Phong thuỷ học cho rằng, cối không được để ngửa và đặt chày vào, như vậy có thể dễ gây tranh cãi, xung đột trong nhà chỉ vì một chuyên nhỏ. Phương pháp đúng là úp cối xuống, sau đó để chày lên trên.
Nói tóm lại, phong thuỷ học chú ý những đồ dùng có tính tượng trưng cho “một trống một mái” thì tốt nhất không được đặt với nhau, nếu không vợ chồng dễ nẩy sinh trục trặc.
Những dấu hiệu nguy hiểm từ việc bị nháy mắt liên tục
Bị nháy mắt liên tục là dấu hiệu của bệnh gì? Nó có nguy hiểm hay không? Bị giật mắt liên tục trong vòng nhiều giờ, hay nhiều phút trong ngày thì có nguy hiểm hay không?
Có nhiều căn bệnh liên quan tới mắt, trong đó hiện tượng nháy mắt, giật mắt là hiện tượng phổ biến mà ai cũng từng gặp phải. Nhưng nó có nguy hiểm hay không nếu như bị giật mắt liên tục thì nên chữa trị như thế nào?
Nháy mắt là gì?
Nháy mắt hay còn gọi là giật mắt là những cử động không có chủ ý, phạn xạ tự nhiên của con người, thường xảy ra ở hai bên mắt, do hiện tượng co thắt cơ ở dưới da mí mắt. Thông thường, hiện tượng giật mắt sẽ kéo theo vùng da dưới mắt, các cơ vòng mi phần trước sun và cung mày. Khi nháy mắt mạnh thì các cơ ở khu vực mặt cũng bị co giật theo, các cơn cơ giật cơ có thể khéo dài tới vài phút.
Giới khoa học và tâm linh giải thích hiện tượng nháy mắt này như thế nào?
Nhiều nghiên cứu cho thấy chúng ta thường bị nháy mắt liên tục khi cơ thể có những dấu hiệu như mệt mỏi, mất ngủ, căng thẳng thần kinh hay stress, do thiếu máu hay mắc các bệnh về mắt như cận thị, loạn thì, viêm giác mạc, đau mắt,…
Hiện tượng nháy mắt nặng lên khi chúng ta tập trung nhìn, khi chăm chú lắng nghe, và chỉ thuyên giảm khi chúng ta nghỉ ngơi, hoặc có thể biến mất khi chúng ta nói, hát,…
Những nguy hiểm khi bị nháy mắt liên tục trong nhiều ngày:
Hiện tượng giật mắt liên tục trong nhiều ngày có thể do bạn mắc một số bệnh lý về tổn thương dây thần linh số 5, 7 hoặc do các dây thần kinh số 5, 7 bị kích thích quá mức bởi các bệnh như viêm loét giác mạc, viêm màng bổ đào, khô mắt, zona mắt. Nguy hiểm hơn là các bệnh gây thoái hóa nơ ron thần kinh như Parkinsom, hội chứng Wilson, cơn Hysteria, tác dụng phụ của việc dùng một số loại thuốc thần kinh,…
Tuy nhiên, nếu bạn chỉ bị nháy mắt hay giật mắt 1 lần hoặc 2 lần trong ngày thì không có vấn đề gì. Theo các nhà nghiên cứu tâm linh thì đó có thể là một dấu hiệu mang tới cho bạn điềm báo về một sự việc nào đó, có thể tốt, có thể xấu sắp xảy ra.
Bạn có thể xem bói về các điềm báo giật mắt theo giờ để biết đó là điềm báo tốt hay xấu.
Để phòng bệnh bị giật mắt, nháy mắt mọi người nên cần sắp xếp thời gian nghỉ ngơi khoa học, ngủ đu 8h 1 ngày, tránh cho mắt bị mệt mỏi do thiếu ngủ. Hạn chế tình trạng căng thẳng thần kinh, stress. Thường xuyên đi khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm các bệnh về mắt tránh mù lòa hay giảm thị lực mắt.
Mỗi lần chớp mắt chỉ chiếm khoảng 1/10s nhưng giúp bạn không bị khô mắt, làm giảm căng thẳng cho mắt, cũng như đẩy các hạt bụi ra khỏi mắt.
Tủ lạnh là một trong những loại đồ điên phố cập sớm nhất, đại đa số các gia đình đều có tủ lạnh. Nó là một trong những loại đồ dùng không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, là một phần sinh hoạt của mỗi người. Nhìn bề ngoài, việc kê
đặt tủ lạnh tưởng chừng không có quan hệ gì đến phong thuỷ, bởi vì khi biên soạn sách về phong thuỷ trước đây, tủ lạnh hãy còn chưa xuất hiện. Tuy nhiên, vị trí đặt tủ lạnh vẫn thuộc một trong những phạm trù điều chỉnh của phong thuỷ. Trong nhà tủ lạnh thường được để trong bếp. Bếp là nơi hoả vượng, do hoả khắc kim, để tủ lạnh trong bếp sẽ cân bằng được tính hoả. Thế nhưng điểm cần chú ý là tủ lạnh không được để gần hay đối diện với bếp đun, vì gần bếp đun hơi dầu mỡ quá nhiều dễ làm bẩn tú, trực tiếp ánh hướng đến sức khoẻ người trong nhà. Nhưng tủ lạnh để trong bếp lại có thể làm giảm được tính hoả của bếp, giám khả năng phát sinh hoả hoạn, vì vậy chỉ cần để tủ lạnh cách xa bếp đun một chút là được.
Ngoài ra, nếu gia chủ kị mệnh kim, tủ lạnh thuộc kim, nếu lo lắng có điều bất lợi thì có thể chọn dùng tủ lạnh màu xanh lá cây, màu đỏ táo (thuộc mộc). Căn cứ vào thuvết tương sinh tương khắc ngũ hành, hoả khắc kim, kim khắc mộc, màu xanh lá cây, màu đỏ táo có thể hoá giải kị mệnh kim. Nếu khuyết thiếu kim, đương nhiên là cần dùng tủ lạnh màu trắng (theo ngũ hành màu này thuộc kim) sẽ tốt. Một số người để tủ lạnh ở văn phòng công ty, bề ngoài là để đựng thức ăn đồ uống, nhưng kỳ thực là mượn nó để thu vận khí. Khi một người nào đó khuyết thiếu kim cực độ, tât nhiên là nên để ở văn phòng mình một chiếc tủ lạnh. Ví dụ bản thân bạn cần kim, thuỷ, nhưng vận sự nghiệp kém may mắn thì có thể nghĩ đến chuyện nên có một chiếc tủ lạnh tại văn phòng của mình. Như vậy là người kị kim rõ ràng không nên để tủ lạnh gần mình. Gặp trường hợp ông chủ kị với kim thì nên để tủ lạnh của bạn vào nơi kín đáo. Ở khách sạn, người ta thường đặt tủ lạnh vào trong tủ gỗ lớn. Người nào kị kim mà muốn ở trong phòng có tủ lạnh thì có thể áp dụng cách này.
Bàn trà quá lớn, khách sẽ lấn át chủ Trong phòng khách, bàn trà thường được đặt phía trước hoặc 2 bên đối xứng nhau của ghế sofa. Bàn trà dừng để bày ấm chén uống trà, khi khách đến chơi chủ nhà rót trà, rót rượu mời, rất thuận tiện. Trên bàn trà cũn
Trong phòng khách, bàn trà thường được đặt phía trước hoặc 2 bên đối xứng nhau của ghế sofa. Bàn trà dừng để bày ấm chén uống trà, khi khách đến chơi chủ nhà rót trà, rót rượu mời, rất thuận tiện. Trên bàn trà cũng có thể bày đồ trang trí hay chậu hoa để cho đẹp, hay bày điện thoại, đèn bàn, rất tiện dụng. Vì thế, bàn trà đã trở thành một vật dụng không thể thiếu trong phòng khách.
Mọi người thường cho rằng, ghế sofa là chủ, bộ bàn trà là khách, sofa cao hơn là núi, bàn trà thấp hơn là nước. Hai thứ kết hợp vói nhau, núi và nước hòa vào nhau mới hợp với lẽ phong thủy.
Ghế sofa được coi là chủ nên phải to cao, bàn trà được coi là khách nên phải thấp nhỏ. Nếu diện tích bàn trà quá lớn, sẽ bị chê là mang ý nghĩa khách lấn át chủ.
Cách bày biện như trên là không hay. Để khắc phục điều này, tốt nhất là thay bàn trà khác, vừa tạo ra sự hài hòa giữa chủ và khách, vừa không gây chướng mắt.
Về cách chọn bàn trà, tốt nhất là theo nguyên tắc thấp và bằng phẳng. Khi người ngồi trên ghế sofa, bàn trà không nên cao quá đầu gối là thích hợp nhất. Bàn trà bày phía trước ghế sofa nên có đủ không gian, vì nếu kê gần quá sẽ gây chật chội bất tiện.
Về hình dáng, bàn trà tốt nhất là có hình chữ nhật, hay bình bầu dục, hình tròn cũng được, nhưng tuyệt đối không dùng những bàn trà có góc nhọn. Nếu không gian phía trước ghế sofa không rộng rãi, có thể chuyển bàn trà sang bên cạnh, bàn trà ở 2 bên ghế tạo thế rồng xanh, hổ trắng ở 2 bên bảo vệ, người ngồi trên ghế cảm thấy bên trái phải đều rất vững chắc. Như thế vừa tận dụng tối đa không gian, vừa hợp với luật phong thủy.
Không trang trí bằng vật có đầu sắc nhọn
Điều này được coi là điểm tối kỵ trong phong thủy phòng khách bởi thể hiện sự hiểm nguy và tính bạo lực của chủ nhà.
Với những phòng khách phạm phải sai lầm này, chủ nhân và các thành viên trong gia đình thường dễ bất đồng quan điểm cũng như dễ sinh ra những hành động bạo lực.
Lòi khuyên của kiến trúc sư: Không nên trang trí hoặc treo trên tường những vật có điểm sắc nhọn như kiếm, sừng các loại động vật… Ngoài ra khi chọn đồ nội thất trong phòng bạn cũng nên lưu ý điều này, ngay cả một chiếc đèn cũng không là trường hợp ngoại lệ.
Không treo những bức tranh hung tàn
Những bức tranh bạo lực như cảnh chém giết, đánh nhau hoặc hình ảnh những con mãnh thú như báo, đại bàng, gấu cũng không nên lựa chọn treo ở phòng khách bởi thể hiện bạo lực và làm mất không khí đầm ấm của căn phòng.
Lời khuyên của kiến trúc sư: bạn có thể lựa chọn những bức tranh có ý nghĩa hơn về cuộc sống no đủ, môi trường xung quanh, những vị lãnh tụ vĩ đại… để trang trí trên tường.
Không nên làm rối phòng khách bằng cách trang trí không có ý tưởng
Điều này cũng là một trong những kiêng kị bạn cần tránh khi trang trí phòng khách. Một phòng khách gồm có quá nhiều đồ đạc, quá nhiều tranh ảnh sẽ khiến không gian phòng khách bị phá vỡ. Tương tự, những vật dụng vô ích sẽ làm giảm giá trị các không gian sống.
Lời khuyên của kiến trúc sư: bạn nên lập trình ý tưởng rõ ràng trước khi lên kế hoạch trang trí cho phòng khách, đừng nên biến phòng khách thành phòng để đồ hay đúng nghĩa hơn là nhà kho.
Kiêng kị khi đặt điều hòa trong phòng khách
Theo quan niệm của phong thủy, những vật dụng trong gia đình như tủ lạnh, điều hòa thuộc hành Kim. Vì thế, khi điều hòa hoạt động sẽ có ảnh hưởng tương đối lớn đến phong thủy trong phòng.
Muốn tìm được vị trí thích hợp để lắp đặt điều hòa, đầu tiên cần chú ý đến mệnh của các thành viên trong nhà. Nếu trong nhà, thành viên nào hợp với mệnh Kim sẽ bài trí điều hòa phù hợp với hướng tương ứng. Ví dụ bố hợp mệnh Kim nên đặt điều hòa hướng Tây Bắc, mẹ thuộc Kim nên đặt điều hòa hướng Tây Nam. Gió của điều hòa sẽ tạo ra từ trường phong thủy. Cửa điều hòa hướng lên trên sẽ có lợi cho phong thủy trong phòng, vì gió thổi lên sẽ tạo được sự lưu thông, điều hòa không khí tốt nhất cho phòng.
Bên cạnh cách xác định phương hướng, khi lắp đặt điều hòa trong căn phòng có nhiều vượng khí nhất, bạn cũng nên tránh một vài điều kiêng kị sau:
+ Tránh phạm “Bạch hổ sát”
Tính theo hướng từ trong ra ngoài, tả là Thanh long, hữu là Bạch hổ, hậu là Huyền vũ, tiền là Chu tước. Trong căn phòng, nếu đặt điều hòa phạm Bạch hổ thì gió từ điều hòa được ví như hơi thở của hổ. Điều này sẽ gây bất hòa, vợ chồng thường xuyên xích mích, cãi cọ. Tuy nhièn, nếu điều hòa nhà bạn đặt ở hướng Bạch hổ, bạn có thể hóa giải bằng cách lắp một chiếc quạt điện lên phía tường đối diện với điều hòa để đổi hướng gió. Bên cạnh đó, khi bật điều hòa cũng nên mở hé cánh cửa sổ để căn phòng có thêm không khí tự nhiên nhằm hóa giải sát khí mà “Bạch hổ” gây nên.
+ Tránh thổi vào Tài vị
Khi gió của điều hòa thổi trực tiếp vào Tài vị, của cải và những tài vận của gia đình cũng tiêu tan. Đây là một trong những điều kiêng kị nhất khi lắp điều hòa, đặc biệt đối vói những gia đình làm kinh doanh. Cửa chính là nơi luồng khí của những vận khí tốt đi vào, nếu đặt điều hòa đối diện với cửa chính thì ngôi nhà sẽ không tụ được tài khí, khiến tình cảm giữa mọi người trong nhà trở nên lạnh nhạt. Bạn có thể hóa giải bằng cách đặt bình phong kính hoặc tấm rèm vải ở vị trí huyền quan.
+ Tránh đặt điều hòa trên sofa
Sofa là chiếc ghế mà chủ nhà hay ngồi, nếu điều hòa thổi trực tiếp từ trên xuống ghế sofa sẽ làm cho chủ nhà cảm thấy khó chịu. Điều này cũng rất kỵ, bởi như vậy sẽ khiến gia đình như mất chỗ dựa vững chắc, ảnh hưởng lớn đến công việc và sự nghiệp. Bạn có thể hóa giải bằng cách đổi hướng gió thổi của điều hòa hoặc chuyển vị trí ghế chủ sang một vị trí hợp lý hơn.
Kiêng kị khi đặt ghế sofa
Ghế sofa là đồ dùng thường thấy trong phòng khách mọi nhà. Chính vì vậy, rất cần chú ý tới việc bài trí sofa sao cho hợp lý.
Nếu đặt sofa ở hướng cát lợi, gia chủ sẽ được an khang, thịnh vượng.
Đối với ngôi nhà hướng Đông, ghế sofa nên đặt ở hướng chính Đông, Đông Nam, chính Nam, chính Bắc của phòng khách. Đây được coi là 4 hướng tốt.
Đối với ngôi nhà hướng Tây, sofa nên đặt ở hướng Tây Nam, chính Tây, Tây Bắc và Đông Bắc của phòng khách.
Phong thủy coi trọng sự cân đối và hài hòa nên việc lựa chọn hình dáng sofa để bài trí rất quan trọng. Không nên bày một nửa bộ hoặc dùng kết hợp 2 loại sofa vói hình dạng khác nhau như vuông và tròn.
Nếu đằng sau sofa là cửa ra vào, cửa sổ hay lối đi, có nghĩa là không có chỗ dựa – điều này đi ngược quan niệm của phong thủy về vai trò của việc “hạo sơn” (tựa núi). Ngoài ra, xét từ góc độ tâm lý học, khi phía sau sofa là khoảng trống sẽ tạo cho người ngồi có cảm giác bất an.
Nếu đằng sau sofa không có tường để dựa thì bạn có thể đặt ở đó một chiếc tủ thấp hoặc một tấm bình phong để hóa giải.
Nếu sau ghế sofa là bể cá, tiểu cảnh ướt (không phải tiểu cảnh khô)… sẽ không tốt vì chúng thuộc hành Thủy, thể hiện sự luân chuyển, bất ổn. Trong trường hợp này, nên thay thế sự hiện diện của hành Mộc thông qua việc bài trí chậu cây cảnh sau sofa sẽ tốt hơn cho vận khí của gia chủ.
Phía sau sofa không nên để gương. Đây là điều kiêng kị bởi khi có người ngồi trên sofa, phần gáy của họ sẽ bị người bên cạnh hay người ngồi đối diện nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu đặt gương ở bên cạnh chứ không phải đằng sau sofa thì không sao.
Không nên đặt sofa dưới xà ngang. Nếu phía trên giường ngủ có xà ngang thì chỉ người nằm trên giường bị ảnh hưởng xấu. Nhưng nếu trên sofa là xà ngang thì sẽ ảnh hưởng đến tất cả các thành viên trong gia đình.
Nhiều gia đình thường lắp thêm đèn chùm trong phòng khách để trang trí và tăng cường ánh sáng. Tuy nhiên, không nên đặt sofa bên dưới đèn chùm vì sẽ khiến ngưòi ngồi trên ghế dễ rơi vào tình trạng căng thẳng thần kinh. Nếu không thể dịch chuyển vị trí của sofa thì nên lắp đèn treo tường thay vì đèn chùm.
Khi sofa và cửa chính đối nhau tạo thành 1 đường thẳng, phong thủy gọi là “đối xứng”, là điều không tốt. Nếu gặp phải tình trạng này thì tốt nhất bạn nên chuyển dịch sofa lệch khỏi cửa. Nếu không thể dịch được thì nên sử dụng bình phong. Làm như vậy, khí từ ngoài qua cửa chính vào nhà sẽ không ảnh hưởng đến người ngồi trên sofa.