Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Có nên đeo đá phong thủy không? –

Có rất nhiều bạn hỏi có nên đeo đá phong thủy không? Câu trả lời rằng: chúng ta nên đeo đá phong thủy. Bởi lẽ đá phong thủy là 1 vật mang linh khí vô cùng mạnh mẽ nhưng nó vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực tới người đeo. Vì vậy việc đeo đá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều bạn hỏi có nên đeo đá phong thủy không? Câu trả lời rằng: chúng ta nên đeo đá phong thủy. Bởi lẽ đá phong thủy là 1 vật mang linh khí vô cùng mạnh mẽ nhưng nó vừa tác động tích cực vừa tác động tiêu cực tới người đeo. Vì vậy việc đeo đá phong thủy không phải chuyện giỡn chơi, đeo sai cách sẽ mang tới nhiều tai ương bất ngờ cho bạn.

Nội dung

  • 1 Có nên đeo đá phong thủy không?
    • 1.1 Nguyên nhân vì sao đá phong thủy mang nhiều công dụng
      • 1.1.1 Đối với sức khỏe
      • 1.1.2 Về mặt phong thủy
  • 2 Để đá phong thủy phát huy hết tác dụng phải tuân thủ nguyên tắc

Có nên đeo đá phong thủy không?

Một số người cho rằng chỉ việc đeo đúng cung mạng sẽ có sức mạnh vô biên, tiền vô như nước? Điều này là chưa đúng. Vô số bạn trẻ rộ lên trào lưu bán đá rồi tự nhận bản thân rất sành sỏi về đá.

Thật chất phong thủy là 1 môn khoa học ở Phương Đông, là tổng hợp rất nhiều nhân tố về địa hình, địa thế xung quanh nơi chỗ, làng xóm, nông thôn,…

Phong thủy là 1 môn khoa học hết sức khó hiểu, muốn hiểu phong thủy, nhất định cần thấu hiểu kinh dịch, hiểu về thuyết âm dương ngũ hành.

Nguyên nhân vì sao đá phong thủy mang nhiều công dụng

Đối với sức khỏe

Đây là loại đá phải trải qua hàng nghìn năm hình thành, tích tụ năng lượng dồi dào của đất trời và vũ trụ.

Đá phong thủy mang nguồn năng lượng nhất định khi tiếp xúc với con người chúng sẽ truyền các nguồn năng lượng đó vào cơ thể người, loại bỏ các năng lượng gây bệnh ra bên ngoài. Nếu đeo đúng cách sẽ có công dụng bổ trợ.

Thế nên nhân tố bổ ích đầu tiên là sức khỏe và chỉ có đá thiên nhiên mới có công dụng này. Nếu bạn chỉ sử dụng đá làm từ thủy tinh hay nhựa tổng hợp theo đúng cung mạng thì thật chất nó chẳng có ý nghĩ gì cả.

Bên cạnh đó từng người sẽ đeo 1 loại đá khác nhau, phụ thuộc vô cơ địa con người, còn phụ thuộc vào yếu tố môi trường ngày hôm ấy.

Về mặt phong thủy

Việc thay đổi số mạng của 1 người căn cứ vào phong thủy thật sự không có gì bí ẩn, trong cuộc sống, những căng thẳng thì phong thủy giữ nhiệm vụ như thế nào:

Để đá phong thủy đúng vị trí nơi ở sẽ làm thay đổi những luồng khí, tăng khí dương từ đó cảm thấy môi trường sống nhẹ nhàng, sảng khoái và mát mẻ hơn.

Để đá phong thủy phát huy hết tác dụng phải tuân thủ nguyên tắc

Vậy để trả lời cho câu hỏi có nên đeo đá tự nhiên không chúng tôi xin trả lời là còn phải tùy thuộc vào kinh nghiệm mua và chọn đá của bạn. Để đá mang tới những điều tích cực thì bạn nên tuân thủ theo các quy tắc sau:

Mua đá phong thủy phải được làm hoàn toàn từ đá thiên nhiên, đừng vì ham rẻ mà mua các loại đá kém chất lượng.

Mua loại đá hợp cung mạng, tuổi tác của mình.

Đặt đá phong thủy trong nhà phải đúng hướng và đúng vị trí.

Không đặt đá ở những nơi cấm kỵ.

Nếu không tuân theo những điều trên thì bạn sẽ tự chuốc họa vào thân mình đấy, không những không có công dụng mà nó còn mang tới cho bạn nhiều tai ương, mất mát.

Đá thạch anh là loại đá tốt nhất và mang nguồn năng lượng mạnh nhất trong phong thủy, đá thạch anh phong thủy có nhiều màu sắc thế nên hãy cẩn thận khi chọn cho mình các loại đá thạch anh nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên đeo đá phong thủy không? –

Top 4 con giáp tiền đồ sự nghiệp xán lạn trong tầm tay

Người tuổi Dậu là một trong những con giáp tiền đồ xán lạn, sự nghiệp thành công rực rỡ, đạt được nhiều thành quả đáng nể.
Top 4 con giáp tiền đồ sự nghiệp xán lạn trong tầm tay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Sở hữu trí tuệ minh mẫn, linh hoạt, cộng thêm với lối suy nghĩ thực tế, cách làm việc nhiệt tình, hăng say cũng như năng lực lãnh đạo thiên bẩm, công việc, sự nghiệp của người tuổi Dậu nhóm máu A ngày một hanh thông, gặt hái thành quả đáng nể.


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

3 con giáp giấu nhẹm chuyện thất tình, cấm ai đả động 12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Dần Chàng trai tuổi nào lấy mẹ làm tiêu chuẩn để chọn vợ?
No4. Người tuổi Dậu nhóm máu A
  Những ai cầm tinh con Gà mà lại có nhóm máu A thường có lối tư duy lạc quan, tích cực, trí tuệ thông minh, tinh thần nhân nghĩa, quyết đoán và thuộc tuýp người truyền thống.   Con giáp có tiền đồ xán lạn này nắm trong tay các mối quan hệ hữu hảo, có chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần làm việc tập thể đầy nhiệt huyết nên được mọi người xung quanh hết mực tôn trọng.   Sở hữu trí tuệ minh mẫn, linh hoạt, cộng thêm với lối suy nghĩ thực tế, cách làm việc nhiệt tình, hăng say cũng như năng lực lãnh đạo thiên bẩm, công việc, sự nghiệp của người tuổi Dậu nhóm máu A ngày một hanh thông, gặt hái thành quả đáng nể. Cố gắng duy trì và phát huy điểm mạnh, bạn sẽ sớm vượt qua mọi trở ngại để vươn tới thành công.  
Top 4 con giap tien do su nghiep xan lan trong tam tay hinh anh 2
 
No3. Người tuổi Tỵ nhóm máu O   Đa phần những người tuổi Tỵ nhóm máu O đều có sức hấp dẫn khó cưỡng đối với mọi người xung quanh, nhất là người khác giới. Cách xử lý công việc của con giáp này khéo léo và có sức thuyết phục tới mức, ai ai cũng phải kiêng nể đôi phần.    Thêm nữa, người này có ý chí kiên cường, lòng quyết tâm cao độ, đã nói là làm, phấn đấu hết mình, quyết không than khó kể khổ để mà bỏ cuộc giữa chừng.    Với đối thủ cạnh tranh, họ kiên cường mạnh mẽ, không ngại ngần tấn công giành thế chủ động. Thái độ của người này tuy kiêu ngạo, có phần lạnh lùng nhưng điều đó cũng xứng đáng khi những thành quả mà họ đạt được luôn vượt trội hơn người.   Họ có thái độ rõ ràng về tiền bạc, vật chất nhưng không vì thế mà vô tình đâu nhé. Bởi bên trong con người này có một trái tim nhân hậu, sẵn sàng che chở cho người yếu thế hơn mình.    Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới? Chỉ ra 3 con giáp trọng tình cảm, coi tình bạn là trên hết Người tuổi nào có mối thâm duyên với nhà Phật?
No2. Người tuổi Hợi nhóm máu A
  Khả năng sinh tồn của người tuổi Hợi thuộc nhóm máu A rất mạnh mẽ. Trải qua hàng loạt thăng trầm trong cuộc sống, họ vẫn đứng vững, vẫn ngẩng cao đầu.   
Top 4 con giap tien do su nghiep xan lan trong tam tay hinh anh 2
 
Trông con giáp này lúc nào cũng căng tràn sức sống, chủ động làm việc, tự mình điều chỉnh tốt các mối quan hệ nên đi đâu cũng gặp bạn hiền giúp sức. Điều đặc biệt, họ không sợ thất bại. Trái lại, với họ, thất bại cũng là cách tốt để sớm đi đến thành công mà không phải qua trường lớp đào tạo nào.    Trong công việc, người này năng nổ hết mình, có tinh thần trách nhiệm cao, làm việc có năng suất gấp nhiều lần so với người khác. Chất lượng công việc ngày càng tăng, kéo theo sự nghiệp hanh thông phơi phới. 12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Tý Những con giáp khó tránh tình tay ba nửa cuối năm 2016 Bí kíp bỏ túi để 12 con giáp đỗ đầu mọi kỳ thi
No1. Người tuổi Tý nhóm máu O
  Mang trong mình nhóm máu O, người tuổi Tý tinh anh, giỏi quan hệ xã giao, gặp hung hóa cát, sau này được hưởng phúc lộc trời ban.    Tính cách con giáp này vui vẻ, năng động, có ý chí vươn lên mãnh liệt. Trí nhớ của họ cực tốt, nên mọi công to việc lớn đều được họ tiến hành đâu ra đó, đạt được thành tựu đáng khiến người khác ngưỡng mộ.    Với người này, môi trường càng có nhiều yếu tố cạnh tranh thì sự nghiệp của họ càng dễ phát triển. Họ sẵn sàng đương đầu với mọi thách thức, cạnh tranh công bằng để có thể “về đích” trong sự quang minh chính đại.    Ngân Hà Những cặp đôi con giáp dễ ngán nhau theo thời gian
– Cặp đôi con giáp Dậu và Dần có cùng lý tưởng chung là mong muốn cuộc sống bình yên. Vô hình chung, điều đó khiến cuộc sống của họ ngày càng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp tiền đồ sự nghiệp xán lạn trong tầm tay

Tuyển tập những Danh ngôn về Tâm hồn hay nhất

Tuyển tập những Danh ngôn về Tâm hồn hay nhất. Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Hãy tham khảo bài viết này nhé!
Tuyển tập những Danh ngôn về Tâm hồn hay nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những Danh ngôn về Tâm hồn hay nhất. Tính cách không thể phát triển một cách dễ dàng và yên lặng. Chỉ qua trải nghiệm thử thách và gian khổ mà tâm hồn trở nên mạnh mẽ hơn, hoài bão hình thành và thành công đạt được.

Tuyển tập những Danh ngôn về Tâm hồn hay nhất

Character cannot be developed in ease and quiet. Only through experience of trial and suffering can the soul be strengthened, ambition inspired, and success achieved.

Helen Keller

—-

Sự khoan dung là món quà lớn nhất của tâm hồn; nó đòi hỏi nỗi lực của bộ não cũng nhiều như khi bạn phải giữ thăng bằng khi đi xe đạp.

Toleration is the greatest gift of the mind; it requires the same effort of the brain that it takes to balance oneself on a bicycle.

Helen Keller

—-

Cứ cẩu thả trong cách ăn mặc nếu bạn muốn, nhưng hãy giữ một tâm hồn gọn gàng.

Be careless in your dress if you will, but keep a tidy soul.

Mark Twain

Ngôi nhà không phải là mái ấm trừ khi nó chứa thức ăn và lửa cho tâm hồn cũng như cơ thể.

A house is not a home unless it contains food and fire for the mind as well as the body.

Benjamin Franklin

Tự do tư tưởng là sức sống của linh hồn.

Liberty of thought is the life of the soul.

Voltaire

Con người giống như cửa sổ kính nhuộm màu. Họ bừng sáng và lấp lánh khi trời nắng và sáng sủa; nhưng khi mặt trời lặn, vẻ đẹp thực sự của họ chỉ lộ ra nếu có ánh sáng từ bên trong.

People are like stained glass windows. They glow and sparkle when it is sunny and bright; but when the sun goes down their true beauty is revealed only if there is a light from within.

Khuyết danh

Tri thức là con mắt của đam mê, và có thể trở thành hoa tiêu của tâm hồn.

Knowledge is the eye of desire and can become the pilot of the soul.

Will Durant

Hạnh phúc của con người không nằm ở vận may bên ngoài và có thể nhận biết, nhưng nằm ở sự tốt đẹp và giàu có của tâm hồn, thứ bên trong và không thể nhìn thấy.

A man’s felicity consists not in the outward and visible blessing of fortune, but in the inward and unseen perfections and riches of the mind.

Thomas Carlyle

Những tâm hồn nhỏ mọn có những mối lo nhỏ mọn, những tâm hồn lớn lao không có thời gian để lo lắng.

Little minds have little worries, big minds have no time for worries.

Ralph Waldo Emerson

Tâm hồn càng tao nhã và tinh tế, tâm hồn càng dễ tổn thương.

The more refined and subtle our minds, the more vulnerable they are.

Paul Tournier

Sự thường xuyên, kiên nhẫn và bền bỉ bất chấp mọi trở ngại, nản lòng và những điều tưởng chừng bất khả thi: Trong tất cả mọi việc, nó là sự khác biệt giữa tâm hồn mạnh mẽ và tâm hồn yếu đuối.

Permanence, perseverance and persistence in spite of all obstacles, discouragements, and impossibilities: It is this, that in all things distinguishes the strong soul from the weak.

Thomas Carlyle

Sắc đẹp là điều bạn cảm thấy ở nội tâm, và nó phản ánh trong mắt bạn. Đó không phải là thứ vật lý.

Beauty is how you feel inside, and it reflects in your eyes. It is not something physical.

Sophia Loren

Tôi nghĩ sự quyến rũ đến từ bên trong. Nó là thứ hoặc ở trong bạn hoặc không ở trong bạn, và thực sự không liên quan gì nhiều tới ngực hay đùi hay đôi môi hờn dỗi.

I think the quality of sexiness comes from within. It is something that is in you or it isn’t and it really doesn’t have much to do with breasts or thighs or the pout of your lips.

Sophia Loren

Một tâm hồn mạnh mẽ luôn luôn hy vọng, và luôn luôn có động cơ để hy vọng.

A strong mind always hopes, and has always cause to hope.

Thomas Carlyle

Cái đẹp thấy được bằng mắt chỉ là phép màu trong khoảng khắc; đôi mắt của cơ thể không nhất thiết là đôi mắt của tâm hồn.

The beauty that addresses itself to the eyes is only the spell of the moment; the eye of the body is not always that of the soul.

George Sand

Con người đặt ra mục tiêu chinh phục thế giới, nhưng trong quá trình đó lại đánh mất linh hồn.

Man has set for himself the goal of conquering the world but in the processes loses his soul.

Aleksandr Solzhenitsyn

Tâm hồn của con người tự do, nhưng lòng kiêu hãnh trói buộc anh ta bằng xiềng xích nghẹt thở trong nhà tù xây bằng những nỗi bất an.

A man’s spirit is free, but his pride binds him with chains of suffocation in a prison of his own insecurities.

Jeremy Aldana


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những Danh ngôn về Tâm hồn hay nhất

24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm

Tiết khí là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°. Tiết khí được sử dụng trong công tác lập
24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiết khí là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi điểm cách nhau 15°. Tiết khí được sử dụng trong công tác lập lịch của các nền văn minh phương đông cổ đại như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên để đồng bộ hóa các mùa.


Infographic 24 tiet khi danh dau thoi gian trong nam hinh anh
 

Infographic 24 tiet khi danh dau thoi gian trong nam hinh anh 2
 

Infographic 24 tiet khi danh dau thoi gian trong nam hinh anh 2
 

Infographic 24 tiet khi danh dau thoi gian trong nam hinh anh 2
 

► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Kiếm Phong

Xem Clip Một kiếp người
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 24 tiết khí đánh dấu thời gian trong năm

Bài trí của Rồng –

Phong thủy học cho rằng, để thu được hiệu quá tốt trong hoá giải sát khí thì việc bố trí pháp khí trong nhà là vấn đề cần được quan tâm. Dưới đây là một số ví dụ xung quanh vấn đề này: (1) Bài trí của Rồng Trong ánh mắt mọi người long tức rồng, n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy học cho rằng, để thu được hiệu quá tốt trong hoá giải sát khí thì việc bố trí pháp khí trong nhà là vấn đề cần được quan tâm. Dưới đây là một số ví dụ xung quanh vấn đề này:

vat-pham-van-phong-1

(1)     Bài trí của Rồng

Trong ánh mắt mọi người long tức rồng, ngoài khía cạnh rồng tiêu biểu cho sự phú quý cát tường ra, nó còn tượng trưng cho quyền lực và uy vũ. Theo phong thuỷ, tuy rồng có tác dụng sinh vượng và chế sát nhưng việc bài trí rồng trong nhà không thể tuỳ tiện, nếu không sẽ gây hậu quá xấu.

Dưới đây là một số vấn đề liên quan cần chú ý:

1-    Rồng nên được phối hợp cùng với thủy (nước )

Rồng gặp nước thì sinh, sẽ đặc biệt uy mãnh, nếu để rồng ở nơi khô cạn thì chẳng khác gì rồng trong hí kịch “rồng đi chơi gặp cua nơi nước cạn”. Cho nên, nếu bài trí hình rồng trong nhà thì phải ở nơi có nước. Đặt hình rồng ở hai bên bể cá là rất hợp, có thể thu được nhiều sinh vượng.

2-      Rồng phải hướng ra biển hoặc sông ngòi.

Một số ngôi nhà hướng ra biển hoặc sông, tuy rất tốt về phong thuỷ vì có thể hấp thu được tài khí, nhưng đáng tiếc vì khoảng cách quá xa nên mỗi lần đứng nhìn ra biển trong lòng thường có cảm giác mát buồn. Phương pháp khắc phục có thể đặt ở cửa sổ hoặc trên ban công một đôi rồng đá màu xám hoặc màu đen, đầu rồng hướng ra biển hoặc ra sông, nếu có song long xuất hải theo phong thuỷ học sẽ mang lại nhiều sinh vượng. Nhưng cần chú ý là nếu nguồn nước trước nhà bị ô nhiễm thì không nên làm như vậy vì như vậy sẽ làm bẩn Song Long.

3-    Rồng nên đặt ở hướng Bắc

Nếu như trong nhà và bên ngoài nhà đều không có nguồn nước, cách bố cứu là để vật trang trí có hình Rồng ở hướng Bắc vì hướng Bắc là hướng thuỷ khí vượng, vì vậy sẽ hợp với rồng, vì rồng rất thích nước.

4-    Không nên để rồng hướng vào phòng ngủ

Rồng tuy là loài động vật mang lại may mắn nhưng vì uy lực của nó quá mạnh nên không được đặt rồng hướng vào phòng ngủ, đặc biệt là những hình rồng có răng nanh và móng vuốt. Rồng có đôi mắt đỏ càng không được đặt hướng vào phòng ngủ hoặc giường ngủ của trẻ, như vậy sẽ khắc với trẻ, đặc biệt với những đứa trẻ tuổi tuất càng không lợi.

5-    Tranh hình rồng nên lồng vào khung sắt

Nếu trong nhà dùng tranh hình rồng để trang trí thì tốt nhất hãy lồng tranh đó vào khung màu ánh kim và treo tranh ở hướng bắc, rất tốt, khác nào như thêm hoa cho gấm. Nếu rồng trong tranh có tới 9 con thì nên có một con ở vị trí trung tâm của tranh, nếu không sẽ là quần long vô thủ, tượng trưng cho gia đình bất an.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí của Rồng –

Bói tình yêu theo ngày sinh của bạn trong tháng

Bói tình yêu theo ngày sinh phán đoán về cách bạn tìm hiểu và trao trái tim của mình cho người khác giới.
Bói tình yêu theo ngày sinh của bạn trong tháng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói tình yêu theo ngày sinh (Dương lịch) phán đoán về cách bạn tìm hiểu một ai đó và thời điểm sẵn lòng trao trái tim của mình cho người khác giới.


Ngày 1 

  Bạn tin tưởng vào tình yêu sét đánh. Bạn không đủ kiên nhẫn để tìm hiểu về một ai đó. Vì thế, nếu ai đó không gây ấn tượng bạn ngay từ ban đầu sẽ không có cơ hội làm bạn nói gì đến cơ hội yêu đương.

Bạn đề cao cảm xúc của bản thân và yêu ghét cũng rõ ràng, không bao giờ có thứ tình cảm nửa vời. Một khi kết thúc mối quan hệ bạn ra đi trong im lặng chứ không muốn tranh cãi.
 

Ngày 2
 

Bói tình yêu theo ngày sinh cho biết, bạn lãng mạn và chung thủy trong tình yêu. Chuyện tình cảm của bạn diễn ra đều đều, chậm chạp và khá yên bình. Dường như bạn cũng không đòi hỏi quá nhiều trong chuyện tình cảm.  

Ngày 3
 

Tình yêu của bạn vô cùng tuyệt vời và là một trong những điều khiến mọi người vô cùng ngạc nhiên. Không ai có thể biết rằng bạn đang yêu. Thậm chí khi bố mẹ không đồng ý cho mối quan hệ của hai người bạn vẫn đủ tự tin để bảo vệ tình yêu của mình.
 

Ngày 4
 

Tình yêu của bạn như dòng nước chảy róc rách không ngừng ngày qua ngày. Khi yêu bạn luôn khiến đối phương thích thú vì tích cách thú vị của mình. Bạn rơi vào tình yêu trong những hoàn cảnh rất khó lường và tình duyên của bạn ngập tràn những điều bất ngờ.

Xem thêm: Xem bói tình yêu: Tự xem nhân duyên sinh khắc qua 30 cặp mệnh nạp âm (P1)
 

Ngày 5
 

Dường như không có điều gì có thể ngăn cản bạn khỏi kế hoạch của mình trong cuộc sống này đặc biệt là trong chuyện tình cảm. Khi đã yêu bạn muốn kiểm soát người ấy. Vì thế, nếu có sự xuất hiện của người thứ ba, không ai dám tưởng tưởng bạn sẽ phát điên như thế nào.
 
 
Boi tinh yeu theo ngay sinh cua ban trong thang
 

Ngày 6
 

Tình yêu của bạn khá êm đềm, suôn sẻ vì xuất phát từ tình bạn. Mặc dù bạn không phải mẫu người ngọt ngào trong tình yêu nhưng bạn đủ mang lại hạnh phúc cho một nửa của mình.
 

Ngày 7
 

Bói tình yêu theo ngày sinh cho biết, người sinh vào ngày 7 trong tháng là nguồn động viên tinh thần lớn lao cho người ấy. Bạn dễ yêu dễ chán và mọi thứ thường diễn ra khá chóng vánh.
 

Ngày 8
 

Yêu ai đó cũng trở thành việc nằm trong kế hoạch của bạn. Có thể nói bạn khá may mắn trong chuyện tình cảm. Người sinh vào ngày 8 sẽ say mê những người có gu nhưng không bao giờ có ý định dừng lại với chuyện yêu một người. Tình yêu của bạn thường ngắn hạn và khó đoán ra ai mới là người cuối cùng.
 

Ngày 9
 

Bạn không bao giờ bộc lộ ra cảm xúc thật của mình mặc dù trong giấc mơ của bạn lặp đi lặp lại hình bóng của người đó. Mối tình đầu khiến bạn vương vấn không thôi. Bạn hài hòa cảm xúc với một nửa của mình và gần như không bao giờ có ý định phản bội. Nếu có có bạn càng may mắn hơn và có đời sống hôn nhân rất hạnh phúc.
 

Ngày 10
 

Bạn thường đánh mất một nửa của cuộc đời mình vì quá ghen tuông. Bạn luôn luôn cảm thấy muốn sở hữu đối phương và chính đây là nguyên nhân đẩy mối quan hệ tới bờ vực của sự đổ vỡ.
 
 
Boi tinh yeu ngay sinh 10
 

Số 11
 

Bạn sẵn sàng hi sinh bản thân cho người mà mình yêu. Tình yêu của bạn nhẹ nhàng với những quan tâm chăm sóc chân tình. Bạn rất hạnh phúc nếu có nhiều thời gian ở bên người mình thương yêu.
 

Số 12
 

Bạn rất dễ yêu đơn phương vì bạn vô cùng tin tưởng rằng sẽ có cách giành được trái tim cô ấy/anh ấy. Mặt khác, nếu hai người yêu nhau bạn rất thích làm mọi thứ theo cách của mình mà không lắng nghe ý kiến của người khác và đây là nguyên nhân cho những tranh cãi nảy lửa và cũng là lý do mà bạn dễ yêu và cũng dễ bỏ.
 

Số 13
 

Bạn nhẹ nhàng, biết quan tâm người khác và thật thà của bạn cuốn hút người khác. Mặc dù bạn không hề có ý định quyến rũ ai cả nhưng bạn có sự hấp dẫn vô cùng tự nhiên.
 

Số 14
 

Bạn không thể nhẹ nhàng với một người mà bạn thực sự không có cảm tình bất kể anh ta/cô ta có cố gắng tiếp cận bạn như thế nào đi nữa. Nhưng một khi đối tượng nào đó lọt vào mắt xanh thì có nghĩa là họ không còn đường lui.
 

Số 15
 

Bạn là người tình cảm. Nhiều người có thể chiếm được cảm tình của bạn nhưng điều này không kéo dài quá lâu. Đây là lý do bạn không có những mối quan hệ lâu dài.
 
 
Boi tinh yeu theo ngay sinh cua nguoi sinh ngay 15
 

Số 16
 

Bạn thường yêu người hoàn toàn khác mình từ tuổi cho đến quan niệm sống. Tình yêu của bạn thường xuất phát từ tình bạn. Yêu từ cái nhìn đầu tiên sẽ không có trong khái niệm của bạn.
 

Số 17
 

Tính cách vui tươi của bạn khi yêu thu hút đặc biệt người khác giới. Có rất nhiều người trong số đó rất tuyệt và bạn thường mắc kẹt vì thích nhiều người một lúc mà không biết nên chọn ai.
 

Số 18
 

Bạn khó bày tỏ cảm xúc với người khác giới bất kể bạn thích họ rất nhiều. Không những thế một nửa của bạn cũng là người như thế. Vì thế tình yêu của bạn thường từ từ mới giai đoạn nở rộ và thời gian mới đủ chứng minh tất cả. Sự thật thà của bạn thực sự cuốn hút đối phương theo từng ngày tháng qua.
 

Số 19
 

Bói tình yêu theo ngày sinh tiết lộ, tình yêu của người sinh ngày 19 khác với mọi người xung quanh. Nhưng một khi bạn đã yêu thì không gì có thể ngăn cản bạn. Có thể hai bạn thường xuyên tranh cãi, gây sự nhưng lại nhanh chóng làm hòa bằng những cách mà không ai có thể nghĩ ra.
 
 
Boi tinh yeu ngay 21
 

Ngày 20
 

Bạn thường tìm hiểu thật kỹ người ta rồi mới sẵn lòng cho những bước tiếp theo. Bạn không bao giờ có yêu cầu gì quá xa vời so với tính cách tự nhiên của họ. Sự thật thà của bạn không làm tình yêu trở nên thú vị nhưng lại tạo nên một mối quan hệ sâu sắc.
 

Ngày 21
 

Bạn không may mắn lắm trên con đường tình yêu. Có người yêu bạn nhưng bạn lại mơ ước vọng tượng ở một nơi xa xôi nào đó. Tình yêu của bạn thường xảy ra sóng gió. Đôi lúc bạn cảm thấy không hiểu một chút nào về người mà bạn đang yêu. Nhất là những người sinh ngày 21 lại có nốt ruồi Lệ Đường, yêu đương buồn khổ, thường xuyên gặp nhiều trắc trở trong tình yêu.
 

Ngày 22
 

Bạn thấy khó định hướng về mục tiêu của mình và thậm chí vừa thấy yêu vừa thấy ghét cùng một người. Bạn thường chọn người yêu trong số bạn bè của mình. Một khi phát hiện ra đối phương phản bội, bạn sẽ không để cho người đó được yên trước khi bỏ rơi họ.
 

Ngày 23
 

Bạn vô cùng quyết rũ mặc dù bạn thực sự không nhận ra điều đó. Vì bạn thích sự hứng khởi, vui vẻ nên thường xuyên đối mặt với chuyện tình ngang trái khi làm người thứ ba. Bạn có thể yêu người đã có gia đình nhưng dường như không ai có thể ngăn cản bạn cả. 
 

Ngày 24
 

Đôi khi bạn yêu chỉ vì yêu thôi chứ không hẳn vì bạn có cảm tình vì một ai đó. Bề ngoài tưởng như hai người là một cặp đôi hoàn hảo nhưng thực sự bạn chưa thực sự chưa bao giờ quên người cũ. Dường như đối phương say đắm bởi sự lãng mạn và duyên dáng của bạn.
 
 
12 chom sao quay ve voi nguoi yeu cu nhu the nao
 
 

Ngày 25
 

Bạn luôn là ưu tiên hàng đầu đối với một nửa của bạn. Tương tự, bạn cũng đề cao người ấy hơn cả bản thân mình. Chuyện tình yêu của bạn vô cùng đánh mơ ước và thường những người sinh ngày 25 là những người thường cưới rất sớm.
 

Ngày 26
 

Bạn không thể chịu được việc đối mặt với người mà mình ghét. Tình yêu của bạn nhanh đến và cũng nhanh đi như một cơn gió. Khi yêu bạn yêu hết lòng nhưng khi tình yêu qua đi bạn sẽ nhanh chóng quên đi để sẵn lòng tìm người mới. Bạn có thể tham khảo Kích hoạt tình duyên bằng cung mệnh trong phong thủy để có cải thiện tình yêu của mình.
 

Ngày 27
 

Bạn thường chọn mặc những bộ đồ lịch thiệp, đẹp mắt bất kể bạn có đi hẹn hò hay không. Bạn đòi hỏi rất nhiều trong tình yêu và đôi lúc không hài lòng với những gì đang có.
 

Ngày 28

  Tình duyên của bạn khá trắc trở. Người bạn đầu áp vai kề chưa hẳn là người trong trái tim bạn. Tình yêu của bạn lúc thăng lúc trầm. Bạn thường bỏ cuộc trước khi được tận hưởng cảm giác hạnh phúc trong tình yêu.  

Ngày 29

  Không cần nói chỉ bằng ánh mắt đối phương cũng đã hiểu được những gì bạn muốn nhắn nhủ. Bạn hay ghen tuông, hờn dỗi và đây là nguyên nhân “gây chiến” giữa hai người. Đôi khi những gì bạn tin tưởng là những gì bạn tưởng tượng mà thôi.
 

Ngày 30
 

Bạn hoàn toàn muốn kiểm soát một nửa của mình và đó là cách tồi nhất bạn có thể đối xử với người mà bạn thương yêu. Bạn mất khá nhiều thời gian để đi tới quyết định kết hôn bất kể số tuổi của bạn là bao nhiêu.
 

Ngày 31
 

Bạn mất khá nhiều thời gian để tìm hiểu trước khi yêu ai đó. Khi bạn đã quyết định dành tình cảm cho ai đó không ai có thể ngăn cản bạn vì bạn tin rằng quyết định của mình đã được suy tính kỹ.
 
  Kate Nguyễn

Xem bói tình yêu theo tên: Chữ cái đầu tiết lộ tình yêu của bạn Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 1) Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tình yêu theo ngày sinh của bạn trong tháng

Hướng bếp hợp người sinh năm 1952 Nhâm Thìn –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1952: - Năm sinh dương lịch: 1952 - Năm sinh âm lịch: Nhâm Thìn - Quẻ mệnh: Chấn Mộc - Ngũ hành: Trường Lưu Thủy (Nước chảy mạnh)   - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Thiên Y)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1952:

20140522073632680

– Năm sinh dương lịch: 1952

– Năm sinh âm lịch: Nhâm Thìn

– Quẻ mệnh: Chấn Mộc

– Ngũ hành: Trường Lưu Thủy (Nước chảy mạnh)

 

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1952 Nhâm Thìn –

Màu sắc và môi trường bên ngoài tường nên lựa chọn như thế nào? –

- Ngồi Bắc hướng Nam: Nên lựa chọn các tông màu trắng như: màu trắng ngà, các màu ấm áp làm chủ đạo: nếu một mặt là phía Nam thì có thể lựa chọn dùng màu xám nhạt hoặc màu đen nhạt. - Ngồi Nam hướng Bắc: Nên chọn các tông màu đỏ, màu xanh lá cây. - N

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ngồi Bắc hướng Nam: Nên lựa chọn các tông màu trắng như: màu trắng ngà, các màu ấm áp làm chủ đạo: nếu một mặt là phía Nam thì có thể lựa chọn dùng màu xám nhạt hoặc màu đen nhạt.

file.393247

– Ngồi Nam hướng Bắc: Nên chọn các tông màu đỏ, màu xanh lá cây.

– Ngồi Dông hướng Tây: Nên lựa chọn màu xanh lá cây, màu đen.

– Ngồi Tây hướng Đông: Nên chọn tông màu vàng, màu trắng.

– Ngồi Đông Bắc hướng Tây Nam: Nên chọn tông màu vàng, tông màu đỏ.

– Ngồi Tây Nam hướng Đông Bắc: Nên chọn tông màu vàng, tông màu đỏ, lấy tông màu ấm áp.

– Ngồi Tây Bắc hướng Đông Nam: Nên chọn tông màu trắng, tông màu vàng.

– Ngồi Đông Nam hướng Tây Bắc: Nên chọn tông màu xanh lá cây, tông màu đen, tông màu trắng đều cát lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc và môi trường bên ngoài tường nên lựa chọn như thế nào? –

Top 5 con giáp vất vả về đường tình duyên

Con giáp vất vả đường tình duyên: Quá coi trọng sự nghiệp, lối sống quá thực tế, thiếu sự lãng mạn nên người tuổi Hợi gặp không ít trắc trở, vất vả về đường
Top 5 con giáp vất vả về đường tình duyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Quá coi trọng sự nghiệp, lối sống quá thực tế, thiếu sự lãng mạn nên người tuổi Hợi gặp không ít trắc trở, vất vả về đường tình duyên.


No5. Tuổi Hợi


Đa phần người tuổi Hợi có lối suy nghĩ tích cực và khá nghiêm túc trong mọi việc, kể cả tình cảm. Vì thế, hiếm khi thấy họ thể hiện chút tình cảm lãng mạn, dành một vài lời nói yêu thương ngọt ngào chứ đừng nói tới việc bông đùa, mang yếu tố hài hước vào tình yêu.

Top 5 con giap vat va ve duong tinh duyen hinh anh
 
Không ít người cho rằng, đó là cách sống quá hiện thực, thiếu vắng chút lãng mạn trong cuộc đời. Nói cũng đúng, vì bản thân con giáp này rất coi trọng sự nghiệp, địa vị, vật chất, không ngừng phấn đấu, theo đuổi vinh hoa phú quý.

Với họ, cuộc sống vật chất bền vững mới là nền tảng cơ bản giúp tình yêu thăng hoa, gia đình êm ấm. Bản thân họ không ngờ rằng, vì mải theo đuổi sự nghiệp mà đường tình duyên của họ lại gặp nhiều sóng gió như vậy.

No4. Tuổi Mùi

Top 5 con giap vat va ve duong tinh duyen hinh anh 2
 
Ai cũng không thể phủ nhận sự tỉ mỉ, nhạy cảm của người tuổi Mùi. Chính vì thế, làm việc gì con giáp này cũng suy nghĩ quá nhiều, tự mua dây buộc mình, tạo áp lực cho bản thân.

Trong tình yêu, người tuổi Mùi có cách nghĩ khá tiêu cực. Dù đang trong giai đoạn mặn nồng của tình yêu nhưng cũng nghĩ đủ thứ về viễn cảnh áp lực con cái, mối quan hệ với gia đình hai bên, nỗi lo cơm áo gạo tiền... Đây cũng là một trong những con giáp vất vả đường tình duyên.

No3. Tuổi Thìn

Top 5 con giap vat va ve duong tinh duyen hinh anh 3
 
Đa phần những ai cầm tinh con Rồng đều khá giỏi giang, nên đi tới đâu cũng có người thầm thương trộm nhớ. Trong cuộc đời họ cũng trải qua không ít cung bậc thăng trầm của các mối tình.

Nhưng thật không may cho con giáp này, họ yêu phải người không nên yêu ví dụ người đó đã có chồng hay vợ. Chính vì thế mà đường tình duyên của người tuổi Thìn cũng trắc trở vô cùng.

No2. Tuổi Sửu

Top 5 con giap vat va ve duong tinh duyen hinh anh 4
 
Trong tình yêu, người tuổi Sửu khá nhút nhát, kín đáo, đa phần có xu hướng giấu giếm tình cảm chứ không thẳng thắn bày tỏ. Nếu không nói ra, rất có thể ngay cả nửa kia của họ cũng khó lòng biết được tình cảm thực sự của họ là như thế nào.

Thêm nữa, khi tình yêu của họ xuất hiện người thứ ba, thay vì dũng cảm đương đầu đề giành lại tình yêu, người tuổi Sửu lại chọn cho mình cách im lặng, nhượng bộ và cam chịu.

No1. Tuổi Tý


Top 5 con giap vat va ve duong tinh duyen hinh anh 5
 
Thông minh, lanh lợi nhưng cũng gian xảo vô độ, người tuổi Tý rất kén chọn trong tình yêu. Chính vì thế, họ đã bỏ lỡ khá nhiều cơ hội để có thể nắm bắt được tình yêu chân chính của đời mình.

Với họ, yêu là phải mang đến cho nhau cảm giác mới lạ, không bị nhàm chán. Khi phát hiện thấy mối quan hệ giữa họ và nửa kia không còn như trước, con giáp này sẵn sàng dứt áo ra đi để tìm nguồn cảm hứng mới. Thế mới nói, người tuổi Tý cũng vất vả và lận đận về đường tình duyên, thông thường kết hôn khá muộn.

=> Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Ngân Hà

Top 3 con giáp có “tem bảo hành” cả bề ngoài và thực lực
– Dù là nhìn vẻ bề ngoài hay quan sát hành động, tính cách, những con giáp này đều toát lên niềm tin tuyệt đối, khiến mọi người xung quanh có

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp vất vả về đường tình duyên

Tết Trung Thu: Nguồn gốc và ý nghĩa Rằm Trung Thu

Tết Trung Thu diễn ra vào đúng giữa thu, tức ngày rằm tháng 8 âm lịch. Đây là nét văn hóa từ lâu đời, nhưng chưa có văn bản nào xác minh rõ về nguồn gốc Rằm
Tết Trung Thu: Nguồn gốc và ý nghĩa Rằm Trung Thu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tết Trung Thu diễn ra vào đúng giữa thu, tức ngày rằm tháng 8 âm lịch. Đây là nét văn hóa từ lâu đời, nhưng chưa có văn bản nào xác minh rõ về nguồn gốc là bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước hay tới từ Trung Hoa. 

► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn sự nhanh chóng và chuẩn xác nhất

1. Nguồn gốc Tết Trung Thu

  Mỗi ngày rằm tháng 8 âm lịch về, người Việt lại tưng bừng tổ chức Tết Trung Thu. Đây là dịp để nhà nhà sum vầy làm cỗ cúng gia tiên, bày cỗ trái cây để cúng trăng, tổ chức “Tết trông Trăng” cho trẻ em. Ngày này, trẻ em vô cùng háo hức, được người lớn tặng quà, múa hát, phá cỗ trông trăng...   Tới nay, chưa có văn bản nào xác minh rõ về nguồn gốc của Tết Trung Thu. Dân gian vẫn lưu truyền nhiều điển tích ý nghĩa liên quan đến ngày lễ đặc biệt này. Mọi người biết nhiều đến nguồn gốc Trung Thu từ sự tích vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng dạo chơi, sự tích Hằng Nga và Hậu Nghệ, sự tích về chú Cuội lên cung trăng ở Việt Nam.   - Sự tích vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng dạo chơi  
Tet Trung Thu Nguon goc va y nghia Ram Trung Thu hinh anh 2
 
Vào đời vua Đường Minh Hoàng (713 - 741 Tây Lịch), trong lúc đi dạo chơi vườn Ngự Uyển vào đêm rằm tháng tám âm lịch, trăng tròn và sáng trong. Trong lúc đang thưởng thức cảnh đẹp và tiết trời mát mẻ thì gặp đạo sĩ La Công Viễn. Người này được mọi người mệnh danh là Diệp Pháp Thiện, có phép tiên nên đã đưa nhà vua lên cung trăng chơi.
 
Tại đây cảnh trí lại càng đẹp hơn nên nhà vua hăng say thưởng thức cảnh tiên với các nàng tiên mặc xiêm y đủ màu hát múa mà quên trời đã gần sáng. Đạo sĩ La Công Viễn phải nhắc, nhà vua mới ra về nhưng trong lòng vẫn còn luyến tiếc. 
 
Vì còn vương vấn cảnh trời, về hoàng cung, nhà vua đã cho chế ra Khúc Nghê Thường Vũ Y và ra lệnh cứ đến rằm tháng tám lại tổ chức rước đèn và bày biện ăn mừng.    - Sự tích Hằng Nga và Hậu Nghệ  
Hằng Nga là tiên nữ xinh đẹp sống ở Thiên Đình, phục vụ cho Tây Vương Mẫu. Còn Hậu Nghệ là chàng trai bất tử. Họ là vợ chồng. Sắc đẹp của Hằng Nga và sự bất tử của Hậu Nghệ đã làm cho một số vị thần tiên khác đố kị, nên tìm cách vu oan tội lỗi phạm thiên đình cho Hậu Nghệ trước mặt Vua Nghiêu. Từ đó, Hằng Nga và Hậu Nghệ bị đuổi khỏi hoàng cung và phải sống cuộc đời thường dân. Từ đó, cuộc sống làm lụng, săn bắn đã làm cho chàng Hậu Nghệ trở thành một xạ thủ có tiếng trong dân gian.
 
Tet Trung Thu Nguon goc va y nghia Ram Trung Thu hinh anh 2
 
Bấy giờ không chỉ có một mặt trời chiếu sáng mà có tận 10 mặt trời cùng lúc tồn tại, cứ một mặt trời thì chiếu một ngày, và cứ thay phiên như vậy trong vòng một ngày. Tuy nhiên, tai họa ập đến, một ngày kia cả 10 mặt trời cùng xuất hiện trong một ngày và đã thiêu cháy hầu hết sinh linh trên mặt đất. Trước hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” trên, Vua Nghiêu đã sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời chỉ để một cái lại mà thôi. Chàng Hậu Nghệ đã hoàn thành sứ mạng xuất sắc.
 
Đáp lại công lao của Hậu Nghệ, vua Nghiêu đã cho chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn rằng “Tạm thời không được uống, chỉ được phép uống sau 1 năm khi đã cầu nguyện và ăn chay”. Hậu Nghệ làm theo, chàng đem viên thuốc về nhà và giấu nó ở cái rui trên nóc nhà và tự khổ luyện tinh thần. Được khoảng nửa năm, Vua Nghiêu mời chàng đến kinh thành “chơi” . Hằng Nga ở nhà thì bỗng lưu ý đến một vật sáng lóng lánh trên mái nhà và phát hiện ra viên linh dược, sau đó, biết là linh dược, nàng đã uống ngay viên thuốc cũng đúng lúc Hậu Nghệ vừa về đến và ngay tức khắc chàng đã biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng tất cả đã quá muộn, Hằng Nga đã bay về trời và không thể quay trở lại.
 
Hậu Nghệ cầm theo chiếc nỏ trong tay, đuổi theo Hằng Nga. Nhưng đi được đến nửa đường thì thần Gió đã cản chàng lại mặc cho nàng tiên nữ xinh đẹp kia bay đến mặt trăng. Khi vừa đến nơi Hằng Nga bỗng không thở được và viên thuốc bỗng văng ra. Kể từ đó, Hằng Nga mãi ở trên mặt trăng không thể nào trở lại. Truyền thuyết còn kể lại rằng nàng đã kêu gọi những con thỏ ở mặt trăng tạo ra viên thuốc giống như vậy để nàng còn quay về với người chồng ngày đêm mong nhớ, nhưng tất cả đều vô dụng.
 
Trong khi đó, ở dương thế, Hậu Nghệ ngày càng nhớ nhung, hối hận và tuyệt vọng. Chàng xây một lâu đài trong mặt trời và đặt tên là “Dương”, trong khi đó, Hằng Nga cũng xây một lâu đài tương tự đặt tên là “Âm”. Cứ mỗi năm một lần, vào ngày rằm tháng 8, hai người được đoàn viên trong niềm hân hoan hạnh phúc. Chính vì thế mà mặt trăng luôn thật tròn và thật sáng vào ngày này như để nói đến niềm vui, sự hân hoan khi được gặp mặt của con người.    - Sự tích chú Cuội lên cung trăng   Ở Việt Nam, truyền thuyết của chị Hằng lại gắn với chú Cuội. Chuyện kể rằng, ngày xưa có nàng tiên nữ là Hằng Nga, xinh đẹp và rất yêu trẻ con. Nàng mong muốn được xuống trần gian chơi cùng trẻ em nhưng tiên giới không cho phép.
 
Tet Trung Thu Nguon goc va y nghia Ram Trung Thu hinh anh 2
 
Một hôm Ngọc Hoàng tổ chức cuộc thi "Làm bánh ngày rằm", ai làm được bánh ngon, đẹp và lạ mắt sẽ được trọng thưởng.  Hằng Nga đã xuống trần gian thăm hỏi và gặp được Cuội, anh chàng chuyên gia nói dối. Cuội bày cho Hằng Nga cách là cứ bỏ tất cả nguyên liệu hòa lại rồi đem nướng lên. Kì lạ những chiếc bánh ra lò thơm phức, các em nhỏ ăn đều khen rất ngon. Thời gian này, quân Minh đang nổi dậy chống lại Hằng Nga trở về cung trăng và đem những chiếc bánh để dự thi.
 
Nhưng vì Cuội lưu luyến không muốn rời xa Hằng Nga nên đã nắm lấy tay nàng và sức mạnh kì lạ đã kéo cả chàng cùng cây đa đầu làng lên tận cung trăng. Ngồi trên cây đa, Cuội có thể thấy bọn trẻ đang chơi đùa, đôi lúc nhớ nhà, nhớ em, Cuội chỉ biết ngồi khóc và buồn bã. 
 
Tet Trung Thu Nguon goc va y nghia Ram Trung Thu hinh anh 2

 
Những chiếc bánh của Hằng Nga đã giành giải nhất và lấy tên là "bánh Trung thu", nàng đã ước mỗi năm cứ rằm tháng tám, nàng cùng chú Cuội được xuống trần gian chơi cùng các em nhỏ. Từ đó, Ngọc Hoàng đặt tên cho rằm tháng tám là "Tết Trung thu", dịp tết vui chơi của các em nhỏ. 
 
Hàng năm, cứ đến rằm tháng tám, người ta tổ chức rước đèn, múa rồng, múa lân dưới ánh trắng để làm kỷ niệm chú Cuội, chị Hằng, đàn thỏ xuống mặt đất để liên hoan vui chơi.
 

2. Ý nghĩ Tết Trung Thu


Tết Trung Thu của người Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với người Trung Quốc. Theo phong tục của người Việt Nam, bố mẹ bày cỗ trái cây cho các con để mừng Trung thu.
 
Tet Trung Thu Nguon goc va y nghia Ram Trung Thu hinh anh 2

 
Đây là dịp để con cái hiểu được sự chăm sóc của cha mẹ đối với mình một cách cụ thể nhất. Do đó, tình yêu gia đình ngày càng trở nên khăng khít hơn bao giờ hết. Tục hát trống quân theo tương truyền có từ thời vua Lạc Long Quân.
 
Sau này đệm hát trống quân được vua Quang Trung áp dụng khi ngài đem quân ra Bắc, đại phá quân Thanh. 
 
Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, đây còn là dịp để người ta ngắm trăng và tiên đoán mùa màng, vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó trúng mùa tằm tơ. Trăng mà có màu xanh lục sẽ có thiên tai. Nếu trăng có màu cam thì báo hiệu đất nước bước vào năm thịnh trị. 
 
Tết Trung thu là một trong những phong tục rất có ý nghĩa, là ngày tết của tình thân, là mùa của báo hiếu, biết ơn, là ngày của đoàn tụ và của tình thương yêu với gia đình và người thân.    Theo Lichngaytot.com  
Tích Trung Thu người xưa truyền lại
Tết Trung Thu là một trong những lễ hội cổ truyền, mang màu sắc tâm linh độc đáo và đẹp đẽ, còn được lưu truyền tới tận ngày nay. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trung Thu: Nguồn gốc và ý nghĩa Rằm Trung Thu

Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất –

Cùng với sự phát triển của kinh tế, hiện nay rất nhiều người phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất. Rất nhiều người trở nên lợi dụng trong tình yêu. Trong 12 cung hoàng đạo cũng thế. Vậy những chòm sao nào yêu mà không màng đến vật chất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng với sự phát triển của kinh tế, hiện nay rất nhiều người phải đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất. Rất nhiều người trở nên lợi dụng trong tình yêu. Trong 12 cung hoàng đạo cũng thế. Vậy những chòm sao nào yêu mà không màng đến vật chất. Chúng ta cùng tìm hiểu ngay bài viết dưới đây nhé!

Nội dung

  • 1 Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất
    • 1.1 Sư Tử
    • 1.2 Thiên Bình
    • 1.3 Song Tử
    • 1.4 Nhân Mã
    • 1.5 Kim Ngưu

Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất

Sư Tử

sutu-8816-1401440703

Có nhiều người lợi dụng sự phóng khoáng của Sư Tử mà mê hoặc cậu ấy bằng vật chất. Nhưng rất tiếc, Sư Tử lại là người trọng tình trọng nghĩa, không phải lúc nào cũng chỉ biết đến tiền bạc, vật chất. Bởi đối với Sư Tử không có gì quan trọng hơn việc tìm được một người thật lòng yêu, bao dung với cậu ấy và cậu ấy cũng yêu lại. Vì vậy, cậu ấy sẽ không miễn cưỡng bản thân để yêu một người mà mình không hề có tình cảm. Hay nói cách khác, Sư Tử sẽ không vì vật chất mà dễ dàng từ bỏ tình yêu.

Thiên Bình

thienbinh-2514-1401440703

Thiên Bình là một chòm sao biết nhìn xa trông rộng. Khi phải đối diện với sự lựa chọn của cuộc sống, tiền bạc thực sự là một thứ rất hấp dẫn. Nhưng là một người biết tính toán cẩn thận , nếu thấy tình yêu và vật chất không thể vẹn toàn cả hai thì đa số cung Thiên Bình sẽ thận trọng lựa chọn tình yêu. Bởi cậu ấy hiểu rằng nếu lựa chọn vật chất mà phải sống với người không cùng sở thích sẽ rất đau khổ. Hơn nữa, Thiên Bình rất lạc quan, cậu ấy tin rằng chỉ cần hai người có thể sống trong tình yêu thực sự thì bất cứ khó khăn nào cũng có thể giải quyết được.

Song Tử

songtu-7198-1401440703

Nếu chỉ hiểu đơn giản về tính cách của Song Tử, nhất định chúng ta sẽ lầm tưởng rằng đứng trước lựa chọn giữa tình yêu và vật chất, cậu ấy sẽ chọn vật chất. Nhưng thực tế không phải như vậy vì Song Tử rất coi trọng tương lai. Đối với cậu ấy, chỉ cần trong lòng có tình yêu thì vật chất không quan trọng.

Nhân Mã

nhanma-5747-1401440703

Nói đến chòm sao nhìn thấy tiền là “mắt sáng lên” thì Nhân Mã chắc chắn ở vị trí hàng đầu. Nhưng khi tình yêu và vật chất khó vẹn toàn thì cậu ấy sẽ chọn tình yêu mà từ bỏ vật chất. Đối với một Nhân Mã chung thủy, cậu ấy sẽ không chọn một người mà mình không thích để ràng buộc mình cả một đời. Nhân Mã hiểu được mặc dù vật chất quan trọng nhưng tình yêu càng phải trân trọng hơn. Cậu ấy tin chỉ cần có tình yêu thì vật chất ít một chút cũng không sao. Vì vậy, Nhân Mã muốn từ bỏ vật chất để là một người yêu chung thủy hơn.

Kim Ngưu

Kimnguu-1760-1401440703

Kim Ngưu là một chòm sao rất coi trọng thực tế. Đối với cậu ấy, tiền có thể là tiêu chuẩn để cân đo cuộc sống. Nhưng có thể lấy được một người vợ tâm đầu ý hợp mới là mục tiêu cuộc sống cao nhất của cậu ấy. Bởi Kim Ngưu rất rõ tình yêu chân chính dù có bao nhiêu tiền cũng không thể mua được nhưng tiền thì có thể kiếm được dựa vào sự cố gắng của mình. Vì vậy khi tình yêu và vật chất không thể vẹn toàn thì Kim Ngưu nhất định sẽ giữ chặt tình yêu của mình rồi sau đó mới nỗ lực đi kiếm vật chất.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chòm sao yêu mà không màng đến vật chất –

22 loại cây cảnh gia tăng tài lộc trên bàn làm việc

Không gian làm việc – văn phòng hiện đại đang là xu thế được ưa chuộng trên thế giới.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không những ở những công ty đa quốc gia mà hiện nay các công ty nhỏ ở Việt Nam cũng đang có những cải tiến đáng kể về một văn phòng làm việc hiện đại. Trong đó việc thiết kế các cây xanh trong văn phòng – cây xanh để bàn ngày càng được chú ý.

Thời gian trước, tác giả có được mời tới thăm văn phòng làm việc của một công ty cung cấp giải pháp phần mềm (Foobla – IT) cho nước ngoài, một không gian nhỏ nhưng không gian dành cho cây cối thì rất nhiều: Nơi thoáng đãng của ban công là một khoảng nhỏ dành cho các bạn hút thuốc được thiết kế trồng nhiều chậu Dương Xỉ nhằm hấp thu khói thuốc lá; một không gian nhỏ để các nhân viên thư giãn được bài trí chậu cây lớn bao gồm cây Kim Ngân may mắn và chậu Kim Phát tài; Trên bàn làm việc của nhân viên đều có các chậu cây nhỏ – cây may mắn.

1. Cây Trầu bà đế vương đỏ


Cây trầu bà đế vương đỏ có tốc độ sinh trưởng nhanh. Cây chịu bóng bán phần hoặc hoàn toàn, thích hợp trồng làm cây trang trí nội thất.
Chiều cao cả cây và chậu từ 30-50 cm, phù hợp trang trí quầy kệ, bàn làm việc, bàn khách, bàn trà, kệ cửa sổ,…

2. Cây Bạch mã hoàng tử


Cây bạch mã hoàng tử là loại cây chịu bóng tốt. Cây mọc bụi vì cây con thường đâm chồi từ thân cây mẹ. Lá xanh, thân và cuốn lá màu trắng. Tán lá lớn. Gân và bẹ lá cây bạch mã hoàng tử màu trắng tạo nên điểm thu hút dễ nhớ. Cây trồng trong chậu rất đẹp. Dùng trang trí trong nhà, văn phòng rất phù hợp.
Với kích thước bụi cây nhỏ từ 15 – 25 cm thường được chọn trồng vào những chậu nhỏ để trang trí trên bàn hoặc cửa sổ.

3. Cây Bao thanh thiên


Cây Bao thanh thiên mang ý nghĩa quý phái và sang trọng, là cây để bàn như một lời chúc phúc cho cá nhân hay doanh nghiệp luôn được thịnh vượng, phát tài. Cây trồng trong chậu rất đẹp. Dùng trang trí trong nhà, văn phòng rất phù hợp.

4. Cây Bướm đêm


Cây bướm đêm – Cây không chịu được ánh sáng toàn phần và trực tiếp, khoảng 80% ánh sáng cây phát triển tốt. Ưa môi trường đất xốp và thoát nước tốt, Trồng và nhân giống bằng tách củ, Lá màu tím than,có hình như cánh bướm.
Ban ngày lá mở rộng ban đêm lá xếp lại như một con bướm đang đậu.

5. Cây Cau Tiểu Trâm

CAY CAU TIEU TRAM 1

Cây cau Tiểu Trâm : Cây chịu mát, nhỏ, để trang trí trên bàn làm việc hoặc trong chậu thủy tinh, trồng trong dung dịch thủy canh rất đẹp. Cây chịu bóng tốt, Lá cây mọc từ thân chính. Dạng lá cau, lá nhọn dài, lá thưa mềm, Bụi cây nhỏ, thấp.
Lá cây có màu xanh bắt mắt. Cây bụi nhỏ và chậu nhiều kiểu tạo nét thanh lịch khi đặt trên bàn làm việc.

6. Cây Cọ ta


Cây cọ ta Cây chịu bóng bán phần. Cây dáng thấp, lá xòe tròn hình quạt, mép lá răng cưa xẻ khá sâu. Lá cây có màu xanh đậm.

7. Cây Cung Điện Vàng


Cây chịu bóng bán phần hoặc hoàn toàn, thích hợp làm cây nội thất. Nhân gống dễ dàng từ tách bụi. Nhu cầu nước trung bình, ưa khí hậu mát ẩm.
Cây Cung Điện Vàng rất thích hợp bài trí trong nhà, nơi ít ánh sáng và trong môi trường máy lạnh. Bạn không cần phải tốn nhiều thời gian để chăm sóc và sẽ luôn có cảm giác thư thái khi nhìn cây phát triển mỗi ngày.

8. Cây Dứa cảnh nến đỏ


Tốc độ sinh trưởng trung bình. Cây phát triển tốt trong điều kiện che bóng một nửa, nhu cầu nước trung bình. Cây gần như không thân mang lá xếp hoa thị sát gốc, phiến dạng thuôn dài, dài 60cm, rộng 5cm, nhọn đầu, mép nguyên, màu xanh bóng.
Cụm hoa bông mọc ở đỉnh, lá bắc giống lá màu vàng cam một số chủng có màu vàng xanh, hoa màu trắng gốc hồng.

9. Cây hồng môn, tiểu hồng môn


Cây Tiểu Hồng Môn là cây chịu bóng râm (ánh nắng) bán phần, thích hợp trồng cây trang trí nội thất. Loại cây này nhân giống dễ dàng bằng cách tách bụi. Các loại Hồng Môn nói chung là thích sống theo bụi, nên khi chúng ta thấy nó nhảy ra 1- 2 con mà tách ra là cây mẹ bị suy rất lâu phát triển. Nên muốn tách cây con thì lựa bụi nào có khoảng từ 3 – 5 con thì tách ra 1 con để nuôi riêng.

10. Cây Huy Hoàng Trong Nước


Huy hoàng trong nước rất thích hợp bài trí trong nhà, nơi ít ánh sáng và trong môi trường máy lạnh. Bạn không cần phải tốn nhiều thời gian để chăm sóc và sẽ luôn có cảm giác thư thái khi nhìn cây phát triển mỗi ngày.


11. Cây Kim Ngân May Mắn


Cây kim ngân được xem là rất tốt về phong thủy, mang đến cho gia chủ sự may mắn và thịnh vượng. Nên được nhiều người sử dụng chưng bày trong văn phòng làm việc công ty, tiền sảnh nhà hàng, khách sạn….


12. Cây Kim phát tài


Tốc độ sinh trưởng: nhanh, Cây chịu bóng bán phần, nhu cầu nước trung bình thích hợp làm cây trồng nội thất và cây thủy sinh. Nhân giống dễ dàng từ bằng tách bụi hoặc giâm lá, mọc khỏe, ưa khí hậu mát ẩm.


13. Cây Ngọc ngân


Thích hợp trưng bày trên bàn làm việc, mang lại không gian xanh mát cho căn phòng.
Thường xuyên tưới nước vào mùa hè. Trong môi trường khô, đặc biệt dễ bị bay hơi nước, vì vậy bạn cần tưới nước hầu như hàng ngày. Nên tưới cả lá cây giúp tăng cường sự hấp thụ các chất độc hại có trong không khí, đẩy nhanh quá trình quang hợp.


14. Cây Phát Tài, Phất Dụ Thơm, Thiết Mộc Lan


Cây phát tài trong phong thủy, đây là loài cây mang lại may mắn cho gia chủ.
Bạn nên trồng phất dụ ở phía Đông hoặc Đông Nam ngôi nhà – khu vực đại diện cho Mộc và là nơi có ánh sáng thích hợp cho cây và sẽ mang lại tài khí cho gia chủ.
Chính vì đặc điểm này mà không mấy nhà không có một vài nhánh cây cắm vào lộc bình trên bàn làm cảnh, và người ta quan niệm rằng để loại cây này trong nhà, thì gia chủ có lộc.

15. Cây Rau Má Trong Nước


Cây Rau Má thích hợp trồng làm kiểng, hay trồng trong chậu xen kẽ các loại cây cảnh khác để tăng thêm vẻ đẹp. Khi kết hợp với chậu thủy tinh, cây rau má vốn dĩ giản dị và quen thuộc trở nên đẹp hơn và lạ mắt hơn, còn gì bằng khi hồn quê trong từng cọng rau má được mang vào nhà, cơ quan, bàn làm việc như một biểu tượng nhắc nhở chúng ta cố gắng từng ngày.


16. Cây Tai Phật


Cây chủ yếu trồng làm kiểng, để bài trí trong phòng khách, phòng ngủ, phòng làm việc…
Lọc chất độc trong không khí cũng như có khả năng đuổi muỗi
Cây có lá hình trái tim nên còn gọi là Môn Lá Tim tên tiếng anh là Chinese Taro. Đây là cây môn kiểng dùng trang trí trong nhà nên chịu bóng mát bán phần, cây gồm nhiều lá vươn dài,lá cây hình tim, nhẵn, bóng, lá non có màu xanh đọt chuối về già lá xanh đậm hơn.


17. Cây Thanh Tâm Trong Nước


Cây Thanh Tâm mang ý nghĩa phong thủy là giúp bình lặng tâm hồn, xua tan những điều không hay trong cuộc sống. Cây Thanh tâm có thể sống trong môi trường râm mát, phòng máy lạnh vì thế rất thích hợp làm cây cảnh trang trí nội thất.
18. Cây Thịnh Vượng Trong Nước

Cây thịnh vượng

Cây thịnh vượng là loại cây rất thích hợp làm cây cảnh trong nhà vì nó sống tốt trong môi trường máy lạnh đồng thời cũng là loại cây ưa bóng. Thích hợp đặt trên bàn làm việc tại văn phòng hay kệ ti vi tại ngôi nhà của bạn.


19. Cây Thủy Cúc Trong Nước

Chậu cây thủy cúc để bàn

Cây Thủy Canh – Bách Thủy Tiên, mang ý nghĩa may mắn, thịnh vượng, miền vui đến cho bạn, dáng cây thanh tao quí phái, thích hợp cho việc trang trí trong nhà, bàn khách, bàn học, bàn làm việc. là loại cây trồng trong nước rất đươc nhiều người ưa thích.


20. Cây Trúc bách hợp


Tốc độ sinh trưởng: trung bình, Cây ưa sáng hoặc chịu bóng bán phần, thích hợp trồng làm cây nội thất.

(Theo TTVN)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 22 loại cây cảnh gia tăng tài lộc trên bàn làm việc

Xem tướng nốt ruồi đại phú quý –

Tướng nốt ruồi mang lại phú quý. Bạn tò mò đó là những nốt ruồi gì? ở vị trí ra sao? Cùng giải mã ý nghĩa của những nốt ruồi trên ngực và cổ đem lại phú quý và một số nốt ruồi đại phú quý khác. Chúng ta cùng khám phá nhé! Xem tướng nốt ruồi đại phú q

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng nốt ruồi mang lại phú quý. Bạn tò mò đó là những nốt ruồi gì? ở vị trí ra sao? Cùng giải mã ý nghĩa của những nốt ruồi trên ngực và cổ đem lại phú quý và một số nốt ruồi đại phú quý khác. Chúng ta cùng khám phá nhé!

ktt3_9notruoi6kienthuc_xzmh

Nội dung

  • 1 Xem tướng nốt ruồi đại phú quý
    • 1.1 Nốt ruồi mọc ở giữa cổ (yết hầu)
    • 1.2 Nốt ruồi mọc ở vị trí hai bên xương đòn
    • 1.3 Nốt ruồi mọc ở mặt trước hai vai (thuộc vùng ngực)
    • 1.4 Nốt ruồi mọc ở phía trên bầu ngực
    • 1.5 Nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực
    • 1.6 Nốt ruồi mọc ở giữa hai khe ngực

Xem tướng nốt ruồi đại phú quý

Nốt ruồi mọc ở giữa cổ (yết hầu)

Đây là nốt ruồi đại phú quý, mang lại nhiều tài lộc và may mắn cho chủ nhân. Nếu sở hữu nốt ruồi này, bạn không chỉ được nhiều quý nhân trợ giúp, mà còn nhanh chóng gặt hái thành công trong bất kỳ công việc nào.

Ngược lại, nốt ruồi nằm lệch vị trí yết hầu và gần phía vai lại là điều không may mắn, dễ mang đến vận xui.

Nốt ruồi mọc ở vị trí hai bên xương đòn

Đối với cả nam và nữ, nếu có nốt ruồi mọc ở vị trí xương đòn (hay còn gọi là xương quai xanh), đều là người chân thành, tốt tính, làm việc gì cũng cẩn trọng và ổn định. Hơn nữa, tính khí của họ rất hài hòa, dễ hòa đồng và được nhiều người yêu mến, tin tưởng.

Nốt ruồi mọc ở mặt trước hai vai (thuộc vùng ngực)

Trong Nhân tướng học, nốt ruồi tại vị trí này không được yêu thích bởi nó hàm ý vất vả về vật chất. Chủ nhân của nốt ruồi này cũng khó gặp suôn sẻ trong đời sống tinh thần vì phải suy nghĩ quá nhiều.

Nếu sở hữu nốt ruồi này, bạn có thể sẽ phải gồng gánh rất nhiều việc. Do vậy, lúc nào bạn cũng rơi vào trạng thái tất bật, khó nhọc. Tuy nhiên, đây không phải là nốt ruồi nghèo khổ. Khi nỗ lực và cố gắng hết mình, bạn sẽ sớm có cơ hội để thành công.

Nốt ruồi mọc ở phía trên bầu ngực

Nốt ruồi mọc ở phía trên và càng gần bầu ngực càng cho thấy tướng đại phú quý của người sở hữu nó.

Đây là vị trí nốt ruồi tốt nhất ở phần ngực của nữ giới. Bởi lẽ nó mang lại sự thuận lợi trong công danh, sự nghiệp và gia đình.

Nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực

Người xưa gọi nốt ruồi mọc ở phía dưới bầu ngực chính là “kho tiền tả hữu”. Nốt ruồi ở dưới bầu ngực bên trái ám chỉ bạn sẽ tích trữ được nhiều đất đai, nhà cửa về sau.

Nếu mọc ở dưới bầu ngực bên phải, bạn có tương lai trở thành “kho vàng, bạc” hoặc được thừa kế khối tài sản khổng lồ từ người đi trước.

Nốt ruồi mọc ở giữa hai khe ngực

Đây là nốt ruồi hiếm gặp. Những ai sở hữu nốt ruồi này hay tính toán mọi việc để có lợi cho bản thân nhiều nhất, bất chấp phải vượt qua khó khăn thế nào. Thậm chí, đôi khi họ quên cả mọi người xung quanh chỉ vì bản thân.

Xem thêm:

  • Xem tướng khuôn mặt 
  • Xem Tướng Eo Và Tướng Mông Của Phụ Nữ
  • Xem Tướng Trẻ Em Có Số Phận Tốt Và Xấu 
  • Xem Tướng Khuôn Mặt Đoán Phúc Phận
  • Xem tướng cổ đoán vận hạn
  • Tướng đôi môi nói lên điều gì ở nam giới?


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi đại phú quý –

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Điểm danh 4 con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ

Với đầu óc kinh doanh tuyệt đỉnh, những con giáp này dễ dàng trở thành người kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ, khiến bao người trầm trồ thán phục.
Điểm danh 4 con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiền bạc nằm ngay trước mắt bạn, chỉ là bạn có biết cách giành lấy chúng hay không mà thôi.   Ai ai cũng đều ngưỡng mộ người có tiền và mong ước mình cũng trở nên giàu có như họ, nhưng không phải ai cũng biết cách kiếm tiền. Cơ hội đến với tất cả mọi người, nhưng không phải ai cũng biết cách nắm bắt.   Những người thành công là người có tham vọng, có ý chí và có đầu óc tư duy sắc sảo hơn người. Họ nhanh nhạy trước thời cuộc, lanh lẹ nắm bắt thời cơ. Trong lúc những người khác còn đang e ngại và do dự thì họ đã mạnh dạn tiến lên, bất chấp tất cả để giành lấy mục tiêu đã định.   Vậy bạn có biết rằng xem bói tử vi 12 con giáp, ai là người kiếm tiền giỏi nhất, vô địch thiên hạ hay không? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật này nhé.

 

Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 2
 

Tuổi Thân: Đầu óc linh hoạt

  Con giáp này vốn nổi tiếng nhanh nhẹn, hoạt bát trong số 12 con giáp. Họ hiếm khi chịu ngồi yên một chỗ nơi văn phòng, cuối tháng nhận số thù lao ít ỏi. Trong đầu họ, ý chí kiếm tiền luôn sôi sục. Họ có nhiều ý tưởng, suy nghĩ không ngừng nghỉ và thực sự có hành động thực tế để biến suy nghĩ đó hành hiện thực.   Bất kể ý tưởng đó có kì quái khó tin đến đâu thì người tuổi Thân vẫn luôn quyết định làm theo suy nghĩ của mình. Họ nghĩ đơn giản là dù sao thì số vốn bỏ ra cũng không quá nhiều, “được ăn cả, ngã về không”, đâu có sao. Vả lại, không thất bại vài lần thì sao biết cách kinh doanh thành công cho được.
Bạn có biết cách Nhận biết khả năng kiếm tiền qua khuôn mặt không? Đọc ngay nhé.


Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 2
 

 

Tuổi Tị: Không cam tâm trước hiện tại

  Người tuổi Tị thường không hài lòng với chính mình, không chấp nhận thực tại mình là người kém cỏi và tiền bạc ít ỏi. Tuy công việc ổn định nhưng nếu tiền công nhận được không nhiều thì họ cũng sẽ thấy không cam tâm. Bởi số tiền đấy với họ chỉ đủ để nuôi thân, sao có thể trở nên giàu có.    Họ quyết tâm thay đổi vận mệnh, chẳng thể chờ đợi vào chút lương còm đó mà gánh vác cả gia đình vượt qua sóng gió được. Chính vì thế mà họ vắt óc suy nghĩ, đào sâu tìm tòi, làm thêm đủ nghề, cuối cùng cũng tìm ra cách để gây dựng cơ nghiệp, được mệnh danh là một trong những con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ.

Bảo bối phong thủy tấn tài tấn lộc cho 12 con giáp, bạn đã có chưa?
 

Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 3
 

 

Tuổi Tuất: Một nghề cho chín còn hơn chín nghề

 

Với con giáp này, kiếm tiền không nhất định phải bằng cách kinh doanh buôn bán. Người tuổi Tuất cho rằng con đường học hành cũng có thể phát tài phát lộc. Đặc biệt, nếu tinh thông một nghề, từ đó nghiên cứu phát triển ra sản phẩm mới thì việc kiếm tiền bỗng trở nên dễ như trở bàn tay.

Bạn có biết rằng cô nàng tuổi Tuất là một trong số Con giáp nữ kiếm nhiều tiền nhất 12 con giáp?
  Con giáp này vốn thông minh, lại thêm ý chí kiên cường nên họ dễ dàng trở thành người học hành giỏi giang, định hướng mà họ đưa ra cho mình là thông qua học tập để đạt được lợi ích kinh tế. Họ không thấy có gì vất vả khi chuyên tâm nghiên cứu học thuật. Lặng lẽ tập trung làm việc của mình, qua một đêm vang danh thiên hạ chính là nói về con giáp này đó.
 

Diem danh 4 con giap kiem tien gioi nhat thien ha hinh anh 2
 

Tuổi Mùi: Biết lợi dụng những nguồn lực sẵn có

  Con nhà nghèo muốn thành công không phải là không thể, chỉ có điều họ sẽ phải nỗ lực hơn người thường gấp nhiều lần. Còn nếu bạn có sẵn nguồn lực hỗ trợ bên mình thì chuyện thành công chẳng có gì quá khó khăn. Với người thành đạt, chút lợi nhỏ mà họ tiện tay cho bạn có lẽ chẳng đáng gì, nhưng với những người bình thường thì có phấn đấu, tích cóp cả đời chưa chắc đã có được.   Người tuổi Mùi hiểu rõ điều này, họ giỏi xã giao, có duyên ăn nói nên càng thuận lợi trong việc kết giao, đặt mối quan hệ với những người thành đạt xung quanh mình. Từ những mối quan hệ đó, họ tìm kiếm cơ hội để phát tài. Nhờ khả năng nhạy bén mà chỉ dựa vào chút lợi nhỏ nhoi được tùy tiện đưa cho, họ cũng có thể phát triển sự nghiệp thành công rực rỡ. Chẳng thế mà người này được cho là nhờ tài xã giao mà kiếm tiền giỏi, tự mình gây dựng cơ đồ.   An An

Đàn ông tuổi nào kinh doanh giỏi, kiếm tiền nhiều? Top 3 con giáp Nam lọt vào hàng quý hiếm vừa chung thủy lại siêu kiếm tiền Nhìn tướng tay biết ngay khả năng kiếm tiền của bạn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 con giáp kiếm tiền giỏi nhất thiên hạ

Những con giáp chào đón may mắn khi tháng 5 tới

Chuẩn bị chia tay tháng 4 và chào đón tháng 5, đây được coi là thời điểm may mắn đối với một số con giáp. Hãy cùng ## tìm hiểu.
Những con giáp chào đón may mắn khi tháng 5 tới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuẩn bị chia tay tháng 4 và chào đón tháng 5, đây được coi là thời điểm may mắn đối với một số con giáp trong 12 con giáp. Hãy cùng ## tìm hiểu.


Nhung con giap chao don may man khi thang 5 toi hinh anh
 
Tuổi Tỵ

Nhung con giap chao don may man khi thang 5 toi hinh anh 2
 
Tháng 5  là thời điểm vận may đến với người tuổi Tỵ. Con giáp Tỵ luôn mang đến cảm giác thần bí, bởi lẽ họ ngoan cường và không để lộ điểm yếu. Dù sự nghiệp và cuộc sống của họ không tốt, không thuận lợi nhưng khi tháng 5 đến thì mọi việc sẽ lần lượt được hóa giải, liên tiếp gặp may mắn, phúc khí và tài khí sẽ dần dần phục hồi.

Nắm bắt số lượng cá cảnh cải thiện tài vận gia chủ
Việc nuôi cá được nhiều gia chủ lựa chọn để thúc đẩy tài vận, tuy nhiên lại không nắm rõ về ý nghĩa và lợi hại của của số lượng cá được nuôi trong bể.

Tuổi Sửu

Nhung con giap chao don may man khi thang 5 toi hinh anh 3
 
Con giáp Sửu làm việc luôn cẩn trọng và có tính nhẫn nãi cao, vậy nên không khó để tiến thân. Gia đình và công việc luôn được họ đặt lên hàng đầu. Trong tháng 5 này chính là "thiên thời địa lợi" cho họ, khả năng thăng quan phát tài là rất lớn.
  Tuổi Dậu
Nhung con giap chao don may man khi thang 5 toi hinh anh 4
 
Mệnh chủ năm Dậu khi đến với tháng 5 có cát tinh tọa mệnh cung, được quý nhân giúp đỡ, chuyện tình cảm sẽ thuận lợi. Về phương diện sự nghiệp được quý nhân ra tay nên sẽ giảm nhiều trở ngại, có cơ hội thăng quan tiến chức.

Chi Nguyễn

► Xem thêm: Tử vi hàng ngày của 12 con giáp được cập nhật mới nhất

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp chào đón may mắn khi tháng 5 tới

Chạy đua săn quý tử năm Rồng

'Cơn sốt' canh ngày để có con trai tuổi Thìn đang bùng phát mạnh tại Hà Nội và nhiều thành thị, với việc chị em nhộn nhịp đến các phòng khám sản nhờ tư vấn, siêu âm trứng để canh giờ 'yêu', hay bơm dung dịch kiềm...
Chạy đua săn quý tử năm Rồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gần 6 giờ chiều, tại một phòng phám sản trên phố Hoàng Cầu (Đống Đa, Hà Nội) đông nghịt chị em ngồi chờ. Trong số này, chỉ có 3-4 người đến khám thai, vài phụ nữ khám phụ khoa, đặt thuốc, còn đông nhất là số chị em muốn siêu âm trứng.

"Bác sĩ canh trứng mát tay lắm, cơ quan em 4-5 người cùng rủ nhau tới đây canh, cứ tan giờ làm là đến", Thuận, 28 tuổi thì thầm khi ngồi đợi đến lượt siêu âm. Thuận cho biết, con gái đầu lòng của cô mới 2 tuổi rưỡi, nhưng nghe nói con trai mà đứng chữ Nhâm thì tài, mà lại còn Nhâm Thìn nữa thì càng tốt nên hai vợ chồng đang cố đẻ con trai vào năm sau.

Trước khi tìm tới phòng khám này, Thuận đã tham khảo rất nhiều tài liệu hướng dẫn sinh con theo ý muốn trên mạng, thậm chí còn in cả "cẩm nang" về để hai vợ chồng nghiên cứu và áp dụng, từ thực đơn ăn uống, tư thế, ngày quan hệ... "Mọi việc khác mình có thể tự làm, riêng canh ngày rụng trứng để 'yêu' là phải nhờ bác sĩ", Thuận bày tỏ.

Theo bác sĩ dặn, từ ngày thứ 12 của chu kỳ, Thuận sẽ tới siêu âm trứng để xác định thời điểm rụng. "Có ngày 'cao trào' em phải tới siêu âm 3 lần, sáng, trưa, tối để xem chính xác trứng rụng lúc nào còn 'đúc' cu tí. Ông xã cũng phải trực chiến, vợ ới là về ngay. Nhưng chẳng hiểu vì căng thẳng quá hay sao mà mấy chu kỳ rồi mà em vẫn chưa đậu", Thuận kể.

Cô cho biết, để chắc ăn hơn, bác sĩ còn giúp cô bơm nước muối vào vùng kín trước khi vợ chồng "gần gũi".

"Công cuộc 'săn rồng' mệt lắm, nhưng chồng em là con trai một, đứa thứ hai mà vẫn là con gái thì chắc lại phải đẻ tiếp", Thuận thổ lộ.

Cũng mong đậu thằng cu như Thuận, nhiều chị em không ngại tốn thời gian, tiền bạc tìm tới các phòng khám sản phụ khoa nhờ canh trứng, tư vấn sinh con trai. Tại hầu hết các phòng khám tư của những bác sĩ có tiếng ở Đê La Thành, Hoàng Cầu, Kim Ngưu, Cầu Giấy, Hà Đông... dịch vụ này đều sẵn sàng và khá hút khách. Cũng có một số chị em eo hẹp thời gian, ngân sách thì tự tham khảo tài liệu rồi tính toán, áp dụng.

Ngồi đợi tại một phòng siêu âm tư nhân trên đường Trần Bình, Cầu Giấy, Hà Nội, chị Phượng (Phú Diễn, Từ Liêm) cho biết, vì bận công việc, lại phải lo cho con nhỏ, ban đầu, chị tự mua que thử rụng trứng về canh nhưng không được như ý nên đành đi siêu âm trứng cho chắc ăn. "Ở đây họ chỉ chuyên siêu âm chứ không khám sản phụ khoa nên không tư vấn được nhiều, mình phải tự tính toán thêm, nhưng được cái gần nhà nên theo có thể tới thường xuyên", chị nói.

Dù không có chuyên môn về sản khoa, nhưng khi được yêu cầu canh trứng sinh bé trai, cô kỹ thuật viên của phòng siêu âm này cũng hướng dẫn tận tình: "Nếu chu kỳ của chị ngắn, dưới 28 ngày thì cứ tầm khoảng ngày thứ 8 thì chị bắt đầu tới, còn chu kỳ dài hơn thì cứ 10 ngày qua đây, sau đó tùy vào kết quả siêu âm, bác sĩ sẽ hẹn tiếp".

Không chỉ áp dụng các cách "hiện đại", nhiều người còn vận dụng theo những cách dân gian, như tính tuổi bố mẹ và tháng thụ thai, hay uống thuốc bắc để tinh trùng khỏe hơn, rồi đeo đá phong thủy...

Bác sĩ Lê Thị Kim Dung, Trung tâm Y khoa Thái Hà (Đống Đa, Hà Nội) cho biết, dù liên tục từ chối nhưng bà vẫn thường xuyên nhận được những lời nài nỉ nhờ tư vấn, siêu âm trứng để sinh con theo ý muốn, trong đó, cứ 10 người muốn sinh con trai thì chỉ có 1 là mong đẻ con gái.

"Việc này năm nào, tháng nào cũng có, nhưng gần đây có vẻ rộ hơn, do các mẹ mong đẻ được quý tử năm rồng. Đa số rơi vào những người sinh con thứ 2, một số là con thứ ba, và không ít người sinh con đầu cũng muốn 'canh'", bà nói.

Không chỉ người Bắc khát con trai, chuyện canh trứng tính ngày để có quý tử cũng bắt gặp tại nhiều nơi khác như TP HCM, các tỉnh miền trung hay nông thôn.

Cưới từ năm ngoái nhưng vợ chồng chị Thanh Ngọc (quận Bình Thạnh, TP HCM) cố “nhịn” cho đến năm nay để chờ sinh "rồng con”.

Chị Ngọc thực hiện rất nghiêm ngặt những “kinh nghiệm dân gian” mà mẹ chồng dặn dò, từ ăn nhiều hải sản, thịt bò, thịt lợn, trứng, hạn chế ăn rau, đến uống thảo dược, nhai mấy chỏm cau non, rồi tập niệm vòng hạt, và chỉ “gần” chồng vào giữa trưa... Tuy nhiên, dù đã “thả” gần nửa năm mà chưa dính, chị lại thấp thỏm vì “vừa sợ không sinh được con năm rồng vừa lo vô sinh".

Ngay từ cuối năm ngoái, trên các diễn đàn online, nhiều chủ đề như “làm sao để sinh con năm rồng” liên tục được lập ra và thu hút hàng nghìn thành viên tham gia, chia sẻ kinh nghiệm hoặc giới thiệu các cuốn “bí kíp”.

Trên trang webtretho, thành viên Nghi Phuong cho biết, chị đã đọc kỹ sách hướng dẫn theo dõi chu kì rụng trứng để căn giờ thụ thai nhưng vẫn chưa “thông".

“Em định tới kỳ rụng trứng tới sẽ tiến hành rửa âm đạo bằng nước chanh, không biết mẹ nào đã làm chưa và có hiệu quả không truyền bí kíp cho em với ạ!”, thành viên này kêu gọi.

Không những muốn sinh quý tử năm rồng, nhiều người mong con ra đời đúng vào giờ, ngày, tháng Thìn. “Em xem Lục thập hoa giáp bảo đẻ con năm Nhâm Thìn nên đẻ vào 9h ngày 01/04/2012, là giờ Thìn, ngày Nhâm Thìn, tháng Giáp Thìn, năm Nhâm Thìn. Em bàn với chồng rồi nhất định phải căn đúng thời khắc này mới được, thậm chí đẻ mổ cũng phải cố”, mebengo chia sẻ.

Theo bác sĩ Kim Dung, hiện nay, hầu như phòng khám sản phụ khoa tư nhân nào cũng sẵn sàng thực hiện việc này: từ tư vấn, siêu âm trứng, tới rửa vùng kín bằng dung dịch kiềm, cho uống thuốc tăng kali...

"Theo luật thì việc lựa chọn giới tính này bị cấm, phạt, nhưng thực tế, có nhiều cách để lách, như thỏa thuận ngầm giữa bác sĩ và bệnh nhân, hay lập lờ giữa việc siêu âm, tư vấn chữa hiếm muộn với việc sinh con theo ý muốn", một bác sĩ sản khác tiết lộ.

Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết, hiện chưa có thống kê nào về hiệu quả thực sự của các biện pháp sinh con theo ý muốn như chế độ ăn, cải tạo môi trường âm đạo... và thực sự những cách này không mấy hiệu quả.

Ông cho biết, sự hình thành giới tính thai nhi chịu tác động của nhiều yếu tố như do di truyền, tính chất của tinh trùng (khỏe hay yếu, số lượng bao nhiêu, khả năng di chuyển ra sao, tinh trùng Y phân lập thế nào...), mức miễn dịch của âm đạo (có trường hợp môi trường âm đạo giết chết tinh trùng Y), thời điểm rụng trứng, thời điểm giao hợp... Hơn nữa, mỗi lần thụ thai, xác suất sinh con trai và con gái theo quy luật tự nhiên là 50/50, nên nhiều người, sinh con trai theo theo xác suất này lại ngộ nhận là do áp dụng phương pháp hiệu nghiệm.

Một bác sĩ tâm lý làm việc tại TP HCM cho biết, chưa có thống kê nào về những người sinh “giờ vàng, ngày vàng” hay “năm vàng” thành công hơn những người còn lại. Hơn nữa chính những tập tục kiêng kỵ dân gian như thế đã góp phần làm lệch cán cân dân số vốn đang là nỗi lo của nhiều quốc gia trên thế giới.

“Sinh được một đứa con thông minh, khoẻ mạnh hay không còn do sức khỏe của thai phụ, chế độ dinh dưỡng, tập thể dục thời điểm , trong và sau thai kỳ… Xét cho cùng nếu sinh được ‘heo vàng, rồng vàng’ mà không chú ý việc giáo dục chúng thì cũng bằng không”, vị bác sĩ nhấn mạnh.

Nguồn: Vnexpress.net 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chạy đua săn quý tử năm Rồng

Chỉ ra 3 con giáp nhiều tiền nhất tháng 7

Bước vào tháng 7, người tuổi Mùi gặp được quý nhân phù trợ, thông qua nhiều kênh giao tiếp để có thể tìm cho mình không chỉ một cơ hội phát triển sự nghiệp,
Chỉ ra 3 con giáp nhiều tiền nhất tháng 7

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– tài lộc. Con đường làm giàu của bạn từ đây như được trải hoa hồng, không khó để gặt hái thành công.


Không thể tin được những con giáp “xuất khẩu hành nhân” Thế giới của những con giáp không thể sống thiếu điện thoại Nếu buồn bã, hãy gặp những con giáp này là vui ngay  
1. Người tuổi Mùi   Trải qua năm tuổi Ất Mùi với nhiều biến động lớn về tài lộc, sự nghiệp cũng như tình duyên, bước sang năm Bính Thân, vận khí của người tuổi Mùi dần thăng cấp, chuyển biến tích cực. Nhất là những tháng cuối năm, con giáp này liên tiếp đón những vận may về tài chính.  
Chi ra 3 con giap nhieu tien nhat thang 7 hinh anh
 
tài lộc. Con đường làm giàu của bạn từ đây như được trải hoa hồng, không khó để gặt hái thành công.   Bản thân bạn đã nỗ lực hết mình trong suốt thời gian dài vừa qua. Tất nhiên, đã cố gắng ắt được đền đáp. Chỉ cần tin tưởng bản thân, nhắc nhở mình luôn phấn đấu, nhất định thành công sẽ mỉm cười với bạn. Đây chính là một trong những con giáp nhiều tiền nhất tháng 7.   Trong tháng, tài lộc rất vượng, kinh doanh, buôn bán đều may mắn, kiếm lời tốt. Trong đầu tư, bạn nên mạnh dạn hơn nữa, tìm người hợp mệnh để hợp tác làm ăn, viễn cảnh tương lai càng thêm tươi sáng.
Lấy chàng trai tuổi này làm chồng, khỏi muộn phiền vì tiền bạc Con giáp càng không biết tiêu tiền càng nghèo rớt mồng tơi Ưu điểm và khuyết điểm trong tính cách của 12 con giáp
2. Người tuổi Thìn
  Tháng 7 có thể được coi là “tháng thu hoạch” của người tuổi Thìn. Dù tiết Thu chưa tới, nhưng vận khí của con giáp này bắt đầu có chuyển biến tích cực. Bạn có thể mỉm cười tự hào với những thành quả đạt được.  
Chi ra 3 con giap nhieu tien nhat thang 7 hinh anh 2
 
Bạn hoàn toàn xứng đáng với điều đó. Bởi trải qua quá trình vất vả, khó nhọc, phấn đấu hết mình, bạn gặt hái được hoa thơm trái ngọt, tài lộc dồi dào âu cũng là lẽ đương nhiên.    Vậy nên, trong tháng bạn có cảm giác kiếm tiền dễ dàng hơn, thậm chí “tiền vào như nước sông Đà”, lúc nào cũng ở thế thượng phong, rủng rỉnh tiền tiêu.    Nhưng cần nhớ, đừng bao giờ “ngủ quên trên đỉnh vinh quang” bạn nhé. Càng những lúc thành công, bạn càng cần giữ cho mình đầu óc tỉnh táo, sáng suốt để tính đường đi nước bước tiếp theo. Có như thế, tài lộc càng thêm vượng phát theo thời gian.   3. Người tuổi Tỵ  
Chi ra 3 con giap nhieu tien nhat thang 7 hinh anh
 
Người tuổi Tỵ có thể kê cao gối mà ngủ trong tháng 7 này, bởi vây quanh bạn là những tin vui bất ngờ, nhất là về mặt tài chính, khiến người khác không khỏi ngưỡng mộ.    Trải qua quãng thời gian dài thử nghiệm, tìm tỏi, cuối cùng bạn cũng có được thành công bước đầu trong công việc, sự nghiệp. Sự nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân, cộng thêm với quý nhân trợ giúp và cả Thần Tài chiếu cố, phúc khí của con giáp này ngày càng vượng, tiền tài công danh như ý.   Lưu ý, chỉ cần người tuổi Tỵ không làm những chuyện phạm pháp, trái với lương tâm ắt được hưởng vinh hoa phú quý, chuẩn bị tinh thần bị “tiền đè chết người” trong tháng nhé.
► Mời các bạn theo dõi Tử vi hàng tháng được cập nhật mới nhất tại Lịch ngày tốt

An Nhiên
Con giáp đào hoa nhất tháng 7, sợ gì kiếp FA đeo bám
Nếu chưa tìm được đối tượng ưng ý trong tháng 6, tới tháng 7 này là cơ hội hiếm có của những con giáp dưới đây. Nếu có mặt trong danh sách này, bạn kê cao gối

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ ra 3 con giáp nhiều tiền nhất tháng 7

Phong thủy về tên người –

Nếu đứa bé đi học mà suốt ngày bị bạn bè chế giễu vì cái tên thì sẽ ảnh hưởng không ít đến phát triển tâm lý và sự tự tin khi giao tiếp. Hay nói cách khác, đó chính là hiện tượng phong thủy xấu gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn. Họ tên c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu đứa bé đi học mà suốt ngày bị bạn bè chế giễu vì cái tên thì sẽ ảnh hưởng không ít đến phát triển tâm lý và sự tự tin khi giao tiếp. Hay nói cách khác, đó chính là hiện tượng phong thủy xấu gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn.

Họ tên của mỗi người là tài sản quý giá đầu tiên mà bố mẹ dành cho, phản ánh ít nhiều kỳ vọng, tình thương của cha mẹ đối với đứa con thân yêu của mình. Họ tên có ảnh hưởng quan trọng đến tương lai sự nghiệp, sức khỏe, vận mệnh của mỗi con người chứ không đơn giản chỉ là công cụ để phân biệt người này với người kia.

Chúng ta đều biết rằng, nghệ thuật phong thủy là phương pháp sử dụng các đồ vật bài trí trong nhà để thu hút sinh khí, loại trừ tà khí, đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp cho gia chủ. Tương tự như vậy, họ tên của mỗi người có thể nói cũng là một công cụ phong thủy, ảnh hưởng đến “gia chủ”, tức là người mang cái tên đó, bởi nó thường xuyên đồng hành với mỗi “gia chủ” cho đến hết đời, hàng ngày được người ta nhắc gọi thường xuyên trong giao tiếp và trên giấy tờ. Tuy nhiên, việc ảnh hưởng xấu hay tốt đến vận mệnh cuộc đời mỗi cá nhân còn phụ thuộc vào cái “công cụ phong thủy” đó tốt hay xấu.

datten

 

Nếu như cái tên có âm dương hòa hợp, thuận theo ngũ hành tương sinh, phù hợp với bản mệnh…thì sẽ có trợ giúp đắc lực cho vận mệnh chủ nhân, đem lại may mắn, hạnh phúc, tài lộc, danh vọng. Ngược lại, nếu là một cái tên xấu, mất cân bằng âm dương, ngũ hành tương khắc, xung khắc với bản mệnh chủ nhân…thì sẽ có hại cho sức khỏe, đem lại điều rủi ro, tài lộc rơi vãi, thậm chí nguy hại đến tuổi thọ và tính mạng.

Mức độ tốt xấu của họ tên còn phụ thuộc vào ý nghĩa, âm vận của nó. Nếu như một cái tên được đặt mà gợi nghĩa xấu, thô tục, khiếm nhã thì chắc hẳn sẽ làm cho người xướng cái tên đó cảm thấy mất cảm tình (ví dụ Trần Đại Phá, Nguyễn Trường Hận, Mai Phạt Sáu Ngàn Rưởi, Võ Thị Xin Thôi, Lê Thị Ly Tan…). Một cái tên có ý nghĩa tuyệt đối còn có thể gây ra cảm giác khó chịu, dễ bị soi mói, chế giễu hơn là đồng cảm (ví dụ như Cao Bạch Tuyết, Bùi Mỹ Mãn, Vương Thái Hậu, Trần Diễm Lệ, Hoàng Vô Địch…). Ngược lại, nếu là một cái tên có ý nghĩa đẹp, trang trọng, thể hiện tình cảm, ý chí, khí chất cao nhã của người mang tên đó thì sẽ dễ chiếm được cảm tình của mọi người, rất có lợi cho quan hệ giao tiếp, làm ăn, đề bạt (ví dụ như Cao Đức Phát, Lê Hồng Phong, Phan Bảo Tín, Đặng Thành Tâm…).

Tương tự như ý nghĩa, âm vận của cái tên cũng có ý nghĩa phong thủy nhất định. Một cái tên có âm bằng trắc cân đối, nhịp nhàng, âm vang thì người gọi tên đó cũng cảm thấy thuận miệng, vui tai, nhớ lâu (ví dụ như Phạm Như Hoa, Đinh Bảo Thoa, Đặng Ngọc Hân…). Nếu như quan hệ bằng trắc rối loạn, âm thanh ngắn cụt hoặc trúc trắc thì rõ ràng đọc không thuận miệng, đem lại cảm giác trầm đục, thiếu sức sống hoặc gọi đứt hơi và khó nhớ (ví dụ Trịnh Thị Mộng Phượng, Nguyễn Tiến Vĩnh, Vũ Bảo Nghĩa…). Những cái tên như thế sẽ có ảnh hưởng nhất định đến cảm tính (trong tiềm thức) của bạn bè, lãnh đạo, đối tác trong giao tiếp.

Ngoài ra, những người có cái tên kém trang nhã hoặc có ý nghĩa xấu, thô thiển do hiện tượng đọc lái sinh ra (ví dụ như Lại Tiến Tùng, Trần Tú Viên, Nguyễn Y Vân, Đàm Nguyên Tú…) rất dễ là tâm điểm của sự trêu chọc. Nếu đứa bé đi học mà suốt ngày bị bạn bè chế giễu vì cái tên thì sẽ ảnh hưởng không ít đến phát triển tâm lý và sự tự tin khi giao tiếp. Hay nói cách khác, đó chính là hiện tượng phong thủy xấu gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn.

Theo quan niệm của tử vi truyền thống, mỗi con người khi sinh ra về cơ bản đã được số mệnh an bài, cát hung đã định. Sự khác biệt ở thực tế (xấu hơn hoặc tốt hơn dự tính) là do có sự thay đổi ở môi trường sống, phúc đức của tổ tiên và chất lượng tu dưỡng của bản thân. Tương tự như vậy, trong Tính Danh Học (môn khoa học về đặt tên) cũng xác định Họ là yếu tố đã định, không thể thay đổi do có sự kế thừa truyền đời, đại diện cho âm đức của tổ tiên.

Tên (bao gồm tên đệm và tên chính) là yếu tố sinh sau, được lựa chọn có chủ ý và có thể thay đổi được nhằm hỗ trợ cho bản mệnh, tăng cường sự may mắn, tốt lành, loại trừ những tác động tiêu cực có thể xảy ra. Việc lựa chọn tên theo hướng phù hợp với bản mệnh, âm dương, ngũ hành, can chi…nhằm đem lại sự may mắn, an khang, hanh thông cho chủ nhân chính là nội dung chủ yếu của Tính Danh Học. Đây là một môn khoa học có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc, Nhật Bản, trải qua hàng ngàn năm hun đúc và chứng thực, đã trở thành bảo bối được ứng dụng rộng rãi trong văn hóa đặt tên.

Người xưa có câu “cho con ngàn vàng không bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề không bằng đặt cho con một cái tên hay”, có ý nhấn mạnh vai trò quan trọng của cái tên. Vì vậy, các bậc cha mẹ hãy cẩn trọng và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định đặt tên cho con yêu của mình nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy về tên người –

Tuổi Tý hợp làm ăn với tuổi nào?

Người tuổi Tý độc lập tự cường, rất giỏi nắm bắt và cập nhật thông tin. Vậy, để đạt được thành công trong sự nghiệp thì người tuổi Tý hợp làm ăn với tuổi nào?
Tuổi Tý hợp làm ăn với tuổi nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý độc lập tự cường, rất giỏi nắm bắt và cập nhật thông tin. Vậy, để đạt được thành công trong sự nghiệp thì người tuổi Tý nên kết giao hợp tác với tuổi nào?


Tuoi Ty hop lam an voi tuoi nao hinh anh
Người tuổi Tý làm việc theo kế hoạch

Người tuổi Tý
trong 12 con giáp rất khôn khéo, họ rất giỏi che giấu nội tâm, vui buồn không hề thể hiện trên nét mặt. Người tuổi Tý rất tài lanh, họ đa mưu túc trí, trong việc làm ăn không cần cố vấn, có thể tự mình đưa ra quyết định mà vẫn đạt được thành công.
  Người tuổi Tý làm việc theo kế hoạch, họ tính toán sao cho có thể phát huy hết năng lực của mình, họ cũng là người làm việc có quy tắc, họ hiểu mình muốn cái gì, bởi vậy, người tuổi Tý không nên hợp tác cùng người khác bởi tranh chấp rất dễ xảy ra.   Người tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?   Với tuổi Tý: Phối hợp không tốt, thường gặp thất bại, mối quan hệ cũng chấm dứt sau khi phá sản.   Với tuổi Sửu: Có thể hợp tác. Người tuổi Sửu có thể trí tuệ không cao siêu nhưng lại có ưu điểm là khá cần cù, bởi vậy có thể hợp tác. Trong kết hợp làm ăn, người tuổi Tý sẽ đảm nhận những công việc đòi hỏi trí tuệ và sự phân tích cao.   Với tuổi Dần: Có thể hợp tác ở một mức độ nào đó, nhưng người tuổi Tý phải thành thật bới người tuổi Tý luôn biết đâu là cơ hội tốt còn người tuổi Dần lại  không chắc lắm, nếu không sẽ hối tiếc không kịp.   Với tuổi Mão: Hợp tác không có khả năng kéo dài bởi khi Tý và Mão hợp tác thì phương pháp kinh doanh có chút bất thường.   Với tuổi Thìn: Có thể hợp tác nhưng người tuổi Tý nên biết kiềm chế mình để cho người tuổi Thìn làm chủ thì mới có lợi cho sự phát triển.

Tuoi Ty hop lam an voi tuoi nao hinh anh
Kết cục Tý - Tị là thường tan nát
  Với tuổi Tị: Luôn có một điều gì đó giả dối trong mối quan hệ này, kết cục thường là tan nát vậy nên đừng cố làm nổi bật mối quan hệ.   Với tuổi Ngọ: Mối quan hệ này tuyệt đối là không thể được. Người tuổi Tý và người tuổi Ngọ thường ganh ghét lẫn nhau nên thường bày mưu tính kế để hãm hại đối phương.   Với tuổi Mùi: Sự hợp tác có phần hài hước, người tuổi Mùi luôn dùng ánh mắt kiểu nghệ thuật để quan sát hành động của người tuổi Tý. Nếu hợp tác làm ăn thì sẽ bị mọi người gièm pha, nói xấu, sớm muộn gì cũng tan rã.   Với tuổi Thân: Có thể hợp tác nhưng người tuổi Tý nên có những suy nghĩ độc lập bởi người tuổi Thân luôn luôn có những điểm không rõ ràng, hoặc luôn có những ý nghĩ “bàn lùi” khiến đối phương cảm thấy uể oải, nản chí.
Với tuổi Dậu: Mối quan hệ có chút mạo hiểm, kiểu như đánh bạc bởi người tuổi Dậu không có năng khiếu trong lĩnh vực kinh doanh. 
Với tuổi Tuất: Người tuổi Tuất không nên kết giao hợp tác với người tuổi Tý bởi người tuổi Tuất không có lý tưởng rõ ràng, khả năng tập trung kém nên thường gặp thất bại.

Tuoi Ty hop lam an voi tuoi nao hinh anh
Người tuổi Hợi có vận khí cao hơn các tuổi khác

Với tuổi Hợi: Có thể kết giao làm ăn, ở phương diện tài chính, người tuổi Hợi luôn có vận khí cao hơn người khác, người tuổi Tý có thể dựa vào mà thu lợi, cũng bởi vậy mà người tuổi Hợi lại gặp tổn thất lớn.  
► ## cung cấp công cụ giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Phương Thùy
Người tuổi Thân nên hợp tác làm ăn với tuổi nào?
Người tuổi Thân hoạt bát, hiếu động, có chủ kiến, tính độc lập cao, với tính cách như vậy, nếu kết hợp làm ăn cùng 12 con giáp thì sao?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tý hợp làm ăn với tuổi nào?

Tướng người gian –

Vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước hổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đỏ. Lông mày len mí, tóc thô cứng, mặt bạnh, mũi hỉnh là cô độc, khắc sát nghèo hèn. Mũi cong khoảng giữa, mũi có ngấn, lỗ mũi ngó trời mũi hỉnh là tướng đa d
Tướng người gian –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người gian –

Lưu ý phong thủy trong phòng giặt –

Tương tự phòng tắm, phòng giặt là có nhiều năng lượng hành thủy và tác động “tiêu hao” tiềm ẩn đối với năng lượng của khu vực đó. Hãy sử dụng hiểu biết về tương tác ngũ hành để đánh giá liệu có nên điều chỉnh màu sắc và trang trí của những không gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đó, tạo nên sự hài hòa hơn với vị trí của chúng trong bát quái đồ.

giat-la

Phần lớn mọi người không nghĩ tới việc trang trí phòng giặt là, nhưng khi làm điều đó, bạn sẽ nhận thấy tác động rõ rệt. Những thay đổi nhỏ rất dễ dàng và thú vị, tác động có thể vượt quá quy mô của chúng. Hãy bắt đầu bằng cách kết hợp một số ý tưởng dưới đây cùng với khả năng sáng tạo của bạn, các khả năng luôn là vô tận.

– Phòng giặt là nằm ở cung Sự nghiệp: Đây là căn phòng thuộc hành thủy, các thiết bị màu trắng mang năng lượng hành kim có tác dụng trợ giúp. Màu crôm và màu xanh sẫm là những màu thích hợp. Hãy “thổi phồng” mối liên hệ giữa căn phòng này với nước và biến không gian này trở nên khôi hài, ngộ nghĩnh bằng những nam châm và tay nắm tủ hình cá. Đôi khi chúng ta quên rằng công việc được làm tốt nhất khi chúng ta cảm thấy như đang chơi đùa.

– Phòng giặt là nằm ở cung Học vấn: Năng lượng hành thủy ở đây có thể hơi yếu, vì thế  hãy bổ sung năng lượng hành thổ để ổn định không gian này. Trang trí các vật màu nâu và xanh nhạt, chọn các vật dạng hành thổ như gạch trang trí hình vuông có màu đất để treo trên tường.

– Phòng giặt là nằm ở cung Gia đình: Hành thủy ở đây hỗ trợ năng lượng hành mộc. Tốt nhất là các gam màu xanh nhạt. Nếu có chỗ trống trên tường, hãy tạo ra một gallery ảnh gia đình thân mật.

– Phòng giặt là nằm ở cung Danh vọng: Thủy sẽ dập tắt năng lượng hành hỏa vốn gắn với cung Danh vọng, vì thế hãy bổ sung nhiều hành mộc (màu xanh, thực vật) để hút bởt thủy và nuôi dưỡng hòa, tìm cơ hội bổ sung năng lượng hành hỏa, ví dụ như sơn đỏ tất cả tay nắm của tủ và ngăn kéo.

– Phòng giặt là nằm ở cung Hôn nhân: Vị trí này sẽ được lợi từ nhiều tông màu đất và các điểm nhấn màu hồng, nhất là với các thiết bị màu trắng (năng lượng hành kim). Tránh các màu tối và tìm cơ hội xếp đặt đồ vật thành từng cặp, ví dụ như hai cái giỏ đựng đồ nhỏ xinh đặt cạnh nhau.

– Phòng giặt là nằm ở cung Con cái & Sáng tạo: Kim bị thủy làm suy yếu, vì thế hãy giữ trang trí màu trắng và sáng. Một vài mảng màu sáng là thích hợp, đặc biệt nếu đó là tác phẩm nghệ thuật của con cái.

– Phòng giặt là nằm ở cung Quý nhân & Du lịch: Cung bát quái này cũng thuộc hành kim, vì thế cần trang trí làm nổi bật màu trắng, xám và lấp lánh. Màu sắc và đỏ trang trí dạng hành thổ cũng thích hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý phong thủy trong phòng giặt –

Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất

Cùng tìm hiểu xem phải đợi bao lâu nữa tài vận sẽ đến với bạn nhé!
Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ti-5980-1394185638-3254-1395704691.jpg suu-3178-1394185638-8731-1395704691.jpg dan-8805-1394185639-6200-1395704691.jpg mao-2068-1394185639-7978-1395704691.jpg
Sửu Dần Mão
rong-4823-1394185639-3308-1395704691.jpg ran-3844-1394185639-2079-1395704691.jpg Ngo-5545-1394185639-8561-1395704692.jpg mui-8120-1394185639-3749-1395704692.jpg
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
than-6980-1394185639-7894-1395704692.jpg d-u-2496-1394185639-1722-1395704692.jpg tuat-3626-1394185640-9365-1395704692.jpg hoi-6816-1394185640-3719-1395704692.jpg
Thân Dậu Tuất Hợi

Mr.Bull (theo QQ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm nào 12 con giáp dễ phát tài nhất

Hình dáng đôi môi hé lộ tính cách, tình cảm của nam giới

Chàng trai môi dày sống có trách nhiệm với tình yêu; môi mỏng thường dẻo miệng dễ ngoại tình...
Hình dáng đôi môi hé lộ tính cách, tình cảm của nam giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi môi dày - Có trách nhiệm trong tình yêu

1-5806-1412569539.jpg

Chàng trai có đôi môi dày sống trách nhiệm, biết gánh vác mọi chuyện lớn nhỏ trong nhà. Dù mệt mỏi hay khó khăn thế nào, họ cũng không oán than nửa lời. Không chỉ là việc nhà, họ sẽ vì người mình yêu mà làm bất cứ chuyện gì. Lời khuyên tốt nhất dành cho họ là hãy biết tự quan tâm đến bản thân hơn.

2. Môi mỏng - Dẻo miệng dễ ngoại tình

0-2741-1412569539.jpg

Chàng trai có đôi môi mỏng thường rất dẻo miệng, tài ăn nói. Cùng họ tranh luận sẽ chỉ phí công bạn mà thôi. Có thể bạn không tin tưởng lời họ nhưng bạn cũng không thể tìm nổi lý do để phản bác, cho nên tốt nhất đừng tranh luận. Bạn cũng đừng nên để tâm đến ý nghĩa từng câu nói của họ, vì hầu hết đều là nói dối.

3. Khóe môi lớn - Biết bảo vệ tình yêu, khóe môi nhỏ - nhút nhát

top-10-nam-dien-vien-hang-a-2090-1412569

Kích thước môi cũng phản ánh tính cách của một chàng trai, người có khóe môi lớn sẵn sàng dùng tất cả sức mạnh của mình để bảo vệ người họ yêu thương, còn bản thân có gặp phải chuyện gì cũng không sợ. Khóe môi bé thì lại là người nhút nhát, khó làm nên sự nghiệp.

4. Môi lớn nhưng mỏng - Dễ gây tổn thương tình cảm

4-7016-1412569539.jpg

Chàng trai có tướng môi như vậy thường thích uống rượu, nhưng tửu lượng không cao, còn hay tức giận với người mình yêu, làm tổn thương người yêu cũng như tổn thương tình cảm hai người. Không những thế, tuýp người này còn thường dùng lời ngon ngọt để đánh lừa người khác. Họ rất giỏi trong việc dùng lời nói dối để che đậy một lời nói dối khác.

5. Môi trên dày - trọng tình cảm, môi dưới dày - dễ thành công

5-3866-1412569539.jpg

Chàng trai có môi trên dày hơn môi dưới rất trọng tình, đã yêu ai sẽ yêu rất say mê. Còn chàng trai có môi dưới dày hơn môi trên là nhà lãnh đạo bẩm sinh, có chủ kiến, gặt hái được nhiều thành tựu, nhưng lại tùy hứng trong tình yêu - lúc cuồng nhiệt, lúc lại hờ hững, lạnh lùng đến khó hiểu.

Kunie (Theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình dáng đôi môi hé lộ tính cách, tình cảm của nam giới

Nhận diện tướng người thông minh

Những người thông minh thường có vầng trán cao rộng, mắt sáng, miệng góc cạnh cân xứng.
Nhận diện tướng người thông minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trán cao rộng

Những người sở hữu vầng trán cao, rộng và vuông hoặc tròn đầy đặn luôn toát lên vẻ năng động, hào phóng, thông minh, tài trí.

Lông mày có nốt ruồi

Người quý phái lại thông minh sắc sảo thường sẽ có nốt ruồi ở lông mày.

nhan-dien-tuong-nguoi-thong-minh

Mắt sáng

Những người mắt sáng, lòng đen nhiều hơn lòng trắng thường là tướng ngay thẳng, thật thà, thông minh và chung thủy.

Đỉnh tai cao hơn hoặc song song với lông mày

Người có đỉnh tai cao hơn so với lông mày không những thông minh mà còn có tài văn chương, cuộc đời được hưởng nhiều lộc may.

Miệng góc cạnh rõ ràng, cân xứng

Chủ nhân của đôi môi cân xứng, sắc môi hồng hào, góc cạnh rõ ràng thường thông minh hơn người. Không những thế, họ rất tốt bụng và có khả năng thành công cao trong sự nghiệp.

Muru (theo sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện tướng người thông minh

Tính Tốt Xấu Của Thể, Dụng

- Quẻ Thể Phải vượng mới tốt. Khí của quẻ Thể suy là điều không cát lợi. Quẻ khắc Thể phải suy mới tốt. Quẻ Dụng, Hỗ, Biến thừa vượng đều là cát lợi, nhưng không được khắc quẻ Thể, nếu khắc thì nguy hại.
Tính Tốt Xấu Của Thể, Dụng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tốt - xấu của Thể Và Dụng

- Quẻ Thể Phải vượng mới tốt. Khí của quẻ Thể suy là điều không cát lợi. Quẻ khắc Thể phải suy mới tốt. Quẻ Dụng, Hỗ, Biến thừa vượng đều là cát lợi, nhưng không được khắc quẻ Thể, nếu khắc thì nguy hại. Nếu trong trùng quái có quẻ sinh Quẻ Thể thì dù Thể suy yếu cũng không nguy hại lắm. Ngược lại khi không có quẻ sinh Thể thì dụ quẻ Thể có vượng thì cũng không được cát lợi lắm. Vượng suy của các quẻ phải được căn cứ vào các mùa và các tháng để xem quẻ

- Ngũ hành của các quẻ đơn:

Quẻ Càn - hành Kim
Quẻ Đoài - hành Kim
Quẻ Ly - hành Hỏa
Quẻ Tốn - hành Mộc
Quẻ Tôn - hành Mộc
Quẻ Khảm - hành Thủy
Quẻ Cấn - hành Thổ
Quẻ Khôn - hành Thổ

- Ngũ hành các Tháng trong năm:

Tháng giêng - Mộc
2 - Mộc
3 - Thổ
4 - Hỏa
5 - Hỏa
6 - Thổ
7 - Kim
8 - Kim
9 - Thổ
10 - Thủy
11 - Thủy
12 - Thổ

- Quan hệ Sinh - Khắc Thể, Dụng như sau:
+ Thể khắc Dụng thì việc lanh lợi.
+ Dụng khắc Thể thì việc bất lợi
+ Dụng sinh Thể thì việc thuận lợi
+ Thể sinh Dụng thì việc chưa chắc đã thành công
+ Thể, Dụng tỷ hòa (đồng hành với nhau) thì việc thường là thuận lợi nhưng hơi lâu
+ Không có quẻ khác khắc Thể thì việc chắc sẽ thành công.

- Khi xem nhà ở có tốt không:
+ Thể khắc Dụng thì nhà thì nhà đó ở tốt, may mắn
+ Thể sinh Dụng thì tài sản kém dần
+ Dụng khắc Thể thì nhà không dễ ở, nhiều hiểm nguy
+ Dụng sinh Thể thì nhà hưng vượng dần
+ Thể, Dụng tỷ hòa thì nhà bình thường yên ổn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính Tốt Xấu Của Thể, Dụng

Trang trí nhà đẹp với những bông hoa lan

Bạn có thể trang trí nhiều không gian khác nhau trong ngôi nhà với hoa lan bởi loài hoa này mang vẻ đẹp sang trọng, tinh khiết và lãng mạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lan là loài hoa sang trọng bậc nhất, có nhiều màu sắc, kiểu dáng, lại tươi lâu
giúp bạn không tốn chi phí khi trang trí nhà

trang trí nhà đẹp 
Bạn có thể thoải mái lựa chọn loại hoa lan tùy thuộc vào phong cách của ngôi nhà

trang trí nhà độc đáo 
Bình hoa trắng mang đến nét đẹp nhẹ nhàng, tinh tế cho phòng ăn cổ điển

trang trí nhà ấn tượng 
Phòng ăn lớn với sự kết hợp hài hòa giữa sang trọng và phong cách đồng quê nhờ sự xuất hiện
của những mẫu ghế gỗ mộc mạc. Không gian sống động với bình hoa tím đặt trên bàn.

trang trí nhà nhã nhặn 
Bình hoa cùng tông màu đen - trắng của căn phòng mang đến sự lịch thiệp, nhã nhặn

trang trí nhà xinh xắn 
Nhờ những bình hoa lan, chậu cây và các vật dụng màu nâu đất, phòng vệ sinh
phong cách châu Á gần gũi hơn với thiên nhiên

trang trí nhà lịch thiệp 
Phòng vệ sinh trở nên thư giãn với màu sắc dịu dàng và mùi hương nhẹ của hoa

trang trí nhà thư giãn 
Phòng tắm ấn tượng hơn nhiều với một vài cành hoa lan cắm trong bình đơn giản

trang trí nhà hài hòa 
Khi được trồng trong chậu, dù lá rụng nhiều nhưng loài hoa này
vẫn có thể nở bền suốt cả tháng

trang trí nhà rực rỡ 
Để có được bó hoa rực rỡ, bạn có thể kết hợp các loại lan khác nhau

trang trí nhà tươi mát 
Những bông hoa lan trở nên đẹp hơn nhiều với chiếc bình trồng cây vốn là vỏ sò lớn

trang trí nhà sinh động 
Để làm nổi bật bình hoa lan, bạn có thể trồng kết hợp các loại cây nhỏ xung quanh

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang trí nhà đẹp với những bông hoa lan

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd