Xem tướng Ấn Đường |

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Ý nghĩa và phong tục Xưa Tết Trung Thu ngoài cỗ cúng gia tiên còn có cỗ không cúng mà dành cho trẻ trong nhà, còn gọi đó là cỗ "trông trăng." Sản vật dùng trong cỗ Trung Thu ngày nay rất phong phú, đa dạng. Còn ngày xưa, cỗ Trung Thu đơn giản, có tính chất "cây nhà, lá vườn", vì hầu hết là sản phẩm của từng địa phương như bưởi, hồng, mãng cầu, chuối, mía... Có gia đình cho thêm kẹo bánh. Sang hơn thì có cả cốm Vòng, bánh nướng, bánh dẻo. Sau này, bánh nướng, bánh dẻo được dùng một cách rất phổ biến bới nó được mệnh danh là bánh Trung Thu. Hát trống quân xưa Tết Trung Thu ở miền bắc ngày xưa còn có tục hát trống quân. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Múa lân – múa rồng xưa Vào dịp Tết Trung Thu xưa ở nước ta có tục múa lân. Người ta thường múa lân vào hai đêm 14 và 15. Đám múa lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Đám múa lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy. Trẻ em thì thường rủ nhau múa lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng).
Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn. Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu. Mua sắm và chuẩn bị Từ đầu tháng Tám, các hàng bán đồ Trung Thu trên thị trường đã bày bán la liệt, các bà, các chị rủ nhau đi chợ sắm Tết cho con em mình. Gặp thứ nào thì mua thức ấy, còn thiếu thì dành phiên chợ sau cho đến tận 13, 14 âm lịch. Mua cỗ Trung Thu nhưng các bà mẹ cũng không quên mua đồ chơi cho trẻ. Nào tiến sỹ giấy, nào đèn ông sao, trống bỏi, đầu lân, mặt nạ, con rối, tò he... Nếu không mua được đủ thì ít nhất cũng phải mua được ông tiến sĩ hoặc chiếc lồng đèn ông sao. Nhà giàu còn làm cả đèn kéo quân. Đồ chơi từ năm trước có thể đem sửa lại cho trẻ. Nhiều em tự sửa sang lại đồ chơi của mình. Không khí chuẩn bị tết Trung Thu nhộn nhịp, vui vẻ, cuốn hút cả n gười lớn, trẻ con trong xóm ngoài làng Thi cỗ và thi đèn Trung Thu Ngày Tết Trung Thu, từ sáng sớm, mọi nhà bắt đầu làm bánh tẻ, bánh đúc là chủ yếu, còn nếu gói bánh chưng, bánh gai, thì làm từ ngày 14 âm lịch. Các bà nội trợ đun nấu sửa soạn cúng gia tiên. Cỗ Trung Thu mới được bày biện. Địa điểm bày cỗ thường là ở sân nhà. Cũng có nơi đặt ở giữa vườn, miễn là có ánh trăng chiếu tới để con trẻ ngồi phá cỗ. Đầu mâm cỗ trông trăng thường là ông tiến sĩ giấy. Có nơi còn đặt 2 ông phỗng ngồi hầu 2 bên. Một quả bưởi tươi nguyên đặt chính giữa, xung quanh là các loại bánh kẹo và trái cây. Có khi mâm cỗ quá đầy phải đặt thêm ở bên ngoài mâm. Mỗi nhà đều có vài xâu hạt bưởi khô để trẻ thắp chơi trong lúc phá cỗ. Như có sự phân công tự nhiên, việc sắm cỗ cho trẻ thường là nữ giới. Còn việc bày cỗ thường là đàn ông. Có nhà cẩn thận hơn, cha mẹ tập cho con bày cỗ, hướng dẫn cách sắp xếp cho đẹp để năm sau trẻ có thể tự làm lấy. Tất cả còn nguyên đến lúc phá cỗ. Trăng lên dần, trẻ cầm đèn đội đầu sư tử, khoác mặt nạ, vác trống bỏi rủ nhau đi xem đội múa lân của làng đến tận khuya mới về nhà phá cỗ. Người ta bày cỗ với bánh trái hình mặt trăng, treo đèn kết hoa, nhảy múa ca hát, múa lân rất tưng bừng. Nhiều nơi có những cuộc thi cỗ, thi làm bánh. Trẻ em có những cuộc rước đèn và nhiều nơi có mở cuộc thi đèn. Nhiều gia đình bày cỗ riêng cho trẻ em và trong mâm cỗ xưa thường có ông tiến sĩ giấy đặt ở nơi cao đẹp nhất, xung quanh là bánh trái hoa quả. Sau khi chơi cỗ trông trăng, các em cùng nhau phá cỗ, tức là ăn mâm cỗ lúc đã khuya. “Phá cỗ Trung Thu” Phá cỗ là chia bánh trái, hoa quả đã bày trong mâm cổ Tết Trung thu cho trẻ ăn. Phá cỗ không có giờ quy định. khi trăng đã lên cao, ánh trăng chiếu sáng khắp nơi, trẻ nhà nào đã về đông đủ thì nhà ấy cho trẻ phá cỗ. Không kể những nhà đông con mà ngay cả những nhà hiếm con hiếm cháu, đều được quan tâm đặc biệt. Không khí phá cỗ rất vui. Cả nhà cùng quây quần xung quanh mâm cỗ với lũ trẻ. Trước khi phá cỗ, người lớn thường hướng dẫn cho con cái chia các vật phẩm trong mâm cỗ để ăn như bổ bưởi, cắt bánh, róc mía... Tục phá cỗ trong Tết Trung Thu ở nông thôn ngày xưa chính là cơ hội chăm sóc trẻ em, giúp chúng được hưởng thụ các sản vật còn tươi nguyên, được chọn ăn tùy sở thích, được vui đùa phá cỗ trông trăng. Tục bày cỗ, phá cỗ trông trăng là thể hiện của sự quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ em, cả vật chất lẫn tinh thần một cách cụ thể, tinh tế, sinh động và độc đáo của người Việt Nam. Hình ảnh ông Tiến Sĩ Giấy, chiếc đèn ông sao, con rối múa gậy không chỉ là trò chơi đơn thuần, mà thông qua đó người nông dân còn gửi gắm những ước mơ và niềm tin, mong con cháu học giỏi, mai sau sớm đỗ đạt. Đó cũng là sự thể hiện tinh thần hiếu học, tinh thần thượng võ, ý thức khuyến học khuyến tài của nhân dân ta…
Nguồn Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Đây là điển cố thứ Mười trong quẻ Quan Âm, mang tên Bàng Quyên Quan Trận (còn gọi là quẻ Bàng Quyên Xem Trận). Quẻ Quan Âm Bàng Quyên Quan Trận có bắt nguồn như sau:
Ngụy Huệ Vương học theo Tần Hiếu Công, muốn tìm một nhân tài giống như Thương Ưởng. Bàng Quyên bèn đến cầu kiến Ngụy Huệ Vương, tâu với Ngụy Huệ Vương về đạo lý nước giàu binh mạnh, Ngụy Huệ Vương nghe xong rất vui mừng, bèn bái Bàng Quyên làm đại tướng. Trước tiên, Bàng Quyên ra tay từ những nước nhỏ lân cận, thắng liền mấy trận, sau đó, đánh bại cả nước lớn là nước Tề. Ngụy Huệ Vương lại càng thêm tín nhiệm Bàng Quyên.
Sau đó Ngụy Huệ Vương nghe thấy danh tiếng của Tôn Tẩn, biết Tôn Tẩn là hậu duệ của đại tướng nước Ngô là Tôn Vũ, có bộ “Tôn Tử binh pháp” do tố tiên truyền lại, bèn nói với Bàng Quyên ý muốn trọng dụng Tôn Tấn. Bàng Quyên trong lòng đố kị, bèn giả vờ mời Tôn Tấn đến nước Ngụy cùng làm việc với mình, rồi bày ra cạm bẫy, trước mặt Ngụy Huệ Vương đã vu cho Tôn Tẩn tư thông với nước Tề. Ngụy Huệ Vương vô cùng giận dữ, lập tức khép tội Tôn Tẩn, khoét bỏ hai xương bánh chè, khiến Tôn Tẩn vĩnh viễn thành người tàn phế. Sau đó sứ giả của nước Tề đến kinh đô của nước Ngụy là Đại Lương (nay ở phía tây bắc của thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam), lập kế hoạch ngầm đưa Tôn Tẩn về nước Tề. Tướng quân Điền Kỵ của nước Tề vốn từ lâu đã ngưỡng mộ tài danh của Tôn Tẩn, nên đã tiến cử với Tề Uy Vương. Tề Uy Vương bèn bàn luận với Tôn Tẩn về binh pháp, sau đó phong Tôn Tẩn làm quân sư.
Vào năm 341 trước Công nguyên, Ngụy Huệ Vương sai Bàng Quyên liên kết với nước Triệu dẫn quân đánh nước Hàn, bao vây kinh đô của nước Hàn là Tân Trịnh. Vệ Chiêu Hầu cầu cứu nước Tề. Nước Tề phong Điền Kỵ, Điền Anh, Điền Phán làm tướng, Tôn Tẩn là quân sư, chỉ huy quân đội tiến vào đất Ngụy. Bàng Quyên nghe tin, liền bỏ Hàn mà trở về. Ngụy Huệ Vương rất giận nước Tề đã can dự vào đại sự của nước mình, bèn dốc đại binh đón đánh quân Tề, vẫn dùng Bàng Quyên làm tướng, thái tử Thân làm thượng tướng quân, đi theo quân đội tham gia chỉ huy, thề quyết chiến với quân Tề.
Tôn Tẩn thấy quân Ngụy khí thế hung hãn, bèn quyết định dùng kế sách “dục cầm cố túng” (muốn bắt nên thả), dụ Bàng Quyên cắn câu. Tôn Tẩn nói với Điền Kỵ rằng: “Thế lực của quân đội tam Tấn (ba nước Ngụy, Triệu, Hàn) rất hung hãn, xưa nay đều coi thường quân Tề, quân Tề chúng ta hãy ra vẻ yếu ớt để thuận theo thời thế là tốt nhất”. Điền Kỵ nghe theo, lệnh cho quân Tề tiến vào trong lãnh thố của nước Ngụy. Ngày đầu tiên đóng trại, đế lại vết tích số lượng bếp nấu của mười vạn quân, ngày thứ hai giảm xuống còn lại số lượng bếp của năm vạn quân, ngày thứ ba lại tiếp tục giảm xuống còn số lượng bếp của ba vạn quân.
Bàng Quyên quan sát quân Tề ba ngày, thấy số lượng bếp nấu của quân Tề ngày càng giảm xuống, thì hết sức vui mừng, đế lại bộ binh ở phía sau từ từ hành quân, còn tự mình thống lĩnh độl quân tinh nhuệ, trang bị nhẹ đuối gấp theo quân Tề.
Tôn Tẩn suy đoán rằng, đến lúc hoàng hôn, Bàng Quyên chắc chắn sẽ đuối đến Mã Lăng (nay ở phía đông nan huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc). Vùng đất này đường sá nhỏ hẹp, địa thế hiếm trở kẹp giữa hai núi, có thế mai phục, bèn chặt một cây gỗ lớn, cạo sạch vỏ, viết lên đó dòng chữ “Bàng Quyên sẽ chết dưới cây này”. Lại lệnh cho những quân sĩ giỏi bắn tên mai phục ở bên đường, và dặn dò binh sĩ rằng: “Nếu thấy ánh lửa thì đồng loạt bắn tên”.
Quả nhiên, vào lúc sẩm tối, Bàng Quyên thống lĩnh quân Ngụy đuối đến trước cây gỗ lớn, thấy có dòng chữ, bèn cao hứng đốt đuốc sol đế đọc. Bất ngờ hai bên đường, hàng vạn mũl tên đồng loạt bắn ra, tên bắn như mưa, quân Ngụy rối loạn, chết và bị thương la liệt, Bàng Quyên cũng bị trọng thương. Bàng Quyên tự biết vận nguy khó thoát, lớn tiếng than rằng: “Một lần không thận trọng, đã giúp tên nhãi ranh ấy được thành danh!” Nói rồi rút kiếm tự vẫn.
Xem tử vi mệnh khuyết Kim là người có những thế mạnh, ưu điểm riêng nhưng cũng không ít điểm cần khắc phục. Tham khảo bài viết dưới đây để hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống, tự mang tới số phận tốt đẹp.
![]() |
![]() |
![]() |
Chu Dịch bản nghĩa giải : Nhu là đợi. Quẻ Càn mạnh, Khảm hiểm, sức mạnh gặp chỗ hiểm mà không vội vàng, tiến để mắc vào chỗ hiểm đó. Ấy là cái nghĩa chờ đợi.
Quẻ này hào Chín Năm là thể Khảm bên trong đã đầy, lại có nhiều tính dương cương trung chính mà ở ngôi Tôn, tức cái tượng "có đức tin được ngôi chính". Khảm là nước ở phía trước, Càn là mạnh kế tới sau, ấy là cái tượng "sắp sang sông lớn mà chưa tiến lên một cách khinh thường".
Thế nên, người được quẻ này, nếu có điều chờ đợi mà tự mình sẵn đức tin thì sẽ sáng láng hanh thông, nếu được chính bền thì tốt và lợi về việc sang sông lớn. Chính bền thì không có gì là không tốt, mà sự sang sông càng quý ở chỗ chờ đợi. Ấy là, không vì lòng ham muốn mau chống mà phạm vào chỗ hiểm nạn.
Lời Thoán nói rằng : Nhu tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy. Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa là không thể khốn cùng.
Chu Dịch bản nghĩa giải : Kiện tụng là tranh biện. Trên Càn dưới Khảm, Càn thì cứng, Khảm thì mềm. Người trên dùng điều cứng để chế kẻ dưới, kẻ dưới dùng sự hiểm để dòm người trên.
Quẻ này, hào Chín Hai giữa đặc mà không có kẻ ứng cùng mình nên thêm lo. Vả lại, theo quái biến, nó từ quẻ Độn mà hại, tức kẻ cứng đến ở hào Hai mà nhắm vào giữa thể dưới, có sự thật bị lấp che, biết sợ mà hợp với lẽ vừa phải. Hào chín trên quá cứng ở cuối sự kiện, có tượng theo đuổi việc đến cùng. Hào Chín Năm cứng mạnh, trung chính ở giữa ngôi tôn, có tượng người lớn, lấy tư cách dương cương cỡi lên chỗ hiểm, ấy là sự đầy đặc xéo vào chỗ hãm, có tượng không lợi về sự sang sông lớn. Thế nên, người được quẻ này chắc có sự tranh tụng và tùy theo thế của mình ăn ở mà biến thành lành hay dữ.
Lời Thoán nói rằng : Quẻ Tụng trên cứng dưới hiểm, hiểm mà mạnh là quẻ Tụng.
Lời Tượng nói rằng : Trời với nước đi trái nhai là quẻ Tụng, người quân tử coi đó mà dấy việc mưu tính lúc đầu.
Chu Dịch bản nghĩa giải : Sư là quần chúng, dưới Khảm trên Khôn. Khảm hiểm mà Khôn thuận. Khảm là nước, Khôn là đất, thời xưa ngụ hình ở nông, che cái rất hiểm ở chỗ lớn thuận, dấu cái không lường trong chỗ rất tĩnh.
Trong quẻ, chỉ hào Chín Hai là hào dương ở giữa quẻ dưới là tượng làm tướng. Trên dưới năm hào âm đều phải thuận ma theo, là tượng làm quân binh. Hào Chín Hai lấy tư cách dương cương ở dưới làm việc. Hào Sáu Năm là hạng mềm yếu ở trên mà dùng người, tức cái tượng vua sai tướng ra quân, nên quẻ này gọi là sư. Cái đạo dùng quân, lợi về đường chính đáng, nên dùng người lão thành mới tốt mà không có lỗi. Đó là lời răn người được quẻ này.
Lời Thoán nói rằng : Sư là nhiều người, trinh là chính, khiến được nhiều người chính đính, thì có thể làm nên nghiệp vương bá.
Lời Tượng nói rằng : Trong đất có nước là quẻ Sư. Người quân tử xem đó mà dung dân, nuôi chúng.
Chu Dịch bản nghĩa giải : Tị là gần nhau liền nhau. Hào Chín Năm lấy dương cương ở giữa quẻ trên mà được chỗ chính. Năm hào âm ở trên và dưới đều gần lại mà cái tượng một người võ về muôn nước, bốn bể trông lên một người.
Người được quẻ này sẽ được người thân theo bám mình. Nếu có đức cả lành, dài lâu, chính bền thì mới để cho người khác theo về mà không có lỗi. Còn người chưa gần có điều không ổn mà sắp sửa theo về thì người này giao kết chặt chẽ, còn kẻ kia đi lại đã muộn khiến có sự hung. Những ai muốn gần với người thì nên lấy đó mà tính ngược lại.
Lời Thoán nói rằng : Tỵ là tốt, tị là giáo lại. Người dưới thuận theo, truy nguyên việc bói, đầu cả, lâu dài, chính bền, không lỗi, vì cứng ở giữa, không an mới lại, trên dưới ứng nhau, sau trượng phu, hung vì đạo cùng.
Lời Tượng nói rằng : Trên đất có nước là quẻ Tị. Đấng Tiên Vương coi đó mà dựng nước, thân cận chư hầu.
Chu Dịch bản nghĩa giải : Tấn là tiến lên, tước hầu yên là tước làm an được nước. Ngựa cho giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp nối, nghĩa là chịu nhiều ơn lớn, được thân mật kính lễ một cách rõ ràng.
Quẻ này trên Ly dưới Khôn, có tượng mặt trời mọc trên đất. Bốn hào xuôi thuận bám vào nơi cả sáng sủa, du từ quẻ Quan biến lại, thành hào Sáu Bốn mềm yếu mà tiến lên cho tới hào Năm.
Người được quẻ này có ba điều ấy thì cũng có sự yên ấy.
Lời Thoán nói rằng : Tấn là tiến. Sáng soi trên đất mà bám vào nơi sáng lớn, mềm tiến mà đi lên. Cho nên, tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp nối.
Lời tượng nói rằng : Lửa ở trên đất là quẻ Tấn, người quân tử coi đó mà tự hành động cho rõ đức sáng của mình.
– Nhiều người tin rằng, trong tháng cô hồn, các cô gái phải cho đàn ông sờ ngực để không bị linh hồn bắt đi làm vật tế hay kị nhặt tiền rơi vì sợ đó là bẫy của âm hồn... thực hư chuyện này thế nào, hãy cũng ## tìm hiểu.
► Bạn đã biết: Những điều kiêng kị trong tháng cô hồn? |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► ## gửi tới bạn đọc công cụ coi ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch âm dương |
=> Bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
"Nhà giàu mới nổi" vốn chẳng tốt đẹp gì, có tiền là phơi bày thanh thế một cách quá đà.
![]() |
![]() |
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn là 1 trong 3 chùa có cùng tên Linh Ứng tại Đà Nẵng: Chùa Linh Ứng Bãi Bụt và Chùa Linh Ứng Bà Nà. Ngũ Hành Sơn là một thắng cảnh bậc nhất ở miền Trung xưa nay. Vua Minh Mạng đặt tên các núi này là Ngũ Hành Sơn: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn.
Chùa cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 8 km về phía Đông Nam. Chùa còn được gọi là chùa Ngoài (chùa Trong là Chùa Tam Thai). Tọa lạc trên một khu đất rộng, bằng phẳng phía đông hòn Thủy Sơn thuộc quần thể khu di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn, bên phải là Vọng Hải Đài, bên trái là hang Ngũ Cốc. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn là một ngôi chùa cổ, có giá trị lịch sử cao. Vào đời Gia Long, chùa được xây và đặt tên Ứng Chân. Vào đời Vua Lê Hiển Tông, ncó Hòa thượng Quang Chánh (hiệu Bảo Đài) đến tu tại động Tàng Chân. Ngài dựng am Dưỡng Chân, sau sửa chữa lại gọi là Dưỡng Chân đường. Đến đời Gia Long, Dưỡng Chân đường được đổi thành chùa Ứng Chân. Sau khi Vua Minh Mạng đến vãng cảnh chùa đầu tiên vào năm 1825 thì các ngôi chùa tranh tre ở đây mới được thay bằng gạch ngói. Vua đã ban cho chùa tấm biển có ghi Ngự chế Ứng Chân Tự, Minh Mạng lục niên. Đến đời Thành Thái, do kỵ húy tên một vị vua nhà Nguyễn nên chùa được đổi tên là Linh Ứng. Chùa còn tấm biển ghi Cải tứ Linh Ứng Tự, Thành Thái tam niên.
Chùa cũng đã qua trùng tu nhiều lần nhưng ngôi chùa vẫn giữ được những nét cổ kính và hài hòa với quan cảnh thiên nhiên. Đường lên sân chính thẳng hướng gian Tam Bảo chùa Linh Ứng, là tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni bằng đá trắng nguyên khối.
Ngài an tọa kiết già, hướng nhìn thẳng đường lên từ những bậc thang đá, phía trước là một hồ nước nhân tạo nhỏ xinh, xung quanh xanh mướt cỏ cây, sắc núi… Tới khoảng sân trước gian Chính điện chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn, phía bên trái là Vườn tháp nhuốm đậm màu thời gian, rêu phong bám đầy. Lối đi bên hông phải gian Chính điện, chếch bên trái Vườn tháp dẫn đến Động Tàng Chơn. Chánh điện chùa được xây kiểu chữ “Nhất”, bên phải là nhà tổ, giảng đường, nhà khách, nhà thiền và nhà trù. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm.
Từ nơi tôn tượng Đức Phật Bổn Sư, theo phía tay phải, đi chừng vài chục mét dẫn tới một hang nhỏ, nơi có tôn tượng Đức Phật A Di Đà đứng trên đài sen, tay trái Ngài bắt kiết ấn hướng lên trời, cánh tay phải buông nhẹ với bàn tay để mở hướng xuống đất.
Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Có vị trị địa lý thuận lợi là nằm trong khu danh thắng Ngũ Hành Sơn, chùa Linh Ứng và Tam Thai đã đón tiếp đông đảo du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng ngày.
* Lưu ý:
– Riêng tháng 11 và tháng 12 không có ngày “Trung nghi” (không phải kiêng).
– Tháng 10 là tiết Đại hàn, kiêng mọi việc lớn.
Coi tuổi mạng và năm sinh
1-(1941, 2001, 2061) Tuổi Tân Tỵ, cung Tốn, mạng Bạch Lạp Kim (chân đèn bằng vàng), xương con cọp, tướng tinh con thuồng luồng, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Trường mạng
2-(1940, 2000, 2060) Tuổi Canh Thìn, cung Chấn, mạng Bạch Lạp Kim(chân đèn bằng vàng), xương con rồng, tướng tinh con quạ, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Trường mạng.
3-(1939, 1999) Tuổi Kỹ Mẹo, cung Khôn, mạng Thành Ðầu Thổ ( đất trên thành), xương con thỏ, tướng tinh con rồng, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.
4-(1938, 1998) Tuổi Mậu Dần, cung Khảm, mạng Thành Ðầu Thổ (đất trên thành), xương con cọp, tướng tinh con thuồng luồng, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.
5-(1937, 1997) Tuổi Ðinh Sửu, cung Ly, mạng Giáng Hạ Thuỷ( nước mù sương), xương con trâu, tướng tinh con trùn, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế- Cô bần
6-(1936, 1996,2056) Tuổi Bính Tý, cung Cấn, mạng Giáng Hạ Thuỷ(nước mù sương), xương con chuột, tướng tinh con rắn, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế-Cô bần.
7-(1935, 1995) Tuổi Ất Hợi, cung Ðoài, mạng Sơn Ðầu Hoả (lửa trên núi), xương con heo, tướng tinh con hưu, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.
8-(1934, 1994) Tuổi Giáp Tuất, cung Càn, mạng Sơn Ðầu Hoả (lửa trên núi), xương con chó, tướng tinh con ngựa, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.
9-(1933, 1993) Tuổi Quí Dậu, cung Chấn, mạng Kiếm Phong Kim (kiếm bằng vàng), xương con gà, tướng tinh con đười ươi, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế- Phú quí.
10-(1932, 1992) Tuổi Nhâm Thân, cung Khôn, mạng Kiếm Phong Kim, xương con khỉ, tướng tinh con dê, khắc Phúc Ðăng Hoả, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
11-(1931, 1991) Tuổi Tân Mùi, cung Khảm, mạng Lộ Bàng Thổ (đất đường đi), xương con dê, tướng tinh con gấu, khắc Tuyền Trung Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Bần cùng.
12-(1930, 1990) Tuổi Canh Ngọ, cung Ly, mạng Lộ Bàng Thổ, xương con ngựa, tướng tinh con vượn, khắc Tuyền Trung Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Bần cùng.
13-(1929, 1989) Tuổi Kỹ Tỵ, cung Cấn, mạng Ðại Lâm Mộc(cây lớn trong rừng), xương con rắn, tướng tinh con khỉ, khắc Ðại Trạch Thổ, con nhà Thanh Ðế- Trường mạng.
14-(1928, 1988) Tuổi Mậu Thìn, cung Ðoài, mạng Ðại Lâm Mộc, xương con rồng, tướng tinh con quạ, khắc Ðại Trạch Thổ, con nhà Thanh Ðế-Trường mạng.
15-(1927, 1987) Tuổi Ðinh Mẹo, cung Càn , mạng Lư Trung Hoả(lửa trong lư), xương con thỏ, tướng tinh con gà, khắc Kiếm Phong Kim, con nhà Xích Ðế-cô bần
16-(1926, 1986) Tuổi Bính Dần, cung Khảm, mạng Lư Trung Hoả, xương con cọp, tướng tinh con chim trĩ, khắc Kiếm Phong Kim, con nhà Xích Ðế-cô bần
17-(1925, 1985) Tuổi Ất Sửu, cung Tốn, mạng Hải Trung Kim(vàng dưới biển), xương con trâu, tướng tinh con chó, khắc Bình Ðịa Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
18-(1924, 1984) Tuổi Giáp Tý, cung Chấn, mạng Hải Trung Kim, xương con chuột, tướng tinh con chó sói, khắc Bình Ðịa Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
19-(1923, 1983) Tuổi Quí Hợi, cung Cấn, mạng Ðại Hải Thuỷ(nước biển lớn), xương con heo, tướng tinh con gà, khắc Thiên Thượng hoả, con nhà Hắc Ðế-Quan lộc, tân khổ.
20-(1922, 1982) Tuổi Nhâm Tuất, cung Ðoài, mạng Ðại Hải Thủy, xương con chó, tướng tinh con chim trĩ, khắc Thiên Thượng hoả, con nhà Hắc Ðế-Quan lộc, tân khổ.
21-(1921, 1981) Tuổi Tân Dậu, cung Càn, mạng Thạch Lựu Mộc (cây lựu đá), xương con gà, tướng tinh con chó, khắc Bích Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Cô bần.
22-(1920, 1980) Tuổi Canh Thân, cung Khôn, mạng Thạch Lựu Mộc, xương con khỉ, tướng tinh con cho sói, khắc Bích Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Cô bần.
23-(1919, 1979) Tuổi Kỹ Mùi, cung Tốn, mạng Thiên Thượng Hoả (lửa trên trời), xương con dê, tướng tinh con rùa, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.
24-(1918, 1978) Tuổi Mậu Ngọ, cung Chấn, mạng Thiên Thượng Hoả, xương con ngựa, tướng tinh con heo, khắc Sa Trung Kim, con nhà Xích Ðế-Cô bần.
25-(1917, 1977) Tuổi Ðinh Tỵ, cung Khôn, mạng Sa Trung Thổ (đất trong cát), xương con rắn, tướng tinh con cú, khắc Dương Liễu Mộc, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.
26-(1916, 1976) Tuổi Bính Thìn, cung Khảm, mạng Sa Trung Thổ, xương con rồng, tướng tinh con chuột, khắc Dương Liễu Mộc, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.
27-(1915, 1975) Tuổi Ất Mẹo, cung Ly, mạng Ðại Khê Thuỷ( nước khe lớn), xương con mèo, tướng tinh con dơi, khắc Sơn Hạ Hoả, con nhà Hắc Ðế-Phú quí.
28-(1914, 1974) Tuổi Giáp Dần, cung Cấn, mạng Ðại Khê Thuỷ, xương con cọp, tướng tinh con trâu, khắc Sơn Hạ Hoả, con nhà Hắc Ðế-Phú quí.
29-(1913, 1973) Tuổi Quí Sửu, cung Tốn, mạng Tang Ðố Mộc (cây dâu), xương con trâu, tướng tinh con cua biển, khắc Ốc Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế- Quan lộc, tân khổ.
30-(1912, 1972) Tuổi Nhâm Tý, cung Chấn, mạng Tang Ðố Mộc, xương con chuột, tướng tinh con heo, khắc Ốc Thượng Thổ, con nhà Thanh Ðế-Quan lộc, tân khổ.
31-(1911, 1971) Tuổi Tân Hợi, cung Khôn, mạng Xoa Kim Xuyến (xuyến bằng vàng), xương con heo, tướng tinh con cọp, khắc Ðại Lâm Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
32-(1910, 1970) Tuổi Canh Tuất, cung Khảm, mạng Xoa Kim Xuyến, xương con chó, tướng tinh con cáo, khắc Ðại Lâm Mộc, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
33-(1909, 1969) Tuổi Kỹ Dậu, cung Ly, mạng Ðại Trạch Thổ (đất nền nhà), xương con gà, tướng tinh con thỏ, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quan lộc.
34-(1908, 1968) Tuổi Mậu Thân, cung Cấn, mạng Ðại Trạch Thổ, xương con khỉ, tướng tinh con lạc đà, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quan lộc.
35-(1907, 1967) Tuổi Ðinh Mùi, cung Ðoài, mạng Thiên Hà Thuỷ (nước sông Thiên Hà), xương con dê, tướng tinh con rồng, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế- tân khổ.
36-(1906, 1966) Tuổi Bính Ngọ, cung Càn, mạng Thiên Hà Thuỷ, xương con ngựa, tướng tinh con thuồng luồng,khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế- tân khổ.
37-(1905, 1965) Tuổi Ất Tỵ, cung Ðoài, mạng Phúc Ðăng Hoả ( lửa đèn nhỏ), xương con rắn, tướng tinh con trùn, khắc Xoa Xuyến Kim, con nhà Xích Ðế-Tân khổ.
38-(1904, 1964) Tuổi Giáp Thìn, cung Tốn, mạng Phúc Ðăng Hoả, xương con rồng, tướng tinh con rắn,khắc Xoa Xuyến Kim, con nhà Xích Ðế-Tân khổ.
39-(1903, 1963) Tuổi Quí Mẹo, cung Ly, mạng Kim Bạch Kim (vàng trắng), xương con thỏ, tướng tinh con hưu, khắc Lư Trung Hoả, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
40-(1902, 1962) Tuổi Nhâm Dần, cung Cấn, mạng Kim Bạch Kim, xương con cọp, tướng tinh con ngựa, khắc Lư Trung Hoả, con nhà Bạch Ðế-Phú quí.
41-(1901, 1961) Tuổi Tân Sửu, cung Ðoài, mạng Bích Thượng Thổ ( đất trên vách), xương con trâu, tướng tinh con đười ươi, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quna lộc, bần cùng.
42-(1900, 1960) Tuổi Canh Tý, cung Càn, mạng Bích Thượng Thổ, xương con chuột, tướng tinh con dê, khắc Thiên Thượng Thuỷ, con nhà Huỳnh Ðế-Quna lộc, bần cùng.
43-(1899, 1959) Tuổi Kỷ Hợi, cung Cấn, mạng Bình Ðịa Mộc(cây trên đất bằng), xương con heo, tướng tinh con gấu, khắc Sa Trung Kim, con nhà Thanh Ðế-Phú quí.
44-(1958, 2018) Tuổi Mậu Tuất, cung Tốn, mạng Bình địa mộc (cây trên đất bằng), xương con chó tướng tính con vượn, khắc Sa Trung Kim, con nhà Thanh Ðế-Phú quí.
45-(1957, 2017) Tuổi Ðinh Dậu, cung Chấn, mạng Sơn Hạ Hoả (lửa dưới núi), xương con gà, tướng tinh con khỉ, khắc Thích Lịch Hoả, con nhà Xích Ðế-Cô bần
46-(1956, 2016) Tuổi Bính Thân, cung Khôn, mạng Sơn Hạ Hỏa, xương con khỉ, tướng tinh con quạ, khắc Thích Lịch Hoả, con nhà Xích Ðế-Cô bần
47-(1955, 2015) TuổiẤt Mùi, cung Khảm, mạng Sa Trung Kim (vàng trong cát), xương con dê, tướng tinh con gà, khắc Thạch Lựu mộc ,con nhà Bạch Ðế- An mạng phú quí
48-(1954, 2014) Tuổi Giáp Ngọ, cung Ly, mạng Sa Trung Kim, xương con ngựa, tướng tinh con chim trĩ, khắc Thạch Lựu mộc ,con nhà Bạch Ðế- An mạng phú quí
49-(1953, 2013) Tuổi Quí Tỵ, cung Khôn, mạng Trường Lưu Thuỷ(nước chảy dài), xương con rắn, tướng tinh con chó, khắc Thiên Thượng Hoả , con nhà Hắc Ðế- Trương mạng
50-(1952, 2012) Tuổi Nhâm Thìn, cung Khảm, mạng Trường Lưu Thuỷ, xương con rồng, tướng tinh con chó sói, khắc Thiên Thượng Hoả , con nhà Hắc Ðế- Trương mạng
51-(1951, 2011) Tuổi Ất Mẹo, cung Ly, mạng Tòng Bá mộc ( cây Tòng và cây Bá), xương con thỏ, tướng tinh con rái, khắc Lộ Bàng thổ , con nhà Thanh Ðế-Trường mạng
52-(1950, 2010) Tuổi Canh Dần, cung Cấn, mạng Tòng Bá mộc, xương con cọp, tướng tinh con heo, khắc Lộ Bàng thổ , con nhà Thanh Ðế-Trường mạng
53-(1949, 2009) Tuổi Kỹ Sửu, cung Ðoài, mạng Thích Lịch Hoả ( lửa sấm sét), xương con trâu, tướng tinh con heo, khắc Thiên Thượng Thuỷ , con nhà Xích Ðế-Phú quí.
54-(1948, 2008) Tuổi Mậu Tý, cung Càn, mạng Thích Lịch Hoả, xương con chuột, tướng tinh con chó sói,khắc Thiên Thượng Thuỷ , con nhà Xích Ðế-Phú quí.
55-(1947, 2007) Tuổi Ðinh Hợi, cung Cấn, mạng Ốc Thượng Thổ ( đất ổ vò vỏ), xương con heo, tướng tinh con dơi, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Huỳnh Ðế- Phú quí.
56-(1946, 2006) Tuổi Bính Tuất, cung Tốn,mạng Ốc Thượng Thổ, xương con chó, tướng tinh con trâu, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Huỳnh Ðế-Phú quí.
57-(1945, 2005) Tuổi Ất Dậu, cung Chấn, mạng Tuyền Trung Thuỷ (nước trong giếng), xương con gà, tướng tinh con cua, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế-Từ tánh, phú quí.
58-(1944, 2004) Tuổi Giáp Thân, cung Khôn , mạng Tuyền Trung Thuỷ, xương con khỉ, tướng tinh con heo, khắc Thiên Thượng Hoả, con nhà Hắc Ðế-Từ tánh, phú quí.
59-(1943, 2003) Tuổi Quí Mùi, cung Càn, mạng Dương Liễu mộc ( cây dương liễu), xương con dê, tướng tinh con cọp, khắc Lộ Bàng Thổ, con nhà Thanh Ðế-trường mạng.
60-(1942, 2002) Tuổi Nhâm Ngọ, cung Ly, mạng Dương Liễu mộc, xương con ngựa, tướng tinh con rắn, khắc Lộ Bàng Thổ, con nhà Thanh Ðế-trường mạng.
Đại Tương là con trai, nhưng cậu luôn có một cuốn nhật kí, trong đó có ghi chép lại việc chi tiêu hàng ngày, từng con số từ nho nhỏ như khoản tiền ăn sáng hay tiền ăn trưa đều được cậu ghi chép lại một cách đầy đủ và cẩn thận. Thói quen ấy của Đại Tương, bắt nguồn từ câu chuyện bí mật của riêng cậu về người cha đáng kính.
Gia đình Đại Tương sinh sống ở một ngôi làng của huyện Từ Châu. Trong ký ức của cậu chỉ nhớ rằng, người cha ngày ngày tháng tháng làm thuê ở một công xưởng gần nhà ga Từ Châu và phải rất lâu mới được về thăm nhà một lần.
Khi Đại Tương thi đỗ vào trường đại học Tây An, cha của cậu đã tới ngân hàng và rút ra một khoản tiền lớn, rồi nheo nheo đôi mắt và dùng tay đếm từng tờ từng tờ tiền một, hết lượt này đến lượt khác…
Có một thời gian dài, Đại Tương mải mê chơi trò chơi điện tử ở quán internet. Cậu thường xuyên ở quán internet cả đêm mà chơi điện tử. Mặc dù, Đại Tương cũng cảm nhận thấy mình đang sống rất uổng phí, nhưng nhìn qua bạn bè bên cạnh, hầu như ai ai cũng giống cậu. Người thì chơi bóng, người xem phim, người lên mạng chơi trò chơi điện tử….Đại Tương lại cảm thấy việc mình chơi là rất bình thường.
Đến kỳ nghỉ hè năm đó, Đại Tương trở về nhà. Nhưng mới ở nhà được mấy hôm, cậu đã cảm thấy rất buồn chán và khó chịu. Cậu đã xin cha cho lên chỗ cha làm việc chơi mấy hôm, bởi vì trên đó ít nhất còn có các quán internet. Cha của cậu ấy vì chiều con nên cũng đồng ý.
Từ xa xa, Đại Tương đã nhìn thấy cha mình đứng ở cửa nhà ga đợi cậu. Trong lòng cậu không được vui, vì cha mặc một bộ quần áo vừa cũ rách vừa rộng thùng thình như một người ăn mày. Đại Tương nói: “Cha, sao cha lại mặc một bộ quần áo vừa rộng vừa cũ rách như vậy?”
Cha Đại Tương nói: “Cha là lao động chân tay chứ có phải làm việc trong văn phòng đâu mà mặc quần áo mới hả con?”
Đại Tương lại nói tiếp: “Nhưng mà bộ quần áo rộng quá, đâu có vừa với cha?”
Cha cậu ấy lại nói: “Cha phải mặc quần áo rộng một chút, nếu không khi làm việc sẽ khiến quần áo rách hết con ạ!”
Năm ấy là năm 2007, thu nhập một tháng của cha cậu ấy là 5 triệu vậy mà ông sống trong một căn phòng rộng chừng 7 m2. Trong phòng, ngoài chiếc giường sắt còn có một bồn rửa mặt nhỏ đã sứt mất lớp tráng men, một chiếc khăn mặt đã cũ kỹ. Vậy mà, suốt những năm tháng qua, Đại Tương vẫn luôn nghĩ rằng cha mình đang sống một cuộc sống thoải mái…
Khi cha Đại Tương đưa cậu ấy về phòng xong, ông nói: “Con cứ ngồi ở nhà, cha phải đi có việc một chút nhé!”
Nói xong, ông liền bước đi ngay. Đại Tương không thể ngồi đó như lời cha nói, cậu lén lút đóng cửa lại rồi đi theo sau cha. Giờ phút ấy, cậu rất tò mò muốn biết cha mình đã làm gì?
Sau khi đi khoảng 7 lối rẽ, Đại Tương đã theo cha đến một kho chứa đồ ướp lạnh. Trong kho ướp lạnh ấy có khoảng 10 người đang chờ sẵn. Người thì đang cầm đòn gánh, người thì đang đẩy hàng… Đại Tương cũng nhìn thấy cha mình trong số ấy, ông đang kéo một chiếc xe đẩy hàng.
Đúng lúc này, một chiếc xe tải to tiến vào trong kho. Cha Đại Tương cùng mọi người đi đến bên chiếc xe tải và dỡ hàng xuống. Ông vác một thùng rất to và nặng rồi bước đi. Ông đi được một đoạn thì dừng lại và lấy chiếc khăn ra lau mồ hôi. Sau đó, ông lại vác chiếc thùng đi tiếp rồi lại lau mồ hôi…Cho tới khi, ông đến chỗ chiếc xe đẩy thì đặt thùng các tông đó lên và lại quay lại chiếc xe tải kia dỡ hàng và vác tiếp. Đứng từ xa hơn 10 mét, Đại Tương nhìn rõ chân cha nổi lên những đường gân xanh chằng chịt…
Lúc này, Đại Tương mới biết được rằng, hóa ra những đồng tiền mà cha kiếm được cực khổ nhường nào. Cậu vội vã chạy ra phòng bảo vệ ở ngoài cổng và hỏi: “Bác ơi cho cháu hỏi, chuyển một xe hàng được bao nhiêu tiền ạ?”
Bác bảo vệ trả lời: “Chuyển một thùng được 5 nghìn đồng cháu ạ!”
Đai Tương nhẩm tính trong đầu: “Vậy là cha mỗi lần vận chuyển 7 thùng thì được 35 nghìn đồng”.
Chiều hôm ấy trở về nhà, trong lòng Đại Tương ngổn ngang bao suy nghĩ và cậu cũng không còn tâm trạng để lên mạng chơi điện tử nữa. Trong đầu cậu tràn ngập hình ảnh hai bắp chân của cha nổi đầy những đường gân xanh chằng chịt. Cậu nghĩ về những tháng ngày chơi điện tử của mình, rồi cậu khóc…
Ngày Đại Tương phải quay về trường để học kỳ học tiếp theo đã tới. Cha Đại Tương lại tới ngân hàng rút ra một số tiền rồi đếm đếm và đưa cho cậu.
Đại Tương nói: “Cha ơi, học kỳ này con lấy 5 triệu đồng là đủ rồi ạ!”
Nói xong, Đại Tương đưa lại cho cha một nửa và trong lòng thầm nghĩ: “Từ bây giờ, mình sẽ phải làm một người con ngoan!”
Nhưng, ý nghĩ đó của cậu ấy chẳng được mấy hôm lại thoảng qua và tan biến như mây khói. Khi những người bạn học cùng lại lần lượt rủ nhau đi chơi điện tử thì trong lòng Đại Tương không sao kiềm chế được. Cuối cùng, cậu ấy lại bước vào quán internet.
Vào một chủ nhật nọ, Đại Tương theo các bạn đến quán ba vừa chơi và ăn uống, chẳng mấy chốc số tiền cậu mang theo đã hết sạch. Đại Tương liền gọi điện cho mẹ cậu và nói rằng, cậu bị bệnh nên đã tiêu hết số tiền ấy rồi.
Vào buổi chiều thứ ba tuần sau đó, khi Đại Tương đang chơi bài cùng các bạn trong ký túc xá thì nhận được điện thoại nói rằng có người muốn gặp cậu ở ngoài cổng trường.
Đại Tương chạy đến cổng trường học thì gặp cha của cậu đang đứng chờ ở đó. Nhìn từ xa, Đại Tương thấy cha cậu mới ngoài 50 tuổi mà dáng vẻ đã như một ông lão ngoài 70. Dù tuổi già sức yếu, vẻ mặt mệt mỏi nhưng trên lưng cha còn vác theo một chiếc chăn bông rất dày như một người ăn mày vác bị đi ăn xin…
Đại Tương vừa gặp cha liền hỏi: “Sao cha lại lên đây? Con đã cho mẹ số tài khoản rồi, cha chỉ cần gửi vào đó là được mà. Cha đi xa như vậy lại còn mang chăn bông lên đây, vừa vất vả lại vừa lãng phí tiền…”
Cha Đại Tương vừa cười vừa nói với con trai: “Cha nghe mẹ con nói, con mấy hôm trước bị ốm, bây giờ thế nào rồi? Con đã đỡ chưa? Con phải cố gắng ăn uống và chăm sóc bản thân vào nhé! Mà con cũng đừng lo lắng tiền bạc, chỉ cần con khỏe mạnh, học tập tốt thì có tốn tiền hơn nữa cha mẹ cũng lo được cho con. Bây giờ trời lạnh rồi, mẹ con dùng bông nhà trồng được để làm cho con chiếc chăn bông này đấy, con cầm lấy dùng cho ấm”.
Đại Tương ấp úng nói: “Vâng…Con đã…khỏe rồi!”
Cha cậu còn nói: “Cha nhìn thấy con khỏe là yên tâm rồi. Cha mang tiền sinh hoạt lên cho con đây. Bây giờ cha về làm việc ngay, không lại làm ảnh hưởng đến việc học tập của con!”
Đại Tương nhận tiền từ cha, đang còn do dự muốn bảo ông ở lại phòng khách của trường thì cha cậu lại nói: “Còn hai tháng nữa là lại nghỉ đông rồi phải không? Cha lần này mang lên cho con 5 triệu đồng. Con vừa bị ốm, phải ăn nhiều vào nhớ, phải đảm bảo sức khỏe thì mới học tập được. Thôi, con đi vào đi”.
Đại Tương hiểu rõ tính cách của cha nên cậu không nói thêm câu nào nữa mà quay người đi về ký túc xá. Vừa đi được mấy bước chân, cậu liền quay đầu lại nhìn thì thấy cha vẫn đứng ở đó nhìn cậu…
Đại Tương nhớ lại ngày còn nhỏ, mỗi lần được cha đưa tới trường, đều là cảnh tượng như lúc này. Hai con mắt của cậu bỗng trào nước mắt.
Sau bữa cơm tối của ngày hôm ấy, Đại Tương lại theo các bạn đi đến quán internet bên cạnh trường học. Sau 5 giờ chơi miệt mài, cậu lại trở về phòng ký túc xá bằng cách trèo qua bờ tường quen thuộc. Ngay vào thời khắc, Đại Tương trèo lên bức tường bao, trong lòng cậu nhói đau….Bởi cậu nhìn thấy cha cậu đang nằm lên những bìa giấy các tông ở một góc tường bao qua ánh đèn mờ mờ. Trên đầu cha còn quấn một chiếc khăn mà ngày cấp 3 Đại Tương vẫn thường quàng cổ.
Hóa ra, cha của Đại Tương nghe tin cậu bị ốm thì lập tức xin phép nghỉ một buổi làm để lên thăm cậu. Ông không mua được vè ngồi, lại nhất định không mua vé giường nằm vì sợ tốn tiền nên ông đã đứng hơn 15 tiếng đồng hồ trên xe. Do mệt quá, ông đã nằm nghỉ luôn trên các bìa giấy các tông.
Đại Tương khóc nức nở, nhưng biết rõ tính cách của cha, nếu như lúc đó cậu có đánh thức cha dậy thì ông cũng một mực nằm lại đó. Cho nên cậu đã lặng lẽ trở về ký túc xá, trong lòng vô cùng đau đớn.
Đại Tương không hề kể câu chuyện ấy với cha mẹ. Từ đó, cậu đã không còn chơi điện tử và cũng không bao giờ lãng phí một đồng tiền nào nữa. Cũng kể từ ngày hôm đó, cậu đã âm thầm bắt đầu ghi chép các khoản chi tiêu vào cuốn sổ này.
Cha của Đại Tương chính là một ví dụ nhỏ trong rất nhiều những người cha yêu thương con một cách âm thầm lặng. Thật may, Đại Tương vô tình gặp hình ảnh người cha mình co ro ở góc tường mà tỉnh ngộ. Ở ngoài kia, còn rất nhiều những đứa con không nhìn thấy được, thậm chí không nghĩ tới được “góc tường yêu thương” ấy của cha.
Khi con sợ hãi, tình thương của cha là bước đệm cho con.
Khi con tăm tối, tình thương của cha là ánh sáng chiếu rọi.
Khi con khô cạn, tình thương của cha là giọt nước.
Khi con cố gắng, tình thương của cha là trụ cột tinh thần.
Khi con thành công, tình thương của cha lại là sự khích lệ và dẫn lối.
Cha chính là như vậy đó! Là cơn mưa đúng lúc, là viên than hồng trong tuyết lạnh giá. Dù không thường xuyên ở bên cạnh như mẹ, nhưng lại luôn luôn là bầu trời xanh vào những thời khắc mấu chốt trong cuộc đời chúng ta.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
![]() |
1. Hội Đống Đa:
Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Gò Đống Đa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vị vua Quang Trung.
Nội dung: Đống Đa khi xưa là nơi 29 vạn quân Thanh bị tiêu diệt năm 1789. Sáng sớm ngày mùng 5, đám rước Thần mừng chiến thắng từ đình Khương Thượng về gò Đống Đa trong rừng cờ tàn, tán, lọng, kiệu... rực rỡ màu sắc cùng chiêng, trống, thanh la... diễu hành.
Đặc sắc và thu hút người xem nhiều nhất còn là lễ rước "Rồng lửa" được bện bằng nùi rơm, mo nang và giấy bồi trang trí thành hình con rồng, một tốp thanh niên bận võ phục đi quanh, biểu diễn côn, quyền nhằm tái hiện lại cuộc chiến đấu đã qua. "Rồng lửa Thăng Long" trở thành biểu tượng chiến thắng của người dân Việt Nam.
Trong hội còn nhiều trò chơi dân gian vui khỏe đua tài, đua trí trên bãi rỗng trước gò.
2.Hội Vân Sa:
Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Làng Vân Sa, xã Tản Hồng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây cũ (nay Thuộc Hà Nội).
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh Trần Quốc Chẩn (là con thứ của vua Trần Hưng Đạo và là quan đại triều đời Trần) và Ngũ Nương (Đức Thánh Bà - là một vị tướng của Hai Bà Trưng).
Nội dung: Làng Vân Sa vốn là một làng nghề nuôi tằm dệt lụa, vì thế mà mở đầu của lễ hội và lễ rước bông, sau đó mới tới các hoạt động vui chơi dân gian như: trò cướp kén, trò tứ dân lạc nghiệp, múa Tứ Linh.
3. Hội Vật Võ Liễu Đôi:
Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tới ngày 10 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm tổ chức: Làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Đối tượng suy tôn: nhằm tưởng nhớ tới Thánh ông họ Đoàn giỏi võ, sức khỏe phi thường có công dẹp giặc phương Bắc, đồng thời là ông tổ của vật võ.
Nội dung: Ở các lễ hội khác, vật võ chỉ là trò vui thể thao còn ở trong lễ hội Liểu Đôi, vật võ lại là nội dung chính của ngày hội.
Mở đầu hội vật võ là nghi thức rước Thánh vào dóng. Lễ rước nghiêm trang mang đậm tinh thần thượng võ. Tiếp theo là lễ phát hỏa. Một ngọn lửa thật sáng được đốt lên, ông trùm trao gươm và khăn đào cho một đô vật danh dự (lễ này gọi là lễ trao gươm và thắt khăn đào). Cuối cùng là lễ Thanh động còn gọi là "lễ múa cờ tụ nghĩa".
Sau nghi thức long trọng, cuộc đấu vật bắt đầu. Có hai bé trai được làng cử ra vật năm keo để trình làng (gọi là lệ năm keo rốt), tiếp theo là các đô vật Liễu Đôi giao đấu trước, sau đó là các đô vật ở các nơi đến tranh tài.
Ngoài vật võ trong lễ hội còn rất nhiều thú vui khác như hát vè, hát đối đáp... và những món ăn đặc sản do tài nghệ chế biến của nhân dân địa phương mang đến lễ hội để dự thi.
4. Hội Phương Thành:
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 5 tới ngày mùng 7 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công ơn ông tổ nghề dệt.
Nội dung diễn ra: Mở đầu lễ hội là lễ tế ông tổ nghề dệt của làng, tiếp đó là các hoạt động vui chơi lành mạnh như thi dệt, chọi gà, cờ tướng, đấu vật
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
![]() |
Ảnh minh họa |
Khi bạn đang cố gắng để hoàn thành những mục tiêu trong cuộc sống mà lại nằm mơ thấy thịt sống thì điều này ám chỉ rằng sẽ có rất nhiều chướng ngại vật hay khó khăn sẽ khiến bạn nản chí đó.
Mơ thấy thịt chín cũng chớ vội mừng, đây là điềm báo thứ mà bạn đang cố gắng để đạt được sẽ bị người khác lấy mất.
Chiêm bao thấy mình đang ăn thịt là bạn đang cố gắng đi sâu vào trọng tâm của vấn đề.
Chiêm bao thấy mình ăn nước thịt thì nên giữ gìn sức khỏe hoặc thận trọng trong việc làm ăn, hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi hành động để tránh gặp thất bại nhé.
Giấc mơ về bắp thịt là giấc mơ biểu trưng cho sức mạnh và sự dẻo dai. Bạn cần gìn giữ và phát huy những tính chất tốt đẹp này để hòan thiện bản thân tự tin hơn, mạnh mẽ hơn.
Thịt lợn muối xông khói trong giác mơ tượng trưng cho những gì là chủ yếu, cần thiết và quan trọng trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu mơ thấy thịt đã bị ôi thì dự báo bạn sắp bị ngăn cấm làm một vài việc nào đó.
Chiêm bao thấy mình đang ăn đùi lợn muối hoặc sấy khô thì hãy chú ý đến bản thân mình hơn, lúc này hãy đảm bảo rằng bạn luôn tràn đầy sinh lực. Nếu chuyện tình cảm của bạn đang gặp trục trặc thì điều này cũng ám chỉ khát vọng của bạn là được người kia chú ý tới.
Tổng hợp
![]() |
Cả Mùi và Dậu đều không thích những cuộc tranh luận nên hầu như họ ít cãi vã. Tuy vậy, mâu thuẫn lại thường bắt nguồn từ việc làm của Mùi đi ngược lại với nguyên tắc cứng nhắc của Dậu.
Khi yêu nhau, 2 người không mấy khi vui vẻ. Tuy nhiên, nếu họ sống chung trong 1 mái nhà thì nhà cửa lúc nào cũng yên tĩnh, sạch sẽ, tinh tươm, được trang trí rất có phong cách (mặc dù Dậu thích kiểu sang trọng còn Mùi thì không). Mùi và Dậu đều chú ý đến những chi tiết, không gian trong gia đình. Cho nên, họ sẽ có thể gặp sự bất đồng về quan điểm khi cố gắng điều khiển mọi thứ theo ý mình. Tính hay cằn nhằn của Dậu sẽ khiến khoảng cách giữa 2 người ngày càng xa nhau. Tuy vậy, Dậu rất chung thủy. Trong tình cảm, Mùi là người lãng mạn và hào phóng, đồng thời rất muốn được đối phương ngưỡng mộ.Mùi và Dậu sẽ hợp nhau hơn khi là bạn làm ăn. Vẫn có sự ganh đua quyền lực, nhưng sự bổ sung cho nhau trong công việc là điều dễ thấy. Dậu là người có con mắt tinh tế và có tài quản lý tài chính hoặc những công việc tương tự. Còn Mùi thường có những ý tưởng, sáng kiến hay trong kinh doanh. Tóm lại, Mùi thường gặp may còn Dậu tốt về đường tài lộc, nên 2 tuổi này hợp lại làm ăn sẽ rất phát đạt.
(Theo Zing)
Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Biệt danh |
Thiên Khôi | Nam đẩu trợ tinh | Dương hỏa | Dương quý | Sinh ban ngày quý | Thiên ất Quý nhân |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên Khôi là dương hỏa, là trợ tinh thứ nhất trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là dương quý, chủ những người sinh vào năm dương hoặc sinh vào ban ngày sẽ có nhiều quý khí, còn gọi là Thiên Ất Qúy Nhân.
Sao Thiên Khôi là một trong lục cát tinh, tục gọi là sao Qúy Nhân, quý nhân ở đây không phải là người hiển quý, mà là những người giúp đỡ chỉ bảo cho người khác trong những thời điểm thích hợp đều gọi là quý nhân. Cái quý của sao Thiên Khôi thường xuất hiện trước năm 40 tuổi, tất cả các cung vị của các sao đều được sao Thiên Khôi trỡ giúp. Vận hạn mà gặp Thiên Khôi, chẳng khác nào mà được quý nhân phù trợ, nâng đỡ trong hầu hết các lãnh vực như thi cử, cầu tài, cầu chức, công việc..., mọi sự đều thành công thuận lợi. Sau năm 40 tuổi, dù nam mệnh hay nữ mệnh, đại hạn, tiểu hạn hoặc lưu niên nếu gặp Thiên Khôi, thường sẽ khiến bản thân trở thành quý nhân của người khác, tức là có thể nâng đỡ, giúp cho người khác.
Trong tử vi Canh Dần là mãnh hổ chôn rừng xanh, tính cách uy nghi, chí khí ngang tàng, làm việc bình hòa, ngoài cương trong nhu.
Tùng bách Mộc ngang tàng đứng trong sương tuyết, cao vút tầng mây che phủ mặt đất, gió lay giống như tấu lên khúc nhạc, hiên ngang trong gió mưa. Mộc này tàng ẩn dưới Kim, vị trí ở Chính Đông, là cực vượng.
Mộc Canh Dần sống trong mùa đông, tuyết sương còn không thể làm thay đổi tiết tháo của chúng, huống hồ Kim có thể khắc chúng hay sao?
Ưa nhất sơn làm cơ sở, Thủy thấm ướt, rất ưa Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, Đinh Sửu có núi, có thể làm cơ sở.
Nạp âm có Bình địa Mộc, lại được ốc thượng Thổ, ắt trở thành mệnh quan cao.
Rất kỵ nạp âm có Hỏa, ví dụ như Đinh Mão Lư trung Hỏa, lại thêm Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, trở thành Khôi phi yên diệt cách, cuối đời phá bại. Cũng rất kỵ Mậu Tý, Kỷ Dậu Tích lịch hỏa, chủ về yểu thọ.
Nạp âm không có Thủy, nên đề phòng đoản mệnh, hoặc cả đời không có thành tựu.
Giáp Tuất, Ât Hợi Sơn đầu Hỏa, Đinh Dậu Sơn hạ Hỏa; Mậu Tý, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa, Giáp Thìn Phúc đăng Hỏa đều không thể phạm.
Rất kỵ Địa chi của các trụ khác có Dần, Ngọ, Tuất, đề phòng gặp họa hỏa hoạn.
Nạp âm không ưa Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ, phạm phải chủ về cả đời thiếu tiền, hơn nữa đoản mệnh. Nếu như lại có Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, hung lại càng thêm hung.
Mộc này ưa nhất có Quý Dậu Kiếm phong Kim để tu sửa, lại thêm Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ, ắt quý hiển. Riêng không ưa Nhâm Thân Kiếm phong Kim, bởi vì Dần, Thân phạm xung.
Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc mang phong, Nhấm Ngọ, Quý Mùi Dương liễu Mộc mang Hỏa, cho nên không ưa gặp nhau.
Tân Dậu Thạch lựu Mộc mang Kim, có thể trợ giúp Mộc này, chủ cát lợi.
Đối với tử vi người sinh Mộc này tốt nhất sinh vào mùa đông, trải qua sự gian khổ ắt sẽ vinh hiển, giống như hoa mai vàng ắt phải trải qua sương gió mối có thể tỏa hương.
Canh lộc tại Thân, Dần mã cũng tại Thân, lộc mã đồng cung, nên sớm xa nhà đi làm ăn xa, tương lai sẽ áo gấm vinh quy.
Địa chi của các trụ khác không ưa có Dần, lộc hình mã hình, không nên kinh doanh.
Địa chi của các trụ khác không thể có Tỵ, Thân, phạm tam hình, e rằng yểu vong. Mệnh nữ lưu lạc phong trần.
Canh Dần không vong tại Ngọ, Mùi, Địa chi của các trụ khác không thể gặp Ngọ, Mùi.
Gặp năm Dần, năm Thân, trong nhà không yên ổn. Nếu bản thân không bị thương hại thì người nhà cũng khó tránh điềm hung.
Thời chi có Tuất, nên theo tôn giáo.
Địa chi của các trụ khác có Mão, cả đời tiều tụy.
Mệnh nam chủ về kết hôn 2 lần, mệnh nữ chuyện tình cảm nhiều buồn phiền.
Bạn đời không nên lấy người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm ngưòi sinh năm Giáp, Ất.
Địa chi của các trụ khác có Tỵ, thân thể có thương tật. Ví dụ như trẻ nhỏ bị bại liệt, trúng gió, hoặc bị bệnh tiểu đường mà tứ chi thương tổn.
Ngưỡng cửa là bộ phận phía dưới hoành ngang, ngăn chặn ngoại lực từ bên ngoài, có tác dụng tránh gió, tránh bụi và chặn các loại côn trùng từ ngoài bò vào trong. Theo phong thuỷ thì nó còn có khả năng phòng trừ tài khí của ngôi nhà lọt ra ngoài.
Khi làm ngưỡng cửa cần phải chú ý:
– Màu sắc ngưỡng cửa cần phải có sự đồng bộ hài hoà với màu sắc cửa.
– Tránh làm ngưỡng cửa bị đứt đoạn, chắp nối, vì như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng dưỡng trạch khí.
Trong phong thuỷ, màu sắc của thảm sàn cũng có một ảnh hưởng nhất định đến phong thuỷ ngôi nhà. Do vậy, tuỳ theo hướng cửa ta có thể chọn màu sắc của thảm như sau:
– Cửa hướng Đông, Đông Bắc nên trải thảm màu đen.
– Cửa hướng Nam, Đông Nam nên trải thảm màu lục.
– Cửa hướng Tây, Tây Nam nên trải thảm màu vàng.
– Cửa phía Bắc, Tây Bắc nên trải thảm màu trắng. Ngưỡng cửa có vai trò rõ rệt trong việc phân cách ngôi nhà với thế giới bên ngoài. Đồng thời ngưỡng cửa còn có tác dụng chắn gió, chắn bụi và ngăn các loài côn trùng, bò sát ở bên ngoài cổng. Bởi thế ngưỡng cửa có giá trị thực tế rất lớn, có tác dụng ngăn cản không cho những vật không có lợi vào nhà và ngăn không cho tài lộc chảy ra bên ngoài, theo phong thuỷ học thì có vai trò bảo vệ.
Ngưỡng cửa không nên bị đứt gãy, nếu bị đứt gãy sẽ giống như cột chống nhà bị rạn nứt, bị coi là rủi ro. Ngưỡng cửa hoàn chỉnh thì không khí trong nhà sẽ lưu thông thuận lợi, nếu đứt gãy thì không khí sẽ ngưng đọng. Do đó, nếu ngưỡng cửa bị đứt gãy phải tiến hành thay thế. Ngoài ra cần phải chú ý khi đặt ngưỡng cửa: màu sắc của ngưỡng cửa phải phù hợp với màu sắc của cổng nhà.
![]() |
![]() |
![]() |
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi số mệnh của bạn nhanh, chuẩn xác |
Giáp Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1924, 1984 và 2044
Cung CHẤN.
Trực BẾ Mạng HẢI TRUNG KIM (vàng dưới biển)
Khắc BÌNH ĐỊA MỘC Con nhà BẠCH ĐẾ (phú quý)
Xương CON CHUỘT
Tướng tinh CON CHÓ SÓI
Luận xem số mạng tuổi này,
Giáp Tý số cực chịu nhiều nổi trôi.
Ly hương tổ quán xứ xa,
Anh em cô bác ai giàu nấy ai.
Lỗi sanh phải chịu bơ vơ,
Cực nhọc lo lắng tại giờ sinh ra.
Số người chết hụt nhiều lần,
Người nào thất đức phải sa ngục hình.
Tu nhân tích đức hiển vinh,
Rủi bị tai nạn thánh thần độ cho.
Số này hậu vận mới no,
Tiền vận làm có của kho chẳng còn.
Cuộc sống tuổi nhỏ nhiều đau buồn, cuộc đời có nhiều rủi hơn may. Nhưng bây giờ và trở đi, cuộc sống có phần bảo đảm và vững chắc hơn. Năm Bính Ngọ không tốt lắm. có nhiều việc không hay đưa đến cho cuộc đời. Nhưng vượt qua được thì nắm lấy nhiều thắng lợi lớn lao vào năm 44 tuổi. Tuy có nhiều khổ tâm nhưng bản thân ít cực khổ. Cuộc sống bắt đầu thay đổi mạnh hơn vào năm 44 tuổi. Tuổi 43 quá xấu không được tròn đẹp, nên cẩn thận, dè dặt và đề phòng. Tóm lại, cuộc đời nhiều rủi, có thể làm nên sự nghiệp được vững chắc phải chịu đựng hết năm 43 mới có thể vững được. Tuổi Giáp Tý hưởng thọ trung bình từ 60 đến 66 tuổi đó là phước đức, biết làm phước tu thân, lấy đạo đức làm căn bản cho sự sống. Nếu có trường hợp ác độc, hoặc không làm phước đức thì giảm kỷ. Cuộc sống theo tử vi của tuổi Giáp Tý tuy có nhiều giai đoạn khó khăn nhưng ít khổ cực về thân thể, có một mức sống trung bình hơn là bần tiện.
Số tuổi Giáp Tý có đau khổ nhiều về việc tình duyên từ lúc nhỏ. Tình duyên được vững chắc. Tình duyên được vững chắc vào năm 30 tuổi trở đi. Về vấn đề này có rất nhiều khe khắt buổi đầu. Sự tạo lấy hạnh phúc rất khó khăn. Tuy nhiên ngay bây giờ thì đã hưởng được nhiều êm ấm trong gia đình. Nếu bạn sanh vào những tháng này thì có nhiều thay đổi về lương duyên hay ít ra cũng có nhiều đau khổ về đ àn bà. Đó là những tuổi Giáp Tý sanh vào những tháng 1, 5, 6, 9, 11 và 12. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng này thì số lương duyên phải thay đổi 3 lần, đó là những tháng 5,6 và 9. Và những tháng này thì bạn hai lần thay đổi lương duyên, đó là những tháng giêng, 2, 7, 10, 11 và 12. Ngoài ra nếu sanh vào những tháng này thì cuộc lương duyên trở nên chung thủy, đó là những tháng 3, 4 và 8. Về lương duyên có nhiều khe khắt tùy theo tháng sanh của bạn mà tạo lấy hoàn cảnh xảy ra trong cuộc đời. Vậy bạn nên cần nhớ xem sanh vào tháng nào để xem cuộc đời còn có thay đổi nữa hay không.
C ông danh vẫn còn ở mức trung bình và khó mà lên đến tột đỉnh của danh vọng, nếu có cũng chỉ là một thời gian ngắn ngủi, không được vững chắc và lâu bền. Tuy công danh không sáng tỏ lắm, nhưng có nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ. Nếo có chí sáng suốt và biết nhận định, gia đạo tuy có một vài khe khắt, nhưng sau cùng được ấm êm , cuộc đời ít bị trở ngại về vấn đề gia cảnh, số trùng phùng, được nhiều mến thương, không đến nỗi phải bận tâm cho lắm về vấn đề này. Tuổi Giáp Tý hoàn thành sự nghiệp rất sớm, tuy không vững chắc, có khi lại bị sụp đổ bất ngờ, nhưng ít ra cũng thâu được nhiều kết quả mong muốn, không đến đỗi phải nghèo túng như những kẻ khác. Qua 44 tuổi thì sự nghiệp vững chắc hơn, còn phải chịu đựng năm 43 tuổi nữa. Tiền tài liên quan đến sự nghiệp rất nhiều, vấn đề tiền tài cũng thăng trầm lắm, tuy có nhiều nhưng lại ra vô bất thường, không nắm được sự vững chắc của nó. Nhờ sáng trí mà sự nghiệp lẫn tiền tài mới có được như ngày nay. Số hoàn thành vững chắc sự nghiệp và tiền bạc điều hòa vào năm 44 tuổi. Bây giờ hãy còn là một vấn đề mong manh lắm vậy.
Muốn làm ăn cho vững vàng khỏi sợ bị thất bại liên miên, làm hao hụt tiền bạc, làm cho gia cảnh thêm phần túng thiếu. Sự làm ăn cũng liên quan đến cuộc sống rất nhiều, cho nên trong vấn đề làm ăn, hùn hạp hay tự mình đứng ra gánh vác. Sự lựa chọn người làm công hay giúp đỡ công việc cũng rất cần thiết cho sự hợp tuổi, hợp tình. Có khi gặp tuổi kỵ, bạn phải mang lấy thất bại. Vậy muốn làm ăn cho phát đạt và thâu nhiều kết quả, bạn cần lựa những tuổi này: Giáp Tý, Bính dần, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Nhâm Thân. NHững tuổi này rất hạp với tuổi Giáp Tý của bạn. Nên tìm những tuổi này mà làm ăn thì phấn chấn và phát đạt mạnh mẽ.
Sự lựa chọn vợ chồng được sống cao sang quyền quý:
Khi yêu thương nhau, người ta không nghĩ đến sự trùng hợp tuổi tác, cũng như việc lương duyên không lựa chọn, vì việc vợ chồng có liên quan mật thiết đến sự sống rất nhiều, nếu sự lựa chọn không đúng sẽ phải có nhiều khổ tâm, sống một cuộc đời bần tiện. Bởi vậy trong việc lương duyên cũng cần lựa chọn cho kỹ càng.
Những tuổi hợp với tuổi mình mới làm ăn phát đạt được, và sau đây là những tuổi trùng hợp, có thể tạo được một cuộc sống cao sang quyền quý cho bạn, đó là những tuổi hạp với tuổi Giáp Tý như: Giáp Tý hai vợ chồng cùng một tuổi, Bính Dần, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Quý Hợi. Tuổi Giáp Tý (gái) làm cho cuộc đời có nhiều danh giá, nhiều người mến thương, tạo cho chồng có quyền tước, vợ chồng êm ấm.
Tuổi Bính Dần hưởng được sang giàu về sau, tuổi nhỏ thì có nhiều long đong, lớn mới thành.
Tuổi Kỷ Tỵ rất tốt cho vấn đề danh vọng, con đủ nuôi, tài lộc phát triển mạnh mẽ, sống cuộc đời sung túc.
Tuổi Canh Ngọ sanh con giá đầu lòng thì hạp, cuộc sống bình thường nhưng không đến đỗi thiếu thốn, công danh ở mức trung bình.
Tuổi Quý hợi thì tánh người vợ hiền và thông minh, gia đình giàu có, có chức phận, thuận hòa gia đạo.
Trong sự lựa chọn hôn nhân, bạn muốn không xảy ra những chuyển rắc rối, hay cuộc sống có nhiều đau buồn, lắng đọng tâm tư, thì nên tránh đi những tuổi như Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Dậu. Những tuổi này rất đại kỵ với tuổi Giáp Tý. Nếu có sự yêu thương nhầm lẫn thì sẽ xảy ra cảnh biệt ly và tuyệt mạng bất ngờ; vậy nên khi lựa chọn lương duyên, bạn cần nên tránh đi những tuổi đó, để không có sự đổ vỡ hay đau buồn cho cuộc đời. Tuổi Giáp Tý đại kỵ những tuổi Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão và Tân dậu. Năm nào gặp phải sao hạn, phải cúng sao nhằm ngày 18 âm lịch đốt 22 ngọn đ èn, lấy 22 chén nước lạnh vái về hướng Tây, và tùy theo mỗi năm có một vì sao mà cúng. Nếu gặp những tuổi kỵ trên cần phải tránh xa hay van vái Phật, Trời, nên làm những điều phát thiện, nên tu tâm, dưỡng tánh, làm phước đức nhiều thì tốt.
Tuổi Giáp Tý thuộc mạng kim, tánh ôn hòa và nhẫn nại, những năm khó khăn nhất mà bạn phải trải qua, đó là những năm mà bạn vừa đủ 20, 24, 25, 29 và 30 tuổi. Những năm này chẳng những khó khăn về việc làm ăn, mà gia đạo hay có sự xích mích, tánh tình thường sôi động, không định được một đường hướng hay căn bản cho cuộc sống. Bạn vượt qua được là một sự may mắn cho cuộc đời, tuy những năm quá nhiều khó khăn, đau buồn, lo nghĩ dồn dập, bạn nhờ ở sự an ủi của bạn bè nhiều hơn là gia đình thân tộc. Bạn nên nhớ lại, lấy kinh nghiệm đó mà làm căn bản cho cuộc sống ngày nay vậy.
Bất kỳ ngày nào trong cuộc đời, không cần ghi rõ ngày, tháng, bạn cũng có thể xuất hành được, mà không sợ tai nạn, thất bại hay phát triển tài lộc. Tuổi Giáp Tý hạp ngày chẵn, giờ chẵn và tháng lẻ. Khi muốn xuất hành bạn phải lựa, thí dụ: 8 giờ ngày 2 tháng 1, đó là giờ chẵn, ngày chẵn và tháng lẻ vậy. Cứ như vậy mà làm thì chắc chắn khôngbao giờ bạn gặp trường hợp khó khăn cả.
Từ 43 đến 44 tuổi: Năm 43 tuổi gặp sao Kế Đô, hạn địa võng, trong nhiều năm có nhiều đau buồn, bịnh tật hay tang khó bất ngờ, cần nhẫn nại, cầu Trời Phật cho qua khỏi tai ương. Năm này có nhiều khó khăn nhứt xảy ra trong đời bạn, nên sáng suốt và bình tĩnh trước mọi biến động trong gia đình cũng như về mặt xã hội tình cảm. Những vấn đề này thường xảy ra ở khoảng giữa năm. Qua 44 tuổi thì vững vàng bù đắp lại những đau buồn đó. Sự nghiệp cũng tiến lên, tiền tài đầy đủ, gia đạo trở nên yên hòa, êm ấm.
Từ 45 đến 47 tuổi: Hai năm này, cuộc sống bắt đầu trỗi dậy và phát vượng mạnh mẽ nhất, nghề nghiệp và tiền bạc cũng phát triển mạnh mẽ hơn nữa, gia đạo vui tươi, phần con cái có bịnh hoạn, hay thay đổi nghề nghiệp, việc làm, phần cá nhân có đau bịnh nhỏ vào năm 46 và 47 tuổi, mộ lần đau nặng vào năm 47. Ngoài ra việc làm ăn, gia đạo vẫn tiến triển đều đặn.
Từ 47 đến 50 tuổi: Việc gia đạo có nhiều bê bối, cá nhân thường có bịnh tật trầm trọng, nếu vượt qua được thì có phần ảnh hưởng con cái phải chịu lấy, gia đạo thường có sự bất an hơn. Năm 48, tạm yên, 49 có nhiều thay đổi nhà cửa hay việc làm. Vào tuổi 47 con cái có thăng quan, tấn tước hay làm nên cơ nghiệp.
Từ 51 đến 55 tuổi: Khoảng thời gian này trung bình, tiền bạc ra vô đều đặn, không có những sự thất bại nữa mà chỉ còn nắm lấy thành công. Tuổi Giáp Tý qua năm 51, 52 tuổi con cháu có tấn phát, tài lộc điều hòa, tuổi 53 và 54, phần con cái tấn phát mạnh hơn, phần cá nhân trong tình trạng bình thường, cuộc sống không có gì thay đổi quan trọng.
Từ 56 đến 60 tuổi: Số này có thể biến đổi về thân thế trong những năm 55-56, hai năm giằng co với sự sống. Tuy nhiên nhờ ở phước đức gia tộc có thể kéo dài. Con cháu có phần phát đạt tột độ vào những năm từ 55 đến 60 tuổi. Lúc này tiền bạc ít hao hụt, vào nhiều ra ít, cẩn thận cho bản thân vào những năm này
Xem thêm:
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Tý
Xem tử vi năm mới
Trong nhà ở, năng lượng dương được xem là quý và quan trọng nhất, nhưng điều đó không có nghĩa là bỏ qua năng lượng âm.
Phòng ngủ và phòng nghỉ ngơi, thư giãn phải được hưởng lợi ích từ năng lượng âm tươi mới. Mặt trăng và ánh trăng thường mang năng lượng âm may mắn, không phải loại năng lượng ứ trệ đi kèm với sự chết chóc.
Vì thế, khi không muốn năng lượng âm phát ra từ những cây chết chẳng hạn, bạn nên chào đón năng lượng âm của trăng tròn.
Có nhiều huyền thoại liên quan đến mặt trăng, trong đó huyền thoại phổ biến nhất cho rằng trăng là nơi trú ngụ của Nguyệt Lão, ông tiên chủ về hôn nhân.
Người ta tin rằng những cô gái muốn có hôn nhân tốt đẹp nên sử dụng năng lượng của mặt trăng để cung cấp năng lượng cho cung tình duyên.
Một số nghi thức của Lão giáo sử dụng năng lượng của mặt trăng để kích hoạt đường tình duyên cho những cô gái trẻ, giúp họ tìm được tình yêu chân thật.
Đây là điển cố thứ Ba mốt trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Phật Ấn Hội Đông Pha (còn gọi là Phật Ấn Gặp Đông Pha). Quẻ Quan Thế Âm Phật Ấn Hội Đông Pha có bắt nguồn như sau:
Phật Ấn vốn họ Tạ, tên là Đoan Khanh, là vị hòa thượng nối tiếng ở chùa Kim Sơn thời Bắc Tống. Khi ông ba tuổi đã đọc được “Luận ngữ”, năm tuổi có thế đọc được ba trăm bài thơ, nên được ca ngợi là “thần đồng”.
Nghe nói, Tạ Đoan Khanh xuất gia làm hòa thượng là do bất đắc dĩ. Tạ Đoan Khanh lên kinh dự thi, được nghe về tài danh của Tô Đông Pha, cùng với Tô Đông Pha chuyện trò rất tâm đầu ý hợp, bèn kết làm bạn tâm giao. Một hôm, Tạ Đoan Khanh mời Đông Pha lên Phàn Lâu uống trà. Trong khi cười nói, Đông Pha tiết lộ cho Đoan Khanh biết rằng: “Gần đây hoàng thượng thấy trời hạn hán, muốn lập đàn cầu mưa ở chùa Đại Tướng Quốc, lệnh cho ngu huynh này viết bài văn tế cầu mưa, đảm nhiệm chức quan chủ trai hành lễ, lo liệu công việc.” Tạ Đoan Khanh nghe xong rất vui: “Xin huynh nghĩ cách cho tiểu đệ được vào xem hành lễ, được một lần diện kiến long nhan mà mở mang tầm mắt. Không biết có được hay không?” Đông Pha biết rõ là việc này không nên làm, vì một khi để lộ ra ngoài, sẽ mang tội khi quân, nhưng do tình nghĩa bạn bè khó từ chối, bèn rỉ tai mà nói: “Túc hạ muốn đi, cũng chưa hẳn là không thể. Chỉ cần cải trang thành thị giả, phục dịch trên đàn tế, đợi khi thánh giá đến là có thể nhìn thấy.” Tạ Đoan Khanh lập tức tán thành. Đông Pha trở về cũng sắp xếp ốn thỏa.
Vào ngày cử hành điển lễ cầu mưa, Tạ Đoan Khanh đến bảo điện Đại Hùng, trà trộn vào giữa đám thị giả, châm hương thắp nến. Hoàng đế Thần Tông ngồi kiệu chạm trố rồng phượng, dưới sự bảo vệ của các đại thần trọng yếu, ngự giá đến chùa Đại Tướng Quốc. Tô Đông Pha và các hòa thượng xếp hàng bái lạy, đón hoàng đế vào đại điện. Sau khi hành lễ xong, hoàng thượng giá lâm đến lầu Tàng Kinh nghỉ ngơi, Tạ Đoan Khanh vào dâng trà thơm, vốn là vì khí hành lễ ở đại điện, người người bảo vệ xung quanh, Tạ Đoan Khanh không thể nhìn rõ long nhan, cho nên cố ý làm người hầu dâng trà, để được chiêm ngưỡng kỹ hơn.
Thần Tông nhận trà, thấy Tạ Đoan Khanh vóc người to cao, mặt vuông tai lớn, mắt thanh mày tú, khí khái phi phàm, trong lòng rất kinh ngạc, liền buột miệng hỏi: “Thị giả kia tên họ là gì? Là người phương nào? Ở chùa được mấy năm rồi?” Tạ Đoan Khanh bối rối, nhưng cái khó ló cái khôn, liền khấu đầu tấu rằng: “Thần là người mới xuất gia đến chùa này. Hôm nay may được thấy long nhan, thực vui mừng hết sức!” Thần Tông thấy Đoan Khanh thông minh lanh lợi, vuốt râu mà hỏi: “Ngươi có thông hiểu Phật pháp không?” Đáp rằng: “Tiểu nhân từ nhỏ đã hướng Phật, lớn lên cũng thích Phật, chỉ thích lễ Phật theo Thiền, những kinh điển của Phật học cũng biết sơ sơ được một hai.” Thần Tông nói: “Nếu đã như vậy, trẫm ban cho khanh pháp danh là Liễu Nguyên, hiệu là Phật Ấn, ban cho một áo cà sa màu tía, một cái bát bằng vàng, một chiếc thẻ tu hành bằng da dê, cạo đầu trước mặt trẫm làm hòa thượng”. Tạ Đoan Khanh nghe vậy thì chết điếng, nhưng lệnh vua khó trái, chỉ còn cách vờ vui mừng mà khấu đầu tạ ơn. Lập tức trụ trì dẫn Tạ Đoan Khanh đến chính điện, lạy Phật tố Như Lai, rồi đến trước mặt hoàng đế, xuống tóc cho Đoan Khanh, khoác lên mình tấm áo cà sa. Từ đó, Tạ Đoan Khanh trở thành hòa thượng Phật Ấn.
Quẻ Quan Thế Âm Phật Ấn Hội Đông Pha là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm !
Sao Thiên Phủ là một Nam Đẩu tinh (thuộc hành thổ - tính âm).
Thiên Phủ thuộc loại quyền tinh, tài tinh chủ sự tài lộc và uy quyền.
Vị trí Miếu địa của sao Thiên Phủ: Dần, Thân, Tỵ, Ngọ.
Vượng địa tại Thìn, Tuất.
Đắc địa tại Tỵ, Hợi, Mùi.
Bình hòa tại Mão, Dậu, Sửu.
Sao Thiên Phủ dù năm ở vị trí nào cũng đều chỉ sự nhân hậu, từ thiện, gia tăng quyền, lộc. Cứu giải bệnh tật giải trừ tai ương.
Khắc chế được tính hung ác của Kình, Đà, Hỏa, Linh nhưng nếu gặp đủ bộ của bốn sao này uy quyền và tài lộc lại bị triết giảm.
Thiên Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ và Thiên Không, Không kiếp thì ví như kho tàng bị phá vỡ, thường gây ra sự hao tán, bại hoại.
Sao Thiên Phủ ở mệnh nên thân hình đẫy đà, da trắng, vẻ mặt thanh tú, răng đều và đẹp, tính khoan hòa, nhân hậu, ưa việc thiện, biết suy tính và có nhiều mưu cơ để giải quyết những việc khó khăn. Suốt đời được hưởng phúc, giàu sang và sống lâu.
Thiên Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ hay không, kiếp hội họp thì thân hình lại cao và hơi gầy, da dẻ kém vẻ tươi nhuận, tính tình ương ngạnh, thích ăn hoang tiêu rộng chơi bời phóng túng, thích phiêu lưu mai đây mai đó, hay mưu toan những chuyện viển vông vậy cho nên suốt đời túng thiếu và chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, tuổi thọ cũng bị triết giảm.
Cung mệnh có sao Thiên Phủ tọa thủ gặp nhiều sát tinh hội họp là một người dối trá, hay đánh lừa, nói dối.
Sao Thiên Phủ rất cần gặp sao Tử vi, Tướng, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu cùng với Khoa, Quyền, Lộc. Và rất kỵ gặp Tuần, triệt án ngữ, hay thiên không, không kiếp hội họp.
Thiên Phủ ôn lương: Cung mệnh có sao thiên phủ là người khoan hòa, nhân hậu, có lòng từ thiện.
Đàn ông có Thiên phủ thủ mệnh: Là người cẩn thận, chín chắn, biết suy nghĩ sâu xa, ví như con thuồng luồng qua khu vực.
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù, phú quý song toàn: Cung mệnh an tại tuất có sao Thiên Phủ tọa thủ gặp thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp sẽ được hưởng phú quý giàu sang tới trọn đời.
Thiên Phủ Tuất-Cung vô Sát tấu, Giáp Kỷ nhân hoạnh phát danh tài: Cũng như trên cung mệnh không bị sát tinh xâm phạm. Cách này hợp với tuổi Giáp Kỷ. Vậy cho nên nếu tuổi giáp kỷ có cách này tất hoạn phát công danh, và được hưởng phú quý tới tột bậc.
Dần mộc, Phủ, Vi hữu hội tam kì, Kình, Bật, Cư lai thân mệnh xuất võ do văn, uy quyền quy phụ chung nhân, mạc phùng không, kiếp hư vô: Cung mệnh hay cung thân an tại Dần có sao Thiên Phủ tọa thủ và Tử Vi đồng cung lại gặp Khoa, Quyền, Lộc hội họp cùng với Kình, Bật là người có văn chức, nhưng gặp thời loạn, nhưng kiêm nhiếp cả quản sự, có uy quyền lớn, khiến mọi người phải phục tùng kính nể. Nhưng nếu gặp cách này mà gặp Tuần, triệt án ngữ hay thiên không, địa không, địa kiếp thì sẽ không được kể đến.
Phủ, Vũ Tý cung, Giáp, Đinh-nhân tọa, phúc vượng danh ba, hung lai Tuần, Triệt, danh sú nhân khi ư Canh Nhâm-tuế, tìa phúc trường hành: Tuổi Giáp, Đinh có cung mệnh an tại Tý, có Phủ, Vũ tọa thủ đồng cung, nên được hưởng phúc giàu sang và có danh tiếng lẫy lừng. Nhưng nếu gặp Tuần, triệt án ngữ thì lại mang tiếng xấu và bị nhiều người khinh bỉ, công danh cũng trắc trở, tài lộc cũng suy kém. Những tuổi khắc nếu có cách này, thường được luận đoán như trên. Nhưng riêng hai tuổi Canh và Nhâm mà có cung mệnh an tại Tý, có Phủ, Vũ tọa thủ đồng cung, dù gặp tuần, triệt án ngữ cũng không bị mang tiếng xấu, vẫn có tài lộc và hưởng phúc.
Thiên Phủ cư Ngọ, Tuất, Thiên Tướng lai triều Giáp-nhân nhất hẩm chi quý: Cung mệnh an tại cung ngọ và Tuất có Thiên Phủ tọa thủ lại gặp Thiên Tướng hợp chiếu, tất có quan chức và được hưởng giàu sang. Riêng tuổi Giáp, nếu có cách này lại rất nguy hiểm.
Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Đồng, Quân thần khánh hội: Cung mệnh có sao Thiên Phủ tọa thủ gặp Thiên Tướng hợp chiếu, nhị hợp có Thiên Lương thì rất rực rỡ và tốt đẹp được ví như vua tôi khánh hội ở trốn triều đình. Nếu có cách này chắc chắn sẽ đưởng hưởng giàu sang.
Thiên Phủ, Văn Xương, Văn khúc, Tả, Hữu, cao đệ ân vinh: Cung mệnh có Phủ tọa thủ, gặp xương, khúc, tả, hữu hội họp thì người được vinh hiển, có danh giá hơn người.
Thiên Phủ, Thiên Tướng đồng lai hội mệnh-cung: Cung mệnh có Thiên Phủ tọa thủ, có Thiên Tướng hội chiếu nên rất sung túc, thừa cơm ăn áo mặc.
Hành: Kim
Loại: Hình Tinh, Hung Tinh
Đặc Tính: Sát phạt, cô đơn, bần hàn, bệnh tật, tai nạn
Tên gọi tắt thường gặp: Kình
- Còn có tên là Dương Nhận. Thuộc bộ sao đôi Kình Dương và Đà La. Gọi tắt là bộ Kình Đà.
- Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Sát Tinh gồm các sao Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Linh Tinh, Hỏa Tinh (gọi tắt là Kình Đà Không Kiếp Linh Hỏa).
- Nếu sao Kình Dương tọa thủ trong cung Vô Chính Diệu được gọi là cách Hung Tinh độc thủ.
Đắc Địa: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Hãm Địa: Tý, Dần Mão, Tỵ, Ngọ, Mùi, Hợi.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo:
Cung Mệnh có Kình Dương đơn thủ thì thân mình cao và thô, mặt choắt, da xám, hầu lộ, mắt lồi, có sức khỏe.
Tính Tình:
Kình Dương đắc địa: tính khí cương cường, quả quyết, nóng nảy dũng mãnh, lắm cơ mưu, thích mạo hiểm nhưng cũng hay kiêu căng, tự đắc.
Kình Dương hãm Địa: tính khí hung bạo, liều lĩnh, bướng bỉnh, ngang nhạnh và gian trá.
Công Danh Tài Lộc
Sao Kình Dương đắc địa thủ mệnh, nên chuyên về quân sự, có uy quyền hiển hách.
Sao Kình Dương hãm địa, không có Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa hội hợp cứu giải, thì tránh thoát được tai họa, tuổi thọ cũng bị chiết giảm.
Nếu chẳng may Kình Dương gặp thêm Đà, Hỏa, Linh, Kiếp, Sát hội hợp thì nguy đến tính mạng.
Phúc Thọ Tai Họa
Cung Mệnh an tại Ngọ có Kình Dương tọa thủ là "Mã đầu đới kiếm" Rất độc, có nghĩa như yểu, chết bất đắc, bị tai nạn dữ và bất ngờ hoặc tàn tật.
Kình tọa thủ tại Mão, Dậu: rất tai hại cho tuổi Giáp, Mậu, thường phá tán tổ nghiệp, mang tật, lao khổ, có xa nhà mới sống lâu.
Sao Kình tọa thủ tại Mão, Dậu: chân tay có thương tích và mắt rất kém.
Kình đắc địa gặp Tử, Phủ cũng đắc địa đồng cung, thì buôn bán lớn và giàu có.
Kình Dương, Hỏa Tinh miếu địa: Số võ nghiệp rất hiển hách.
Sao Kình Dương gặp Linh Tinh, Hỏa Tinh: Lưng gù, có bướu hay chân tay có tật, nghèo khổ, chết thê thảm (nếu cùng hãm địa).
Sao Kình Dương đi vơí Không, Kiếp, Binh: Người đó là côn đồ, đạo tặc, giết người.
Sao Kình Dương, Hình, Riêu, Sát: Gái giết chồng.
Sao Kình Dương, Nhật (hay Nguyệt) đồng cung: Bệnh hoạn liên miên, có tật lạ (nếu thêm Kỵ), trai khắc vợ, gái khắc chồng.
Sao Kình Dương, Liêm Trinh, Cự Môn, Hóa Kỵ: Người có ám tật. Nếu cùng hãm địa thì ngục hình, kiện cáo, thương tích tay chân, nhất là tuổi Thìn, Tuất.
Sao Kình Dương, Tuế, Khách: Sát phu, thê, xa cách cha mẹ.
Kình Dương, Thiên Mã: Người đó gặp nhiều truân chuyên, thay đổi chỗ ở luôn, hoặc nếu là quân nhân thì phải chinh chiến luôn.
Sao Kình Dương, Lực Sĩ đồng cung: Có sức khỏe địch muôn người; bất đắc chí về công danh, có công nhưng bị người bỏ quên.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Phụ Mẫu:
Cha mẹ và con cái không hợp tính nhau.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Phúc Đức:
Họ hàng ly tán, cuộc đời may rủi thường đi liền nhau, trong gia tộc có người đau bệnh, tàn tật, chết non, cô độc.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Điền Trạch:
Sự nghiệp, đất đai, nhà cửa, dù có tạo dựng sớm cũng phải thay đổi, sau mới yên ổn, lúc nào cũng lo toan về nơi ăn chốn ở hoặc hay sửa sang, bù đắp vật dụng trong nhà.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Quan Lộc
Công danh chật vật, nhọc nhằn.
Kình Dương đắc địa gặp Thiên Mã chiếu: Người có võ có chức nhưng trấn ở xa.
Kình Dương, Lực Sĩ, bất mãn, bất đắc chí, bất đắc dụng ở quan trường, có xin nghỉ giả hạn hay bị ngồi chơi xơi nước.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Nô Bộc
Bè bạn, người giúp việc đắc lực.
Nếu có thêm các sao Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu thì bè bạn, người giúp việc không ích lợi gì cho mình.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Thiên Di
Ra ngoài buôn bán làm ăn hoặc làm thợ khéo, chuyên gia thì phát tài, gặp quý nhân nhưng vẫn có tiểu nhân, nếu có thêm sao xấu thì hay gặp tai họa, thị phi, tai nạn.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Tật Ách
Thường có bệnh kín như trĩ, xuất huyết dạ dày, hoặc phải mổ xẻ, chân tay có tì vết.
Sao Kình Dương, Thái Tuế thì hay bị kiện cáo, vu cáo.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Tài Bạch
Sao Kình Dương đắc địa: Dễ kiếm tiền lúc náo loạn.
Sao Kình Dương hãm địa: Thiếu thốn và phá tán, dùng bạo cách.
Ý Nghĩ a sao Kình Dương Ở Cung Tử Tức
Nếu không có sao xấu thì sinh nhiều nuôi ít hoặc sau này con không ở gần, nếu có sao xấu như Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Thiên Riêu, con cái ly tán, hay có bệnh tật, khó chữa hoặc chết non.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Phu Thê
Kình Dương nếu đắc địa thì vợ chồng hay bất hòa, gián đoạn một dạo.
Nếu hãm địa thì hôn nhân trắc trở, hình khắc dễ xảy ra, vợ ghen, chồng bất nghĩa.
Ý Nghĩa sao Kình Dương Ở Cung Huynh Đệ
Anh chị em ly tán, bất hòa.
Sao Kình Dương nếu gặp thêm các sao như: Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Linh Tinh, Hỏa Tinh, không có anh chị em hoặc anh chị em cô độc, chết non, tàn tật, hai giòng.
Kình sao Dương Khi Vào Các Hạn
Sao Kình Dương, Thiên Hình ở Ngọ: Bị tù, có thể chết nếu gặp lục Sát.
Sao Kình Dương, Vũ Khúc, Phá Quân: Bị hại vì tiền.