Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sự nghiệp của người tuổi Dậu qua 12 tháng

Diễn biến sự nghiệp người tuổi Dậu qua từng tháng là không giống nhau.
Sự nghiệp của người tuổi Dậu qua 12 tháng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tháng 1 (tháng Dần), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt lắm. Công việc có nhiều biến động nên cần bình tĩnh để tìm cách ứng phó với tình hình.

Tháng 2 (tháng Mão), cần hết sức thận trọng trong công việc vì tháng này có sao xấu chiếu mệnh. Hãy chủ động bình tĩnh trong mọi tình huống và giải quyết từng vấn đề.

Tháng 3 (tháng Thìn), sự nghiệp của bạn phát triển rất tốt. Mọi khó khăn đã được giải quyết và cơ hội đã đến với bạn. Hãy chủ động tích cực và tìm cách hợp tác, liên kết với nhiều người để đưa sự nghiệp tiến lên.

Su nghiep cua nguoi tuoi Dau qua 12 thang hinh anh
Tuổi Dậu

Tháng 4 (tháng Tị), sự nghiệp của bạn có bước phát triển ổn định. Hãy cố gắng nắm bắt thời cơ. Tuy nhiên, bạn không được chủ quan đắc ý.

Tháng 5 (tháng Ngọ), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt lắm. Cần thận trọng, tránh vướng vào chuyện thị phi cãi cọ, ảnh hưởng xấu đến công việc.

Tháng 6 (tháng Mùi), sự nghiệp của bạn có bước tiến triển. Có thể bạn sẽ đứng trước khá nhiều sự lựa chọn trong công việc và điều cần làm là không nên do dự.

Tháng 7 (tháng Thân), công việc của bạn có nhiều thuận lợi. Có nhiều khả năng sẽ được thăng chức. Cần chú ý trong mối quan hệ với cấp trên và người lớn tuổi.

Tháng 8 (tháng Dậu), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt lắm. Cần nỗ lực nhiều hơn nữa và chú ý quản lý tài chính.

Tháng 9 (tháng Tuất), sự nghiệp của bạn có chiều hướng đi lên. Hãy nắm bắt lấy cơ hội nhưng cũng cần biết cân nhắc trong việc lựa chọn làm ăn.

Tháng 10 (tháng Hợi), sự nghiệp của bạn không được tốt bằng tháng trước. Nên kiên trì, không được vội vàng.

Tháng 11 (tháng Tý), sự nghiệp của bạn có phần không được tốt. Đường tài vận của bạn tháng này cũng không tốt. Cần tránh đầu tư làm ăn mạo hiểm.

Tháng 12 (tháng Sửu), sự nghiệp của bạn có nhiều khởi sắc. Những khó khăn sẽ được tháo gỡ. Hãy có gắng phấn đấu hơn nữa, bạn sẽ có được kết quả tốt đẹp.

Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự nghiệp của người tuổi Dậu qua 12 tháng

4 cô nàng hoàng đạo thích truy lùng quá khứ người yêu

Gạt bỏ quá khứ, hướng tới tương lai là điểm khởi đầu cho mọi mối quan hệ. Nhưng 4 chòm sao nữ dưới đây lại rất để tâm tới những chuyện đã qua của bạn trai.
4 cô nàng hoàng đạo thích truy lùng quá khứ người yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gạt bỏ quá khứ, hướng tới tương lai là điểm khởi đầu cho mọi mối quan hệ. Nhưng 4 chòm sao nữ dưới đây lại rất để tâm tới những chuyện đã qua của bạn trai, không biết thì gặng hỏi mà biết rồi lại khổ tâm.


4 co nang hoang dao thich truy lung qua khu nguoi yeu hinh anh
 
Xử Nữ   Chòm sao nữ cầu toàn như Xử Nữ muốn chuyện gì cũng phải không tì vết, đối với quá khứ của người yêu nhất nhất phải trong sạch. Họ có thể không quan tâm tới gia thế, bối cảnh, điều kiện nhưng đời sống tình cảm những ngày trước thì tuyệt đối để tâm.    Vì sao anh với người trước chia tay? Anh có giấu diếm gì mình không? Nếu không trả lời được thì không yên tâm mà tiếp tục mối quan hệ. Tốt nhất là đối phương hãy thành thực với Xử Nữ, có gì kể nấy, chứ để nàng ta điều tra ra thì phiền lắm.
Bọ Cạp   Yêu hận phân minh, tình cảm mãnh liệt nên cô nàng Bọ Cạp đến tận cùng vẫn muốn biết bạn trai mình đã từng trải qua những cung bậc cảm xúc gì, đã qua lại với những ai, kỉ niệm ngọt ngào hay đau khổ. Dù biết sẽ khiến bản thân và đối phương bị tổn thương bởi sự dằn vặt từ quá khứ, nhưng họ lại không thể buông bỏ được.   Tốt nhất là Bọ Cạp hãy yêu và cưới người chưa từng có quá khứ, như vậy sẽ vui vẻ và thoải mái hơn.   Ngôi nhà trong mơ của 12 cung hoàng đạo
Ước mơ một nơi chốn cho riêng mình, ngôi nhà yêu thích của 12 cung hoàng đạo là mục tiêu và tham vọng để họ phấn đấu thật nhiều.

Bảo Bình
  Lòng dạ hẹp hòi khác hẳn bình thường là thái độ của cung hoàng đạo nữ Bảo Bình khi đối diện với quá khứ của người yêu. Vẫn biết là chuyện đã qua, không còn vương vấn gì nữa nhưng lòng dạ vẫn nhức nhối không yên. Sự thông minh và lý trí của Bảo Bình dường như bay biến đâu hết, họ cảm thấy không an toàn và thiếu tin tưởng.   Chính vì nàng ấy như vậy nên cách để đẹp lòng cả hai là vờ vịt như mình không có quá khứ. Đôi khi một lời nói dối sẽ giúp mối quan hệ dễ chịu hơn.   Ma Kết   Tình yêu của Ma Kết xuất phát từ sự chân thành và thật tâm nên rất chú trọng tới từng chi tiết nhỏ. Họ muốn biết về quá khứ của đối phương để xem mình có nên bỏ ra quá nhiều cho mối tình này hay không. Tâm sự lo được lo mất của cô nàng ấy chỉ khiến họ cảm thấy mệt mỏi và lơ lửng.   Quan tâm thật nhiều và dùng thời gian để chứng minh tấm lòng của mình cho Ma Kết buông bỏ, ấy là bí quyết dành cho một nửa của chòm sao lý trí này. Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 cô nàng hoàng đạo thích truy lùng quá khứ người yêu

5 chòm sao nam hay ghen không kém gì phụ nữ

5 chòm sao nam hay ghen dưới đây trời sinh đã có tính đa nghi, luôn quản chặt người yêu, bà xã của mình không rời nửa bước đâu. Khi cung hoàng đạo nam ghen sẽ
5 chòm sao nam hay ghen không kém gì phụ nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường hay nghe nói phụ nữ có máu Hoạn Thư, ai ai cũng sợ nhưng đừng quên cánh đàn ông cũng biết ghen đấy nhé. 5 chòm sao nam hay ghen dưới đây trời sinh đã có tính đa nghi, luôn quản chặt người yêu, bà xã của mình không rời nửa bước đâu.


5 chom sao nam hay ghen khong kem gi phu nu hinh anh
 

Hạng 1: Kim Ngưu

  Là chòm sao coi trọng tình cảm, bề ngoài Kim Ngưu rất chân thành cẩn trọng, điềm đạm, hầu như không bộc lộ sự hấp tấp của mình nhưng thực chất máu ghen của họ thuộc hàng đệ nhất đấy. Vì quan tâm tới đối phương nên tính tình táo bạo hơn hẳn, người ta đi đâu làm gì cũng muốn quản chặt chẽ, kè kè ở bên cạnh.  

Hạng 2: Song Ngư

 

Một trong những chòm sao nam hay ghen kì cựu nhất của vòng tròn hoàng đạo là Song Ngư. Họ đối với chuyện tình cảm vô cùng cố chấp nên đương nhiên quan tâm đối phương từng giây từng phút, càng yêu lại càng để ý tới hành vi với người khác phái của người yêu, bạn đời. Nhiều khi không kiềm chế được còn dùng dằng chất vấn ngay đấy.  

Hạng 3: Cự Giải

  Cự Giải trời sinh có tính ghen bóng ghen gió đấy nhé, họ nhạy cảm vô cùng, chỉ một hành động nhỏ của người mình yêu với bạn khác giới thôi cũng đủ tâm tình bứt rứt khó chịu. Nhưng bạn che đậy rất khéo, nếu không bộc phát thì hầu như không ai biết bạn đang có sóng trong lòng, cứ ôm tâm tư buồn khổ một mình như vậy đấy.
5 chom sao nam hay ghen khong kem gi phu nu hinh anh
 

Hạng 4: Xử Nữ

  Chòm sao nam hay ghen như Xử Nữ thường giấu cảm xúc thực sự bên trong bề ngoài bình tĩnh, bộ dáng lúc nào cũng như không có chuyện gì xảy ra, thật là có phong độ. Nhưng đằng sau, lúc chỉ có hai người, họ ghen tuông cuồng nộ chẳng chút che giấu, sẵn sàng truy hỏi đến cùng cho tới khi ra vấn đề mới thôi.  

Hạng 5: Bảo Bình

  Đừng thấy Bảo Bình phóng khoáng vô tư mà nghĩ chòm sao này không biết ghen nhé. Dù trên mặt chẳng thấy họ có thay đổi gì như kiểu không quan tâm, không để ý nhưng nội tâm xao động lắm đấy, chẳng yên tĩnh chút nào đâu. Bản thân thì không giỏi thể hiện tình cảm, mắt lại thấy đối phương bên người khác phái, làm sao có thể không vội được.
Phản ứng của 12 sao nam khi nhận được lời tỏ tình từ người mình không yêu? Top 3 chòm sao nam không ai yêu dù rất đẹp trai Sao nam nào dễ say nắng nhất?

Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 chòm sao nam hay ghen không kém gì phụ nữ

Bài trí nhà bếp hợp phong thủy để tăng thêm vượng khí

Nhà bếp là nơi chế biến thực phẩm nuôi sống và tạo ra sức khỏe cho con người, từ đó mà nâng cao hiệu suất công việc. Vì thế bài trí nhà bếp hợp phong thủy để tăng thêm vượng khí luôn được các gia chủ quan tâm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiên nay, người ta không còn coi bếp là khu phụ nữa mà rất chú ý đến việc bố trí, trang bị cho nhà bếp vừa thoải mái, thuận tiện, vừa hiện đại. Không ít người khả năng tài chính dư dả đã không tiếc tiền đầu tư cho nhà bếp.

Trong phong thủy, nhà bếp đại diện cho của cải. Vì vậy nhà phong thủy rất quan tâm đến lò nấu (bếp than, bếp điện, bếp dầu, bếp ga…) và vị trí người nấu nướng.

Trước hết, vị trí lò nấu phải được chiếu sáng tốt, đủ ánh sáng và khi đứng nấu không bị sấp bóng, như vậy thì thần bếp tượng trưng là lửa mới vượng và sinh khí lưu chuyển dễ dàng. Lò nấu là hỏa kỵ với thủy, vì vậy không được đặt lò nấu trên bể nước hoặc đối diện với tủ lạnh, nếu không, công việc làm ăn của gia chủ sẽ rất trở ngại, thậm chí không thể ngóc đầu lên nổi.

Vị trí của lò nấu cũng cần phải đặt như thế nào để khi nấu nướng, người đầu bếp có thể dễ dàng quan sát được người ra vào bếp để tránh bị “giật mình” và tránh bị “dòm ngó”. Nếu không thì sức khỏe, sự sung túc và cả các quan hệ cá nhân người cư ngụ sẽ bị ảnh hưởng…

Theo quan niệm của phong thủy bếp phải được nằm ở hướng dữ nhưng hướng về phương lành để có thể áp chế khí dữ cho gia chủ. Lửa bếp sinh khí dương điều chế được loại khí bất lợi cho ngôi nhà.

Trong một nhà hàng, nếu người bếp trưởng bị giật mình có thể ảnh hưởng đến mọi thứ từ chất lượng của các món ăn đến thái độ của người phục vụ và sự hài lòng của khách hàng.

Xét thấy trong thực tế, đủ ánh sáng cho lò nấu là điều hết sức quan trọng và cần thiết giúp ta quan sát rõ ràng thực phẩm khi nấu nướng để bảo đảm chất lượng món ăn. Còn đặt bếp lò đối diện với tủ lạnh dĩ nhiên là không tốt bởi bản thân bức xạ nhiệt lò nấu sẽ ảnh hưởng xấu đến vận hành của tủ lạnh.

Người đầu bếp cũng cần được tập trung tâm trí vào công việc, vì vậy nếu có tác động đột ngột, bất ngờ khiến họ giật mình để ảnh hưởng đến thức ăn, thậm chí có thể xảy ra tai nạn. Ví như khi đang thái rau sự giật mình có thể làm đứt tay hoặc khi đang đun chảo mỡ nóng, nước sôi có thể gây bỏng hoặc hỏa hoạn.

Phong thủy cũng quan niệm rằng, người nấu bếp phải được làm việc ở nơi thoáng đãng, rộng rãi. Lò nấu nếu đặt trong góc quá chật sẽ làm trở ngại cho thao tác người nấu và nguồn khí lưu chuyển gây hại cho sức khỏe, tài lộc.


Theo phong thủy, bếp lò cũng tượng trưng cho tình trạng tài chính khá giả trong gia đình. Cũng cần giữ bếp sạch sẽ và làm việc đều đặn, luôn đỏ lửa để duy trì vượng khí trong nhà, như thế tiền của sẽ vào nhà dễ dàng. Nếu bếp khó cháy có nghĩa công việc làm sẽ gặp nhiều trở ngại, hay bị phá ngang.

Cũng theo quan niệm của phong thủy, gia đình có thịnh vượng hay không có liên quan đến số lượng bếp được nấu nhiều hay ít, ví như ta sử dụng nhiều bếp thì tiền bạc cũng nảy nở thêm.

Trong trường hợp không tuân thủ được những nguyên tắc trên như vị trí đặt bếp chật chội, người đứng nấu quay lưng ra cửa, số lượng bếp lò ít… nhà phong thủy khuyên người ta đặt gương hay kim loại trắng trên tường sau dãy lò để “mở rộng” không gian cho khí dễ lưu chuyển. Người nấu bếp sẽ không giật mình khi có người vào bếp nhờ kính phản chiếu qua gương.

Trong trường hợp lò nấu nhìn vào một vách tường có cửa sổ sẽ ảnh hưởng không tốt đến đầu bếp. Khắc phục trường hợp này bằng cách đặt gương phản chiếu ra cửa bếp hay treo một chiếc khánh hay một quả thủy tinh cầu giữa dãy bếp và cửa ra vào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí nhà bếp hợp phong thủy để tăng thêm vượng khí

Sao Tham Lang

Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh Tính: Âm Hành: Thủy Loại: Hung Tinh, Dâm Tinh Đặc Tính: Họa phúc, uy quyền Tên gọi tắt thường gặp: Tham
Sao Tham Lang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 3 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.



Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Sửu, Mùi.
  • Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất.
  • Đắc địa ở các cung Dần, Thân.
  • Hãm địa ở các cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo

Cung Mệnh có Tham Lang miếu, vượng hay đắc địa thì có thân hình cao lớn, vạm vỡ, da trắng, mặt đầy đặn, nhiều lông, tóc, râu rậm rạp. Riêng trường hợp miếu địa, có nốt ruồi kín.

Còn Tham Lang hãm địa thì thân hình cao vừa tầm, hơi gầy, da thô, xấu, mặt dài nhưng không đầy đặn, tiếng nói vang, cổ cao.

Tính Tình

Sao Tham Lang ở các cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người thông minh, có nhiều tài khéo, làm nghề gì cũng có máu văn nghệ, nghệ thuật, thời trang, đa tình, thủ công tinh xảo, khéo léo, có tài tổ chức, ưa hoạt động, đôi khi có sự hiếu thắng hoặc tự đắc, nhưng cũng hay chán.

Sao Tham Lang ở cung hãm địa là người cô độc, dù có người thân cũng không hạp tánh nhau, tánh tình hay mưu cầu, mưu tính ngược xuôi, đôi khi có sự gian hiểm, dối trá, ích kỷ, có nhiều dục vọng, tham vọng, hay ghen tuông, cạnh tranh, rong chơi phiêu lãng. Nếu không thì có những thú vui giải trí về văn nghệ, cờ bạc, đánh cờ, săn bắn, đua ngựa. Hoặc hay vào ra, sinh sống ở những nơi phồn hoa đô hội, phong lưu tài tử. Hay làm liều, nên dễ sanh ra chuyện tham ô, lừa đảo, dối trá, trộm cắp, xấu máu về tiền bạc, tửu sắc.

Công Danh Tài Lộc

Sao Tham Lang ở cung đắc địa trở lên thì giàu sang. Nhưng vì Tham Lang là sao Bắc Đẩu nên càng về già càng thịnh vượng, an nhàn, sung sướng. Nếu có thêm cát tinh, thì mức tài lộc, công danh càng tăng. Nếu đồng cung với Kỵ thì buôn bán giàu có.

Sao Tham Lang ở hãm địa là người có óc kinh doanh thường chuyên kỹ nghệ, thương mại, thủ công, nhưng tài lộc, công danh chật vật. Nhưng dù miếu, vượng, đắc hay hãm địa, hoặc gặp Kỵ hay Riêu đồng cung, thường bị giam cầm (nếu thiếu sao giải) hoặc hay bị tai nạn sông nước.

Sao Tham Lang ở cung vượng địa nếu có sao Hóa Kỵ đồng cung, hoặc xung chiếu, hoặc hợp chiếu, là người có óc kinh doanh, thích làm ăn buôn bán. Nếu có thêm Văn Xương, Văn Khúc, là người có tay nghề khéo, tinh vi, sắc sảo, có hoa tay, ưa thích văn chương, cây cảnh, nghệ thuật, nhưng hay chóng chán, hoặc hay bị phá ngang bỏ dở nửa chừng, nửa đời sau mới có danh phận, sự nghiệp.

Phúc Thọ Tai Họa

Sao Tham Lang ở cung đắc địa thì sống lâu, dù thiếu thời có vất vả. Nếu hãm địa thì nhiều bệnh, hay bị giam cầm nếu không bỏ quê hương cầu thực thì yểu, cô độc.

Riêng sao Tham Lang ở Mão, Dậu là người yếm thế, làm việc gì cũng thất bại và hay gặp sự chẳng lành. Người này chỉ có chí hướng đi tu. Nếu gặp thêm sát tinh hay Kỵ, Hình thì hay bị nạn khủng khiếp, giam cầm và yểu tử. Nói chung, Tham Lang đi cùng với ác tinh, sát tinh là phá cách, tai họa nhiều thêm.

Những Bộ Sao Tốt

  • Tham Lang, Hỏa Tinh đồng cung miếu địa hay Tham Lang, Linh Tinh đồng cung miếu địa: phú quí tột bậc, danh tiếng lừng lẫy. Rất hiển đạt về võ nghiệp. Rất tốt cho hai tuổi Mậu Kỷ vì ứng hợp với cách này.
  • Tham Lang, Trường Sinh ở Dần Thân: Sống rất lâu.
  • Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung ở Tứ mộ: thì ngoài 30 tuổi công danh, sự nghiệp mới có sự tiến triển tốt đẹp, làm nên sự nghiệp nhưng phải có thêm cát tinh nhiều ở Mệnh. Nếu thêm cả Hỏa Linh thì rất quí hiển. Nhưng nếu cung Thân ở Tứ mộ có Tham Vũ thì lại là hạ cách, không quí hiển được, nhất là thiếu cát tinh.
  • Các cách trên nếu có thêm sao tốt như Khoa, Quyền, Lộc, Xương, Khúc, Tả, Hữu thì rất tốt cả về công danh, tài lộc, phúc thọ, tâm tính.

Những Bộ Sao Xấu

  • Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung gặp Phá Quân: Lụy thân vì sa đọa tửu, sắc.
  • Tham Lang, Liêm Trinh đồng cung ở Tỵ, Hợi: Con trai đàng điếm, du đãng, con gái dâm dật đĩ thõa, giang hồ. Chỉ có sao Hóa Kỵ hay Tuần Triệt mới hóa giải được bất lợi này.
  • Tham Lang, Liêm Trinh ở Dần Thân gặp Văn Xương đồng cung: Phải có phen bị tù hình khổ sở (nếu thiếu sao giải).
  • Tham Lang, Liêm, Tuyệt, Linh đồng cung: Suốt đời cùng khổ, hoặc chết non, bệnh chết hụt, vợ chồng lấn lướt, bất hòa (phong).
  • Tham Lang, Liêm, Kình, Kiếp Không, Hư Mã: Suốt đời cùng khổ, hoặc chết non, bệnh chết hụt, vợ chồng lấn lướt, bất hòa (phong).
  • Tham Lang, Kình (hay Đà đồng cung) ở Tý Hợi: Giang hồ, lãng tử, chơi bời lang thang hay hoang đàng. Nếu ở Dần thì còn bị đánh đập vì chơi bời.
  • Tham Lang, Thất Sát: Trai trộm cướp, gái giang hồ; nếu thêm hung tinh thì nguy hiểm càng tăng.
  • Tham Lang, Thất Sát, Tang Môn, Bạch Hổ ở Dần, Ngọ: Bị sét đánh, thú cắn.
  • Tham Lang, Không Kiếp ở Mão Dậu: Đi tu phá giới.
  • Tham Lang Đào, Tham Lang Hồng hay Tham Lang Liêm: Dâm đãng, lăng loàn. (Nếu gặp Tuần Triệt thì đoan chính).

Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Phu Thê
  • Tham Lang ở Thìn, Tuất, vợ hay chồng tài giỏi, giàu sang, nhưng gái thì ghen, chồng thì ăn chơi. Có thể hình khắc nếu lập gia đình sớm.
  • Tham Lang ở Dần, Thân là số vợ hay chồng ưa ghen tuông, đa tình, hoặc nhiều tình cảm, đôi khi bạc tình, hôn nhân rất chóng thành nhưng cũng dễ tan. Tuy nhiên nếu có sao Lộc Tồn, Phúc Đức, Thiên Đức, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Quan, Thiên Phúc, thì người hôn phối rất đứng đắn, con nhà danh giá, có lòng từ thiện, ưa thích vấn đề tâm linh, huyền bí.
  • Sao Tham Lang, Tử Vi đồng cung thì nên muộn lập gia đình mới êm đẹp lâu dài, nhưng trong nhà vẫn có sự bất hòa vì hay ghen.
  • Sao Tham Lang, Liêm Trinh thì không được tốt cho lắm như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách. Tuy nhiên nếu không có sao xấu thì duyên nợ tốt, chóng thành, người hôn phối có tài năng, liêm khiết, trung trinh, biết lễ độ, tự kiềm chế lấy mình, thẳng thắn.
  • Sao Tham Lang, Vũ Khúc thì muộn lập gia đình mới tốt, hoặc phải lấy người lớn tuổi hơn nhiều, vợ chồng đều tháo vác, tài hoa, có nghề khéo, đặc biệt.

Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Tài Bạch
  • Nếu ở Thìn Tuất thì chóng phát đạt, nhất là về già. Sao Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung thì chỉ phát được lúc già, sau 30 tuổi. Rất hợp với nghề kinh doanh mua bán mà trở thành giàu có, nếu không thì cũng có tay nghề khéo léo, tinh xảo, thủ công, bán quán mà phát tài. Người rất tài hoa, khéo tay, có tính nghệ sĩ.
  • Đồng cung với Tử Vi thì tầm thường. Sao Tham Lang, Liêm Trinh thì phải cạnh tranh khó nhọc mới được tiền, mà kiếm tiền nhưng cũng không bền, nên làm giàu chậm mà chắc chắn.

Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Thiên Di
Chỉ tốt ở Thìn Tuất sinh kế dễ dàng nhờ gặp quí nhân. Với các sao khác như Tử Vi, Liêm Trinh thì bất lợi hay bị tai nạn vì kiện tụng, tù tội, tiểu nhân. Ở Tý Ngọ và Dần Thân cũng không hay. Đặc biệt với Vũ Khúc thì phát tài nhờ buôn bán, đương sự là phú thương.


Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Quan Lộc
Sao Tham Lang ở cung Tý Ngọ Dần Thân, thường là quân nhân, chức vị tầm thường, công danh nhỏ thấp, thất thường. Ở cung Tý Ngọ thì tham nhũng. Nếu buôn bán thì lại thịnh vượng.

Tham Lang đồng cung với Liêm Trinh thì cũng là võ nghiệp nhưng thấp kém lại hay bị hình tù. Đồng cung với Tử Vi thì bình thường. Nếu đồng cung với Vũ Khúc thì là doanh thương đắc phú, nhất là về hậu vận. Làm viên chức thì không bền.


Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Phúc Đức
Sao Tham Lang ở Thìn Tuất và đặc biệt đi với Vũ Khúc thì tốt đẹp, hưởng phúc thọ, nhất là về già. Họ hàng cũng hiển vinh, nhất là nghiệp võ hay buôn bán, thường tha hương lập nghiệp. Còn ở Dần, Thân, Tý Ngọ, đồng cung với Tử Vi thì kém và bạc phước, dòng họ ly tán, sa sút, có khi dâm đãng.

Sao Tham Lang đồng cung với Liêm Trinh thì phúc đức không tốt, phải đi xa, lưu lạc, trong đời dễ gặp họa vì hình tù, kiện tụng truyền kiếp, bị vu oan giá họa, họ hàng ly tán, cơ hàn. Đi vào công danh hay gặp trắc trở, nếu yên phận thì về già phong lưu.


Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Tử Tức
Sao Tham Lang là sao mang ý nghĩa phong lưu, phóng đãng, nên nếu gặp các sao tốt thì con cái đứng đắn, tài hoa. Nếu không có sao tốt thì con cái hay ham vui, không thích ở gần cha mẹ, đường đời gặp nhiều gian truân, lận đận, duyên nợ khó khăn, hay gặp tai nạn, bệnh tật, tật nguyền, con hai giòng, có đứa yểu tử.


Tham Lang Khi Vào Các Hạn
  • Nếu Tham Lang nhập hạn ở Tứ Mộ, thì hoạnh phát tài danh, nhất là khi có Linh Hỏa hội chiếu.
  • Tham Lang Vũ Lộc Mã: Được nhiều tiền và có danh chức.
  • Tham Lang Hồng Đào: Lập gia đình.
  • Nếu Tham Lang hãm địa thì hao tiền, phóng đãng, có thể bị tù hay họa. Gặp thêm sát tinh càng thêm nguy kịch.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Tham Lang

Xem tử vi trọn đời cho người sinh vào tiết Mang Chủng

Tiết Mang Chủng là một trong 24 tiết khí. Cùng phân tích lá số tử vi người sinh vào tiết Mang Chủng xem cuộc đời họ sẽ diễn tiến như thế nào nhé.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh vào tiết Mang Chủng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiết Mang Chủng là một trong 24 tiết khí hàng năm, đánh dấu thời điểm bắt đầu mùa thu hoạch. Cùng phân tích lá số tử vi của người sinh vào tiết Mang Chủng xem cuộc đời họ sẽ diễn tiến như thế nào nhé.


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh vao tiet Mang Chung hinh anh 2
 
Tiết Mang Chủng bắt đầu vào ngày 5 hoặc 6 tháng 6 và kết thúc vào ngày 20 hoặc 21 tháng 6. Người sinh vào thời điểm này thì tính tình thiện lương, ôn hòa, lanh lợi. Đi theo con đường chính đạo có thể thành công nhưng nếu làm việc đầu voi đuôi chuột, không kiên nhẫn thì không khá được.    Tử vi người sinh vào tiết Mang Chủng phải rời xa quê hương để lập nghiệp, vợ chồng nửa đường, hôn nhân sau khi biến chuyển thì sẽ tốt. Tới năm 31 hoặc 35 tuổi mới có thể yên ổn, đại cát đại lợi.    Người tuổi Tý sinh vào tiết Mang Chủng thì cuộc đời bôn ba, hay phải lo nghĩ, có thể thành phú quý, cả đời không sợ thê lương, không sợ gian nan, độc lập thành công. Cả đời dựa vào sự thông minh, nhanh nhẹn của bản thân để phấn đấu. Không may là bệnh tật nhiều, vợ con tổn hại.   Người tuổi Sửu sinh vào tiết Mang Chủng gặp nhiều gian nan, cần thận trọng trước mọi quyết định.   Người tuổi Dần sinh vào tiết Mang Chủng tay làm hàm nhai. Thái độ tôn nghiêm, thích tự do, văn võ toàn tài, thao lược hơn người, tự thành lập cơ nghiệp. Tính tình rộng rãi, đôn hậu, kiên cường đến mức mích lòng người khác, dũng cảm tiến tới.  
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh vao tiet Mang Chung hinh anh 2
 
Người tuổi Mão sinh vào tiết mang Chủng sự nghiệp thuận lợi phát đạt, kinh doanh như ý, được người khác coi trọng, nho nhã lễ độ, đối nhân xử thế tốt nên đại cát đại lợi.
  Người tuổi Thìn sinh vào tiết Mang Chủng là lúc giao long xuống biển nên hanh thông, suôn sẻ, quyền uy, tính tình cương trực, táo bạo, vượt mọi khó khăn để thành công.   Tiết Mang Chủng: 12 con giáp nên làm gì để tăng vận khí? Cấm kị cho 12 con giáp trong tiết Mang Chủng Tuyệt chiêu phong thủy khai vận trong tiết Mang Chủng
Người tuổi Tỵ sinh vào tiết Mang Chủng có lòng gan dạ, mưu lược, vượt qua khó khăn đạt được vinh quang. Tử vi của người này ghi nhận phúc lộc lâu dài, cả đời bình an phú quý.
  Người tuổi Ngựa sinh vào tiết Mang Chủng gia đạo thịnh vượng, phúc lộc đủ đầy lại sống thọ nhưng lập nghiệp cơ khổ.   Người tuổi Mùi sinh vào tiết Mang Chủng tài lợi phong phú, ý chí kiên cường, mưu trí, có thể chỉ huy người khác.   Người tuổi Thân sinh vào tiết Mang Chủng cuộc đời bôn ba, chạy ngược chạy xuôi, cả đời cố gắng tự lực, tự cầu tự mưu.   Người tuổi Dậu sinh vào tiết Mang Chủng khi trẻ sự nghiệp thành đạt, nhưng tuổi già vất vả, danh lợi bình thường.   Người tuổi Tuất sinh vào tiết Mang Chủng gia vận nghèo khó, gặp bệnh hoạn, tai nạn ngoài ý muốn, ít khi được an tâm.   Người tuổi Hợi sinh vào tiết Mang Chủng tính tình hiền hòa, bảo thủ, an phận, không có quyền lực.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Canh Ngọ Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Thìn Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Thân
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh vào tiết Mang Chủng

Xem phận sướng khổ cho người sinh giờ Tý

Người xưa có câu, đời người ba phần do trời định, bảy phần do cố gắng. Cùng xem tử vi cho người sinh giờ Tý để biết phận đời những người này sướng khổ ra sao
Xem phận sướng khổ cho người sinh giờ Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người xưa có câu, đời người ba phần do trời định, bảy phần do cố gắng. Cùng là một tuổi, một năm nhưng có người sinh ra trong nghèo khó, bần hàn lại có người sinh ra đã ngậm thìa vàng, giàu sang, sung sướng. Thế mới hay, số mệnh quả nhiên quan trọng. Cùng xem tử vi cho người sinh giờ Tý để biết phận đời những người này sướng khổ ra sao nhé.


 
Xem phan suong kho cho nguoi sinh gio Ty hinh anh
 
Giờ Tý là từ 23 giờ đến 1 giờ, là canh 1. Người sinh giờ này thì cá tính kiên cường, nóng vội, làm việc gấp gáp, thích gây chuyện thị phi, được người nhà trợ giúp, có thể từ tay trắng tạo lập sự nghiệp.

 

Xem tử vi cho người sinh giờ Tý thấy rằng, người sinh vào đầu giờ Tý thì khắc mẹ, những năm tuổi trẻ chịu khổ sở, cần kiệm, quản lý gia đình, có mệnh phú quý. Giờ Tý là thời khắc ban đầu nên vận sớm mang khổ lao, một khi vận mệnh tới thì như trăng lên trời, báo trước mạt hạn, phá tài lao lực.

 

Người sinh giữa giờ Tý thì cha mẹ song toàn, vợ/chồng tốt con ngoan, tiền vận điên đảo nhưng tuổi già vận tốt, cơm no áo ấm, một đời phú quý. 

 

Người sinh vào cuối giờ Tý chủ khắc cha, những năm đầu vinh hoa nhưng tâm phiền, tuổi già càng thêm lao lực, chỉ có thể phiền não, thở dài, không dựa được người thân, anh em bất hòa, thậm chí còn gây thêm liên lụy.

 

Xem phan suong kho cho nguoi sinh gio Ty hinh anh

 

Nam mệnh sinh giờ Tý tao nhã phong độ, ngọc thụ lâm phong, hiểu được đạo lí đối nhân xử thế, bề ngoài hấp dẫn người khác phái, có Đào Hoa tinh trong tử vi nên sinh tính trăng hoa.

 

Nữ mệnh sinh giờ Tý có Tý thuộc ngũ hành Thủy, đích thực là cô gái thông minh nhanh nhẹn, xinh đẹp động lòng người, phong thái đẹp mắt, hiểu được đạo lý. Quan điểm tình yêu của người này rất thuần khiết, thẳng thắn bày tỏ, không kéo dài thời gian, trong tình yêu có nhiều cơ hội lựa chọn, gặp được ý trung nhân phù hợp.

 

Như vậy, nhìn chung, số mệnh của người sinh giờ Tý là khổ trước sướng sau, tuy không may mắn tuyệt vời, hanh thông nhưng cũng không quá tệ, ở tuổi về già vẫn có đôi chút phúc phần và gặp tốt lành về đường gia vận, hôn nhân.

 

Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (phần 1) Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (phần 2) Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thân

Thái Vân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem phận sướng khổ cho người sinh giờ Tý

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Bạn có may mắn trong tình yêu?

Tất cả những đường chỉ tay này đều thể hiện sự may mắn, nhưng mỗi đường sẽ có ý nghĩa khác nhau.
Bạn có may mắn trong tình yêu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ban-co-may-man-trong-tinh-yeu
Số 1 Số 2  Số 3
Số 4 Số 5 Số 6

Mộc Trà (theo Quiz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có may mắn trong tình yêu?

Tử vi Tân tỵ Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trong tử vi Tân Tỵ là rắn trong cỏ, thông minh, xinh đẹp, đức cao vọng trọng, có tấm lòng từ bi, có tay nghề, xa nhà chủ về phát đạt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TÂN TỴ: BẠCH LẠP KIM

Trong tử vi Tân Tỵ là rắn trong cỏ, thông minh, xinh đẹp, đức cao vọng trọng, có tấm lòng từ bi, có tay nghề, xa nhà chủ về phát đạt.

Người sinh vào mùa thu có cơ hội xuất ngoại.

Người sinh vào mùa đông thường lười biếng, e rằng khó trở thành người xuất sắc.

 

Bạch lạp Kim là mảnh ngọc ở trên núi, là vật báu nơi cửa sông, ỏ chỗ ánh sáng mặt trời và mặt Trăng giao cắt, khí âm dương ngưng tụ, sáng trong suốt là màu sắc chính của Kim.

Kim tự sinh, tinh thần sung mãn, thể khí đầy đủ, sáng mãnh liệt mà không mất đi. Kỵ Bính Dần Lư trung Hỏa, Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa.

Tân Tỵ Bạch lạp Kim chủ về đường học vấn, có đức anh minh. Người sinh vào mùa thu và mùa đông phúc lộc vẹn toàn. Ngưòi sinh vào mùa xuân và mùa hạ được 7 phần xấu, 3 phần tốt. Đắc quý cách chủ về học hành giỏi giang, bản thân được thanh quý, thường có lòng cứu giúp người khác.

Dụng cụ chưa thành, ưa gặp Hỏa, ngày ngày rèn giũa.

Kim này ưa Hỏa ưa Thủy. Thủy ưa Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy; Giáp Thân, Ât Dậu Tỉnh tuyền Thủy. Nếu như có Quý Tỵ Trường lưu Thủy chủ về mệnh không sang quý cũng giàu có.

Nạp âm nếu như có Giáp Tý, At Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, At Mùi Sa trung Kim, chủ về cả đời bình lặng giống như cây cỏ.

Tân quý tại Dần, Địa chi của các trụ khác ưa Dần, đáng tiếc Dần, Tỵ phạm hình. Kỵ nhất Địa chi của các trụ khác phạm hình xung, ví dụ như Dần, Thân, Hợi,| là phá cách.

Tân lộc tại Dậu, Tân Tỵ Không vong cũng ở Dậu. Mệnh này là người có kinh tế thiếu thốn, nên làm công nhân viên chức hoặc tâp trung học môt ngành chuyên môn. Địa chi của ngũ trụ có Tuất có thể học xem mệnh, giáo viên.

Trong tử vi  Tân tỵ gặp năm Tỵ, năm Hợi, trong nhà không yên ổn, nếu không thương hại đến bản  thân cũng thương hại đến người nhà.

Bạn đời không nên lấy người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm người sinh năm  Giáp, Ất.

Tân Tỵ Bạch lạp Kim gặp Quý Dậu Kiếm phong Kim, chủ phú quý, hơn nữa, lộc quý thích đạp, phú quý dài lâu. Kim rỗng thì kêu, nên tập trung nghiên cứu học thuật, có thể nổi tiếng.

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Tân tỵ Phân tích nạp âm lục thập hoa giáp

Trình tự 11 nghi thức theo lễ cưới truyền thống

Trình tự tiến hành lễ cưới của người Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ miền ngược đến miền xuôi – tên gọi có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất như sau:

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Lễ chạm ngõ

Lễ chạm ngõ là thủ tục đầu tiên dành cho đám cưới truyền thống của người Việt. Lễ chạm ngõ là nhà trai sẽ mang lễ vật như trầu, cau, rượu, chè sang nhà gái. Trong đó, trầu cau là lễ vật chính. Vì theo quan niệm của người Việt “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là biểu thị cho tình nghĩa vợ chồng keo sơn, gắn kết bền chặt, thủy chung như câu chuyện cổ tích trầu cau của người xưa để lại.

2. Lễ vấn danh (ăn hỏi)

Lễ vấn danh hay còn gọi là lễ ăn hỏi. Theo cách gọi của mộc mạc của dân gian đó là ngày bỏ rào. Khi lễ ăn hỏi được tiến hành nghĩa là người con gái đó đã có nơi có chốn, không được để ý nhòm ngó bên ngoài. Mà phải giữ lễ tiết với chồng và có bổn phận trách nhiệm với nhà chồng. Lễ ăn hỏi cũng là dịp để hai gia đình ngồi lại với nhau để định ngày cưới.

lê hỏi.
Mâm quả trong ngày ăn hỏi

Sau lễ ăn hỏi, nhà gái sẽ mang lễ vật nhà trai mang sang để phân phát cho họ hàng với mục đích báo hỉ. Thông thường cau trầu được bọc trong giấy màu hồng hoặc hộp. Còn nhà trai sẽ báo hỉ với họ hàng bằng việc đi phát thiệp mời đám cưới.

3. Lễ cưới

Theo nghi thức lễ cưới truyền thống, trong đám cưới nhà trai phải thực hiện nghi lễ đầu tiên là lễ nạp tài. Trước khi tổ chức hôn lễ nhà trai sẽ mang sính lễ bao gồm trầu cau, gạo nếp, thịt lợn, quần áo cũng như đồ trang sức cho cô dâu sang nhà gái. Ý nghĩa của việc nạp tài là nhằm mục đích đóng góp với nhà gái tiền cỗ bàn, đồ nữ trang cho cô dâu làm vốn sau này.

lê cưới.
Cô dâu chú rể trao nhẫn cưới cho nhau

Tuy nhiên, do hiểu sai mục đích của lễ nạp tài nên ở nhiều nơi, nghi thức này đã biến tướng thành hình thức thách cưới nặng nề. Đây là hủ tục còn tồn tại ở nhiều vùng đồng bào dân tộc và một số địa phương cần loại bỏ sớm, để đám cưới thực sự là ngày hạnh phúc của đôi uyên ương.

4. Lễ xin dâu

Trước giờ đón dâu nhà trai cử người đem trầu, rượu đến xin dâu, báo đoàn đón dâu sẽ đến.

5. Lễ rước dâu

Sau khi hoàn thành tổ chức tiệc ở nhà gái, nhà trai sẽ tiến hành lễ rước dâu. Lễ rước dâu truyền thống được thực hiện như sau: Đoàn rước dâu nhà trai sẽ đi theo từng đoàn, người cao tuổi trong dòng họ sẽ cầm hương đi trước theo sau là những người mang sính lễ.

lễ rước dâu.
Nhà trai rước dâu về đàng trai

Tại nhà gái, đại diện người cao tuổi sẽ thắp hương và vái trước bàn thờ tổ tiên cùng rước đoàn nhà trai vào. Cô dâu và chú rể cũng làm lễ trước bàn thờ gia tiên nhà gái. Sau đó, cô dâu chú rể bưng trầu đi mời họ hàng. Bố mẹ và gia đình sẽ tặng quà cho con gái. Đồng thời nhà gái cũng bày cỗ bàn để quan viên hai họ cùng chung vui. Tiệc tan, đoàn sẽ rời nhà gái về nhà trai và tổ chức hôn lễ tại đó. Họ nhà gái chọn sẵn người đi theo cô gái, gọi là các cô phù dâu.

6. Rước dâu vào nhà

Khi đoàn rước dâu về đến ngõ, mẹ chồng sẽ cầm bình vôi tránh mặt một lúc để cô dâu bước vào nhà. Đến nay, chưa có những giải thích cụ thể về nghi lễ này. Nhưng dân gian cho rằng, đây là cách để giải quyết xung khắc “cảnh mẹ chồng nàng dâu” sau này.

7. Lễ tơ hồng

Sau khi lễ cưới ở nhà trai kết thúc, quan viên đã ra về, người thân sẽ ở lại để chứng kiến cô dâu chú rễ làm lễ tơ hồng. Vì theo quan niệm người xưa, duyên nợ vợ chồng là do ông tờ bà nguyệt xe nên. Cúng lễ tơ hồng với ý nghĩa cảm tạ hai ông bà này. Lễ vật cúng ông tơ bà nguyệt chỉ có rượu và hoa quả. Nghi lễ có thể được thực hiện trong nhà hoặc ngoài trời đều được.

Nghi lễ được thực hiện như sau: Người già nhất trong họ sẽ chứng kiến buổi lễ. Lạy cụ tơ hồng, rồi hai vợ chồng vái nhau (gọi là phu thê giao bái). Những đám cưới của gia đình giàu có, việc tổ chức có quy cách hơn.

8. Trải giường chiếu

nghi le cuoi (2).
Nghi thức mẹ chồng trải chiếu lên giường

Sau lễ tơ hồng cô dâu chú rể cùng mọi người vào phòng tân hôn. Ở trên giường, sẽ để sẵn đôi chiếu mới úp vào nhau. Mẹ chồng và đại diện người đông con hoặc cao tuổi của dòng họ sẽ trải đôi chiếu lên giường (ngày nay có thể thay bằng chăn, ra), ngay ngắn, xếp chăn gối gọn gàng, cẩn thận. Ý nghĩa của việc làm này, là chúc cô dâu chú rể nhanh có có tin vui và sinh được nhiều con cháu thảo hiền.

9. Lễ hợp cẩn

Là nghi lễ cuối cùng của đám cưới được tổ chức tại nhà trai. Trong nghi lễ này, cặp vợ chồng mới cưới sẽ được người cao tuổi trong dòng họ rót rượu vào chén để uống giao bôi và ăn bánh phu thê. Yêu cầu đôi tân lang, tân nương phải uống cạn rượu trong chén, ăn hết bánh không chia cho ai và không để dư thừa. Xong nghi thức này, mọi người sẽ ra ngoài để hai vợ chồng có thời gian tâm sự.

Ở một số nhà giàu có, thì những bạn bè với chú rể còn mang hoa, thắp đèn sáng rực trong phòng hợp cẩn. Họ cũng ca hát, gây tiếng động, hoặc vỗ tay, đập các khúc gỗ vào nhau. Do đó mà sau có chữ động phòng hoa chúc.

10. Lễ lại mặt

Lễ lại mặt hay còn gọi là ngày nhị hỉ. Sau ngày cưới, cô dâu sẽ trở về nhà gái, mang theo lễ vật để tạ gia tiên. Lễ vật trong ngày lại mặt gồm có: trầu, xôi, lợn. Nhà gái sẽ chuẩn bị một bữa cơm thân mật để mời cặp vợ chồng mới cưới.

11. Lễ cheo

Trong đám cưới truyền thống, lễ cheo rất được chú trọng là một nghi lễ quan trọng của đám cưới. Những nhà nho học ngày xưa, gọi lễ cheo là lễ lan nhai (nhiều người đọc ra là lễ lan giai). Lan nhai có nghĩa là tiền nộp cheo cho làng khi nhà trai đến đón dâu ở nhà gái.

Lễ cheo được tiến hành trước nhiều ngày hoặc sau lễ cưới 1 ngày. Nghi lễ này được tiến hành như sau: Nhà trai sẽ mang lễ vật hoặc tiền bạc đến cho làng của cô dâu, để mong nhận được sự công nhận của làng xóm đối với chú rể. Hiện nay, thủ tục này đã không còn thay vào đó khi các cặp đôi đăng ký kết hôn sẽ ra ủy bản để đăng ký và khai báo.

Yeutre.vn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trình tự 11 nghi thức theo lễ cưới truyền thống

Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi

Tranh phong thủy chỉ phát huy tác dụng tốt khi được treo đúng cách. Nếu treo tranh bừa bãi hoặc kị tuổi, gia chủ sẽ “lãnh đủ” hậu quả.
Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tranh phong thủy chỉ phát huy tác dụng tốt khi được treo đúng cách. Nếu treo tranh bừa bãi hoặc kị tuổi, gia chủ sẽ “lãnh đủ” hậu quả.

  Mỗi bức tranh phong thủy nói chung, tranh chữ thập nói riêng đều mang ý nghĩa tượng trưng khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung của những bức tranh này là nhằm mục đích mang đến điềm lành, sự may mắn, thành công và thịnh vượng cho gia chủ.
1. Tranh chữ thập Phú quý mãn đường
 
Từ xa xưa, con người đã coi hoa mẫu đơn, chim công là biểu tượng của cuộc sống vinh hoa phú quý. Tranh Phú quý mãn đường cũng thường xuyên sử dụng hai hình ảnh cao quý này.

Ruoc hoa vao than neu treo tranh chu thap bua bai hinh anh
Hoa mẫu đơn được dùng nhiều trong gia đình danh giá
 
Hoa mẫu đơn được coi là “Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn” (Chỉ có mẫu đơn mới xứng đáng là hoa thật trong thiên hạ). Vẻ đẹp sang trọng, đài các của loài hoa này đã được dùng nhiều trong các gia đình danh giá và là biểu trưng cho quyền uy của hoàng gia.

Bên cạnh đó, hoa mẫu đơn tượng trưng cho tình yêu lứa đôi thủy chung, tốt đẹp. Tương truyền Dương Quý Phi, một trong tứ đại mĩ nhân Trung Hoa cổ bày thêm nhiều hoa mẫu đơn trong phòng để thu hút tình yêu của Đường Minh Hoàng.
  Thời cổ chỉ có gia đình giàu có mới đủ tiền để nuôi chim công làm cảnh. Loài chim với bộ lông đuôi sặc sỡ này được coi là chim quý và biểu trưng cho sự quyền quý, danh giá và tiền tài.

Ruoc hoa vao than neu treo tranh chu thap bua bai hinh anh 2
Tranh Phú quý mãn đường với hình ảnh chim công và hoa mẫu đơn quấn quít
 
Bức tranh chữ thập Phú quý mãn đường
với sự quấn quít hài hòa âm dương giữa loài chim công quý và hoa mẫu đơn sẽ mang lại nguồn sinh khí mới cho ngôi nhà, đồng thời hút nguồn năng lượng tích cực, tăng thêm sự sang trọng, viên mãn, giàu có và thịnh vượng cho gia chủ. Tranh này thích hợp treo ở phòng khách và phòng làm việc. Tuy nhiên, kiêng kị treo tranh ở phương Nam vì sẽ tạo ra “hỏa thiêu thiên môn”, khiến con cái hư đốn, khó dạy bảo, chủ nhân ngôi nhà đau đầu, hoa mắt. Tốt nhất nên treo ở hướng Đông hoặc phía tay trái chủ nhà (tính theo hướng phòng).
  2. Tranh Bát mã truy phong
 
Ngựa là tài sản quý giá trong gia đình người xưa vì nó gắn liền với mọi hoạt động như đánh giặc, đưa tin, buôn bán…Một con ngựa tốt là có vẻ ngoài đẹp và khả năng phi nước đại tức “truy phong” phi nhanh như cơn gió. Ngoài ra, con số 8 có phát âm giống như từ “Phát” trong phát đạt, phát tài.

Ruoc hoa vao than neu treo tranh chu thap bua bai hinh anh 3
Tranh Bát mã truy phong

Bát mã truy phong là hình ảnh tám con ngựa cùng chạy về một phía, hướng vào người ngắm tranh để mang lại tiền tài và vận may khi tất cả cùng theo đuổi một chí hướng. Tranh này thích hợp với những cá nhân, công ty đang bắt đầu khởi nghiệp để thu hút tài lộc, thành công và vinh hoa phú quý. Tuy nhiên, người đã thăng quan tiến chức rồi hoặc giàu có rồi thì không nên treo tranh 8 ngựa vì nó sẽ có nghĩa ngược lại. Lúc này, mã truy phong đem phong ba tới.
  Tùy theo từng tuổi khác nhau mà thích hợp hay kiêng kị treo tranh này. Ví dụ, người tuổi Thìn sẽ thăng tiến trong sự nghiệp, thành công nối tiếp thành công nếu treo tranh chữ thập Bát mã truy phong. Ngược lại, nếu người tuổi Tỵ lại kị treo tranh này, nếu treo sẽ dễ bị tai bay vạ gió, thậm chí là sát thân.   Ngoài ra còn các loại tranh như Tam dương khai thái, Nghênh khách tùng, Hoa khai phú quý, Kim ngọc trường lưu…Tùy theo từng mệnh tuổi của gia chủ mà có cách lựa chọn treo tranh phù hợp, từ đó thúc đẩy tài lộc và sự hưng thịnh.   ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi

Xử lý ô nhiễm để có phòng bếp sạch –

Với 3 bữa ăn mỗi ngày, bếp là nơi dễ bẩn nhất trong nhà và cũng là nơi khiến người phụ nữ trong gia đình đau đầu nhất. Thực ra, chỉ cần nắm chắc mấy biện pháp đơn giản thôi là có thể loại bỏ được ô nhiễm ở những nơi dễ bị bẩn trong bếp. (1) Kính cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với 3 bữa ăn mỗi ngày, bếp là nơi dễ bẩn nhất trong nhà và cũng là nơi khiến người phụ nữ trong gia đình đau đầu nhất. Thực ra, chỉ cần nắm chắc mấy biện pháp đơn giản thôi là có thể loại bỏ được ô nhiễm ở những nơi dễ bị bẩn trong bếp.

bep dep 1

(1) Kính cửa sổ

Đầu tiên lau sạch bụi bám trên kính bằng giẻ ướt, sau đó lau tiếp bằng giấy báo củ, mực in trên báo sẽ nhanh chóng làm sạch bẩn bám trên kính. Nếu như kính bị đen và có nhiều hơi dầu mỡ bám thì có thể lau bằng bột tẩy tính kiềm mạnh, cũng có thể lau bằng giẻ nhúng dầu hoả hoặc rượu trắng hoặc giấm nóng, kính sẽ rất nhanh sạch.

(2) Rèm cửa sổ

Đầu tiên dùng chổi quét sạch bụi bám trên cứa, pha đều 15 gam thuốc tẩy với nửa lít nước trong, dùng bàn chải nhúng vào và xoa nhẹ lên cửa, tiếp tục dùng giẻ lau khắp một lượt, bụi sẽ hết.

(3) Bể nước

Bể nước rất dễ bị vật bẩn tích tụ, khi vệ sinh bể, trước tiên cho vào bể một ít muối và xoa đều lên thành bể, đợi một lát rồi dùng nước nóng phun rửa. Bể dạng có góc thì dùng bàn chải nhúng vào nước muối để cọ.

(4) Bóng đèn

Bóng đèn dùng trong nhà bếp lâu ngày sẽ bị khói bụi bám bẩn, muôn làm sạch có thể dùng giẻ lau nhúng với thuốc tẩy hoặc giấm nóng lau sẽ sạch.

(5) Nồi áp suất, nồi nhôm

Ngâm nồi trong nước một lúc, sau đó chùi bằng kem đánh răng, cuối cùng rửa sạch bằng nước; cũng có thể chùi nồi bằng giấm, sau nửa giờ lau lại. Còn có thể ngâm nồi vào nước nóng sau đó dùng lông gà làm sạch, rất hiệu quả.

(6) Bình đựng dầu, mỡ

Rửa sạch bình, cho vào bình một ít vỏ trứng đã đập nát, một chút nước rửa, cho nước nóng vào, lắc qua lắc lại nhiều lần, rửa lại bằng nước sạch.

(7) Gạch men trắng

Nếu gạch có vết bấn có thể lau bằng xơ dừa sau khi đã làm ướt gạch bằng rượu rồi dùng vải lau khô. Nếu vết bấn do dầu mỡ hay đồ ăn bám lại thì có thể lau bằng nước nóng với xà phòng, sau đó lau sạch bằng nước. Một số vết bẩn khó sạch có thể cọ bằng lông gà nhúng với nước nóng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xử lý ô nhiễm để có phòng bếp sạch –

Bày đúng loại cây để tăng cường phong thủy huyền quan

Bố trí cây xanh không chỉ giúp phong thủy huyền quan tốt lên mà còn khiến không gian thoáng đãng, tươi tốt hơn. Cùng điểm qua một số gợi ý hữu ích dưới đây
Bày đúng loại cây để tăng cường phong thủy huyền quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố trí cây xanh không chỉ giúp phong thủy huyền quan tốt lên mà còn khiến không gian thoáng đãng, tươi tốt hơn. Nhưng bày loại cây nào mới tốt? Cùng điểm qua một số gợi ý hữu ích dưới đây nhé.


Goi y bay dung loai cay de tang cuong phong thuy huyen quan hinh anh 2
 
1. Cây xanh có lợi cho vận thế Văn Xương – trúc phú quý    Trúc phú quý là loại cây phong thủy rất tốt cho việc thúc đẩy vận thế Văn Xương, đại diện cho thăng quan tiến chức, thi cử, học hành. Nếu ở huyền quan mà bày trúc phú quý thì trong nhà vượng khí, con cái học thành tiến tới, cha mẹ sự nghiệp hanh thông.   2. Cây xanh thúc giục tài vận – cây phát tài   Cây phát tài là loài cây cát tường, mang ý nghĩa chiêu tài tiến lộc, đem tới phúc khí, thúc giục tài vận, rất tốt cho phong thủy huyền quan. Đặt cây này ở huyền quan không chỉ vượng trạch, hưng gia mà người trong nhà còn khỏe mạnh, bình an.
Những lưu ý phong thủy âm trạch khi trồng cây tại mộ Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp Muốn tăng gia vận hãy chọn cây trúc
3. Cây xanh tăng cường sức khỏe – trầu bà
  Trầu bà là loài cây thân leo có sức sống mạnh mẽ, dẻo dai, sống thủy sinh, thường được xưng tụng là “loài cây của sinh mệnh”, mang ngụ ý phong thủy cứng cỏi, thiện lương, tốt đẹp. Hơn nữa, trầu bà còn có tác dụng hấp thụ tai khí, giải phóng dưỡng khí, giúp lưu chuyển không khí. Đặt ở huyền quan có lợi cho việc lọc không khí và vận trình sức khỏe của người trong nhà.
Goi y bay dung loai cay de tang cuong phong thuy huyen quan hinh anh 2
 
4. Hoa vượng đào hoa – bách hợp   Ngoài trồng cây xanh thì cắm hoa ở huyền quan cũng là một gợi ý không tồi. Đẹp nhất là cắm hoa bách hợp – ngụ ý trăm năm hòa hợp. Loài hoa này không chỉ giúp tăng cường tình thân mà còn thúc giục đào hoa, bổ sung nhân duyên vận. Bày hoa bách hợp ở huyền quan thì người còn độc thân trong nhà sẽ gặp may mắn hơn trên đường tìm kiếm bạn đời, người đã có gia đình thì vợ chồng thuận lợi, tình cảm ngọt ngào.   Lưu ý quan trọng nhất khi bày các loại cây, hoa ở huyền quan là phải chăm sóc cây thường xuyên, tỉ mỉ, thay nước sạch để cây hoa luôn tươi mới, xanh tốt. Nếu cây, hoa bị héo, úa thì phải lập tức bỏ đi hoặc thay mới nếu không sẽ ảnh hưởng tới vận thế, làm xấu phong thủy nhà ở
► Tham khảo thêm: Xem tuổi xây nhà hợp phong thủy để đón lành tránh dữ

7 nguyên tắc phong thủy tối cần thiết khi đặt cây hoa trong nhà Lựa cây vượng tài vượng lộc cho 12 con giáp Chọn cây phong thủy để bàn trợ lực nghề nào phát nghề đó
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày đúng loại cây để tăng cường phong thủy huyền quan

Tử vi Mậu Tý phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

MẬU TÝ: TÍCH LỊCH HỎA Trong tử vi Mậu Tý là chuột trong kho lẫm, là người có tấm lòng lương thiện, làm việc công bằng, cả đời của cải không thiếu. Tích lịch Hỏa là 1 tia sáng trên trời, có hình chớp điện ngoằn ngoèo, mạnh mẽ giống như tiếng vó ngựa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

MẬU TÝ: TÍCH LỊCH HỎA

Trong tử vi Mậu Tý là chuột trong kho lẫm, là người có tấm lòng lương thiện, làm việc công bằng, cả đời của cải không thiếu.

Tích lịch Hỏa là 1 tia sáng trên trời, có hình chớp điện ngoằn ngoèo, mạnh mẽ giống như tiếng vó ngựa ầm vang. Hỏa này cần có lôi hỏa phong trợ giúp mới có thể biến hóa.

12congiap (1)

Tích lịch Hỏa là Hỏa trong Thủy, không có thần long không thể có nó.

Trong tử vi nếu như nhật trụ, thời trụ gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy là Dẫn phàm nhập thánh cách.

Gặp Ất Mão Đại khê Thủy cũng được cát lợi. Duy Tý Mão phạm hình, trong cát có hung.

Các Thủy khác, ví dụ như Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy đều vô dụng.

Gặp Mộc chỉ ưa Tân Mão Tùng bách Mộc; Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc, các Mộc khác vô dụng.

Ưa gặp Đinh Tỵ Sa trung Thổ, Kỷ Mão Thành đầu Thổ, lại có Giáp Thân, Ất Dậu Tỉnh tuyền Thủy trợ giúp, ắt được quý hiển.

Kim ưa Giáp Tý, Ất Sửu Hải trung Kim; Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim, nhưng cần có Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy, chủ về cát lợi. Các Kim khác đều vô dụng.

Không ưa Bính Dần Lư trung Hỏa, quá nóng, e rằng yểu thọ.

Cũng không ưa Bính Thân Sơn hạ Hỏa, chủ về nghèo hèn.

Nhật trụ và thời trụ có Mão, gọi là Lôi đình đắc môn cách. Duy nhật trụ có Mão là khắc vợ hoặc chồng; thời trụ có Mão, khắc con trưởng.

Nạp âm có Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy, gọi là Liệt phong lôi vũ cách. Người đắc cách này không sợ Tý Ngọ xung, Tý Mùi hại.

Nạp âm có Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa gọi là Thiên địa trung phân cách, không sợ Tý Ngọ tương xung.

Mậu lộc tại Tỵ, Địa chi của các trụ khác ưa Tỵ, không có Tỵ mà gặp Thân cũng được cát lợi.

Tý mã tại Dần, Địa chi của các trụ khác không ưa có Thân, có Tỵ, mã bị hình, không nên kinh doanh, chủ về bỏ mạng nơi đất khách.

Mậu quý tại Mùi, gặp Mùi đều cát lợi.

Gặp năm Tý, năm Ngọ, trong nhà không yên ổn. Nếu như bản thân không bị thương hại thì ngưòi nhà cũng khó được yên ổn.

Bạn đời không nên lấy người sinh năm Giáp, Ất. Nên tìm người sinh năm Nhâm, Quý.

Mệnh nữ có năng lực, có chí khí nhưng phần lớn vất vả.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi Mậu Tý phân tích nạp âm lục thập hoa giáp –

Công việc phất nhanh nhờ soi bát tự chọn bạn làm ăn

Vận khí kinh doanh không chỉ dựa vào năng lực của bản thân. Soi bát tự chọn bạn làm ăn sẽ giúp bạn gặp được quý nhân, công việc phất nhanh như diều gặp gió.
Công việc phất nhanh nhờ soi bát tự chọn bạn làm ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vận khí kinh doanh không chỉ dựa vào năng lực của bản thân mà còn chịu ảnh hưởng lớn của đối tác. Soi bát tự chọn bạn làm ăn sẽ giúp bạn gặp được quý nhân, công việc phất nhanh như diều gặp gió.


Cong viec phat nhanh nho soi bat tu chon ban lam an hinh anh
 
1. Bát tự có Chính Tài, thích hợp buôn bán

Chính Tài đại diện cho việc phát đạt, lại thuộc dạng thu nhập không ổn định nhưng là đại tài, nếu gặp vận thì tiền vào như nước, không cần lao động vất vả cũng kiếm được khoản lớn.
 
Bát tự có Chính Tài, ý chí đầu cơ sinh lợi rất mạnh mẽ, không chịu làm thuê mà muốn tự mình làm chủ, có tham vọng làm giàu, rất thích hợp với việc buôn bán.
 
2. Bát tự có Chính Quan, thích hợp kinh doanh

Chính Quan đại diện cho công tác, cơ quan công vụ. Soi bát tự chọn bạn làm ăn mà người ấy có Chính Quan thì là người giao thiệp rộng, thích khai mở sự nghiệp mới, táo bạo, thích một mình tạo lập con đường cho riêng bản thân, thích hợp mở doanh nghiệp tự mình làm chủ.
 
3. Bát tự có Thương Quan,  thích hợp làm ăn tự do
 
Người có lá số này đầu óc linh hoạt, không bảo thủ, biết thay đổi cho phù hợp với thời cuộc, dễ thích nghi và có tinh thần học hỏi nhưng lại không hợp với cuộc sống công sở gò bó mà muốn bung ra ngoài làm ăn tự do. 
 
Không sớm thì muộn, người này cũng tự kinh doanh buôn bán hoặc làm về ngành tiêu thụ, thị trường, kỹ thuật sản xuất.

Khi chọn đối tác làm ăn, hãy chú ý xem bát tự của họ có nằm trong các trường hợp kia không. Nếu có, thì đích thị là người có số làm ăn phát đạt, nên chọn để cùng hợp tác, sẽ có lợi cho bạn.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn
Tâm Lan (Theo 12ky)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Công việc phất nhanh nhờ soi bát tự chọn bạn làm ăn

Chùa Hội Xá - Hà Nội

Chùa Hội Xá có tên gọi khác là Linh Tiên tự. Chùa trước đây thuộc phủ Thuận An, sau là tỉnh Bắc Ninh, đến năm 1961, mới thuộc Hà Nội.
Chùa Hội Xá - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hội Xá có tên gọi khác là Linh Tiên tự. Chùa trước đây thuộc phủ Thuận An, sau là tỉnh Bắc Ninh, đến năm 1961, mới thuộc Hà Nội (Phía Nam bờ đê sông Đuống, Gia Lâm – Hà Nội). Chùa được tạo dựng từ lâu đời, gắn với làng Hội Xá, nằm trong địa bàn sinh tụ chính của cư dân Việt cổ thời dựng nước. Văn bia và hệ thống tượng của Phật điện cho biết chùa đã được trùng tu ở thế kỷ XVI. Đợt tu sửa cuối cùng ghi trên bia là vào năm 1935. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Chùa được xây dựng trên khu đất cao, mặt hướng Tây, gồm tiền đường và hậu cung kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Chùa có 12 tấm bia đá, trong đó 3 tấm bia có niên đại triều Lê và 9 tấm bia thuộc triều Nguyễn. Đại hồng chung có tên “Linh Tiên tự chung” đúc năm 1844. Di tích Hội Xá – một di tích được xếp hạng đã 15 năm nay thuộc quận Long Biên – Hà Nội. Dựa vào những hiện vật còn được lưu giữ, ít nhất chúng ta vẫn có thể nắm được là chùa được dựng vào nửa đầu thế kỷ 17. Trải qua thời gian, ngôi chùa đã được tu bổ nhiều lần. Hiện nay chùa chỉ là một kiến trúc năm gian tường hồi bít đốc.

Với nghệ thuật khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trên nóc tiền đường vẫn còn nhiều dấu tích về chạm khắc chứa đựng ý nghĩa sâu xa. Đó là những vân xoắn và đao cách điệu, biểu tượng của sấm chớp – một gợi ý với thần linh để các ngài dùng pháp lực vô lượng vô biên đưa mây về, để mưa xuống cho muôn loài và cây trồng phát triển sinh sôi. Trên những cốn mê là những hình cây thiêng hoá rồng được chạm nổi khá đẹp. Mà mỗi hình thức đó vẫn níu kéo tâm hồn nhân thế bởi giá trị biểu tượng của chúng khó có thể tàn phai.

Hiện nay thượng điện chùa có cả tượng Phật, tượng Mẫu, thậm chí cả tượng ông Tổ Huyền đàn và trợ thủ là Độc Cước và Tôn Ngộ Không… Trên cùng là bộ Tam thế Phật được chạm trổ rất đẹp có niên đại khoảng nửa đầu thế kỷ 17. Bộ tượng Tam thế này có thể xếp vào “loại một” của cấp quốc gia nhưng gần đây cả ba tượng đều đã bị mất (!?). Những tượng kể trên vừa có phong cách mang nét phương Nam gần với nghệ thuật ấn Độ (sọ lớn, hàm thon, có hoa tai, hình đài sen ngửa…).

Đáng quan tâm là tượng để hở cả nửa ngực, vai và cánh tay bên phải , đây là một hình thức đề cao Phật pháp tối thượng…), áo tượng vẫn còn ít nếp nhưng các nếp đều được uốn lượn mềm mại và có nét vẻ suy tư sâu. Pho tượng ở giữa không để áo trật khỏi vai hữu mà phủ gần kín thân như các tượng cùng loại ở chùa khác. Tuy nhiên tượng vẫn cùng một phong cách như hai tượng bên. Đặc biệt đài sen của cả ba pho tượng đều mang phong cách Mạc (nửa cuối thế kỷ 16, nửa đầu thế kỷ 17). Hàng thứ 2 của Phật điện là tượng A Di Đà với niên đại muộn hơn rất nhiều.

Chùa Hội Xá
Bia liệt sĩ trong Chùa Hội Xá

Hàng thứ 3 là tượng Thích Ca kết ấn gia trì, tiếp tới là tượng Quan Âm Thiên Thủ rồi bộ tượng Ngọc Hoàng – Nam Tào – Bắc Đẩu. Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh. Hai bên sườn của Thượng điện là nơi thờ của Thập điện Diêm Vương với 10 tượng nghiêm chỉnh.

Các tượng khác của chùa còn có: Quan Âm toạ sơn (thế kỷ 19), Ba vị tổ chùa (thế kỷ 19) và một tượng bà hậu chúa khá đẹp với niên đại sớm hơn nay không biết lưu lạc ở đâu. Các tượng này đều được làm bằng gỗ hoặc đất. Nhưng nhiều pho đã được gia công rất kỹ nên đạt được giá trị nghệ thuật nhất định, có một vài pho rất đặc biệt cả về nghệ thuật và ý nghĩa thuộc tín ngưỡng dân gian mà chúng ta cần phải lưu tâm.

Chùa Hội Xá đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hội Xá - Hà Nội

Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở bài này tôi sử dụng một số qui luật trong Chu Dịch để phát hiện sự tồn tại của 3 giác quan mà khoa học ngày nay vẫn chưa rõ.

Năng lực Ngoại Cảm chỉ những trường hợp xảy ra ở những cá nhân có khả năng cảm nhận sự việc, hiện tượng không bằng năng lực của 5 giác quan thông thường. Liệu ngoài các chức năng mà chúng ta đã biết rõ về 5 giác quan còn có chức năng nào khác chưa biết ? Hoặc có tồn tại giác quan khác ? Hiện nay, các ý kiến nghiêng về hướng thứ hai. Giác quan chưa biết ấy được gọi chung là giác quan thứ sáu. Được gọi chung là bởi cho đến nay vẫn chưa xác định được bao nhiêu giác quan chúng ta chưa biết đến…..Chúng là những giác quan nào ? Bao nhiêu giác quan ? Chúng mang những chức năng gì ? Cơ chế hoạt động ra sao ? Cơ quan của các giác quan này nằm ở đâu ?

Chu Dịch bằng lối đi riêng đã phát hiện cơ thể con người có 8 giác quan. Tôi trình bày như sau:
Chu Dịch có 8 quẻ ghi nhận 8 hình thái vận động thuần nhất: Thuần Chấn, Thuần Tốn, Thuần Ly, Thuần Khôn, Thuần Đoài, Thuần Càn, Thuần Khảm, Thuần Cấn.
Mỗi hình thái thuần nhất mang cấu trúc đặc biệt: Là 2 đồ hình cơ bản giống nhau và chồng lên nhau.
_ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
_ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _
_ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
_ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _


8 hình thái này là 8 hình thái thuần nhất của Chu Dịch.
Ta xét hình thái thuần nhất trong phạm trù giác quan. Có 8 hình thái thuần nhất thuần nhất tương ứng có 8 giác quan. Chu Dịch mô tả 5 giác quan đã biết & 3 giác quan chưa biết như sau :

5 giác quan đã biết :
1. Thuần Ly: Quẻ mô tả vật chất sáng. Để cảm nhận vật chất sáng có cơ quan thụ cảm vật chất sáng, Thị giác.
2. Thuần Chấn: Quẻ mô tả vật chất lan toả. Để cảm nhận vật chất lan toả có cơ quan thụ cảm vật chất lan toả, Khứu giác.
3. Thuần Tốn: Quẻ mô tả vật chất chuyển động. Để cảm nhận vật chất chuyển động có cơ quan thụ cảm vật chất chuyển động, Xúc giác.
4. Thuần Cấn: Quẻ mô tả vật chất ngưng tụ. Để cảm nhận vật chất ngưng tụ có cơ quan thụ cảm vật chất ngưng tụ, Vị giác.
5. Thuần Đoài: Quẻ mô tả vật chất gây tiếng động. Để cảm nhận vật chất gây tiếng động có cơ quan thụ cảm vật chất gây tiếng động, Thính giác
3 giác quan chưa biết :

6. Thuần Càn: Quẻ mô tả vật chất khởi sinh. Để cảm nhận vật chất khởi sinh có cơ quan thụ cảm sự khởi sinh. Tôi gọi tên Khởi giác.
7. Thuần Khôn: Quẻ mô tả vật chất sao chép. Để cảm nhận vật chất sao chép có cơ quan thụ cảm vật chất sao chép. Tôi gọi tên Tái tạo giác.
8. Thuần Khảm: Quẻ mô tả vật chất tối. Để cảm nhận vật chất tối có cơ quan thụ cảm vật chất tối. Tôi gọi tên Liễm giác

Tôi đã xác định tính thụ cảm Ý thức – Vô thức của ba giác quan 6,7,8 như thế nào ?

Xem xét qui luật vận động thụ cảm trong cặp phạm trù thụ cảm Ý thức – Vô thức:
* Thuần Ly, Thuần Tốn, Thuần Đoài, Thuần Cấn, Thuần Chấn các hào từ mô tả hình thái vận động có điểm chung là: Vận động thụ cảm bên ngoài, vận động bề nổi _ Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Ý thức. Suy ra, các giác quan là hoạt động thụ cảm Ý thức.
* Thuần Khôn vận động thụ cảm sao chép kín đáo ngay ở hào 1 cho đến hào 5. Chỉ xuất hiện ở hào 6 & 7 dưới hình thức sử dụng. Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Vô thức. Suy ra, giác quan Tái tạo giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
* Thuần Khảm vận động thụ cảm “Bị nhốt” từ hào 1 đến hào 6. Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Vô thức. Suy ra, giác quan Liễm giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
* Thuần Càn vận động thụ cảm khởi động đi đầu từ hào 2 đến hào 7, chỉ có hào 1 là chìm bât bất động (Ở ẩn) Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Ý thức. Suy ra, giác quan Khởi giác hoạt động thụ cảm Ý thức.
Và xác định chức năng của 3 giác quan 6,7,8
Tôi xem xét chức năng các giác quan qua Thoán từ, Hào từ & mối liên hệ giữa các hình thái:
* Thuần Khôn là hình thái Sao chép. Nó vận động theo qui luật Sao chép các sự vật & hiện tượng. Tái tạo giác hoạt động theo qui luật vận động của hình thái Thuần Khôn, tức là, Tái tạo giác hoạt động thụ cảm sao chép các sự vật & hiện tượng.
* Thuần Càn là hình thái Đầu tiên. Nó vận động theo qui luật Đầu tiên của các sự vật & hiện tượng như sau:

Hào 1 : vận động tích luỹ.
Hào 2,3 & 4 : vận động tiếp thu.
Hào 5,6 : vận động phóng xuất.
Hào 7 : vận động thoát dương.

Khởi giác hoạt động thụ cảm theo qui luật vận động của hình thái Thuần Càn, tức là, Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất “Cái” đầu tiên của sự vật & hiện tượng. “Cái” đầu tiên ấy trong hoạt động trí não khi giao tiếp chính là suy nghĩ. Vậy: Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất suy nghĩ.
Vận động tích luỹ nằm trong hoạt động thụ cảm phóng xuất.
Còn Thoát dương ?
Hào thứ 7 được biểu thị: toàn bộ 6 hào dương biến sang 6 hào âm, nên tôi gọi đây là sự vận động thoát dương. Tức là sự vận động thoát dương của suy nghĩ. Thoát dương như thế nào?

Ta xem lời hào 7: “Đang ở một không gian khác. Trong không gian ấy, họ nhìn thấy ta, nhưng ta thì không nhìn thấy họ”
Vậy ta có: Khi hoạt động của giác quan này đạt đến độ thoát dương sẽ “Nhìn” thấy sự vật & hiện tượng ở một không gian khác.
* Thuần Khảm là hình thái “Nhốt” . Nó vận động theo qui luật “Nhốt” sự vật & hiện tượng. Để biết giác quan này nhốt cái gì ta xem xét mối liên hệ giữa 2 hình thái: Thuần Khảm & Thuần Ly.

Thuần Khảm là hình thái ngược của hình thái Thuần Ly. Thuần Ly mô tả sự vật & hiện tượng sáng, ngược lại, Thuần Khảm mô tả sự vật & hiện tượng tối.
Ta xem xét sự vật & hiện tượng trong cặp phạm trù: Năng lượng sáng & Năng lượng tối.

Thị giác (Thuần Ly) tiếp nhận & phản chiếu ánh sáng từ vật thể phát hoặc phản chiếu năng lượng sáng. Ngược lại, Liễm giác tiếp nhận rồi nhốt luôn năng lượng tối.
Vậy ta có: Liễm giác hoạt động thụ cảm bằng việc hấp thu năng lượng tối.

LỜI BÀN
1. Bằng Chu Dịch tôi xác định được sự tồn tại một dạng vật chất đặc biệt, vật chất tối cùng với nó là năng lượng tối. Ở thế kỷ trước, Einstein đã đưa ra giả thuyết về vật chất tối & năng lượng tối để giải thích cho các tính toán mà các phương trình vũ trụ phải được thoả mãn. Gần đây bằng các phương tiện đo đạc, giới khoa học đã xác nhận sự tồn tại của dạng vật chất này ở cấp độ thiên văn. Lổ đen mà tôi có giới thiệu trong bài Chu Dịch với thiên văn là một dạng vật chất tối…. Theo cái cách mô tả của Thuần Khảm thì qui trình hấp thụ thức ăn trong cơ thể con người chính là qui trình vận động “Tối” tạo ra năng lượng tối. Nếu sự phỏng định này là đúng thì cần phải xem xét lại các khái niệm về sinh hoá học cơ thể.

2. Chức năng của Khởi giác do Chu Dịch cung cấp đã cho ta một ý niệm về một không gian khác, khác với không gian mà loài người chúng ta đang tồn tại. Viện hàn lâm Quốc gia Mỹ đưa ra "11 câu hỏi cuối cùng" về vũ trụ, làm định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Các câu hỏi này được những nhà khoa học hàng đầu của ba trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ phác thảo ra: Cơ quan hàng không vũ trụ, Bộ Năng lượng và Quỹ khoa học Quốc gia. Ở câu hỏi thứ 9: “Có tồn tại một hệ không gian - thời gian khác không?” Câu hỏi này được đặt ra một cách nghiêm túc xuất phát từ những thực tế nghiên cứu trong nhiều lãnh vực, nhất là lãnh vực Trường Sinh Học, Cận Tâm Lý…. Có một số người có khả năng nói chuyện với những người đã chết không phải chỉ xảy ra ở Việt Nam chúng ta khi truy tìm hài cốt liệt sỹ, mà còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Và Chu Dịch còn cung cấp cho chúng ta 1 chi tiết khá lý thú: Họ, những người tồn tại trong 1 hệ không gian - thời gian khác nhìn thấy chúng ta tương đối rõ, chúng ta thì không. Đối với chúng ta, họ vô hình.

3. Có những hiện tượng được ghi nhận là khá kỳ lạ và rất khó lý giải như một bà lão người Thổ Nhĩ Kỳ sau cú vấp té chỉ nói tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, như những người thân và người trong làng cùng xác nhận rằng suốt đời bà ấy chưa hề bước chân ra khỏi làng để đi đâu xa, và bà ấy không hề có quan hệ bà con với ai là người Hy Lạp. Hay gần đây nhất một người đàn ông ở Đồng Tháp sau ca mổ đã dùng giọng chuần của người Hà Nội để nói chuyện với mọi người (!?) Trong khi anh ta và cha anh ấy chưa từng một lần ra Bắc (Tin VNexpress) Chỉ có cơ quan thụ cảm Tái Tạo giác do Chu Dịch cung cấp mới có thể giải thích được những trường hợp như thế.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Thực hư việc tỏi xua đuổi tà ma

Tỏi trừ tà ma: Dân gian lại tin rằng tỏi có thể xua đuổi được tà ma, vậy thực hư thế nào?
Thực hư việc tỏi xua đuổi tà ma

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền hay còn gọi là Phật giáo Phát triển, những Phật tử khi ăn chay nên kiêng cữ ngũ vị tân (hành, tỏi...) vì sợ bị ma quỷ kéo đến liếm môi. Trong khi đó, dân gian lại tin rằng tỏi có thể xua đuổi được tà ma, vậy thực hư thế nào?


1. Phật tử kiêng kị ăn ngũ vị tân

Ngũ vị tân là năm món gia vị có mùi cay nồng gồm: Hành (cách thông), hẹ (từ thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và hưng cừ, tên khoa học là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi vị tương tự củ nén không có ở Trung Quốc và Việt Nam.

Thuc hu viec toi xua duoi ta ma hinh anh
 
Phật tử không nên ăn ngũ vị tân vì đặc tính của những thứ này nó chứa nhiều tố chất kích thích và mùi vị cay nồng, nếu ăn nhiều thì thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục. Trong Kinh Phạm Võng, quyển hạ, Phật dạy: “Là Phật tử thì không được ăn ngũ vị tân, nếu ai cố ý ăn thì phạm khinh cấu tội”.

Do đó, mà trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 8, Phật dạy: “Các chúng sinh cầu Thiền định (Samadhi) không nên ăn năm món cay nồng của thế gian. Vì năm món cay nồng đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì sinh nóng giận.

Sách giảng pháp có ghi: “Người nào ăn năm món cay nồng ấy thì dẫu có tài giảng thuyết mười hai bộ kinh, chư Thiên mười phương đều chê bai hôi thúi và xa lánh. Ma quỷ nhìn người ăn mấy món đó liền kéo đến liếm môi, liếm mép họ, vì thế nên thường ở chung với ma quỷ. Phước đức của người ăn ngũ tân mỗi ngày một tiêu dần. Bồ tát và thiện thần trong mười phương không đến ủng hộ người ấy”.

2. Dùng tỏi xua đuổi tà ma?


Vậy tại sao trong dân gian vẫn truyền nhau cách dùng tỏi để xua đuổi tà ma? Điều này được bắt nguồn từ Trung Quốc thời xưa khi họ chủ yếu sử dụng tỏi để trừ tà. Nên hiểu tà ở đây là những bàn môn tả đạo dùng quyền phép (giống như bùa ngải ở Việt Nam) để quấy nhiễu, hoành hành đối phương. Người ta dùng tỏi để giải trừ bùa ngải đó, khiến mọi người không bị yểm bùa.

Thuc hu viec toi xua duoi ta ma hinh anh
 
Ngoài ra, theo như cách lí giải từ những tín ngưỡng dân gian, Thần Tài (Ông Địa) và những bậc Thần, Thánh tuy có sức mạnh siêu nhiên nhưng ở một giới hạn nhất định. Những loài ma quỷ có công phu cao hơn sẽ phá phách, làm tổn hại... tới các vị này. Vậy nên, tỏi sẽ làm cho ma, quỷ giảm đi một phần công lực nào đó hoặc làm chúng khiếp sợ mà bỏ đi, không gây tổn hại cho Thần Tài, Thổ Địa.

Đây chỉ là tín ngưỡng dân gian truyền khẩu cho nhau, người tu Phật không nên bàn luận nhiều, nên hiểu không nên bàn luận, vì bàn luận thì sai. Đồng thời cũng không tín ngưỡng, tín ngưỡng thì thành mê tín.

► Mời các bạn khám phá thêm: Thế giới tâm linh huyền bí bốn phương

Nguồn Internet

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư việc tỏi xua đuổi tà ma

Hướng dẫn cách chọn màu Tỳ Hưu phong thủy theo mệnh –

Từ xưa đến nay Tỳ Hưu phong thủy rất được mọi người tin tưởng vào sự may mắn mà nó mang lại. Bởi theo phong thủy phương đông thì Tỳ hưu là một con vật rất linh thiêng. Việc đeo nhẫn Tỳ hưu trên tay, làm vòng cổ hay trưng bày Tỳ hưu để két sắt, trên b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ xưa đến nay Tỳ Hưu phong thủy rất được mọi người tin tưởng vào sự may mắn mà nó mang lại. Bởi theo phong thủy phương đông thì Tỳ hưu là một con vật rất linh thiêng. Việc đeo nhẫn Tỳ hưu trên tay, làm vòng cổ hay trưng bày Tỳ hưu để két sắt, trên ban thờ thần tài hoặc đặt trên bàn làm việc, trong gia đình hay doanh nghiệp sẽ giúp gia chủ được bình an, may mắn, công danh thăng tiến, sức khỏe tràn đầy & tài lộc tăng nhanh. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều loại Kỳ hưu khác nhau về hình thức, kích thước hay nguyên liệu (Tỳ hưu để bàn làm việc, Tỳ hưu đặt ban thờ thần tài, Tỳ hưu kéo bắp cải, nhẫn Tỳ hưu, vòng tay Tỳ hưu, vòng cổ – dây chuyền Tỳ hưu,…), và không phải Tỳ hưu nào cũng mang lại những giá trị như nhau cho con người. Cho nên rất nhiều người thắc mắc chọn Tỳ Hưu phong thủy như thế nào cho hợp tuổi đặc biệt là màu sắc Tỳ Hưu hợp mệnh. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn cách chọn màu Tỳ Hưu phong thủy theo mệnh, các bạn cùng tham khảo nhé!

Nội dung

  • 1 Cách chọn màu Tỳ Hưu phong thủy theo mệnh
    • 1.1 Người mệnh Kim nên chọn Tỳ Hưu màu gì?
      • 1.1.1 Người mệnh kim là người như thế nào?
      • 1.1.2 Người mệnh Kim hợp với Tỳ hưu màu nào?
      • 1.1.3 Màu khắc với mệnh Kim nên tránh
    • 1.2 Người mệnh Mộc nên dùng Tỳ hưu phong thuỷ màu gì – loại nào tốt nhất cho mình?
    • 1.3 Nên chọn màu sắc gì của Tỳ hưu cho người mệnh Thủy?
      • 1.3.1 Tỳ hưu trắng
      • 1.3.2 Tỳ hưu đen
      • 1.3.3 Tỳ hưu xanh nước biển
    • 1.4 Tỳ hưu cho người mệnh Hỏa
    • 1.5 Chọn màu Tỳ hưu phong thủy phù hợp nhất cho người mệnh Thổ
      • 1.5.1 Tỳ hưu màu đỏ
      • 1.5.2 Tỳ hưu màu hồng
      • 1.5.3 Tỳ hưu màu tím
      • 1.5.4 Tỳ hưu màu nâu
  • 2 Nguyên liệu làm Tỳ hưu có tác dụng gì trong phong thủy đối với người sử dụng?
    • 2.1 Tỳ hưu thạch anh
    • 2.2 Tỳ hưu thạch anh tím
    • 2.3 Tỳ hưu thạch anh đỏ
    • 2.4 Tác dụng của tỳ hưu thạch anh tóc
    • 2.5 Tỳ hưu thạch anh khói
    • 2.6 Tỳ hưu đá mắt mèo có tác dụng như thế nào?
      • 2.6.1 Chiêu tài chiêu lộc 
      • 2.6.2 Bảo vệ
      • 2.6.3 Tốt cho sức khỏe
    • 2.7 Những mẫu Tỳ hưu phổ biến khác
      • 2.7.1 Tác dụng chiêu tài, thu hút tiền bạc, giúp thăng quan tiến chức
      • 2.7.2 Tác dụng trấn tà, giúp đem lại may mắn, bình an

Cách chọn màu Tỳ Hưu phong thủy theo mệnh

Theo ngũ hành mạng gồm 5 yếu tố là: Kim, thủy, hỏa, mộc, thổ. Theo phong thủy, mỗi mệnh thì hợp với các màu sắc khác nhau. Đây cũng là lí do vì sao mà khi chọn tỳ hưu phong thủy hợp mệnh người ta lại quan tâm đến màu sắc, vì nếu chọn màu sắc không hợp với mệnh hoặc tuổi tác sẽ xung khắc với người sở hữu kỳ hưu.

Vậy là màu sắc tỳ hưu có tác dụng thế này thế kia như các trang web khác vẫn nói về tỳ hưu là chưa đúng, chỉ có là chọn màu sắc tỳ hưu theo mệnh hay tuổi của mỗi người mà thôi. Nên các bạn cũng nên chú ý nhé!

Người mệnh Kim nên chọn Tỳ Hưu màu gì?

Người mệnh kim là người như thế nào?

Những người thuộc mệnh kim là những người yêu cầu trong công việc cũng như trong cuộc sống sự chính xác, rõ ràng, logic và hiệu quả.
Người mệnh kim là biểu hiện của sự tinh tế, rõ nét, sâu sắc trong tính cách.
Mệnh thổ sẽ hỗ trợ cho bạn, nhưng mệnh hỏa sẽ xung khắc bạn, vì hỏa sẽ thiêu đốt bạn nên hãy tránh chọn tỳ hưu có màu xung khắc với mệnh của bạn nhé!

Người mệnh Kim hợp với Tỳ hưu màu nào?

Màu trắng: Màu thuần khiết và trong sáng, nó là màu của sự hoàn thiện, tạo nên sự dung hòa các màu trong cuộc sống.

Màu vàng: Là màu của mệnh thổ, mệnh thổ sẽ hỗ trợ tốt cho mệnh kim, bởi thổ sinh kim, mà màu vàng chính là màu của mệnh thổ.

Màu xám: Tốt cho cung tử tức (con cháu), Quý Nhân hoặc Quan Lộc. Màu xám bạc tươi sáng mang đến vẻ đẹp, sự sạch sẽ, là những điểm nổi bật trong tính cách của người mệnh kim.

Người mệnh kim là biểu hiện của sự tinh tế, rõ nét, sâu sắc trong tính cách nên màu xám là màu thể hiện đầy đủ tính cách của người mệnh kim.

Màu khắc với mệnh Kim nên tránh

Màu đỏ & màu hồng: 2 màu này là hai màu thuộc hành Hỏa, mà Hỏa thì khắc Kim, do vậy bạn không nên chọn Tỳ hưu có màu đỏ, màu hồng nhé!

Người mệnh Mộc nên dùng Tỳ hưu phong thuỷ màu gì – loại nào tốt nhất cho mình?

Để cho người mạng Mộc có thể may mắn, tài lộc, khỏe mạnh, phát đạt thì việc chọn mua Tỳ hưu phong thuỷ hợp mệnh về màu sắc của ngũ hành là điều rất quan trọng.

Để chủ nhân được tương sinh: Mộc được thuỷ dưỡng, vậy nên màu đá tốt nhất người mệnh Mộc nên dùng là màu của nước bao gồm các màu: đen, xanh nước biển, xanh lam, xanh da trời.

Để chủ nhân được tương hợp: Lưỡng Mộc ắt thành Lâm (Có nhiều cây là sẽ thành rừng) Bởi vậy hòa hợp với người có mệnh Mộc phải là màu Mộc gồm: màu gỗ hóa thạch, màu xanh lá cây.

Để chủ nhân chế khắc được Tỳ hưu đá: Thì phải dùng màu sắc của Thổ gồm các màu là: vàng sậm, gỗ hóa thạch, nâu đất. Khi người mệnh Mộc sử dụng đá màu Thổ sẽ được an toàn và không cần lo lắng.

Tóm lại khi chọn Tỳ Hưu phong thuỷ cho người mệnh Mộc nên chọn Kỳ Hưu được làm từ các loại đá quý tự nhiên có màu đen, xanh da trời, xanh lam, xanh nước biển, màu gỗ, xanh lá cây, vàng sậm, nâu đất để đem tới điều tốt lành.

Còn không nên mang Tỳ Hưu phong thuỷ đá quý có màu trắng và màu bạc như của hành Kim. Bởi lẽ dao sẽ chặt được gỗ, Kim sẽ không tốt cho người mênh Mộc đeo.

Nên chọn màu sắc gì của Tỳ hưu cho người mệnh Thủy?

Tỳ hưu trắng

Tỳ hưu trắng được coi là màu sắc tương sinh phù hợp nhất đối với người mệnh Thủy bởi theo luật ngũ hành thì Kim sinh thủy, bởi vậy lời khuyên cho những người mệnh Thủy là nên ưu tiên lựa chọn các sản phẩm tỳ hưu màu trắng. Đối với màu trắng bạn nên lựa chọn các sản phẩm thạch anh trắng, hoặc sò hóa thạch trắng sữa, ngoài ra còn có sản phẩm bạn ít biết đến là tỳ hưu ngọc cẩm thạch Jade trắng.


Tỳ hưu đen

Một màu sắc khác cực kỳ phù hợp với người mệnh Thủy là màu đen. Hiện nay trên trang VPEC.VN về Kỳ hưu có rất nhiều sản phẩm tỳ hưu màu đen cho bạn thỏa sức lựa chọn, thông dụng nhất là tỳ hưu thạch anh đen, tiếp đến là các sản phẩm tỳ hưu Tektite, tỳ hưu tourmaline đen, tỳ hưu Obsidian đen…

Tỳ hưu xanh nước biển

Ngoài ra bạn có thể chọn các màu tương hợp với mệnh thủy là màu xanh nước biển (hay xanh lam) với các sản phẩm được ưa chuộng là Aquamarine hay tỳ hưu Opal. Đá màu xanh nước biển nhẹ nhàng tươi sáng có lẽ sẽ được yêu thích nhiều hơn màu đen và màu trắng đặc biệt là giới trẻ, một ưu thế hơn tỳ hưu màu xanh nước biển là bạn có thể dễ dàng kết hợp với các phụ kiện khác mà vẫn làm nổi bật chiếc vòng và tôn lên vẻ đẹp sang trọng quý phái nhưng lại năng động và tràn đầy sức sống.

Tỳ hưu cho người mệnh Hỏa

Như chúng ta đã biết, đá quý tự nhiên thì loại nào cũng tỏa ra năng lượng rất tốt cho người dùng thường xuyên tiếp xúc với nó. Với người mệnh Hỏa tốt nhất nên dùng loại đá quý tự nhiên có màu sắc thuộc hành Mộc hay là màu xanh lá cây. Vì bản thân gỗ khi bị cháy sẽ tạo thành ngọn Lửa, nghĩa là hoả được mộc sinh ra. Chính vì vậy, loại đá có màu xanh lá cây là loại màu đá lý tưởng số 1 mà những người mang mệnh Hỏa nên sử dụng.

Cũng như 4 mệnh còn lại, người mệnh Hỏa cũng sẽ gặp điều tốt lành nếu dùng loại đá quý có màu phù hợp với mệnh, tức là các màu đặc trưng của hành Hỏa là Đỏ, Hồng và cả Tím.

Còn nếu thích dùng loại đá màu trắng cũng được, vì mệnh của những người này chế khắc được màu viên đá, tức là Hỏa chế ngự được Kim, khi nung kim loại sẽ bị chảy ra thành nước!
Vì vậy để chọn Tỳ hưu theo mệnh, người mệnh Hỏa nên chọn lựa Tỳ hưu được chế tác từ loại đá quý màu xanh lá cây là sẽ tốt nhất, có tính tương sinh. Hoặc Tỳ Hưu đá quý có màu đỏ, hồng, tím để có thể hòa hợp.

Tuyệt nhiên người mệnh hoả không nên đeo Tỳ Hưu chế tác từ đá quý đen hoặc có màu xanh nước biển vì là màu của hành Thủy. Khi dùng sẽ dễ gặp xui vì thủy và hỏa luôn đối đầu, phần thiệt sẽ về hoả vì nước dập được lửa. Từ đó công danh tài lộc sẽ khó phất được lên.

Chọn màu Tỳ hưu phong thủy phù hợp nhất cho người mệnh Thổ

Tỳ hưu màu đỏ

Theo luật ngũ hành, Hỏa sinh Thổ, bởi vậy màu được coi là phù hợp với mệnh Thổ là màu đỏ, đối với màu đỏ có một số loại mẫu tỳ hưu nổi bật được làm từ chất liệu mã não đỏ hay màu dịu nhẹ hơn là tỳ hưu ruby, bạn cũng có thể lựa chọn tỳ hưu thạch anh hồng.

Sản phẩm tỳ hưu mã não đỏ rực luôn mang lại sự mạnh mẽ cho con người, nếu là phụ nữ thì tỳ hưu mã não đỏ sẽ mang lại sự sang trọng quý phái. Tỳ hưu mã não đỏ, ngoài tác dụng chính mang lại may mắn về tài lộc cho con người nó còn có nhiều ảnh hưởng tốt đến sức khỏe như giúp điều trị các bệnh ho lâu ngày, giảm chứng co giật, chống lại sợ hãi, bảo vệ con người khỏi vi khuẩn.

Tỳ hưu màu hồng

Tỳ hưu thạch anh hồng cũng được sử dụng phổ biến bởi màu sắc nhẹ nhàng mang lại cảm giác tươi trẻ cho con người. Nếu là Tỳ hưu đeo cổ thì nó rất dễ dàng phối hợp trang phục và phụ kiện khi sở hữu một trang sức tỳ hưu thạch anh hồng này.

Đặc biệt hơn là Tỳ hưu ruby bởi vẻ đẹp tinh tế về màu sắc, ruby luôn được ghi danh trong danh sách những loại đá đẹp và đắt nhất thế giới, bởi vậy còn gì tuyệt vời hơn khi bạn được sỏ hữu một con vật tỳ hưu ruby vừa đẹp vừa mang nhiều may mắn.

Tỳ hưu màu tím

Tương tự màu đỏ, màu tím cũng là màu tương sinh với mệnh Thổ, với màu tím thì tỳ hưu thạch anh tím được coi là loại đá thông dụng và đẹp nhất hiện nay.

Tỳ hưu màu nâu

Bên cạnh màu đỏ, hồng hay tím, người mệnh Thổ có thể sử dụng các màu của bản mệnh mình như màu vàng nâu hoặc màu vàng nhạt, là những màu gắn liền với màu của đất. Tỳ hưu đá mắt hổ là có màu đặc trưng của mệnh Thổ mang lại cảm giác an toàn, giúp bạn thư thái, dễ chịu mỗi khi tiếp xúc với tỳ hưu đá mắt hổ.

Ngoài ra bạn còn có thể lựa chọn rất nhiều loại tỳ hưu màu nâu khác như tỳ hưu thạch anh tóc nâu, tỳ hưu mã não nâu…

Nguyên liệu làm Tỳ hưu có tác dụng gì trong phong thủy đối với người sử dụng?

Tỳ hưu thạch anh

Tỳ hưu bằng thạch anh ngoài tác dụng như trừ tà khí, thu hút tài lộc, giữ lại của cải trong nhà còn có nhiều tác dụng khác tùy thuộc vào màu sắc và loại thạch anh:

Tỳ hưu thạch anh đen có tác dụng thu hút vận may và tài lộc mạnh với năng lượng lơn, có tác động tốt đến sức khỏe, hệ mạch và cơ xương, giúp phát triển trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo.

Tỳ hưu thạch anh xanh giúp bạn gặp nhiều may mắn trên đường công danh, giúp được quý nhân phù trợ.

Tỳ hưu thạch anh trắng và vàng giúp bạn có thêm may mắn và sức khỏe, giúp cho tinh thần luôn sáng suốt, tránh được stress và việc đưa ra các quyết định sai, tăng sự tập trung và hiệu quả trong làm việc, tăng tính quyết đoán và lòng dũng cảm.

Tỳ hưu thạch anh hồng giúp giữ không khí hòa thuận và ấm áp trong gia đình, giúp máu huyết lưu thông tốt hơn, đặc biệt là ở phụ nữ, nó cũng giúp cải thiện các mối quan hệ đặc biệt là quan hệ vợi chồng, giúp người ta cởi mở hơn trong giao tiếp.

Tỳ hưu thạch anh tím

Ngoài tác dụng thu hút tài lộc và xua đuổi tà ma, tỳ hưu thạch anh tím còn có tác dụng như:

Giúp thành viên gia đình tư duy nhanh và làm việc hiệu quả hơn, giúp giảm căng thẳng, mệt mỏi ở người lớn và tăng tính tập trung và kết quả học tập của trẻ nhỏ.

Có tác dụng giảm mất ngủ và trợ giúp giải độc rượu.

Thu nạp vận khí tốt, giải trừ điềm xấu, giúp công việc thuận lợi, đem lại sự thăng tiến cho chủ nhân.

Để chọn được thạch anh tím tự nhiên bạn cần lưu ý rằng, chất liệu tạc tỳ hưu thạch anh tím thường có vết rạn tự nhiên trong lòng đá chứ rất ít khi sạch hoàn toàn. Đôi khi trong khối thạch anh tím lại có lẫn 1 chút màu vàng của thạch anh vàng. Đặc biệt nếu may mắn tìm được một ông tỳ hưu thạch anh tím có lẫn màu vàng ở bụng thì xin chúc mừng bạn, ông tỳ hưu này đã ăn rất nhiều vàng bạc, là điềm báo bạn sẽ gặp nhiều may mắn về tài lộc!

Tỳ hưu thạch anh đỏ

Về màu sắc: tỳ thạch anh đỏ mang một màu đỏ rực rỡ, với ý nghĩa mang lại cho chúng ta nhiều may mắn trong cuộc sống, màu đỏ mang lại rất nhiều hỷ sự.

Tránh tà khí: tỳ hưu thạch anh đỏ giúp vận mệnh của con người sẽ tốt hơn, được nâng cao hơn, đuổi tà ma quỷ dữ, tà khí và có tác dụng bảo vệ con người khỏi những điềm xấu có thể xảy ra, khiến chúng thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn.

Mang lại nhiều tài lộc: nhất là những ai kinh doanh, nên sở hữu cho riêng mình tỳ hưu bằng thạch anh đỏ, thứ nhất là sẽ rất may mắn, làm ăn thuận buồm xuôi gió; thứ hai là sẽ gặt hái được nhiều tài lộc trong kinh doanh hơn.

Tác dụng hóa giải: các bạn đã biết đến “Ngũ hành đại sát” chưa? Đây chính là một sát tinh trong phong thủy, mang lại rất nhiều những điều bất lợi cho gia đình. Nhưng Ngũ hành đại sát sẽ được hóa giải nếu chúng ta sở hữu tỳ hưu thạch anh đỏ. Vì vật phẩm phong thủy này có thể đuổi tà ma quỷ dữ, mang lại nhiều may mắn cho con người mà.

Tác dụng của tỳ hưu thạch anh tóc

Thạch anh tóc có màu sắc rất phong phú và đa dạng và ứng với mỗi loại lại có những đặc điểm khác nhau nhưng thạch anh tóc nói chung được coi là loại thạch anh có năng lượng mạnh nhất. Có một số loại thạch anh tóc phổ biến là: thạch anh tóc đỏ, thạch anh tóc xanh, thạch tóc vàng và thạch anh tóc đen.

Tỳ hưu thạch anh tóc vàng/nâu: Hợp với người mệnh Thổ hoặc mệnh Kim.

Tỳ hưu thạch anh tóc đỏ: Hợp với người mệnh Hỏa hoặc mệnh Thổ

Tỳ hưu thạch anh tóc đen: Hợp với người mệnh Thủy hoặc mệnh Mộc

Thạch anh tóc rất hiếm so với các loại khác trong nhóm thạch anh. Do vậy giá của Tỳ hưu thạch anh tóc thường khá đắt so với sản phẩm cùng loại bằng thạch anh khác. Một số đặc điểm ảnh hưởng tới giá trị của tỳ hưu thạch anh tóc là:

Tóc càng thẳng, mọc đều càng có giá trị cao. Đặc biệt nếu tóc mọc thành búi như bụi cỏ, hoặc mọc thẳng và ken dày như bã mía là loại có giá trị cao nhất

Nếu soi dưới ánh sáng mạnh, một số loại thạch anh tóc sẽ có ánh kim lấp lánh trên mỗi sợi tóc.

Loại này hiếm và có giá trị cao hơn loại không có ánh

Đặc biệt giá trị là những ông tỳ hưu thạch anh tóc có tóc vàng ánh kim mọc dày đúng phần bụng của tỳ hưu. Khi đó tỳ hưu giống như đã ăn đầy vàng bạc cho chủ nhân, đem lại may mắn to lớn cho người sở hữu chúng.

Ngoài ra, dáng tạc của tỳ hưu cũng ảnh hưởng lớn tới giá trị. Tỳ hưu tạc chuẩn phải có miệng rộng, mông to, dáng dữ dằn, thu mình giữ của cho chủ nhân, và không được khoan lỗ ở hậu môn.

Ngoài ra còn một số loại tỳ hưu thạch anh tóc khác nhưng nó không được phổ biến hoặc thuộc loại đá quý hiếm trên thế giới.

Tỳ hưu thạch anh khói

Trước đây không lâu, thạch anh ám khói được gọi là Rauchtopaz (theo tiếng đức Rauch – “khói”). Cho đến ngày nay tên gọi này vẫn phổ biến trong giới kim hoàn.

Thạch anh khói còn được gọi là pha lê thiên nhiên ám khói hoạc topa ám khói, Công thức Si02. Độ cứng theo thang Mohs. Khối lượng riêng : 2.5 – 2.6g/cm3. Hệ tinh thể ba phương. Ánh thủy tinh. Cùng với pha lê tự nhiên xitrin , và ametit thạch anh ám khói là những biến thể quý nhất của thạch anh.

Đẹp tuyệt vời là những tinh thể thạch anh ám khói mầu nâu lấp lánh ánh vàng kim có lẫn tạp chất turin và chúng tạo ra hiệu ứng tỏa ánh sao về các hướng (thạch anh tóc).

Trong tự nhiên đôi khi gặp những tinh thể thạch anh khổng lồ nặng đến vài tấn .Mầu sắc thạch anh khói thay đổi từ mầu khói nhẹ cho đến mầu nâu sẫm .

Tính chất chữa bệnh:
Người Hindu cổ đại cho rằng, thạch anh khói trục ra khỏi cơ thể con người tiêu cực và cặn bã.
Truyền thuyết Ấn Độ kể về một cái cốc được làm từ nguyên khối tinh thể thạch anh ám khói có thể chữa khỏi bách bệnh.

Thạch anh khói giúp tránh khỏi stress và mất cảm giác đau.
Để nhằm mục đích này, các nhà thạch trị liệu học khuyên nên nắm trong tay tinh thể thạch anh ám khói và chờ cho chúng nóng lên .

Tính chất về phong thủy:
Các nhà chiêm tinh học và phong thủy học cho rằng, thạch anh khói giúp nâng ý nghĩ từ vùng tối tăm của tiềm thức lên tầm của linh cảm và siêu ý thức.

Là viên đá của sự bảo vệ và là hoa tiêu dẫn đường, thạch anh ám khói giúp phân tích tốt mọi việc ; cân bằng năng lượng tinh thần và thể chất. Gắn bó tình cảm gia đình; làm hết buồn phiền, buồn rầu; tập trung tư tưởng tốt; giảm đau nhức; xoá bỏ tính ích kỷ, hẹp hòi.
Có lẽ không phải vô cớ mà các tín đồ phật giáo Ấn Độ gọi thạch anh ám khói là “đá của phật”.

Thạch anh ám khói trung hòa cái cái xấu và giảm tính kích thích.
Đồng thời cũng cho rằng với những người hay mơ mộng thạch anh ám khói giúp họ chạy trốn khỏi hiện thực kích thích trí tưởng tượng của họ.
Thạch anh khói có khả năng bảo vệ chủ nhân của nó tránh điềm gở và sự hư hỏng.
Trong dòng họ thạch anh ám khói, đặc biệt xuất hiện thạch anh vàng hoặc vàng khói.
Thạch anh vàng còn được gọi là viên đá kinh doanh (merchant stone), thường được các chủ nhà hàng, siêu thị, khách sạn để ngay tại quầy thu ngân (cashier) để thu hút vận may tài lộc, buôn may bán đắt.
Thạch anh vàng rất hiếm, đôi khi còn hiếm hơn cả thạch anh tím (đá quý amethyst).

Tỳ hưu đá mắt mèo có tác dụng như thế nào?

Chiêu tài chiêu lộc 

Kỳ hưu được dùng làm linh vật chiêu tài chiêu lộc số 1 trong phong thủy. Nếu đặt Tỳ hưu trên bàn làm việc hay trong cửa hàng sẽ giúp công việc làm ăn luôn phát đạt. Đặc biệt, đặt Tỳ hưu để két sắt, tại sòng bạc, ngân hàng, gia đình có thể bảo vệ của cải, tránh thất thoát tài lộc ra bên ngoài. Bởi vì Kỳ hưu có thể ăn tài lộc và không thể ị được nên có thể bảo vệ chúng.

Bảo vệ

Tỳ hưu phong thủy là linh vật cao cấp nhất trên Thiên Đình nên nó chống lại được hầu như yêu ma quỷ quái trên thế giới. Bởi thế các loại âm khí hay yêu khí thông thường không thể xâm hại tới ngôi nhà. Đặc biệt Kỳ hưu có thể chống lại được Ngũ hoàng đại sát – 5 đại sát tinh ảnh hưởng tới sức khỏe và sự bình an của con người.

Tốt cho sức khỏe

Theo một số tài liệu xưa, Tỳ hưu đá mắt mèo có thể chữa được nhiều bệnh về mắt.
Đá mắt mèo được coi là đá chứa rất nhiều năng lượng giúp bạn tăng sự tự tin, phát triển suy nghĩ tích cực và khơi dậy sự thanh bình trong tâm hồn.
Tỳ hưu đá mắt mèo còn có tác dụng rất tốt khi cầu nguyện hoặc thiền định.

Những mẫu Tỳ hưu phổ biến khác

Bên cạnh đó còn có rất nhiều các loại Kỳ hưu phong thủy được làm từ rất nhiều nguyên liệu khác nhau như: Tỳ hưu vàng – bọc bạc, tỳ hưu đá quý tự nhiên – đá non nước, tỳ hưu đá cẩm thạch – đá mắt hổ – đá ruby – đá hổ phách – đá ngọc bích – đá opal – đá saphia (sapphire) – đá lục yên, tỳ hưu gỗ quý, tỳ hưu ngọc bích, tỳ hưu ngà voi, Kỳ hưu Aquamarine, Tỳ hưu Ancarat, Kỳ hưu ngọc cẩm thạch, tỳ hưu bằng đồng,… Nhưng nhìn chung đều có những tác dụng như sau:

Tác dụng chiêu tài, thu hút tiền bạc, giúp thăng quan tiến chức

Nguồn gốc của tác dụng này ở tỳ hưu chính là bởi kỳ hưu vốn là một loài không có hậu môn, mà thức ăn chủ yếu của nó lại là vàng bạc, châu báu. Với cái bụng to tướng của mình, cùng cái miệng rộng, hàm răng sắc nhọn, kỳ hưu có thể nuốt hàng đống vàng bạc, châu báu vào mà chẳng sợ no, cũng chẳng sợ chúng thất thoát ra đi đâu được. Bởi vậy khi phò chủ, kỳ hưu rất biết cách thu hút tiền bạc về cũng như giữ của cho chủ nhân của nó. Người ta cũng thường chọn những con tỳ hưu miệng rộng, mông to là bởi vậy.

Tác dụng trấn tà, giúp đem lại may mắn, bình an

Tỳ hưu còn được gọi là con Tịch tà. Sở dĩ có tên gọi này là bởi tỳ hưu là một loài rất hung dữ, chuyên tìm bắt và cắn hút tinh khí của các loài yêu tinh. Với hàm răng sắc nhọn, lại là một trong chín người con của rồng nên tỳ hưu chứa trong mình sức mạnh khủng khiếp để có thể đối chọi, tiêu diệt được các loài tà ma, yêu quái, cũng như hóa giải sát khí từ chúng.

Như vậy, sau khi tham khảo bài viết này, các bạn đã có một kiến thức cho mình về cách chọn Tỳ hưu cho bản thân hợp theo cung mệnh, năm sinh hay tuổi sinh của mình. Tức cũng có nghĩa rằng, những người mệnh KIM – MỘC – THỦY – HỎA – THỔ biết mình nên chọn Tỳ hưu phong thủy màu gì hay loại nào là tốt nhất & tương sinh?  Hay nói cách khác chúng tôi đã hướng dẫn cách chọn Tỳ Hưu phong thủy theo mệnh cho các bạn. Điều mà sẽ giúp bạn luôn may mắn về sức khỏe, công danh hay tiền tài. Chúc các bạn luôn may mắn!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn cách chọn màu Tỳ Hưu phong thủy theo mệnh –

Kiêng đốt ảnh và những đồ vật gì khi chuyển nhà

Các cụ ta đã dạy: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành, không phải đồ vật nào cũng mang đốt. Cần lưu ý kiêng đốt ảnh và những đồ vật nào khi chuyển nhà.
Kiêng đốt ảnh và những đồ vật gì khi chuyển nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các cụ ta đã dạy: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành", không phải đồ vật nào cũng mang đốt đi khi chuyển nhà, dọn dẹp nhà cửa. Đừng để xui rủi đeo bám triền miên khi phạm phải những lỗi nghiêm trọng trong phong thủy khi đốt những vật này.
Không ít người có thói quen đốt những đồ không còn dùng nữa khi dọn dẹp nhà cửa hoặc chuyển nhà, như giấy báo, vải vóc, sách vở... Thậm chí, nhiều người còn cho rằng, sau khi chia tay, ly hôn... không nên giữ những kỷ vật của đối phương, nhất là các bức ảnh chụp chung, bèn mang nó đi đốt... Hầu như mọi người không hề biết rằng, không phải vật nào cũng có thể đem đốt như vậy. 

Các cụ ta đã dạy "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành", không phải đồ vật nào cũng có thể đốt đi một cách tùy tiện. Ở nhiều nơi, ngoài việc kiêng đốt ảnh chụp có người, người ta cũng không đốt sách vở, ví tiền, tóc rụng hay quần áo.
  Theo quan niệm phong thủy và cả tâm linh, nếu đốt những đồ dùng dưới đây, bạn có thể gặp vận xui liên tiếp. 

Kieng dot anh va nhung vat gi khi chuyen nha don dep nha cua
 


Lichngaytot.com

  Đừng để thất thoát tiền bạc chỉ vì lười dọn dẹp nhà tắm 5 mẹo phong thủy giúp bán nhà dễ dàng hơn Áp dụng những mẹo phong thủy phòng ngủ để đếm tiền mỏi tay
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng đốt ảnh và những đồ vật gì khi chuyển nhà

Luận về Xương Khúc

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất ...
Luận về Xương Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất cần được Thái Âm Thái Dương tức cách cục Âm Dương Xương Khúc. Cổ nhân có câu phú: “Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. (Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc cao sang) con người thông minh nhiều thiện cảm và may mắn với điều kiện là không bị Hóa Kị chen vào.
> Luận về sao Văn Xương> Luận về sao Văn Khúc
Văn Khúc Hóa Kị tâm ý bi quan. Văn Khúc Hóa Kị quá nhậy cảm mà không thích ứng được với đời (người và hoàn cảnh)
Xương Khúc ở Sửu Mùi gặp Thiên Lương rất tốt, chuyển Thiên Lương thành danh lợi giỏi giang. Xương Khúc Sửu Mùi đi với Vũ Khúc Tham Lang tạo nên khả năng lãnh đạo, chư cổ nhân nói: “Văn Vũ kiêm tư”
Xương Khúc đứng cùng Tử Vi Phá Quân cho sáng tạo lực, thêm quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở. Cự Đồng Xương Khúc hay vướng tình lụy, dễ thất vọng, chí phấn đấu cùn nhụt, hiếu sắc ham chơi, suy tư viển vông.
Xương Khúc Sửu Mùi đi cùng Thiên Cơ nói hay, làm dở, đầu óc thiếu thực tế. Xương Khúc Sửu Mùi hội Liêm Trinh, Thất Sát thì khoa trương hão huyền. Xương Khúc hội hiệp với Thiên Tướng thông minh nhưng thiếu định kiến, vui đâu chầu đấy, dễ dao động trước sự việc. Xương Khúc hợp với Tử Vi Phá Quân khiến cho khí chất thuần hòa. Xương Khúc gặp Thiên Phủ thì ôn hậu, sáng suốt.
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chương Đẩu số phát vi luận viết: “Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm” nghĩa là Xương Khúc hãm gặp Không Kiếp thì chán nản việc đời muốn ở ẩn.
Những câu phú cần tham khảo về Văn Xương, Văn Khúc:
- "Tam hợp Văn Khoa củng chiếuGiả Nghị thiếu niên đăng khoa"(Xương Khúc tam hợp chiếu với Hóa Khoa Giả Nghị ngày xưa đỗ đạt sớm. Danh từ Văn Khoa chỉ vào Xương Khúc và Hóa Khoa)
- Xương Khoa tịnh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần(Xương Khúc ở thế hãm danh phận lao đao, nên vào kinh thương hơn là theo đuổi chức vụ)
- Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu, tướng tướng chi tài(Văn Vũ Khúc đóng miếu địa có tài lãnh đạo nếu có luôn cả Tả Phù Hữu Bật)
- Nữ Mệnh Xương Khúc thông minh phú quí chỉ đa dâm(Mệnh nữ có Xương Khúc thông minh phú quí giàu sang nhưng đa dâm)
- Vũ Khúc Kình Dương Hỏa Linh Kị, nhược bất vi sương tất yểu triết(Văn Xương gặp Hỏa Linh Kình Dương Hóa Kị, luân lạc hoặc khó thọ nhất là đối với nữ mạng)
- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng(Mệnh có Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Hữu thường gặp quí nhân mà nên danh phận. Số nữ lấy chồng quyền thế cao sang, giàu có)
- Văn Hao cư Dậu Mão chúng thủy triều đông(Văn Khúc đứng với Phá Quân ở Mão Dậu lên voi xuống chó. Phá Quân thuộc thủy, Văn Khúc cũng thuộc thủy nên gọi bằng chúng thủy)
- Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức, vị chi ngọc tụ thiên hương(Xương Khúc cùng với cát tinh đóng Phúc Đức là cách ngọc tụ thiên hương nên danh nên giá. Cách ngọc tụ thiên hương chỉ ở trường hợp Mệnh đóng ở Hợi hoặc ở Tỵ mà có Xương Khúc tại Sửu hay Mùi đi cùng với các sao tốt khác không bị hung sát tinh xung phá)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi tạo hình, bất thiện thả hư khoa(Xương Khúc đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi dễ tù tội, bản chất gian giảo, hay nói một tấc tới trời)
- Xương Khúc Phá Quân lâm hổ thỏ Sát Dương xung phá bôn ba(Xương Khúc đứng với Phá Quân ở Dần Mão, bị Kình Hỏa hay Hóa Kị suốt đời bôn ba)
- Xương Khúc nhập Mệnh thanh tú nhã chi lang(Xương Khúc hội hợp hay thủ Mệnh có duyên và phong nhã, đàn bà nhan sắc)
- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng(Văn Xương Văn Khúc thủ mệnh hiếu học và đa năng)
- Xương Khúc Sửu Mùi Giáp nhân dương nữ kiêm phùng Hồng Lộc hiền phụ chi nhân(Mệnh đóng Sửu Mùi có Xương Khúc tọa thủ thêm Hồng Loan, Hóa Lộc đàn bà tuổi Giáp là bậc hiền phụ)
- Xương Khúc phùng Tuế Dương thiện ác tụng sự(Xương Khúc thủ Mệnh hội Kình Dương Thái Tuế giỏi lý luận, có thể là nhà hùng biện hay, luật sư giỏi)
- Văn Xương phùng Quả Tú Trương Đế Sư bộ bộ tầm tiên(Mệnh có Văn Xương Quả Tú, như người họ Trương sống ẩn dật)
- Văn Khúc hí Nguyệt ư Hợi cung quốc sắc thiên hương(Văn Khúc đứng với Thái Âm tại Hợi đàn bà nhan sắc lộng lẫy)
- Văn Khúc đồng Hóa Kị hạn phòng yểu tử chi ưu(hạn thấy Văn Khúc Hóa Kị đề phòng yểu tử)
- Văn Xương cư Ngọ ký viết khốn, đắc thủy diệu chung thành đại khí(Văn Xương đóng Ngọ xấu, nhưng gặp được thủy diệu (sao thuộc thủy) lại nên hay)
- Nữ Mệnh phùng Xương Riêu nhất sinh dâm đãng(Số nữ Văn Xương đứng với Thiên Riêu dâm đãng)
- Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc(Mệnh Xương Khúc Lộc Tồn khả dĩ kể là kỳ cách)
- Xương Khúc Cơ Lộc thanh tú sảo(Mệnh Xương Khúc Thiên Cơ Hóa Lộc tinh xảo nghề nghiệp nhất là những nghề có dính líu đến nghệ thuật)
- Khúc Xương Nhật Nguyệt song Long mê sắc Dương Phi(Mệnh có Nhật Nguyệt Xương Khúc Long Trì Thanh Long thì đẹp mê hồn như Dương Quý Phi).
- Xương Khúc giáp Quan Lộc định tác cao khoa(cung Quan Lộc giáp Xương giáp Khúc thì đỗ cao)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi phùng Hình Bật, thiện thả hư khoa(Xương Khúc gặp Liêm Trinh ở Tỵ Hợi mà được thêm Thiên Hình, Hữu Bật kể là người có tài năng, nhưng không nên công nên việc)
"Khúc Xương nữ mệnh chẳng lànhVườn xuân ong bướm bẻ cành bán rao"(Chỉ bẻ cành bán rao nếu thấy Thiên Riêu đi cùng Hóa Kị)
- Văn Xương triều Nhật ư Ngọ vị phong trần địa bộ thế nan nhân(Thái Dương tại Ngọ thủ Mệnh đứng cùng Văn Xương xung chiếu là con người lịch duyệt phong trần ít ai bì kịp)
- Xương Khúc giáp Nhật nam mệnh quí nhi thả hiển(Nam mạng Thái Dương đắc địa, có Xương Khúc giáp Mệnh thì sang trọng, hiển đạt)
 "Khúc Xương là đấng thanh nhànThật thà đứng đắn là làng Đồng Lương"
"Khúc Xương Thương Sứ hợp bàiPhải phòng tai họa bên ngoài bên trong"(Xương Khúc đóng ở Nô (gặp Thiên Thương) hay ở Tật Ách (gặp Thiên Sứ) hay có họa đến bất ngờ)
"Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp SátChốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao"
"Mấy người hiếu sắc hoang tìnhVì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y"
"Khúc Xương Sửu Mùi hợp thànhNếu không cát diệu hữu danh vô dùng"(Xương Khúc Mùi Sửu mà không gặp những cát tinh khác thì chỉ có tiếng mà không có miếng)
"Thói dâm dật xướng hòa kém phúcẤy Văn Xương, Văn Khúc ai khen"
"Vũ không gặp đất miếu viênKhác chi Xương Khúc gối loan lạnh lùng"
"Phượng Long nhan sắc dịu dàngKhúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa"
"Thê cung Nguyệt, Khúc trung tàngRa tay bẻ quế đông sang thiềm cung"
"Thê cung Xương gặp tam KhôngCon nhà danh giá tổ tông kết nguyền"
- "Khúc Xương Thái Tuế cùng ngồiChưa ngoa miệng lưỡi con người đa ngôn"(cung Mệnh số nữ có Xương Khúc Thái Tuế chua ngoa, nói nhiều nhưng có duyên, ở Thê cung thì bà vợ đa ngôn)
- "Vũ Tham tài phát phương ngoàiKhúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân"(Câu trên nói về Xương Khúc đóng cung Thiên Di)
- "Khúc Xương Long Phượng phát vănVũ Tham Sát Phá thì rằng võ công"(câu này nói về Xương Khúc đóng Quan Lộc)
- "Tử cung mà gặp Khúc XươngTuồng gì con gái những phường chơi hoang"(cung Tử Tức này còn phải thêm Thiên Riêu hay Hóa Kị nữa mới như vậy)
- "Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồiSinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa"
- "Khúc Xương Tả Hữu có dưThiên Đồng bạch thủ cơ đồ lại nên"(câu trên đây nói về Xương Khúc vào cung Tài Bạch)
- "Tấu Thư Xương Khúc rành rànhVào cung Điền Trạch ắt sanh tiền tài"
- "Tấu Thư Xương Khúc tương phùngTôn thân có kẻ thần đồng hiện ra"(câu này nói về Xương Khúc đắc địa đóng cung Phúc Đức)
- "Khôi Khoa Xương Khúc Tấu ThưPhát đà văn học có dư anh tài"(cũng ở cung Phúc Đức)
- Văn Xương dữ Thất Sát Liêm Trinh Dương Đà đồng cư vi trá ngụy(Văn Xương đứng cùng Liêm Sát Dương Đà là con người trá ngụy)
- Văn Khúc Cự Môn đồng cung táng trí(Văn Khúc đứng cùng Cự Môn ở một cung hay nản chí, có thể vì lý luận quá mức mà chùn bước trước hành động)
- Văn Khúc đan cư Mệnh Thân cung, cánh phùng hung diệu vô danh thiệt biện chi đồ(Văn Khúc đóng ở Mệnh Thân gặp sao hung chỉ là anh lẻo mép, chẳng làm được chuyện gì)
- Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo(Văn Khúc đứng với Tham Lang tại Mệnh ưa dùng ngụy biện phá rối kỷ cương)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Xương Khúc

Phong thủy văn phòng vượng tài vượng lộc nhờ treo tranh đúng cách

Phong thủy văn phòng có nguyên tắc, không thể tùy tiện bày tranh nào cũng được, cần tìm hiểu kẻo tưởng phúc lại là họa. Treo tranh đúng cách để luôn vượng tài
Phong thủy văn phòng vượng tài vượng lộc nhờ treo tranh đúng cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người rất thích bày tranh phong thủy trong phòng làm việc với hi vọng mang tới may mắn, thịnh vượng và tốt lành. Điều này không hề sai nhưng phong thủy văn phòng có nguyên tắc, không thể tùy tiện bày tranh nào cũng được, cần tìm hiểu kẻo tưởng phúc lại là họa.


► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Phong thuy van phong vuong tai vuong loc nho treo tranh dung cach hinh anh
 
Phong thủy văn phòng có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp, tài lộc, tiền đồ, sự phát triển. Vì thế, khi treo tranh trong phòng cần chọn loại tranh phù hợp, tốt đẹp, không nên thấy người ta treo gì thì mình cũng treo nấy.   Thông thường, tranh “bát mã” khá được ưa chuộng, bởi có ý nghĩa sự nghiệp hanh thông như tám ngựa tung vó, không đợi giơ roi tự chạy hăng hái, tiền đồ thật là rạng rỡ. Hoài bão rộng lớn, muốn vươn lên thì bày tranh “đại bàng giương cánh”. Lòng mang nguyện vọng vạn sự như ý thì dùng tranh “hoa nở phú quý” hay tranh “đại nghiệp long đằng” với ý nghĩa sự nghiệp phát triển không ngừng đều kí thác hi vọng, lời chúc phúc cho tương lai.   Mặt khác, lại có người rất thích bày tranh sơn thủy ở phòng làm việc. Nhưng tranh sơn thủy là loại tranh khó treo, phải chọn tỉ mỉ, kĩ càng, nghiêm ngặt, không thể tùy tiện. Nên chọn bức có thế núi ở xa, trước núi có khoảng đất trống bằng phẳng, có suối chảy êm đềm. Tuyệt đối không chọn tranh sơn thủy mà nước chảy xiết, càng không chọn bức có thác nước lớn. Tranh sơn thủy nên treo sau lưng, núi cao to tú lệ làm chỗ dựa vững chãi cho chủ nhân. Nếu đem treo ở trước mặt thì như núi chắn ngang, cản bước tiến. 
 
Phong thuy van phong vuong tai vuong loc nho treo tranh dung cach hinh anh
 
Gợi ý, để cải thiện phong thủy văn phòng, phía Đông treo tranh “mẫu đơn phú quý” để tăng cường tỷ lệ thăng chức. Ngồi nơi hướng Tây dựa Đông thì sau lưng treo tranh sơn thủy hữu tình, hoành phi sơn thủy. Chú ý, núi nhiều thủy ít, non xanh nước biếc, ngụ ý dựa lưng núi lớn, dễ làm quan. Bát tự Thổ vượng tàng Kim cũng có thể vượng tài bằng cách này.   Phía Tây văn phòng treo tranh sơn thủy có thể tôn lên sự nhã nhặn, nội hàm của chủ nhân mà còn có thể nâng cao sức hiệu suất công việc. Tranh sơn thuỷ tốt có thể làm cho công tác thuận lợi, tài vận hanh thông. Chú ý, nên chọn tranh nước nhiều núi ít, hoặc tranh chỉ có sông suối mà không có núi non.
Phong thủy phòng khách vượng tài nhờ treo tranh cửu ngư đúng cách 4 bức tranh phong thủy vượng vận nên treo ngay trong nhà Hướng dẫn chọn tranh phong thủy hợp mệnh Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy văn phòng vượng tài vượng lộc nhờ treo tranh đúng cách

Mơ thấy chăn len: Cuộc sống an nhàn hay chuyện vợ chồng không thuận lợi –

Đắp chăn len cho ta một cảm giác sảng khoái dễ chịu, tượng trưng sự an nhàn của cuộc sống. Mơ thấy thân đắp chăn len, cả đời sẽ vui sống nhàn hạ. Mơ thấy mua chăn len, dự báo sắp sửa thành thân, cưới được vợ hiền ngoan. Nam giới mơ thấy chăn len cũ,
Mơ thấy chăn len: Cuộc sống an nhàn hay chuyện vợ chồng không thuận lợi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chăn len: Cuộc sống an nhàn hay chuyện vợ chồng không thuận lợi –

Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Hợi

Tử vi tháng 6 âm lịch, quan hệ tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi sẽ giúp đỡ người tuổi Hợi vượt qua khó khăn do Ất Mộc bày ra.
Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Hợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng 6 âm lịch, quan hệ tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi sẽ giúp đỡ người tuổi Hợivượt qua khó khăn do Ất Mộc bày ra. 

Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc
 
Tử vi tháng 6 âm lịch, vận trình người tuổi Hợi trong tháng Ất Mùi, Ất Mộc lâm “Tử” vị tại Hợi, nữ mệnh bất lợi, bản mệnh dễ gặp thất bại. Tuy nhiên quan hệ tam hợp Mộc cục Hợi Mão Mùi sẽ giúp đỡ bạn vượt qua khó khăn do Ất Mộc bày ra. Vận tài lộc có nguy cơ và thách thức song hành, có giúp túi tiền mình to ra hay không đều nằm trong đôi bàn tay bạn. Chuyện tình cảm hơi xa rời thực tế, nữ tuổi Hợi khó mà đón nhận nhân duyên mới trong tháng. Đặc biệt khi Ngũ Quỷ xuất hiện, người này cần đề cao cảnh giác. Điềm phá tài, xô xát gia đình hay bệnh tật hao tiền tốn của luôn có thể xảy ra.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 2
 
Ất Mộc lâm “Tử” vị tại Hợi, Tử vị là một trong 12 cung trường sinh vị theo Thất Tú Phái. Phương pháp này dựa theo địa chi của ngày tháng năm và giờ để luận ra vận trình cũng như tính cách con người. Trường sinh vị là để chỉ cách con người nắm bắt vận mệnh, cách sáng tạo, cách xây dựng và phát triển cuộc sống của họ.   Vì vậy khi người có mệnh tọa trường sinh thì nên nắm bắt huyền cơ của nó, thực hiện công tác nghiên cứu, thực hiện một cách thỏa đáng nhất giúp vận trình từng bước hanh thông. Tử vị là một từ không được tốt về mặt ngữ nghĩa, nhưng nếu ứng vào con người thì bản mệnh đã bước vào giai đoạn già dặn, không có sóng gió gì bạn không từng trải qua. Gặp khó khăn, người tuổi Hợi lại càng rõ ràng mục đích mình đang theo đuổi, chỉ cần kiên trì lãnh đạo sẽ hiểu ra con người bạn. Nếu có ý tưởng nên mạnh dạn đề bạt với lãnh đạo, quan hệ bán hợp Mộc cục sẽ giúp bạn hết mình.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 3
 
Vận trình tài lộc của người tuổi Hợi lại khác hoàn toàn với sự nghiệp, Hợi Mão Mùi bán hợp cục, Hợi tọa “vượng” vận tại mộc cục vận trình tài lộc có nhiều hướng tiến triển mới. Thách thức có, thuận lợi cũng nhiều, chủ yếu do bản lãnh người tuổi Hợi có thể nắm bắt được hay không mà thôi!    Bản mệnh cũng đừng để vận trình “Tử” vị ảnh hưởng tới sự minh mẫn của bạn.  Tử trong mệnh lý có nghĩa con người không linh hoạt, có chút lú lẫn, tránh để sai lầm trong số liệu khiến bản thân phải tự móc hầu bao đền bù.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 4
 
Chuyện tình cảm của bạn lại gặp nhiều bất lợi từ Ất Mộc “Tử” vị trường sinh vị. Người tuổi Hợi trở nên lãnh đạm với cuộc sống vợ chồng, gặp chút rắc rối về công việc cũng khiến bạn nghĩ không thông mà còn trút giận lên người còn lại. Tâm địa hẹp hòi, người kia phạm chút sai lầm cũng làm bạn tức giận.    Quan hệ tam hợp Mộc khiến bản mệnh Hợi có nhiều suy nghĩ hoang đường, xa rời thực tế. Xem và đọc quá nhiều chuyện ngôn tình không phải là cách giải thoát hiện tại bế tắc. Tuy vậy, nửa kia có thể nhân lúc người này yếu lòng mà xin lỗi theo cách lãng mạn nhất. Một tấm thiệp, một tin nhắn bất ngờ, một cuộc gọi hỏi thăm… sẽ là cách xoá nhòa  mâu thuẫn nhanh nhất.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 5
 
Tháng Ất Mùi, Mộc khí vượng, do gan Hỏa quá vượng tổn thương âm phần xuất hiện các hiện tượng ho khan, đau nửa đầu, hay phiền não, mắt đỏ… Nếu mắt bạn thường xuyên bị hoa, nhìn không rõ đồ vật tức tính năng của gan tạng đang đi xuống. Mắt hành Mộc, mọi căn khí ngũ hành của gan đều ảnh hưởng tới mắt. Mắt giật, mắt lồi, mắt nở lớn là dấu hiệu Mộc của gan vượng (Trương Phi, tướng nhà Thục trong Tam quốc chí, là người rất nóng tính, biểu hiện Mộc của Can vượng, mắt của ông lúc ngủ cũng mở lớn như người đang thức).   Nhìn chung, tháng Ất Mùi sẽ cát lợi nếu bạn biết cách lợi dụng vận thế sẵn có. Tránh đâm đầu vào “Tử” vị, lười suy nghĩ, lười vận động. Ngược lại, cần tích cực tham gia hoạt động tập thể, tìm cách sáng tạo, tránh lối mòn công việc, đây mới là cách mở rộng tiền đồ của bạn.   Chuyện tiền tài nên tận dụng mọi cơ hội tới với mình, tam hợp cục “vượng” tại Hợi  nên khả năng kiếm tiền của bạn sẽ mạnh hơn các tháng khác. Vượng tức sinh tài, cơ hội làm ăn dồi dào, khả năng tích luỹ cũng lớn.   Chuyện tình cảm lại trở nên hoang đường hơn, người độc thân quá mơ mộng vào một đối tượng hoàn mĩ còn chưa xuất hiện. Người có gia đình đòi hỏi quá nhiều từ người kia gây không khí nặng nề trong nhà. Mặt sức khỏe, bản mệnh Hợi cần cân bằng ngũ hành trong cơ thể, tam hợp cục vượng Mộc khiến bản mệnh Thủy tiêu hao, sức đề kháng kém đi. Người này nên bổ sung hành Kim, tiếp thêm sinh lực cho bản mệnh giúp bản mệnh mạnh khỏe, cường tráng. 
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Hoi hinh anh goc 6
 
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Hợi

Xem tướng mũi biết tính cách và vận mệnh –

Tướng mũi không chỉ thể hiện vẻ đẹp mà còn phần nào nói lên tính cách, trí tuệ và vận số của chủ nhân. Mũi được gọi là khứu giác, dùng để ngửi, phân biệt mùi vị, là 1 trong 5 giác quan của con người. Mũi còn thuộc cơ quan hô hấp. Người mũi to, lượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng mũi không chỉ thể hiện vẻ đẹp mà còn phần nào nói lên tính cách, trí tuệ và vận số của chủ nhân.

Mũi được gọi là khứu giác, dùng để ngửi, phân biệt mùi vị, là 1 trong 5 giác quan của con người. Mũi còn thuộc cơ quan hô hấp. Người mũi to, lượng khí vào phổi sẽ lớn. Người mũi thô, cơ quan tiêu hóa khỏe mạnh. Ở nam giới, mũi biểu thị cho cơ quan sinh dục, cánh mũi đại diện cho tinh hoàn, cánh mũi mở rộng thì thể lực tốt. Ở nữ giới, cánh mũi biểu thị cho bầu ngực. Tướng mũi không chỉ thể hiện vẻ đẹp mà còn phần nào nói lên tính cách, trí tuệ và vận số của chủ nhân.

image_25377_t126756

Người mà 2 cánh mũi đều tròn thường có bầu ngực đầy đặn, chức năng sinh sản tốt, sức khỏe tốt. Người mũi đẹp là người có chủ kiến, ý chí mạnh. Cánh mũi đại diện cho khả năng tài chính của người đó, cánh mũi càng nở thì tiền của, vận thế càng suôn sẻ.
– Mũi có độ cao vừa phải, dày thịt, cánh mũi tròn nở ra 2 bên, màu da đẹp, không có sẹo và nốt ruồi thì tốt.

– Người mũi to là người có vận thế tốt. Không ít người trong số họ có tài lãnh đạo.

– Người mũi nhỏ thường có tính ngang bướng. Họ là người thông minh nhưng không mạnh bạo, đôi khi thiếu tự tin và hay lo lắng. Họ trọng danh dự, địa vị hơn tiền tài.

– Cánh mũi nở là người thân thiện, vui vẻ. Họ có vận thế tốt.

– Cánh mũi mỏng là người thiếu tinh thần lạc quan, thường rơi vào trạng thái tâm lí cô đơn, buồn bã. Họ cũng là người có vận thế không tốt.

– Người mũi cao tuy khó gần và có phần khá lạnh lùng nhưng là người sống có lý tưởng, giàu lòng tự trọng.

Mũi tham lam

– 2 cánh mũi đầy, cân xứng, lỗ mũi nhỏ.

Mũi thông minh

– Sơn Căn (phần giữa 2 mắt) cao, sống mũi thẳng và không lệch.
– Từ Sơn Căn đến Ấn Đường (phần giữa 2 đầu lông mày) có vết hình chữ bát (八) hoặc 3 vết hình chữ xuyên (川).
– Sống mũi cao thẳng, chóp mũi tươi trắng.
– 2 cánh mũi chắc chắn, cân xứng.

Mũi cao thẳng, chóp mũi tươi tắn là người thông minh

Mũi lương thiện, chính trực

– Mũi dài, lỗ mũi rộng và chắc chắn.
– Sống mũi và cánh mũi cứng rắn.

Mũi gian trá, hiểm ác

– Mũi nhỏ, ngắn, không chắc chắn.
– Thân mũi lệch và không thẳng, lỗ mũi hướng lên trên.
– Thân và sống mũi nhỏ, lộ xương mũi.
– Mũi cong lên như móc câu hoặc quặp xuống như mỏ chim, chóp mũi nhọn.

Mũi phú quý

– Mũi to, đầy, cánh mũi rõ và dày.
– Mũi cao, Sơn Căn nở gần Ấn Đường, lỗ mũi rộng, chóp mũi tròn đầy.

Mũi bần tiện

– Mũi có nhiều lằn ngang dọc, thân mũi gầy, chóp mũi nhọn.
– Mũi quá lớn và lộ.
– Mũi quá nhỏ và cánh mũi quá dày.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mũi biết tính cách và vận mệnh –

Xem bói tử vi 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Tý

Tử vi tài lộc, sự nghiệp, tình cảm, sức khỏe, vận hạn... của người tuổi Tý 6 tháng đầu năm 2015 ra sao? Hãy cùng Lịch ngày Tốt khám phá nhé!
Xem bói tử vi 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi tài lộc, sự nghiệp, tình cảm, sức khỏe, vận hạn... của người tuổi Tý 6 tháng đầu năm 2015 ra sao? Hãy cùng Lịch ngày Tốt khám phá nhé! 


Tháng Giêng - Giáp Dần


Thiên can: Giáp Mộc

Địa chi: Dần Mộc

Đặc trưng: Âm dương quân bình

Vận Thái tuế: Thiên can tương sinh, địa chi tương hình

Tháng này, vận thế của người tuổi Tý tương đối tốt, chi Tỵ và chi Dần tương sinh, lại thêm Thái tuế hỗ trợ, sự nghiệp và tài vận tốt, đời sống tình cảm tốt, gia đình êm ấm, sức khỏe tốt. Tuy nhiên, cần đề phòng tiểu nhân làm hại; cẩn thận khi xe cộ, tránh chuyện thị phi.

Phương vị tốt trong tháng: Chính Nam, Đông Bắc

Màu sắc may mắn: Hồng, vàng

 

nguoi tuoi Ty (6)
 

Tháng Hai - Ất Mão


Thiên can: Ất  Mộc

Địa chi : Mão Mộc

Đặc trưng: Âm khí vượng

Vận Thái tuế: Thiên can tương sinh, địa chi tương sinh

Theo luận giải tử vi năm của 12 con giáp, người tuổi Tý bước vào tháng 2, tài hỷ song toàn, kinh doanh thuận lợi, sự nghiệp phát triển. Tháng Mộc vận đào hoa vượng, người đã kết hôn cần chú ý xử lý mối quan hệ với người khác giới, tránh rắc rối về tình cảm; người chưa kết hôn có cơ hội tìm được ý trung nhân. Công việc có thể được quý nhân là người khác giới giúp đõ, nhờ đó sự nghiệp có thêm bước phát triển tốt.

Phương vị tốt trong tháng: Chính Đông, phương Nam

Màu sắc may mắn: Lục, hồng.

Tháng Ba - Bính Thìn


Thiên can: Bính Hỏa

Địa chi: Thìn Thổ

Đặc trưng: Âm dương quân bình

Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi tương sinh

Tháng này vận thế của người tuổi Tý thuận lợi. Tuy nhiên do tháng này sức khỏe có phần không tốt. Tình cảm tốt, người đơn thân có cơ hội tìm được đối tượng như ý, hỷ sự dễ thành. Đường quan vận cũng thuận lợi, dễ có cơ hội được đề bạt, được thưởng.

Phương vị tốt trong tháng: Đông Nam, Tây Nam

Màu sắc may mắn: Lục, vàng.

Tháng Tư – Đinh Tỵ


Thiên can: Đinh Hỏa

Địa chi: Tị Hỏa

Đặc trưng: Âm khí vượng

Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi ngang vai

Tháng này tử vi của người tuổi Tý bất ổn. Sự nghiệp tuy có phần tốt nhưng do Thủy Hỏa tương khắc, trung niên và người già cần chú ý đặc biệt đến sức khỏe; đề phòng họa phá tài; cẩn trọng trong hợp tác làm ăn về mặt pháp lý. Với người đã có gia đình, đời sống tình cảm không thuận lợi do đào hoa xấu; người đơn thân có nhiều cơ hội tốt để phát triển tình cảm.

Phương vị may mắn: Nam, Đông Bắc

Màu sắc  may mắn: Hồng, vàng

Tháng Năm – Mậu Ngọ


Thiên can: Mậu Thổ

Địa chi: Ngọ Hỏa

Đặc trưng: Âm dương quân bình

Vận Thái tuế: Thiên can tương họp, địa chi kiếp phá

Tháng này quan vận hanh thông, sự nghiệp, địa vị đều có cơ hội thăng tiến. Tuy nhiên trong hợp tác làm ăn thận trọng tránh bị lừa gạt, không nên cho vay mượn. Đời sống tình cảm không thuận lợi, dễ nảy sinh tranh luận, cãi vã; cần chú ý tránh tình tài để mất mát.

Phương vị may mắn: Chính Nam, Đông Bắc

Màu may mắn: Hồng, vàng

Tháng Sáu – Kỷ Mùi


Thiên can: Kỷ Thổ

Địa chi: Mùi Thổ

Đặc trưng: Âm khí vượng

Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi tương sinh

Tháng này do thiên can tương khắc, sự nghiệp không thuận lợi, bạn dễ mắc phải sai lầm làm phật ý lãnh đạo; khó được người khác ghi nhận; tinh thần căng thẳng, phiền não. Đời sống tình cảm tốt, người đơn thân dễ có cơ hội tìm được bạn đời, cần tích cực chủ động hơn. Tài vận tốt.

Phương vị may mắn: Tây Nam, Chính Đông

Màu sắc may mắn: Vàng, lục

Bạn có thể xem thêm các bài viết cùng chủ đề:

Tính cách, vận mệnh người tuổi Tý mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào? Xem giờ sinh phú quý cho người tuổi Tý

(Theo Jixiangwu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Tý
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd