Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng, tu vi Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng

Nếu có nốt ruồi ở sau lưng, hãy vui vì điều đó bởi lẽ chúng thể hiện sự tài vận thành đạt, phú quý và trường thọ.

Chính giữa cột sống: Sự nghiệp tươi sáng 

Vận mệnh của những ai có nốt ruồi ở chính giữa cột sống sẽ tươi sáng ngay từ nhỏ. Dù là nam hay nữ, đặc biệt nếu là con trai, bạn càng được bố mẹ, gia đình bao bọc, chiều chuộng. Mọi người sẽ dồn mọi điều tốt đẹp cho bạn, thậm chí để bạn thừa kế cả gia tài. Khi trưởng thành, dù có khởi đầu không mấy suôn sẻ, nhưng bạn sẽ sớm gặp nhiều quý nhân phù trợ trong sự nghiệp. Cùng với tài ăn nói khéo léo, sống tình cảm, bạn càng được nhiều người quý mến và giúp đỡ.

Cuối xương cụt: Học vấn rộng 

Nốt ruồi ở xương cụt chứng tỏ học vấn của bạn khiến nhiều người đáng ngưỡng mộ. Ngay từ nhỏ, bạn đã có đam mê học hành. Bạn được thửa hưởng tinh thần đó chủ yếu từ bố, bồi dưỡng lòng hiếu học để đi theo con đường học vấn. Sau này, nhờ học rộng, biết nhiều, bạn sẽ có số xuất ngoại, thực hiện mơ ước nghiên cứu. Người yêu cũng là một trong nhiều người hâm mộ tài năng học thức của bạn, từ đó nảy sinh tình cảm lứa đôi.

Sống lưng, đối diện là rốn: Sức khỏe trường thọ 

Dù bạn là boy hay girl, sở hữu nốt ruồi này thì sẽ có sức khỏe dồi dào và sống trường thọ. Bạn có lối sống tích cực, để ý tới sức khỏe một cách chủ động. Đôi lúc, bạn bè gán cho mác “ông già, bà già” vì kiểu chăm chút thái quá. Ngoài ra, bạn thể hiện tâm hồn lương thiện, phóng khoáng, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi gặp trở ngại.

Cuối xương bả vai: Vận may tràn trề 

Nốt ruồi ở vị trí dưới cùng xương bả vai, càng gần xương sống thì chủ nhân của nó càng gặp nhiều vận may. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tưởng chừng như đứng trước bờ vực thẳm, bạn vẫn được thần may mắn gõ cửa và đưa ra lối thoát. Hơn nữa, bạn còn biết cách nắm bắt cơ hội, nên sẽ phát cả về tài chính, lẫn danh vọng. Bù lại, con đường tình duyên sẽ phải trải qua nhiều thử thách mới đến được điểm đích hạnh phúc cuối cùng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đọc nốt ruồi may mắn trên lưng - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Người bệnh hồi phục vì mơ thấy kịch câm

Ẩn sau những vở kịch câm là những triết lý sâu xa, giấc mơ thấy mình xem kịch câm cũng mang rất nghiều ý nghĩa cần giải mã.
Người bệnh hồi phục vì mơ thấy kịch câm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguoi benh hoi phuc vi mo thay kich cam hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy mình xem kịch câm dự báo bản thân sẽ bị tổn thương, thậm chí là vô cùng bất an.


Nữ giới mơ xem kịch câm ám chỉ sắp tới sẽ phải lo lắng nhiều về bệnh tình của con trẻ.


Phụ nữ đã kết hôn mơ xem kịch câm là điềm lành, có ý nghĩa rằng sức khỏe của con trẻ rất tốt, bản thân thì có sự thỏa mãn. 

Người chưa kết hôn mơ xem kịch câm ngụ ý cha mẹ sẽ ngăn chặn tình yêu của mình.


Nam giới mơ thấy xem kịch câm cảnh báo sẽ phải lo lắng vì việc gia đình.

Mất kiểm soát khi nằm mơ thấy mình đang rơi
Nằm mơ thấy mình bị rơi xuống ám chỉ sự thiếu an toàn, không ổn định và những nỗi lo âu. Bạn đang cảm thấy bị áp đặt và bị mất quyền tự kiểm soát.

Nam giới chưa kết hôn mơ xem kịch câm là điềm báo người có quyền lực sẽ giúp bạn sắp xếp công việc mà không cần đền đáp.


Nam giới đã kết hôn mơ xem kịch câm thì có khả năng sắp xếp gia đình ngăn nắp, gọn gàng.


Người làm việc mơ thưởng thức kịch câm là điềm xấu, chuyện làm ăn tiêu điều, có nhiều tổn thất.


Người bệnh mơ xem kịch câm là cát mộng, ngụ ý vì điều kiện điều trị tốt, ý tá bác sỹ tận tâm mà sức khỏe sẽ sớm được hồi phục.


► Lịch ngày tốt giúp các độc giả giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Tổng hợp 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người bệnh hồi phục vì mơ thấy kịch câm

Bố cục căn nhà tọa Thìn hướng Tuất –

Bố cục của căn nhà toạ Thìn hướng Tuất: Đây là bố cục thượng sơn hạ thuỷ, suy thoái cả đinh và tài. Chỉ khi đằng sau nhìn thấy thuỷ (sông, hồ, biển, đầm,...) thì mới chuyển tài vận được. Tài vận: Phải đặt chậu rửa trong nhà bếp hướng Đông Nam. Hướ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục của căn nhà toạ Thìn hướng Tuất: Đây là bố cục thượng sơn hạ thuỷ, suy thoái cả đinh và tài. Chỉ khi đằng sau nhìn thấy thuỷ (sông, hồ, biển, đầm,…) thì mới chuyển tài vận được.

p40

Tài vận: Phải đặt chậu rửa trong nhà bếp hướng Đông Nam. Hướng Đông Nam là vị trí vượng khí tài thần, lại gặp cát tinh Lục Bạch. Vị trí này đặt thuỷ thì có thể thúc vượng tài thần. Phía Đông Nam của phòng khách cũng nên đặt vật phong thuỷ như đồng tiền ngũ đế, quả cầu thuỷ tinh để tăng tài vận.

Sức khoẻ nhân đinh: Đặt lò vi sóng, nồi cơm điện ở hướng Tây Bắc phòng khách có thể tăng vận gia nhân, sức khoẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục căn nhà tọa Thìn hướng Tuất –

Xem ngày tốt xấu tháng Ba theo Đổng công tuyển trạch nhật

Việc xem ngày tốt xấu để tiến hành công việc là cực kỳ quan trọng. Để công việc diễn ra theo như ý muốn thì cần chọn ngày phù hợp để làm nếu không sẽ bị đại
Xem ngày tốt xấu tháng Ba theo Đổng công tuyển trạch nhật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Việc xem ngày tốt xấu để tiến hành công việc là cực kỳ quan trọng. Để công việc diễn ra theo như ý muốn thì cần chọn ngày phù hợp để làm nến không sẽ bị đại bại, gặp nhiều chuyện xấu.

Xem ngay tot xau thang Ba theo Dong cong tuyen trach nhat hinh anh
12 con giáp

Nguyệt kiến Thìn: Thanh minh - Cốc vũ. (Từ ngày 4-5 tháng 4 DL)  Sau Thanh minh là Tam sát tại phương Nam, trên Tị, Ngọ, Mùi, kị tu tạo động thổ. 
 
Trực Kiến  – ngày Thìn:
Có Địa võng, Câu giảo, không lợi về tu tạo, an táng, hôn nhân, khai trương, phạm ngày này chủ bị bỏng nước sôi, bỏng lửa, kinh thương(bị thương tổn làm cho sợ hãi),  dù cho có  sinh con trai gái  thì đều xấu ví, không có tài cán gì.
 
Ngày Giáp Thìn, Mậu Thìn là Sát nhập trung cung, càng xấu, trong ba năm nhà hư, người mất.
 
Trực Trừ – ngày Tị:
Đinh Tị nên tu tạo, nhập trạch, di cư, động thổ, làm đồ dùng, hôn nhân, thì rất tốt.
 
Kỷ Tị tạo tác, nhập trạch, cũng tốt. Nhưng nếu mai táng thì phạm trùng tang ,bất lợi.
 
Ất Tị là ngày Thập ác. Hung, không nên làm việc gì.
 
Tân Tị tuy có Hỏa tinh, nhưng có sao Xướng quỷ (quỷ cuồng vọng), bại vong, lại là ngày Thập ác, không nên làm việc gì.
 
Quý Tị là Thiên thượng Không vong, lại phạm Thổ quỷ cũng không nên làm việc gì.
 
Đây đều là những việc tất ứng
 
Trực Mãn - ngày Ngọ: 
Thiên phú. Giáp Ngọ bị Thổ quỷ.
 
Bính Ngọ bình thường, không có việc gì tốt lắm.
 
Mậu Ngọ có Xương quỷ, Bại vong, nếu phạm ngày này sẽ bị trùng tang, tức là không nên an táng .
 
Canh Ngọ là ngày thập ác, không nên làm việc gì.
 
Nhâm Ngọ là Thiên đức, Nguyệt đức, tốt cho một số việc (thứ cát).   Trực Bình – ngày Mùi:
Cũng giống như tháng giêng, tháng năm, không nên làm việc gì, dù là mưu trù nho nhỏ (tiểu tiểu doanh)  cũng không có lợi.
 
Nếu như Ất Mùi càng thêm xấu, vì số gặp Thiên cang, lại phạm Câu giảo, Chu tước.   Trực  Định – ngày Thân:
Giáp Thân, Bính Thân nên phát cỏ, chặt cây, làm đất, định tảng, buộc giàn, dựng cột ,gác đòn dông, an táng, trong 2-3 năm có thêm con cháu, tiến tài lộc.
 
Nhâm Thân có Thiên đức, Nguyệt đức, Hoàng la, Tử đàn, Thiên tinh, Địa tinh, Kim ngân, Khố lâu cát tinh cùng chiếu, là ngày Thập toàn rất tốt, rất lợi.
 
Mậu Thân bị  Thiên cang, Không vong, Xương quỷ, Bại vong, xấu.
Canh Thân là Chánh tứ phế cũng hung .

Ngày Thân lại thuộc Vãng vong: không nên xuất hành, xuất quân, phó nhậm (nhận việc đi trước).

Trực  Chấp - ngày Dậu:
Ất Dậu nên làm các việc tu tạo, nhập trạch, hôn nhân, khai trương, xuất hành.
 
Quý Dậu an táng thì rất tốt. Đinh Dậu an táng thì tốt vừa. 
 
Kỷ Dậu có Cửu thổ quỷ. Tân Dậu có Chính tứ phế: không nên làm việc gì.
 
Trực Phá - ngày Tuất:
Gặp Nguyệt kiến xung phá : không có việc gì tốt.
 
Bính Tuất, Nhâm Tuất là Sát nhập trung cung, càng xấu.
 
Trực Nguy - ngày Hợi:
Thiên thành, có hung bạo.  Kỷ Hợi bị Hỏa tinh, có Văn Xương tinh chiếu :tốt cho việc nhập học, các việc khác cũng khá tốt.
 
Ất Hợi cũng tốt cho một số việc. Tân Hợi làkim của phụ nhân (đàn bà), là kỳ Âm phủ quyết khiển, âm khí toàn thịnh, không hợp với dương gian.
 
Đinh Hợi lại gặp Hắc sát. Quý Hợi là ngày cuối cùng của lục giáp, ngũ hành không có khí, chủ về tuyệt nhân, lại là ngàyThọ tử, mọi việc không nên làm.
 
Trực Thành – ngày Tý:
Hoàng sa thì kị xuất hành . Thiên hỉ.
 
Nhâm Tý tuy có Thiên đức, Nguyệt đức, nhưng nhất bạch, chủ sự Mộc đả bảo bình chung (gỗ đánh vào bình quí cuối cùng), là nơi phương Bắc mộc dục, ngũ hành không có khí, phúc lực giảm cạn, nếu chỉ mưu việc nho nhỏ thì có thể. Còn nếu như khai trương, xuất hành, nhập trạch, sửa sang,  hôn nhân v.v. thì không nên tiến hành, sẽ gặp hung họa ,tai ương. Ngày này còn gọi là ngày Ngõa giải băng tiêu).
 
Trực Thu - ngày Sửu:
 
Tiểu hồng sa, Thiên tặc. Đinh Sửu, Quý Sửu là sát nhập trung cung, không tốt cho việc tu tạo, hôn nhân, nhập trạch, phạm ngày này thì chủ thoái tài, tật bệnh, tranh tụng, thị phi, rất xấu.
 
Các ngày Sửu khác cũng không tốt, đề phòng tiểu nhân hãm hại. Nhâm Dần có Thiên đức, Nguyệt đức, chỉ nên mai táng và ghép ván làm sinh cơ, dùng cái đó thêm con cháu, tiến điền địa, thăng quan chức, tốt trên hết. 
 
Ngoài đó ra, Dần là tốt vừa, nhưng có lục bất thành, lục bất hợp ở đó, ngưng dùng cái đó, cuối cùng là bất lợi, nên cẩn thận cái đó. 
 
Trực Khai - ngày Dần:
Thiên tặc. Mậu Dần là Thiên xá, tốt cho nhiều việc.
 
Nhâm Dần có Thiên đức, Nguyệt đức, chỉ nên làm các việc mai táng, ghép ván đóng hòm và xây huyệt mả để sẵn, nếu làm những việc trên vào ngày này thì lợi cho con cháu, tiến điền địa, thăng quan tiến chức, thượng cát.
 
Các ngày Dần khác là thứ cát, nhưng có điềulà bị Lục bất thành, Bất hợp, những ngày này hoàn toàn bất lợi, phải  nên cẩn thận.   Trực Bế - ngày Mão:
Không tốt cho các việc tạo tác, hôn nhân, mai táng, nhập trạch... phạm ngày này sẽ bị tổn thương, bệnh tật, lãnh thoái, xấu cho trăm việc, không nên làm việc gì.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày tốt xấu tháng Ba theo Đổng công tuyển trạch nhật

Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên được tổ chức vào ngày 24 tháng 9 âm lịch tại Buôn Đôn hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốk (Đắk Lắk).

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Thời gian: tổ chức vào ngày 24 tháng 9 âm lịch.

Địa điểm: Buôn Đôn hoặc cánh rừng thưa ven sông Sêrêpốk (Đắk Lắk).

Nội dung: Lễ hội đua voi được tổ chức tại một khu đất trống, khá bằng phẳng, ít cây của vườn Quốc gia Yok Đôn hoặc một cánh rừng thưa ven sông Sê-rê-pốk. Voi dàn hàng ngang khoảng 10 con hoặc nhiều hơn. Trong sự reo hò, cổ vũ của khán giả, đàn voi đua như hăng hái hơn. Chúng đưa vòi lên cao rồi hạ xuống chào mọi người.  Sau một hồi tù và vang lên báo lệnh xuất phát, đàn voi bật dậy chạy thẳng về phía trước. Đường đua thường khoảng 400-500 mét, đua đường dài khoảng 1-2km. Hai anh nài voi, tiếng địa phương gọi là mơ-gát, ngồi trước và sau điều khiển voi chạy đúng đường và giữ sức bền, tăng tốc...  Khán giả phần đông là người bản địa ăn mặc thổ cẩm sặc sỡ hoa văn đứng hai bên đường hò hét tạo nên một không khí náo nhiệt. Theo người dân địa phương, trước khi vào cuộc đua, voi được đưa đến những đồng cỏ xanh tốt và tẩm bổ thêm bằng các loại củ. Trong thời gian này, voi không làm nặng để dưỡng sức. Vì vậy, khi vào đấu trường, con voi nào cũng rất khỏe mạnh, sung sức.  Người M’nông và một số dân tộc ở Tây Nguyên rất quý voi như người Khmer ở Nam bộ quý con bò. Theo truyền thống, con voi thể hiện sức mạnh của bộ tộc, sự sung túc của gia đình. Chỉ có những gia đình giàu có mới có voi được thuần dưỡng từ voi rừng. Hiện nay, chỉ có Tây Nguyên mới còn voi, nhưng số lượng cá thể đang bị giảm sút đáng kể.   Giới trẻ ở đây trở nên xa lạ với phương thức thuần voi của cha ông ngày xưa mà chủ yếu là chăm sóc và điều khiển voi. Những người thuần voi vì thế càng trở nên hiếm hoi theo thời gian. Hiện nay, công việc này chủ yếu là người lớn tuổi, có vài chục năm kinh nghiệm. Huyền thoại về thuần dưỡng voi rừng là N’Thu K’Nul, ông sinh năm 1828, mất khi đã thọ được 110 tuổi, ông có danh hiệu là “Vua săn voi” (khun-ju-nốp) do Hoàng gia Thái Lan ban tặng. Ông được xem là người khai sinh nghề săn bắt và thuần dưỡng voi ở Buôn Đôn, một người tù trưởng đầy quyền lực và được nhiều dân tộc kính phục lúc bấy giờ. Theo người dân địa phương, trong đời ông đã thuần dưỡng khoảng 170 con voi rừng, có người lại nói ông thuần dưỡng đến hàng trăm con; trong đó, có một con bạch tượng-loài vật hiếm có. Hiện nay, khu mộ của ông được giữ gìn kỹ lưỡng. Mộ được kết hợp giữa kiến trúc của người M’Nông và người Lào-hai dân tộc chính ở địa phương vào thời điểm đó. Đó như một biểu tượng của truyền thống sức mạnh đoàn kết các dân tộc anh em. Phần mộ là những chi tiết hình khối đơn giản, trang trí búp sen ở bốn góc và đỉnh. Cạnh mộ Vua săn voi là ngôi mộ hình tháp, có mái nhọn cách điệu nhà rông. Ngôi mộ này do vua Bảo Đại xây dựng cho hậu duệ của N’Thu K’Nul là R’Leo K’Nul, gọi ông bằng cậu. Người ta hay nhầm tưởng ngôi mộ hình tháp là của N’Thu K’Nul. Khu lăng mộ này được nhiều du khách đến chiêm ngưỡng để hiểu rõ hơn về những con người xuất chúng. Về sau, có một số hậu duệ khác của N’Thu K’Nul nối nghiệp, nhưng số lượng voi thuần dưỡng ít hơn và tay nghề kém hơn.  Quần thể du lịch Buôn Đôn là một không gian đặc trưng, là cái hồn của Tây Nguyên với những cánh rừng già, những con sông cuồn cuộn chảy và những hồ nước lưng chừng trời, lưu giữ nhiều chứng tích lịch sử hình thành vùng đất này. Buôn Đôn thuộc xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, cách TP Buôn Mê Thuột khoảng 42km.  Đến đây, du khách có dịp thưởng thức cồng chiêng, cưỡi voi.Cá trên sông Sê-rê-pốk và hồ Lắk là những đặc sản quý của vùng này. Ai đến đây cũng phải tìm cho bằng được các loại cá bản địa để thưởng thức vì vị ngon và lạ bởi vị trí hiểm trở của nơi chúng sinh trưởng đã tạo sự khác biệt giữa cá sông, hồ Tây Nguyên với cá sông, hồ ở đồng bằng...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ hội trong ngày 24 tháng 9 âm lịch - Hội Đua Voi Ở Tây Nguyên

Đoán biết bạn tốt xấu qua nhân tướng

Đoán biết bạn tốt xấu qua nhân tướng. Tục ngữ có câu "Chọn bạn mà chơi", nhìn bề ngoài một con người rất khó để đoán biết tính cách sự tốt xấu của một con người. Khó nhưng không có nghĩa là không thể...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng của một người tốt hay xấu theo trình tự

1. Coi vẻ uy nghi

Uy nghi ở đây toát lên từ đôi mắt, lưỡng quyền và thần sắc. Bề ngoài oai vệ, nghiêm trang, chỉnh tề, không có vẻ dữ tợn là tướng tốt.

2. Coi dáng đi, dáng đứng, dáng ngồi và cả dáng nằm ngủ

Xem tử vi 2015 thấy, dáng đi phải thẳng, linh hoạt, khi đi thân hình không lay động. Ngồi lâu không mê muội, càng ngồi lâu tinh thần càng sảng khoái. Ánh mắt trong sáng, có hồn, nhìn lâu không mờ.

3. Xem tướng đầu và tướng trán vì đầu là chủ toàn thân, nguồn gốc của tứ chi

Đầu vuông, đỉnh đầu nhô cao là người có địa vị cao trong xã hội. Đầu tròn là tướng giàu có và trường thọ. Trán rộng thì vừa sang vừa quý. Đầu lệch từ nhỏ thì cuộc đời vất vả, nhiều sóng gió. Trán thấp là người khá bướng bỉnh.

4. Coi ngũ nhạc, tam đình

Ngũ nhạc: Lưỡng quyền (hai gò má hay còn gọi là Đông nhạc và Tây nhạc) cần ngay ngắn, đầy đặn, không nhọn, không lệch, lẹm. Trán (Nam nhạc) cần ngay ngắn, không vát, không lõm, không thấp. Mũi (Trung nhạc) cũng cần ngay ngắn, sống mũi thẳng, không được vẹo, nhọn, gẫy khúc. Cằm (Bắc nhạc) cần cân đối, hài hòa với khuôn mặt.

Tam đình: Trán, đầu và cằm cần dài ngắn cân xứng, hài hòa.

5. Coi ngũ quan, lục phủ

Ngũ quan: Lông mày (bảo thọ quan) nên cong, dài, cách mắt hai phân là tốt. Đuôi mày nên chếch lên phía thái dương. Người nào có bộ lông mày thô đậm, áp xuống mắt thì thuộc tướng xấu.

Mắt (giám sát quan) phải sáng, tròng đen, tròng trắng rõ ràng.

Tai (thám thính quan) không căn cứ to nhỏ, chỉ cần luân quách (vành tai ngoài và vành tai trong) rõ ràng, phân minh. Tai trắng hơn da mặt thì cực tốt. Tai cao hơn lông mày, màu sắc tai hồng nhuận, lỗ tai nhỏ là loại tai tướng tốt.

Mũi (thẩm biện quan) nên đầy đặn, cao, sống mũi thẳng, không vẹo, không thô, không nhỏ quá.

Miệng (xuất nạp quan) có đôi môi hồng, răng trắng, nhân trung sâu dài là tướng tốt.

Lục phủ: Ngoài việc là khái niệm dùng để chỉ 6 bộ phận trong cơ thể người, lục phủ còn được dùng để chỉ ba cặp xương ở hai bên mặt. Trong phép quan sát lục phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu, xương thịt phải chắc, cân xứng, hài hòa với nhau, thịt không lấn át xương, xương không quá nhiều so với thịt, thần sắc tươi tỉnh là tướng tốt.

6. Coi lưng, bụng

Ngực bằng, đầy, eo tròn, lưng đầy và bụng dưới to hơn bụng trên, da dẻ mịn màng là tốt. Kỵ lưng thành hố sâu, lưng mỏng, vai lệch. Mông cần nở nang, đầy đặn, không nên lớn thô.

7. Coi chân, tay

Tay phải dài, bàn chân phải có bụng chân, chớ có nổi gân chằng chịt; màu sắc hồng nhuận, da thịt mềm mại.

8. Coi tiếng nói và tâm trạng

Muốn nhìn sự việc trong tâm thì coi đôi mắt. Mắt hiền, mắt ác cho biết tâm hiền hay ác. Vui buồn hay sướng khổ cũng đều biểu hiện qua đôi mắt.

Giọng nói nghe tròn, ấm, vang, rõ ràng, dứt khoát, nhanh chậm có trật tự, to thì vang như chuông mà nhẹ thì nghe thì nghe như tiếng ngọc va vào nhau.

Xem bói: Đoán biết bạn tốt xấu qua nhân tướng

truyen-ma-9-8-7-6-35-.jpg

1. Loại bạn hiệp nghĩa

Loại tướng bạn bè có tính hiệp nghĩa biểu lộ ra ngoài bằng các đặc điểm sau đây:

Cặp lông mày trông có vẻ thô nhưng nhìn kỹ thấy thanh tú và oai vệ ánh mắt sáng nhưng không lộ, nhìn người hay vật đều nhìn thẳng mục tiêu, mũi và lưỡng quyền cao thấp tương xứng với nhau, tiếng nói rõ ràng mạnh mẽ. Thấy việc phải dám làm dám nói, không sợ quyền uy, không ham tiền bạc.

2. Loại bạn khẳng khái

Ðặc điểm của loại bạn bè có tính chất khảng khái bao gồm:

Mày đẹp trán rộng, ánh mắt có vẻ cương cường nhưng không lạnh lẻo, mũi ngay thẳng và cao, phối hợp đúng cách với lưỡng quyền, tính tình độ lượng thấy việc đạo nghĩa dám bất chấp mọi nguy hiểm, về tiền bạc dám dốc hết túi giúp đỡ một cách tự nhiên mà không hối tiếc.

3. Loại bạn trung hậu

Về mặt hình thức, loại bạn bè trung hậu thường có các đặt điểm:

Lông mày dài và thanh tú phối hợp với cặp mắt không bị khuyết hãm về hình thể, mục quang ôn hòa nhưng không kinh khiếp. về mặt nội hàm, kẻ đó biết rõ bạn bè có lòng tham hay biển lận mà không tổn hại trực tiếp đến mình thì sẽ làm thinh, không vạch trần thói xấu của bạn bè cho người khác biết, không cưỡng cầu không hại người để lợi cho bản thàn, xem tuong thấy đối với bạn bè gặp lỗi nhỏ thì bỏ qua, gặp lỗi lớn thì thẳng tay phản kháng.

4. Loại bạn gian xảo, âm hiểm

Ngoại biểu của hạng bạn bè kể trên là cặp lông máy thô và đậm quá mức bình thường, lòng trắng có nhiều tia màu hồng hoặc đỏ, mũi gẫy lệch chuẩn, đầu méo mó. ánh mắt thường liếc xéo không nhìn trực diện kẻ đối thoại, thích trói buộc người khác, thich nói xấu sau lưng người hoặc tọc mạch những chuyện kín của người không có liên quan tới mình.

5. Loại bạn an phận thủ thường

Loại này có vẻ bề ngoài dễ nhận thấy là mũi nhỏ nhưng ngay thẵng. lưỡng quyền hẹp và thấp, nhãn cầu nhỏ không sáng, ánh mất không dao động và ít biến thông. Miệng nhỏ, môi mỏng. Về cá tính kẻ đó không dám mạo hiểm bất kể việc gì dù lớn nhỏ.

6. Loại bạn vô tình hoặc bạc tình

Loại này gần như toàn thể khuôn mặt đều mỏng manh. Mày thưa thớt và nhỏ; da mặt mỏng; mũi gầy, dài và gần như không có thịt; mang tai bạnh ra rất rõ(nhìn từ sau vẫn còn thấy). Về mặt tâm tướng, kẻ đó làm bất cứ điều gì chỉ biết có mình mà không biết tới người khác. Hơn người chút đỉnh thì hớn hở còn thua sút thì bực dọc thịnh nộ.

7. Loại bạn tính nết hồ đồ

Loại bằng hữu có tính hồ đồ là kẻ không am tường việc đời, không có chủ kiến, dể bị người thuyết phục. Bề ngoài của tướng người như trên là lông mày mịn nhỏ, mọc lan xuống bờ mắt; xương lưỡng quyền nhỏ. thấp, lòng đen, lòng trắng không rõ ràng. ánh mắt không có thần quang; giọng nói thiếu âm lượng. bước chân thiếu ổn định. Ðó là loại người không biết phân biệt xấu tốt rõ ràng.

Sưu tầm


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán biết bạn tốt xấu qua nhân tướng

Hình xăm cá chép hóa rồng đẹp 2014 –

Hình xăm cá chép hóa rồng: Một biểu tượng của sức mạnh, sự kiên trì và quyết tâm, Cá chép được tôn kính bởi nhiều bộ tộc và các nền văn hóa trong xã hội ngày nay. ít nhất là với Tattoo cộng đồng nơi hình xăm Cá chép được chọn là một dấu ấn vĩnh viễn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trên cơ thể , một biểu tượng sức mạnh và sự kiên trì trong cuộc sống, một biểu tượng của lòng kính trọng .

hinh-xam-ca-chep-hoa-rong-1

Nhưng vì số rồng trên trời it’ không đủ làm mưa cho đều hòa khắp mọi nơi Trời mới đặt ra một kỳ thi kén các vật lên làm rồng gọi là “Thi rồng”. Khi chiếu Trời ban xuống dưới Thủy phủ thì vua Thủy tề loan báo cho cả các giống dưới nước ganh đua mà đi thi. Hạch có ba kỳ, mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng, vật nào đủ sức, đủ tài, vượt qua cả đợt thì mới lấy đỗ vào cho hóa rồng. Trong 1 tháng trời, bao nhiêu loài thủy tộc dến thi dều bị loại cả, vì không con nào vượt trót được cả ba đợt sóng. Sau có con cá rô nhảy qua được 1 đợt, thì bị rơi ngaỵ Có con tôm nhảy qua được 2 đợt, ruột, gan, vây vẩy, râu, đuôi dã gần hóa rồng, thì đến đợt 3, đuối sức ngã bổ xuống mà lưng cong khoằm lại. Đến lượt con cá chép vào thi, thì gió thổi ào ào, mây kéo ầm trời, chép vượt luôn 1 hồi qua ba đợt sóng, vào lọt cửa Vũ Môn.

Cá Chép đỗ, vẫy, đuôi, râu, sừng tự nhiên mọc đủ, thật là hình dung trọn vẻ dạng bộ oai linh, phận đẹp duyên maỵ

Cá chép hóa rồng phun nước làm cho gió táp, mưa sa, đường đăng hóa rõ nên rực rỡ. Bởi vậy người ta thường đặthình ảnh cá chép hóa rồng để mang lại điều may mắn và sung túc.

Cá nói chung là biểu tượng của sự Phục sinh. Linh vật của sự kiên trì và may mắn. Là con vật báo điềm lành. Cá chữ Hán là “Ngư”, âm đọc là “Yu”, đồng âm với “Dư” (dư dả). Do vậy cá còn là biểu trưng cho sự dư dả, đem đến vận may, hóa giải sát khí, bệnh tật và tai họa.

hinh-xam-ca-chep-hoa-rong-2

hinh-xam-ca-chep-hoa-rong-3


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình xăm cá chép hóa rồng đẹp 2014 –

Kiểu nhà ở khiến người phụ nữ gặp xui xẻo liên tiếp

Kiểu nhà ở khiến phụ nữ gặp xui xẻo: Nếu nhà khuyết lõm phía Tây Nam thì ảnh hưởng tới địa vị và sức khỏe người phụ nữ.
Kiểu nhà ở khiến người phụ nữ gặp xui xẻo liên tiếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sức khỏe, tài lộc và tình duyên của người phụ nữ có mối liên hệ mật thiết với phong thủy ngôi nhà đang ở. Nếu ở trong những kiểu nhà phạm phong thủy, người phụ nữ luôn gặp nhiều xui xẻo.



Trong ngôi nhà hay căn hộ, phía Tây Nam được coi là đại diện cho người phụ nữ. Hướng này tốt sẽ mang lại tài vận tốt, những điều may mắn và ngược lại. Do đó, cần hết sức lưu ý khi thiết kế hay bài trí vật dụng ở hướng này.

1. Nhà khuyết lõm ở phía Tây Nam

Xét theo yếu tố phong thủy, phía Tây Nam dùng để chỉ người phụ nữ trong gia đình. Nếu căn nhà hay căn hộ mà có phía Tây Nam bị khuyết lõm, có nghĩa là căn nhà này không có chỗ cho phụ nữ, dẫn đến người phụ nữ không thường xuyên về nhà, thích ra ngoài tụ tập, tìm cảm giác mới. Điều này ảnh hưởng đến địa vị, sức khỏe cũng như làm đảo lộn sinh hoạt hàng ngày của người phụ nữ.

Kieu nha o khien nguoi phu nu gap xui xeo lien tiep hinh anh
Ảnh minh họa

2. Nhà vệ sinh ở hướng Tây Nam


Theo khía cạnh phong thủy khác, phía Tây Nam chủ yếu hướng đến tình cảm và trinh tiết của người phụ nữ. Do đó, nếu thiết kế nhà vệ sinh ở hướng Tây Nam sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần của người phụ nữ. Ở trong ngôi nhà này lâu dần sẽ khiến người phụ nữ mắc bệnh tật và hàng loạt những vấn đề tâm lí.
Ngoài ra, nhà vệ sinh là nơi không được sạch sẽ, chứa nhiều tà khí, như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến vận may của phụ nữ trong tất cả mọi việc của cuộc sống.

3. Đặt nhiều vật đè nén hay sắc nhọn ở phía Tây Nam


Đặt nhiều vật nặng gây đè nén ở khu vực phía Tây Nam sẽ rất dễ ảnh hưởng đến tài vận của người phụ nữ. Hơn thế, sự nghiệp của họ cũng sẽ gặp nhiều điều không thuận lợi.

Ngoài ra, đặt những vật có gai, sắc nhọn phía Tây Nam cũng không mang lại điều tốt lành cho người phụ nữ. Chúng sẽ phá hủy vận may của họ, thậm chí mang đến những họa thị phi, tai họa bất ngờ.

4. Không chú trọng đặt cây xanh ở phía Tây Nam

Cây xanh đem đến sức sống cũng như vận may mới cho ngôi nhà, giúp tránh những điều trắc trở, bất lợi. Nếu phía Tây Nam ngôi nhà được chăm chút và trang trí bằng cây xanh thì cuộc sống của người phụ nữ sẽ thuận lợi, gặp nhiều may mắn.

Tuy nhiên, tuyệt đối không nên đặt hoa ở phía Tây Nam, vì như vậy, người phụ nữ sẽ dễ gặp mệnh đào hoa, rơi vào nhiều mối quan hệ tình cảm phức tạp. Ngoài ra bạn cũng có thể treo những vật phẩm phong thủy mang lại may mắn ở phía Tây Nam của ngôi nhà.

► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiểu nhà ở khiến người phụ nữ gặp xui xẻo liên tiếp

Nghệ thuật xem tướng PHỤ NỮ BẦN BẠC DÂM ÁC

Vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó. Lông mày lem mí, tóc thô cứng, mặt bạnh, mũi hỉnh là cô độc, khắc sát nghèo hèn. Mũi cong khoảng giữa, mũi có ngấn, lỗ mũi ngó trời mũi hỉnh là tướng đa dâm, hạ tiện, khốn khổ.
Nghệ thuật xem tướng PHỤ NỮ BẦN BẠC DÂM ÁC

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trán có nhiều lằn, mắt lộ tròng trắng bệch là người gian dâm đại ác khắc chồng sát con, tán tài cơ cực.

Bụng teo ngực nẩy cũng là người có tướng nghèo hèn tham lam dâm đãng.

Tiếng nói như lửa reo hừng hực, mắt lộ gân đỏ lan tới con ngươi là tướng người hung ác thô bạo, hình phu sát tử. Môi trên như trùm xuống, môi dưới như đầy ra cũng đều là tướng người khắc sát bần bạc, ngu độn.

Hay đứng dựa cửa liếc dọc ngang, chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy, đang làm công việc, dừng tay châu mày thở ra, hay ca hát nho nhỏ, tự nhún nhẩy một mình, tóc hoe mà thưa lợt gần như lông măng tay, đều là những hình tướng đê tiện dâm đãng.

Miệng dụm như thổi, môi thâm mồm rộng, chơn mày dựng ngược, thấy cười mỉm, mắt nhìn như diều hâu, như cú dữ, đều là tướng hèn hạ, bạc ác.

Đi như chim se sẻ, ăn liếm láp như bò dê, nét mặt xanh đen, lông mày có góc xương lộ, hay tự nói lầm thầm, nói chuyện làm việc quên đầu quên đuôi, hơi khô giọng thổ, đều là các hiện trạng hình tưởng đàn bà âm trầm bạc ác, sâu độc nghiêng ngả, ghen tương như điên dại.

Đôi gò má ửng hồng, mắt như sao chớp, mát bóng như mở, miệng ngậm không kín răng, hạ mao như cỏ khô lưa thưa vàng úa, âm hộ chỉ có da bọc xương nhô lên, chớ không đầy thịt, ngủ say hay nói một mình hoặc kinh hoảng mớ la. Ngồi tựa như đứng, đứng giống như ngồi, mừng vui giận ghét không chừng đổi, hay lắc mình nghiêng đầu, liếc dọc nhìn ngang. Ấy là biểu lộ hình trạng tà dâm bạo ác không tốt.

Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác theo TƯỚNG PHÁP DIỄN CA

Đàn bà khắc sát chồng con
Mặt dày miệng rộng, trán còn lằn ngang
Xoáy tóc trước trán mấy hàng
Mặt nhọn gân nổi lại càng xấu xa
Mày cao xương mí lộ ra
Lông mày mọc ngược thấy mà gớm ghê
Lại thêm mặt trẹt một dề
Lông mày dựng đứng phu thê xa lìa
Con ngươi vàng bệt đỏ tươi
Tròng trắng, trắng giã là người sát phu
Mũi mọc cụm lông u xù
Miệng chụm như thổi lao tù chồng con
Tai mỏng lật ngược vòng tròn
Tóc nám như cháy vàng son phai màu
Tuổi trẻ tóc rụng sói đầu
Hình phu khắc tử lệ sầu không vơi ?
Đầu lủi trước, bước đi sau
Ngoảnh đầu ngoái cổ làm màu đong đưa
Đầu to sói tựa gáo dừa
Giả sầu giả bịnh đánh lừa phu quân
Đầu lép trán dẹp lưng chừng
Trán rộng mày rậm cũng đừng vội tin
Bao nhiêu tướng đã lộ hình
Là bao nhiêu tánh dâm tình tà gian
Má hồng, mặt đẹp trái soan
Ngoại gian mê đắm lấy vàng cũng cho
Má lép mặt như đất tro
Tỉnh sâu thâm thẩm ai đo cho vừa
Ánh mắt chiếu rực mây mưa
Nhìn ngang liếc dọc đẩy đưa duyên tình
Mắt mọc nút ruồi xinh xinh
Lại như ướt rượt mày xanh mi dài
Đa tình không gởi cho ai
Trong nhà dù có ra ngoài cũng thêm
Môi xanh như rêu bên thềm
Môi trắng bềnh bệch như têm vôi trầu
Răng chuột tai dơi nhọn đầu
Thân dài cổ ngắn, chớ cầu chính chuyên
Thân gầy như liễu gió nghiêng
Ngực cao mông lép lụy phiền vì yêu
Bao nhiêu cũng chưa là nhiều
Sáng mai không đủ thêm chiều không dư
Rún lòi đầu vú cứng khừ
Cũng phường lãng đãng tà tư khôn lường
Đầu vú trắng bệch điểm sương
Núm sát trùng thịt cũng vương lưới tình
Vừa đi vừa nói một mình
Cười như ngựa ré tiết trinh kể gì
Vung văng như rắn cuốn đi
Ăn như chuột gặm, ngủ thì mớ la
Bao nhiêu hình bóng nêu ra
Đều thuộc dâm đãng biết mà làm sao
Sách xưa chép dễ sai nào
“Tướng tùng tâm diệt” nhớ trao sửa mình
Còn câu “Tướng tự tâm sinh…”
Chữ tâm kia mới chứng minh tỏ tường
Tâm minh chính, chí đường đường
Tướng yểu lại được thọ trường khó chi
Mặc dầu sách cổ đã ghi
Vẫn còn tùy diệt vẫn còn tùy sinh
Hư nên do ở tâm mình
…….. Xin nhớ đinh ninh.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng PHỤ NỮ BẦN BẠC DÂM ÁC

Chùa Trung Hành - Hải Phòng

Chùa Trung Hành là một ngôi chùa lớn, có bằng chứng nhận di tích lịch sử cấp quốc gia tọa lạc trên phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Chùa Trung Hành - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trụ trì nơi đây là đại sư Sư Phúc. Chùa Trung Hành đến nay được xây dựng khang trang và thu hút nhiều lượt khách tham quan từ khắp mọi miền tổ quốc. Đặc biệt là vào ngày lễ chính được tổ chức Vào ngày 17-1 âm lịch hàng năm.

Chùa Trung Hành có tên chữ là Hưng Khánh Tự. Chùa Trung Hành thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Chùa được xây dựng khá lâu, quy mô bề thế, phong cảnh thanh u, cổ kính. Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1993.

Trung Hành vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh, nhân kiệt – nhiều người đỗ đạt, nhiều văn quan, võ tướng có tài, hiện còn được ghi lại trên văn bia, gia phả các dòng họ. Theo lịch sử ghi chép lại thì chùa được khởi dựng từ khá sớm khoảng thời Lý – Trần. Song dấu vết vật chất còn để lại có niên đại sớm nhất là thời nhà Mạc (thế kỷ 16).

Chùa có quy mô khá lớn, có bố cục kiến trúc hình chữ 工 – Công: tam quan – gác chuông, tòa Phật điện, nhà thờ tổ, vườn bia, mộ tháp. Có thể nói chùa Trung Hành còn bảo lưu khá hoàn chỉnh về bố cục các công trình kiến trúc và quy hoạch không gian của một ngôi chùa làng thời Mạc điển hình ở Hải Phòng.

Dưới mái chùa cổ kính này, đang bảo lưu nhiều pho tượng Phật quý bằng gỗ, mang đậm phong cách dân gian với các đồ án trang trí nghệ thuật được thờ tại tòa phật điện như các pho tượng phật: Tam Thế, A Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền, Hộ Pháp,…

Đặc biệt tại đây còn lưu giữ pho tượng vị hoàng đế nhà Mạc. Tượng hoàng đế tạc bằng đá, pho tượng được đặt ở cuối Phật điện, toàn thân phủ một lớp sơn dày, trông thoáng qua giống như tượng gỗ.

Lễ hội ở chùa Trung Hành diễn ra từ ngày 16 – 18 tháng giêng âm lịch. Xưa có tục múa roi diễn lại khí thế xung quân, diệt giặc của quân đội thời Ngô Quyền. Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân và du khách đến dự lễ và thưởng thức các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Trung Hành - Hải Phòng

Chỉnh sửa mũi ảnh hưởng đến số mệnh

Chỉnh sửa mũi ảnh hưởng đến số mệnh: Đây là một trong những thắc mắc thường gặp của các chị em có ý định đi phẫu thuật nâng hoặc chỉnh sửa dáng mũi.
Chỉnh sửa mũi ảnh hưởng đến số mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là một trong những thắc mắc thường gặp của các chị em có ý định đi phẫu thuật nâng hoặc chỉnh sửa dáng mũi. 
 

Trong Nhân tướng học, chiếc mũi là cung Tài Bạch, chủ về tiền bạc, tài chính. Tướng mũi khác nhau sẽ mang lại những điều may rủi không giống nhau. Do đó mà chỉnh sửa mũi cũng ảnh hưởng đến số mệnh. Người xưa dựa vào thuật xem tướng để xác định phẩm chất, tính cách con người cũng như dự đoán vận mệnh trong tương lai. 
1. Phẫu thuật nâng mũi có thay đổi vận mệnh không?

Tai van thay doi the nao sau khi chinh sua mui hinh anh
Ảnh minh họa

Khi một người sinh ra bị dị tật ở mũi hay có người bị tai nạn làm gãy sống mũi thì nên đến bệnh viện thẩm mỹ để chỉnh sửa mũi, sửa chữa khiếm khuyết giúp bệnh nhân tự tin vào vẻ bề ngoài đồng thời tăng chất lượng cuộc sống.
 
Còn câu hỏi nâng mũi có làm thay đổi vận mệnh hay không thì cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu hay giả thuyết nào có thể chứng minh được. Tuy nhiên, những điều tốt đẹp thì luôn mang đến sự may mắn và thuận lợi trong cuộc sống. Điều này lí giải tại sao chị em luôn ao ước có được chiếc mũi đẹp, có người đi phẫu thuật chỉnh sửa cũng vì vậy.   2. Thế nào là tướng mũi tốt và mang đến may mắn?
 
Những người sở hữu các tướng mũi dưới đây được cho là có quý tướng, có sự nghiệp thăng tiến, địa vị xã hội và cuộc sống tốt đẹp. 
 
- Mũi thẳng, đầy đặn và trơn bóng, chóp mũi tròn đầy, không hếch cũng không lộ, 2 cánh mũi cân xứng, chủ nhân có sức khỏe tốt, tinh lực dồi dào, chăm chỉ, có tinh thần trách nhiệm, trọng chữ tín, dù là nam hay nữ cũng đều có tuổi thọ cao.
 
- Mũi thẳng, dài, cứng và có thịt thì chủ nhân thuộc tuýp có ý chí kiên cường, khỏe mạnh, tuổi thọ cao.
 
- Mũi thẳng, mắt thanh, khuôn mặt tròn, chủ nhân cả đời được hưởng cuộc sống sung túc.
 
- Mũi thẳng, sống mũi cũng thẳng và đầy, chủ nhân tính tình thẳng thắn, biết cách vun vén cho gia đình.
 
- Mũi thẳng, mắt thanh, khuôn mặt bầu bĩnh, gọi là “mặt phượng”, đó là tướng cách của bậc phu nhân. Đây là quý tướng. Nữ giới có tướng mũi này thường có cuộc sống an nhàn, hưởng vinh hoa phú quý. 

► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi đoán vận mệnh chuẩn xác

Theo
Ngày nay
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉnh sửa mũi ảnh hưởng đến số mệnh

10 câu nói mang lại nghị lực cho bất kì ai

Chỉ cần đọc 10 câu nói sau, bạn sẽ được tiếp thêm nghị lực để vượt qua khó khăn và đạt tới những thành tựu tiếp theo.
10 câu nói mang lại nghị lực cho bất kì ai

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1.Không quan trọng quá khứ bạn khắc nghiệt thế nào, bạn luôn luôn có thể bắt đầu lại.

2.Những điều tốt đẹp đến với ai tin tưởng, những điều tốt hơn đến với ai kiên nhẫn và… những điều tốt nhất chỉ đến với người không bỏ cuộc.

3.Cuộc hành trình ngàn dặm …phải bắt đầu từ những bước đầu tiên.

4.Cuộc sống không có nghĩa là dễ dàng. Nó luôn luôn biến động. Đôi lúc hạnh phúc, có lúc lại khổ đau… Nhưng với tất cả những bước ” THĂNG TRẦM” trong cuộc sống, bạn lại học được những bài học làm cho bạn MẠNH MẼ LÊN.

5.Khi cuộc sống đặt bạn vào tình thế khó khăn, đừng bao giờ nói ” Tại sao lại là tôi..?” mà hãy nói ” Tôi sẽ cố gắng …!”.

6.Rất nhiều người sợ nói ra những gì họ muốn, đó là lý do tại sao họ không có được những gì mình muốn.

7.Bạn không thể chặn những con sóng… nhưng bạn có thể học cách làm thế nào để lướt sóng.

8.Một trong những điều tốt nhất trong cuộc sống là: nhận ra rằng bạn hoàn toàn hạnh phúc mà không cần đến những thứ mà bạn cứ ảo tưởng là mình buộc phải có.

9.Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt. Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ. SỐNG Ở HIỆN TẠI VỚI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.

10.Mỗi khi mỏi bước trên con đường mình đã chọn, hãy tự nhủ mình: ”Tiếp tục đi… đừng dừng lại. Mỗi bước có thể khó khăn hơn nhưng đừng dừng lại. Viễn cảnh đẹp nhất là lúc ở trên đỉnh”.

Hãy luôn thúc đẩy mình bằng cách nghĩ về viễn cảnh hạnh phúc ở tương lai bạn nhé. Tự tiếp thêm nghị lực cho chính mình !!!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 câu nói mang lại nghị lực cho bất kì ai

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Điều 12 chàng trai hoàng đạo cực ghét bị bạn gái quản

Tình yêu của 12 chòm sao nam vốn dĩ rất đơn giản và thẳng thắn. Nên, đừng khiến các chàng ấy phiền muộn vì những điều mà chàng cực ghét nhé.
Điều 12 chàng trai hoàng đạo cực ghét bị bạn gái quản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu của 12 chòm sao nam vốn dĩ rất đơn giản và thẳng thắn. Nên, đừng khiến các chàng ấy phiền muộn vì những điều mà chàng cực ghét nhé.


Dieu 12 chang trai hoang dao cuc ghet bi ban gai quan hinh anh
 
Bạch Dương   Bạch Dương rất rõ ràng giữa tình cảm và công việc nên chòm sao nam mạnh mẽ này rất ghét bạn gái làm phiền khi họ đang công tác.   Kim Ngưu   Tình bạn và tình yêu có thể cùng tồn tại trong thế giới của Kim Ngưu nên họ rất không ưa nếu nàng ngăn cản các buổi tụ tập bạn bè, chiến hữu của mình.   Song Tử   Quan niệm và lý tưởng là điều bất di bất dịch ở Song Tử, không nên cố chấp bắt chàng ấy phải thay đổi, sẽ chẳng vui vẻ gì đâu.
Cự Giải   Trong tình yêu của 12 chòm sao nam, Cự Giải là đơn giản nhất, rất chiều chuộng người yêu, miễn là đừng va chạm tới gia đình – thứ thiêng liêng trong trái tim họ.   Sư Tử   Chuyện gì chàng trai Sư Tử cũng có thể kiên nhẫn, nhường nhịn bạn gái nhưng đừng quá đáng, chuyện bé xé ra to, họ chịu không nổi đâu.   Xử Nữ   Tiền do ai kiếm thì người đó có quyền sử dụng, bạn gái mà kiểm soát chi tiêu của Xử Nữ là họ khó chịu ra mặt ngay.
Đọ độ siêu kute của 12 chòm sao thuở còn đóng bỉm Bộ ảnh nền xinh như thiên thần của 12 chòm sao Mức độ cự tuyệt tình yêu của 12 chòm sao

Thiên Bình
  Vốn đã không phải người quyết đoán nên Thiện Bình cảm thấy phiền phức nếu lúc đang đắn đo mà bị người yêu nhiễu loạn, chỉ trỏ. Nếu thất bại thì chắc chắn họ sẽ đổ trách nhiệm cho nàng ấy.   Thiên Yết   Tin tưởng là yêu cầu quan trọng nhất khi Thiên Yết yêu, tối ngày tra hỏi, dò la sẽ khiến họ rất mệt mỏi, phiền chán.

Dieu 12 chang trai hoang dao cuc ghet bi ban gai quan hinh anh 2
 
Nhân Mã   Tự do muôn năm, tự do là số 1, khẩu hiệu sống của chàng trai Nhân Mã quá rõ ràng để biết điều gì họ ghét nhất nếu người yêu phạm phải.   Ma Kết   Nếu bạn gái thường xuyên yêu cầu những món quà vật chất, Ma Kết sẽ cảm thấy không vui và có cái nhìn không tốt, dễ dẫn tới chia tay. Vì họ coi trọng tự lập và quý trọng tiền bạc, không thích tiêu pha phóng túng.   Thủy Bình   Không hứa hẹn, ít ràng buộc là điều Thủy Bình mong muốn khi yêu. Các nàng hãy nhớ nhé.
Song Ngư   Bị nghi ngờ khiến Song Ngư cảm thấy buồn lòng. Họ thường có bạn bè khác giới nhưng tuyệt đối không có gì mờ ám, nên người yêu mà cấm cản, truy hỏi thì họ không chịu nổi đâu. Điểm chết không được đụng tới khi yêu 12 chòm sao 12 chòm sao ghét nhất bị nói gì? Tìm cách khai vận cho 12 chòm sao trong kỳ thi Quốc gia Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điều 12 chàng trai hoàng đạo cực ghét bị bạn gái quản

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1981 Tân Dậu –

Hướng kê giường tuổi Tân Dậu 1980 - Năm sinh dương lịch: 1981 - Năm sinh âm lịch: Tân Dậu - Quẻ mệnh: Khảm Thủy - Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường tuổi Tân Dậu 1980

– Năm sinh dương lịch: 1981

– Năm sinh âm lịch: Tân Dậu

– Quẻ mệnh: Khảm Thủy

– Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y); Đông Nam (Sinh Khí); Nam (Diên Niên);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Lục Sát); Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Nam (Tuyệt Mệnh); Tây (Hoạ Hại);

Bedroom11

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Mộc, Thủy sinh Mộc, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thủy, là hướng Bắc;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh dương, Đen, đây là màu đại diện cho hành Thủy, rất tốt cho người hành Mộc.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1981 Tân Dậu –

Phật giáo bàn về cái kết của tự sát

Da thịt của mẹ cha cho, không may thương tổn đã là có lỗi, còn tự sát thì ắt là tội nghiệt. Phật giáo bàn về tự sát sẽ chỉ ra kết cục của việc làm không sáng
Phật giáo bàn về cái kết của tự sát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

suốt này.

 
Phat giao ban ve cai ket cua tu sat hinh anh
 
Người muốn tự sát luôn nghĩ rằng, chết là hết, chết là giải thoát. Nhưng thực chất, đó chỉ là hành vi ích kỉ, vô trách nhiệm với những vấn đề của bản thân mình. Tự sát không những khiến người thân đau khổ, sa sút tinh thần mà còn ảnh hưởng tới xã hội, khiến tư tưởng xem nhẹ sinh mạng lan tràn. Và có thực, chết là hết hay không?
Phật giáo bàn về tự sát chỉ ra rằng, tự sát là phạm tội “Đoạn diệt”, tất có nhân quả báo ứng. Tu bao nhiêu kiếp mới đầu thai làm người mà lại không coi trọng sinh mạng, tự ý quyên sinh là coi thường số mệnh. Người tuy đã chết, mạng tuy đã vong, nhưng nghiệp lực thì vẫn còn, tương lai phải gánh nghiệp báo lớn. Không chỉ không được đầu thai luân hồi về kiếp người mà người tử tự còn không thể lên cõi Niết Bàn.   Nghe lời Phật dạy, thành người vợ hiền
Người phụ nữ nào cũng mong muốn mình trở thành người vợ đoan chính, hiền đức. Cùng nghe Phật dạy về đạo làm vợ để học tập theo nhé.

Phật dạy làm người
, khuyên con người ta phải vững vàng, mạnh mẽ và yêu quý bản thân. Tự sát uổng mạng, không được đầu thai hóa kiếp lại phải nhận quả báo nặng nề. "Thiện nhân đắc thiện quả, ác nhân đắc ác quả", tự giết mình cũng là giết một sinh mạng, là tạo nghiệp ác, làm điều xấu tất phải gặp báo ứng. 
  Đời là bể khổ, sinh tồn là đấu tranh, không một ai trưởng thành và sống chỉ bằng những điều tốt đẹp, hạnh phúc. Những “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, có khổ tận mới tới ngày cam lai. Đừng vì một phút yếu lòng, bồng bột, tự ti mà hi sinh cả hiện tại và tương lai của mình, khiến bản thân sống vô ích mà người thân, xã hội cũng bị tổn thương. Phật dạy điều hay, nghe và hiểu.
 
► Mời các bạn đọc thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Trần Hồng

Xem Clip Phúc họa đời người


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phật giáo bàn về cái kết của tự sát

Chỉ số thông minh trong tình yêu của bạn là bao nhiêu

Đứng trước tình yêu, mọi người đều rất tỉnh táo, lý trí. Nhưng khi vừa bước vào tình yêu thì sao, liệu có phải ai cũng đủ thông minh để nhìn nhận mọi việc theo cách khách quan nhất?
Chỉ số thông minh trong tình yêu của bạn là bao nhiêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo trực giác, hãy chọn ra một hình bạn thấy ấn tượng nhất và click vào hình để xem đáp án:

chi-so-thong-minh-trong-tinh-yeu-cua-ban-la-bao-nhieu chi-so-thong-minh-trong-tinh-yeu-cua-ban-la-bao-nhieu-1
chi-so-thong-minh-trong-tinh-yeu-cua-ban-la-bao-nhieu-2 chi-so-thong-minh-trong-tinh-yeu-cua-ban-la-bao-nhieu-3

Maruko (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ số thông minh trong tình yêu của bạn là bao nhiêu

Tướng phụ nữ hại chồng –

Danh xưng hình khắc ở đây có nghĩa rất rộng rãi. Nhẹ thì hàm ý rằng khi lấy chồng, vợ chồng sẽ xung đột, gia đạo sóng gió, ít khi có hạnh phúc, nặng thì biểu lộ sự hung hiểm xảy đến cho người chồng công danh sự nghiệp, sức khoẻ hoặc sinh mạng, vợ chồ
Tướng phụ nữ hại chồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ hại chồng –

Ngày sinh chào đón sự ra đời của mỹ nhân

Bát tự sinh thần của mỗi người đều có Thiên can đại biểu cho nhan sắc, đó chính là Nhật trụ (ngày sinh). Hãy cùng ## tìm hiểu
Ngày sinh chào đón sự ra đời của mỹ nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự sinh thần của mỗi người đều có Thiên can đại biểu cho nhan sắc, đó chính là Nhật trụ (ngày sinh). Hãy cùng ## tìm hiểu bốn ngày sinh dễ chào đón sự ra đời mỹ nhân. 


ngay sinh my nhan hinh anh
 
Hạng 1: Ngày Tỵ Thổ
  Nét đẹp của người phụ nữ được thể hiện ở ba phương diện: tính cách, diện mạo, thân hình. Từ cách nhìn của người phương Đông, vẻ đẹp của người sinh ngày Tỵ Thổ là sự kết hợp của cả ba ưu thế trên. Tuy nhiên,  đây không phải là nguyên nhân chính để mệnh chủ trụ ngày Tỵ Thổ có thể dẫn đầu trong bảng xếp hạng ngày sinh mỹ nhân, Tỵ Thổ thuộc Thổ điền viên, hiền hậu ôn hòa, giống như con chim nhỏ quấn quít bên người, điều này chính là lực hấp dẫn không thể cưỡng lại đối với đàn ông.    Hạng 2: Ngày Tân Kim   Tân Kim thu hút tinh hoa của Thái Dương, sở hữu tính cách nhẹ nhàng , vẻ đẹp "phấn điêu ngọc trác", thông minh lanh lợi. Ngũ quan của nữ mệnh Tân Kim hài hòa, làn da mịn màng. Đồng thời, Ngũ hành Kim trụ sự cách tân, mở đầu, vậy nên mệnh trụ Tân Kim không chỉ xinh đẹp mà còn am hiểu về cái đẹp, dù là trang phục hay trang sức, đều hết sức thời trang và luôn thep kịp trào lưu.
Luận giải mối quan hệ giữa tình yêu và giờ sinh theo tử vi
Mỗi người khi sinh ra đều có bát tự riêng, ảnh hưởng đến nhiều phương diện. Gần đây, các chuyên gia đã chỉ ra mối quan hệ giữa quan điểm tình

Hạng 3: Ngày Giáp Mộc
  Là Dương Can duy nhất trong bảng xếp hạng, dù là nam hay nữ thì khí chất của bát tự trụ ngày Giáp Mộc thường trọng về vẻ bề ngoài. Trong Ngũ hành, nói về "Chất" thì chỉ có Mộc do là được ban "sức sống", mà nữ mệnh ngày Giáp Mộc là điển hình cho mỹ nữ nổi bật về khí chất. Thân hình thường cao ráo, thâm chí có chút gầy, ngũ quan mặc dù không quá hài hòa, nhưng tỏa ra nguồn năng lượng tràn trể, khiến những người tiếp xúc cùng họ bất giác sinh ra hảo cảm.  
ngay sinh my nhan hinh anh 2
 
Hạng 4: Ngày Ất Mộc
Mỹ nữ trụ ngày Ất Mộc như đóa hoa giữa nhân gian, nhưng có người lại nói rằng phải dùng hoa để hình dung họ. Vẻ đẹp của người sinh ngày Ất Mộc nằm ở hai chữ: "kiều mị", họ biết cách dùng lợi thế của mình để thu hút , nhận được tình yêu thương của người khác. Nét đẹp bên ngoài lẫn nội tâm của họ đủ để đánh gục mọi người đàn ông.
► Trắc nghiệm vui để biết những điều thú vị về bạn

Chi Nguyễn

Xem Clip để học hỏi Nghi thức thờ cúng bình thường


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày sinh chào đón sự ra đời của mỹ nhân

Giấc mơ cành cây khô với bệnh suy nhược thần kinh –

Tôi còn nhớ khi học tiểu học có một thầy giáo có khí chất của một người đàn ông rất tốt. Lúc đó thầy mới được trường Sư phạm phân công về đây. Có thể nói đó là con người ưu tú. Thầy dạy học tốt, còn có khả năng văn nghệ, thái độ đối với học sinh rất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tôi còn nhớ khi học tiểu học có một thầy giáo có khí chất của một người đàn ông rất tốt.

Lúc đó thầy mới được trường Sư phạm phân công về đây. Có thể nói đó là con người ưu tú. Thầy dạy học tốt, còn có khả năng văn nghệ, thái độ đối với học sinh rất nhân ái. Lúc nào thầy giáo cũng quan tâm đến học sinh, giúp đỡ thương yêu học sinh nên khi ra trường ai cũng nhớ đến thầy với lòng tôn kính.

Năm vừa rồi khi đến thăm thầy tôi thấy sức khỏe, tinh thần của thầy không được như trước. Đứng trước tôi là một người già nua, lưng còng, mắt mờ. Tôi hỏi thầy thì được biết đã một năm nay thầy đau ốm, lúc nào cũng cảm thấy không an toàn, đi đường sợ xe, ăn cơm thì dạ dày không ổn, cả ngày lúc nào cũng sợ quỷ, không có hứng thú với bất cứ việc gì, không có lòng tin, không quyết đoán như trước đây, lúc nào cũng cảm thấy sợ bạn bè nhưng có lúc lại muôn biết rõ những việc không thành.

Giấc mơ cành cây

Chúng tôi đề nghị thầy đi gặp bác sĩ nhưng ông nói:

– Đây không phải là bệnh, có thể do quỷ thần tác quái. Bởi vì trước đây một năm tôi vẫn thường nằm mơ, thây một cành cây khô rơi xuống đầu mình. Thế rồi lúc nào cũng nằm mơ thấy cành cây khô đó.

Ai nấy đều buồn, trước đây thầy đầy sức sống, không tin vào quỷ thần, giờ không biết mơ thế nào mà lại suy nghĩ hoang đường như thế. Chúng tôi bàn bạc, viết thư trình bày tình hình bệnh tật của thầy cho một giáo sư đại học chuyên chữa bệnh và nghiên cứu mơ.

Có lẽ tinh thần tôn sư của chúng tôi đã làm cho giáo sư cảm động, ông tự mình đến gặp thầy giáo chúng tôi hai lần, tìm hiểu kỹ giấc mơ của thầy rồi bắt tay vào điều trị.

Thầy giáo chúng tôi hồi phục trở lại.

Giáo sư cho căn bệnh này là một ví dụ điển hình và đã đưa vào bài phát biểu trong hội nghị.

Quan hệ giữa cành cây khô trong giấc mơ với chứng suy nhược thần kinh đã được ông nhận định như sau: Một người có bệnh thần kinh suy nhược vẫn thường nằm mơ thấy mất đi sức sống như cây khô, cỏ chết khô, cầm thú chết.

Thầy giáo nằm mơ thấy cành cây khô chứng tỏ tinh thần ông bị kích thích, giấc mơ kinh sợ dẫn đến hàng loạt phản ứng bất thường nên có cảm giác bất an, thiếu lòng tin, do dự không quyết định, việc gì cũng sợ, không khống chế được tình cảm.

Phương pháp điều trị là phải xây dựng được lòng tin đối với cuộc sống, chú ý ăn uống, nghỉ ngơi, uống thuốc an thần để chóng khỏi bệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ cành cây khô với bệnh suy nhược thần kinh –

Vòng đá phong thủy - Những lưu ý nhất định phải nhớ

Vòng đá phong thủy hiện nay đang rất được ưa chuộng bởi chúng mang ý nghĩa phong thủy nhiều may mắn, tài lộc, sức khỏe, hạnh phúc,… cho người sử dụng.
 Vòng đá phong thủy - Những lưu ý nhất định phải nhớ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


  

Vòng đá phong thủy là “bùa may mắn” 
 

Vòng đá phong thủy đã trở nên cực kỳ quen thuộc với mọi người trong vài năm trở lại đây vì mọi người quan niệm rằng, vòng được chế tác từ đá tự nhiên vốn được hình thành từ thiên nhiên nên mang linh khí của trời đất, có khả năng mang lại may mắn cho người đeo. Đeo vòng tay phong thủy giúp tăng cường được sức đề kháng và sức khỏe cho chủ nhân của nó. Không những thế còn cải thiện được tinh thần, giảm căng thẳng, tăng cường trí tuệ và sự minh mẫn giúp cho các bạn làm việc luôn đạt hiệu quả cao nhất.   Tùy thuộc vào nhu cầu của mỗi người, bất kỳ ai cũng có thể tìm được một chiếc vòng đá phong thủy phù hợp với mình: Trẻ em, người già đeo để mong cầu sức khỏe, thanh thiếu niên mong cầu học hành thi cử thuận lợi, người trưởng thành mong may mắn tài lộc, công danh…  
Vong da phong thuy - Nhung luu y nhat dinh phai nho
 
   Ngoài ra, vòng tay đá có rất nhiều loại, tùy từng sản phẩm làm từ loại đá khác nhau mà vòng tay đá có những công dụng khác nhau.
  Ví dụ vòng tay làm từ đá mã não phù trợ cho những người làm nông nghiệp, đá Hematite giúp chữa các bệnh về máu và tăng sức mạnh tinh thần, đá phỉ thúy mang về tài lộc giàu sang… 
 
Các vòng tay làm từ những viên đá mắt hổ sáng bóng là báu vật của con người giúp tinh thần tỉnh táo, tự tin, tăng sự tập trung và dũng khí hành động. Đối với những người bị hư đường khí huyết, nắm đá mắt hổ trong tay, kết hợp thở sâu sẽ giúp điều hòa khí huyết, tăng cường sức khỏe, ngoài ra khi lăn viên ngọc mắt hổ ở vùng thần kinh thái dương sẽ giúp con người cải thiện trí nhớ, giảm triệu chứng hay quên.

Đối với những người bị yếu về dạ dày hoặc đường ruột, áp vòng tay đá mắt hổ lên vùng bụng sẽ giúp các bộ phận chức năng của vùng bụng khỏe hơn. 
 
Khi nhắc tới vòng đá thạch anh chúng ta biết rằng có rất nhiều loại khác nhau, nhận dạng chủ yếu trên màu sắc như thạch anh trắng, thạch anh đen, thạch anh vàng… Thạch anh tím có thể giúp con người có giấc ngủ sâu hơn, tăng cường niềm tin và lòng dũng cảm đối với người hay lo âu, trong khi đó thạch anh hồng lại có tác dụng tốt đối với các bệnh về hệ tim mạch và hệ thần kinh, tăng cường hệ miễn dịch, giúp loại trừ sự mệt nhọc ra khỏi cơ thể, thạch anh hồng con giúp cải thiện mối quan hệ giữa chủ nhân với người khác, nâng cao đời sống tình cảm, mang lại may mắn trong tình yêu và hôn nhân, giúp mối quan hệ vợ chồng thuận hòa, hạnh phúc.    Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chiếc vòng đá phong thủy sẽ chỉ phát huy được lợi ích khi nó có màu sắc hợp với bản mệnh của người đeo, tức là nằm trong nhóm các màu tương sinh và tương hợp. 

Tham khảo thêm bài viết sau: Đừng biến vòng tay thành còng tay
 
vong da phong thuy (2)
 

Số hạt vòng đá phong thủy
 

  Bởi vì trong mỗi chiếc vòng tay đá phong thủy đều mang một nguồn năng lượng huyền bí có tác động trực tiếp đến người đeo.  Nếu lựa chọn đúng chiếc vòng phù hợp, nó sẽ mang lại nhiều điều tốt đẹp, may mắn và ngược lại. Vì vậy, việc lựa chọn một chiếc vòng tay đá phong thủy phù hợp với bản mệnh của mình là điều hết sức quan trọng.

Số lượng hạt đá của chuỗi vòng cũng góp phần mang đến những lợi ích về mặt phong thủy, bởi người ta thường chọn số hạt theo dụng ý sao cho phù hợp với mặt tích cực trong vòng tuần hoàn Sinh – Lão – Bệnh – Tử của con người. 
  – Dựa theo phong thủy, trong vòng luân hồi của con người gồm “Sinh – Lão – Bệnh - Tử”, số lượng hạt đẹp nhất là những số chia 4 dư 1 như 13, 17, 21, 25,… bởi những số này thuộc cung “Sinh”.
 
– Bạn cũng có thể chọn số hạt vòng lẻ (nếu những số hạt chia 4 dư 1 không vừa với tay bạn). Vì số lẻ thuộc tính “Dương”, nguồn gốc của những trường năng lượng tốt.
 

Kích thước của vòng tay
 

– Nữ giới nên đeo vòng phong thủy có kích thước hạt loại 10mm hoặc 8mm trở xuống.
 
– Nam giới nên đeo vòng phong thủy có kích thước hạt loại 12mm hoặc 14mm trở lên.  
vong da phong thuy (1)
 

Màu sắc vòng tay đá phong phủ phù hợp cung mệnh 
 

Quy luật ngũ hành trong phong thủy chính là cơ sở để chúng ta đưa ra quyết định lựa chọn một chiếc vòng phong thủy. Mỗi người sinh ra đã thuộc về một bản mệnh nhất định, vì thế mọi sự vật, sự việc xung quanh bạn đều ít nhiều liên quan đến quy luật ngũ hành. Ngũ hành trong phong thủy bao gồm 5 yếu tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.    Đầu tiên, hãy tìm hiểu xem bạn thuộc mệnh gì. Sau khi biết mình thuộc mệnh gì, bạn sẽ có thể dễ dàng chọn được màu sắc hợp với mình dựa theo quy luật ngũ hành trong phong thủy:   Vòng tay phong thủy cho người mệnh Kim: nâu đất, trắng, vàng, xanh da trời, xanh lá cây. Kỵ màu: đỏ, tím, hồng, cam. Trang sức đá phong thủy như vòng tay đá mắt mèo màu xanh, hoặc tinh tế hơn là mặt dây chuyền phật màu trắng, vòng tay thạch anh tóc vàng, vòng tay thạch anh khói, vòng tay thạch anh vàng, vòng tay đá mắt hổ vàng, vòng tay mã não trắng...  rất hợp cho người mệnh Kim.   Vòng tay phong thủy cho người mệnh Mộc:  xanh nước biển sẫm, xám, đen, xanh da trời, xanh lá cây, vàng đậm, nâu đất. Kỵ màu trắng. Bạn có thể sử dụng vòng làm từ: đá peridot, đá aventurine, hay ngọc cẩm thạch, đá thiên thạch, đá huyền vũ; đá mã não xám; màu xanh có thể là đá topaz, đá aquamarine, đá sapphire, hay đá Tanzanite…
 
Vòng tay phong thủy cho người mệnh Thủy: màu trắng, lam, đen. Kỵ màu: nâu đất, hay vàng sậm. Bạn có thể sử dụng vòng thạch anh pha lê trắng, vòng đá san hô, vòng đá Labradorite xà cừ, vòng tay đá mắt hổ...
 
Vòng tay phong thủy cho người mệnh Hỏa: xanh lá cây, xanh da trời. Vòng tay màu xanh: đá ngọc cẩm thạch, đá thạch anh tóc xanh, vòng mã não xanh lá. Ngoài ra bạn có thể dùng vòng tay màu đỏ, hồng, tím, cam, vòng đá garnet đỏ, vòng mã não đỏ cam, đá thạch anh hồng, đá thạch anh tím…   Vòng tay phong thủy cho người mệnh Thổ: đỏ, tím, cam, hồng. Kỵ màu: xanh lá cây, xanh da trời. Bạn có thể sử dụng vòng đá san hô đỏ, vòng đá thạch anh hồng, vòng thạch anh tóc vàng, vòng tay thạch anh tím, vòng tay đá mắt hổ...

vong da phong thuy (1)
 
 

Đeo vòng ở tay nào?
 

Hầu hết mọi người chưa biết đeo vòng tay đúng phong thủy vì vòng không chỉ là đồ trang sức đơn thuần mà nó còn là vật khai thông vận mệnh, đem lại những điều tốt lành cho gia chủ. Đeo vòng phong thủy cần đặc biệt chú ý đến những cấm kỵ trong ngũ hành. Dưới đây là những lưu ý dành cho bạn để đeo vòng phong thủy phát huy tối đa tác dụng.   Phong thủy có câu “trái vào phải ra”. Điều này có nghĩa là tay trái được xem là bàn tay thuần khiết, trong sạch. Còn tay phải thì uế ố, bụi trần. Vì thế chuyên gia phong thủy khuyên bạn khi đeo vòng phong thủy nên đeo bằng tay trái để có thể hấp thụ hết được năng lượng mạnh mẽ của nó.   Vòng tay phong thủy giúp cân bằng lượng khí huyết trong cơ thể, con người sẽ hấp thụ được những nguyên tố vi lượng quý báu ẩn trong nó làm cho cơ thể luôn khỏe mạnh, thần kinh và tim mạch ổn định. Tim nằm ở bên trái nên đeo vòng ở bên trái sẽ giúp bạn khỏe mạnh, thần kinh và tim mạch ổn định. 
 
Hơn nữa, nếu đeo tay phải thì khi hoạt động hay va chạm dễ vỡ hơn là tay trái. Cho nên đeo vòng phong thủy tay trái sẽ an toàn hơn cho bạn.   Thông thường khớp và gân tay phải thường to hơn tay trái do phải làm việc nhiều hơn. Phụ nữ vì thế thường đeo ở tay trái để tránh được những khó khăn, bất tiện khi đeo và tháo vòng.
 
  Minh Minh   Giải đáp ý nghĩa số lượng hạt trên vòng tay phong thủy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vòng đá phong thủy - Những lưu ý nhất định phải nhớ

Màu sắc đem lại may mắn cho 12 con giáp trong ngày đầu tiên của năm Đinh Dậu

Ngày đầu năm nên kết hợp màu sắc như nào để cả năm được may mắn? Hãy cùng tham khảo nhé!

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tỵ và tuổi Ngọ

Tuổi Ngọ và tuổi Tỵ có ngũ hành thuộc Hỏa. Màu chủ đạo của hành Hỏa là đỏ và vàng, mang theo hơi ấm áp và sự nhiệt tình hừng hực như lửa, đồng thời thể hiện được tính cách hướng ngoại của bản thân. Nếu mặc màu đỏ và vàng trong ngày đầu tiên của năm mới có thể biến hung hiểm thành điềm lành, hóa giải mọi hiềm nghi khúc mắc trong công việc cũng như cuộc sống của tuổi Tỵ và tuổi Ngọ. Hoặc những màu cùng gam tương tự như hồng, đỏ thẫm sang trọng cũng có thể mang lại thành công ít nhiều cho sự nghiệp của hai bạn tuổi Tỵ và tuổi Ngọ trong năm Đinh Dậu đó.

Màu sắc đem lại may mắn cho 12 con giáp trong ngày đầu tiên của năm Đinh Dậu - Ảnh 1.

Tuổi Thân và tuổi Dậu

Cả hai tuổi Dậu và Thân đều đại diện cho hành Kim trong Ngũ Hành. Ngày đầu tiên trong năm Đinh Dậu hai người bạn tuổi này nên mặc hoặc dùng nhiều đồ đạc có màu xanh. Xanh là màu sắc tượng trưng cho sức sống, sự tươi mới, không những chỉ đem lại tinh thần hứng khởi mà còn tạo thêm hy vọng vào công việc làm ăn cho hai bạn tuổi Thân và Dậu. Khi có một khởi đầu cùng với tâm trạng tốt thì việc gì cũng đã thành công hơn nửa rồi phải không nào?

Tuổi Sửu, Mùi, Thìn và Tuất

Màu sắc phù hợp với 4 con giáp thuộc hành thổ Sửu, Mùi, Thìn và Tuất trong ngày đầu tiên của năm mới sẽ là những màu có tương quan đến đất. Đó có thể là vàng trầm, màu café, đen hoặc xám, nâu. Những màu sắc này đều khá nhã nhặn, trầm tĩnh, tạo không khí thoải mái cho người đối diện và không gian xung quanh. Chỉ cần chú ý phối hợp sao cho hợp với độ tuổi, tránh trường hợp để bị “già trước tuổi”. Chính vì lý do đó mà công việc cũng như cuộc sống của 4 người bạn này cũng sẽ thuận lợi hơn rất nhiều.

Màu sắc đem lại may mắn cho 12 con giáp trong ngày đầu tiên của năm Đinh Dậu - Ảnh 2.

Tuổi Tý và tuổi Hợi

Người tuổi Tý và Hợi phần lớn đều có tính cách rất ôn hòa, thuộc hành Thủy. Do đó họ cũng nên mặc đồ màu xanh biển hoặc xanh lá. Màu xanh vĩnh viễn tượng trưng cho sự sống ở Trái Đất, sẽ là khởi đầu tốt đẹp và mát mẻ suôn sẻ cho mọi công việc. Để thuận lợi hơn, đem lại bình an cát tường thì ngày đầu tiên của năm Đinh Dậu tuổi Tý, tuổi Hợi hãy chú ý đến hai màu xanh mát mắt này nhé.

Tuổi Dần và tuổi Mão

Mão và Dần đều thuộc Mộc, Mộc khắc Thổ nên thường hai người thuộc tuổi này cần phải tránh xa những màu sắc quá rực rỡ. Theo tử vi, 2 con giáp này nên mặc những màu nhạt, có xu hướng pastel vào ngày đầu tiên của năm mới để hài hòa hơn với mệnh khí của năm, giúp tâm hồn được nhẹ nhàng thanh thản, mọi sự được như ý, thuận lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc đem lại may mắn cho 12 con giáp trong ngày đầu tiên của năm Đinh Dậu

Có nên trồng liễu trước cửa nhà?

Liễu là loại cây đẹp với bóng dáng mềm mại và màu xanh dịu mát. Nó thường được trồng nhiều ở ven hồ, trong các công viên tạo vẻ đẹp thơ mộng. Vậy cây liễu có thích hợp khi trồng trước cửa nhà?
Có nên trồng liễu trước cửa nhà?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xét về quan điểm hình thế, phần trước của ngôi nhà (minh đường) luôn cần sự quang đãng, sáng sủa, tránh bị che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).
Cây lá lòa xòa trước nhà, theo phong thủy như vậy tức là Mộc khắc Thổ. Nếu cây to sẽ có rễ lớn ăn vào đất ảnh hưởng đến nền nhà, đi lại dễ bị va vấp. Loại cây nhiều lá thì lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu ánh sáng mặt trời. Như vậy, gia chủ gặp nhiều điều bất lợi.
Cây liễu được trồng nhiều bên bờ hồ nhưng khi trồng vào khuôn viên nhà với diện tích đất nhỏ, không đủ độ thoáng, thiếu mặt nước rộng tạo độ ẩm để cây phát triển tốt... thì từ liễu rủ nó sẽ dễ trở thành lòa xòa, rũ rượi không đẹp mắt.
Đa phần nhà ở truyền thống của cha ông ta đều quay về hướng Nam hoặc Đông Nam là hướng gió chủ đạo. Cây có nhiều lá trồng trước nhà sẽ cản trở gió lành. Vì thế trước nhà chỉ nên trồng cây kiểng hoặc cây mảnh, dáng cao, lá sáng (cau, dừa cảnh). Sau nhà là những cây lá dày rậm (như chuối, bàng…) để che bớt gió lạnh phương Bắc và Đông Bắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên trồng liễu trước cửa nhà?

Mơ thấy kim cương –

Mơ thấy ngọc Chiêm bao thấy ngọc ngà châu báu là điềm báo bạn sắp có tài lộc. Chiêm bao thấy đồ vật bằng ngọc thạch, bạn được người giúp sức. Chiêm bao thấy ngọc chất thành núi là mộng lành, bạn sắp phát tài, phát lộc. Tuy nhiên, nếu bạn mơ thấy mìn
Mơ thấy kim cương –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy kim cương –

Cách hóa giải cho nhà tắm lầm hướng xấu

Việc bài trí phong thủy nhà tắm rất quan trọng vì nó có liên quan mật thiết đến sức khỏe của những người sống trong nhà. Dưới đây là những kiểu bài trí nhà tắm theo phong thủy nên tránh và cách hóa giải.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nếu đặt nhà tắm tại phía Bắc trong nhà, hoặc phía Đông Bắc được gọi là Hậu quỷ môn thì có thể mang lại hậu quả xấu. Nếu gặp kiểu phong thuỷ nhà ở này thì gia chủ có thể mắc bệnh xơ vữa động mạch, xơ gan, sỏi mật, tiêu chảy, loét dạ dày, táo bón, ngộ độc thực phẩm, khí huyết không dồi dào,... đặc biệt có ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ của người già.


Trong phong thuỷ nhà ở, để nhà tắm không mang lại tướng hung, tốt nhất hãy đặt nó ở phía Tây Bắc, Đông Nam hoặc phía Đông (nhìn từ trung tâm của ngôi nhà). Đồng thời, phải tránh đặt tại phương vị tương xung với năm sinh của gia chủ (ví dụ như người sinh năm Mão, phải tránh đặt ở phía Đông). Có thể thấy, việc thiết kế vị trí nhà tắm quả thực không phải là chuyện đơn giản.


2. Nhà ở hiện nay thường thiết kế nhà tắm ở phía Bắc hoặc phía Đông Bắc là những nơi mà ánh mặt trời không thể chiếu vào. Hay nói một cách khác, phòng bếp, phòng khách đặt ở phía Đông Nam hoặc Tây Nam, còn nhà tắm đặt ở phía Bắc. Những người hay than phiền rằng sức khoẻ không tốt phải chăng có liên quan đến phong thuỷ nhà ở không tốt, qua điều tra được biết khoảng tới một nửa trong số họ là do thiết kế nhà tắm ở phía Bắc hoặc Đông Bắc.


Nếu nhà tắm đặt ở phía Bắc hoặc Đông Bắc thì phải chuyển ngay sang vị trí khác. Khi nói đến việc cải tạo hoặc di chuyển vị trí nhà tắm thì rất nhiều người đều nói rằng "không có không gian nên rất khó làm được". Sự thực thì không gian của nhà tắm là rất nhỏ, chỉ cần thực lòng muốn cải tạo hoặc di chuyển vị trí thì chắc là không gặp nhiều khó khăn, khi làm bạn sẽ cảm thấy đơn giản hơn nhiều so với những gì đã tưởng tượng. 


Chỉ cần tránh khỏi vị trí trung tâm 15 độ ở phía Bắc (phạm vi của Tý). Về phía Đông Bắc thì chỉ cần tránh 10 độ phía Đông Bắc (phạm vi của Sửu) và 10 độ trung tâm phía Đông Bắc (phạm vi của Cấn) là được. Nếu như nhà vệ sinh đặt ở phía Bắc hoặc Đông Bắc thì chỉ cần vị trí của bệt xí lệch đi do với các phương vị 15 độ này là được. Nếu bệt xí đặt trong phạm vi này thì chỉ cần di chuyển bệt xí chứ không cần cải tạo lại cả nhà tắm.


Nếu bức tường cạnh nhà tắm là tường của phòng bếp hoặc nhà kho thì tương đối ổn. Khi cải tạo thì chỉ cần hoán đổi vị trí là được.
Chỉ cần cơ thể khoẻ mạnh thì có thể yên tâm làm việc, chẳng mấy chốc sẽ ăn nên làm gia, đương nhiên có thể thiết kế cho mình một ngôi nhà có phong thuỷ rất tốt. Do đó, để luôn khoẻ mạnh thì cải tạo vẫn là điều kiện tiên quyết. Như vậy sẽ tốt hơn cho bệnh tình của gia chủ hoặc người già.



Do cách thiết kế của mỗi kiểu kiến trúc nhà ở đều khác nhau, có khi ngôi nhà rất đơn giản nhưng cơ bản lại không thể di chuyển nhà tắm. Lúc này hãy làm theo cách trên, đó là thay đổi vị trí của bệt xí.


Nếu di chuyển bệt xí thì nên mở cửa sổ trong nhà tắm, hàng ngày để một đĩa muối ăn ở đó rồi đặt một chậu cây nhỏ, thông qua năng lượng xanh của cây cảnh và muối ăn để hóa giải tướng hung của nhà tắm.


3. Ngoài phía Bắc và Đông Bắc thì nhà tắm ở phía Tây Nam cũng thuộc tướng hung. Nếu muốn di chuyển thì chỉ có thể từ phía tây di chuyển sang phía Tây Bắc.


Nhà tắm ở phía Tây cũng không tốt, tuy nhiên chỉ cần không có ai sinh năm Dậu, hoặc con gái đang trong thời gian chuẩn bị làm lễ cưới thì không cần phải lo lắng. Để yên tâm bạn có thể di chuyển bệt xí sang phía Tây Bắc, tức là phạm vi của Nhâm hoặc Quý.

Sưu tầm/Xzone/Tri thức thời đại


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải cho nhà tắm lầm hướng xấu

Phong thủy cho bàn làm việc –

Phong thủy bàn làm việc (Sắp xếp bàn làm việc) hợp lý là điều vô cùng quan trọng, có thể ảnh hưởng trực tiếp tới thành công hay thất bại cho sự nghiệp của bạn. Phần lớn người Việt chúng ta không để ý mấy đến bàn làm việc của mình. Tuy nhiên, nếu muốn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy bàn làm việc (Sắp xếp bàn làm việc) hợp lý là điều vô cùng quan trọng, có thể ảnh hưởng trực tiếp tới thành công hay thất bại cho sự nghiệp của bạn.

Phần lớn người Việt chúng ta không để ý mấy đến bàn làm việc của mình. Tuy nhiên, nếu muốn tạo sinh khí mới cho công việc, hãy thử thay đổi chiếc bàn lộn xộn và tìm hiểu một số nguyên tắc giúp góc làm việc của bạn hoàn thiện hơn.

86_Phong-thuy-cho-phong-(hoac-ban)-lam-viec

Hướng đặt bàn

– Bàn hướng ra cửa: Khi chọn phòng làm việc, bạn cần xem xét kỹ để phương và vị hợp với tuổi của mình. Bàn làm việc phải luôn hướng ra cửa nhưng không đối diện cửa ra vào. Đây là cách giúp bạn luôn tỉnh táo, thông minh và làm việc hiệu quả. Tuy nhiên, cách bài trí này chỉ phù hợp khi bạn được làm một người một phòng và phía sau bàn không có cửa sổ.

– Điểm tựa sau lưng: Sau lưng ngồi phải lấy tường làm “sơn” (núi) tựa, gọi là “lạc sơn”. Cách sắp xếp này làm cho người ngồi có nhiều “quý nhân” giúp đỡ, đồng nghiệp thân thiện, sự nghiệp thăng tiến. Do đó, vị trí ngồi quay mặt vào tường rất “kỵ”.

Không nên ngồi quay lưng ra cửa: Đây là vị trí ngồi thiếu “sơn” (chỗ dựa), do đó, bạn sẽ không được cấp trên chú trọng, không được cấp dưới nể phục.

– Tránh kê bàn giữa phòng: Bạn không nên đặt bàn ở giữa phòng, vì khi đó cả bốn bên đều thiếu “sơn”, tức bạn sẽ rơi vào vị thế cô lập, không được nâng đỡ về tinh thần, không được đồng nghiệp yêu quý, và đặc biệt dễ phân tán, mắc sai lầm khi làm việc.

Mẹo nhỏ giúp thay đổi phong thủy nơi làm việc
Nếu như không được may mắn tạo phong thủy và môi trường làm việc tốt tại công sở, bạn sẽ chấp nhận nó? Không, đừng làm khó mình như vậy. Hãy thử cải thiện tình hình bằng những gợi ý sau:

– Nếu chẳng may vị trí bạn được sắp xếp ngồi quay lưng ra cửa ra vào, không sao, bạn có thể nhìn thấy những gì diễn ra sau lưng chỉ bằng một tấm gương, tấm kính nhỏ đặt trên bàn.

– Bạn cũng có thể mang đến văn phòng những vật dụng nhỏ để tạo thêm cảm xúc, năng lượng khi làm việc. Đó có thể là một bức ảnh gia đình, một tấm ảnh phong cảnh, một chậu cây nhỏ… để thanh lọc không khí căng thẳng nơi làm việc.

Tuy nhiên, bạn nên đặt những đồ dùng có năng lượng nhiều ở bên trái của bàn hoặc căn phòng, rồi đến những đồ dùng ít năng lượng hơn. Ví dụ như đặt cây cảnh, máy vi tính hoặc điện thoại ở bên trái bàn làm việc, đặt giấy, đồ cắm bút và những vật dụng nhỏ ở bên phải chiếc bàn. Nếu bên phải của căn phòng nhiều năng lượng hơn bên trái, chúng ta có thể đặt 1 tấm gương, hoặc 1 bức tượng hình rồng, tỳ hưu hoặc lân ở bức tường bên trái để tạo sự cân bằng.

Chú ý giữ cho khu vực làm việc ngăn nắp gọn gàng, không có nhiều thứ linh tinh, lộn xộn. Nếu bàn làm việc lộn xộn, bạn sẽ cảm thấy bức bách, nguồn năng lượng làm việc sẽ nhanh chóng sụt giảm. Ngoài ra, sắp xếp phòng làm việc gọn gàng, ngăn nắp, giữ cho không gian thoáng đãng để dòng khí lưu thông sẽ giúp chúng ta giảm bớt sự nóng nảy, giận dữ, lo lắng đồng thời tăng khả năng sáng tạo và sự hài lòng trong công việc.

– Nếu sau lưng bàn là một cửa sổ lớn, bạn nên treo một tấm rèm cửa dày. Trên ngưỡng cửa sổ, bạn có thể đặt một quả cầu thủy tinh bằng thạch anh thiên nhiên.

– Thông thường, phòng làm việc ở các cao ốc thường lát gạch bóng loáng và ánh sáng mặt trời thường xuyên chói chang. Do vậy, chúng ta thường gặp một vấn đề không tốt trong phong thủy,tạm gọi là “sự phản chiếu ánh sáng tai hại”. Nó sẽ làm giảm khả năng suy nghĩ sâu và sự điềm tĩnh Bạn có thể dùng nhựa mờ vinyl chắn ở cửa sổ và lát sàn bằng gạch ít bóng sẽ giúp chúng ta suy nghĩ thấu đáo và kiên nhẫn hơn

Nguyên tắc bày biện chung

– Đặt máy tính ở bên phải bàn, hướng tây (thuộc cung tử tức) hoặc hướng tây bắc (cung quý nhân). Những vị trí này sẽ hỗ trợ cho hoạt động suy nghĩ và nhận thức.

– Xếp hồ sơ, giấy tờ cần giải quyết gấp ở hướng đông (cung tài lộc).

– Nếu đèn bàn được bố trí tại hướng nam (cung danh vọng), bạn sẽ thưởng được cấp trên công nhận hoặc khen ngợi.

– Đặt vật chặn giấy thủy tinh hoặc pha lê ở hướng tây bắc (cung quý nhân). Từ đó, bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ của nhiều người.

– Danh thiếp của đối tác làm ăn nên đặt ở hướng bắc (thuộc cung quan lộc). Có vậy công việc của bạn mới có thể gặp nhiều thuận lợi, may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho bàn làm việc –

Treo tranh kỵ mệnh, lưu ý "đỏ" về phong thủy

Để trang hoàng cho một ngôi nhà hiện đại không thể thiếu những bức tranh đầy màu sắc. Nhưng để treo tranh cho hợp phong thủy thì không phải dễ. Có nhiều điều cần lưu ý trong treo tranh bạn cần biết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn nên:

1. Lựa chọn các vị trí treo tranh

Nếu bạn treo tranh ở vị trí cát trong nhà sẽ giúp cho vị trí đó thêm may mắn, còn nếu bạn treo tranh ở vị trí hung, tranh có khả năng áp chế hung khí, tránh sát khí sản sinh trong không gian sống nhà bạn. Vị trí ở phía trên ghế sofa được xem là thích hợp hơn cả.

Các vị trí hung và cát trong nhà theo phong thủy năm 2015 được phân bố lần lượt như sau:

Đại Cát

Hướng Bắc, hướng Tây Nam

Tiểu Cát

Hướng Đông, hướng Đông Bắc

Tiểu Hưng

Hướng Nam, hướng Tây Bắc và chính giữa

Đại Hung

Hướng Tây, hướng Đông Nam

 

treo tranh trong phong thủy
Treo tranh cần lưu ý kĩ về phong thủy

2. Lưu ý Ngũ hành của gia chủ để quyết định việc treo tranh

Bạn nên chọn các loại tranh tương ứng với Ngũ Hành chứ không nên tương khắc với Ngũ Hành.

Chẳng hạn:

- Với gia chủ có Ngũ hành thiếu Mộc: Rất thích hợp để treo tranh liên quan đến cây cối như loại tranh "trúc báo bình an", vận thế của gia đình sẽ thêm hưng khi treo loại tranh này.

- Còn nếu gia chủ có Ngũ hành kỵ Mộc, thì không nên treo tranh Mẫu đơn và các loại tranh cây cối hoa cỏ, các loại tranh này không những đem đến phong thủy không tốt mà còn có thể áp chế vận thế của chủ nhân, khiến cho mọi việc trong nhà đều trở nên khó khăn hơn thường ngày.

treo tranh theo phong thủy 1
Nếu bạn có Ngũ hành kỵ Mộc thì nên kiêng treo tranh Mẫu đơn và các loại tranh
cây cối hoa cỏ trong nhà

Tương tự:

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Thủy: Nên treo tranh có liên quan đến yếu tố nước như Cửu Ngư quần hội, Hoàng Hà Trường Giang...

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Kim: Nên treo tranh liên quan đến yếu tố vàng và kim loại như Chiêu tài tiến bảo...

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Hỏa: Nên treo tranh có màu sắc mạnh như Mẫu đơn đỏ hoặc Bát tuấn đồ...

- Gia chủ có Ngũ hành thiếu Thổ: Nên treo tranh liên quan đến các công trình kiến trúc như Vạn lý trường thành...

Bạn không nên:

1. Treo tranh ở dưới cửa sổ và điều hòa.

2. Treo quá nhiều tranh, nếu bạn làm vậy sẽ sẽ phản tác dụng, vận thế của gia đình sẽ bị ảnh hưởng, hơn nữa khi làm việc sẽ tự tạo áp lực cho bản thân trong học tập, công việc và cuộc sống.

treo tranh theo phong thủy 2
Vận thế của những người trong gia đình bị ảnh hưởng nếu treo quá nhiều tranh

3. Bạn cũng không nên treo trong nhà các loại tranh có hình thù kỳ dị hoặc quá trừu tượng, các bức tranh này sẽ khiến cho các thành viên trong gia đình bị ám ảnh và căng thẳng về tinh thần, trừ khi gia đình bạn là gia đình họa sĩ.

treo tranh theo phong thủy 5
Các thành viên trong gia đình sẽ có ảnh hưởng không tốt về tinh thần nếu trong nhà
treo tranh có hình thù kỳ dị hoặc quá trừu tượng

4. Về màu sắc của tranh, bạn lưu ý không nên dùng tranh có màu quá đậm hoặc sử dụng quá nhiều màu đen sẽ không tốt. Màu sắc của tranh như vậy có thể khiến cho người ta có cảm giác rất nặng nề, ngoài ra còn có thể khiến cho ý chí của con người bị giảm sút, làm việc hay học tập sẽ dễ dẫn đến thiếu quyết tâm.

treo tranh theo phong thủy 89
Ý chí của bạn có thể bị ảnh hưởng nếu sử dụng tranh có quá nhiều màu đậm hoặc đen

Những lưu ý trên cũng có thể giúp bạn chọn được bức tranh hoàn hảo làm quà Tết cho người thân, bạn bè trong dịp Tết Nguyên đán.

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh kỵ mệnh, lưu ý "đỏ" về phong thủy

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd