Mơ thấy lươn –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
1. Giới thiệu về năm bản mệnh
Trong cuộc đời khi một người gặp phải một năm có địa chi giống như năm mà người đó sinh ra, thì năm đó gọi là năm bản mệnh hay năm tuổi.
2. Năm 2015 là năm bản mệnh của những người nào?
Mỗi năm sẽ có những người bước vào năm bản mệnh, bị các sao Hung chiếu, khiến cho cuộc sống lận đận, không thể yên ổn. Năm nay những người sinh năm 1931, 1943, 1955, 1967, 1979, 1991, 2003 sẽ bước vào năm bản mệnh.
Năm nay là năm bản mệnh của những người cầm tinh con Dê.
3. Năm bản mệnh có ảnh hưởng như thế nào?
Năm bản mệnh cũng giống như một chiếc ghế có hai người cùng ngồi, một bát cơm có hai người cùng ăn, hoặc đi đường, làm việc phải cõng thêm một người nữa. Năm bản mệnh có cái tốt cũng có cái xấu. Điều tốt là tiền tài sẽ tăng lên nhanh chóng, sự nghiệp lên như diều gặp gió; điều xấu là điều xui xẻo liên tiếp kéo tới.
Tóm lại, những người trong năm bản mệnh sẽ không thể có một năm yên lành. Trong năm 2015, năm bản mệnh là thiên can Ất Mộc khắc chế Vị Thổ, khiến cho những người tuổi Dê chịu nhiều ràng buộc, khó có thể tiêu dao tự tại.
4. Vận thế của những người năm bản mệnh 2015
Những người tuổi Dê một khi bước vào năm Dê Ất Vị, sẽ bị các sao hung Kiếm Phong, Thái Tuế, Trạng Thi chiếu. Khi đó dễ có hiện tượng sức khỏe bị tổn hại, công việc sự nghiệp có biến động lớn, hoặc là nhảy việc, từ chức, thất nghiệp, đương nhiên cũng có cả thăng chức, điều động,...- không nhất định là chỉ có những ảnh hưởng xấu. Về tài vận, nhất là những người kinh doanh, khi đầu tư khoản tiền lớn thì cần vạch kế hoạch kĩ càng, kể cả phương án khống chế rủi ro để tránh lâm vào bước đường cùng, đói quá hóa liều.
Những người năm bản mệnh có áp lực tâm lý lớn, thường rơi vào trong mâu thuẫn, khó có thể thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, cần tự điều chỉnh, gặp gỡ giao lưu với nhiều người và tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể.
Những người thuộc năm bản mạng cần vạch rõ kế hoạch khi kinh doanh để tránh rủi ro.
5. Vận thế của từng năm bản mạng cụ thể thế nào?
Những người sinh năm 1931: tránh ngã bị thương.
Những người sinh năm 1943: chú ý các bệnh về tim, ngực, huyết quản.
Những người sinh năm 1955: chú ý bệnh về gan, thận.
Những người sinh năm 1967: tài vận không ổn định, đầu tư cần thận trọng.
Những người sinh năm 1979: dễ chiêu đào hoa, cần giữ mình thanh khiết.
Những người sinh năm 1991: công việc dễ gặp nhiều biến động.
Những người sinh năm 2003: học tập dễ phân tâm, không thể tập trung tinh thần.
Trên đây chỉ là những vấn đề nổi trội của từng năm chứ không có nghĩa là những người trong năm đó chỉ có hung mà không có cát.
6. Cấm kỵ trong năm bản mạng
- Những người năm bản mạng kỵ nhất là bị thương, chảy máu, phẫu thuật - nhất là những người tuổi đã cao hoặc những người hoạt động ngoài trời càng cần chú ý.
- Không được đặt đồ ví dụ như bàn làm việc, đầu giường …. ở hướng sao Thái Tuế cũng không được đặt ở hướng tương phản với Thái Tuế, tức hướng Tuế Phá. Nếu như đặt đồ vào hai hướng ấy sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra. Đồng thời vị trí Thái Tuế cần được giữ gìn sạch sẽ, có thể trồng cây phong thủy để tăng thêm may mắn, không nên động thổ, tu sửa ở hướng này. Năm nay hướng sao Thái Tuế là hướng Tây Nam, hướng Tuế Phá là Đông Bắc.
7. Cách hóa giải cho những người năm bản mạng
- Dùng vải đỏ: trên những cây cổ thụ gần đền chùa thường treo rất nhiều mảnh vải đỏ. Nhiều người không biết những mảnh vải này dùng để làm gì, thật ra là dùng để hóa giải tai kiếp. Mua 1/3m vải đỏ, dùng bút viết tên và thời gian sinh của mình, và cả ước nguyện, sau khi viết xong buộc ở eo hoặc đặt dưới gối. Ba ngày sau, chọn giờ lành đem buộc lên cây cổ thụ. Trước khi buộc lên cây cổ thụ cần đi quanh cây bên trái 3 vòng, bên phải 3 vòng, vừa đi vừa lẩm nhẩm ước nguyện của mình.
Vì sao như vậy lại có thể hóa bỏ tai ương và bảo vệ cho bạn? Là bởi vì những cây cổ thụ có tuổi thọ cao, sức sống mãnh liệt, khả năng chịu đựng và chống chọi với tự nhiên khắc liệt lớn, trải quả hàng trăm năm mưa gió bão bùng còn không bị đổ, huống chi là gánh vác chút khó khăn của bạn.
- Phóng sinh: 3 ngày trước khi phóng sinh, mua 3 đến 5 còn rùa, mỗi con khoảng nửa cân, trên lưng rùa khắc tên của mình. Nuôi những con rùa này trong phòng ngủ của mình 3 ngày. 3 ngày sau chọn giờ lành đem thả ở ao, sông hoặc hồ.
Nếu như có thể kiên trì phóng sinh trong nhiều năm, thì không những sức khỏe dồi đào, mà sự nghiệp, tình duyên cũng thuận lợi. Thời gian thích hợp nhất để phóng sinh, thường là những ngày cuối cùng của một năm hoặc những ngày đầu tiên của một năm, lấy Âm lịch làm chuẩn.
Phóng sinh rùa là một cách hóa giải vận hạn năm bản mạng.
- Đi chùa: Nếu như có điều kiện, đầu năm những người năm bản mạng nên đến chùa, miếu bái Thái Tuế hoặc đốt hương cầu phúc.
Đốt hương cầu Phúc là việc không thể thiếu trong những ngày Tết để hóa giải vận hạn.
- Dùng bùa: Cách này tương đối phức tạp, còn dựa vào từng người cụ thể, tốt nhất nên hỏi ý kiến của những người có chuyên môn.
Luận âm dương ngũ hành thì Kỷ Dậu có thiên can Kỷ âm Thổ, địa chi Dậu âm Kim, Thổ Kim tương sinh nên hòa hợp, mang tới may mắn, cát tường trọng vận mệnh. Người tuổi Kỷ Dậu là nữ thì có chút hẹp hòi, thường hay đố kị với người khác, ít khoan dung, thiếu độ lượng, tính toán chi li tỉ mỉ theo thói nữ nhi thường tình. Nhưng may mà không có tai ách nên vợ chồng duyên phận tốt, cũng là người phụ nữ có trí tuệ, biết điểm dừng. Tử vi của người sinh năm Kỷ Dậu cho biết, người này thái độ làm người cơ trí, khéo léo, nhưng lại hay có tà ý, nảy sinh mưu đồ xấu. Cả đời phúc lộc song toàn, gần quan gần quý, nhưng không thể dựa vào người thân, nếu có thể thúc đẩy chí hướng thì nhất định đạt danh lợi. Người sinh mùa xuân, hạ sẽ làm rạng rỡ tổ tông, người sinh mùa thu, đông tài vận hanh thông nhưng hay lo sợ không đâu, tuổi già sung túc, yên tâm hưởng lạc. Lục Thập Hoa Giáp của Kỷ Dậu là Đại Trạch Thổ, cuộc đời bình an, hậu vận phát đạt. Người này nếu có chí hướng thì sẽ tốt hơn vì mưu lược, biết tính toán lại có số mệnh tương sinh hòa hợp, làm ăn thịnh đạt. Nếu không có chí hướng thì chỉ bình bình qua ngày, no cơm ấm áo, không phải dư dả.
![]() |
Trong các mệnh cách của Tử vi đẩu số thì các mệnh cách: Mệnh lý phùng không (Không Kiếp giáp mệnh, Không Kiếp giáp kỵ), Dương đà giáp kỵ, Mã lạc không vong là bất lợi nhất đối với tiền tài.

Sao Địa không, Địa kiếp tọa mệnh, là mệnh cách Mệnh lý phùng không.
Mệnh tọa cung Nhật, Hợi, 2 sát tinh Không, Kiếp giáp mệnh là mệnh cách Không Kiếp giáp mệnh, nếu lại gặp sao Hóa kỵ tọa mệnh thì gọi là mệnh cách Không Kiếp giáp kỵ.
Sao Địa không tọa mệnh cũng giống như “gãy cánh giữa chừng”, thường gặp phải sự đả kích mang tính đột ngột, rơi vào tay trắng.
Sao Địa kiếp tọa mệnh cũng giống như “chèo thuyền trên sóng”, thường gặp phải những con sóng bất định, nếu cung Mệnh không có cát tinh thì cầu danh cầu lợi đều không đạt, cần phải tín ngưỡng tôn giáo đồng thời thường rời xa nhà, thanh nhàn thì mới có thể kéo dài tuổi thọ.
Không kiếp giáp mệnh thì thường phát sinh đứt gánh giữa chừng và chèo thuyền trên sóng, mệnh cách Không Kiếp giáp kỵ thì càng không cát lợi.
Sao Lộc tồn, Hóa kỵ cùng tọa mệnh, hai sát tinh Kình dương, Đà la giáp cung Mệnh là mệnh cách Dương Đà giáp kỵ.
Sao Kình dương chủ hình thương, thường có danh thương phá hoại, hoặc thương tích ngoài dự liệu.
Sao Đà la chủ thị phi, thường bị đâm lén sau lưng, hoặc bệnh tật bên mình, 2 sát tinh lại giáp sao Hóa kỵ của cung Mệnh, chủ cả đời nhiều khốn khó trắc trở, bất cứ việc gì đều khó được như ý, cô bần hình khắc, trăm sự không cát lợi.
Sao Thiên mã tọa mệnh, Tài bạch, Thiên di, cung Điền trạch, gặp sao Không vong như Địa không, Tiệt không, Tuần không là mệnh cách Mã lạc không vong. Sao Thiên mã chủ tài lộc, di chuyển, nhanh trí cần mẫn, có lực hành động, xuất ngoại thì phát đạt.
Sao Thiên mã nếu rơi vào Không vong (tử tuyệt) địa, tai bệnh liên miên, cả đời bôn tẩu, làm việc mà không được thành tựu. Nếu sao Thiên mã, Lộc tồn cùng tọa cung Mệnh, Tài bạch, Thiên di, Điền trạch, mặt khác lại rơi vào Không vong thì càng không cát lợi.
Một câu chuyện có thật về Phong Thủy trong kinh doanh được chia sẻ bởi thành viên trên diễn đàn lý số.
"Tôi có người anh họ ở Nam Định, lên Hà Nội mở quán Hải Sản, một lần tôi rủ mấy người bạn đến đó nhậu, ngạc nhiên thấy nét mặt ông chủ quán - anh họ tôi rất ỉu xìu."Quán nhậu này từ lúc mở tại đây đã hơn 1 năm đều đông khách và thu về rất nhiều. Cách đây chừng 3 tháng, có một quán Hải Sản khác chuyển đến đúng căn nhà đối diện bên kia quán và cướp kết khách của anh" - anh tôi tâm sự. Ngoài ra anh còn nói rằng không thể tin nổi vì sao lại bị mất khách vì giá thành của 2 bên gần như nhau trong khi đồ ăn thức uống bên đó có phần kém mình. Mấy tháng nay quán vắng như chùa bà đanh, có chăng cũng chỉ vài người khách quen. Anh đứng ra ngoài chỉ trỏ, " đấy, em nhìn bên kia, khách nó lườm lượp đúng như quán anh mấy tháng trước thôi", rồi thở dài buồn rười rượi muốn chuyển quán ăn đến khu vực khác. Khi nhìn sang quán đó, tôi nhận ra 1 điều, đây là 2 quán hải sản duy nhất của Khu phố mà vị trí đối diện nhau chan chát, con phố thì hẹp, 2 quán ăn có chiều rộng gần bằng nhau và đều là 2 tầng. Trên quán đối diện treo một tấm biển to và bên dưới đỡ bằng 1 hàng thép khoảng D16 neo chặt vào tường, cái đặc biệt ở chỗ là hàng thép gồm nhiều thanh thép xếp song song, một đầu được cán nhọn hoắt như đầu mũi kim nhọn hướng thẳng về phía đối diện.

Tôi chợt hiểu ra đây giống cách thức dùng lưỡi cày mà chôn trước cửa nhà người ta để mong hại cả nhà người ta đây mà. Kéo anh vào trong nhà trong, tôi thủ thỉ bày anh cách hóa giải cái hại này. Anh tôi là thành phần vô thần, ko mê tín dị đoan chỉ biết làm ăn chân chất, có lẽ nghe tôi nói một hồi không hiểu lắm, anh bèn bắt tôi ghi cụ thể ra giấy để làm theo, vì sợ nghe mà chưa hiểu hết chưa nhớ được sẽ làm sai. Tôi nói sao viết vậy cho anh như sau: " Đây là một trò của bọn làm ăn, dùng phong thủy để cạnh tranh với người đối diện. Nó dùng mũi sắt để phá quán nhà anh. Bây giờ anh phải thay biển cửa hàng, nó dùng kim khí phá mình thì mình phải dùng hỏa khắc lại, biển cửa hàng anh phải làm bằng kích thước biển nhà nó, đặt thấp hơn, 3/4 diện tích phía trên biển sơn màu đỏ đậm đối diện với mũi sắt chĩa sang, chính giữa phần này ghi tên quán ăn, 1/4 diện tích phía dưới sơn màu đen tuyền, phần này ghi địa chỉ quán ăn. Vì màu đỏ hành hỏa, hỏa khắc kim, làm chảy kim, khi mũi sắt hướng sang bị kim khắc sẽ biến thành thủy, thủy chảy xuống dưới nên để 1/4 diện tích dưới là màu đen tuyền (đen là thủy), phần này ghi địa chỉ chính là làm vượng cho quán ăn. Đồng thời biển cửa hàng nhà anh phải dùng vật liệu sáng bóng, phản chiếu để phản chiếu toàn bộ mũi nhọn ngược trở lại. Như thế, biến cái khắc của nó thành cái vượng của mình đồng thời đem cái khắc của nó cho nó hưởng một ít."
Thực ra tôi bày cho anh cũng chỉ là cảm hứng nhất thời và không nghĩ anh sẽ làm theo, khoảng 5 tháng sau, anh gọi cho tôi cảm ơn và mời tôi đến quán nhậu 1 bữa. Tôi rất ngạc nhiên khi đến nơi mọi thứ đã thay đổi hẳn, anh treo biển rất cẩn thận theo đúng như lời khuyên. Anh kể rằng, từ khi thay biển mới khoảng chừng 1 tháng, khách hàng lại đông dần lên và quán làm ăn được trở lại. Bên kia thì khách hàng đã thưa dần tuy nhiên vẫn không đến mức hiếm hoi như quán anh trước đây. Anh nói nhờ tôi mà anh không phải chuyển cửa hàng. Tôi cũng mừng thầm và nghĩ rằng có lẽ cái thâm thúy của Ngũ hành thực ra đơn giản vậy."
Bởi vậy, khi bắt tay vào kinh doanh bạn phải làm dày thêm vốn hiểu biết về phong thủy, như chọn ngày lành tháng tốt, chọn đối tác, xem hướng, hiểu ngũ hành,...như vậy mọi việc sẽ trở nên suôn sẻ hơn rất nhiều. Chúc các bạn thành công.
Theo Phong Thủy Đời Sống
Phong tục cưới hỏi của người Việt bao gồm nghiều thủ tục và lễ nghi khác nhau, cho đến nay thì những thủ tục đó vẫn được phát huy và lưu giữ. Lễ cưới người Việt bao gồm các phong tục cưới hỏi sau: Lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ nạp tài, lễ thành hôn. Khi tổ chức một tiệc cưới thì hai bên gia đình nhà trai va nhà gái đều phải thực hiện đầy đủ các phong tục và lễ nghi đó.
Vậy để giúp cô dâu và chú rể cũng như phụ huynh của hai bên gia đình hiểu được rõ hơn về những thủ tục ấy. Xin chia sẻ cùng bạn tìm hiểu vể lễ nạp tài trong cưới hỏi người Viêt.
Lễ nạp tài là một nghi lễ được tiến hành đồng thời với nghi lễ ăn hỏi. Vào ngày ăn hỏi gia đình nhà trai sẽ chuẩn bị những nghi lễ cũng như các tráp lễ vật đưa tới nhà gái để hỏi cưới cô dâu. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi vùng miền mà tráp lễ vật được chuẩn bị khác nhau, và số lượng tráp cũng khác nhau.
Nhưng thông thường trong lễ ăn hỏi phải có các thứ lễ vật sau:
Có rất nhiều ý kiến cho rằng khoản tiền nạp tài đó là khoản tiền ,à nhà gái thách cưới nhà trai. Nhưng có ý kiến lại cho rằng khoản tiền đó là nhà trai mang sang để cảm ơn công sinh thành, nuôi dưỡng của nhà gái đối với con dâu mà họ sắp rước về. Và có ý kiến lại cho rằng khoản tiền đó là nhà trai dành tặng cho cô dâu để làm của hồi môn sau ngày cưới.
Số tiền nạp tài đó sẽ được nhà trai trình bày trong một mâm tráp riêng hoặc kèm theo mâm tráp đồ nữ trang cho cô dâu. Thông thường só tiền nạp tài là số tiền lẻ nhằm mang lại sự may mắn và hạnh phúc cho cô dâu và chú rể.
Lễ nạp tài mang một ý nghĩa tót đẹp, nhưng cũng động chạm tới vấn đề nhạy cảm giữa hai bên gia đình do vậy cô dâu và chú rể có vai trò trong việc bàn bạc và thống nhất giữa hai bên gia đình. Không đặt nặng vấn để tiến bạc mà phải coi trọng hạnh phúc của cô dâu và chú rể là trên hết và một tình thông gia bền chặt.
Lễ Giỗ Tứ Kiệt
Thời gian: tổ chức vào ngày 25 tháng 12 âm lịch.
Địa điểm: thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn 4 vị anh hùng: Nguyễn Thanh Long, Trần Công Thận, Trương Văn Rộng, Ngô Tấn Đước bị giặc pháp xử chém ngày.
Nội dung: Lễ giỗ được tổ chức tại lăng Tứ Kiệt. Các năm chẵn, lễ giỗ được tổ chức quy mô, có cách ban ngành trong tỉnh tham gia.
Đọc thêm:
Lễ giỗ 4 vị anh hùng: Nguyễn Thanh Long, Trần Công Thận, Trương Văn Rộng, Ngô Tấn Ðước, bị giặc Pháp xử chém ngày 14/2/1871, nhằm ngày 25 tháng chạp năm Canh Ngọ. Lễ giỗ được tổ chức tại Lăng Tứ Kiệt (thị trấn Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Các năm chẵn, lễ giỗ được tổ chức qui mô, có các ban ngành trong tỉnh tham gia.
Tứ Kiệt” hay “Bốn Ông” là cách gọi tôn kính của nhân dân theo cách sắp xếp thứ tự trong quân thứ đối với 4 vị anh hùng lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở vùng Cái Bè, Cai Lậy. Đó là các ông Long, ông Thận, ông Rộng, và ông Đước.
“Tứ Kiệt” hay “Bốn Ông” là cách gọi tôn kính của nhân dân theo cách sắp xếp thứ tự trong quân thứ đối với 4 vị anh hùng lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở vùng Cái Bè, Cai Lậy. Đó là các ông Long, ông Thận, ông Rộng, và ông Đước.
Ông Long tên họ là Nguyễn Thanh Long, hay còn gọi là ông Năm Long sinh năm Canh thìn (1820), tại nơi mà nay gọi là xóm Cầu Ván, ấp Cẩm Hòa, xã Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy. Khi Nguyễn Thanh Long ly khai gia đình đi kháng chiến, người chị cả của ông là bà Hai An bị tên Việt gian Trần Bá Lộc bắt giam nhục hình, đòn roi đến thúi cả hậu môn. Em kế là ông Sáu Quang cũng bị chúng bắt tra khảo rất dã man, rồi đày đi Côn Đảo!
Ông Năm Long kết hôn với bà Phạm Thị Lài, sinh được hai gái là Nguyễn Thị Ngọc và Nguyễn Thị Sửu. Trong thời gian bôn ba chiến trận, ông có thêm một bà vợ thứ ở Vĩnh Long, sinh được một trai. Ông thọ 52 tuổi.
Nhân vật số 2 là ông Trần Quang Thận, tự là Phượng, nguyên quán tại xóm Đập, ấp Mỹ Phú, xã Mỹ Trang (nay là Nhị Mỹ, Cai Lậy). Ông có 8 người con là Trần Thị Nhặt, Trần Công Tú, Trần Quang Thanh, Trần Văn Sanh, Trần Quang Nhi, Trần Thị Lang và 2 người nữa không rõ tên. Hậu duệ của ông hiện nay đã đến đời thứ 7, nhưng đều đi tứ tán nên không tìm biết được năm sinh của ông. Tuy nhiên người ta ước đoán rằng, tuổi ông và ông Long tương đương nhau, lúc hy sinh thì người con thứ tư là Trần Quang Thanh đã làm đến chức Quản đạo.
Có thể khi bị bắt, ông dũng cảm khai nhận hết trách nhiệm về phần mình, nên người Pháp đã nhầm lẫn ông là người cầm đầu, gọi là Ngươn soái.
Hai nhân vật cuối, người ta chỉ biết được tên họ là Trương Văn Rộng, người xã Tân Hiệp, Bến Tranh (nay là Tân Hội Đông, huyện Châu Thành), và Ngô Tấn Đước, gốc gác ở Tân Hội, huyện Cai Lậy.
Đặc biệt, Tứ Kiệt đều to lớn khác thường, nước da màu đồng đen. Truyền rằng cả bốn ông đều võ nghệ cao cường, tướng pháp lanh lẹ, râu rậm, tóc dài chấm gót. Các cố lão ở địa phương kể lại, Tứ Kiệt đều có biệt tài chạy rất nhanh và nhảy cũng rất cao. Có lần gặp bất trắc, để thoát thân, một trong bốn ông đã cặp thêm bên nách một cháu nhỏ khoảng 10 tuổi, chạy vun vút như tên, tóc xổ ra phất phới như lá cờ.
Cả bốn ông đều là lính đồn điền, thuộc cấp của Thiên hộ Võ Duy Dương và Phó tướng Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều. Khi lực lượng nghĩa quân của Thiên hộ Dương tan rã, các ông Long, Thận, Rộng, Đước tiếp tục đứng ra lãnh đạo nghĩa quân, chọn vùng Cái Bè, Cai Lậy làm địa bàn hoạt động.
Tuy nghĩa binh của Tứ Kiệt chỉ được trang bị ban đầu toàn vũ khí thô sơ, chủ yếu là giáo mác, gậy gộc, nhưng nhờ biết áp dụng chiến thuật dân gian, biết vận dụng nhiều “mưu thần chước quỷ” để nâng lên thành chiến thuật, kỹ thuật trong chiến đấu theo kiểu “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nghĩa là về mục tiêu, nguyên tắc thì bất di bất dịch, còn hình thức, biện pháp thì căn cứ vào tình hình thực tế để xử lý kịp thời các vấn đề đặt ra một cách linh hoạt, mềm dẻo như:
Lấy ít đánh nhiều, gây thương vong tại chỗ, hoặc nếu không may bị vây, ví thì biết sáng tạo nhiều hình thức “gói quân”, đồng thời thiết đặt chướng ngại theo kiểu “ma ma phần phật”, nhằm gây cản trở, hoặc làm giặc phải nghi sợ, tiêu diệt sinh lực địch, hoặc nhẹ lắm cũng làm tiêu mòn dần sức hung hăng mỗi khi chúng triển khai đội hình, ruồng bố.
Các chiến thuật như làm hầm chông, gài ổ ong ở những nơi chúng hành quân, quen thói lục lạo, hôi của; cưa gần đứt hẳn các chân cầu bắc ngang kinh rạch đã có phục kích hoặc cắm sẵn chông nhọn bên dưới rồi giật sập cầu lúc chúng qua; bày kế cho các gia đình nghĩa binh giả vờ tử tế, tạo điều kiện cho giặc vào ăn, ngủ rồi tùy cơ tiêu diệt, thậm chí nửa đêm tự đốt nhà sau khi đã khóa cột chặt cứng các cửa, không có đường thoát thân, chúng phải bị nướng sống...
Hiển hách nhất là trận quân của Tứ Kiệt tấn công thành Định Tường (ở địa phận hai thôn Điều Hòa và Bình Biên ngày xưa) vang động cả khu vực. Trận này, trước khi đánh, đích thân Tứ Kiệt cải trang người đi làm mướn, len lỏi được vào nội thành, khi đã dò xét cặn kẽ đường đi nước bước và quy luật sinh hoạt của địch, lúc 3 giờ khuya đêm 01/5/1868, lợi dụng trời tối đen như mực, bọn giặc đang say ngủ, bốn ông cho nghĩa binh trèo tường vào thành, giết chết tên trưởng kho, rồi phóng hỏa thiêu rụi kho lương giặc.
Ngày 25/12/1870, lợi dụng lúc phần lớn lính Pháp kéo về Mỹ Tho ăn lễ Noel, chỉ để lại 25 tên lính mã tà, nhưng thay vì cảnh giác canh giữ đồn bót, tên chỉ huy Đội Cơ lại tổ chức nhậu nhẹt, nghĩa quân của Tứ Kiệt bất thần tấn công đồng Cai Lậy, chiếm chợ, bắt tên Việt gian Bếp Hữu, trị tội bằng cách “nướng trui”, đồng thời phóng hỏa thiêu trụi trại lính, tịch thu nhiều vũ khí, đạn dược rồi rút về căn cứ an toàn.
Do liên tiếp bị tấn công và tổn thất nặng ềnn nên thực dân Pháp huy động đến 1.200 quân, gom ở các vùng lân cận như Tân An, Mỹ Tho, Gò Công và Vĩnh Long, quyết triệt hạ bằng được các căn cứ của nghĩa quân.
Chúng ruồng bố khắp nơi. Bởi quân của Tứ Kiệt hầu hết “đêm là lính, ngày là dân”, có mặt khắp nơi nhưng lại không có mặt ở nơi nào cụ thể, cho nên sự càn quét không mang lại kết quả mong muốn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cuộc đụng độ nảy lửa diễn ra, nhưng cứ trầy trật, bất phân thắng bại. Cuối cùng, tên Việt gian Trần Bá Lộc hiến kế bắt giam và áp dụng những đòn tra khảo hiểm nghiệt đối với thân nhân gia đình bốn ông và 150 thường dân khác. Tuy không ai khai báo hoặc cung cấp điều gì, nhưng bốn ông không nỡ để cho bà con mình cứ bị tra khảo đau đớn đến thúi cả da thịt, nên bốn ông quyết định đánh đổi bằng cách tự nạp mình. Hôm ấy là ngày 1/4/1871.
Tên Lộc nhân danh đại diện chánh phủ Pháp đem vinh hoa phú quý ra dụ dỗ suốt 45 ngày không thành, giặc Pháp đem bốn ông ra chợ Cai Lậy chặt và bêu đầu ngày 14/2/1871, tức ngày 25/12 Canh ngọ.
Thân nhân gia đình chỉ được mang thân mình các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào, chôn cất. Còn 4 thủ cấp của Tứ Kiệt thì 7 ngày sau đó chúng đem vùi dập ở mé rạch sau chợ.
Cảm kích 4 vị anh hùng vì nước quên thân, vì dân diệt bạo, nhân dân địa phương ngấm ngầm chung đậu tiền của lập miếu thờ tại ấp Mỹ Cần, xã Mỹ Trang. Nhưng để che mắt thực dân, đồng bào tôn trí tượng Quan Công ở phía trước (nhân vật tiêu biểu trung nghĩa), còn ở phía sau thì làm một cái khám thờ “Tứ vị thần hồn” và giải thích là “Chùa Ông” (Quan Công) hoặc “Miếu cô hồn”. Nhưng sâu kín tận đáy lòng, không ai không biết đó là miếu thờ Tứ Kiệt.
Trận bão năm Thìn (1904), cũng như toàn bộ nhà cửa, dinh thự trong vùng, “miếu cô hồn” bị sập, nên sau dựng tại Hòa Sơn (trước là xã Thạnh Hòa), nay là thị trấn Cai Lậy - dời về cạnh mộ, vì sát đó chính quyền Pháp xây cất bệnh viện, nhân dân không ưng thuận (cho rằng gần nơi ô uế). Còn ngôi mộ (chôn 4 chủ cấp) thì từ năm 1871 vẫn đắp nấm đất; đến năm 1935 nhân dân đóng góp tiền bạc làm riêng 4 ngôi mộ bằng xi măng, song song và gần sát kề nhau, xung quanh có hàng rào sắt kiên cố.
Tại cổng “Lăng Tứ Kiệt” có chạm khắc hai câu đối:
Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm,
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.
Như đã có nói ở trên, Tứ Kiệt hy sinh ngày 14/2/1871, tức 25 tháng chạp năm Canh ngọ, nhưng tại sao hàng năm nhân dân làm lễ giỗ bốn ông vào các ngày rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng tám và 25 tháng chạp?
Xuất phát từ lòng cảm mến, kính phục oai đức, nên ngay từ thời Pháp thuộc, nhân dân đã lập đền thờ Bốn Ông và giải thích là miếu cô hồn để qua mắt chính quyền thực dân, thành ra không thể cúng đúng ngày các ông hy sinh mà phải chọn ngày tốt - tốt nhất là ngày rằm cho được danh chánh ngôn thuận, bởi theo truyền thống tín ngưỡng của nhân dân, vào những ngày này, đồng bào đi cúng bái ở chùa là chuyện bình thường, chính quyền Pháp không dòm ngó. Thượng nguơn là ngày rằm tháng giêng, ngày rằm gần nhất so với ngày các ông hy sinh. Còn Trung nguơn, rằm tháng bảy là nhằm cầu siêu cho Tứ Kiệt, cũng phù hợp với tên miếu cô hồn. Riêng vềlễ cúng tháng 8, là cúng ông Chủ Chợ, tuy tổ chức tại miếu nhưng không dính dáng gì với Tứ Kiệt.
Thành ra từ cả trăm năm, nhân dân buộc phải tổ chức lễ giỗ trật ngày. Sau năm 1975 nhân dân vẫn giữ lệ cúng hai ngày rằm ấy. Cho đến năm 1993, câu lạc bộ hưu trí của địa phương quyết định đứng ra tổ chức lễ giỗ đúng ngày các ông hy sinh là 25 tháng chạp.
Tứ Kiệt và các nghĩa dũng ở Tiền Giang đã góp phần tạo dựng lên tầm cao của một dân tộc anh hùng, và cũng chính các vị đã góp phần điểm tô cho 4 chữ vàng “địa linh nhân kiệt” của Tiền Giang được mãi mãi ngời sáng
Gương là vật dụng không thể thiếu trong nhà, ngoài tác dụng trang trí, đôi khi nó cũng khiến không gian trong nhà trở nên rộng rãi và sáng sủa hơn. Tuy nhiên, trong phong thủy, vị trí treo của gương rất quan trọng.
1. Gương kỵ đối diện với thần linh
Treo gương ở đối diện thần linh là một việc làm không tôn trọng thần linh. Lâu dài, thần linh không những không thể hiển linh mà ngược lại còn gây ra nhiều tác dụng tiêu cực.
2. Gương kỵ đối diện với cửa chính của nhà
Thông thường, không nên treo gương ở đối diện cửa chính. Gương có tác dụng phản chiếu, nên sẽ ngăn cản tài vận, phản chiếu tài vận đi mất. Sự nghiệp của mọi người trong gia đình vì thế sẽ gặp nhiều sóng gió, hoặc về mặt tài vận sẽ chịu nhiều tổn thất.
3. Gương kỵ đối diện với cửa của phòng ngủ chính
Cửa phòng ngủ chính và cửa chính của cả ngôi nhà đều quan trọng như nhau. Phòng ngủ chính là nơi mà chủ nhân của ngôi nhà nghỉ ngơi, nơi mà người đó sẽ giành nửa thời gian cuộc đời ở đó, cho nên không nên treo gương ở đối diện cửa.
4. Gương kỵ treo ở trên trần nhà
Gương khảm vào trên trần nhà, những người ở dưới sẽ hao tài hao lực, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Đặc biệt bạn chú ý là không được khảm lên trần nhà phòng khách.
5. Gương kỵ treo đối diện cửa phòng vệ sinh
Phòng vệ sinh là một nơi rất riêng tư, nếu như gương đối diện cửa nhà vệ sinh sẽ khiến người khác dễ nhìn thấy đồ vật trong nhà vệ sinh cùng nhất cử nhất động trong đó. Chưa tính đến yếu tố phong thủy thì trong thiết kế nhà ở cũng không hay.
6. Gương kỵ đối diện giường ngủ
Gương nếu như treo đối diện giường ngủ, chủ nhân sẽ dễ gặp ác mộng mà tỉnh dậy. Ý thức khi ngủ nằm trong trạng thái mơ hồ, do đó cũng dễ bị bóng của mình trong gương làm hoảng sợ. Đồng thời, gương có tác dụng phản chiếu, do đó sẽ phản chiếu ngược vận may của chủ nhân.
7. Gương kỵ treo ở phòng bếp
Phòng bếp là nơi hỏa vượng, nếu như gương treo trong phòng bếp, trong gương ngoài gương đều là lửa, sẽ khiến cho hỏa càng vượng hơn. Theo quan niệm xưa, bố trí như vậy rất dễ xảy ra hỏa hoạn hoặc các chuyện ngoài ý muốn khác.
8. Gương kỵ treo ở vị trí tài
Vị trí tài trong gia đình và tài vận của mọi người có quan hệ mật thiết với nhau. Gương treo ở vị trí tài sẽ phản tác dụng, ở vị trí này chỉ nên treo các linh vật may mắn.
9. Gương kỵ treo đối diện bàn học
Đối với một số học sinh mà nói, đối diện bàn học treo một chiếc gương sẽ khiến họ phân tâm. Học ít, soi gương nhiều, lâu dần sẽ ảnh hưởng tới kết quả học tập.
10. Kỵ gương ở cửa nhà hàng xóm đối diện cửa nhà mình
Rất nhiều người treo gương ở trước cửa nhà mình, như vậy sẽ ảnh hưởng tới vận thế nhà hàng xóm. Ngược lại cửa nhà hàng xóm treo gương đối diện cửa nhà mình, sẽ đem lại điều không may.
Theo Leo St (to8to) (Khám phá)
Mỗi người có một phong cách lái xe riêng và thông qua cách cầm vô lăng có thể biết bạn là người như thế nào.
Theo thuyết ngũ hành, mỗi người thuộc một cung mệnh khác nhau sẽ có tính cách khác nhau và có nét đặc trưng riêng về vẻ ngoài, tính cách, cuộc sống hôn nhân theo từng mệnh. Dưới đây là bài viết liên quan đến tính cách người mệnh Mộc.
![]() |
![]() |
| ► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
![]() |
Người tuổi Tỵ sẽ luôn luôn gặp may mắn, thuận lợi và hạnh phúc cả trong tình yêu cũng như trong cuộc sống. Người tuổi Tỵ thường hết lòng thương yêu người bạn đời của mình, đồng thời vun đắp cho cuộc hôn nhân ngày càng phát triển và tươi đẹp.
Trong cuộc sống gia đình, những người phụ nữ tuổi Tỵ với ý thức bản ngã rất cao sẽ sắp xếp mọi việc trong nhà đâu vào đấy, ngăn nắp và rất gọn gàng. Vì vậy, họ thường được người chồng vô cùng nể phục. Những người phụ nữ tuổi Tỵ cũng có thể từ bỏ tất cả vì gia đình của mình, chuyên tâm chăm lo cho chồng, con. Họ cũng có thể sẽ học cắm hoa, vẽ tranh, nấu nướng những khi rảnh rỗi để cố gắng làm tròn thiên chức của một người vợ hiền.

Những người đàn ông tuổi Tỵ thường rất coi trọng gia đình. Họ cũng thường coi mình là trụ cột, là người chủ trong gia đình và yêu cầu vợ con phải nhờ cậy, dựa dẫm, tôn trọng mình. Tuy nhiên, họ cũng là những người khá bảo thủ vì dù biết thừa là mình làm sai một việc gì đó nhưng cũng khó lòng thừa nhận một cách chính thức.
Những người phụ nữ tuổi Tỵ thường thích chồng luôn ỏ bên cạnh mình. Họ cũng dễ chạnh lòng nếu người chồng không quan tâm họ đúng mức. Những biểu hiện này còn trở nên rõ ràng hơn sau khi họ kết hôn. Họ khó tha thứ được cho chồng, ngay cả với việc anh uống bia với đồng nghiệp, bạn bè sau khi hết giờ làm việc. Tuy nhiên do người vợ tuổi Tỵ khá đảm đang và chu toàn trong gia đình nên người chồng thường sẽ bị "cảm hóa", một lòng một dạ yêu thương vợ con cũng như ngày càng để ý, chăm sóc tổ ấm của hai người hơn.
Khi lựa chọn đối tượng kết hôn, người tuổi Tỵ thường chọn người có tính cách tương đồng với mình. Cả hai người sẽ đồng tâm hiệp lực đi trọn con đường đời còn lại. Người tuổi Tỵ cũng thường yêu rất nhiều và có nhiều kỷ niệm về tình yêu trong suốt cuộc đời mình.
Người tuổi Tỵ sẽ dành phần lớn tình yêu cho gia đình và cùng người bạn đời của mình chung sống một cách vui vẻ. Họ luôn biết kính trọng lẫn nhau để cùng hưởng hạnh phúc, an nhàn, làm cho gia đình hòa thuận, êm ấm.
Nam giới tuổi Tỵ thường rất có chí hướng phấn đấu, hành động nhanh nhẹn và gây được sự chú ý của những người khác. Họ cũng có nhiều cơ hội giao tiếp trong xã hội, được nhiều phụ nữ để ý, yêu mến.
Nữ giới tuổi Tỵ lại là những người rất thẳng thắn, là mẫu người điển hình về sự chung thủy trong tình yêu và là đối tượng được khá nhiều người đàn ông khác theo đuổi.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Tý: Trong tình yêu, hai người rất tâm đầu ý hợp, kể cả những lần đầu làm quen, hẹn hò nhau. Trong cuộc sống hôn nhân sau này, sự hòa hợp giữa hai cá nhân giờ đây còn có thêm cả trách nhiệm với hai bên gia đình và con cái nên ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Sửu: Tình yêu và hôn nhân của hai người tương đối hòa thuận. Người chồng sẽ luôn cố gắng nghe theo những yêu cầu, đề nghị của người vợ.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Dần: Cả hai người có cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc dài lâu bên nhau. Suy nghĩ của cả hai có khá nhiều điểm khác biệt nhưng bởi sự tận tâm của người chồng tuổi Tỵ và sự khéo léo của người vợ tuổi Dần nên những khác biệt đó lại tạo thành những niềm vui trong cuộc sống hay ý tưởng tốt trong công việc.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuôi Mão: Hai người có thể sống lâu dài bên nhau bởi người vợ tuổi Mão luôn biết cách hun đúc ngọn lửa hạnh phúc gia đình.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Thìn: Người chồng tuổi Tỵ luôn luôn phấn đấu cho sự nghiệp còn người vợ tuổi Thìn rất mạnh mẽ và luôn hỗ trợ cho chồng. Cuộc sống gia đình ngày càng thịnh vượng và giàu sang.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Tỵ: Hai người có nhiều điểm chung với nhau, tính cách khá tương đồng nên thường chung chí hướng, chung lối suy nghĩ, thuận vợ thuận chồng, làm việc gì cũng nên.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Ngọ: Cặp đôi này thường bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh hơn chính hai người trong cuộc. Nếu có thể nghe theo trái tim và tin tưởng vào chính mình thì cuộc hôn nhân sẽ bền chặt và hạnh phúc dài lâu.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Mùi: Cuộc tình giữa hai người là cuộc tình với những yếu tố xáo động lẫn lộn nhưng cả hai người vẫn giữ được nhau. Nếu cả hai đều không bi quan và luôn sống với trạng thái tinh thần vui vẻ, thoải mái thì tình yêu, hôn nhân của họ sẽ càng lâu bền hơn.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Thân: Trong cuộc sống gia đình thường khá hòa thuận, ít có mâu thuẫn nảy sinh. Hai người nên chia sẻ nhiều tâm tư của bản thân cho đối phương biết, cùng nhau giải quyết hơn là âm thầm gánh vác công to việc lớn một mình.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Dậu: Hai người là một cặp trời sinh, cả hai đều rất hiểu nhau và tình yêu giữa họ sẽ dẫn đến một kết quả rất tốt đẹp.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Tuất: Nếu người chồng có thể hoàn toàn chinh phục được người vợ thì cuộc sống của họ sẽ vô cùng tôt đẹp, hòa thuận.
- Nam giới tuổi Tỵ với Nữ giới tuổi Hợi: Người chồng thích một tình yêu nồng nhiệt và mạnh mẽ từ người vợ hơn là sự dịu dàng, nhu mì của người phụ nữ tuổi Hợi. Tuy nhiên, lạt mềm thì thường buộc chặt nên người chồng vẫn luôn thấy sức hấp dẫn kỳ lạ từ người vợ.

- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Tý: Hai người có thể sống bên nhau nhưng người vợ cần phải có trách nhiệm với chồng nhiều hơn nữa thì cuộc sống mới có thể hạnh phúc, lâu bền.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Sửu: Người vợ tuổi Sửu nên chủ động chia sẻ suy nghĩ của mình cho người chồng, đồng thời người chồng tuổi Tỵ cần phải để ý và chăm lo cho gia đình nhiều hơn nữa.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Dần: Cuộc sống không phải lúc nào cũng theo ý muốn chủ quan của con người, kể cả tiền tài vật chất đầy đủ, khá giả. Quan trọng là sự thấu hiểu con người và tính cách của họ để bản thân có thể thay đổi, thích nghi với nhau.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Mão: Hai người có thể kết hợp được với nhau. Nếu hai người rất thích suy ngẫm, xem xét vấn đề lại biết thông cảm và thấu hiểu lẫn nhau thì tình yêu của họ chắc chắn sẽ rất ngọt ngào và bền chặt.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Thìn: Hai người quả thực là một cặp đôi lý tưởng. Người chồng luôn cảm thấy tự hào về vẻ đẹp của vợ mình.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Tỵ: Sự tương đồng về tính cách là chất keo gắn bó hai người lại với nhau một cách bền chặt và đầm ấm.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Ngọ: Người chồng có thể khiến cho người vợ cảm thấy vui vẻ và người vợ cũng thường xuyên quan tâm tới người chồng nên cặp đôi này khá tâm đầu ý hợp với nhau.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Mùi: Tình yêu giữa hai người có rất nhiều xung đột, khi đó, lý trí và trí tuệ của họ đều chẳng còn ý nghĩa gì cả. Tuy nhiên, những nhu cầu chung vẫn sẽ gắn kết cả hai người lại với nhau.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Thân: Nếu người đàn ông đồng ý và có tình cảm thật sự thì giữa hai người sẽ có được một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Dậu: Hai người là một cặp trời sinh, cả hai đều rất ngưỡng mộ kính trọng lẫn nhau và đều để ý đến thể diện của cả gia đình nên sẽ hết sức vun đắp cho mọi chuyện được trở nên tốt đẹp hơn.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Tuất: Đây sẽ là một cặp đôi vô cùng hạnh phúc. Tuy nhiên người vợ tuổi Tuất cần có sự khéo léo hơn, kể cả trong lời nói hay hành động mặc dù tâm tính và ý nghĩ của họ rất lương thiện và tốt đẹp.
- Nữ giới tuổi Tỵ với Nam giới tuổi Hợi: Hai người cũng là một kết hợp hoàn hảo, người vợ tự nguyện hy sinh những hứng thú và sự tự do của mình. Trên thực tế, giữa hai người ít khi xảy ra những cuộc xung đột lớn nên về cơ bản cuộc sống khá êm ấm như ý.
Những người chồng tuổi Tỵ thường rất coi trọng gia đình. Họ cũng thường có trái tim rất bao dung, rộng mở, luôn đối xử tốt với người vợ tuổi Sửu của mình mà còn biết cách tạo ra bầu không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc.
Những người chồng tuổi Tỵ sẽ giúp cho người vợ tuổi Sửu tài năng, tích cực và cầu tiến của mình được theo đuổi công việc mà họ yêu thích. Ngôi sao Thiên Vương sẽ bảo hộ và giúp cho gia đình họ luôn được hạnh phúc, đón được rất nhiều tiền tài, giàu sang.
Những người chồng tuổi Tỵ, nếu lấy vợ tuổi Dậu thì cũng sẽ giúp đỡ vợ được rất nhiều việc, cả trong công việc cũng như trong cuộc sống gia đình.
i phương Đông chúng ta đó là Ngũ Hành trong phong thuỷ.

Giữa các hành trong năm hành luôn có sự tương hỗ, hoặc kìm hãm lẫn nhau tạo thành mối quan hệ tương sinh, tương khắc. Ở đây ta cũng xem xét mệnh hoả hợp màu gì trong mối quan hệ của ngũ hành. Quan hệ tương sinh là hành này làm cơ sở cho hành kia hình thành, phát triển như :
Quan hệ tương khắc là hành này hạn chế, gây trở ngại cho hành kia.
Với sự tương sinh tương khắc này sẽ giúp chúng ta biết được các màu hợp với mệnh của mình. Đối với Những người thuộc mệnh Hỏa thường yêu thích sự chủ động, hào hứng vì thế cuộc sống của họ cũng tích cực và sôi nổi. Màu sắc của bản mệnh này vốn là những tông màu thuộc hành Hỏa như đỏ, cam, hồng, mang đến nguồn năng lượng mới cho người thuộc Hoả. Sức mạnh của màu đỏ là sức mạnh của việc đánh thức những đam mê, giàu có. Màu đỏ là sự may mắn, hạnh phúc trong truyền thống của nhiều quốc gia, ;à biểu tượng của tình yêu lãng mạn trong đám cưới của người Ấn Độ, là can đảm và nhiệt huyết đối với người phương Tây.
Theo phong thuỷ, trang trí với màu đỏ luôn luôn thể hiện được sự giàu có và sang trọng.Tuy nhiên, nếu sử dụng quá nhiều màu đỏ, da cam, hồng sẽ dễ gây cảm giác mỏi mắt, tăng sự bực bội và quá khích. Ngay cả trên người bạn cũng vậy chỉ cần điểm thêm viên đá quý màu đỏ, da cam, hồng như đá ruby, đá Tourmaline hồng, đá garnet, đá spinel, đá thạch anh hồng,… chứ không cần quá nhiều trang sức mà vẫn thể hiện sự sang trọng và quý phái ở bạn. Hãy dùng màu này vào những chi tiết nhỏ trong việc trang trí cho ngôi nhà hay cho bản thân bạn.
Màu hợp nhất cho người mệnh Hỏa là các màu thuộc hành Mộc: xanh lá cây, xanh da trời. Gỗ cháy sinh ngọn lửa, nghĩa là Mộc sinh Hỏa. Chính vì vậy, có màu xanh lá cây, xanh da trời là màu lý tưởng mà người mệnh Hỏa nên dùng. Màu xanh nhẹ nhàng bạn có thể dễ dàng kết hợp hơn đối với ngôi nhà của bạn, đối với trang sức cho bạn như ngọc lục bảo, đá peridot,… sẽ làm toát lên vẻ đẹp nữ tính của bạn.
Thế gian vạn vật đều có thuộc tính, có đối lập thì mới có sự cân bằng. Lục phủ ngũ tạng trong thân thể cũng có thuộc tính, quyết định tới phương diện khỏe mạnh của mỗi người.
![]() |
![]() |
![]() |
Có lẽ kiếp trước chính là nền tảng để lý giải kiếp này rõ hơn!
Rằng tại sao có người sinh ra đã bị mù, bị giết chết trong chiến tranh? Tại sao có người sống trong cảnh nghèo đói bần cùng trong khi có người lại sống yên bình, hạnh phúc và thu nhập ổn định? Cũng như vậy, tại sao có người liên tục gặp phải những chuyện xui xẻo không may mà họ dường như không cách nào thay đổi được?
Một cách nhìn nhận vấn đề, khi chúng ta mang hình dáng con người đến thế gian này, từ cuộc sống chúng ta sẽ có những bài học nhất định. Thậm chí tới cuối đời gặp thất bại con người mới nhận ra bài học chân thực để làm người, thật quá muộn!
Và thượng đế cho họ một cơ hội khác để “sống tốt hơn” ở một kiếp sống khác – với một bộ dạng và hoàn cảnh khác hoặc có thể giống y đúc với kiếp trước đó. Nhưng những gì xảy ra trong đời của họ là không báo trước. Do đó mâu thuẫn và những khổ nạn bắt đầu phát triển. Đằng sau những thành công, con người để lại cho mình những kinh nghiệm sống cố hữu và theo thời gian trở nên thâm căn cố đế, và thật khó để đột phá.
Thế nên từ quan điểm cuộc sống hiện đại con người không cách nào lý giải được những rủi ro bất hạnh và không cách nào giải thoát tự thân. Thực ra, nó chỉ là một bài học cụ thể được lặp lại để con người hoàn trả món nợ từ kiếp trước.
Liệu họ có nhận ra? May mắn thay có một hình thức khiến con người có thể kết nối với quá khứ gọi là thôi miên. Mỗi việc tốt, xấu, ân oán từ các kiếp sống đều được lưu giữ lại trong bộ nhớ tiềm thức, và trong trạng thái vô thức con người có thể tiến nhập và biết được các mối quan hệ nhân duyên lâu đời của nó.
Sau khi biết được các mối quan hệ nhân duyên từ tiền kiếp, con người hiểu biết và học cách tha thứ để nó không bao giờ trở lại trong kiếp sống này cũng như các kiếp sống tiếp theo nữa.
Hầu như bất kỳ vấn đề nào chưa được giải quyết từ các kiếp đều có liên quan đến sức khỏe, các mối quan hệ, sự nghiệp, tài chính, nỗi sợ hãi, ám ảnh và nghiện ngập trong kiếp này.
Vì vậy cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh trong tiềm thức có thể khiến bạn phải chịu một số phận tương tự trong kiếp này. Vì mọi ân oán đều được xóa hoàn toàn bởi sự tha thứ cho thủ phạm và sự hồi tưởng ký ức thông qua người thôi miên hoặc người có năng lực hòa giải.
Dưới đây là những nỗi sợ hãi khác nhau và những trường hợp có thể đã từng phát sinh từ kiếp trước:
Nhiều người cảm thấy triệu chứng vật lý trong quá trình thôi miên, chẳng hạn như đau đầu hoặc tức ngực, run rẩy cơ thể, khó thở và khóc. Các triệu chứng này biến mất khi gần kết thúc quá trình. Nếu thủ phạm/nạn nhân được cho biết đích danh trong đời này của họ thì cần một cuộc đối thoại để bài trừ những hiểu lầm hiện tại dựa vào quá khứ.
Trụ trì nơi đây là đại sư Sư Phúc. Chùa Trung Hành đến nay được xây dựng khang trang và thu hút nhiều lượt khách tham quan từ khắp mọi miền tổ quốc. Đặc biệt là vào ngày lễ chính được tổ chức Vào ngày 17-1 âm lịch hàng năm.
Chùa Trung Hành có tên chữ là Hưng Khánh Tự. Chùa Trung Hành thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Chùa được xây dựng khá lâu, quy mô bề thế, phong cảnh thanh u, cổ kính. Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1993.
Trung Hành vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh, nhân kiệt – nhiều người đỗ đạt, nhiều văn quan, võ tướng có tài, hiện còn được ghi lại trên văn bia, gia phả các dòng họ. Theo lịch sử ghi chép lại thì chùa được khởi dựng từ khá sớm khoảng thời Lý – Trần. Song dấu vết vật chất còn để lại có niên đại sớm nhất là thời nhà Mạc (thế kỷ 16).
Chùa có quy mô khá lớn, có bố cục kiến trúc hình chữ 工 – Công: tam quan – gác chuông, tòa Phật điện, nhà thờ tổ, vườn bia, mộ tháp. Có thể nói chùa Trung Hành còn bảo lưu khá hoàn chỉnh về bố cục các công trình kiến trúc và quy hoạch không gian của một ngôi chùa làng thời Mạc điển hình ở Hải Phòng.
Dưới mái chùa cổ kính này, đang bảo lưu nhiều pho tượng Phật quý bằng gỗ, mang đậm phong cách dân gian với các đồ án trang trí nghệ thuật được thờ tại tòa phật điện như các pho tượng phật: Tam Thế, A Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền, Hộ Pháp,…
Đặc biệt tại đây còn lưu giữ pho tượng vị hoàng đế nhà Mạc. Tượng hoàng đế tạc bằng đá, pho tượng được đặt ở cuối Phật điện, toàn thân phủ một lớp sơn dày, trông thoáng qua giống như tượng gỗ.
Lễ hội ở chùa Trung Hành diễn ra từ ngày 16 – 18 tháng giêng âm lịch. Xưa có tục múa roi diễn lại khí thế xung quân, diệt giặc của quân đội thời Ngô Quyền. Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân và du khách đến dự lễ và thưởng thức các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
![]() |
| Mùi - Tý | Mùi - Sửu | Mùi - Dần | Mùi - Mão |
| Mùi - Thìn | Mùi - Tỵ | Mùi - Ngọ | Mùi - Mùi |
| Mùi - Thân | Mùi - Dậu | Mùi - Tuất | Mùi - Hợi |
Maruko (theo Sohu)
![]() |
| Người tuổi Tuất giỏi việc đối nhân xử thế |
![]() |
| Hợp tác với tuổi Tý khó đạt được thành công |
![]() |
| Không dễ để hợp tác với người tuổi Mùi |
| ► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
ám và khúc khuỷu. Vậy thì về phương diện phong thuỷ cửa sổ, chúng ta cần chú ý những vấn đề gì?

– Cửa sổ không nên quá lớn
Phòng khách và phòng ngủ nếu thiết kế cửa sổ quá lớn hoặc quá nhiều sẽ dễ gây ra bất hoà trong quan hệ giữa bố mẹ và con cái. Biện pháp hoá giải là treo rèm cửa hoặc cửa sổ bạch diệp (cánh cửa sổ được làm bằng nhiều thanh nhỏ ghép lại), về hiệu quả thì cửa sổ bạch diệp tốt hơn là rèm cửa.
Cửa số thấp và lớn có thể thu nạp được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng vào nhà, nhưng mùa đông dễ làm cho nhiệt lượng trong nhà thoát ra ngoài, như vậy là phải có rèm hoặc vật dụng khác che chắn lại.
– Cửa sổ phải có vai trò bổ trợ sức khoẻ
Cửa sổ là “con mắt phong thủy” của dương trạch. Để bảo đảm sức khoẻ cho người trong nhà, một khi cửa sổ bị hư hỏng phải sửa chữa ngay. Cứa sổ hỏng để lâu ngày dễ sinh các bệnh về mắt.
Bệ phía trên của cửa sổ nhất định phải cao hơn chiều cao thân người, như vậy sẽ làm cho người trong nhà thêm tự tin và khí thế, hơn nữa cao như vậy khi đứng nhìn ra ngoài không phải cúi người xuống tạo cho ta cảm giác thoải mái.
Cửa sổ tuy không nên quá lớn nhưng củng không nên quá nhó. Cửa sổ quá nhỏ khiến gây cảm giác gò bó khó chịu, ở lâu có thể làm cho tính khí con người trở nên hẹp hòi, ích kỷ.
– Cửa sổ vuông, tròn hoặc cửa vòm.
Cửa sổ tròn hoặc cửa vòm tạo cho người ta có cảm giác yên ổn, thanh tịnh như trong nhà thờ, thích hợp với phòng ngủ. Cửa sổ vuông tạo cảm giác phân chấn, vững vàng, thích hợp với phòng ăn và nơi làm việc. Nhà ở bình thường có thể sử dụng hổn hợp ở mức độ phù hợp cả hai loại hình cửa sổ này, sẽ thu về kết quả tốt.
– Phương thức mở cửa.
Cửa sổ ở phòng ngủ, phòng khách và phòng bếp nhà bạn mở theo phương thức nào? Chúng được mở lên phía trên, sang hai bên hay là luôn đóng kín? Theo phong thuỷ, phương thức mở cửa sổ tốt nhất là hướng ra ngoài và sang hai bên, như vậy sẽ không gây phiền phức gì cho khu vực trước và sau cửa sổ, có thể đây là một nguyên tắc. Cửa sổ mở vào bên trong nhà sẽ làm cho người trong nhà phải vướng bận vì nó. Hơn nữa cửa sổ mở vào phía trong nhà thường xuyên bị rèm cửa và cửa bạch diệp chắn rất khó mở ra. Nếu cửa sổ nhà bạn mở vào phía trong như vậy thì có thể đặt chậu cảnh hoặc thiết bị âm thanh gần cửa để làm sống động năng lượng ở khu vực này.
Nếu cửa sổ một nhà nào đó chí có thể mở được một nứa, như vậy có thể làm cho người trong nhà có chí hướng nhưng khó vươn lên, công việc không thuận lợi. Nếu gặp trường hợp này có thể sơn cửa màu tươi sáng, treo cửa bạch diệp để che chắn, tốt nhất không treo rèm cửa bằng vải, bên cạnh cửa đặt chậu cảnh, thuỷ tinh để làm sống động khí trường.
Sách Bác Vật Vựng Biên Nghệ Thuật Điển ghi: Canh Tý Tân Sửu thì Sửu là chính vị của Thổ, mà Tý là đất vượng của Thủy, Thổ gặp Thủy biến thành bùn cho nên gọi bằng "Bích Thượng Thổ".
Bùn nhuyễn mềm muốn trát thành vách phải tựa vào kèo cột phên, thiếu chỗ tựa khó thành vánh tường. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ phải tựa vào người mà thành sự, làm quản lý, làm kẻ thừa hành tốt, đứng ngôi chủ dễ thất bại.
Tuy nhiên cũng có những loại đất chất dính mạnh phơi nắng trở thành cứng cáp không phải dựa vào kèo cột cũng đứng vững được. Bởi thế, người mang nạp âm Bích Thượng Thổ cần phải trải nhiều kinh lịch mới hay.
Vách để che gió, chắn mưa cho nên tâm chất thường bao dong. Mệnh nhiều hung sát đa nghi thủ đoạn mà mang nạp âm Bích Thượng Thổ dễ đưa đến sơ hở mà bị hại. Canh Tý, Tý Thủy bị Thổ khắc, khí thế nhược. Tân Sửu, Thổ vào chính vị sức đề kháng cương mãnh.
1. Zeus và Hera
Thần Zeus có hàng chục người con với 12 vị thần, chưa kể là rất nhiều người phàm, tiên nữ khác. Trong đó, người vợ quyền lực nhất phải kể tới nữ thần Hera, cũng là chị của thần Zeus.
Sau khi được giải cứu khỏi tên vua cha bạo chúa, Hera sống xa kinh thành Olympus một thời gian dài, cho đến khi Zeus vĩ đại tình cờ nhìn thấy nàng trong chuyến du hành của mình. Ban đầu, Hera không chấp nhận Zeus làm chồng vì dù sao đây cũng là em trai nàng. Hơn thế nữa, Hera đã chứng kiến Zeus nuốt vợ cả của mình là Metis Titaness nên nàng đã từ chối Zeus trong 300 năm.
Khi hết thời hạn 300 năm dài đằng đẵng ấy, Zeus trở lại và tạo nên một trận bão rất lớn. Thần tự biến mình thành một chú chim nhỏ, bay lạc vào cửa sổ căn phòng của Hera. Hera thấy chú chim đáng thương liền ôm vào ngực vỗ về. Zeus ngay lập tức trở về hình dạng chính mình và quyết liệt tán tỉnh Hera. Chỉ đến lúc này, Hera mới đồng ý làm vợ thần Zeus.
Các vị thần đã tổ chức cho họ một đám cưới linh đình. Nữ thần Cầu Vồng Iris cùng các Nữ thần Duyên Dáng mặc cho Hera bộ váy áo đẹp nhất, làm cho nàng đẹp lộng lẫy và rạng rỡ hẳn lên giữa các thần linh trên núi Olympus. 
Zeus và Hera xung quanh các con trên đỉnh Olympus.
Hera và Zeus có 4 người con là Ares (thần Chiến tranh), Hebe, Eris, Eileithyia (thần Kỹ nghệ). Theo truyền thuyết, Hera là một bà vợ rất nóng tính và hay ghen. Khi Zeus đem lòng yêu thần sông Nin (Ios), sợ bị Hera phát hiện nên Zeus đã biến Ios thành một con bò trắng. Hera thấy vậy nên đã mang con bò trắng về, nhờ người khổng lồ Argos với các con mắt dày đặc trên người canh giữ ngày đêm.
Ngoài ra, vì không ưa Hercules, là con trai của Zeus với một người phàm trần, nên Hera cũng đã gây ra rất nhiều bi kịch cho cuộc đời Hercules.
Máu ghen của nữ thần Hera "kinh khủng" đến nỗi thần Zeus cũng phải sợ.
Hera là Nữ thần Hôn nhân, bảo trợ cho sự bền vững và thánh thiện của cuộc sống gia đình. Cũng như chồng, Hera toàn quyền thống trị như một vị Nữ hoàng trên đỉnh Olympus.
2. Bi kịch anh hùng Hercules và công chúa Deianeira
Hercules là con của thần Zeus với một phụ nữ phàm trần tên là Alcmena. Vì là một á thần (một nửa là thần tiên, một nửa là người phàm trần) nên Hercules có sức khỏe phi thường. Nhưng cũng chính từ đây mà chuỗi bi kịch gia đình của chàng bắt đầu.
Người vợ đầu tiên của Hercules là công chúa Megara (con gái vua Creon, chúa thành Thebes). Họ có với nhau ba cậu con trai kháu khỉnh. Những tưởng hạnh phúc đã đến thì trên đỉnh Olympus, Hera nguyền cho Hercules hóa điên, khiến chàng ra tay giết chết vợ và con của mình. 
Hercules anh hùng là thế nhưng vẫn không tránh được bi kịch gia đình.
Để rửa sạch tội lỗi, Hercules đã phải thực hiện 12 nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Trải qua nhiều gian truân, Hercules trở về quê hương rồi đến Calidon cầu hôn công chúa Deianeira (Deana). Với tiếng tăm anh hùng của mình, chàng đã nhận được lời đồng ý của công chúa và nhà vua.
Trong một ngày đẹp trời, Hercules dắt vợ đến thành Tyrins chơi. Họ đến một khúc sông chảy xiết. Từ đây, mâu thuẫn bắt đầu được nhen nhóm. Khi Nesxus (tên Nhân mã làm nghề chở người qua khúc sông này) nảy sinh lòng tham, định bắt cóc nàng Daena, hắn đã bị Hercules hạ gục ngay tức khắc. Tuy nhiên, trong lúc hấp hối, Nesxus đã kịp hứng lấy một ít máu của mình, trao cho Daena và nói rằng đây là phương thuốc giúp nàng công chúa giữ chồng.
Tranh miêu tả nhân mã Nesxus cướp nàng Daena khỏi tay Hercules.
Ít lâu sau, trong cuộc chinh phạt xứ Okhali, Hercules bắt sống được công chúa Ioler, người con gái sắc nước hương trời. Sợ chồng bị Ioler mê hoặc, Deana đã nhỏ những giọt máu xưa kia vào bộ lễ phục của Hercules.
Ngay khi khoác áo vào người, Hercules bỗng cảm thấy toàn thân mình nóng như lửa đốt. Máu long xà Hydra hòa với máu Nhân mã đã tạo thành một chất độc khủng khiếp. Biết mình không qua khỏi, Hercules đã lập giàn thiêu cho mình. Về phía Deianeira, do quá tủi nhục nên đã vào phòng riêng thắt cổ.
Khi Hercules lên giàn thiêu, chàng được cha mình là Zeus cứu sống. Sau đó, chàng đã sống hạnh phúc với người vợ thứ 3 của mình là Hebes (con gái Zeus và Hera) trên đỉnh Olympus.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Bài của Ân Quang
Kình Đà và Lộc Tồn tinh hệ
Trong bài trước, tôi có bàn về điểm dị biệt giữa Tinh, Diệu, Thân và Kình, Đà là hai khí lực luôn ở quanh Lộc Tồn.
Lộc tồn di chuyển đến đâu, thì Kình Đà cũng di chuyển theo bao quanh, ở hai cung giáp Lộc Tồn, theo chiều hướng “Tiền Kình Hậu Đà, Lộc Tiền nhất vị, thị Kình Dương”. Tiền và hậu đây là căn cứ vào vị trí của Lộc Tồn.
Bộ sao Quốc Ấn, Đường Phù cũng luôn luôn di chuyển theo Lộc Tồn, theo một hướng khác: “Thuận Cửu Nghịch Bát”. Thuận Nghịch đây là so với vòng xoay chuyển của địa chi.
Vì vậy, Lộc Tồn tinh hệ gồm cả thảy mười bảy sao. Đó là Lộc Tồn, Kình, Đà, Ấn, Phù, Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, ….
Chỉ vì sự xếp đặt trình bày dưới hình thức Đồ Biểu (xem thì có vẻ Khoa học) mà có sự ngộ nhận rằng Lộc Tồn tinh hệ chỉ có mười ba sao là Lộc Tồn, Bác sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu hao …
Mới đây lại có cuốn sách Tử-Vi, tách Lộc Tồn rời ra, lập thành Bác Sĩ tinh hệ, chỉ gồm có mười hai sao, khởi đầu là Bác Sĩ rồi đến Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu hao...
Tử-Vi tinh hệ chỉ có sáu sao, đó là: Tử-Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Thiên Phủ tinh hệ lại có tám sao, đó là: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Không có một định luật nào bó buộc rằng một tinh hệ chỉ có, hoặc phải có đúng mười hai sao. Có thể có mười hai sao, hoặc hơn hoặc kém số đó. Kình Đà luôn luôn ở quanh Lộc Tồn, Ấn, Phù cũng xê dịch tùy theo vị trí của Lộc Tồn tinh hệ. Và như vậy, Lộc Tồn tinh hệ có mười bảy sao.
Vì đâu mà có KÌNH DƯƠNG ở Dần Thân Tỵ Hợi. ĐÀ LA ở Tý Ngọ Mão Dậu.
Trước đây hai mươi mốt năm (1952), cuốn Tử Điển Tử-Vi của tác giả Đắc Lộc, xuất bản tại Hà Nội có luận về các sao Kình, Đà như sau:
Kình Dương là Dương Tinh, phù cho người Dương Nam, Dương Nữ. Kình Dương Vượng ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Đắc địa ở Tỵ, Hợi, Dần, Thân. Hãm ở Mão, Tý, Ngọ.
Đà La là Âm tinh, phù cho người Âm Nam, Âm Nữ. Đà La Vượng ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Đắc địa ở Tý, Hợi. Hãm ở Dần, Mão, Tỵ, Thân, Ngọ, Dậu.
Cũng trước đây, trên hai mươi mốt năm (năm 1952), trong Tử-Vi Đẩu Số Quyển Hạ, ở trang 172 tác giả Nguyễn Mạnh Bảo có luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân, và qua trang 173 thấy có ghi là “ở cung Dần thì đắc địa”.
Vài năm sau đó (1957) tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân.Trong cuốn Tử Vi Chỉ Nam xuất bản năm 1957 (cách đây mười sáu năm), tác giả Song An Đỗ Văn Lưu cũng có nói về Kình Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi và Đà La ở Tý Ngọ Mão Dậu.
Và cứ thế tiếp tục, một vài cuốn sách Tử-Vi xuất bản gần đây cũng có luận về sự hung hãn của Kình Dương ở Dần, Thân.
Thế nhưng, áp dụng phương pháp an sao của quý vị tác giả ấy thì không thể nào tính cho có được Kình Dương ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Đà La ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Quý bạn Tử-vi thử tính lại, hoặc xem lại phần chỉ dẫn an sao thì rõ.
Sở dĩ có sự lủng củng như vậy (luận về ảnh hưởng của Kình ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Đà La ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, mà trong phần chỉ dẫn an sao thì không có) là vì đã tách rời Kình Dương và Đà La ra khỏi Lộc Tồn tinh hệ. Rồi từ đó đã áp dụng lần lần câu: “Tiền Kình Hậu Đà, Lộc Tiền nhất vị, thị Kình Dương”.
Kình và Đà là hai khí vận luôn luôn đi theo kèm hai bên Lộc Tồn.
Tuổi Giáp, Lộc Tồn tại Dần
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Mão, Đà La tại Sửu.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Sửu và Đà La tại Mão. Như vậy thì mới có trường hợp Đà La tại Mão (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Ất, Lộc Tồn tại Mão
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Thìn, Đà La tại Dần.
Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Dần và Đà La tại Thìn. Như vậy mới có trường hợp Kình Dương ở Dần (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Tuổi Bính & Mậu, Lộc Tồn tại Tỵ
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Ngọ, Đà La tại Thìn.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình, Hậu Đà thì Kình Dương tại Thìn và Đà La tại Ngọ. Như vậy thì mới có trường hợp Đà La tại Ngọ (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Đinh & Kỷ, Lộc Tồn tại Ngọ
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Mùi, Đà La tại Tỵ.
Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Lộc tiền nhất vị, thì Kình Dương tại Tỵ và Đà La tại Mùi. Như vậy mới có trường hợp Kình Dương tại Tỵ (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Tuổi Canh, Lộc Tồn tại Thân
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại Dậu, Đà La tại Mùi.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương thì Kình tại Mùi và Đà tại Dậu. Như vậy mới có trường hợp Đà La tại Dậu (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Tân, Lộc Tồn tại Dậu
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương, thì Kình tại Tuất, Đà tại Thân.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại tại Thân và Đà La tại Tuất. Vì vậy mà có Kình Dương tại Thân (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Tuổi Nhâm, Lộc Tồn tại Hợi
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương, thị Kình Dương tại Tý, Đà La tại Tuất.
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà, thì Kình Dương tại tại Tuất và Đà La tại Tý (Tý Ngọ Mão Dậu).
Tuổi Qúy, Lộc Tồn tại Tý
Dương Nam, Âm Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi xuôi. Tiền Kình Hậu Đà thì Kình Dương tại Sửu, Đà La tại Hợi.
Kình Đà là hai khí vận nằm trong Lộc Tồn tinh hệ, luôn luôn gíap hai bên Lộc Tồn
Âm Nam, Dương Nữ. Lộc Tồn tinh hệ đi ngược. Tiền Kình Hậu Đà Lộc tiền nhất vị, thị Kình Dương thì Kình Dương tại Hợi và Đà La tại Sửu. Vì vậy mới có trường hợp Kình Dương tại Hợi (Dần, Thân, Tỵ, Hợi).
Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, khi bàn về Miếu, Vượng, Hãm của các sao có nói Kình Dương Hãm ở Tỵ, và Đắc địa ở Dần, Thân, Hợi.
Cụ Ba La trong khi luận giải kỹ một vài lá số, cũng đã an Kình Đà và luận về sự Đắc, hãm của bộ sao này như vậy. Tuy nhiên, với một vài người chưa thông cảm lắm, hoặc có thái độ chất vấn, đánh đố phiền phức thì Cụ không ham muốn tranh luận phải trái làm gì. Giá trị của Tử-Vi không phải chỉ thu gọn vào một số công thức khô khan để giải đáp những khắc khỏai giây lát mà nằm ở những quan niệm sâu xa, luận giải tế nhị. Luận giải tế nhị với người chưa nắm vững căn bản thì mất nhiều thời giờ, có khi lại đi đến chỗ tranh luận phiền phức, hơn thua chẳng lợi lộc gì.
Trong khi sưu tầm các quan niệm Tử-Vi xưa, tôi không hề có ý dựa vào quan niệm của Cụ Ba La hoặc của Cụ Song An làm tiêu chuẩn cho chân lý Tử-Vi. Tôi chỉ muốn trình bày rằng, sự vội vã công thức hóa Tử-vi, thu gọn Tử-vi vào trong một số đồ biểu, đã làm thất lạc những quan niệm thâm thúy của người xưa. Thọat nhìn qua thì một số công thức, đồ biểu, có vẻ khoa học, dễ hiểu, để áp dụng cho người mới nhập môn. Nhưng khi bình tâm tính kỹ lại thì dễ có điểm mâu thuẫn khó giải quyết, hoặc thiếu ý nghĩa sâu rộng khiến cho người nghiên cứu Tử-vi khó có thể tiến xa được.
Mâu thuẫn không phương hướng giải quyết, vì như bên trong có cuốn sách thì luận về sự hung hại của Kình Dương ở Dần, Thân; có đoạn sách nói là Kình Dương ở Dần là Đắc Địa, mà ở phần chỉ dẫn an sao, không tính cách nào cho có được Kinh Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi (chỉ vì đã tách rời Kình Đà ra khỏi Lộc Tồn tinh hệ, áp dụng lầm lẫn câu Tiền Kình Hậu Đà. Lộc Tiền Nhất Vị, Thị Kình Dương).
CÁC CUNG MIẾU, ĐẮC, HÃM ĐỊA CỦA KÌNH DƯƠNG VÀ ĐÀ LA
Phần lớn các sách Tử-Vi đều luận rằng:
– Bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là Miếu địa của Kình Dương và Đà La.
– Bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi là Hãm địa của Đà La.
Riêng về Kình Dương thì Hãm địa là cung Tỵ, và Đắc địa là Dần Thân và Hợi.
Theo cụ Song An (tác giả cuốn Tử-Vi chỉ Nam) thì Kình, Đà cũng Đắc địa tại Tý, có đọan lại luận là Bình.
Tôi thiển nghĩ là không nên phân vân, khẳng định hoặc phủ nhận một công thức nào. Các công thức trong Tử-Vi không phải là đã được lập thành bởi những định luật tóan học, vật lý, hóa học, máy móc, mà bởi “kinh nghiệm”. Tử-Vi là một môn Khoa Học luận tương đối. Không có đơn vị nào để đo lường sự sai biệt giữa Đắc và Bình, giữa Miếu và Vượng. Một sao “Bình” mà được đa cát tinh giao hội vẫn đắc lực hơn một sao “Đắc” mà đứng chơi vơi một mình, không được phò tá.
Những công thức Tử-Vi được lập thành do những quan niệm Lý Học, do sự luận giải, chiêm nghiệm, kinh nghiệm. Muốn chiêm nghiệm, rút kinh nghiệm thì cần hiểu ý nghĩa, tính chất các sao ấy. Có hiểu ý nghĩa các Sao thì mới có thể nhìn xâu xa, vì các Vị sao trong Tử-Vi, không phải là những con số. Trên các vị sao ấy (tạm gọi chung là như vậy) có khi còn kéo theo cả một nhân sinh quan, một vũ trụ quan. Người xưa đã ngụ ý rất nhiều khi đặt tên các vị Sao.
Ý NGHĨA CỦA KÌNH DƯƠNG VÀ ĐÀ LA
Trong vòng Lộc Tồn, thì Thanh Long và Bệnh Phù là hai ngôi luôn luôn đối chiếu nhau.
Gặp Bệnh Phù ở cung chính thì ít người để ý, mà lại tập trung cái nhìn của mình vào Thanh long, từ ngoài chiếu lại.
Khi xem cung Thìn là cung chính, gặp Bệnh phù ở đó thì không kể đến, mà lại chú trọng luận giải Thanh Long ở cung Tuất chiếu vào. Bệnh Phù và Thanh Long cùng ở trong một vòng sao, hai ngôi luôn luôn đối chiếu nhau. Vì sao lại bỏ Bệnh Phù ở bên trong, để nhìn vào Thanh Long bên ngoài? Ấy cũng chỉ là thói quen vội vã thông qua những tên sao nào có vẻ rắc rối khó hiểu, chỉ nhìn vào những sao nào có vẻ dễ hiểu, hoặc có vẻ hấp dẫn hơn.
Bệnh phù là cái gì mơ hồ, nghe có vẻ như bệnh hoạn, phù thũng. Thanh long nghe có vẻ sáng sủa hấp dẫn hơn. Thế rồi, khi xem cung Thìn là chính, thấy có Bệnh phù, cũng bỏ đó, hãy luận về Thanh Long ở cung Tuất chiếu vào đã.
Một vài người nghiên cứu Tử vi thường có thói quen như vậy. Nhờ linh tính, trực giác, gặp may nhiều khi cũng đoán đúng. Nhưng, thiển nghĩ rằng sự đoán đúng này, dùng để chứng minh ảnh hưởng của trực giác chứng minh cái thuyết “Phúc chủ lộc Thầy”…thì đúng hơn là để đi tìm cái tinh hoa của môn lý học.
Cũng do sự vội vã thông qua, do thói quen dồn các bộ sao vào một công thức mà không mấy người, không mấy cuốn sách tử vi nói rõ điểm dị biệt giữa Kình và Đà, Linh và Hỏa, Khôi và Việt, Không và Kiếp…
Cứ nói rằng Kình Đà, Không Kiếp, Linh Hỏa, là bộ lục Sát. Rồi thì Kình cũng như Đà, Đà cũng giống Kình, Kiếp cũng như Không, Không cũng là Kiếp, Linh cũng như Hỏa – Hỏa cũng giống Linh hay sao?
Cứ nói rằng “Tọa khôi hướng Việt”, “Tọa Quý hướng Quý” là quý cách, Khôi và Việt là bộ văn tinh, Quý tinh. Rồi Khôi cũng là Việt. Việt cũng giống Khôi hay sao?
Có tìm hiểu ý nghĩa dị biệt giữa Kình Dương và Đà la thì mới thấy được cái Lý Kình Dương luôn luôn đứng chung với Lực sĩ, khi tính Tiền Kình Hậu Đà.
Có tìm hiểu ý nghĩa khác nhau giữa Kình Dương và Đà La thì mới hiểu được, chiêm nghiệm trường hợp, cùng thì người tuổi Tân, Dương Nam Âm nữ có Kình Dương tại Tuất, Âm nam Dương Nữ có Đà la tại Tuất, Kình tại Tuất hay Đà tại Tuất cũng đều nhập miếu. Vậy hai trường hợp nhập miếu này khác nhau ra sao?
Ngày nay, cách viết tên hai vị “Sao” này bằng chữ Hán cũng có một vài trường hợp lủng củng, thất truyền, khiến cho người nghiên cứu ít nhìn thấy điểm dị biệt giữa Kình và Đà.
Những điểm tế nhị còn nhiều, không thể kể hết trong một vài trang giấy, tôi xin trình bày thêm vào những kỳ Giai phẩm tới.
KHHB số 40
Trong cuộc sống, luôn có một số yếu tố cụ thể hoặc khu vực có tầm quan trọng hơn so với những thứ khác và phong thủy cũng vậy. Trong phong thủy nhà ở, các chuyên gia luôn luôn ưu tiên 3 khu vực quan trọng nhất, bao gồm cửa chính, phòng ngủ và nhà bếp, trước khi xem xét đến các khu vực khác.
Phong thủy tốt thu hút năng lượng dương mang lại sự giàu có và cơ hội vào cuộc sống của bạn. Ngược lại, nếu 3 khu vực không có đủ năng lượng tốt hoặc mang năng lượng tiêu cực, bạn có xu hướng bị sa vào các chướng ngại vật trong cuộc sống. Vì vậy, hãy cùng khám phá những cách cơ bản để áp dụng phong thủy vào các không gian này.
Phong thủy cửa chính
Cánh cửa chính được ví như "cái miệng" của ngôi nhà, vì vậy bạn cần phải đảm bảo rằng không có trở ngại hoặc tắc nghẽn ngăn chặn dòng chảy từ ngoài vào trong nhà. Bên cạnh đó, bạn có thể muốn diệt trừ năng lượng âm (sát khí) từ bên ngoài trỏ đến cửa chính. Đó có thể là các cạnh của bức tường đối diện với cửa hoặc thậm chí một cái gì đó xa hơn, như một góc của tòa nhà bên kia đường.
Phong thủy phòng ngủ
Phòng ngủ là một nơi mà chúng ta dành một phần ba cuộc sống của mình và nó là một không gian tĩnh để thư giãn. Do đó, điều quan trọng là chúng ta chăm sóc tốt cho các năng lượng trong phòng, cũng như vị trí đặt giường. Nói chung, hình dáng phòng ngủ nên là hình vuông hoặc hình chữ nhật, để cung cấp cho bạn một cảm giác thoải mái so với những căn phòng có hình dạng không đều.
Giường nên được đặt vào một bức tường vững chắc và đường chéo đối diện với cửa phòng. Bên cạnh đó, có thể lên giường được từ cả hai phía.
Phong thủy phòng bếp
Nhà bếp, đặc biệt là bếp nấu, là nguồn cung cấp thức ăn của ngôi nhà - tương đương với tiền bạc và tài chính của gia chủ. Bên cạnh đó, nó cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của nữ chủ nhà. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn giữ cho nó sạch sẽ và đảm bảo rằng tất cả các thiết bị gia dụng hoạt động, bếp luôn đỏ lửa. Ngoài ra, bếp lò và bồn rửa không nên để bên cạnh nhau vì lửa và nước đụng độ.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| 1. Vân tay hình con mắt của Khổng Tử 2. Vân tay hình sóng, hình núi 3. Vân tay hình tròn (hoa tay) |
Phát hiện người có tướng tay nợ nần chồng chất
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Đối với nhiều gia đình, vì yếu tố khách quan nên nền phòng ngủ cao hơn nền phòng khách. Điều này gây tâm lý bất an với gia chủ vì nhiều người cho rằng như thế sẽ không an toàn, may mắn... Chuyên gia phong thủy Bùi Nghiệp, Công ty Cổ phần Nhà Xuân tư vấn trường hợp này.
Trường hợp bạn đọc Nguyễn Phú Kiên, Hải Dương là một điển hình cho nền nhà phòng ngủ cao hơn phòng khách. Bạn đọc này tâm sự, vì nhà cải tạo từ khu tập thể nên phòng ngủ làm sau nên cao hơn phòng khách 20cm. Chuyên gia Bùi Nghiệp cho rằng, nền phòng ngủ cao hơn phòng khách về cơ bản không ảnh hưởng tiêu cực đến phong thủy. Thậm chí phòng ngủ cao ráo còn tốt cho sức khoẻ trong điều kiện thời tiết nồm ẩm khí hậu miền Bắc.
Về độ cao thấp của nền các phòng, phong thủy lưu ý kiêng kỵ nhất là sàn khu vực vệ sinh cao hơn sàn phòng ngủ. Vì khi đó khí xấu của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến các không gian bên ngoài.
Tuy nhiên, đối với các sàn nhà cao, nhất là cao đến 20cm, chủ nhà cần chú ý làm bậc hoặc tìm cách hạn chế khoảng cách trên để đề phòng tai nạn khi đi lại như hụt chân, vấp ngã... Trong trường hợp này có thể đặt bậc thang bằng xi măng hoặc gỗ, thậm chí làm nổi màu sắc để người đi chú ý hơn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
Trong hôn nhân, có người chồng có lợi cho vợ, có người vợ lại lợi cho chồng, ngược lại cũng có người chồng khắc vợ và vợ khắc chồng. Cho nên sách "Tam mệnh thông hội" khi bàn về mệnh nam nữ có nói: "mệnh nam nên vượng, vượng thì phúc, suy thì tai hại. Mệnh nữ nên suy, suy thì phúc, vượng thì tai hại". Nhu là gốc là phúc, cương là hình phạt, là tai hại. Ðiều đó phù hợp với sự cương nhu của âm dương. Nếu nữ cương và vượng, nam nhu, suy đó gọi là âm dương sai lệch, ngược với quy luật âm dương, đương nhiên là có hại.
Ðối với mệnh nữ cổ xưa có bàn riêng. Mệnh nữ theo chồng, chồng quý thì vợ cũng quý, chồng nghèo thì vợ cũng nghèo. Tức là nói: chồng phát tài thì vợ con tất giàu, chồng thăng quan tiến chức thì vợ con vinh hiển, chồng rủi ro thì vợ con cũng khó sống qua ngày. Ðiều này rất phù hợp trong thực tiễn. Cho nên khi xem mệnh nữ trước hết phải xem sao chồng ra sao để xác định là sang trọng hay hèn kém. Chồng là quý mệnh thì vợ cũng là quý mệnh, nếu không thì làm sao lấy được chồng cao sang.
Chương này không những sẽ bàn về hôn nhân mà còn bàn về phương pháp xác đinh mệnh nam nữ phối hôn được tốt nhất cung cấp cho mọi người tham khảo.
Kiếp tài đóng ở ngày, chủ về vợ nội trợ tốt, hoặc nhờ vợ mà phát tài.
Tài tinh đóng ở ngày lại là tướng tinh thì nhất định vợ là con nhà phú quý.
Chính ấn, thiên ấn đóng ở ngày là vợ hiền và thông minh.
Ấn địa đóng ở ngày là vợ béo, còn mình gầy nhỏ.
Quý nhân đóng ở ngày là vợ hiền lành, đẹp, có danh tiếng.
Chính tài, thiên tài đóng ở ngày lại không bị khắc phá là nhờ vợ mà được của.
Can ngày vượng, chính tài, thiên tài cũng vượng là người giàu và nhiều vợ.
Chi ngày là tí ngọ mão dậu thì vợ đẹp, là dần thân tị hợi thì vợ đôn hậu, là thìn tuất sửu mùi thì vợ bình thường.
Ngày gặp lộc thần, giờ gặp quy thần thì vợ được quốc phong.
Mệnh nam lấy vượng làm phúc, suy là hại.
Quý nhân và lộc đều có ở trụ giờ là người rể vinh hiển, làm rạng rỡ tổ tông.
Thiên tài đều vượng mà được ngôi là vợ lẽ át vợ cả ; chính tài vượng là vợ cả không dung thứ vợ lẽ.
Tài mệnh có khí là vợ cả, vợ lẽ hoà thuận nhau và được nhờ vợ.
Mã nhập cung thê là được người vợ đảm đang.
Lộc nhập cung thê là được ăn lộc của vợ.
Ngày giờ đều có lộc mã là vợ hiền, con quý.
Vận nam hợp với tài là vợ sớm.
Ðại vận, lưu niên tam hợp tài là có tin mừng về cưới hỏi.
Nam gặp tài nhiều và thân nhược là chồng hay nghe lời vợ.
Hàm trì lâm nhật là nhờ vợ mà giàu.
Trong chi tàng phục tài là thiên vị vợ lẽ.
Sao vợ rõ là vợ chồng hỗ trợ nhau.
Tài tinh được ngôi là nhờ vợ mà giàu.
Tài vượng thân cường là phú quý mà nhiều vợ.
Trong Tứ trụ tài làm dụng thần thì vợ hiền đẹp, nội trợ giỏi.
Trụ ngày có mã tinh mà không bị xung phá là lấy được vợ đẹp.
Trong Tứ trụ có thiên tài là yêu vợ lẽ hơn vợ cả.
Thê tài gặp vượng, trên trụ năm lại gặp quý nhân lộc mã là vợ lấy được chồng chức cao.
Trong Tứ trụ có quý nhân lộc mã là vợ hiền nội trợ tốt.
Tài rõ thân vượng là vợ đẹp.
Nam gặp tài nhiều, thân yếu, là rời quê hương lấy vợ đẹp.
Thực thần nếu gặp ấn thì tiền tài ngày càng nhiều.
Thương quan bị chế khắc thì vợ là người có nghĩa khí.
Thương quan trùm lên ấn thì trước là tì thiếp sau thành vợ.
Tỉ kiếp vượng lại có thực thương sinh tài thì gặp vợ hiền.
Tài tinh đóng ở trường sinh không bị xung khắc là vợ thọ.
Trụ ngày đóng ở chính quan thì vợ đoan trang, hiền dịu.
2. MỆNH NỮChính quan hoặc thất sát là chồng, chi ngày là sao chồng.
Xem mệnh nữ trước hết phải xem sao chồng để xác định chồng sang hay nghèo hèn, chồng sang vợ mới sang.
Sao chồng đóng ở ngày làm dụng thần, chủ về chồng đại quý, vợ chồng hòa thuận.
Trụ ngày có quý nhân trạch mã thì lấy được chồng thông minh, hiền đẹp.
Tài đắc địa thì lợi chồng, thực thần đắc địa thì lợi cho con. Lợi cho chồng thì suốt đời được hưởng phúc, lợi cho con thì về sau mới hạnh phúc.
Sao chồng minh vượng, sao con trường sinh thì có ích cho chồng con.
Mệnh nữ có một quan hay một sát rõ là tốt. Có cả quan và sát là kém. Mệnh nữ không có sát, có một quý là vợ lấn át chồng.
Quan gặp tài là chồng thì vinh hoa nhưng khắc con.
Mệnh nữ không có sát nhưng lại có thiên đức, nguyệt đức và tài quan đắc địa thì được cả hai nước phong sắc.
Quan cùng với đào hoa nhất định là có chồng tốt làm trong triều đình.
Mệnh nữ lấy nhu làm phúc, lấy cương làm hại, lấy trong làm kỳ diệu, lấy đục làm thấp hèn.
Tài nhập tài thì chồng sang nhưng khắc con.
Thương quan không gặp quan là người phụ nữ trinh tiết.
Quan rõ là chồng vinh hoa, vàng bạc đầy nhà.
Tài mệnh có khí thì sống mão với chồng đến già.
Sự phú quý hay bần tiện của mệnh nữ toàn dựa vào chồng con.
Mệnh nữ nếu gặp phu tinh vượng thịnh thì con tuấn tú, thông minh, chồng vinh hiển.
Mệnh nữ phạm thương thì sẽ khắc sự hôn nhân, vận nhập tài thì tốt.
Chuyên lộc thực thần tất sẽ được vua phong hiệu.
Ngôi chồng bị tạp khí thì rất cần người vợ tốt.
Thương quan đoạt phu tinh, hoặc hoá sát thì có lợi cho chồng về mặt của cải.
Nếu cô loan nhập phu tinh thì tất nhiều con cái.
Can chi dương mà vượng là người thay chồng trong kinh doanh.
Tài vượng sinh quan, thực thần lại không bị thương là chồng vinh hiển, con phú quý.
Quan, thực, lộc vượng lại được ấn thụ trợ giúp là hậu vận mở rộng.
Nếu ấn thụ không bị tài làm tổn thương, còn gặp thiên đức, nguyệt đức trên trụ ngày thì người phụ nữ đó được hưởng của cải của cha mẹ, chủ động tìm được chồng, sinh con hiền quý, phúc đức ngày càng tăng, người đôn hậu, gặp điều xấu cũng dễ vượt qua, hay được khen thưởng.
Người thiên quan có sự kiềm chế là không dâm loạn, tuy lấn quyền chồng nhưng là để xây dựng gia đình thịnh vượng.
Mệnh nữ sinh vào tý, ngọ, mão, dậu thì lấy chồng tý, ngọ, mão dậu là tốt.
Năm là bố chồng, thai là mẹ chồng, tháng là chị em dâu, ngày là chồng và mình, giờ là con cái.
Gặp vong kiếp và kình dương, hay thiên ấn gặp lộc mã thì sắc đẹp hơn người .
Người lục hợp là chủ về tính hiền đức. Dung mạo đẹp đẽ.
Nữ có quý nhân trạch mã, phần nhiều sinh con hiền, hiếu thảo, thai sản dễ dàng.
Người tài vượng sinh quan cách rất hiếm gặp : người gặp cả tài và quan là vô cùng kì diệu, người đó chồng vinh hiển, còn quý nhờ tài vượng, trinh khiết hiền lương ngũ phúc đều có cả.
Người trong Tứ trụ có tài lại còn hành tài vận là chủ về nhà chồng giàu, con phú quý.
Người có quan vượng lại tại cũng vượng là lấy được chồng hiền chồng tót. Người thất sát gặp trường sinh là lấy chồng phú quý.
Người có đủ tài quan ấn thụ là lấy chồng thịnh vượng.
Thực thần thái quá lại không gặp phu tinh là người vợ trinh khiết.
Thiên đức, nguyệt đức gặp ấn là người làm vợ cho quan chức cao sang, được hai nước phong tặng.
Quan sát không hỗn tạp lẫn nhau, lại còn có ấn phù là chồng sẽ đăng khóa.
Ấn vượng quan yếu là chồng tự tìm đến mình.
Thương quan bị thương tổn nặng, hoặc không có quan nhưng có tài là đi làm vợ lec.
Sát gặp mộ là lấy được chồng sang trọng.
Sát mạnh quan yếu là sẽ li hôn, tái giá lấy được chồng tốt.
Tài tinh có khí lại gặp quan là lợi chồng tột bậc.
Quan mạnh thương yếu là giúp chồng xây dưng cơ đồ.
Quan, sát vượng làm dụng thần là chủ về chồng phú quý.
Quan, sát yếu, có tài sinh quan là giúp đỡ chồng được nhiều.
Quan, sat đóng ở trường sinh, không bị xung khắc là chồng trường thọ.
Người cô loan nhật phạm, chưa có con, khi gặp được quan tinh thì sẽ sinh được đứa con kỳ diệu.
Người bính hoả bị chế ngự thì nhan sắc đẹp như ngọ: giáp bị kim khắc thì đẹp như hoa.
Nhật đóng ở đào hoa là vợ chồng đều đẹp, phong lưu, tài nghệ.
Thương quan bị thương tổn nặng, có hợp là lấy vợ, lấy chồng không cần cưới.
Thất sát bị chế ngự lại được tam tài là cao sang tột bực.
Thực thần đơn độc là cuộc sống yêu hòa, có con, thọ.
Trụ ngày tương sinh cho nhau là vợ chồng đằm thắm, can sinh chi là chồng yêu vợ, chi sinh can là vợ yêu chông.
Ðông kim đóng ở cục là vợ chồng đều có ý chí, tiếng thơm bay xa.
Hợp quý tài là nhà đầy châu báu. Tỉ trước tài là nghèo trước giàu sau.
Thiên đức, nguyệt đức không bị những cái khắc làm nhiễu loạn thì người đó áo gấm mũ vàng.
Vợ chồng trụ năm tương sinh hoặc thiên hợp địa hợp thì bách niên giai lão.
Thực thần sinh vượng muốn có con phải cầu tự.
Nạp âm trên khắc dưới là có phúc, dưới khắc trên thì không nên.
Nhật đóng ở trường sinh thì lấy được vợ đẹp.
Nhật nguyên bính tí là nam lấy vợ đẹp, nữ gặp chồng đẹp .
Nam nhật nguyên mậu ngọ là được các cô thích, nữ nhật nguyên mậu ngọ là được các bạn trai ưa.
Nhật đóng ở tài kho là giàu.
Bảy ngôi trong Tứ trụ đều được tương sinh là vợ chồng bách niên giai lão.
Tài vượng sinh quan là vợ chồng quấn quít với nhau, chồng xướng vợ tuỳ.
Ví dụ 1. Khôn tạ
Giáp tuất Kỉ tị Canh tí Ðinh hợi
Ví dụ này tài, quan, ấn đều có, người đó là cán bộ nghiên cứu, chồng là cán bộ cao cấp. Ứng với câu : Tài quan ấn thụ, tất vượng phu.
Ví dụ 2. Càn tạo :
Tân mão Kỉ hợi Tân mùi Kỉ sửu
Người này nguyên nhà rất nghèo, về sau điều lên công tác ở phía nam nên giàu và thăng chức. Như thế là vì : " Nhật đóng ở tài kho, người đó sẽ giàu".
Ví dụ 3. Càn tạo:
Ðinh sửu Nhâm tíNhâm ngọ Canh tí
Người này từ bé đã nghèo xơ xác, tuy công tác lâu năm nhưng vì lương thấp, con đông nên vẫn nghèo. Sau khi cải cách mở cửa được mười năm thì trở nên giàu, nhà cửa đầy đủ mọi thứ, giàu nhất vùng. Ðó là vì " nhật đóng ở tài tinh, giau lên nhờ vợ".
Ví dụ 4. Khôn tạo :
Bính tuất Tân sửu Ðinh mùi Mão dần
Tứ trụ này chồng là cán bộ cao cấp, bản thân thì vốn không phải con nhà nhàn hạ. Như thế là vì trong Tứ trụ có "nhất sát thanh thấu", "sát gặp mộ địa, tất lấy chồng phú quý".
Ví dụ 5. Càn tạo:
Tân tị Bính thân Quý mão Giáp dần
Tứ trụ này nhật đóng quý nhân, nên " vợ hiền lại đẹp, có uy vọng".
Ví dụ 6. Càn tạo:
Ðinh sửu Tân hợi Nhâm tuất Ất tị
Tháng 4 năm 1991, khi tôi giảng bài ở Singapore, một thương gia Inđônêxia giàu có nhờ đoán. Ðoán việc nào đúng việc đó. Khi nói về hôn nhân, căn cứ theo " thương quan trùm ấn là người có vợ ban đầu là người giúp việc sau thành vợ", tôi nói : Ông có hai vợ. Người vợ thứ hai, khi đầu là người giúp việc, hơn nữa vợ hai vừa trẻ vừa đẹp. Ông ta gật đầu lia lịa và nói : "Không sai chút nào".