Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới, tu vi Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới

Có những nốt ruồi mang lại may mắn và phú quý cho chủ nhân nhưng cũng có nốt ruồi mọc ở vị trí xấu ngăn cản, thậm chí phá hỏng công danh sự nghiệp và tình duyên của phái đẹp. 1. Nốt ruồi ở giữa lông mày và mắt
 
Trong Nhân diện học, vị trí giữa lông mày và mắt được gọi là cung Điền Trạch. Nữ giới có tướng nốt ruồi này không gặp nhiều may mắn trong công việc và chuyện tình cảm. Người này dễ cả thèm chóng chán, thay đổi việc làm và người yêu liên tục.
 
2. Lòng trắng mắt có nốt ruồi

Tuong not ruoi can tro su nghiep va tinh duyen nu gioi hinh anh
Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới

Người xưa quan niệm rằng, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn và tựa như ánh mặt trời, không nên bị mây mù che khuất. Do đó, nếu lòng trắng mắt có nốt ruồi chứng tỏ chủ nhân khó thành đạt trong sự nghiệp và dễ gặp trục trặc trong tình yêu, thậm chí phải li hôn và tái hôn nhiều lần.
 
3. Nốt rồi ở bình nhĩ
 
Bình nhĩ là vị trí nhô lên cạnh lỗ tai. Nữ giới có nốt ruồi ở đây thường là người một dạ hai lòng trong tình yêu. Tình cảm của người này không ổn định, dễ thay đổi nên thường lận đận về đường tình duyên.
 
4. Chính giữa Nhân trung có nốt ruồi
 
Đây là dấu hiệu cho thấy người này coi trọng nhục dục, khó tiết chế cảm xúc nên dễ phạm sai lầm, gây tổn thương tinh thần cho người khác. Trong tình yêu, bạn luôn ở thế chủ động nên sẵn sàng chia tay khi đối phương phạm sai lầm nhỏ.
 
5. Nốt ruồi mọc ở giữa trán
 
Vị trí giữa trán gọi là cung Quan Lộc hay Sự nghiệp. Đây là nốt ruồi cản trở, thậm chí phá hỏng công danh sự nghiệp của nữ giới. Nó khiến bạn phải đương đầu với nhiều khó khăn trở ngại trong công việc, dù công sức bỏ ra nhiều nhưng lại không gặt hái được thành quả lớn.
 
6. Nốt ruồi ở giữa Ấn đường
 
Ấn đường là vị trí giữa hai đầu lông mày và là nơi tiếp giáp với phần trán. Nếu tại đây có nốt ruồi lành, tức màu sắc đẹp, hình dáng tròn trịa thì chủ nhân có số hưởng vinh hoa phú quý. Ngược lại, nếu nốt ruồi dữ thì công danh, sự nghiệp gặp nhiều trắc trở. 

7. Xương gò má có nốt ruồi
 
Xương gò má là vị trí biểu thị khả năng nắm quyền lực của con người. Nếu sở hữu nốt ruồi này, chứng tỏ bạn dễ phạm sai lầm trong công tác quản lí. Do đó, không thích hợp làm lãnh đạo. Ngoài ra, chuyện tình cảm cũng không thuận lợi.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng nốt ruồi cản trở sự nghiệp và tình duyên nữ giới - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Cải thiện vận may công việc nhờ một số mẹo vặt phong thủy

Nếu bạn muốn cải thiện vận may về công việc và tài lộc của mình trong năm mới, hãy làm theo một số mẹo nhỏ dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Dọn đống bừa bộn quanh cửa
 

Khu vực sự nghiệp trong nhà bạn liên quan đến cửa ra vào, vì vậy nếu cửa bị chặn, sự nghiệp của bạn sẽ gặp trở. Sự bừa bộn làm giảm năng lượng và ngăn chặn dòng chảy tiền bạc. Đảm bảo cửa trước của ngôi nhà luôn thông thoáng và không có rác thải. Và nếu cánh cửa bị kẹt cũng là điều bất lợi vì nó làm năng lượng tốt bị hao hụt đi. Hãy thường xuyên kiểm tra tình trạng cửa nẻo.

2. Thắp sáng cửa ra vào

Ánh sáng mang tới cơ hội tốt cho cuộc sống cả bạn. Hãy luôn để nguồn năng lượng dương tràn ngập cửa ra vào. Nếu không bạn có thể bật đèn cửa trước, kể cả vào ban ngày. Nếu bạn lo ngại về tiền điện, có thể bật khoảng 3h/ngày. Nếu bạn không có đèn ở ngoài, hãy bật đèn bên trong phòng. Sự chú ý của bạn tới ánh sáng sẽ giúp thúc đẩy sự nghiệp.

3. Chữa những thứ hư hỏng

Chiếc chuông cửa bị hỏng sẽ làm nảy sinh khó khăn trong công việc. Vì vậy, hãy đảm bảo nó luôn hoạt động. Ngoài ra, chú ý tới những hỏng hóc có thể làm giảm nguồn năng lượng tích cực của bạn. Hãy làm giàu thêm ngân quỹ bằng cách tự tay sửa chữa các hư hỏng.

4. Bật bếp lửa
    Hãy khởi động bếp lửa trong vài giây mỗi ngày. Bếp ám chỉ đồ ăn và sự dồi dào. Vì vậy, bạn cần phải kích hoạt sự dồi dào này bằng cách làm nóng bếp thường xuyên. Ngoài ra, cần phải giữ mặt bếp sạch sẽ bởi nó là dấu hiệu của sự thịnh vượng. Treo 1 chiếc gương nhỏ phía trên bếp để giúp kích thích vận may về tiền bạc. Giữ gương luôn sạch sẽ, không bám bụi bẩn, nếu không nó sẽ làm "lu mờ" nguồn thu nhập của bạn.
 
(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải thiện vận may công việc nhờ một số mẹo vặt phong thủy

5 lý thuyết dùng Dự Đoán - Quyển 4

LỜI NÓI ĐẦU
5 lý thuyết dùng Dự Đoán - Quyển 4

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cơ sở luận tôi đã sử dụng để viết bài trong tập tài liệu nghiên cứu Chu Dịch này, hiện đang được giảng dạy tại các trường đào tạo Lương Y, Bác sỹ Đông Y. Nó khá khúc chiết & phức tạp. Tôi sẽ cố gắng trình bày chúng thật gọn bằng ngôn ngữ hiện đại cùng với các ví dụ minh hoạ giúp độc giả dễ dàng tiếp cận chúng.

Bao gồm:

- Âm Dương, Ngũ Hành, Khí Hoá, Tam Tài, Chủ Vị cùng với các qui tắc.

- Có điều chỉnh và bổ sung vào quyển này những kiến giải theo quan điểm tôi trình bày trong quyển 2.

Nắm vững các nguyên lý cơ bản hỗ trợ rất nhiều cho các bạn khi tìm hiểu thêm những môn học dự đoán khác, mà không bị lấm vào không gian huyễn hoặc ảo tưởng.

Nắm vững các nguyên lý cơ bản sẽ bổ trợ giúp các bạn khai triển rộng hơn, cao hơn, và có khả năng đi xa hơn trong thực tiễn dự đoán.

Xin giới thiệu cùng quý độc giả.

MỤC LỤC

QUYỂN 4:  5 Nguyên Lý Cơ Bản Dùng Dự Đoán

ÂM DƯƠNG

NGŨ HÀNH

KHÍ HOÁ

TAM TÀI

CHỦ VỊ

Thuyết Nhị Nguyên

Thuyết Nhất Nguyên

Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Hẹp

Thuyết Nhất Nguyên Hoàn Chỉnh Rộng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 lý thuyết dùng Dự Đoán - Quyển 4

7 lưu ý tuyệt đối đừng quên khi thờ Phật trong nhà

Nhiều gia đình thờ Phật để cầu may mắn, bình an nhưng không phải ai cũng biết cách thờ cho đúng, cho phải đạo. 7 lưu ý khi thờ Phật trong nhà dưới đây sẽ gợi ý
7 lưu ý tuyệt đối đừng quên khi thờ Phật trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

cho bạn.


7 luu y tuyet doi dung quen khi tho Phat trong nha hinh anh
 
Thông thường, khi thờ Phật trong nhà thường thờ ở ban, nhưng cũng có người không lập ban thờ cúng mà chỉ đặt tượng Phật, tranh Phật như một lá bùa. Dù là theo cách nào thì cũng cần phải thận trọng, bởi Phật liên quan nhiều tới tâm linh, không thể tùy tiện.
 
1. Ban thờ Phật phải đặt trong phòng thờ hoặc giữa căn nhà, là nơi sạch sẽ, thanh tịnh. Ban thờ Phật đặt cao hơn ban thờ gia tiên, trang trí bằng hoa tươi có màu sắc, mùi hương nhẹ nhàng và chỉ dâng cúng hoa quả, bánh kẹo, đồ chay và thường xuyên quét dọn.
 
2. Không đặt ban thờ Phật, tượng Phật, treo tranh ảnh Phật ở phòng ngủ, dễ dẫn tới việc ngủ không ngon, hay mộng mị vì nơi này không chay tịnh.
 
3. Nhà chỉ nên thờ nhiều nhất 3 vị Phật và phải sắp đặt chung một bàn, càng nhiều tượng Phật thì người sống trong nhà càng cảm thấy phân tâm, bất an.
 
4. Nếu tượng Phật trong nhà quá cũ, để lâu năm thì không được vứt hoặc ném vào một góc nào đó mà cần mua tượng Phật mới để thay và mang tượng Phật cũ lên chùa, miếu hoặc có thể đốt cùng tiền vàng (vào mùng 1, ngày rằm để tiễn tượng Phật quy vị).
 
5. Lưu ý khi thờ Phật trong nhà là nếu tượng Phật không may bị vỡ, không nên dùng chổi quét và vứt tùy tiện mà phải dùng giấy vàng gói lại, vào ngày mùng một, ba, năm, bảy, chín đốt dưới nắng, tiễn tượng Phật quy vị. Nếu ngón tay tượng Phật bị gãy thì nên dùng giấy đỏ cuộn lên rồi lắp vào, nếu thân Phật có vỡ, nên dán lại bằng giấy đỏ.
 
6. Trong khi thờ Tam thế Phật, phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kính thì nên đặt ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; còn với tượng gỗ, tượng đồng, tượng sành, thì để ngang hàng đồng bậc, không nên để tầng trên, cấp dưới.
 
7. Tranh Phật tuyệt đối không được cuộn lên, bởi làm như vậy sẽ gây đau đầu cho những người sống trong gia đình. Khi mắt, ngón tay của tượng Phật trong tranh bị hỏng thì phải sửa chữa hoặc vẽ lại, nếu không vẽ lại như cũ thì người sống trong nhà dễ bị mắc bệnh đối ứng chỗ hỏng của tượng Phật.  
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Theo Phong thủy Vietaa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 lưu ý tuyệt đối đừng quên khi thờ Phật trong nhà

Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Bạn đã từng hỏi niềm vui lớn nhất trong cuộc đời mình là gì chưa? Bạn mải theo đuổi những niềm vui nơi xa xôi mà dễ quên đi hạnh phúc căn bản quanh ta
Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có bao giờ bạn tự hỏi: niềm vui nào lớn nhất trong đời? Thành công, giàu sang hay có được điều mình mong muốn. Tất cả chúng ta đều cố gắng tìm kiếm cho mình những niềm vui trong cuộc sống. Nhưng khi có được thứ này chúng ta lại muốn có được thứ khác. Quá trình đuổi bắt cứ kéo dài suốt năm này qua năm khác, chúng ta không dễ gì nhận ra, niềm vui lớn nhất trong đời gần gũi và thân thương biết chừng nào.

Ngay từ lúc mới sinh ra, được sống trong vòng tay của cha mẹ chúng ta hạnh phúc và cảm thấy bình yên. Mỗi ngày là một ngày vui, lúc đó, cha mẹ tuyệt vời nhất. Thế rồi, lớn lên, chúng ta muốn thoát khỏi sự kiềm kẹp của mẹ cha. Muốn tự do bay lượn, chê đấng sinh thành giờ đây lạc hậu, không có những suy nghĩ tân tiến, hợp thời. Để rồi xa cách cha mẹ hơn, nhưng bạn ơi, niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là:

  1. Được sống cùng cha mẹ
  2. Được làm công việc mình thích
  3. Lấy được người mình yêu
  4. Sống trọn vẹn mỗi ngày

4 niềm vui lớn nhất trong cuộc đời

1. Được sống cùng cha mẹ

Trải qua những năm tháng tuổi trẻ bồng bột và ích kỷ, chúng ta trở về với những toan tính của cuộc đời. Không còn tự do bay nhảy, không còn những suy nghĩ ấu trĩ và ngông cuồng. Giờ đây chúng ta có cả một gia đình cần gánh vác. Lúc ấy mới chợt nhận ra rằng, được sống cùng cha mẹ là một niềm hạnh phúc to lớn.

Không chỉ dựa dẫm vào đôi vai gầy yếu của mẹ cha mỗi khi bước chân ta trên đường đời rệu rã, không chỉ được ăn bát cơm mẹ nấu, được cùng cha đàm đạo mỗi lúc chiều tà. Quãng thời gian đó yên bình và hạnh phúc biết bao. Không phải chỉ có cười thật to, hét thật lớn thì mới được gọi là niềm vui. Đôi lúc niềm vui bình dị và nhẹ nhàng biết bao, nhưng nó sẽ ngấm sâu vào ký ức của ta, an ủi vỗ về ta mỗi khi mệt mỏi và đau đớn trong cuộc đời.

2. Được làm công việc mình thích

Niềm vui này sẽ chẳng có niềm vui nào có thể sánh được. Đó là cảm giác thỏa mãn bởi vì chúng ta đã làm được điều mà mình thích. Không ít người không làm được việc mình thích, không dám theo đuổi ước mơ và hoài bão của bản thân. Chán nản, thất vọng để rồi họ nhận ra cuộc sống của mình thật nhàm chán, thật buồn bã.

Chỉ khi chúng ta được làm công việc mình thích, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui đến từ những điều bình dị, những điều tưởng chừng như vốn có của cuộc sống nhưng không phải lúc nào cũng cảm nhận được. Thế nên, nếu bạn cho rằng công việc chỉ là một công cụ để nuôi sống bản thân thì bạn hãy suy nghĩ lại đi nhé. Bởi vì chỉ khi yêu thích công việc của mình chúng ta mới làm tốt nó được. Được làm công việc mình thích là niềm vui lớn nhất trong đời.

3. Lấy được người mình yêu

Bất kỳ ai trong chúng ta đều muốn có được hạnh phúc trong cuộc sống vì vậy chúng ta mới trao đi tình yêu của mình. Có người lấy được người mình yêu, tin tưởng để làm chỗ dựa suốt đời cho mình, có người lại quyết định kết hôn trong lúc nóng vội. Rất nhiều người đã nếm quả đắng vì vội vàng trong tình yêu.

Một trong những niềm vui lớn nhất trong đời đó chính là lấy được người mình yêu và yêu mình. Khi sống cùng nhau, những bất đồng, những mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, nếu không có một tình yêu lớn dành cho nhau, ít khi chúng ta có thể tha thứ và chấp nhận lẫn nhau được. Lấy được người mình yêu là niềm vui lớn nhất trong đời. Lớn hơn rất nhiều những niềm vui do tình cảm tạo ra trước đó. Thế nên, hãy trân trọng cuộc sống gia đình và trân trọng người bạn đã lựa chọn.

4. Sống trọn vẹn mỗi ngày

Đây là niềm vui rất lớn bởi hàng ngày chúng ta đều cố gắng tìm kiếm nó nhưng ít người nắm giữ được nó. Có người lo lắng cho những việc không đâu để rồi cáu gắt với người thân và con cái của mình, làm mất đi một ngày đẹp đẽ. Bạn ơi, hãy đối diện với cuộc sống mỗi ngày, dẫu khó chịu bao nhiêu cũng đừng đổ lỗi lên đầu người khác. Hãy tìm cách chế ngự sự giận dữ của mình và bao dung với người bên cạnh, để mỗi ngày với bạn trọn vẹn hơn. Có thể bạn không nhận ra, nhưng mỗi sớm mai thức dậy, tâm trạng bạn thoải mái bạn sẽ có một ngày ngập tràn niềm vui.

Vậy nên, hãy mỉm cười khi ánh bình minh chiếu qua cửa sổ, bởi vì ít nhất thì chúng ta vẫn còn một ngày để làm những điều mình muốn. Hãy sống trọn vẹn từng ngày một với công việc, gia đình, con cái và những niềm đam mê nho nhỏ của bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời là gì

Điêu Thuyền chưa đủ tầm, ai mới là "Tam Quốc đệ nhất mỹ nhân"

Điêu Thuyền được cho là người đẹp nổi tiếng nhất thời Tam Quốc, nhưng trên thực tế có một người khác xứng danh là "đệ nhất mỹ nhân" thời đại này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điêu Thuyền có xứng là một trong "tứ đại mỹ nhân" Trung Quốc?

Tam Quốc là thời đại mà đàn ông "độc chiếm" vũ đài chính trị cũng như văn hóa. Trong hơn 70 năm của giai đoạn này, vô số nhân vật nam đã trở nên nổi tiếng và đi vào chính sử cũng như dã sử. Thế nhưng, chỉ có 3 mỹ nhân được nhắc đến nhiều nhất: Điêu Thuyền, Đại Kiều, Tiểu Kiều.

Đặc biệt, Điêu Thuyền - nhân vật mà đến nay sự tồn tại thực tế vẫn bị nghi ngờ - được văn hóa dân gian Trung Quốc xếp vào "tứ đại mỹ nhân" trong lịch sử quốc gia này, bên cạnh Tây Thi, Vương Chiêu Quân và Dương Ngọc Hoàn.

Tuy nhiên, cho dù Điêu Thuyền là một mỹ nhân có thực và có sắc đẹp như "Trầm Ngư Lạc Nhạn", thì nàng vẫn chưa đủ tầm để xứng danh là "Tam Quốc đệ nhất mỹ nhân".

Thứ nhất, Dương Quý Phi, Tây Thi và Vương Chiêu Quân đều được gả cho các vị quân vương một nước và được cưới hỏi danh chính ngôn thuận.

Trong khi đó, cho dù Điêu Thuyền hầu hạ bên cạnh Đổng Trác hay làm tình nhân của "chiến thần" Lữ Bố thì nàng cũng chỉ đóng vai trò "bồ nhí". Ngoài ra, cả hai "tình lang" của Điêu Thuyền đều không ai hoàn thành đế nghiệp và kết thúc sinh mạng một cách bi thảm.

Thứ hai, Điêu Thuyền chỉ thực sự nổi tiếng nhờ bộ tiểu thuyết "Tam Quốc diễn nghĩa" của tác giả triều Minh La Quán Trung.

Sắc đẹp của mỹ nhân này thực tế hết sức mờ nhạt. Điêu Thuyền chỉ được mô tả như một phụ nữ có diện mạo xinh đẹp và giỏi ca múa - mẫu người dễ dàng "lọt vào mắt xanh" của những nhân vật thô thiển như Đổng Trác và Lữ Bố.

Trong khi đó, dư luận Đường triều phải thừa nhận khả năng âm nhạc cũng như thơ từ đáng nể của Dương Quý Phi; Tây Thi là một trong những điển phạm của người phụ nữ "hy sinh tuổi thanh xuân làm gián điệp báo quốc", còn Vương Chiêu Quân là nhà ngoại giao xuất sắc.

Chỉ là "bồ nhí" của Đổng Trác, Lữ Bố, Điêu Thuyền chưa đủ tầm để đứng trong "tứ đại mỹ nhân"?

Chỉ là "bồ nhí" của Đổng Trác, Lữ Bố, Điêu Thuyền chưa đủ tầm để đứng trong "tứ đại mỹ nhân"?

"Tam Quốc đệ nhất mỹ nhân" là ai?

Trên thực tế, bên cạnh Điêu Thuyền và Đại - Tiểu Kiều, thời đại Tam Quốc còn một mỹ nhân danh tiếng khác. Người này từ nhỏ là một thần đồng, lớn lên được gả cho một vị khai quốc Hoàng đế.

Tài năng văn học của nàng được đánh giá là siêu việt, khiến cho 3 "cây đại thụ" trong văn đàn Tam Quốc là Tào Tháo, Tào Phi và Tào Thực phải nghiêng mình thán phục.

Con trai của mỹ nhân này về sau kế vị ngai vàng, trở thành minh quân của Ngụy triều. Đại mỹ nhân này không ai khác ngoài Hoàng hậu Chân Lạc của Ngụy Văn Đế Tào Phi.

Từ "Tam Quốc diễn nghĩa", người người đều khen Điêu Thuyền đẹp, nhưng sắc đẹp của nàng không hề được mô tả. Trong khi đó, nhan sắc của Chân Hoàng hậu đã được Tào Thực ca ngợi hết lời trong bài phú "Lạc Thần Phú".

"Lạc Thần phú" được Tào Thực sáng tác khi Chân Hoàng hậu - chị dâu của ông - đã qua đời. Tào Thực dùng hình ảnh ẩn dụ của "Mật Phi - thần của Lạc Thủy" để nói về vẻ đẹp của nàng Chân Lạc.

Người đời sau thậm chí đã nghi ngờ giữa Tào Thực và chị dâu đã có một cuộc tình lãng mạn nhưng không thành, khiến em trai Ngụy Văn Đế một đời đau khổ. Tuy nhiên, thông tin này vẫn chưa được kiểm chứng.

Chân Lạc sinh năm 182, thời Hán Linh Đế, người quận Trung Sơn (nay là Chính Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc).

Cha của Chân Lạc mất năm nàng 3 tuổi. Đến 9 tuổi, Chân Lạc trở nên vô cùng thông minh, biết cách tự học chữ đọc sách.

Sau này, khi đến tuổi thành thân, Chân Lạc được bá chủ phương Bắc đương thời là nhà quân phiệt Viên Thiệu cưới về cho con trai Viên Hy.

Viên Thiệu và Tào Tháo được ví như Chu Du với Khổng Minh. Không có Gia Cát Lượng và Tào Tháo, Viên Thiệu, Chu Du chắc chắn trở thành vô địch theien hạ.

Tại đại chiến Quan Độ, cha con Viên Thiệu thất bại trước liên quân của 18 chư hầu Quan Đông. Vài năm sau, cha con họ Viên qua đời.

"Lạc Thần" Chân Lạc từng gây sóng gió giữa 3 cha con, anh em Tào Tháo trong nhiều năm.

"Lạc Thần" Chân Lạc từng gây sóng gió giữa 3 cha con, anh em Tào Tháo trong nhiều năm.

Tào gia sóng gió vì người đẹp

Trong vị thế phe thắng trận, Tào Tháo vốn đã chú ý tới sắc đẹp của "Lạc Thần" Chân Lạc. Trước khi tiêu diệt Viên gia, Tào đã toan tính hòng bắt mỹ nhân về tay mình. Tiếc rằng, con trai ông là Tào Phi cũng mê mẩn trước Chân Thị.

Sau khi công hạ Nghiệp Thành, Tào Phi lập tức đưa 1000 binh mã xông vào Viên phủ cướp bóc. Lần đầu gặp nàng Chân Lạc tại đây, Tào Phi đã "hồn xiêu phách lạc". Năm đó, Tào Phi mới 17 tuổi, ông ra sức cầu xin cha được... lấy Chân Lạc làm vợ.

Trước "sự đã rồi", Tào Tháo buộc phải chấp thuận hôn sự của Tào Phi.

Hồng nhan bạc mệnh

Cuộc hôn nhân của Chân Lạc với Tào Phi có vài năm hạnh phúc. Chân Hoàng hậu sinh cho Phi một con trai và một con gái. Con trai bà chính là Ngụy Minh Đế Tào Duệ mà "kẻ diệt Ngụy" Tư Mã Ý rất e sợ và khâm phục.

Tuy nhiên, Chân Thị vốn lớn hơn Ngụy Văn Đế tới 5 tuổi, nhan sắc không tránh khỏi suy giảm theo thời gian. Dần dần, Tào Phi chán ghét hoàng hậu và chuyển sang sủng ái các phi tần trẻ tuổi hơn.

Chân Lạc vốn là người khảng khái, bà bất mãn với thái độ của Tào Phi và nhiều lần lên tiếng chất vấn, thậm chí làm thơ để phản đối nhà vua.

Hành động của Chân Hoàng hậu khiến Tào Phi nổi giận, cuối cùng quyết định ban cho một chén rượu độc. Chân Lạc qua đời bị Tào Phi ra lệnh lấy tóc che kín mặt mũi, mục đích để bà "xuống Âm phủ cũng không có mặt mũi gặp ai".

Mãi tới khi Tào Phi qua đời, Tào Duệ lên ngôi thì Chân Lạc mới được truy phong làm Văn Chiêu Hoàng hậu. "Lạc Thần Phú" mà Tào Thực viết về mỹ nhân này cũng trở thành tác phẩm nổi tiếng Trung Quốc suốt hàng nghìn năm.

"Lạc Thần Phú" được các nhà phân tích văn học trong lịch sử Trung Quốc nhận định là tác phẩm nói về mỹ nhân Chân Lạc.

"Lạc Thần Phú" được các nhà phân tích văn học trong lịch sử Trung Quốc nhận định là tác phẩm nói về mỹ nhân Chân Lạc.

theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điêu Thuyền chưa đủ tầm, ai mới là "Tam Quốc đệ nhất mỹ nhân"

Nguồn gốc 3 ngày lễ tình yêu Valentine 14/2, 14/3, 14/4

Ngày 14 tháng 2 là ngày Valentine - ngày lễ tình yêu. Tuy nhiên, ngoài ngày Valentine (14/2) đó, còn có 2 Ngày lễ tình yêu nữa là ngày 14/3 và 14/4
Nguồn gốc 3 ngày lễ tình yêu Valentine 14/2, 14/3, 14/4

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng biết ngày 14 tháng 2 theo dương lịch là ngày Valentine - ngày Lễ Tình Yêu. Tuy nhiên, ngoài ngày Valentine (14/2) đó, còn có thêm 2 Ngày lễ tình yêu nữa, đó là Valentine trắng và Valentine đen.


Valentine Đỏ (14/2)

Nguon goc 3 ngay le tinh nhan Valentine 142, 143, 144 hinh anh
 
Valentine Đỏ hay còn có tên gọi là Ngày lễ Tình yêu - là ngày dành cho tất cả những cặp đôi đang yêu nhau trên toàn thế giới. Truyện kể rằng, ở một xứ sở xa xôi, có một vị hoàng đế độc tài muốn ngăn cấm chuyện nam nữ yêu nhau. Nhưng dù ông ta có ngăn cấm bằng mọi cách thì những người yêu nhau vẫn đến với nhau. Cảm động trước những tình cảm chân thành này, giám mục Valentine đã hi sinh sự sống của mình để cùng những cặp tình nhân đến với Thiên đường. Và ngày lễ Tình yêu ra đời! Valentine Đỏ là dịp để những người yêu nhau bày tỏ tình cảm của mình với nửa còn lại. Trong ngày này, những người yêu nhau thường bày tỏ tình cảm của mình bằng nhiều cách như: Tặng socola, hoa hồng đỏ, hay nhắn gửi những lời yêu thương qua các tấm thiệp bé xinh.   Valentine Trắng (14/3)

Nguon goc 3 ngay le tinh nhan Valentine 142, 143, 144 hinh anh 2
 
  Valentine Trắng hay White Valentine, White Day, diễn ra sau Valentine đúng 1 tháng, vào ngày 14/3, là dịp để những bạn nam đáp lễ các bạn nữ hoặc là ngược lại. Valentine Trắng có nguồn gốc từ Nhật Bản, câu chuyện khá nhẹ nhàng, mộc mạc nhưng vô cùng dễ thương. Vào năm 1965 tại Nhật, một chàng trai bán kẹo dẻo muốn đáp trả lại tình cảm của cô gái thầm thương trộm nhớ mình hôm Valentine Đỏ (14/2) nên đã làm tặng nàng một hộp kẹo thật lớn, trắng như tuyết. Từ đó mọi người coi đây là sự tích ngày Valentine Trắng – ngày “đáp lễ” lại người yêu mình.
 
Dường như ngày Valentine Đỏ (14/2) ngọt ngào vẫn chưa đủ với những con tim đang yêu, vậy nên, nhiều bạn trẻ tại Nhật đã lấy thêm ngày Valentine Trắng để tỏ tình cảm với người thương yêu của mình. Sau ngày Valentine Đỏ tròn đúng 1 tháng, nhiều bạn trẻ sẽ đáp lại người thương yêu những món quà mà họ nhận được trong ngày 14/2.

So tuổi vợ chồng, lựa nhân duyên tốt
Hôn nhân là chuyện lớn của đời người. Trước khi quyết định gắn bó suốt đời với nhau, đôi trai gái không chỉ cần có tình yêu, sự hòa hợp của đôi bên cha mẹ mà
Mặc dù ngày Valentine Trắng không phổ biến như Lễ tình nhân 14/2 nhưng trong ngày này vẫn có nhiều người tặng quà cho một nửa của mình. Điều đặc biệt, trong ngày Valentine Trắng, bánh quy, kẹo và socola trắng được ưa chuộng thay vì những loại socola thông thường.
 
Những người trẻ tuổi tin rằng, nếu một ai đó tặng bạn bánh quy vào ngày này thì điều đó có nghĩa là người đó yêu bạn, kẹo có nghĩa là người đó thích bạn còn nếu là socola trắng thì có nghĩa là “Chúng ta hãy làm người yêu nhé!”. Bên cạnh đồ ăn, những món quà khác cũng được lựa chọn như đồ trang sức, túi xách, giày, khăn, thú nhồi bông. Ở Mỹ một số chàng trai còn tặng cả đồ lót cho bạn gái của mình.   Valentine Đen (14/4)
Nguon goc 3 ngay le tinh nhan Valentine 142, 143, 144 hinh anh 3
 
Thoạt đầu, lúc mới nghe, hẳn là bạn thấy thật kỳ lạ phải không, màu đen thường khiến người ta nghĩ đến những điều không tốt và không may mắn, tuy nhiên thực tế lại không như bạn nghĩ đâu! Ngày lễ tình yêu Valentine Đen (hay Black Valentine, Black day) vẫn được các bạn trẻ Hàn Quốc kỷ niệm mỗi dịp 14/4. Vào ngày 14/4 hàng năm, những FA-ers ở Hàn Quốc lại tụ họp với nhau, họ thường mặc trang phục màu đen, cùng nhau thưởng thức món mì Jachang (mì đen) truyền thống và chia sẻ với nhau về những lý do vì sao lại ế đến lúc này.
 
Tuy nhiên, đối với những ai tôn thờ chủ nghĩa độc thân thì ngày Valentine Đen này lại chính là cơ hội để họ dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động vui chơi, giải trí thú vị. Mặc lên những bộ trang phục đẹp nhất, cùng nhóm bạn thân dạo phố, thư giãn cùng các dịch vụ tại spa, đi mua sắm hoặc ăn uống.

► Mời các bạn: Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Lichngaytot.com

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc 3 ngày lễ tình yêu Valentine 14/2, 14/3, 14/4

Ngày sinh tốt nhất của 12 con giáp

Nếu sinh vào những ngày tốt, được phúc tinh chiếu mệnh, cả cuộc đời bạn sẽ không phải lo lắng vấn đề tiền bạc.
Ngày sinh tốt nhất của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu sinh vào những ngày tốt, được phúc tinh chiếu mệnh, cả cuộc đời bạn sẽ không phải lo lắng vấn đề tiền bạc.

=> ## cung cấp công cụ tra cứu ngày sinh con năm 2016 đẹp nhất và hợp tuổi bố mẹ

Tuổi Tý: Ngày sinh tốt nhất: 4, 13 và 30 âm lịch
Người tuổi Tý sinh vào tháng 4 âm lịch của bất kì tháng nào trong năm Tý sẽ thông minh và thích hợp làm nghiên cứu. Đa số người tuổi này đều có cuộc sống ổn định, của cải dồi dào và vô cùng hạnh phúc.
 
Những người sinh vào ngày 13 âm lịch dễ đạt được thành công lớn trong sự nghiệp do có nhiều may mắn. Người này cũng sống lâu với của cải dồi dào. Còn những người sinh vào 30 âm lịch thì liêm chính, thích làm việc thiện, cuộc sống giàu có khi vào trung vận. Khi về già, họ cũng được hưởng phúc lộc từ con cháu.
 
Tuổi Sửu: Ngày sinh tốt nhất 13 và 27 âm lịch
Những người tuổi Sửu sinh vào ngày 13 hoặc 27 âm lịch đều rất thông minh và may mắn. Họ có cuộc sống bình an, sung túc, không phải lo lắng vấn đề cơm áo gạo tiền.
Tuổi Dần: Ngày sinh tốt nhất 16 và 27 âm lịch
 
Người tuổi Dần sinh vào ngày 16 âm lịch dễ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có. Còn người sinh vào ngày 27 thì luôn được quý nhân phù trợ, hạnh phúc viên mãn trong hôn nhân với nhiều con trai và cháu trai.
 
Tuổi Mão: Ngày sinh tốt nhất 26, 27 và 29 âm lịch
 
Người sinh vào ngày 26 âm lịch thường có địa vị cao, được mọi người tôn trọng. Sinh vào ngày 27 là người thông minh, thiên về học thuật, sẽ mang lại vinh dự cho tổ tiên, dòng họ và có hôn nhân hạnh phúc. Còn người sinh vào ngày 29 âm lịch thì may mắn hơn hẳn, họ kinh doanh nhiều tài lộc và có khả năng quản lí tài chính rất tốt.
 
Tuổi Thìn: Ngày sinh tốt nhất là 1 và 16 âm lịch
 
Người tuổi Thìn sinh vào ngày 1 hoặc 16 vô cùng thông minh và may mắn. Họ có được sự nghiệp thuận lợi, có tiềm năng trở thành lãnh đạo cấp cao và đạt được cả danh tiếng cũng như sự giàu có.

Ngay sinh tot nhat cua 12 con giap hinh anh
Ảnh minh họa
Tuổi Tỵ: Ngày sinh tốt nhất là 1 và 23 âm lịch
 
Người sinh vào ngày mùng 1 thường có cuộc đời bình an, hạnh phúc. Còn sinh vào ngày 23 âm lịch thì có lòng dũng cảm và trí tuệ hơn người nên được nhiều người tôn trọng.   Tuổi Ngọ: Ngày sinh tốt nhất là 5 và 20 âm lịch
 
Những người tuổi Ngọ sinh vào mùng 5 có năng khiếu về nghệ thuật, dù phải trải qua khó khăn nhưng đều đạt được thành công nhất định. Nếu sinh vào 20 âm lịch thì hưởng cuộc sống bình yên bên con đàn cháu đống.
 
Tuổi Mùi: Ngày sinh tốt nhất là 7 và 30 âm lịch
Người tuổi Mùi sinh vào ngày 7 âm lịch thường hiền lành và khoan dung nên dễ dành được sự ủng hộ của mọi người xung quanh. Còn sinh vào ngày 30 lại rất may mắn, tài năng và dễ thành công trong sự nghiệp.
Tuổi Thân: Ngày sinh tốt nhất là 14 và 28 âm lịch
 
Nếu sinh vào ngày 14, người này có cuộc sống giàu có nhờ sự giúp đỡ của cha mẹ và quý nhân. Còn sinh vào ngày 28 âm lịch là người có khả năng lãnh đạo trời phú, hợp với quyền cao chức trọng.   Tuổi Dậu: Ngày sinh tốt nhất là 4 và 26 âm lịch
 
Người tuổi Dậu sinh vào ngày 4 sẽ thành đạt và nổi danh ngay từ khi còn trẻ. Còn sinh vào ngày 26 thì được trời phú cho tài năng kinh doanh, hưởng cuộc sống giàu sang phú quý.
Tuổi Tuất: Ngày sinh tốt nhất là 7 và 28 âm lịch
 
Dù sinh vào ngày 7 hay 28 âm lịch, người tuổi Tuất đều được phúc tinh chiếu mệnh, nên sống trường thọ và thành công hơn người khác.
Tuổi Hợi: Ngày sinh tốt nhất là 17 và 24 âm lịch
 
Người tuổi Hợi sinh vào ngày 17 đều rất thông minh, giữ chữ tín và được mọi người tôn trọng. Còn sinh vào ngày 24 là người được hưởng cuộc sống sung túc, giàu có.
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày sinh tốt nhất của 12 con giáp

Tướng người qua đôi mắt –

Người ta thường nói "đôi mắt là cửa sổ tâm hồn", thần thái của đôi mắt có thể biểu hiện trí lực và tình cảm của con người. Theo lý luận xem tướng học, thông qua quan sát hình dáng, vị trí, kích thước đôi mắt có thể đoán được tính cách và phẩm chất co
Tướng người qua đôi mắt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người qua đôi mắt –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Người tuổi Hợi mệnh Mộc

Người tuổi Hợi mệnh Mộc là những người sinh năm Kỷ Hợi 1959, 2019...
Người tuổi Hợi mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người này thường rất khiêm tốn, có nhiều phẩm chất tốt đẹp, biết cảm thông, bao dung với người khác.

Họ luôn lạc quan và rộng mở tấm lòng trong cuộc sống của mình. Vì vậy, tuy cuộc sống còn nhiều ưu phiền, trắc trở nhưng họ vẫn luôn an tâm, lạc quan tiến tới. Họ cũng thường khoan dung với chính bản thân mình.
Người tuổi Hợi mệnh Mộc rất chuyên tâm vào công việc nhưng đôi khi cũng bỏ cuộc giữa chừng, nhất là khi công việc gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở thì sự không kiên định của họ lại càng được thể hiện rõ nét hơn.

Họ thích hành hiệp trượng nghĩa và cũng thích được nhiều người ngưỡng mộ, yêu mến. Họ luôn tỏ ra nghị lực, đối xử thân thiện và hết lòng vì bạn bè. Người này cũng không tiếc công sức khi tham gia các hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng.
Đây là người biết cách lập kế hoạch cũng như xác định bước đi tiếp theo của mình là gì, luôn suy tính kỹ càng trước khi quyết định hành động. Họ có những kiến giải rất độc đáo cũng như tính toán kỹ về mặt lợi nhuận khi quyết định đầu tư vào công việc nào đó.
Tình cảm của họ rất trong sáng. Tuy nhiên, họ không thể nhận biết rõ ràng nếu trót làm tổn thương đến bạn bè nên thường bị liên lụy một cách vô thức.
Nếu được sao tốt tương trợ trong cung mệnh thì người này có thể gặp được rất nhiều cơ hội tốt và có địa vị cao trong xã hội. Nhưng nếu không được sao tốt tương trợ, họ sẽ trở thành những người dễ thay đổi, không giữ được tiết khí ban đầu của mình. Họ chỉ có thể tạo dựng được sự nghiệp nhỏ nhưng phải trải qua nhiều gian khổ. (Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Hợi mệnh Mộc

Giờ tốt dùng cho các việc quan trọng –

1. Giờ Phúc Tinh Ngày Giờ Phúc Tinh Ngày Giờ Phúc Tinh Ngày Giáp Giờ Dần Ngày Kỷ Giờ Mùi Ngày Ất Giờ Hợi và Sửu Ngày Canh Giờ Ngọ Ngày Bính Giờ Tý và Sửu Ngày Tân Giờ Tý Ngày Đinh Giờ Dậu Ngày Nhâm Giờ Thìn Ngày Mậu Giờ Thân Ngày Quý Giờ Mão * Giờ P

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1370311863-3192812489

1. Giờ Phúc Tinh

Ngày

Giờ Phúc Tinh

Ngày

Giờ Phúc Tinh

Ngày Giáp

Giờ Dần

Ngày Kỷ

Giờ Mùi

Ngày Ất

Giờ Hợi và Sửu

Ngày Canh

Giờ Ngọ

Ngày Bính

Giờ Tý và Sửu

Ngày Tân

Giờ Tý

Ngày Đinh

Giờ Dậu

Ngày Nhâm

Giờ Thìn

Ngày Mậu

Giờ Thân

Ngày Quý

Giờ Mão

* Giờ Phúc Tinh là giờ tốt cho mọi việc quan trọng. Giờ trong các ngày chỉ kể Thiên Can không tính Địa Chi. Ví dụ: Ngày Giáp thì có thể là Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn và Giáp Dần. Trong các ngày Giáp gặp giờ Dần là giờ Phúc Tinh. Các ngày theo Thiên Can khác cũng theo nguyên tắc này để tìm.

2. Giờ Lộc

Ngày

Giờ Lộc

Ngày

Giờ Lộc

Ngày Giáp

Giờ Thìn

Ngày Kỷ

Giờ Dần

Ngày Ất

Giờ Mão và Tuất

Ngày Canh

Giờ Thân và Tuất

Ngày Bính

Giờ Tý và Thân

Ngày Tân

Giờ Thân và Dậu

Ngày Đinh

Giờ Ngọ

Ngày Nhâm

Giờ Ngọ và Hợi

Ngày Mậu

Giờ Tý và Thìn

Ngày Quý

Giờ Tý và Thìn

* Mỗi ngày theo Thiên Can có một hoặc hai giờ Lộc. Giờ Lộc là giờ gặp được tài lộc và vật chất. Giờ trong các ngày chỉ kể Thiên Can không tính Địa Chi. Ngày Giáp thì có thể là Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn và Giáp Dần. Trong các ngày Giáp gặp giờ Thìn (tức từ 7 giờ đến 9 giờ sáng giờ Dương lịch). Nên dùng giờ chính Thìn (8 giờ sáng) là an tâm.

3. Giờ Thiên Ất quý nhân

Ngày

Giờ Thiên Ất

Ngày Giáp và Mậu

Ngày Ất và Kỷ

Ngày Canh và Tân

Ngày Nhâm và Quý

Giờ Sửu và Mùi

Giờ Tý và Thân

Giờ Ngọ và Dần

Giờ Mão và Tị

Thơ rằng:
Giáp Mậu giờ Trâu, Dê

Ất Kỷ dùng Chuột, Khỉ

Canh Tân cần Hổ Ngựa

Nhâm Quý gặp Mèo Xà

Đều là giờ Quý nhân.

4.  Giờ “Thiên Quan”

Ngày

Giờ

Ngày

Giờ

Giáp

Mùi

Kỷ

Dậu

Ất

Thìn

Canh

Hợi

Bính

Tân

Dậu

Đinh

Dần

Nhâm

Tuất

Mậu

Mão

Quý

Ngọ

5.  Giờ “Thiên Phúc”

Ngày

Giờ

Ngày

Giờ

Giáp

Dần

Kỷ

Dần

Ất

Thân

Canh

Ngọ

Bính

Tị

Tân

Tị

Đinh

Hợi

Nhâm

Ngọ

Mậu

Mão

Quý

Tị


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giờ tốt dùng cho các việc quan trọng –

Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Vào ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch có tổ chức các lễ hội: Hội Đình Phú Diễn được tổ chức tại Hà Nội và Hội Đền Lê Hoàn tổ chức tại Thanh Hóa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Các lễ hội diễn ra trong ngày mùng 7 tháng 3 âm lịch:

1. Hội Đình Phú Diễn

Thời gian: diễn ra từ ngày mùng 7 tới ngày mùng 9 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Phú Diểm, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn các vị Lê Đại Hành,Trần Thông.

Nội dung: Mở đầu hội là phần tế lễ cúng các vị thành hoàng, tiếp đó là múa rối nước trên sông, múa rồng, hát ca trù, múa sênh tiền. Riêng phần hội có: Đấu roi, thi leo cây, bịt mắt bắt dê, bơi trải.

2. Hội đền Lê Hoàn

Thời gian: tổ chức từ ngày 7 tới ngày 9 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: tôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Đối tượng suy tôn: tưởng nhớ tới vua Lê Đại Hành (người đã lãnh đạo nhân dân đánh tan quân xâm lược nhà Tống năm 981).

Nội Dung: Trong ngày khai hội, Dân làng tổ chức khiêng kiệu Thân mẫu và bố nuôi của vua Lê Đại Hành về đền thờ Lê Hoàn. Trong ngày chính kỵ thì trong đền làm lễ đại tế, bên ngoài tổ chức các trò chơi dân gian như: đấu vật, bắn nỏ, đua thuyền... Ngày cuối của lễ hội có lễ tạ, rước kiệu từ đền Lê Hoàng về làng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 7 tháng 3 Âm Lịch -Hội Đình Phú Diễn

Xem tướng nốt ruồi để biết tình trạng sức khỏe

Nốt ruồi ở trán tính tình nóng nảy, dễ có bệnh về tim; nốt ruồi ở mũi thì nóng dạ dày, hệ tiêu hóa không tốt…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Má phải

Chức năng phổi hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến hệ hô hấp, hạn chế ăn xoài, khoai môn, hải sản và những thức ăn dễ gây dị ứng.

Cánh mũi

Liên quan đến chức năng của buồng trứng và cơ quan sinh sản, hạn chế sống phóng túng hoặc kiêng khem quá mức, cần ra ngoài hít thở không khí trong lành nhiều hơn.

xem tướng nốt ruồi trên tay xem tướng nốt ruồi trên mu bàn tay xem tướng nốt ruồi trên mặt nữ giới xem tướng nốt ruồi trên mặt nữ xem tướng nốt ruồi trên mặt nam xem tướng nốt ruồi trên mặt xem tướng nốt ruồi trên cơ thể xem tướng nốt ruồi ở chân xem tướng nốt ruồi ở bàn chân xem tướng nốt ruồi

Giữa hai lông mày

Dễ đau thắt ngực, rối loạn nhịp tim, tim đập nhanh, hạn chế vận động mạnh, tránh hút thuốc, đồ ăn cay.

Mũi

Nóng dạ dày, hệ tiêu hóa hoạt động không bình thường, cần hạn chế ăn đồ lạnh.

Trán

Áp lực nhiều, tính tình nóng nảy, dễ tạo nên các vấn đề về tim mạch và hệ tuần hoàn máu, nên ngủ sớm và uống nhiều nước hơn.

Má trái

Chức năng gan hoạt động không bình thường, cần lưu ý đến những thói quen hàng ngày, duy trì tâm trạng vui vẻ, cần hít thở không khí trong lành, tránh các tụ điểm quá náo nhiệt, ồn ào.

xem tướng nốt ruồi trên tay xem tướng nốt ruồi trên mu bàn tay xem tướng nốt ruồi trên mặt nữ giới xem tướng nốt ruồi trên mặt nữ xem tướng nốt ruồi trên mặt nam xem tướng nốt ruồi trên mặt xem tướng nốt ruồi trên cơ thể xem tướng nốt ruồi ở chân xem tướng nốt ruồi ở bàn chân xem tướng nốt ruồi

Xung quanh môi

Dễ táo bón, cơ thể bên trong tích tụ nhiều độc tố, nên ăn nhiều hoa quả và rau xanh, cần điều chỉnh lại thói quen ăn uống.

Cằm

Rối loạn nội tiết tố, cần hạn chế ăn đồ lạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng nốt ruồi để biết tình trạng sức khỏe

Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng, Tuổi tý, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng, tu vi Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng, tu vi Tuổi tý
Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng

Dưới đây là tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng. CUỘC SỐNG Tuổi Mậu Tý thuộc mạng Hỏa. Số trường tồn. Cuộc đời tuy không gặp nhiều may mắn lắm. Tuy vậy về mặt xã hội vẫn giữ được một địa vị trung bình. Tuổi này có được một cuộc sống khả dĩ giúp được cho đời sống êm ấm cá nhân, thích những cái mới lạ, bản thể hay chạy theo tư tưởng. Suốt cuộc đời không có những sôi động đặc biệt về danh vọng, tuy có, nhưng vẫn ở trong sự trầm lặng và những sự hoạt động từ từ hơn là những sôi nổi để chiếm đoạt.  

Nếu gặp tuổi vợ trùng hợp thì có thể được giàu sang nhưng ít con. Nhưng nếu gặp tuổi không trùng hợp như trên đã chỉ thì nghèo lại đông con.

 
  Số hưởng thọ trung bình khoảng độ từ 50 đến 55 là mức tối đa. Số này có phước lộc. Nếu có tu tâm, dưỡng tánh, tạo nhiều phước đức thì hưởng thêm được 5 năm nữa. Tử vi tuổi Mậu Tý nam

Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng

 

TÌNH DUYÊN  Số phận tuổi Mậu Tý có nhiều thay đổi, tùy vào quyết định và sự lựa chọn cho hợp với tuổi tác mà cuộc sống có thể lên cao và sống sang giàu, và cũng có thể trở lên nghèo khó, nếu không tìm được những tuổi không hợp.  
Nếu sinh vào tháng Giêng, 3, 4, 8, và 12 Âm lịch thì cuộc đời phải hai lần thay đổi lương duyên.   Nếu sinh vào tháng 2, 9, 10 Âm lịch thì lương duyên bạn trở lên chung thủy và hạnh phúc.   Nếu sinh vào tháng 5, 7, 11 Âm lịch hay đổi vợ chồng như thay áo.

 

    GIA ĐẠO, CÔNG DANH Tuổi Mậu Tý công danh lên bổng xuống trầm, khó thoát qua được những thảm trạng buồn não về công danh. Vì lẽ công danh quyết định cho cả sự nghiệp và đời sống hằng ngày, nên cần phải có sự liên quan với tuổi tác vợ chồng, mới hiểu được một cách rành mạch hơn.   Gia đạo lúc đầu hãy còn nhiều sóng gió, tuổi nhỏ hay có những mặc cảm gia đạo không hoàn toàn êm ấm và kéo dài cho đến 23 tuổi mới có được hạnh phúc hoàn toàn, về phần con cái chỉ vào mức độ trung bình, tùy theo sự lựa chọn lương duyên trùng hạp tuổi, cũng có thể có hào con và hào của một lượt, nếu có tuổi trùng hạp trong vấn đề lương duyên.   Tuổi Mậu Tý tuy không có một sự nghiệp vĩ đại khả dĩ sống trong sự giàu sang phú quý, nhưng vẫn có một cuộc sống khá xứng đáng, mọi nghi thức đưa đến một sự nghiệp. Ở tuổi 36 và 37 là gặp nhiều may mắn, đặc biệt tuổi 37 là tuổi của bước đầu hoàn thành sự nghiệp trong đời bạn, tiền tài cũng lên cao.   NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN T rước khi muốn làm ăn mà không sợ thất bại, phải căn cứ vào tuổi người mà mình muốn hợp tác và quan trọng hơn hết là tuổi vợ chồng.   Những tuổi hợp là Mậu Tý gặp tuổi Nhâm Tý, tuổi Kỷ Sửu hay Quý Tỵ. Những tuổi này giúp bạn thành công hơn là thất bại.   LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG T rong cuộc sống, việc lựa chọn lương duyên là vấn đề quan trọng nhất cho cuộc đời bạn, có khi sự lựa chọn đó không trùng hạp với tuổi, có những rối rắm thường xảy ra trong gia đình hạnh phúc, thường hay bê bối và sự làm ăn khắc kỵ không tạo được một hy vọng và triển vọng cho cuộc đời.   Những tuổi hợp kết hôn là Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Ất Mùi, có thể phát đạt, giàu sang.   Kết hôn với người tuổi Mậu Tý và Kỷ Sửu, rất trùng hợp về đuờng công danh, việc gia đạo được êm ấm, người vợ luôn luôn hiền lành và rất trật tự, tiền tài luôn luôn dư dả, cuộc sống hiển vinh, xe hơi nhà tốt, người vợ hay lo tính, hiền từ đạo đức, tuy nhiên người vợ thường có đau bịnh, trùng hạp về tiền tài, nhưng con cái trung bình.   Kết hôn với người tuổi Đinh Dậu: Số phú quý, giàu sang, nhưng lại không con, nếu có cũng rất khó nuôi, có phần nuôi con nuôi. Đời sống rất sung túc.   Kết hôn với tuổi Đinh Hợi: Gặp số tốt về công danh sự nghiệp, vợ chồng hòa thuận, con cái trung bình, có đầy đủ phúc đức tạo nên cơ nghiệp.   Kết hôn với người Ất Mùi: Bạn được danh phận tuy không giàu sang phú quý, nhưng gia đình êm ấm, vợ chồng thuận hòa. Số vợ giữ được tiền tài nhưng lại có đau bịnh nhỏ. Làm ăn mau phát đạt.  

Nếu kết hôn với những tuổi Mậu Tý, Nhâm Thìn, Giáp Ngọ thì có một cuộc sống trung bình. Tuy có sự hợp nhưng không làm cho đời sống được phát triển mạnh mẽ.

  Nên tránh kết hôn với tuổi Canh Dần, Bính Thân, Nhâm Dần vì cuộc sống hẩm hiu, khó thoát được qua những cơn lo buồn và khổ não, bởi số kiếp ở trong sự bần cùng túng quẫn liên miên.   Đại kỵ, không nên kết hôn ở tuổi 19, 23, 25, 31 vì nó là đại kỵ. Nếu có xảy ra trong những năm ở vào những tuổi này, bạn sẽ có sự xung khắc, dù gặp người trùng hợp tuổi, bạn cũng gặo cảnh chia ly, buồn bực và nhiều lo lắng, nên tránh đi những năm mà bạn gặp ở vào những tuổi này.   Tuổi Mậu Tý nam mạng sinh vào tháng 1, 7, 2, 6 và 9 Âm lịch sẽ có nhiều vợ. Sự thay đổi vợ thường xuyên hay gặp được cảnh buồn não, khổ tâm về đ àn bà. Ít khi lương duyên được ở suốt đời.   NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ Khắc kỵ với tuổi Mậu Tý nam là tuổi Tân Mão và Quý Mão. Gặp hai tuổi trên, bạn bị rất khắc kỵ, chẳng những không tạo được cuộc đời mà còn gây ra bao điều khó nhọc, chết chóc bất ngờ.   Nhắc lại tuổi Mậu Tý chỉ đại kỵ có hai tuổi Tân Mão và Quý Mão, việc lương duyên nếu gặp sẽ không được lâu bền, và sẽ có một người chết trong hai. Hóa giải lương duyên: nếu lỡ yêu thương nhau nên làm: Người con gái tự nhiên đến ở nhà người trai. Không nên có những sự cưới hỏi, tiệc tùng ra mắt bà con. Đại kỵ nhất là mâm trầu. Nếu có sự cưới hỏi, tiệc tùng hay ra mắt gặp giờ khắc, tháng khắc, một trong hai người sẽ chết bất đắc kỳ tử, trong khoảng thời gian một năm sau đó.   NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT Tử vi tuổi Mậu Tý có mệnh Hỏa, tính tình nóng nảy, hay sinh ra nhiều thất bại trong việc giao dịch, giao thương hay tất cả những công chuyện làm ăn khác. Ở tuổi 20, 23, 27 và 33 sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho bản thể cũng như về cuộc đời. Muốn vượt được qua những khó khăn đó, bạn cần nhờ những tuổi Kỷ Sửu, Đinh Dậu, Đinh Hợi, Ất Mùi, thì có thể nhờ sự trùng hợp mà thoát khỏi được. Nhưng nếu có trường hợp ở vào những tuổi không phải như trên, bạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống cũng như về bản thân vào những năm đã kể trên.   NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT B ất kỳ ngày nào trong cuộc đời, tuổi Mậu Tý cũng có thể xuất hành hay đi làm ăn rất hạp nhứt và ít khi mang đến thất bại, đó là sự xuất hành đúng theo ngày chẵn, giờ chẵn và tháng chẵn, ngày, giờ rất trùng hợp với tuổi của mình và sẽ mang lấy nhiều kết quả. Nếu sự ra đi, xuất hành, gặp ngày lẻ tháng chẵn, hay giờ lẻ, ngày chẵn thì ít khi được việc, và có thể gặp ngày đại kỵ trong những ngày giờ trên.   NHỮNG DIỄN TIẾN TỪNG NĂM T ừ 19 đến 21 tuổi: Năm có nhiều sóng gió trong cuộc đời, suốt năm không bao giờ có thể yên lặng trong tâm trí. Con người và sự sống có thể mang lấy nhiều thương đau hơn, chưa có một đức tin hay một sự sống khá vững chắc. Tháng 7 và 8 trong năm Bính Ngọ nên đề phòng tai nạn. Nhưng đến năm Đinh Mùi, sẽ gặp nhiều may mắn hơn đôi chút. Hai năm liền trong một hoàn cảnh sống hoàn toàn sôi động và khác biệt. Sự làm ăn và sự nghiệp lẫn cả công danh bấp bênh! chưa có sự vững chắc lắm.   T ừ 22 đến 25 tuổi: Ba năm này bạn sẽ có thành công đôi chút về công danh, có thể có được tiếng tăm và phát hiện một sự làm ăn rõ rệt. Tất cả mọi công việc đều có thể hoàn thành hơi sớm, sau sẽ có đổ vỡ. Nhưng gặp những năm số mạng lên cao nên sự làm ăn và việc dự tính được thực hiện một cách mỹ mãn hơn. Năm 24 tuổi có thay đổi lương duyên, hay thay đổi chuyện làm. Để tiến vượt bực lên con đường sự nghiệp, cẩn thận về việc giao dịch hay sự xã giao với phái nữ. Không nên quá thân mật với giới này, sự nghiệp sẽ bị đổ vỡ.   T ừ 26 đến 30 tuổi: Tuổi 26 chưa có gì sôi động, chỉ có làm ra được nhiều tiền bạc, nhưng không vững bền, làm nhiều, tiền bạc nhiều, nhưng tiêu hao không mấy chốc. Tình trạng đó kéo dài cho đến tuổi 29. Tiền bạc, sự nghiệp và công danh mới phát triển mạnh, cho đến qua 30 tuổi, lại có những sự sụp đổ nhỏ nhặt. Tuy vậy cũng có thể phát hiện sự việc và bắt đầu một cuộc làm ăn và óc xây dựng sự nghiệp trở nên mạnh mẽ và bền vững hơn, thời gian này kéo dài cho đến 5 năm sau.   T ừ 31 đến 37 tuổi: Cuộc sống có thể dễ chịu hơn vào khoảng tuổi 33 và 34, tuy vào tuổi 33 có nhiều thay đổi và bị hạn nặng, nhưng sau khi vượt qua sự khó khăn đó thì bắt đầu tiến triển lên đến mức độ tột cùng của cuộc sống, tuổi Mậu Tý cuộc sống chỉ ở mức độ trung bình, hoàn thành sự nghiệp, tạo được cuộc sống an nhàn trong những năm nầy.   Từ 38 đến 45 tuổi: Cuộc sống trở lên trầm lặng và khác biệt. Sự nghiệp cũng đến mức bình thường sau khi bôn ba và lo lắng hoàn thành và thành công mỹ mãn. Những năm nầy sự làm ăn và gia đạo chỉ trong mức sống êm ấm và thường nhựt vào khoảng năm 40 tuổi, có một lần đau nặng hay suýt bị nạn. Khó mà chữa trị và nếu mà thoát qua được thì hưởng nhiều hạnh phúc và con người trở lên trầm lặng lạ thường cho đến hết năm 45 tuổi mới có thể phát triển thêm sự nghiệp và tiền tài được.   Từ 46 đến 50 tuổi: Những việc làm ăn nên phát triển mạnh mẽ vào những năm nầy, những năm có đầy đủ về sự vượng phát, về mọi khía cạnh, tình cảm, tài lộc, con cái và cả sự phát triển nghề nghiệp. Gia đình hoàn toàn yên vui, tiền bạc dồi dào, phát triển mạnh mẽ về sự nghiệp làm ăn.   Từ 50 đến 55 tuổi: Những năm nầy lại càng sôi động hơn, cần phải đề phòng đau bịnh hay những tai nạn có thể xảy ra cho cuộc đời bạn bất thình lình, kiên nhẫn và chịu đựng cầu mong ở Trời Phật thoát khỏi tai nạn. Đừng hy vọng quá nhiều về cạnh tranh sự nghiệp, lo an phận là tốt hơn cả. Trong thời gian này cần giữ phúc đức nhiều hơn là lo tiền bạc.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời tuổi Mậu Tý nam mạng - Tuổi tý - Xem Tử Vi

Giải mã giấc mơ thấy thắp nhang có ý nghĩa gì –

Mơ thấy thắp nhang chiêm bao thấy thắp nhang là một điều khá thú vị và đặc biệt trong cuộc sống, Có nhiều người thắc mắc không biết giấc mơ thấy thắp nhang có phải là một điềm báo lành không hay là giữ. Nhưng thắc mắc vẫn là thắc mắc mà chưa giải mã
Giải mã giấc mơ thấy thắp nhang có ý nghĩa gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ thấy thắp nhang có ý nghĩa gì –

Xem tướng các nốt ruồi giáu sang phú quý –

Nốt ruồi không nên mọc trên khuôn mặt, trừ nốt ruồi duyên, nốt ruồi nên mọc kín trong cơ thể TƯỚNG VỀ NỐT RUỒI : 1. Nốt ruồi mọc ở góc trán : đa phu , háo sắc 2. Nốt ruồi mọc ngay giữa trán, khắc phu và hại 3. Các nốt ruồi mọc gần mắt, ấn đường, sơn
Xem tướng các nốt ruồi giáu sang phú quý –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng các nốt ruồi giáu sang phú quý –

Yếu lĩnh trong nhà vệ sinh và phòng tắm –

(1) Chú ý làm đẹp cho nhà vệ sinh Thường thì mọi người hay coi nhẹ việc trang trí cho nhà vệ sinh, thực ra nhà vệ sinh và nhà bếp là hai nơi thể hiện bộ mặt của nơi ở, nhà vệ sinh sạch sẽ, tao nhã sẽ nâng cao giá trị thẩm mỹ của ngôi nhà. Nhà vệ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(1) Chú ý làm đẹp cho nhà vệ sinh

Thường thì mọi người hay coi nhẹ việc trang trí cho nhà vệ sinh, thực ra nhà vệ sinh và nhà bếp là hai nơi thể hiện bộ mặt của nơi ở, nhà vệ sinh sạch sẽ, tao nhã sẽ nâng cao giá trị thẩm mỹ của ngôi nhà.
Nhà vệ sinh là nơi có độ ẩm khá cao nên việc chọn vật liệu để chỉnh sứa là hết sức quan trọng. Nên chọn vật liệu làm đồ trang trí, lát nền, làm tường có màu dịu mát, sạch sẽ, chẳng hạn dùng gạch màu trắng, bồn tắm màu xanh lá cây hoặc xanh da trời, tường dùng màu phấn mát hoặc vàng nhạt. Tổ hợp các màu nhẹ nhàng, sáng dễ tạo được màu tổng thể thống nhất, thêm vào đó là màu sắc hài hoà của các loại đồ dùng khác sẽ làm tăng sự hứng thú và dễ chịu cho người sử dụng.

thiet-ke-phong-ve-sinh-trong-nha-2
Vật liệu trang trí trong phòng nên dùng gạch men, tường nhựa, đá. Để hơi nước không bị ngưng tụ lại trong phòng, không khí dễ lưu thông, người ta thường lắp quạt thông gió ở phòng vệ sinh. Chủ ý phòng chống ẩm cho đèn, nên lắp dèn trắng là hợp lý. Trong phòng có thể bố trí một chiếc bàn nhỏ để gương lược, phía trước bàn lắp một bóng đèn huỳnh quang để tiện cho việc trang điểm và cũng làm cho phòng ấm áp, tươi sáng và thoáng hơn.

Công tắc, Ổ cắm điện trong nhà vệ sinh thường lắp bên ngoài để tránh bị rò điện. Trong nhà vệ sinh có bình nước nóng sử dụng gas thì phải chú ý phòng chống rò gas. Mặt nền phòng nên lát bằng gạch chống trơn. Trong nhà vệ sinh có bồn tắm thì cần chú ý tạo bề mặt nền nhà dốc hơn để nước dễ thông thoát.
Ngoài ra, nên bố trí thùng đựng rác trong nhà vệ sinh. Trên bàn trang điểm có thể để một bình nước hoa tự động tạo mùi thơm, làm cho nhà vệ sinh thêm dễ chịu.

(2) Cách thiết kế và bố trí nhà vệ sinh

– Độ ẩm trong nhà vệ sinh cao nên phải chọn dùng vật liệu có khả năng chống ẩm tốt. Ví dụ như lát nền thì dùng gạch nung, đá hoa cương; phủ tường dùng gạch men, đá đại lý; che nóc dùng nhựa, mi ca, tấm  lợp trong suốt.
– Màu của vật liệu phủ tường nhà vệ sinh, của đồ dùng vệ sinh thường sử dụng là màu mát dịu, ví dụ như dùng gạch men trắng, trắng nhạt, bồn tắm màu xanh lá cây nhạt hoặc xanh da trời, đều là những màu sạch. Có thể chọn đồ dùng trong nhà vệ sinh có màu sắc đẹp mang dáng vẻ thanh cao. Tuy nhiên cần chú ý phối màu tổng thể sao cho hài hoà, thống nhất.
– Để tránh hơi nước ngưng tu lại trong phòng, giữ cho không khí lưu thông, nhà vệ sinh nên lắp quạt thông gió hoặc thiết bị làm thay đổi không khí, như vậy vừa có lợi cho sức khoẻ vừa bảo dưỡng được cho tường.
– Nền nhà vệ sinh cần có độ dốc nhất định về phía cửa thoát nước để nước trong phòng thoát được dễ dàng.
– Cách mớ rộng bằng thị giác
Rất ít nhà vệ sinh lợi dụng được cảm giác thị giác để thay đổi không gian phòng rộng lên. Phương pháp làm như sau:
– Sử dụng các tấm vật liệu trang trí có màu trắng, hồng hoặc đen. Tường gạch men, bồn tắm, chậu rửa màu trắng, mành che màu hồng, mái che và giá khăn màu đen sẽ tạo cảm giác thoáng rộng. Đèn sáng dịu phản xạ ánh sáng qua gương tạo nên sự hứng thú.
– Bố trí trong phòng vệ sinh hai chiếc gương, một chiếc dán ép thẳng vào tường, một chiếc chếch mặt gương lên nóc phòng, làm như vậy không những che được đường ống nước thông với tầng trên mà còn có thể thay đổi không gian rộng thoáng hơn. Tường gạch màu đen, màu đỏ hung và dụng cụ vệ sinh màu trắng, chậu rửa mặt bằng đá màu đen sẽ tạo sự tương phản mạnh, thông qua phản xạ của gương, thuỷ tinh sẽ làm cho không gian phòng thêm rộng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yếu lĩnh trong nhà vệ sinh và phòng tắm –

Nằm mơ thấy mình bị bỏ rơi –

Các em bé bình thường thích nói chuyện, muốn được cả nhà yêu mến chiều chuộng nhưng nếu ốm là biếng ăn, học tập sút kém, lười biếng. Trong giấc mơ các em không thấy mình lười nhác, ngược lại thấy mình rất siêng năng nhưng lại bị bố mẹ ghét bỏ, mọi ng
Nằm mơ thấy mình bị bỏ rơi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mình bị bỏ rơi –

Quẻ Quan Âm: Đào Tam Xuân Quải Soái

Quẻ Quan Âm thứ 99 Quẻ Quan Âm: Đào Tam Xuân Quải Soái đoán rằng nên cố gắng làm việc, không nên chú ý đến chuyện thị phi của người khác.
Quẻ Quan Âm: Đào Tam Xuân Quải Soái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 99 được xây dựng trên điển cố: Đào Tam Xuân quải soái hay Đào Tam Xuân treo ấn nguyên soái.

Quẻ hạ thuộc cung Hợi. Nên tập trung vào việc của mình, đừng xen vào chuyện thị phi của người khác, như vậy tai họa mới không vây tới bản thân.

Thừ quái bân ưu bán hỷ chi tượng. Phàm sự chỉ nghi hành thiện dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Đào Tam Xuân Quải Soái

Ở thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, tại huyện Bò Thành có Đào gia trang, viên ngoại ở gia trang này tên là Đào Thượng Nhân, rất trung hậu, có hai người con gái. Cô con gái Đào Tam Xuân từ nhỏ đã rất giỏi võ nghệ, thích đọc binh thư, mười tám loại vũ khí loại nào cũng thông thạo, ham cưỡi ngựa bắn tên, chỉ thích vui chơi. Hai cánh tay của cô tựa như là binh khí, người dũng mãnh đến đâu cũng không thể đến gần. Người ăn kẻ ờ trong nhà, nếu có ai không theo lệnh, cô chỉ cần túm lấy, sẽ khiến cho người đó đau đến nỗi phải kêu trời, thật khó tường tượng cô khỏe mạnh đến mức nào. Vì thế người ta đều lén gọi cô là “mẫu đại trùng” (hổ cái).

Người anh em kết nghĩa của Triệu Khuông Dằn là Trịnh Ân lưu lạc giang hồ, một hôm đi qua huyện Bồ Thành, vì ăn trộm dưa của nhà Đào Tam Xuân, bị gia đinh phát hiện. Trịnh Ân múa cây gậy bằng gỗ táo, đang đánh hăng, bỗng nghe trong không trung như vọng đến một tiếng sấm, khiến gia đinh đều dừng tay. Chỉ thấy Đào Tam Xuân giật cây gậy tề mi từ tay cô hầu gái, nhằm đầu Trịnh Ân đánh xuống, Trịnh Ân giơ cây gây bằng gỗ táo lên đỡ. Hai người kẻ tới người lui đánh nhau kịch liệt. Không đến ba mươi hiệp, cây gậy của Trịnh Ân đã bị gậy của Đào Tam Xuân đánh bay. Trịnh Ân không dám chậm trễ, giơ tay lên đỡ. Những a hoàn biết rằng gã đàn ông này không phải là đối thủ của Tam Xuân, chỉ đứng một bên xem. Mỗi khi Trịnh Ân bị trúng một đòn đau, mọi người liền đồng thanh reo hò. Trịnh Ân tuy thân thể cường tráng, có thế chịu đòn, thế nhưng nắm đấm của Đào Tam Xuân quá mạnh, nên chẳng bao lâu, Trịnh Ân đã mô hôi đầm đìa, thở hòng hộc, chỉ biết chống đỡ chứ không còn sức đánh trả, nhưng miệng vẫn hung hăng, vừa chịu đòn vừa hét: “Ta không phục! Ta không phục!” Lại đánh một lúc, Trịnh Ân không còn sức mà chống đỡ nữa, đứng cũng không vững, ngã lao đầu xuống đất. Bọn a hoàn trói quặt chân tay Trịnh Ân ra phía sau, luồn cây gậy gỗ táo luồn qua các vòng dây thừng, khiêng lên rồi đi, nhự bầy ong tiến vào cửa sau của Đào phủ.

Triệu Khuông Dẩn trên đường tìm Trịnh Ân may sao gặp được Đào Thượng Nhân, hai người rất vui mừng. Đào Thượng Nhân mở tiệc lớn để tiếp đãi khách quý phựơng xa. Trong bữa tiệc Triệu Khuông Dẩn nói rõ, kẻ ăn trộm dưa ấy chính là đứa trẻ thường cùng Đào Tam Xuân gây gổ tại doanh trại Hiệp Mã ở Lạc Dương mười năm về trước. Triệu Khuông Dấn biết Đào Tam Xuân từ nhỏ đã cùng cha học được võ nghệ cao siêu, nghĩ thầm nếu Trịnh Ân có thể xây dựng hạnh phúc trăm năm với Đào Tam Xuân thì sẽ là một việc rất tốt, vì thế có ý tác hợp, liền cầu thân với cha con họ Đào. Cha con họ Đào cũng thấy mến quý tính cách thẳng thắn của Trịnh Ân, hai người cũng nhanh chóng tâm đầu ý hợp. Sau khi kết hôn, Đào Tam Xuân sinh được một người con trai, đặt tên là Trịnh Ấn.
Sau khi Triệu Khuông Dẩn lên làm hoàng đế, cho gọi Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục vào triều bàn việc. Lý Dục không đến, vì thế Triệu Khuông Dấn tìm được lý do để tấn công, đích thân dẫn đại quân chinh phạt Nam Đường. Đại tướng Trịnh Ân, Tào Bân, Phan Mỹ đi theo hộ giá. Nhưng chiến sự lại không thuận lợi, quân đội Nam Đường tận dụng địa lợi vây khốn quân Tống. Trong tình thế nguy cấp, Đào Tam Xuân một lòng muốn cứu chồng, cùng với con trai là Trịnh Ấn, con dâu là Vương Ngọc Nga chỉ huy người ngựa phối hợp vkới quân Tống, diệt được Nam Đường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Đào Tam Xuân Quải Soái

Hóa giải phong thủy cho nhà ở bị phạm trực xung

Nhà phạm trực xung nghĩa là cửa chính ngôi nhà đối diện với một con đường lớn. Phong thủy nhà ở còn gọi đây là thế “một mũi tên xuyên tim”, có thể mang lại nhiều điều không cát lợi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con đường trực xung vào nhà ở sẽ tạo thành một luồng khí thẳng, hơn nữa nó lại rất mãnh liệt, cứng và có tốc độ nhanh. Nếu tốc độ luồng khí quá cao, thì khi đó ngôi nhà ở vào vị trí giống như việc chúng ta đang đi trong một miệng gió, vô cùng căng thẳng phải nhắm chặt mắt lại, che cả miệng, bịt tai, thậm chí lỗ chân lông có thể co lại… tức là khi cơ thể ở trong trạng thái không bình thường. Con đường đâm thẳng vào nhà khiến nhà ở vào thế trực xung cũng giống như một người cả ngày phải sống trong gió mạnh, sức khỏe dần dần sẽ có vấn đề, dẫn tới suy kiệt.

Nếu nhìn dưới góc độ khoa học hiện đại cũng sẽ thấy điều này được giải thích rất đơn giản. Khi moogj ngôi nhà đối diện với đường cái, nơi có rất nhiều xe cộ chạy qua lại thường xuyên đương nhiên cũng dễ gặp tai nạn, không an toàn về mặt giao thông, đó cũng là một điều không cát lợi.


Giải pháp tốt nhất hóa giải thế nhà phạm “trực xung” là dùng một bức bình phong (tường, cây cối...) án ngữ trước nhà. Ảnh minh họa

Con đường trước nhà có gây ra trực xung hay không còn tùy theo cách nhìn nhận, quan điểm khác nhau. Còn có cả quan điểm cho rằng trực xung không chỉ là trạng thái con đường hữu hình hướng thẳng vào ngôi nhà, mà còn là vấn đề hướng chảy của trường khí và từ trường vốn dĩ vô hình. Khi trước nhà có các con đường hình thành chữ “đinh” và đan chéo vào nhau (tức nhà ở vị trí ngã ba đường) cũng chính là một ví dụ rất điển hình về con đường trực xung.

Những vật thể kiến trúc nằm ở vị trí đối diện trực tiếp với con đường trực xung đương nhiên có khí vô hình chảy qua lại mạnh hơn rất nhiều các hướng khác, hơn nữa ngôi nhà nằm ở vị trí này cũng có trường khí và từ trường bị quấy nhiễu liên tục của xe cộ hỗn tạp hàng ngày, lâu dần sẽ xung kích vào người cư ngụ, gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe của họ.

Một số biện pháp khắc phục:

Trong trường hợp nhà phạm trực xung như vậy, cách tốt nhất nên làm là xây tường bao cổng kín bên ngoài hoặc có thể trồng một hàng cây hay đắp hòn non bộ, đài phun nước... nói chung là các vật che chắn như một dạng bình phong nhằm giảm tác động trực xung từ con đường vào nhà. Nếu tạo được một con đường uốn lượn mềm mại tới cửa chính cùng với cây cối, tiểu cảnh là điều tốt nhất, vì có thể giúp tránh được các yếu tố tiêu cực, thậm chí, nếu làm đúng cách còn giúp thu hút được năng lượng tốt cho ngôi nhà.

Một tiểu cảnh non bộ với cây si nhỏ trồng phía trên núi đá, tượng tiều phu ngồi bình yên bên dưới hốc đá, một đàn trâu thung thăng gặm cỏ và dưới hồ nhỏ là đàn cá bơi lội, không những đem lại phong thủy tốt mà còn làm đẹp cảnh quan cho ngôi nhà, giúp mọi thứ trở nên thư thái.

Nếu cửa chính bị trực xung thì nên đổi hướng cửa, không nên để đường đừng đâm thẳng vào cửa. Những ngôi nhà có phong thủy chưa tốt, chủ nhà thường dùng gương gắn trước nhà nhằm phản bớt vận khí. Cách làm nào cũng hạn chế được phần nào những điều xấu mang lại cho ngôi nhà.

(Theo Báo Xây dựng online)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải phong thủy cho nhà ở bị phạm trực xung

Tướng người khổ –

Một số nét tướng được các nhà nhân tướng học liệt kê dưới đây đều được xếp vào hàng người không thích ứng với sự phát tài. 1. Hai mắt vô thần, nhìn vào có cảm giác như là buồn ngủ Là người thiếu ý chí và tinh thần phấn đấu trong cuộc sống, rất dễ nản
Tướng người khổ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người khổ –

Khám phá giấc mơ về bàn ghế

Điềm lành hay dữ mà giấc mơ về chiếc bàn hay ghế mang lại cho bạn phụ thuộc vào tình trạng của nó.
Khám phá giấc mơ về bàn ghế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Điềm lành hay dữ mà giấc mơ về chiếc bàn hay ghế mang lại cho bạn phụ thuộc vào tình trạng của nó. 


Kham pha giac mo ve ban ghe hinh anh
Ảnh minh họa
  Một chiếc bàn mới xuất hiện trong mơ biểu thị cuộc sống bình yên luôn ở bên bạn. Giấc mơ về chiếc bàn được bày biện nhiều đồ ăn biểu thị sự sum họp vui vẻ của gia đình bạn sau nhiều ngày xa cách.    Chiếc bàn bẩn hoặc bị gãy chân xuất hiện trong mơ báo hiệu gia đình bạn có thể xảy ra những mối bất hòa.    Nếu bạn mơ thấy một chiếc bàn làm việc thì đây là giấc mơ đẹp. Nó dự báo rằng bạn sẽ hài lòng về cuộc sống của mình. Tuy nhiên, nếu chiếc bàn làm việc xuất hiện trong mơ ở tình trạng được thu dọn gọn gàng thì điều này lại ám chỉ rằng bạn sẽ cảm thấy buồn bực vì người bạn hoặc thậm chí là người yêu của mình.    Bạn nên vui mừng nếu mơ thấy mình đi qua một chiếc bàn. Điều này dự báo rằng bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè.
 
Chiếc ghế là vật dụng quen thuộc trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nó không chỉ đơn thuần là thứ dùng để ngồi mà đôi khi còn là thứ thể hiện quyền uy. Vì vậy việc mơ thấy ghế thường có mối liên hệ chặt chẽ với đời sống hiện tại.   Nếu mơ thấy mình ngồi trên ghế là điềm báo rằng bạn sẽ có được trợ lý hoặc người giúp việc giỏi. Họ chính là cánh tay đắc lực, giúp bạn vạch ra các kế sách và hoàn thành công việc một cách tốt nhất.   Bạn có thể sẽ nhận được tiền của bất ngờ nếu mơ thấy một chiếc ghế sang trọng. Nếu mơ thấy chiếc ghế thường dùng hàng ngày thì đó là một tin tốt lành rằng cuộc sống gia đình bạn đang rất thuận hòa, êm ấm. Còn nếu giấc mơ đó là một chiếc ghế bành thì thường là điềm vui vẻ.   Mơ thấy mình hay ai đó ngồi trên chiếc ghế đẩu là thông điệp bạn sẽ có được những niềm vui nhỏ. Tuy nhiên, nếu thấy ngồi trên chiếc ghế có bánh xe lăn thì lại là điềm có kẻ tiểu nhân mưu hại.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá giấc mơ về bàn ghế

9 ngày ĐỘC trong tháng 5 âm lịch nhất định phải thận trọng

Tháng 5 âm lịch hay tháng Ngọ là tháng cửu độc, có 9 ngày thân thể bị tổn hao nguyên khí nghiêm trọng, nhất thiết phải đề phòng.
9 ngày ĐỘC trong tháng 5 âm lịch nhất định phải thận trọng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 5 âm lịch hay tháng Ngọ được coi là tháng vượng đào hoa nhất trong năm, nhưng cũng là “tháng cửu độc”, có 9 ngày thân thể bị tổn hao nguyên khí nghiêm trọng, nhất thiết phải đề phòng.



9 ngay DOC trong thang 5 am lich nhat dinh phai than trong hinh anh
 

1. Thế nào là ngày cửu độc


Theo tử vi, tháng Ngọ có 9 ngày “độc” nên gọi là “tháng cửu độc” bao gồm các ngày: 5, 6, 7, 15, 16, 17, 25, 26, 27 âm lịch.
  Ngày 5: đây là Tết Đoan Ngọ cũng là ngày đứng đầu trong 9 ngày độc, dễ gặp yêu vong, tai họa bất ngờ nên uống rượng hùng hoàng, ngải thực vật để tránh tà.   Ngày 6: ngày gặp yêu vong, bất trắc, tai họa, nên ăn chay để tích phúc, giảm hung.   Ngày 7: ngày gặp yêu vong, bất trắc, tai họa   Ngày 15: ngày Rằm trăng tròn, gặp yêu vong, bất trắc, tai họa, lại trúng 4 ngày âm vượng nhất.   Ngày 16: ngày nguyên khí đất trời của vạn vật tạo hóa tổn hao, phạm phải thì trong vòng 3 năm vợ hoặc chồng bỏ mạng.   Ngày 17: ngày gặp yêu vong, bất trắc, tai họa.  
Ngày 25: ngày trăng mờ tối, gặp yêu vong, bất trắc, tai họa.
Ngày 26: ngày gặp yêu vong, bất trắc, tai họa.   Ngày 27: ngày gặp yêu vong, bất trắc, tai họa lại có tranh chấp giáng xuống.   Trong 9 ngày này phải hết sức thận trọng vì đây là thời điểm âm dương tranh chấp, dễ dàng làm tổn thương nguyên khí của con người. Nhất là vấn đề quan hệ nam nữ phải kiêng cữ kẻo bệnh tật, suy nhược, hại tới gốc rễ cơ thể.

Người xưa có câu: “Uống trăm thang thuốc không bằng một chút tiêu độc” nên có tập tục trong tháng 5 âm lịch con gái đã đi lấy chồng về nhà mẹ đẻ ở một tháng là như vậy. 3 điều cấm kị trong 9 ngày độc bao gồm: sát sinh, tình ái, phóng túng. Nên kiềm chế dục vọng, thanh tâm quả dục, tự mình đoan chính nghiêm túc và sống vui vẻ, thoải mái để bảo tồn nguyên khí. 
 

2. Sự thật về ngày Cửu độc


9 ngay DOC trong thang 5 am lich nhat dinh phai than trong hinh anh
 
Cửu độc là độc tố của các loài rắn, rết, cóc, bò cạp, bướm, nhện... Ngày cửu độc là một quan niệm dân gian, theo đó đây là thời gian Hỏa vượng cực độ, tháng 5 là tháng “trọng hạ”, âm khí sắp sinh, dương khí cực thịnh nên khí trời ngột ngạt và rất độc. Trong lục phủ ngũ tạng của con người các bộ phận như thận, dạ dày, gan, đại tràng sẽ xuất hiện các độc tố có tính chất tương tự như cửu độc.    Gan yếu, Hỏa vượng Thủy nhược khiến cơ thể mệt mỏi, không thải độc tốt , cần phải bồi dưỡng gan bằng các thực phẩm mát, bổ thận, trợ phế, điều tiết dịch vị dạ dày phù hợp với thời tiết để tăng cường sức khỏe, bảo vệ thân thể.   Để hóa giải cửu độc, người Việt dùng cách “giết sâu bọ” bằng rượu nếp và những loại quả có tính nóng như vải, mận,… vào ngày 5/5 âm lịch hàng năm, đồng thời kiêng giao hợp, kiêng sát sinh để hóa giải. Người Trung Quốc thường dùng Hùng Hoàng – một loại thuốc Đông y có dược tính cực mạnh để hóa giải khí độc trong người, xua tan tà khí của ngày hè, cách này không được áp dụng tại Việt Nam.   Như vậy, ngày cửu độc không phải là ngày tốt, ngày xấu mà là thời gian Hỏa vượng, cần giải nhiệt để bảo vệ sức khỏe, phù hợp với sự cân bằng âm dương ngũ hành của vũ trụ. Ngày này kiêng sát sinh vì tà khí mùa hè đang mạnh, không nên gây thêm ác nghiệp. Không phóng túng, giao hợp nhiều lần vì Hỏa vượng dễ khiến cơ thể lao lực, tổn hại nguyên khí.   Như vậy, tháng cửu độc, ngày cửu độc chỉ cần làm tốt việc thanh nhiệt giải độc, mát cơ thể, tráng kiện nội tạng đồng thời giữ tinh thần sảng khoái, thoải mái, không ham mêm sắc dục quá đà là mọi chuyện đều ổn, không cần phải lo lắng thái quá.

Xem thêm: Vì sao tháng 5 âm lịch được gọi là tháng cửu độc?

Có thể bạn quan tâm: 
6 điều tích vận phúc trong Tết Đoan Ngọ Vì sao tháng 5 âm lịch lại kị chuyện sinh hoạt chăn gối? 8 mẹo phong thủy xua tan tà khí trong ngày Tết Đoan Ngọ Phương pháp phong thủy khai vận, tăng may trong tiết Đoan Ngọ Ngày Tết Đoan Ngọ thực chất bắt nguồn từ Phật giáo? Người tuổi nào phải cẩn thận trong tết Đoan Ngọ? Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 ngày ĐỘC trong tháng 5 âm lịch nhất định phải thận trọng

Những tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp

Cùng ## tìm hiểu về tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp, từ đó thay đổi chính bản thân mình để gặt hái thành công.
Những tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Không ai hoàn hảo, mỗi người có những ưu và nhược điểm riêng. Tuy nhiên, nếu nhanh chóng thay đổi tật xấu cản đường sự nghiệp, 12 con giáp sẽ sớm gặt hái thành công.


1. Người tuổi Tý – Cứng nhắc

Dù có năng lực sáng tạo vô biên, chí tiến thủ không ngừng trong sự nghiệp, nhưng cái tật hành sự cứng nhắc kiểu “vơ đũa cả nắm” và quá coi trọng cái tôi cá nhân lại là một trong những rào cản con đường thành công của người tuổi Tý.

2. Người tuổi Sửu – Quá tin người

Đời không như mơ, đời chẳng như thơ, tin người quá mức chỉ khiến mình thiệt thòi đủ đường. Người tuổi Sửu bản tính thật thà, chăm chỉ, dễ tin người nên khó tránh việc bị lợi dụng hoặc lừa gạt.

Nhung tat xau can duong su nghiep cua 12 con giap hinh anh
 
3. Người tuổi Dần – Nóng vội


Phong cách làm việc của người tuổi Dần là càng nhanh càng tốt. Nhưng nhanh nhảu đoảng, nóng vội dẫn tới những quyết định hấp tấp, sai lầm, thậm chí đắc tội người khác. Đây là một trong những tật xấu cản đường sự nghiệp của bạn.

4. Người tuổi Mão – Áp đặt ý kiến cá nhân cho người khác

Dù làm việc nỗ lực, kiên trì, tự tin đầy mình nhưng người tuổi Mão lại thích áp đặt ý kiến cá nhân của mình cho người khác. Sự cố chấp này cũng là một trong những tật xấu cản đường sự nghiệp mà bạn cần phải sửa ngay.

5. Người tuổi Thìn – Làm việc tùy hứng

Quan điểm làm việc của người tuổi Thìn rất hiện thực, có làm mới có ăn, nhìn thấy tốt là vun vào. Điều đó hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất mà con giáp này mắc phải chính là cách làm việc tùy hứng, có hứng thì mọi việc trôi chảy đủ đường, mất hứng thì bế tắc, vòng vo.

6. Người tuổi Tỵ - Để tình cảm xen vào công việc

Ai cũng biết người tuổi Tỵ coi trọng tình cảm, biết cách sẻ chia, quan tâm tới mọi người xung quanh. Nhưng nếu quá bi lụy, không thể kiểm soát cảm xúc, để tình cảm xen vào công việc lại là điều không nên. Nó ảnh hưởng ít nhiều tới khả năng tập trung vào công việc, từ đó kéo hiệu quả làm việc giảm đáng kể.

Nhung tat xau can duong su nghiep cua 12 con giap hinh anh 2
 
7. Người tuổi Ngọ - Tự tin tới mức tự phụ


Trong công việc, nếu người tuổi Ngọ tỏ thái độ khiêm tốn hơn đôi chút, mọi việc càng thêm thuận lợi, sự nghiệp hanh thông, thoáng đạt.

8. Người tuổi Mùi – Quá cầu toàn


Coi trọng tiểu tiết, chú trọng vẻ hoàn mỹ, cầu toàn là một trong những tật xấu mà người tuổi Mùi nên sửa ngay nếu muốn thăng tiến hơn trong sự nghiệp.

9. Người tuổi Thân – Lười biếng


Dù có năng lực làm việc, coi trọng tình cảm, có lý tưởng sống rõ ràng, nhưng đa phần người tuổi Thân lại lười biếng, gặp khó khăn dễ bỏ cuộc giữa chừng nên thành công vẫn còn ở xa tít phía trước.

Những con giáp may mắn tới mức ra ngõ nhặt được tiền
– Nhặt được của rơi để bù đắp cái mình đã mất là điều mà ai cũng mong muốn. Nhưng còn hơn thế, những con giáp dưới đây còn may mắn tới mức ra
10. Người tuổi Dậu – Đa nghi


Sống mà cứ đa nghi, luôn phải đề phòng hay tỏ ra đố kị, ghen ăn tức ở thì làm sao có thể chuyên tâm phấn đấu cho sự nghiệp được. Nếu không bỏ ngay tật xấu này, e rằng thành công chỉ đến với bạn trong mơ.

11. Người tuổi Tuất – Không tuân thủ quy tắc chung

Có trái tim lương thiện, yêu thích hòa bình, tự do là điều tốt, nhưng nếu “bê” luôn cái sở thích phóng khoáng, tự do vào trong công việc lại là điều không nên. Khi đó, người tuổi Tuất chẳng thể tuân thủ quy định, quy tắc của tập thể, tất nhiên, bạn sẽ không thể được lòng của đông đảo mọi người, con đường thăng tiến cũng theo đó mà xa dần với bạn.

12. Người tuổi Hợi – Bảo thủ

Lạc quan vui sống, nỗ lực hết mình vì ngày mai tươi sáng luôn là ưu điểm mà ai cũng nên học hỏi ở người tuổi Hợi. Có điều, con giáp này lại bảo thủ, quá coi trọng ý kiến cá nhân nên đường công danh, sự nghiệp cũng gặp không ít trở ngại.

Ngân Hà

Top 5 con giáp tốt toàn diện năm 2016
Được nhiều cát tinh và quý nhân phù trợ, những con giáp này không những gặt hái thành công trong công việc, sự nghiệp mà cả đường tình duyên cũng mĩ mãn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tật xấu cản đường sự nghiệp của 12 con giáp

Tướng nốt ruồi đàn ông |

Nốt ruồi trên khuôn mặt đàn ông có ý nghĩa như thế nào? Nó cho ta biết những điều gì ? Nốt ruồi trên khuôn mặt của bạn như thế nào? Cùng xem và khám phá nhé. 1- Hại cha mẹ 2- Thích làm quan 3- Làm quan to 4- Chết vì tai nạn 5- Không hợp nghề võ 6- Số
Tướng nốt ruồi đàn ông |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng nốt ruồi đàn ông |

Những ngày tốt cho các việc động thổ, sửa chữa nhà cửa, làm nhà, cất nóc, cưới gả –

Tháng Ngày tốt Tháng Ngày tốt Tháng Giêng Các ngày Tý Tháng Bảy Các ngày Ngọ Tháng Hai Các ngày Sửu Tháng Tám Các ngày Mùi Tháng Ba Các ngày Dần Tháng Chín Các ngày Thân Tháng Tư Các ngày Mão Tháng Mười Các ngày Dậu Tháng Năm Các ngày Thìn Tháng Mườ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xem-ngay-gio-tot-gio-xung-khac-de-dam-cuoi1

Tháng

Ngày tốt

Tháng

Ngày tốt

Tháng Giêng

Các ngày Tý

Tháng Bảy

Các ngày Ngọ

Tháng Hai

Các ngày Sửu

Tháng Tám

Các ngày Mùi

Tháng Ba

Các ngày Dần

Tháng Chín

Các ngày Thân

Tháng Tư

Các ngày Mão

Tháng Mười

Các ngày Dậu

Tháng Năm

Các ngày Thìn

Tháng Mười một

Các ngày Tuất

Tháng Sáu

Các ngày Tị

Tháng Chạp

Các ngày Hợi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ngày tốt cho các việc động thổ, sửa chữa nhà cửa, làm nhà, cất nóc, cưới gả –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd