Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Vì sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình?

Chúng ta đầu thai hay chuyển kiếp là do nhân duyên của mình mà thành nên luôn có mối quan hệ chặt chẽ với bố mẹ hay anh chị em trong nhà.
Vì sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Không ít lần chúng ta từng thắc mắc vì sao mình sinh trong gia đình như thế này còn có những người may mắn hơn sinh ra trong gia đình giàu có, sung túc. Thậm chí có người sống trong nhung lụa suốt đời còn mình thì không?    Vậy, tại sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình? Theo như Phật đã giải thích, việc chúng ta đầu thai trong gia đình mình hay người kia đầu thai trong gia đình khác hoàn toàn không phải việc ngẫu nhiên. Tất cả là do nghiệp lực hay số phận đã được sắp đặt, có thể nói đó là điều không thể thay đổi, nếu muốn, bạn chỉ có thể thay đổi hành vi của mình trong cuộc sống hiện tại.    Nếu duyên phận của một đứa trẻ với gia đình nào đó chỉ rất ngắn, dường như chỉ đi lướt qua nhau thì việc đứa trẻ đó sống trên cõi đời này trong một thời gia ngắn cũng là điều giải thích được. Một đứa trẻ ngoan hay hư một phần là do cách giáo dục nhưng đa phần là do cộng nghiệp mà thành nên chúng đến kiếp này để đòi bạn trả nợ hay là hỗ trợ, che chở cho bạn.   Vì thế, chúng ta đầu thai trong gia đình nào là do bốn loại duyên phận với cha mẹ, anh em trong nhà. Duyên phận khác nhau thì tình huống chung sống giữa cha mẹ và con cái cũng khác nhau.   Dưới đây là 4 loại duyên phận của con cái. Là cha mẹ, bạn cần nhìn thấu suốt mối nhân duyên ràng buộc này. Chúng nhận bạn làm cha mẹ rốt cuộc là do cơ duyên gì, là thiện duyên hay là ác duyên?

Tham khảo: Làm sao biết ai đó thọ sinh sang cảnh giới nào 
 

Vi sao chung ta dau thai lam con cua bo me minh
 

Đầu thai để đòi nợ

  Có những bậc phụ huynh rất đau đầu khi con cái phá phách, tiêu tốn quá nhiều tiền bạc, tài sản khiến họ phải nai lưng ra trả nợ hết lần này tới lần khác. Thậm chí khi chúng lập gia đình họ vẫn phải cưu mang cả gia đình của con. Thực ra đó là khi người con đó đang đòi lại nợ kiếp trước mà bố mẹ của họ đã nợ không kịp trả hết.

Nếu kiếp này bạn đã trả được hết nợ cho họ ở thời điểm nào thì lập tức họ rời đi nhưng nếu nợ càng nhiều thì chúng đeo bám bạn càng lâu. Vì thế, nếu một đứa trẻ không thể ở lâu bên bạn thì đừng quá buồn khổ, hãy nghĩ rằng vạn sự tùy duyên và duyên lành hay không thì họ chỉ được ở bên bạn chừng đó thời gian mà thôi. Khi đó, hãy cố gắng sống tốt và cầu chúc cho con của mình sớm siêu thoát sang cảnh giới tốt đẹp hơn, nếu được sinh ra làm người sẽ có cuộc sống ý nghĩa hơn.
 
Xem thêm: Đức Phật nói về tái sinh, cuộc sống sau khi chết

Đầu thai để trả nợ

  Bạn đã từng thấy có những người con vô cùng hiếu thuận dù bố mẹ có thế nào đi nữa họ vẫn hi sinh mọi thứ để chăm sóc, nuôi dưỡng đấng sinh thành. Họ sẵn sàng đi làm xa nhà để gửi tiền về cho bố mẹ mỗi tháng, điều đó có nghĩa là những đứa con này đầu thai để trả nợ. Nếu món nợ lớn, sau khi trưởng thành họ sẽ sẵn lòng cung cấp cho cha mẹ một cuộc sống sung túc, vui sướng tận hưởng tuổi già. Có khi bố mẹ sống dựa hoàn toàn vào sự chu cấp của con cái mà không hề nhận được một tiếng phàn nào của con.   Bên cạnh đó, nếu con nợ bố mẹ ít tiền thì khi trưởng thành họ cũng không cho đấng sinh thành nhiều tiền, chỉ là số tiền tiêu vặt hàng tháng và bố mẹ cũng không có nhu cầu đòi hỏi gì quá nhiều ở con cái.
 
Dau thai de tra no
 

Đầu thai để báo ơn

  Cũng như những đứa trẻ đầu thai để trả nợ, những người quay lại kiếp này để báo ơn bố mẹ cũng rất yêu thương, quan tâm tới đấng sinh thành. Từ nhỏ tới lớn, đứa trẻ đó rất dễ nuôi, vâng lời, chăm chỉ và dường như bạn không phải quan tâm gì nhiều nhưng tất cả chúng đề rất tình cảm, sống biết trước biết sau.

Những đứa trẻ muốn báo ơn bố mẹ hiện tại thường rất thông minh, ngoan ngoãn, làm tròn trách nhiệm, sẽ chăm sóc phụ huynh của mình tận tình vào những năm cuối đời.
  Vì thế, đang sống trong kiếp này bạn hãy thoải mái trong việc giúp đỡ, hỗ trợ người khác, kết thiện duyên rộng rãi. Cứ gieo phúc phận, niềm tin yêu rồi bạn sẽ nhận được điều tương xứng. Vì theo nhân quả, có thể đời này bạn chưa được báo đáp nhưng nhất định bạn sẽ được nhận quả ngọt theo một cách nào đó mà không thể đoán biết trước được. 

Tham khảo thêm: Nhân quả báo ứng: Con cái đến với cha mẹ là do nghiệp duyên

Dau thai de bao on
 
 

Đầu thai để báo oán

  Trước đây bạn đã từng gieo rắc những điều xấu khiến người đó oán hận, không thể tha thứ thì kiếp này họ đầu thai làm con bạn để làm hại bạn như là cách để trả thù.    Vì thế, nếu con bạn ngỗ ngược, không chịu nghe lời hay thậm chí bất hiếu thì cũng hãy hiểu rằng đó là lúc bạn đang bị báo oán. Có những gia đình thực sự đã bị khánh kiệt, khuynh gia bại sản, tan cửa nát nhà cũng chỉ vì con cái.    Có lẽ bạn sẽ cho rằng đây là kết quả của việc giáo dục trẻ nhỏ không tốt. Những đứa trẻ không biết vâng lời bây giờ quá nhiều. Lẽ nào chúng đều tới để báo oán hay sao?

Nhưng nếu bạn chỉ ngồi oán thán thì cũng chẳng ích gì, bạn nên hiểu rằng đó là những đứa trẻ tới báo oán. Vì thế, cố gắng chấp nhận sự thật và tập sống tốt hơn, cố gắng đứng lên từ những lỗi lầm và cố gắng không gieo thù chuốc oán thêm, thành tâm sám hối sẽ có cơ hội thanh đổi số phận.

Điều này bạn cần phải tự hỏi bản thân mình xem trong cuộc sống bạn vẫn đang gieo thêm nghiệp hay duyên lành. Liệu bạn có đang vui vẻ làm việc thiện, vui vẻ bố thí nhiều hơn hay thường nghĩ cách chiếm lợi của người khác nhiều hơn, đối với tiền bạc, bạn có kỳ kèo thêm bớt hay không?

Tham khảo: Hãy cho người thân của mình cơ hội để siêu thoát 
  Tóm lại, như Đức Phật đã chỉ ra rằng nếu không tồn tại mối nhân duyên nào thì ai đó không có con hay không thể mang thai. Hơn nữa, bạn có thể sinh ra con trai, con gái, hay sinh con một bề cũng được được số mệnh định đoạt. Đứa con mình mang nặng đẻ đau có trở thành đứa ngoan ngoãn, hiếu thảo không hoàn toàn do bố mẹ chúng quyết định mà phần lớn là do số mệnh, mọi việc đã được sắp đặt từ trước. 

Nếu sinh con ra không được như ý muốn thì cũng đừng buồn giận, chỉ là ta đang phải trả nghiệp cho kiếp trước hay cho những gì ta làm trong quá khứ mà thôi.
  Vận mệnh hay số mệnh được hiểu là thân phận, phúc họa, sang hèn, vinh nhục... là những điều thuộc về số phận. Điều bạn có thể thay đổi đó là hành vi hiện tại, vì đó là nhân để tạo ra quả về sau, có khi ở trong đời này hoặc sẽ tạo ra quả ở đời sau. Sinh con ra khó nhọc, nuôi nấng con còn khó nhọc hơn. Làm bậc cha mẹ, hãy nên tích đức cho con cái, đừng vì tham lam mà làm điều ác để lấy nhà cao cửa rộng cho con; cũng đừng vì ích kỷ, thù hằn cá nhân mà gây ác nghiệp, có thể kiếp sau quả báo mới tới, nhưng cũng có thể kiếp này đã tới ngay trong đời con.
Oán trách chính là một liều thuốc độc vì nó sẽ hủy hoại ý chí của bạn, ăn mòn ngọn lửa nhiệt tình trong tim bạn. Oán trách vận mệnh mình không bằng tự thay đổi vận mệnh của mình. Bản thân cuộc sống vốn không có gì là khổ cực, con người chỉ vì trong tâm chứa quá nhiều dục vọng ham muốn mới tự làm mình khổ đau. Oán trách cuộc sống không bằng tự cải thiện cuộc sống của bản thân mình.
  Cuối cùng, dù là duyên nghiệp như nào trong kiếp trước, thì trong đời này cha mẹ hãy là những tấm gương sáng cho con cái về tu dưỡng đạo đức, hơn nữa cần có trách nhiệm giáo huấn con cái về phương diện này. Chỉ như vậy mới có hy vọng hóa giải những nợ nần, ân oán mà bạn đã tích lại từ đời trước.   Minh Minh

Bảy cửa ải sau khi chết con người phải trải để đầu thai sang kiếp khác Kỳ lạ hiện tượng người đầu thai truyền kiếp có thật

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao chúng ta đầu thai làm con của bố mẹ mình?

Nốt ruồi ở chân mang ý nghĩa gì? –

Mỗi vị trí nốt ruồi trên cơ thể mang một ý nghĩa khác nhau có ảnh hưởng tới cuộc đời hay vận mệnh của bạn. Có thể là một điềm báo xấu hoặc tốt đối với vận mệnh của bạn. Mỗi nốt ruồi ở chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấ
Nốt ruồi ở chân mang ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở chân mang ý nghĩa gì? –

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Quẻ Quan Âm: Lâm Đồng Cứu Giá

Quẻ Quan Âm thứ 78 Quẻ Quan Âm: Lâm Đồng Cứu Giá đoán rằng Người phạm tội bị tù ngục sẽ được đại xá, người bị bệnh sẽ gặp được lương y cứu chữa.
Quẻ Quan Âm: Lâm Đồng Cứu Giá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 78 được xây dựng trên điển cố: Lâm Đồng cứu giá hay cứu giá ở Lâm Đồng.

Quẻ thượng cát thuộc cung Ngọ. Mọi việc đang gặp khó khăn ắt tìm được hướng giải quyết. Muốn có tiền bạc hay cơ đồ thì cần có sự chỉ dẫn của quý nhân.

Thử quái binh thiện dụng sự chi tượng. Phàm sự binh ổn đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Lâm Đồng Cứu Giá

Đời vua Tùy Văn Đế, Đường Vương là Lý Uyên vào triều yết kiến. Thái tử lúc này là Dương Quảng, nhìn thấy vợ của Lý Uyên là Đậu Thái Chân rất xinh đẹp, liền giở trò trêu ghẹo. Lý Uyên biết được, tức giận nhưng không dám nói, lại sợ Dương Quảng sẽ mưu hại mình, bèn mượn cớ từ quan, chuẩn bị trở về quê hương ở Thái Nguyên. Dương Quảng không cam lòng, sai quân lính đi truy sát, mấy lần đều không ra tay được, vì thế Dương Quảng đích thân dẫn quân sĩ, lấy than bôi lên mặt, cải trang thành bọn cướp đường, định giết Lý Uyên ở Lâm Đồng.

Hôm đó, Lý Uyên cùng gia quyến đến sườn Thực Thụ trên núi Lâm Đồng, thì vừa giữa trưa. Hai người con trai của Lý Uyên là Lý Đạo Tông và Lý Kiến Thành đi vào trong rừng, bỗng thấy trong rừng có tiếng hô lớn, chỉ thấy vô số tên cướp mặt mũi đen nhẻm, tay cầm thương cầm búa chặn đường, quát lớn: “Con đường này là do ta mở, cây cối này là do ta chặt, muốn đi qua đường này phải trả tiền mãi lộ!” Lý Kiến Thành kinh hãi, quay ngựa chạy về. Còn Lý Đạo Tông quát rằng: “Bọn chó đáng chết, nhà ta là Lý phủ ở Lũng Tây, dám đến cản đường sao!” Nói rồi rút đao ra chém liền. Lý Kiến Thành chạy về nói với cha là Lý Uyên rằng: “Cha, không xong rồi! Phía trước có bọn cướp rất mạnh.” Lý Uyên gọi gia tướng lấy cây Phương thiên họa kích, lại lệnh cho Lý Kiến Thành bảo vệ gia quyến, định đi lên phía trước xem xét. Nào ngờ phía sau cũng có bọn cướp tiến đến.

Thực do ý trời, lúc đó Tần Quỳnh (? – 638) cũng vừa đi tới, do đi đường mệt mỏi, định đến nghỉ chân trong miếu Ngũ Viên. Bỗng nghe tiếng sát khí vang trời, lấy làm lạ, bèn thúc ngựa chạy đến giữa núi, thì thấy dưới chân núi khói bụi mù mịt, tiếng hô giết vang dậy. Tần Quỳnh ghìm ngựa quan sát kỹ, thì thấy vô số kẻ cướp đang vây một tốp quan binh, đang đánh nhau chí mạng. Tần Quỳnh vội thúc ngựa lao theo thế núi phi xuống, quát lớn: “Bọn giặc chó chớ cậy sức mạnh, hãy xem cái giản của ta đây!” Nghe tiếng quát sấm sét, bọn cướp hết sức kinh hãi, nhưng nhìn lại thấy chỉ có một người, thì không thèm để tâm, dăm ba tên cướp chạy đến đối địch với Tần Quỳnh. Tần Quỳnh vung cây giản lên, mấy tên cướp chết ngay lập tức.

Bọn cướp thấy vậy toan bỏ chạy, Tần Quỳnh thấy tên cướp che mặt bằng tấm lụa xanh có vẻ như tên cầm đầu, liền nhằm vào mặt đâm một nhát. May là Dương Quảng nhanh tay nhanh mắt né được, cây giản chỉ đâm trúng vai. Dương Quảng đau quá thét lên một tiếng lớn, thúc ngựa bỏ chạy.

Tần Quỳnh bắt được một tên tra hỏi: “Các ngươi là giặc cướp phương nào, sao dám cướp người nhà quan?” Người đó biết Tần Quỳnh uy mãnh, vội nói: “Xin ông tha mạng! Chỉ vì thái tử Lý Quảng và Đường Công Lý Uyên bất hòa, muốn sát hại ông ấy. Người mà ông vừa làm bị thương, chính là Đông cung thái tử. Xin ông tha mạng!” Tần Thúc Bảo kinh hãi toát mồ hôi, liền nghĩ: Đây là chỗ thị phi, lúc này mà không đi, thì còn đợi lúc nào. Bèn nhảy lên ngựa, chạy về phía trước.

Lý Uyên thấy vị hảo hán ra tay giúp đỡ, giúp người nhà mình thoát khỏi miệng hùm, liền thúc ngựa chạy lên để tạ ơn, không dè người này lại thúc ngựa chạy mất. Chạy được hơn mười dặm, Tần Quỳnh thấy Lý Uyên cứ đuổi theo không chịu dừng, chỉ có cách quay đầu lại nói: “Đường Công đừng đuối nữa, tiểu nhân họ Tần tên Lượng!” Rồi thúc ngựa chạy như bay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lâm Đồng Cứu Giá

Xem bát tự - lý giải về Thập Thần

Xem bát tự đoán việc lớn là truyền thống của người Á Đông. Bài viết xin giới thiệu về Thập Thần – một trong những khái niệm tử vi cơ bản.
Xem bát tự - lý giải về Thập Thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bát tự đoán việc lớn là truyền thống của người Á Đông. Ngày nay, không chỉ tin tưởng, phó mặc hoàn toàn cho thầy mà nhều người cũng muốn tự mình tìm hiểu những kiến thức tử vi cần thiết này. Bài viết xin giới thiệu về Thập Thần – một trong những khái niệm tử vi cơ bản.


Xem bat tu - ly giai ve Thap Than hinh anh
 
1. Xem bát tự dự đoán vận mệnh đời người là dựa vào 10 Thiên Can, trong đó Thập Thần là trung tâm ý nghĩa để đoán định. Cũng có thể nói, Thập Thần là căn cứ định vị đặc biệt đối với 10 Thiên Can.   2. Lấy can ngày sinh là ta, can ngày việc ấy diễn ra là khách, thì Thập Thần chia thành 10 loại như sau: 1. Sinh ta là Ấn tinh gồm Chính Ấn (gọi tắt là Ấn) và Thiên Ấn (gọi tắt là Kiêu); 2. Ta sinh là Thực Thương, gồm Thương Quan (gọi tắt là Thương) và Thực Thần (gọi tắt là Thực); 3. Khắc ta là Quan Sát, bao gồm Chính Quan (gọi tắt là Quan) và Thiên Quan (gọi tắt là Sát); 4. Ta khắc vợ chồng tiền tài, bao gồm Chính Tài (gọi tắt là Tài) và Thiên Tài; 5. Cùng loại với ta là Tỷ Kiếp, bao gồm Kiếp Tài (gọi tắt là Kiếp) và Tỷ Kiên (gọi tắt là Tỷ).   3. Thập Thần Thiên Chính là yếu tố trọng yếu của 10 Thiên Can cùng với âm dương ngũ hành. Giáp là dương Mộc, Ất là âm Mộc, Bính là dương Hỏa, Đinh là âm Hỏa, Mậu là dương Thổ, Kỷ là âm Thổ, Canh là dương Kim, Tân là âm Kim, Nhâm là dương Thủy, Quý là âm Thủy.   Can ngày có quan hệ sinh khắc cùng loại thì là Thiên, có Thiên Ấn, Tỷ Kiên, Thực Thần, Thiên Tài, Thiên Quan. Ví dụ, ngày sinh là Giáp Mộc thì Nhâm Thủy trở thành Thiên Ấn của Giáp Mộc, Giáp Mộc trở thành Tỷ Kiên của Giáp Mộc, Bính Hỏa là Thực Thần của Giáp Mộc, Mậu Thổ là Thiên Tài của Giáp Mộc, Canh Kim là Thiên Quan của Giáp Mộc.
Xem bat tu - ly giai ve Thap Than hinh anh
 
Can ngày có quan hệ sinh khắc khác loại thì là Chính, có Chính Ấn, Kiếp Tài, Thương Quan, Chính Tài, Chính Quan. Ví dụ, ngày sinh là Quý Thủy, Canh Kim là Chính Ấn của Quý Thủy, Nhâm Thủy là Kiếp Tài của Quý Thủy, Giáp Mộc là Thương Quan của Quý Thủy, Bính Hỏa là Chính Tài của Quý Thủy, Mậu Thổ là Chính Quan của Quý Thủy.
  4. Xem tử vi có thể thấy, nguyên tắc địa chi tàng Thiên Cạn, giấu Thực Thần rất quan trọng. Tý giấu Quý Thủy; Sửu giấu Kỷ, Quý, Tân; Dần giấu Giáp, Bính, Mậu; Mão giấu Ất; Thìn giấu Mậu, Ất, Quý; Tỵ giấu Bính, Mậu, Canh; Ngọ giấu Đinh, Kỷ; Mùi giấu Kỷ, Đinh, Ất; Thân giấu Canh, Nhâm; Mậu; Dậu giấu Tân; Tuất giấu Mậu, Tân, Đinh; Hợi giấu Nhâm, Giáp.   5. Quan hệ sinh khắc của Thập Thần bao gồm: tương sinh có Quan Sát sinh Kiêu Ấn, Kiêu Ấn sinh Tỷ Kiên, Tỷ Kiên sinh Thực Thương, Thực Thương sinh Tài Tinh, Tài Tinh sinh Quan Sát; tương khắc có Quan Sát khắc Tỷ Kiên, Tỷ Kiên khắc Tài Tinh, Tài Tinh khắc Kiêu Ấn, Kiêu Ấn khắc Thực Thương, Thực Thương khắc Quan Sát.
Cho biết tương lai qua thập thần của Tứ trụ (phần 2) Cho biết tương lai qua thập thần của Tứ trụ (phần 1) Bảng thập thần âm dương ngũ hành với ngày chủ 
Trình Trình  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bát tự - lý giải về Thập Thần

Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát

Xin giới thiệu tới bạn đọc 25 loại thủy pháp trong phong thủy âm trạch, rất có ích trong việc chọn lựa huyệt mộ.
Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy âm trạch hay gọi đơn giản là phong thủy phần mộ cần chú ý tới các yếu tố quan trọng như long, huyệt, sa, nước, hướng ngũ quyết, trong đó nước có ý nghĩa cực kì to lớn, có thể quyết định phần mộ tốt hay xấu, hung hay cát.

Tim hieu 25 the nuoc trong phong thuy am trach de chon huyet cat hinh anh 2
 

1. Triêu bái thủy

  Triêu bái thủy tức là ở trước và ba phía xung quanh minh đường đều có nước, tụ về mình đường, hình thành thế Minh Đường cao vút. Thế này mang lại lợi ích cho đời sau, con cháu phát triển đều là trang anh hào, trong nhà có người đỗ đạt, làm quan chức.

2. Bát tự thủy

  Bát tự thủy là thế đất có hình chữ bát (chữ Hán), nước từ minh đường phân thành hai nhánh ra hai bên. Thế này rất xấu, đại biểu cho việc vợ chồng phân ly, không chung sống tới già, tài sản bị tổn hao, người trong nhà bại vong, gây thù chuốc oán.
Xem thêm bài viết 15 lỗi phong thủy âm trạch tuyệt đối đừng mắc phải
 

3. Xa lặc thủy

  Theo phong thủy âm trạch thì xa lặc thủy là thế nước chảy về cùng một hướng với mộ phần, không tạo thành một phương hướng tách biệt.  

4. Quyển liêm thủy

  Nước chảy về phía trên mộ phần, đi qua trước mộ phần gọi là quyển liêm thủy (ngoài phạm vi 30m tính từ mộ phần thì không coi là thế này). Thế này tượng trưng cho trong nhà dâm loạn, nếu nước chảy ngược hướng với minh đường thì trong nhà càng loạn, có thể xảy ra loạn luân giữa bố chồng và con dâu.  

5. Mộc dục thủy

  Nước ở phía trước, cách mộ phần từ 5 tới 10m, ca nhất là 20m thì dù chảy về hướng nào cũng gọi là thế mộc dục thủy. Do khoảng cách tới mộ quá gần, nếu nước nằm trong minh đường thì cũng là thế này (minh đường trước mộ không thể nhỏ hơn 30m).   Thế này phạm đào hoa, con gái lang thang không về nhà. Thế mộ này chỉ có ở vùng đồng bằng đất rộng, không tồn tại ở vùng núi, minh đường không có nước cũng không tính vào thế mộ này.  

6. Lâm đầu thủy

  Phần mộ mà phía sau có nguồn nước cao dội thẳng xuống, không có vật gì che chắn thì là thế lâm đầu thủy, ảnh hưởng tới sức khỏe của con cháu, có điềm gãy tay gãy chân. Thế này cơ bản đều xuất hiện ở vùng núi.

7. Cát cước thủy

  Minh đường và hướng nước chảy tạo thành hình tam giác là thế cát cước thủy, con cháu trong nhà bị hại phần chân, xương, có thể gãy xương đùi, ung thư xương,…  

8. Phản cung thủy

  Hướng nước tạo thành hình cánh cung hướng về phía mộ là thế phản cung thủy, phụ nữ trong nhà mất sớm.
Xem thêm bài viết Kiến thức cơ bản về phong thủy âm trạch

9. Miên cung thủy

  Nước ở phía trước liên tục uốn lượn, tạo thế phản cung, không sợ nhiều chỉ sợ uốn cong. Thế này khá tốt, con cháy phát trang ấp, có điền sản, giàu có nổi danh trong bạn bè cùng trang lứa.  

10. Bá ki thủy

  Phong thủy âm trạch có thế nước ở trước minh đường tạo thành hình cái gầu, gọi là bá ki thủy. Thế này tương hình với chủ nhân, khiến con cháu trong nhà nghèo khổ. Phía trước có hồ nước hình cái gầu cũng là phạm thế này.  

11. Tẩm thân thủy


Tim hieu 25 the nuoc trong phong thuy am trach de chon huyet cat hinh anh 2
 
Nước ở phía trước minh đường, kéo dài tới trước, cách mộ phần 5m là thế tẩm thân thủy, gây bệnh bệnh viêm gan, ung thư gan, viêm phổi, bệnh phế quản. Một nhà có năm người, đến ba người có bệnh này.  

12. Song giáp thủy

  Hai đường nước từ cùng một hướng chảy tới, kẹp mộ phần ở giữa gọi là thế song giáp thủy, con gái bỏ nhà theo đàn ông. Nếu hai dòng nước tạo thành hình chữ nhật thì bất luận âm trạch hay dương trạch đều xấu, người nhà ham mê cờ bạc.  

13. Cấn tiền thủy

  Tại phương Cấn, có nước cách mộ phần 5 tới 10m bất kể là chảy theo hướng nào, chỉ cần hướng Đông Bắc gặp nhau thì là thế cấn tiền thủy. Trong nhà có người trộm cướp, làm thổ phỉ, nước càng lớn thì tính thổ phỉ càng mạnh, làm đại ca. Nước nhỏ thì ra phường trộm cắp vặt, không kể nam hay nữ.   Cấn là quỷ môn, nước là tài, quỷ thấy tiền tài là lén lút nên thành ra như vậy. Nếu nước ở phạm vi ngoài 30m kể từ mộ thì không tính.

14. Khiên ngưu thủy

  Phía trên có nước, dù bên trái hay bên phải chảy về phái sau phần mộ thì là thế khiên ngưu thủy. Âm trạch mà gặp thế này thì con cháu có họa, không thanh nhàn. Phạm vi từ 5 tới 10m quanh mộ mới tính, ngoài ra không phạm.  

15. Trường thương thủy

  Phía trước mênh mông nước, thẳng tới trước mộ phần, không có trở ngại, không có vật cản là thế cực hung, bị người khác giết hại không rõ lý do. Thế này cách mộ 10m mà dừng lại thì gọi là trường thương thủy, nếu ngoài 30m có chướng vật ngăn trở thì lại là thế tụ tài, tốt cho tài chính của gia đình.
Xem thêm bài viết Những lưu ý phong thủy âm trạch khi trồng cây tại mộ
 

16. Ngọc tinh thủy

  Theo phong thủy âm trạch, không kể hướng, chỉ cần ở minh đường có nước, dáng gương tròn, bốn mùa không khô cạn, nước trong trẻo sạch sẽ, không đục bẩn thì trong nhà không có người làm quan cũng được thanh nhàn, là thế tốt.  

17. Thiên trì thủy

  Ở dãy núi hoặc sườn dốc phía trước mộ có đường nước uốn lượn, quanh năm không khô cạn, núi non hòa hợp với sông suối tạ thành giếng nhỏ thì nên lập huyệt mộ ở hướng đối diện với giếng, người nhà văn võ hiển quý. Nhưng thế này người không thiện lượng thì không thể dùng, sẽ phản tác dụng.  

18. Vọng nguyệt thủy

  Trước minh đường có đường nước hình trăng lưỡi liềm hướng ra ngoài, bên trong ôm lấy phần mộ, nước trong suốt thì nhà có nam thanh nữ tú, con gái phát đạt, số mệnh tốt.  

19. Thiên quyển liêm thủy

  Ở phía trước 50 tới 100m, từ đỉnh núi có nước đổ xuống chảy vào minh đường, minh đường có án sơn liên kết thì trong nhà có người theo hầu vua chúa.  

20. Phát quý thủy

  Trước minh đường có hai dòng nước phân cao thấp rồi gặp nhau tại một điểm, nếu có thêm Giao Long ở phần mộ thì nam mệnh cực kì phát đạt, quý hiển. Nếu cách núi quá gần thì sinh nhiều con gái, ở phía sau xuất hiện nhà thì có khả năng đổi họ. 
Xem thêm bài viết Hung cát 8 hướng chọn đất đặt mộ giúp con cháu tránh họa

21. Tứ thủy kiến diện bất quy thủy


Tim hieu 25 the nuoc trong phong thuy am trach de chon huyet cat hinh anh 2
 
Phía trước mộ có bốn dòng nước chảy tới từ bốn phía nhưng không hợp thành một dòng. Thế này đại diện cho đoạn tử tuyệt tôn, nhưng ngoài phạm vi 300m thì dương trạch không sao, âm trạch còn hung. Trong phạm vi 5 tới 10m là cực hung.   

22. Phản khiêu thủy

  Phong thủy âm trạch cho biết, mộ phần có thế nước trái đi phải tới hoặc phải đi trái tới, nhà sinh ra nghịch tử, côn đồ hung ác.  

23. Giang thi thủy

  Ở giữa minh đường có một đường nước chạy xuyên qua, trong nhà có khả năng ám hung hoặc người ngoài tử vong tại nhà hoặc người nhà chết nơi đất khách quê người.  

24. Tà phi thủy

  Ở minh đường phần mộ có một bên bị nghiêng, đường nước hình dáng như đao tên, nhà phát tài trong 15 năm nhưng đa phần không có người thừa kế.

 
Xem thêm bài viết Chọn long huyệt cho phụ nữ trong nhà, con cháu đời đời phúc ấm

25. Lao ngục thủy
 

Cách phần mộ 15m, bất kể hướng về trước hay hướng về sau, hướng về phải hay hướng về trái có đường nước hướng về phái Nam của mộ phần, hình thành thế vây quanh, thế nước hung mãnh báo hiệu trong nhà có tai ương lao ngục. Nếu có thêm đường vờn quanh từ minh đường thì chắc chắn có người ngồi tù.   Các thế nước trong phong thủy âm trạch ở trên được liệt kê theo phong thủy truyền thống. Hiện nay, do điều kiện hoàn cảnh thay đổi nên một số thế không có trong thực tiễn nhưng Lịch Ngày Tốt vẫn liệt kê để bạn đọc tham khảo. Dẫu hiện nay rất khó để chọn được huyệt đạo ưng ý, đúng và hợp phong thủy nhưng những kiến thức này vẫn sẽ là hành trang đáng quý trong việc tìm nơi đất lành táng mộ.
  
Táng huyệt vào long mạch - muốn cát phải chuẩn 13 thế đất đại hung khi táng mộ Ngũ bất táng - táng vào chỉ có hung huyệt Chọn hình thế đất táng mộ chuẩn phong thủy, con cháu đời sau tha hồ hưởng lộc   Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu 25 thế nước trong phong thủy âm trạch để chọn huyệt cát

Xếp hạng khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao

Xã hội cạnh tranh, giành được vị trí trong công việc không dễ. Khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao cao đến đâu, hãy cùng xem nhé.
Xếp hạng khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xã hội cạnh tranh, giành được vị trí trong công việc không những có thể có thu nhập tốt mà còn khẳng định năng lực của bản thân, có thể tự hào về chính mình. Khả năng làm lãnh đạo của 12 chòm sao cao đến đâu, hãy cùng xem nhé.

Xep hang kha nang lanh dao cua 12 chom sao
 

Bạch Dương: 68%

  Đây là chòm sao có sức sống vô hạn, trong công việc mười phần bốc đồng, rất có sức mạnh, có thể khiến đồng nghiệp trở nên nhiệt tình hơn, kéo theo bầu không khí cùng sức tập trung. Bất luận là ở đâu, chỉ cần có Bạch Dương thì không khí làm việc sẽ sôi trào, bừng bừng hứng khởi.   Nhưng thái độ nóng nảy cũng dễ làm hỏng việc, tố chất cần có của lãnh đạo chính là bình tĩnh, tự chủ nên cần phải bồi dưỡng thêm về khí chất. Bạch Dương nếu tiếp tục vội vội vàng vàng thích gì làm nấy như bình thường thì tuyệt đối sẽ không thể nhận được tín nhiệm của cấp trên.  

Kim Ngưu: 61%

  Chòm sao Kim Ngưu là người làm việc cần cù và thật thà chăm chú, cẩn trọng, theo lý thuyết thì là nhà lãnh đạo có tố chất. Nhưng họ lại có khuyết điểm là thiếu linh hoạt, không biết cách thay đổi theo thời cuộc, có phần cố chấp bảo thủ nên tầm nhìn không xa rộng, nhiều khi khăng khăng giữ ý của mình.   Trong đầu Ngưu chan vĩnh viễn là con đường thẳng tắp chứ không hề có chút ý niệm đi đường vòng để được dễ dàng. Cần biết thích nghi với hoàn cảnh và thay đổi kịp thời theo điều kiện thì mới có thể trở thành người đứng đầu, dẫn dắt khiến mọi người khâm phục được.
Xem thêm bài viết Bí mật 12 chòm sao - Khả năng thiên bẩm từng cung hoàng đạo
 

Song Tử: 72%

  Tư duy nhanh nhẹn, làm việc linh hoạt lại khéo ăn khéo nói nên bất kì tình huống khó khăn nào rơi vào tay Song Tử đều có thể giải quyết một cách nhanh chóng gọn nhẹ. Dùng lời không được thì dùng cơ hội, đưa ra lợi lộc, phải nói là chòm sao này có khá nhiều chiêu trò đấy.   Xếp hạng khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao thì Song Tử đứng ở hàng khá, bởi họ có năng lực nhưng lại không đủ quyết tâm. Muốn đạt được thành công trong sự nghiệp thì cần thiết phải nuôi dưỡng ý chí, tinh thần và dốc lòng dốc sức, liều mạng tiến lên mới được, đừng chỉ coi như trò vui đùa.  

Cự Giải: 82%

 

Đừng nhìn thấy dáng vẻ hiền lành ôn hòa mà nghĩ rằng Cự Giải là người chỉ khép nép đi theo người khác. Sai lầm nhé, chòm sao này chính là tuýp người có tham vọng và mong muốn nổi trội trong công việc. Nhiệt tình, chu đáo, cẩn trọng, khiêm tốn, tinh ý là những tố chất hội tụ đủ ở con người này.   Cự Giải không chỉ có năng lực mà còn biết cách điều hòa, duy trì các mối quan hệ xã giao, thu phục nhân tâm. Điểm duy nhất khiến họ không thể thành công như mong đợi chính là thiếu tinh thần dũng cảm, không dám mạo hiểm nên không thể đạt thành sự lớn, không tiến được vị trí tột đỉnh.  

Sư Tử: 70%


to chat thu linh cua 12 chom sao
 
Lòng kiêu ngạo và tinh lực dồi dào của Sư Tử khiến họ cố gắng vô cùng, không ngừng nỗ lực trong công việc. Áp lực càng lớn, thành công càng cao, muốn hưởng thụ ánh mắt ngưỡng mộ của mọi người thì nhất thiết phải trả giá bằng mồ hôi công sức, leo lên vị trí cao hơn.   Nhưng Sư Tử có khuyết điểm là kiêu căng, tự mãn nên nếu trong công việc xuất hiện tổn thất nặng hoặc thất bại lớn thì sẽ là đả kích với họ, có thể khiến chòm sao này mất phương hướng và trở nên chán chường. Tố chất tâm lý còn cần phải học hỏi và thêm nhiều trải nghiệm mới.  

Xử Nữ: 95%

  Chủ nghĩa hoàn mỹ, tất nhiên trong công việc Xử Nữ sẽ không qua loa đại khái. Tính tình tỉ mỉ, chăm chỉ, cẩn trọng, lên kế hoạch mọi việc chu toàn, luôn có chủ kiến riêng khi thu thập thông tin, khống chế mọi việc trong lòng bàn tay. Quyền sinh quyền sát nằm trong tay chòm sao này cũng không có gì phải bàn cãi.   Khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao có nhiều chênh lệch, riêng Xử Nữ hiên ngang tự hào xếp vào nhóm có tố chất cao nhất. Chỉ cần tiết chế một chút cái tôi cá nhân, không nên quá kĩ lưỡng khi hành động thì nhất định sẽ trở thành lãnh đạo được yêu mến, phát huy phong độ vốn có.
Xem thêm bài viết 12 chòm sao nữ với những tính cách không lạc đi đâu được
 

Thiên Bình: 84%

  Chòm sao Thiên Bình là người làm việc rất khéo léo đưa đẩy, tư duy logic mạnh lại đáng tin cậy, khi làm việc khiến người khác không thể không tin tưởng. Họ cũng là người có năng lực cân bằng, biết giải quyết vẫn đề một cách toàn diện, không tạo tới cục diện tiêu cực.   Nhưng vì cân bằng nên Thiên Bình hay do dự, thiếu quyết đoán, lúc cần đưa ra quyết định thì lại ngại ngần. Điều này làm cản trở tiền đồ khiến họ bị lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nạn, không thể dẫn dắt người khác. Cần học tập, bồi dưỡng khả năng và kinh nghiệm xử lý tình huống nhanh gọn hơn.  

Hổ Cáp: 75%

  Ý chí mãnh liệt lại có tâm cơ sâu sắc, Hổ Cáp hợp với chức vụ lãnh đạo bởi có thể khống chế được dục vọng, lại có tinh thần kiên trì, không thoái chí hay nao núng trước khó khăn, luôn từng bước tiến lên hoàn thành nhiệm vụ. Có thể nói chòm sao này chính là bức tường thành vững chãi.   Nhưng tham vọng lớn thì lòng tham cũng lớn, khi làm việc dễ bị mờ mắt, sản sinh ý nghĩ cực đoan, không khách quan khi nhìn nhận đánh giá sự việc. Nếu thực sự muốn trở thành tinh an thì cần phải học cách khống chế tâm tình, bình tĩnh và tích cực hơn nữa, tránh lâm vào trạng thái ăn thua.   

Nhân Mã: 34%

  Làm việc tập trung, hiệu suất cao nhưng tính cách vô tư, hoạt bát, không có quy cũ và hành vi tùy hứng là đặc điểm của Nhân Mã. Họ có năng lực, cũng có tinh thần nhưng thiếu ý chí và thiếu tham vọng, làm việc nhanh nhanh chóng chóng để đi chơi, không có chí tiến thủ.   Chính vì thế nên xếp hạng khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao thì Nhân Mã ở trí thấp, cũng dễ hiểu thôi, cây càng cao đón gió càng lớn, họ thà rằng bình yên làm việc vui vẻ rồi dành thời gian chơi bời còn hơn. Nếu không điều chỉnh được tâm thế này thì đường thành lãnh đạo của Mã Mã rất gian nan.  

Ma Kết: 100%

  Chắc chắn nếu xét về tố chất thủ lĩnh của 12 chòm sao thì không ai có thể qua mặt được Ma Kết, họ chính là chòm sao cuồng công việc điển hình, cũng là người có rất nhiều phẩm chất nổi trội. Làm việc vừa thận trọng vừa nghiêm túc, có kế hoạch lại có tác phong, chu đáo mà không mất đi sự dũng cảm, dám nghĩ dám làm.   Có thể nói Ma Kết sẵn sàng làm việc quên ăn quên ngủ, cố gắng hết mình nên đạt được vị trí cao cũng là điều xứng đáng. Người không những có tài còn có tâm, nếu không trở thành người chỉ huy thì thật là uổng phí, cũng không hợp tự nhiên nữa. nên phần lớn anh tài trong xã hội đến từ cung hoàng đạo này đó.
Xem thêm bài viết Phản ứng của 12 chòm sao khi gặp chân tình
 

Bảo Bình: 56%


kha nang lanh dao cua 12 chom sao
 
Yêu thích suy nghĩ nên trong công việc chòm sao Bảo Bình thường sẽ nảy sinh ý nghĩ bất chợt, rất có sức sáng tạo. Những ý tưởng này giúp họ nhanh chóng tạo được vị thế ở nơi làm việc, nhận được sự tín nhiệm của cấp trên và sự ngưỡng mộ của cấp dưới, thăng tiến tới vị trí cao.   Nhưng chòm sao này có mới nới cũ, một khi cảm thấy công việc không có tính khiêu chiến, mất sự thú vị thì sẽ bắt đầu chần chừ, chán nản, thiếu kiên nhẫn. Muốn duy trì được vị trí lãnh đạo thì phải luyện được tính trách nhiệm, làm việc có quy củ và kiên trì tới cùng.  

Song Ngư: 43%

  Chòm sao Song Ngư trong công việ vô cùng tỉ mỉ, có thể đem những chuyện nhỏ bé tiểu tiết xử lý rất khá. Xem ra cũng là người không ngại khó khăn gian khổ, biết chú ý tới sự nghiệp nhưng khả năng lãnh đọa của họ không cao, thường nghe người khác dẫn dắt hơn là tự mình làm chủ.   Vì Song ngư không có tính tổ chức, không biết tính toán, dễ phạm sai lầm. Người chỉ có nhu mà không có cương, khó làm người khác nể phục cũng như tin tưởng, cần phải nâng cao thêm tri thức cùng sức mạnh. Vừa bổ sung khiếm khuyết kĩ năng cũng như thiếu sót tinh thần của mình. 
Động cơ khiến 12 chòm sao lợi dụng người khác là gì? Đối tượng 12 chòm sao ghét, thà ế chứ không yêu Biết điều khiến 12 chòm sao nữ cảm động, chinh phục nàng chẳng khó
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xếp hạng khả năng lãnh đạo của 12 chòm sao

Chùa Từ Đàm - Huế

Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Chùa nằm trên một khoảnh đất cao, rộng, bằng phẳng thuộc địa phận phường Trường An
Chùa Từ Đàm - Huế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế. Chùa nằm trên một khoảnh đất cao, rộng, bằng phẳng thuộc địa phận phường Trường An, cách trung tâm thành phố Huế 2 km về hướng nam. Mặt chùa hướng đông nam, trước có núi Kim Phụng làm án, bên phải giáp đường Điện Biên Phủ, bên trái có chùa Linh Quang và nhà thờ cụ Phan Bội Châu, phía sau có chùa Thiên Minh.

Chùa Từ Đàm được khai sơ vào khoảng năm 1690, tức vào cuối thế kỷ thứ XVII, đến nay đã trên 300 năm vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ngài Minh Hoằng Tử Dung – một vị thiền sư Trung Hoa sang Thuận Hóa thời bấy giờ sáng lập chùa này. Đầu tiên, ngài đặt tên là Ấn Tông Tự – ấn tông nghĩa là “dĩ tâm ấn vi tông”, tức lấy sự truyền tâm làm tông chỉ.

Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc Tứ Ấn Tông Tự. Đến thời Thiệu Trị, vua đặt thêm một tên khác là “Từ Đàm Tự”. Từ đàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho đức Phật, cho hình ảnh ngôi chùa Việt Nam như đám mây lành che mát cho chúng sanh.

Chùa Từ Đàm lúc sơ khai chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng tranh tre nứa lá. Từ đó đến nay chùa đã tồn tại lâu dài trên dãi đất Cố đô Huế. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử thì năm 1932, khi Phật giáo Việt Nam phục hưng sau bao năm bị phân hóa dưới thời Pháp thuộc, năm 1935 sơn môn tăng già Thừa Thiên chuyển giao Chùa Từ Đàm cho Hội An Nam Phật học làm trụ sở chính của hội.

Năm 1938, Hội An Nam Phật học đại trùng tu Chùa Từ Đàm và đúc pho tượng bổn sư cùng các pháp khí để tôn trí trong chánh điện. Hiện nay, tại chùa có đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế.

Cấu trúc của chùa theo kiểu “chùa Hội” kết hợp giữa nét nghệ thuật kiến trúc mới và cũ với yêu cầu rộng rãi, cao ráo, cổ kính nhưng đơn giản. Chùa Từ Đàm có ba bộ phận quan trọng là tam quan, chùa chính và nhà Hội.

Cổng tam quan chùa cao, rộng, có mái ngói thanh nhã. Phía sau cổng có cây bồ đề quanh năm tỏa bóng mát. Đây là cây bồ đề được chiết ra từ cây bồ đề nơi Phật đắc đạo do bà Karpeies hội trưởng hội Phật học Pháp thỉnh từ ấn Độ qua Việt Nam tặng và được trồng vào năm 1936. Sân chùa rộng, bằng phẳng, thoáng mát, đủ chỗ để tập trung hàng nghìn người về dự lễ.

Chùa chính gồm tiền đường, chính điện và nhà Tổ. Tiền đường được xây trên một nền móng bằng đá hoa cương chạy chỉ, cao 1,5 m, mái xây kiểu cổ lầu nên chùa vốn đã cao trông lại càng cao hơn. ở các bờ mái và trên nóc chùa là những cặp rồng uốn cong, mềm mại đối xứng nổi lên trên những dãy ngói âm dương chạy dọc trông thật cân đối, hài hòa, đẹp mắt. Dưới mái cổ lầu có những bức đắp nổi sự tích đức Phật, bố cục trọn vẹn trên các khung đúc. Dọc theo các cột trụ tiền đường là các bức câu đối dài nét chữ sắc sảo. Tả hữu sát với tiền đường có hai lầu chuông trống.

tháp
Tháp chùa Từ Đàm

Trong điện có pho tượng đức Thế tôn Thích ca mâu ni ngồi trên tòa sen. Chùa Từ Đàm thờ độc tôn nên cách bài trí và thờ tự trong điện có phần đơn giản so với các ngôi chùa khác ở Huế. Phía sau chính điện có nhà Tổ, nhà Tăng. Từ Đàm là ngôi chùa Hội cho nên Hội quán được xây dựng lớn, rộng 10 căn, cao hai tầng ở sân dưới chùa cạnh đường Phan Bội Châu.

Từ Đàm đã được nhiều người ở khắp đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn hưng và phát triển của Phật giáo Việt Nam thời kỳ cận đại và cuộc đấu tranh vì hòa bình và tự do tín ngưỡng. Chùa Từ Đàm là trụ sở hoạt động của An Nam Phật học hội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Từ Đàm - Huế

Bí quyết "cưa cẩm" người tuổi Mão

Người tuổi Mão sinh năm 1975,1987... Muốn chinh phục người tuổi Mão, bạn nên kiên nhẫn chờ đợi vì họ thường không giữ được sự ổn định trong tình yêu.
Bí quyết "cưa cẩm" người tuổi Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Mão sinh năm 1975,1987... Muốn chinh phục người tuổi Mão, bạn nên kiên nhẫn chờ đợi vì họ thường không giữ được sự ổn định trong tình yêu.

Trong ngày lễ tình nhân, bạn không cần phải khoe khoang bản thân quá mức, cũng không cần tiêu phí nhiều tiền. 1 món quà nhỏ thể hiện tình yêu là thứ cần thiết. Có thể bố trí không gian lãng mạn, chỉ có 2 người ở bên nhau.

Chinh phục nam giới tuổi Mão

Nam giới tuổi Mão rất thích những cô gái có dáng vẻ xinh đẹp và tươi tắn. Vì vậy, 1 cô gái đáng yêu, phóng khoáng và rộng rãi sẽ là đối tượng thu hút sự chú ý của chàng nhất. Những người phụ nữ không quan tâm nhiều đến trang điểm và vẻ bề ngoài sẽ không bao giờ lọt vào mắt xanh của chàng tuổi Mão.

Chinh phục đuổi nữ giới tuổi Mão

Nếu muốn chinh phục cô gái tuổi Mão, bạn cần thể hiện cho nàng thấy những phẩm chất tốt đẹp của mình. Khi ở trước mặt nàng, tuyệt đối không được có những lời nói lỗ mãng hay cử chỉ thô tục. Hãy để cho nàng thấy được sự nho nhã và cao thượng của bạn. Những cô nàng tuổi này thích tình yêu giàu cảm xúc và hướng thiện. Do đó, nếu bạn yêu nàng thật lòng nhưng lại không thể hiện được mình là người đàn ông đàng hoàng thì cũng rất khó có được trái tim nàng.

(Phong thủy ứng dụng Tình yêu nồng thắm)

 
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết "cưa cẩm" người tuổi Mão

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp, Xem tuổi vợ chồng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp, tu vi Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp, tu vi Xem tuổi vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp

Xem tuổi vợ chồng cho 12 Con giáp. Phàm dùng Tháng Đại Lợi thì đặng tròn tốt. Như muốn dùng Tiểu lợi thì “Phòng Ông – Cô” mà không có cha mạ bên chồng thì được. Như “Phòng nữ phụ mẫu” mà không có cha mẹ bên gái thì được. Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp

Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp

TUỔI GÁI XUẤT GIÁ THÁNG ĐẠI LỢITý, Ngọ 6 – 12 1 – 7 2 – 8 3 – 9 4 – 10 5- 11
Sửu, Mùi 5 – 11 4 – 10 3 – 9 2 – 8 1 – 7 6 – 12
Dần, Thân 2 – 8 3 – 9 4 – 10 5 – 11 6 – 12 1 – 7
Mẹo, Dậu 1 – 7 6 – 12 5 – 11 4 – 10 3 – 9 2 – 8
Thìn, Tuất 4 – 10 5 – 11 6 – 12 1 – 7 2 – 8 3 – 9
Tỵ, Hợi 3 – 9 2 – 8 1 – 7 6 – 12 5 – 11 4 – 10

 

Phàm dùng Tháng Đại Lợi thì đặng tròn tốt. Như muốn dùng Tiểu lợi thì “Phòng Ông – Cô” mà không có cha mạ bên chồng thì được. Như “Phòng nữ phụ mẫu” mà không có cha mẹ bên gái thì được.

“Phòng phu chủ” là kỵ chánh người trai
“Phòng nữ thân” là kỵ chánh người gái
“Phòng ông – cô” là kỵ cha mẹ bên chồng
“Phòng nữ phụ mẫu” là kỵ cha mẹ bên gái

TUỔI CON TRAI NĂM HUNG NIÊN TUỔI CON GÁI NĂM HUNG NIÊN

Tý Mùi Tý Mẹo
Sửu Thân Sửu Dần
Dần Dậu Dần Sửu
Mẹo Tuất Mẹo Tý
Thìn Hợi Thìn Hợi
Tỵ Tý Tỵ Tuất
Ngọ Sửu Ngọ Dậu
Mùi Dần Mùi Thân
Thân Mẹo Thân Mùi
Dậu Thìn Dậu Ngọ
Tuất Tỵ Tuất Tỵ
Hợi Ngọ Hợi Thìn

Phàm trai hay gái mà gặp năm hung niên, thì không nên thành hôn vì năm ấy rất khắc kỵ.
Qúi vị xem Bảng lập thành sẵn trên đây thật đúng chẳng sai.

Thiên Can Và Địa Chi từng tháng:
Tháng Giêng là tháng Dần
Tháng Hai là tháng Mẹo
Tháng Ba là tháng Thìn
Tháng Tư là tháng Tỵ
Tháng Năm là tháng Ngọ
Tháng Sáu là tháng Mùi
Tháng Bảy là tháng Thân
Tháng Tám là tháng Dậu
Tháng Chín là tháng Tuất
Tháng Mười là tháng Hợi
Tháng Mười Một là tháng Tý
Tháng Chạp là tháng Sửu

Những tháng nhuần thì 15 ngày trên thuộc về Địa Chi của tháng trước, còn 15 ngày dưới thuộc về Địa Chi của tháng sau.
Còn Thiên Can thì cứ 5 năm là đủ 60 tháng (không kể tháng nhuần) lại bắt đầu trở lại.

Lục Hại (lấy nhau không hạp)
Tuổi Tý kỵ tuổi Mùi
Tuổi Dần kỵ tuổi Tỵ
Tuổi Thân kỵ tuổi Hợi
Tuổi Sửu kỵ tuổi Ngọ
Tuổi Mẹo kỵ tuổi Thìn
Tuổi Dậu kỵ tuổi Tuất

Tứ Tuyệt (lấy nhau không hạp)
Tuổi Tý kỵ tuổi Tỵ
Tuổi Dậu kỵ tuổi Dần
Tuổi Ngọ kỵ tuổi Hợi
Tuổi Mẹo kỵ tuổi Thân

Bào Thai (những tháng sanh của trai kỵ tháng sanh của gái. Lấy nhau không hạp)
Trai sanh tháng Giêng, tháng Bảy, kỵ gái sanh tháng Tư, tháng Mười
Trai sanh tháng Hai, tháng Tám, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Mười Một
Trai sanh tháng Ba, tháng Chín, kỵ gái sanh tháng Sáu, tháng Chạp
Trai sanh tháng Tư, tháng Mười, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Mười
Trai sanh tháng Năm, tháng Mười Một, kỵ gái sanh tháng Hai, tháng Tám
Trai sanh tháng Sáu, tháng Chạp, kỵ gái sanh tháng Ba, tháng Chín.

TUỔI TRAI CÓ CHỮ NÊN LẤY VỢ CÓ CHỮ – KHÔNG NÊN LẤY VỢ CÓ CHỮ

Giáp Kỷ Canh
Ất Canh Tân
Bính Tân Nhâm
Đinh Nhâm Quý
Mậu Quý Giáp
Kỷ Giáp Ất
Canh Ất Bính
Tân Bính Đinh
Nhâm Đinh Mậu
Quý Mậu Kỷ

Phép xem tuổi cưới gả khắc hay hạp (chọn sẵn Thiên Can tuổi trai so xuống tuổi gái)
Xem bói, khi xem tuổi thì phải lựa Thiên Can của tuổi trai coi xuống 12 Địa Chi của tuổi gái, như hợp thì đặng hòa thuận suốt đời và sanh con cũng mạnh khỏe, thông mình hay là ít bịnh tật:
10 Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
12 Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi
Dưới đây tôi lựa sẵn những tuổi trai có chữ gì, cưới tuổi gái trong 12 chi nào, tốt hay xấu, khắc hay hợp.
Và tôi có lựa sẵn năm Dương Lịch, đối chiếu với năm Âm Lịch, tôi cũng có lựa sẵn những năm, những tuổi đang hiện tại và những tuổi về tương lai sau này và cũng có cả năm Dương Lịch và Ấm Lịch đối chiếu.

Trai (Thiên Can) lấy vợ (Địa Chi) tốt hay xấu
Trai có chữ Giáp lấy 12 tuổi như dưới đây:
Giáp lấy vợ Tý: có con cái đều đặng danh dự và quyền thế, nhưng không có âm đức về sau
Giáp lấy vợ Sửu, Dần: có con không đặng nhờ vì con không đặng hiếu hạnh
Giáp lấy vợ Mẹo: vợ chồng không an toàn, hoặc có hư thai
Giáp lấy vợ Thìn: có con cháu không toàn vẹn
Giáp lấy vợ Tỵ: cuộc tình chồng nghĩa vợ dỡ dang, chẳng đặng bền lâu
Giáp lấy vợ Ngọ, Mùi: có con khó nuôi đến lớn
Giáp lấy vợ Thân: con cháu thi đỗ được nhiều khoa, nhưng rồi cũng không bền
Giáp lấy vợ Dậu, Tuất: cửa nhà vẻ vang, con cái thi đỗ thành công, con quý, rể hiền
Giáp lấy vợ Hợi: con cháu đặng thi đỗ, nhưng trước vinh sau nhục, trước giàu sau nghèo

Trai có chữ Ất lấy 12 tuổi như dưới đây:
Ất lấy vợ Tý: con cái đặng thi đỗ, nhưng phải chịu gian nan thưở nhỏ, sung sướng về tuổi già
Ất lấy vợ Sửu, Dần: sanh con cháu thi đỗ nhiều, nhưng cũng phải trước giàu sau nghèo
Ất lấy vợ Mẹo: nếu không có con thì mới đặng an toàn
Ất lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con sang trọng, đặng công thành danh toại
Ất lấy vợ Ngọ: vợ chồng được song toàn đại lợi, nhưng sau cũng sanh buồn phiền
Ất lấy vợ Mùi: được giàu sang vinh hiển, sanh con cháu thi đỗ đặng nhiều khoa
Ất lấy vợ Thân: có thi đỗ nhưng sau cũng không lợi
Ất lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng toàn vẹn, từ 30 tuổi trở lên mới biết sự hay dở
Ất lấy vợ Tuất, Hợi: vợ chồng trước nghèo sau giàu

Trai có chữ Bính lấy 12 tuổi như dưới đây:
Bính lấy vợ Tý: người vợ sanh sản khó, nhưng nuôi được thì được danh thơm, trước sau cũng được giàu sang đại lợi. Nếu được vợ lẽ thì người vợ lẽ ấy sẽ sanh con trai.
Bính lấy vợ Sửu: vợ chồng làm ăn khó nhọc, sau sẽ có lợi, sanh con trai thi đỗ, nhưng con phải có tật bịnh mới có thể nuôi đặng đến lớn
Bính lấy vợ Dần: vợ chồng khi lìa khi hiệp, rồi sau cũng đặng sum vầy, sanh con trai thi đỗ vì đặng chữ “Phùng Xuân” ứng.
Bính lấy vợ Mẹo, Thìn: làm ăn lúc thạnh lúc suy, nhiều con chẳng thành đạt, dầu có lúc phong lưu cũng vô ích
Bính lấy vợ Tỵ: đặng phú quý vinh hoa, sung sướng đến trọn đời, con cháu cũng đặng hiển đạt
Bính lấy vợ Ngọ, Mùi: vợ chồng đặng giàu sang đại lợi, từ 40 tuổi trở lên sẽ có tiểu tật, con đặng thi đỗ
Bính lấy vợ Thân: vợ chồng làm ăn trước phải chịu gian nan, sau sẽ phú túc, tích nhiều thành đa, cần kiệm sẽ khá
Bính lấy vợ Dậu: vợ chồng đặng song toàn, trước nghèo sau giàu, con cái ít.
Bính lấy vợ Tuất, Hợi: có con khó nuôi, vợ chồng trước hiệp sau lìa

Trai có chữ Đinh lấy 12 tuổi như dưới đây:
Đinh lấy vợ Tý, Sửu: vợ chồng rất gian truân, chẳng đặng yên ổn, con cái cũng khó nuôi, hoặc nghèo nàn
Đinh lấy vợ Dần: trước lành sau dỡ, khó được bén duyên tơ tóc
Đinh lấy vợ Mẹo: cuộc tình duyên vui vầy và hạnh phúc, có con cháu đông
Đinh lấy vợ Thìn: có hai đứa con đặng thi đỗ, quan tước hiểng vang, nếu có vợ lẽ cũng đặng giàu sang
Đinh lấy vợ Tỵ: trước sau cũng đều đặng sang giàu, con cái đặng thi đỗ thành danh và đại lợi
Đinh lấy vợ Ngọ, Mùi: sanh con gái đầu lòng thì không đặng lợi, cửa nhà ắt bị hao tổn, phải nuôi con nuôi thì nuôi con ruột mới dễ được, hay là lấy vợ lẽ mới đặng toàn hảo thuỷ chung
Dinh lấy vợ Thân, Dậu: được quyền cao tước trọng, nhưng sau cũng bị mất chức, trước hay sau dỡ
Đinh lấy vợ Tuất: vợ chồng phải tha hương xứ người mới được hào phú đại lợi, có quyền quý, sanh con gái đặng song toàn
Đinh lấy vợ Hợi: trước có nhà cửa huy hoàng, sau gặp lúc phong ba, nếu là quan quyền thì lận đận lắm.

Trai có chữ Mậu lấy 12 tuổi như dưới đây:
Mậu lấy vợ Tý: vợ chồng đặng sum vầy hòa hiệp, phú quý vinh hoa, trước sau đều đại lợi, con cháu cũng đặng giàu sang
Mậu lấy vợ Sửu, Dần: trai gái đều đặng toàn vẹn, vợ chồng cũng đặng song toàn hạnh phúc
Mậu lấy vợ Mẹo: vợ chồng làm ăn đủ dùng, nếu tha phương làm ăn lại càng hay, thuở đầu hơi gian nan, về sau sung sướng
Mậu lấy vợ Thìn: trước phải chịu cảnh gian truân, về sau đặng vinh hiển, lại e cuộc tình duyên chẳng đáng vẹn toàn.
Mậu lấy vợ Tỵ, Ngọ: khó bề đặng phú quý, nếu trai gái đều toàn thì sanh biến, không biến thì nhà cửa phải tiêu tan, dầu cho có quan lộc cũng phải biến
Mậu lấy vợ Mùi, Thân: trước sau đều đặng đại lợi, sanh con nhiều và tròn vẹn
Mậu lấy vợ Dậu: lúc đầu đại lợi sau rồi vô ích, nếu lấy vợ lẽ sẽ sanh con trai được trọng quyền
Mậu lấy vợ Tuất, Hợi: không nhờ con cái, đi tha phương lại càng tốt.

Trai có chữ Kỷ lấy 12 tuổi như dưới đây:
Kỷ ly vợ Tý: vợ chồng làm ăn đặng thịnh vượng, nhưng trước phải đặng nghèo, rồi sau mới đặng giàu
Kỷ lấy vợ Sửu, Dần: sanh con trai khó nuôi được đến lớn, đi làng khác mới được yên, vợ lẽ sanh con dễ nuôi hơn
Kỷ lấy vợ Mẹo, Thìn: phải tha phương mới nên sự nghiệp, giàu sang mà sanh con trai, sau không có con gái là khí âm tiêu hết
Kỷ lấy vợ Tỵ, Ngọ: gặp thời thì thạnh lỗi mùa thì suy, vợ chồng cách trở tha phương, chẳng chết thì cũng lìa xa đôi ngã, đời sau vợ chồng mới sanh con trai
Kỷ lấy vợ Mùi, Thân: vợ chồng được trường cửu hạnh phúc song toàn, nhiều con thi đỗ cao, và vinh quang trọn đời
Kỷ lấy vợ Dậu: vợ chồng khó đặng bền lâu, phải ly biệt, nếu ăn ở với nhau được thì cũng thường ốm đau bịnh tật
Kỷ lấy vợ Tuất: sanh con chẳng đặng nhờ vì con bất hiếu, nến con có đỗ cao cũng phải chịu khó về sau
Kỷ lấy vợ Hợi: vợ chồng đặng song toàn hạnh phúc, nhà cửa phú túc, con cháu đông đúc và thi đỗ cao

Trai có chữ Canh lấy 12 tuổi như dưới đây:
Canh lấy vợ Tý, Sửu: lấy nhau gặp thời thì tốt, nếu không thì dù trai hay gái cũng trọn đời chẳng có gì là vinh hiển
Canh lấy vợ Dần, Mẹo: trước phải gian truân, sau mới sung sướng giàu sang, có con thi đỗ cao
Canh lấy vợ Thìn, Tỵ: vợ chồng ăn ở hiền lương thì đặng phú quý và nhiều con, nếu thất đức thì ắc phải nghèo nàn
Canh lấy vợ Ngọ: tự mình lập thân chẳng cậy nhờ ai, khoa danh hiển đạt, lộc hưởng tự nhiên
Canh lấy vợ Mùi, Thân: đời vợ trước không đặng vẹn bền, đời vợ sau mới đặng giai lão
Canh lấy vợ Dậu: lúc đầu hòa hiệp, về sau có phần khó khăn, trước nghèo sau khá
Canh lấy vợ Tuất, Hợi: đời vợ trước chẳng đặng trọn tình, lấy vợ sau mới đặng vững bền và sanh đặng quý tử (con thảo)

Trai có chữ Tân lấy 12 tuổi như dưới đây:
Tân lấy vợ Tý: nếu có vợ sớm thì dẫu có con cũng không thành đạt, hay là sanh con khó nuôi đến lớn, lấy vợ sau mới đại lợi
Tân lấy vợ Sửu, Dần: không được hào con, sự làm ăn trước thành sau suy
Tân lấy vợ Mẹo: tự nhiên phú quý, nhưng có con thi đỗ thì chết, trước nghèo sau giàu
Tân lấy vợ Thìn, Tỵ: sanh con gái dễ nuôi hơn con trai, đặng của cải quan lộc
Tân lấy vợ Ngọ: sự làm ăn hoàn toàn thạnh vượng, sanh con gái thì đặng hiếu thảo
Tân lấy vợ Mùi, Thân: trước giàu sang sau lại hóa ra nghèo, con cái khó nuôi, lúc tuổi già có bịnh tật liên miên
Tân lấy vợ Dậu: công danh toại nguyện, được giàu sang nhưng vất vả, có con khó nuôi đến lớn
Tân lấy vợ Tuất, Hợi: có vợ gặp sanh sản khó, vợ chồng bất chánh

Trai có chữ Nhâm lấy 12 tuổi như dưới đây:
Nhâm lấy vợ Tý: vợ chồng sẽ có bịnh tật, thường gặp sự thưa kiện, dẫu sanh con trai hay con gái cũng không vẹn toàn
Nhâm lấy vợ Sửu, Dần: sanh nhiều con gái, nếu có con trai dẫu có thi rồi cũng thất chức
Nhâm lấy vợ Mẹo: sanh con trai hay gái cũng đều vẹn toàn, song chẳng nhờ con, có thi đỗ cao cũng không đặng chức phận
Nhâm lấy vợ Thìn: về sau phải chịu cảnh nghèo khổ, mặc dầu thuở trước đã giàu sang, trở về già thường mắc bịnh tật
Nhâm lấy vợ Tỵ: dầu đặng giàu sang nhưng sanh con cũng khó nuôi được (thất hào con), từ 40 tuổi trở lên lập nghiệp khó khăn, lấy vợ sau mới yên vui được
Nhâm lấy vợ Ngọ: tuổi trẻ làm ăn được thạnh vượng, con gái hay trai đều song toàn, nhưng từ 40 tuổi trở về sau thì mắc bịnh tật không toàn
Nhâm lấy vợ Mùi: tự nhiên có lộc và quan chức, tuổi già có mắc tật bịnh
Nhâm lấy vợ Thân: sanh con chẳng toàn, được giàu sang song chẳng đặng thọ
Nhâm lấy vợ Dậu: tình vợ chồng không toàn vẹn, có nhiều sự gây gỗ trong gia đình
Nhâm lấy vợ Tuất, Hợi: được phú quý thịnh vượng, đông con cái và nhiều lộc trời ban

Trai có chữ Quý lấy 12 tuổi như dưới đây:
Quý lấy vợ Tý: đặng giàu sang, con cái thi đỗ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi
Quý lấy vợ Sửu, Dần: có vợ ở xa xứ, đặng phú quý đại lợi, học hành thi đỗ
Quý lấy vợ Mẹo: ăn ở lúc nhở thì hợp nhau, lớn ắt phải xa lìa, có chức vị quan tước
Quý lấy vợ Thìn, Tỵ: đặng phú quý đại lợi, lấy vợ ở xa xứ rất tốt
Quý lấy vợ Ngọ: trước nghèo nàn, sau sẽ đặng phú quý, đại lợi, nhiều của cải, con cháu thi đỗ cao
Quý lấy vợ Mùi, Thân: đặng quan tước cao, công thành danh toại
Quý lấy vợ Dậu: dầu có chức tước cũng không đặng trọn vẹn, chẳng việc gì đặng toại nguyện
Quý lấy vợ Tuất, Hợi: trước tốt sau xấu, trước thành sau hại, dầu có hay một lúc rồi cũng gian nan

BẢNG SO ĐÔI TUỔI VỢ CHỒNG THUỘC CUNG, MẠNG
(Gọi là Bát San)

Chồng cung Càn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Càn lấy vợ cung Càn : đựơc Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Cấn : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Càn lấy vợ Đoài : được Duyên niên (thật tốt)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Khảm : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Chấn : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Càn lấy vợ cung Ly : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)

Chồng cung Khảm lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Khảm : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Chấn : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Tốn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Ly : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Càn : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Cấn : bị Ngũ quỷ (thật xấu)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Khôn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Khảm lấy vợ cung Đoài : bị Họa hại (thật xấu)

Chồng cung Cấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Cấn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Càn : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Đoài : được Duyên niên (thật tốt)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Khảm : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Chấn : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Tốn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Cấn lấy vợ cung Ly : bị Họa hại (thật xấu)

Chồng cung Chấn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Chấn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Khảm : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Ly : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Càn : bị Lục sát (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Cấn : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Khôn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Chấn lấy vợ cung Đoài : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)

Chồng cung Tốn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Tốn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Khảm : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Chấn : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Ly : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Càn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Cấn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Khôn : bị Ngũ quỉ (thật xấu)
Chồng cung Tốn lấy vợ cung Đoài : bị Lục sát (thật xấu)

Chồng cung Ly lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Ly lấy vợ cung Ly : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Khảm : được Phước đức (thật tốt)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Chấn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Tốn : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Càn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Cấn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Khôn : bị Lúc sát (thật xấu)
Chồng cung Ly lấy vợ cung Đoài : bị Ngũ quỉ (thật xấu)

Chồng cung Khôn lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Khôn : được Phục vị (tốt vừa)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Càn : được Duyên niên (thật tốt)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Cấn : được Sanh khí (thật tốt)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Đoài : được Thiên y (thật tốt)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Chấn : bị Hoạ hại (thật xấu)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Khảm : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Tốn : bị Họa hại (thật xấu)
Chồng cung Khôn lấy vợ cung Ly : bị Lục sát (thật xấu)

Chồng cung Đoài lấy vợ cung gì, tốt hay xấu:
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Đoài : được Phục vị (tốt vừa)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Càn : được Phước đức (thật tốt)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Cấn : được Duyên niên (thật tốt)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Khôn : được Sanh khí (thật tốt)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Chấn : bị Tuyệt mạng (xấu vừa)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Khảm : bị Họa hại (thật xấu)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Tốn : bị Lục sát (thật xấu)
Chổng cung Đoài lấy vợ cung Ly : bị Ngũ quỉ (thật xấu)

HÔN NHÂN THUỘC NGŨ HÀNH, TỐT HAY XẤU
Chồng mạng Kim, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Kim vợ Kim, Thì ăn ở nhau sanh đẻ bất lợi, hay cãi lẩy, có khi phải lìa nhau, trừ khi đúng vào quẻ “Lưỡng Kim, Kim Khuyết”, hoặc Lưỡng Kim thành khí
Chồng Kim vợ Mộc, thì Kim khắc Mộc, khắc xuất khổ sở nghèo nàn, chồng Nam vợ Bắc
Chồng Kim vợ Hỏa, thường hay cãi vã nhau, sanh con khó nuôi, nhà cửa túng nghèo
Chồng Kim vợ Thủy, là thiên duyên tác hợp, con cháu đầy đàn, vợ chồng hoà thuận
Chông Kim vợ Thổ, vợ chồng hòa thuận, con cháu đầy đàn, gia đình vui vẻ, lục súc bình an

Chồng mạng Mộc, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Mộc, vợ Mộc, quan lộc tốt, con cháu đông đủ, gia đình hoà hiệp
Chồng Mộc, vợ Thủy, Một với Thủy tương sanh, tiền tài phú túc, con cháu đông, vợ chồng bách niên giai lão
Chồng Mộc, vợ Hỏa, Mộc, Hoả tự nhiên sanh, tiền tài quan lộc đặng thạnh vượng, con cháu đông đủ
Chồng Mộc, vợ Thổ (1) Thổ Mộc tương sanh, con cháu đông và làm nên đại phú
Chồng Mộc, vợ Kim Hai mạng đều khắc nhau, trước hợp sau lìa, con cháu bất lợi

Chồng mạng Thủy, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Thuỷ, vợ Thủy Hai Thuỷ tuy không tốt nhưng điền trạch (đặng) khá yên, ăn ở nhau được
Chồng Thuỷ, vợ Kim Kim Thuỷ sanh tài, sung sướng đến già, con cháu đặng khá
Chồng Thủy, vợ Mộc Thủy Mộc nhân duyên, vợ chồng ăn ở đặng bá niên giai lão
Chồng Thủy, vợ Hỏa Thuỷ Hỏa tương khắc, vợ chồng chẳng đặng bền duyên, con cháu bất lợi, gia đạo an nguy
Chồng Thủy, vợ Thổ hai mạng khắc nhau, vui vẻ bất thường, làm việc gì cũng khó

Chồng mạng Hỏa, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Hỏa, vợ Hỏa hai Hỏa giúp nhau, có khi hưng vượng, con cháu đầy đàn
Chồng Hỏa, vợ Kim Hỏa Kim khắc nhau, hay cải lẩy và kiện cáo, gia đình không an
Chồng Hỏa, vợ Mộc Hỏa Mộc hợp duyên, gia thất bình an, phước lộc kiêm toàn
Chồng Hỏa, vợ Thủy Thuỷ Hỏa tương khắc, vợ chồng chẳng đặng bền duyên, con cháu bất lợi, gia đạo an nguy
Chồng Hỏa, vợ Thổ Hỏa Thổ hữu duyên, tài lộc sung túc, con thảo dâu hiền

Chồng mạng Thổ, lấy vợ mạng gì, tốt hay xấu
Chồng Thổ, vợ Thổ lưỡng Thổ tương sanh, trước khó sau dễ, lắm của nhiều con
Chồng Thổ, vợ Kim vợ chồng hòa hiệp, con cháu thông minh, tài lộc sung túc
Chồng Thổ, vợ Mộc Thổ Mộc bất an, vợ chồng phải phân ly, mỗi người mỗi ngã
Chồng Thổ, vợ Thuỷ Thổ Thuỷ tương khắc, trước hiệp sau lìa, sanh kế bất lợi
Chồng Thổ, vợ Hỏa Thổ Hỏa đắc vị, quan vị dồi dào, con cháu đông đủ và giàu sang

NGŨ HÀNH TƯƠNG SANH (Tốt)
Mạng Kim sanh Thủy
Mạng Thủy sanh Mộc
Mạng Mộc sanh Hỏa
Mạng Hỏa sanh Thổ
Mạng Thổ sanh Kim

NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC (Xấu)
Mạng Kim khắc Mộc
Mạng Mộc khắc Thổ
Mạng Thổ khắc Thủy
Mạng Thủy khắc Hỏa
Mạng Hỏa khắc Kim

Phụ giải: Ngũ Hành là năm thể chất giao nhau mà sanh tồn, dầu cho quý vị có tôn trọng khoa học đến đâu thì nhà khoa học ngày nay đã tìm thấy trong bản thật con người cũng không ngoài năm thứ thể chất ấy, mà ta gọi là “Ngũ Hành”. Cho nên sự khắc hợp rất là quan trọng.

TAM HẠP HỘI THÀNH CUỘC
Thân, Tý, Thìn hội thành Thủy cuộc
Tỵ, Dậu, Sửu hội thành kim cuộc
Dần, Ngọ, Tuất hội thành Hỏa cuộc
Hợi, Mẹo, Mùi hội thành Mộc cuộc


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi cưới vợ gả chồng của 12 Con giáp - Xem tuổi vợ chồng - Xem Tử Vi

Lễ Vu Lan Rằm tháng 7: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng

Lễ Vu Lan (15/7 âm lịch) được coi là ngày “Báo hiếu cha mẹ”. Vào ngày Lễ Vu Lan Rằm tháng 7 này con cái nên làm những gì để báo hiếu cho cha mẹ cho đúng?
Lễ Vu Lan Rằm tháng 7: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Lễ Vu Lan Rằm tháng 7 (15/7 âm lịch) được coi là ngày “Báo hiếu cha mẹ”. Nếu cha mẹ còn sống, con cái nên dành những lời yêu thương chân thành, làm việc tốt, người tốt. Nếu mẹ cha đã khuất, nên thắp hương cầu khấn, cầu mong bình an nơi cửa Phật... 


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn sự nhanh chóng và chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Ngày Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm chính là lễ Vu Lan, là dịp để con cái báo hiếu cha mẹ đã dày công sinh thành, dưỡng dục. Nói thì dễ, nhưng nhiều bạn trẻ không biết thể hiện tình cảm của mình ra sao, báo hiếu bằng cách nào. Dưới đây là những gợi ý mà bạn có thể áp dụng trong ngày trọng đại này.   1. Thành tâm chuẩn bị mâm cơm cúng  
Le Vu Lan Ram thang 7 Con cai bao hieu cha me the nao cho dung hinh anh 2
 
Lễ Vu Lan Rằm tháng 7 được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng 7 âm lịch, là tên gọi khác của ngày Rằm tháng Bảy.   Trong ngày này, nên thành tâm chuẩn bị mâm cơm cúng để tạ ơn thần linh và tưởng nhớ tới tổ tiên, cầu nguyện gia đình bình an, các vong hồn được siêu thoát.    2. Lên chùa thắp hương cầu mong điều tốt lành cho cha mẹ nơi cửa Phật   Trong ngày “Báo hiếu cha mẹ”, con cái có thể đi chùa thắp hương, cầu xin cho cha mẹ mình được mạnh khỏe. Nếu không còn cha mẹ, cầu xin Đức Phật ban điều tốt lành, tìm đường chỉ lối cho cha mẹ được an nghỉ nơi chín suối.   3. Ăn chay tích phúc tích đức   Ăn chay không những tốt cho sức khỏe mà còn giúp chúng ta về với chốn thanh tịnh, với bản ngã của mình, thể hiện sự thành tâm và cũng là tích phúc tích đức. Trong ngày lễ Vu Lan Rằm tháng 7, bạn có thể ăn chay để cầu xin cho cha mẹ được an lành, mạnh khỏe.   
Le Vu Lan Ram thang 7 Con cai bao hieu cha me the nao cho dung hinh anh 2
 
4. Mua quà hoặc dành tặng lời chúc   Một món quà nhỏ hay đơn giản chỉ là lời chúc sức khỏe cha mẹ dồi dào cũng là để bạn thể hiện lòng biết ơn, hiếu thảo đới với đấng sinh thành.    Dẫu không nói ra hay không cần tặng quà, cha mẹ cũng hiểu được tình cảm của con cái. Nhưng trong dịp đặc biệt như Lễ Vu Lan báo hiếu này, bạn vẫn cần chủ động làm những điều xuất phát từ trái tim chân thành.   Với những ai không còn cha còn mẹ, bản thân mình sống tốt, làm nhiều việc thiện giúp đời chính là món quà ý nghĩa nhất dành tặng cho họ nơi suối vàng.   5. Luôn sống tốt để không phụ lòng cha mẹ   Dù bạn là ai, nam hay nữ, xấu hay đẹp, địa vị cao sang hay thấp hèn thì đều là do cha mẹ sinh ra. Không có họ đồng nghĩa với việc bạn chẳng tồn tại trên đời. Vì thế, hãy luôn tâm niệm rằng bản thân phải sống tốt, sống cao thượng để cha mẹ có thể tự hào hoặc ngầm cười nơi chín suối.    Ngọc Diệp 
Tháng 7 âm lịch - tháng của tâm linh
Hiếm có tháng nào nhiều ngày lễ tâm linh như tháng 7 âm lịch. Tháng này liên tiếp có lễ Vu lan, ngày Xá tội vong nhân và lễ tình nhân Ngưu Lang – Chức Nữ. Cùng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Vu Lan Rằm tháng 7: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng

Bạn có được kế thừa sản nghiệp của tổ tiên?

Thái dương là sao chủ về quyền quý, Thiên lương là sao chủ về thanh quý, hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, kế thừa tài sản hoặc sản nghiệp của tổ tiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thái dương là sao chủ về quyền quý, sao Thiên lương là sao chủ về thanh quý, hai sao cùng tọa thủ cung Tài bạch, có tài lãnh đạo, tiềm lực lớn, thu nhập nhiều, có vận thiên tài, có thể kế thừa tài sản hoặc sản nghiệp của tổ tiên.

tai-san-to-nghiep

BỐ CỤC SAO

Sao Thái dương tại cung Mão, Dậu tất có sao Thiên lương cùng tọa thủ (cung Mão: Sao Thái dương, Thiên lương đều là nhập miếu; cung Dậu: Sao Thái dương là thế bình, sao Thiên lương là thế địa). Cung Mệnh không có chủ tinh, cung Thiên di là sao Thiên đồng, Cự môn không đắc thế địa, cung Quan lộc là sao Thái âm (cung Hợi là nhập miếu, cung Tỵ là thế hãm), cung Điền trạch là sao Liêm trinh lợi thế và sao Thiên phủ nhập miếu.

PHÂN TÍCH TÀI VẬN

Nếu có đặc điểm sao này, thì chủ biết cách tiết kiệm đầu tư, thường được kiêm chức, không tránh khỏi vất vả cạnh tranh hoặc rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tiền tài dễ gặp trắc trở mà sản sinh ra những phiền nhiễu. Nên kiếm tiền từ nhà nước, đảm nhiệm trách nhiệm công chức hoặc sáng nghiệp, chuyên nghiệp, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật, y học, tiến tài trong sự thanh cao.

Đồng tọa cung Mão, chí hướng cao xa, người sinh ban ngày thường sinh trong gia đình phú quý, nếu nắm được thời cơ thì có thể phát tài và vô cùng giàu có. Đồng tọa cung Dậu, thiếu định tính, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài, tướng quý nhưng không hiển và không hiển thị thực, những năm trẻ tuổi thường hay vất vả nhưng có xu thế phát tài muộn.

Cung Mệnh không có chủ tinh, cần dựa vào cát tinh khác của bản cung và sao Thiên đồng, Cự môn của cung đối diện (cung Thiên di), tổng kết lại và luận mệnh.

Sao Thiên đồng độ lượng, không lưu tâm, chịu khó làm việc. Sao Cự môn thường hiếu kỳ, không chịu thừa nhận thất bại, hay suy nghĩ. Hai sao kết hợp với nhau, chủ ôn hòa nhã nhặn, tuân thủ nguyên tắc không có mưu đồ, động lực yếu, khó có đất dụng võ, có thể tự tìm được niềm vui, dễ xúc động, tinh thần thường cảm thấy trống trải cô đơn.

Sao Liêm trinh, Thiên phủ cùng tọa thủ cung Điền trạch, có thể kinh doanh đầu tư ngành nhà đất, thường lập nghiệp từ hai bàn tay trắng, tụ tài thành giàu có, thích nơi náo nhiệt.

Sao Thái âm tọa cung Quan lộc, không nên làm kinh doanh, thường làm việc trong các cơ quan doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hoặc theo đuổi những ngành như văn nghệ, diễn viên, vui chơi, tính nghệ thuật, phục vụ đại chúng, biên tập, thiết kế công trình. Sao Thái âm tọa cung Hợi, thường có thể phát huy sở trường, đảm đương nhiệm vụ trọng yếu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn có được kế thừa sản nghiệp của tổ tiên?

Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình –

Mỗi màu sắc đều có ý nghĩa riêng, màu vàng tượng trưng cho sự giàu có, màu xanh lá cây sẽ tràn đầy sinh khí. Cùng ## xem phong thủy nhà ở và khám phá xem màu sắc theo phương hướng mang đến may mắn cho gia đình như thế nào nhé! 1. Hướng
Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

jy6Z7ygyaNhYb Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình

Mỗi màu sắc đều có ý nghĩa riêng, màu vàng tượng trưng cho sự giàu có, màu xanh lá cây sẽ tràn đầy sinh khí. Cùng ## xem phong thủy nhà ở và khám phá xem màu sắc theo phương hướng mang đến may mắn cho gia đình như thế nào nhé!

1. Hướng Đông – màu đỏ

## thấy theo truyền thống, màu đỏ tượng trưng cho niềm hân hoan, nhiệt tình, táo bạo và dám làm. Theo phong thủy, hướng Đông tượng trưng cho tuổi trẻ và tinh thần mạo hiểm, dũng cảm. Vì vậy, hướng Đông nên bài trí vật dụng gia đình với sắc đỏ là màu chủ đạo, như vật trang trí bằng gỗ lim, tấm thảm màu đỏ… Điều này sẽ thúc đẩy nguồn năng lượng dồi dào, có lợi cho sự nghiệp và học hành của các thành viên trong gia đình.

2. Hướng Nam – màu xanh lá cây

Trong phong thủy, hướng Nam chi phối năng lượng linh cảm và giao tiếp xã hội. Màu xanh lá cây có nghĩa là tràn đầy sinh khí và sự tươi mới. Ở hướng Nam, nên bố trí các loài thực vật có màu xanh lá cây, ngoài việc tăng thêm tính thẩm mỹ khi phối hợp với cây cỏ còn có sự tác động tích cực đến các mối quan hệ giữa các cá nhân.

3. Hướng Tây – màu vàng

Màu vàng được dùng để tượng trưng cho sự giàu có. Hướng Tây được coi là phương vị chi phối sự nghiệp và tài vận. Nếu bài trí phụ kiện nội thất trong gia đình như đá thạch anh màu vàng thì có thể khiến cho tài vận thịnh vượng, đường sự nghiệp rộng mở.

4. Hướng Bắc – màu cam

Theo ## thì hướng Bắc phụ trách các mối quan hệ tình cảm, hôn nhân. Màu cam có nghĩa là nhiệt huyết dâng trào. Muốn thúc đẩy tình cảm của các cặp tình nhân, vợ chồng thì phòng ngủ ở phía Bắc nên để một chiếc đèn ngủ màu cam, tấm thảm nhỏ hoặc gối ôm đều sẽ có lợi cho tình cảm của các cặp tình nhân và vợ chồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở: Màu sắc theo phương hướng đem đến may mắn cho gia đình –

Tinh hoa phong thủy Nhật

Chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa cổ Trung Hoa nhưng quan niệm về cách xem địa lý, phong thủy của Nhật lại có những nét khác biệt.
Tinh hoa phong thủy Nhật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Như Việt Nam, người Nhật cũng chịu ảnh hưởng bởi nền văn hóa cổ Trung Hoa nên sùng bái đất đai nhà cửa là lẽ đương nhiên, nhưng quan niệm về cách xem địa lý, phong thủy của Nhật lại có những nét khác biệt.


Tinh hoa phong thuy Nhat hinh anh
Phong thủy Nhật chú trọng yếu tố hài hòa, may mắn

Người Nhật khi xây dựng căn nhà mới, cũng mời thầy địa lý phong thủy đến coi thế đất, để đặt hướng cho cửa chính. Ngày khởi công làm lễ địa trấn, hôm đó họ đặt 4 góc nền nhà 4 cây trúc còn đầy lá, giữa tâm nhà có một vòng tròn làm rào thần để làm lễ động thổ.
 
Vị pháp sư sau khi cúng sẽ chôn 4 góc nhà những hình nhân cùng sắt, đao, kiếm,… những vật bằng kim loại để trừ tà hung. Khi đặt đà ngang (gác đòn dông) cũng cúng và yểm một bộ cung tên, để bắn ác ma như người Việt chúng ta yểm bùa Thượng lương, Trung lương trên cây xà ngang.
 
Người Nhật không coi đây là sự mê tín, mà là cách yểm bùa cầu may mắn sẽ đến với gia đình họ, có tác dụng làm họ tin tưởng vào căn nhà mới xây dựng đã được trừ tà ếm quỷ.
 
Trong phong thủy âm trạch của Nhật, người Nhật tìm nơi có “di thủy” tức mạch nước hay con rạch, con sông chảy từ hướng Đông qua Tây Nam, là thế Thanh Long, rửa sạch được ác khí khi hướng về Bạch Hổ, căn nhà sẽ ít gặp bệnh tật, thâm tâm được yên vui. Người Nhật cũng lấy Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ trong chòm sao Nhị thập bát tú (28 vì sao trên trời) để tính về âm dương trạch.
 
Với quan niệm dân gian Nhật, qua cuốn “Tác đình ký” viết trong thời Bình An ghi, cách làm nhà cửa trong dân chúng thường có tục lệ như sau: “… bốn bề quanh nhà phải trồng cây để hình thành dải đất “bốn thần đều đủ”. Có di thủy từ hướng nhà chảy sang đông là thế Thanh Long, nếu không có nước có thể trồng 9 cây dương liễu để thay”.
 
“Phía Tây có đường lớn là Bạch Hổ, nếu không có đường thì thay bằng 7 cây thu” (như cây bàng ở nước ta, lá hình trứng dài, hoa trắng có vệt đỏ). “Phía Nam có ao làm Chu Tước, nếu không có ao phải trồng 9 cây quế”.
 
“Phía Bắc phải có gò cao làm Huyền Vũ, nếu không có thay bằng 3 cây cối” (còn gọi là cây thích bá, lá như vảy cá, có bông màu vàng).
 
Phong thủy của Nhật chú trọng vào vấn đề chỗ ở được tứ thần bảo vệ, cả nhà được phúc lộc, tránh tai nạn và sống thọ. Ngày nay, việc đất chật người đông không cho phép người Nhật lựa chọn được đất tốt theo đúng chuẩn, việc trồng cây to cũng khó thực hiện, họ khắc phục bằng cách sử dụng bonsai.
 
Ngoài ra người Nhật rất coi trọng những địa điểm đặt bếp, đặt cửa chính. Phong thủy bếp của Nhật có nhiều điểm khá đặc sắc. Sách “Cổ sự ký” ghi, thầy tướng địa xem việc xây dựng nhà cho đặt đà ngang, đặt cửa xong, sẽ xem chỗ đặt bếp cho thích hợp với tuổi chủ nhà, thường vào các ngày tốt xấu trong tháng, nhưng tránh ngày 25 dù là ngày tốt. Chủ nhà phải để lửa than riu riu suốt ngày trong bếp để căn nhà được ấm nóng.
 
Cửa ít khi đặt về hướng Đông Bắc, vì người Nhật coi hướng này thuộc “quỷ môn”, có âm khí. Nếu thế nhà bắt buộc, họ khắc hình con vượn đặt trên cao để trừ tà.

Phong thủy của Nhật cho thấy sự tinh tế, thâm trầm nhưng cũng rất đơn giản, nhẹ nhàng. Người Nhật chú trọng vào yếu tố an tâm, an tính, cầu may hơn là để phát tài, phát lộc.
 
Dòng chảy phong thủy Á Đông cho thấy những bí ẩn và sự vi diệu của bộ môn khoa học này vẫn tiếp tục được vận hành và phát triển theo nguồn tri thức của từng quốc gia một cách bền bỉ và mạnh mẽ. Con người đã và đang tiếp nối, phát huy những giá trị hết sức quý báu.

Theo Thiên Việt
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tinh hoa phong thủy Nhật

Ý nghĩa sao Hoa Cái - Quyền uy và quý hiển

Sao Hoa Cái chủ về phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời.Chủ về công danh, chức vị, uy quyền. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Hoa Cái - Quyền uy và quý hiển

Ý nghĩa sao Hoa Cái - Quyền uy và quý hiển

Hành: Kim

Loại: Cát Tinh

Đặc Tính: Quyền uy, quý hiển

Tên gọi tắt thường gặp: Cái

Là một phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là bộ Long Phượng Hổ Cái.

Ý Nghĩa sao Hoa Cái Ở Cung Mệnh:

Tính Tình: Người có bề ngoài sang trọng, đài các, thanh cao, được nhiều người yêu thích.

Công Danh Phúc Thọ: Hoa Cái chủ về phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời. Đây là trường hợp Hoa Cái đi với Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ thành bộ sao gọi là "Tứ Linh", chủ về công danh, chức vị, uy quyền.

Ý Nghĩa sao Hoa Cái khi đi chung với các bộ sao khác:

Sao Hoa Cái gặp Tấu Thư là người thanh cao, lịch lãm, có mốt về ăn mặc, có năng khiếu về trình diễn; người biết thưởng thức ái tình một cách sành điệu.

Cái, Mộc, Riêu: chưng diện, dâm đãng, có thể làm điếm hạng sang.

Cái, Tướng, Khúc, Mộc, Đào: đàn bà dâm đãng theo lối sang, thích các mối tình vương giả, mới lạ, với các nhân vật nổi tiếng; người chuyên quyến rũ kẻ khác, làm cho người khác chết mê chết mệt vì yêu đương.

Cái, Tấu Thư: người thanh cao, lịch lãm, có gu về ăn mặc, có năng khiếu về trình diện; người biết thưởng thức ái tình một cách sành điệu.

Tiền Cái, Hậu Mã: Mệnh giáp Hoa Cái phía trước, Thiên Mã phía sau: chủ về phú quý, sang trọng.

Ý nghĩa công danh, phúc thọ: Hoa Cái chủ phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời khi đi với Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ (thành bộ Tứ Linh), chủ về công danh, chức vị, uy quyền

Đọc Thêm về sao Hoa Cái: Hoa Cái được gọi là đài các tinh, có nghĩa: - sự chưng diện, xa hoa, lộng lẫy để có bề ngoài đài các, sang trọng, quyến rũ.

Người có sao Hoa Cái hay làm dáng, làm đẹp, ham phô trương vẻ đẹp, thích được người khác để ý và yêu đương, có những hành động thu hút tình yêu kẻ khác ... - sự kiểu cách trong bộ điệu, từ cái nhìn, cái liếc cho đến tướng đi, đứng, ngồi, nằm; trong ngôn ngữ, từ cách nói văn chương bóng bẩy, duyên dáng, dí dỏm cho đến giọng nói sửa miệng, sửa giọng, lắm khi không tự nhiên hay lố bịch. - sự ham chuộng các loại thời trang, đua đòi nếp sống tiến bộ văn minh Âu Mỹ, từ lối ăn mặc, làm tóc, sinh hoạt, kết bạn cho đến việc đa phu, đa thê kiểu như các minh tinh màn bạc. - sự khao khát tình ái, một lối ái tình tiểu tư sản hay mới lạ với những nhân vật danh tiếng, với sinh hoạt phù phiếm, xa hoa. Từ đó, sao Hoa Cái có nhiều ý nghĩa dâm đãng, âm thầm hay công khai.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Hoa Cái - Quyền uy và quý hiển

Cách đặt Thiềm Thừ theo phong thủy, chuẩn vị trí, hút tài lộc

Thiềm Thừ - cóc ba chân là vật phẩm phong thủy cầu tài rất được ưa chuộng. Cách đặt Thiềm Thừ theo phong thủy sẽ giúp gia chủ có thêm nhiều may mắn, chiêu tài.
Cách đặt Thiềm Thừ theo phong thủy, chuẩn vị trí, hút tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiềm Thừ - cóc ba chân là vật phẩm phong thủy cầu tài rất được ưa chuộng.  Lịch ngày Tốt hướng dẫn các bạn cách đặt Thiềm Thừ theo phong thủy sẽ giúp gia chủ có thêm nhiều may mắn, chiêu tài thuận lợi, làm ăn hanh thông. 


Cach dat Thiem Thu theo phong thuy, chuan vi tri, hut tai loc hinh anh
 
Lưu ý khi bày Thiềm Thừ, phương pháp chiêu tài tốt nhất chính là bày trước tượng Quan Âm Bồ Tát hoặc tượng Phật. Trầm hương khi dâng Phật có thể tăng phúc khí, chiêu tài vận, thúc đẩy tác dụng phong thủy của Thiềm Thừ mà không hề có xung đột gì.   Nếu nhà không có tượng Phật, Bồ Tát thì bày Thiềm Thừ theo những chú ý sau.  

1. Đặt ở tài vị

 

Thiềm Thừ có quan hệ chặt chẽ tới tiền tài, không thể tách rời nên đặt ở tài vị là tốt nhất, mang tới hiệu quả chiêu tài, thúc tài lớn nhất. Căn cứ vào ngũ hành bản mệnh, bát tự của gia chủ để xác định tài vị theo phương hướng của chính rồi bày Thiềm Thừ ở đó.  

2. Đặt theo loại Thiềm Thừ

  Có hai loại là Kim Thiềm Thừ và Thiềm Thừ. Mỗi loại bày theo một phương khác nhau mới đem lại kết quả tốt. Kim Thiềm Thừ là con cóc ba chân ngậm đồng tiền trong miệng thì nên quay vào trong nhà, mang tiền về nhà. Thiềm Thừ không ngậm tiền thì nên đặt hướng ra ngoài, ngụ ý mang của vào nhà.
Cach dat Thiem Thu theo phong thuy, chuan vi tri, hut tai loc hinh anh
 

3. Thiềm Thừ tránh Hỏa, cần Thủy

  Thiềm Thừ tuy rằng đại diện cho tài vận, nhưng cũng là một loại sinh vật sống dưới nước, cần có Thủy nuôi dưỡng, nên đặt ở vị trí có Thủy vượng để thúc tài hiệu quả. Nhưng tránh đặt Thiềm Thừ đối diện bể cá hay hồ nước, vì tài hóa Thủy mà chảy đi mất. Cũng vì cần nước nên Thiềm Thừ kị Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc sẽ phá tài vận. 
 

4. Đặt ở vị trí sạch sẽ, sáng sủa, có thực vật xanh

  Lưu ý khi bày Thiềm Thừ là muốn phát huy tối đa công dụng phong thủy thì phải đảm bảo nơi đó sạch sẽ, thoáng đãng và có cây xanh. Thủy Mộc tương sinh, trợ lực rất lớn, cây càng xanh tốt thì tài vận của gia đình càng thịnh vượng.   Cung phựng Thiềm Thừ chỉ cần chén nước sạch, ít hoa quả là đủ. Mỗi ngày Rằm phải đổi nước, thay quả một lần. 
21 thần khí phong thủy chiêu tài nạp phúc 2016: Thiềm Thừ Khai quang điểm nhãn cho cóc 3 chân Cóc ba chân rước lộc vào nhà
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đặt Thiềm Thừ theo phong thủy, chuẩn vị trí, hút tài lộc

Tặng hoa hồng ngày Valentine: Ý nghĩa màu hoa hồng và cách tặng

Tặng hoa hồng ngày Valentine là hành động rất được ưa chuộng và có ý nghĩa nhất. Mỗi loại hoa hồng lại mang một ý nghĩa khác nhau, thể hiện lời muốn
Tặng hoa hồng ngày Valentine: Ý nghĩa màu hoa hồng và cách tặng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tặng hoa hồng ngày Valentine là món quà được ưa chuộng và có ý nghĩa nhất. Tuy nhiên, bạn có biết rằng mỗi loại hoa hồng lại mang một ý nghĩa khác nhau, thể hiện lời muốn nói của người tặng đối với người nhận. 

 

Ý nghĩa hoa hồng đỏ

  Tặng hoa hồng ngày Valentine có màu đỏ khi bạn muốn nói với đối phương là bạn yêu họ. Hồng đỏ chính là biểu tượng của một tình yêu lãng mạn và vĩnh cửu.   Để truyền tải được thông điệp yêu thương mà bạn muốn gửi tới người mình yêu, vậy bạn có thể mua một bông hồng đỏ kèm với những lời nhắn nhủ thân ái nhất trong tấm thiệp nhỏ xinh, không nên thay bằng màu hoa khác, vì nếu như vậy người ấy sẽ không hiểu hết được tâm ý của bạn đâu. 

Tang hoa hong ngay Valentine Y nghia mau hoa hong va cach tang hinh anh
 
   

Ý nghĩa hoa hồng nhạt

Hồng nhạt thể hiện sự khoan dung,dịu dàng và lòng biết ơn đối với người nhận. Trong khi nhìn bề ngoài thì trông những bông hồng này có vẻ rất nhẹ nhàng đấy, song thực sự thì so với những màu hoa khác, trong nó cũng chứa đựng một sự mạnh mẽ đầy hấp dẫn.  

Ý nghĩa hoa hồng phấn

Loại hồng này màu rất đẹp và ưa mắt, nó tượng trưng cho niềm vui và hạnh phúc. Hồng phấn cũng được dùng để tôn vinh và tưởng nhớ đến những người đã phải đối mặt với căn bệnh ung thư vú. 

Tang hoa hong ngay Valentine Y nghia mau hoa hong va cach tang hinh anh 2
 
 

Ý nghĩa hoa hồng phấn đậm

  Loại hồng này được dùng để thay lời cảm ơn mà bạn muốn nhắn gửi tới người nhận. 

Ý nghĩa hoa hồng tím

Khi bạn được nhận một bông hồng màu tím, thì bạn có thể biết được rằng - người tặng bạn đã bị bạn hớp hồn ngay từ những cái nhìn đầu tiên.

Ý nghĩa hoa hồng trắng

Hồng trắng tinh khiết tượng trưng cho sự thật và ngây thơ. Chúng cũng mang theo thông điệp nhớ nhung của người gửi dành cho bạn và lời nhắn nhủ rằng: Bạn thật trong sáng và thuần khiết!

Tang hoa hong ngay Valentine Y nghia mau hoa hong va cach tang hinh anh 3

 

Ý nghĩa hoa hồng đào

Loại hồng này dùng để thể hiện sự đánh giá cao và lòng biết ơn của người gửi.  

Ý nghĩa hồng san hô

Hồng san hô cho biết bạn đang muốn thể hiện một điều gì đó nồng nhiệt, mạnh mẽ.  

Ý nghĩa hoa hồng màu cam

  Hoa hồng màu cam truyền đạt sự nhiệt tình và mong muốn của người gửi.   

Ý nghĩa hoa hồng bảy sắc cầu vồng

  Giống như những cánh hoa được nhuộm màu khác nhau, thì người tặng cũng có ý thể hiện một sự xúc phạm và giễu cợt trong tình yêu, chẳng khác gì một sự lật mặt đối với người nhận.

Tang hoa hong ngay Valentine Y nghia mau hoa hong va cach tang hinh anh 4
 

Ý nghĩa hoa hồng đen

  Người tặng sử dụng loại hoa này nhằm mục đích gửi tới người nhận thông điệp: “Mọi thứ đã chấm dứt” và “Chúng ta chẳng còn liên quan gì tới nhau”. Vì thế hãy thận trọng khi sử dụng màu hoa này vì có thể là độc đáo nhưng chắc chắn mối quan hệ của bạn sẽ bị rạn nứt.   Tặng một bông hồng duy nhất: “Anh chỉ yêu mình em!” Tặng 2 bông hồng: “Em lấy anh nhé?!”
► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết bạn và "người ấy" có hợp nhau không

Lichngaytot.com

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tặng hoa hồng ngày Valentine: Ý nghĩa màu hoa hồng và cách tặng

Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Văn Khấn Tết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch) được dùng vào Tiết Thanh Minh. Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ).
Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch) được dùng vào Tiết Thanh Minh. Ông bà ta xưa chọn Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ấm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.

Nhân lúc đi Thanh Minh tảo mộ, để tưởng nhớ tổ tiên, người thân đã khuất, mọi người có thể dạo chơi ngắm cảnh cỏ cây tươi tốt, nên còn gọi là Đạp Thanh. Nguyễn Du có câu:

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh

Sắm lễ cúng tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch)

Lễ trong tiết Thanh Minh gồm có: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt (chân giò, gà luộc hoặc một khoanh giò nạc độ vài lạng), hoa quả.

Khi đến nghĩa trang hay khu vực có để mộ phần của gia đình mình thì gia chủ đặt lễ vào chỗ thờ chung. Sau đó thắp đèn, nhang, vái ba vái vị Linh thần Thổ địa rồi khấn.

Văn khấn tết Thanh minh (mồng 5/3 – 10/3 Âm lịch)

1. Văn khấn lễ âm phần Long Mạch, Sơn thần thổ phủ nơi mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.

Hôm nay là ngày: ………………..
Tín chủ (chúng) con là:…………

Nhân tiết Thanh minh (hoặc là nhân tiết thu, tiết đông, hoặc nhân ngày lành tháng tốt.. .) tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám.

Gia đình chúng con có ngôi mộ của…………………..

Táng tại xứ này, nay muốn sửa sang xây đắp (hoặc tảo mộ, bốc mộ…) vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản trong khu vực này, chúng con kính mời các vị chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

2. Lễ vong linh ngoài mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương

– Con kính lạy Hương linh………(Hiển khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo…)

Hôm nay là ngày. . ………….

Nhân tiết:……………………..

Tín chủ (chúng) con ……….

Ngụ tại:………………………

Chúng con và toàn thể gia đình con cháu, nhờ công ơn võng cực, nền đức cao dầy, gây dựng cơ nghiệp của………….. chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân linh……. . lai lâm hiến hưởng.

Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi xa, bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái. Con cháu chúng con xin vì chân linh . . ……..Phát nguyện tích đức tu nhân, làm duyên, làm phúc cúng dâng Tin Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.
Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế hờ tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.
Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.
Sau khi khấn xong, đợi hết 2/3 tuần hương thì đi lễ tạ các nơi, hóa vàng, xin lộc và mọi người trở về nhà làm lễ gia thần và gia tiên ở nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Thanh Minh (mồng 5/3 - 10/3 Âm lịch)

10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Thuật phong thủy chủ yếu nghiên cứu đến vị trí của ngôi nhà và các mối liên hệ đến các yếu tố xung quanh, mối liên hệ giữa các phòng trong nhà, cửa đi, cửa sổ, đồ đạc và các đồ phụ kiện. Bài viết này xin đưa ra một số mẹo đơn giản để bạn có thể loại bỏ những điềm xấu và mang lại những điều tốt lành cho căn nhà của mình.
10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Thuật phong thủy chủ yếu nghiên cứu đến vị trí của ngôi nhà và các mối liên hệ đến các yếu tố xung quanh, mối liên hệ giữa các phòng trong nhà, cửa đi, cửa sổ, đồ đạc và các đồ phụ kiện. Lịch vạn niên 365 xin đưa ra một số mẹo đơn giản để bạn có thể loại bỏ những điềm xấu và mang lại những điều tốt lành cho căn nhà của mình.

Mục đích chính của thuật Phong Thủy là kiểm soát được tốt nhất các luồng khí lưu thông trong nhà. Hai nguồn năng lương Âm- Dương luôn tồn tại song song, việc cân bằng hai yếu tố này là thực sự cần thiết để mang lại cho gia chủ một cuộc sống thịnh vượng.

Có 5 yếu tố cơ bản theo Phong Thủy đó là: Kim (các đồ trang trí bằng kim loại như đế đèn, giá treo quần áo…), Mộc (nội thất chất liệu gỗ như bàn, ghế, sàn nhà…), Thủy (thác nước để bàn, bể cá cảnh…), Hỏa (nến, lò sưởi, bếp…), Thổ (các chậu cây cảnh, chậu hoa trong nhà…) – cũng cần phải được cân bằng.

Theo xem tử vi, diện tích một ngôi nhà hoặc một căn phòng được chia thành chín phần trong một hình bát giác hoặc hình vuông – tám vị trí bên ngòai và một vị trí trung tâm.

Vị trí trung tâm là cho sức khỏe trong khi tám vị trí kia tương ứng với quan hệ hôn nhân, con cái, mối quan hệ xã hội, sự nghiệp, học thức, tình yêu, tiền bạc, và danh vọng. Như vậy, như vậy bạn hoàn tòan có thể biết được mình cần phải thay đổi cái gì cho những vấn đề cụ thể mà mình đang gặp phải.

Những giải pháp của thuật Phong Thủy có thể khá phức tạp như phải làm mới, kê dọn lại vị trí của tòan bộ đồ đạc trong phòng nhưng cũng có thể chỉ là những biện pháp rất đơn giản như treo một tấm gương hay sắp xếp lại bàn góc…

Những tấm gương hay những đồ đạc có bề mặt nhẵn bóng có thể dễ dàng làm tăng vượng khí nhưng bạn nên nhớ đừng để chúng ở trước cửa bởi như thế khí sẽ bị phản xạ lại và không đi vào nhà.

Xem bói thấy rằng chuông gió không chỉ tạo ra những âm thanh êm ái, dễ chịu mà treo chuông gió trước cửa sẽ giúp bạn điều hòa được các luồng khí trong nhà rất tốt.

Cây xanh chính là biểu tượng của cuộc sống và nó góp phần mang lại năng lượng “tươi” cho căn phòng. Vì vậy, để hút vượng khí nên trồng cây xanh trong nhà. Hiện nay, nhiều người thường chọn những loại cây có tên gọi mang ý nghĩa may mắn, hướng đến nhiều mong ước để trồng trong nhà đẹp. Các loại cây thể hiện tài lộc được ưa chuộng nhất là cây kim ngân, kim quýt, kim phát tài, lộc vừng, phát lộc... Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, sử dụng cây cảnh trong môi trường sống là một giải pháp hay, nhưng hãy cố gắng chăm sóc (bón phân, tưới tắm) chúng cẩn thận để luôn khỏe mạnh. Các loại cây có lá dạng hình tròn sẽ tốt hơn những loại cây khác. Ở nhà bạn nên đặt một chậu hoa có mùi hương nhẹ và bạn và gia đình bạn không bị dị ứng, nó sẽ giúp tinh thần bạn sản khoái hơn vào mỗi buổi sáng thức giấc. 

Hãy để tài lộc vào nhà bạn bằng cách trang trí ngôi nhà với những thác nước nhân tạo, bể cả cảnh hay thậm chí chỉ là những bức ảnh có liên quan đến nước. Nhìn chung thì những đồ đạc mô phỏng sự giàu sang phú quý cũng đều có tác dụng nhất định.

10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc bạn nên có:

Chuông gió mang đến sự may mắn

Chuông gió là một trong những biểu tượng phong thủy hàng đầu. Vai trò của chúng mang đến sự hỗ trợ dưới nhiều hình thức: nâng chi của một khu vực xấu, đàn áp năng lượng ở những góc bị phi tinh xấu chiếu xuống, mang đến cho bạn những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Nếu được sử dụng đúng cách, chuông gió sẽ đem đến may mắn, sức khỏe, tài lộc và sự hòa hợp giữa vợ chồng, các thành viên trong gia đình. Chuông gió được sử dụng để hút dòng chảy tiền bạc vào trong nhà. Cách sử dụng hiệu quả nhất với chuông gió là số 9, có thể là 9cm, hoặc 9 sợi dây ruy băng đỏ. Chiếc chuông gió có sức mạnh nhất là những chiếc có 6 thanh và làm bằng kim loại. Chuông gió được treo ở vị trí tài lộc của ngôi nhà hoặc văn phòng, khi đó, chuông gió sẽ được vang lên thường xuyên, có nhiều năng lượng để hút tiền tài cho gia đình bạn.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Ông thần tài

Quan niệm dân gian của người xưa cho rằng, Thần Tài là vị thần chuyên quản tài phúc của thiên hạ. Khi nhận được sự giúp đỡ của ông nhất định sẽ thăng tiến quan chức, tiền bạc. Cho nên rất nhiều gia đình đặt ông Thần Tài trong nhà để hy vọng sự giàu sang, phú quý. Ông thần tài được sử dụng nhằm mục đích cầu phước lành cho gia chủ. Vị trí thích hợp nhất cho tượng Thần tài đó là đối diện với cửa trước. Dù bức tượng lớn hay nhỏ, nó đều có sức mạnh đáng kể đối với tiền tài của gia đình bạn.

Nước tượng trưng cho tiền bạc

Theo mô hình không gian Ngũ hành, hành Thủy được quy định về phương Bắc, màu chủ đạo là đen và xanh dương, thời tiết thuộc về mùa đông. Hình dáng đặc trưng hành Thủy là những đường uốn khúc, lượn sóng và đa diện cong. Theo đó, sự di chuyển của nước trong phong thủy nghĩa là sự di chuyển của tiền về phía bạn. Do vậy, hãy đặt một đài phun nước hoặc thác nước trong nhà ở góc tài lộc hoặc đài phun nước ngoài trời ở vị trí gần cửa chính. Tùy theo diện tích, bạn có thể chọn một chiếc đài phun nước nhỏ hay lớn. Nếu bạn muốn tăng năng lượng tích cực trong nhà, bạn có thể thêm vào công trình trang trí bằng nước vài viên đá phong thủy. Ngoài ra, nếu bạn mua loại đài phun nước có khả năng lưu thông các loại tinh dầu nhất định vào trong không khí, nó cũng sẽ tăng gấp đôi năng lượng có lợi trong nhà.

Đồng tiền xu cổ

Theo phong thủy, tiền xu là một trong những vật phẩm phong thủy quan trọng. Ngày xưa, người ta dùng tiền xu đục lỗ hình tròn tượng trưng cho trời, giữa là lỗ hình vuông tượng trưng cho đất. Trời ngoài, đất trong tượng trưng cho sự thịnh vượng. Vì vậy, treo những đồng tiền chéo nhau và kết nối chúng bằng một sợi dây màu đỏ, sau đó treo lên các cửa ra vào sẽ giúp giữ được năng lượng tiền bạc trong nhà. Dùng 9 hoặc 6 đồng tiền xu cho cửa chính và những cửa còn lại thì treo số lượng ít hơn. Tiền xu mang lại nhiều may mắn về tiền bạc cho gia đình. Phong thủy cũng cho rằng việc giữ lại tiền dưới mọi hình thức như sổ séc, sổ tiết kiệm, thẻ ngân hàng; hoặc thậm chí là những đồng tiền lẻ trong một chiếc hộp phong thủy có màu tím hoặc màu vàng thật đẹp sẽ giúp bạn giữ được tiền. Ngoài ra, bạn hãy đặt 9 đồng xu thật sáng bóng tại góc tài lộc, và hãy tưởng tượng rằng “những hạt giống” này đang sinh sôi và phát triển. Khi nhận tiền lương, trước khi đưa vào sử dụng, bạn nên giữ một lúc ở góc tài lộc. Nó không chỉ là một ý nghĩa về phong thủy, mà còn là vật trang trí cho góc nhà của bạn nữa.

Trái cây, ngũ cốc

Trái cây và ngũ cốc có ý nghĩa mang lại sự no đủ trong phong thủy. Những bát hoa quả tràn trề, hay cây sai trĩu quả là những vật phẩm phong thủy thường được sử dụng trong nhà để giúp gia đình có nhiều tiền tài. Người ta thường xếp 9 quả cam hay mận, được đặt trong một chiếc bát màu vàng, hay những chùm nho đỏ, dứa tươi và chuối được xếp đầy trong khay, hoặc cũng có thể treo tranh vụ mùa bội thu, vv… Đây là những biểu tượng phong thủy mang lại sự no đủ về vật chất, bạn nên đặt vào góc tài lộc.

Tre may mắn hay tháp tài lộc

Để tăng sự may mắn, thành công về tiền bạc, hãy đặt 9 thân tre trong chiếc bình màu tím. Chiếc bình này phải có thân to hơn miệng, với ý nghĩa là giữ của. Hiện nay, người ta sử dụng tre hoặc cây phát lộc để làm biểu tượng phong thủy. Cây phát lộc thuộc loài cây họ vạn niên thanh, thân thảo, đốt rỗng, to bằng ngón tay trỏ người lớn, lá màu xanh thẫm. Khi cây trưởng thành, có thể dài gần một mét. Nếu ngắt cành trưởng thành cắm vào nước hoặc trên đất, cây vẫn sống rất khoẻ, và đâm chồi nảy lộc. Nhiều người quan niệm, trưng cây phát lộc trong nhà mang lại may mắn và tài lộc. Trên bàn thờ của nhiều gia đình cũng có một lọ nhỏ với cây phát lộc với mong ý cầu tài lộc cho gia đình của mình. Cây phát lộc có thể làm được rất nhiều sản phẩm đẹp với mẫu mã khác nhau như tháp cây phát tài, chậu phát tài hình chim công hay lộc bình... Với sự tỉ mỉ và kiên nhẫn, bạn cũng có thể làm được các sản phẩm này tại nhà đấy.

Đá quý và đá phong thủy

Đá quý và đá phong thủy là biểu tượng của giàu sang, phú quý. Bạn nên giữ kim cương hay đồ trang sức bằng đá quý vào một chiếc hộp có màu tím hoặc màu vàng trong góc tài lộc của phòng ngủ. Phía trên chiếc hộp nên đặt chuông gió. Trong phong thủy, điều này có nghĩa là sự sang trọng, giàu có sẽ bị hút vào cuộc sống của bạn. Trong các loại đá quý thì đá thạch anh tím có màu sắc rất đẹp, vừa dùng trang trí, vừa là biểu tượng của phú quý. Nếu tình hình tài chính gia đình bạn không mấy ổn định, hay bạn thường xuyên phải suy nghĩ về nó, hãy đặt những vật nặng như đá tròn hay tượng ở góc tài lộc sẽ giúp bạn cải thiện tài chính của gia đình.

Ếch may mắn

Trong phong thủy, cóc ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một biểu tượng phong thủy được sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy, Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó. Ếch ngậm tiền tốt nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, và nghiêng một góc 45 độ để thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.

Những loại cây lá tròn

Cây mang đến vượng tài là cây có lá tròn, to hoặc mọc hướng lên... phù hợp theo đặc tính dương trong Kinh dịch (dương, hướng lên, động), chẳng hạn trúc phú quý, lan... Cây lá tròn giúp tái tạo dòng năng lượng và kích thích phát triển dòng chảy của tiền. Bạn hãy nhớ là luôn giữ cho cây được khỏe mạnh và không được ngập quá nhiều nước. Những cây lá tròn này sẽ được đặt trong chậu màu tím là tốt nhất, và nó còn giúp làm đẹp cho góc tài lộc của nhà bạn đấy. Một số cây lá tròn được nhiều gia chủ chọn bày trong nhà như cây ngọc bích, cây kim tiền..

Bể cá cảnh

Cá là biểu tượng sức mạnh của tiền bạc và sự thịnh vượng. Bể cá cảnh đặt ở phía Đông Nam, gần cửa chính, hoặc lối vào khu vực kinh doanh rất tốt lành, bởi nó không chỉ là một biểu tượng phong thủy thu hút tiền bạc mà còn là sự cân bằng của 5 yếu tố cơ bản trong phong thủy: Mộc (cây trong bể cá), Kim (cấu trúc bể cá), Thủy (nước), Hỏa (màu sắc của cá như vàng, đỏ, hoặc chiếu sáng của bể). Nước trong bể cá thể hiện cho dòng chảy của sự sống, sự sinh sôi nảy nở. Những chuyển động kiếm mồi, bơi lượn cùng bọt khí của cá làm tăng nguồn năng lượng tích cực của sự may mắn, giàu có cho gia đình bạn.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 biểu tượng phong thủy mang tài lộc nên có trong nhà

Cách hóa giải giờ kim xà thiết tỏa –

“Theo dân gian nếu trẻ sinh phải giờ Kim Xà Thiết Tỏa là phạm rất nặng, rất khó nuôi , Tuy nhiên vẫn có cách giải giờ này đi, để cho trẻ được khôn lớn nên người.” Sau đây là một số cách dân gian hay dùng để hóa giải giờ Kim Xà Thiết Toả Cách 1 *Bán k

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Theo dân gian nếu trẻ sinh phải giờ Kim Xà Thiết Tỏa là phạm rất nặng, rất khó nuôi , Tuy nhiên vẫn có cách giải giờ này đi, để cho trẻ được khôn lớn nên người.”

Sau đây là một số cách dân gian hay dùng để hóa giải giờ Kim Xà Thiết Toả

Thu

Cách 1

*Bán khoán vào chùa (hiệu quả nhẹ)

Cách 2

*Dùng phép Tam y để hoá giải:

Bước 1: Chọn tháng ra Thiên y.
Đặt cửu tinh trực nguyệt và lệ cung niên vận đồ (cung này lấy theo năm cần tính để hoá giải, xem ở phần Tam tuyệt) phi ra các hướng, xem sao nào ra cung phi bản mệnh của đứa trẻ. So sánh giữa sao này với cung phi bản mệnh của đứa trẻ nếu ra Thiên y là được (theo vòng Đại du niên bát biến).

(“Tý Ngọ Mão Dậu Bát bạch cung Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ hoàng trung Dần Thân Tị Hợi cư hà vị
Nghịch tầm Nhị hắc định kỳ chân”

Tức năm Tý Ngọ Mão Dậu tháng Giêng ra sao Bát bạch, tháng 2 ra sao Thất xích, tháng ba ra sao Lục bạch…)

Bước 2: Chọn ngày ra Thiên y.
Đặt Can Chi tháng cần tìm (lệnh tháng) vừa chọn nói trên vào lệ cung niên vận đồ rồi thuận phi đến một ngày trong tháng đó xem ra sao nào mà phối với mệnh cung phi của đứa trẻ nếu ra Thiên y là được yếu tố thứ hai.

Bước 3: Chọn phương ra Thiên y.
Chọn một trong tám phương xem phương nào phối với mệnh cung phi của
đứa trẻ ra Thiên y là ta được yếu tố thứ 3.

Bước 4: Cách tiến hành hoá giải.
Chọn giờ Thìn hoặc giờ Tuất ba khắc (một giờ có 8 khắc, một khắc chiếm 15 phút đồng hồ). Nếu giờ KXTT của đứa trẻ rơi vào cung Thìn thì chọn giờ Thìn 3 khắc, nếu giờ KXTT rơi vào cung Tuất thì chọn giờ Tuất ba khắc. Đưa đứa trẻ vào trong phòng khép kín cửa lại (Tránh gió, tránh ánh sáng, tắt đèn điện) đốt một đống lửa nhỏ ở phương Thiên y (có để lẫn một túm ngải cứu). Sau đó bế đứa trẻ mặt hướng về phương Thiên y (Mặt người bế hướng về phương Thiên y) rồi hơ qua hơ lại trên đống lửa đó (nam 7 lần, nữ 9 lần), chú ý tránh bị bỏng, chủ yếu lấy hơi ngải cứu bốc lên. Khi hơ xong bế cháu bé đó ngồi bên đống lửa đến giờ Thìn (hay Tuất) 6 khắc sau đó thì mở cửa ra. Như thế là đã xong.

Ví dụ: Bé trai sinh năm Quý Mùi (2003) cung phi là Càn (nếu bé gái cung phi là Ly).

Bước 1: Năm 2003 nếu chọn tháng 6 nguyệt tinh là Cửu tử. Đặt vào lệ cung niên vận đồ chạy thuận.
Nam: Tốn Càn là Hoạ hại

Nữ: Đoài Ly là Ngũ quỷ

Vậy ta phải chọn tháng khác.

Làm bài toán ngược: nam Càn phối Cấn là Thiên y vậy lệ cung phải là số 4

Chọn tháng 2, tháng 11 nguyệt tinh là Thất xích.

Bước 2: Ví dụ chọn được tháng 2 (Ất Mão). Đặt Ất Mão vào lệ cung niên vận đồ chạy đến ngày ra Thiên y
Sau khi chạy thì ta được 3 ngày Kỷ Mão (5/2), Mậu Tý (14/2), Đinh Dậu (23/2) rơi vào cung Cấn (Càn Cấn là Thiên y). Chọn ngày không xung với mệnh chủ, ngày đẹp…
Bước 3: Chọn phương Cấn (Đông bắc) trong nhà.
Chú ý: giờ phải rất chính xác, từ 3 khắc đến đúng 6 khắc phải mở cửa (nên đặt chuông để nhớ). Từ thời điểm bắt đầu bế đưa bé lên thì tính giờ.

Cách 3 :

*Cách này dân gian hay dùng  hơn cả, có điều phải tìm được Pháp sư giỏi .

Trích bài viết trong diễn đàn : « cuocsongthuongnhat.com »

Việc chuẩn bị khoa cúng này khá công phu và tỷ mỷ. Phải xin gạo ,tiền ,chỉ khâu của 36 nhà. Sau đó gạo xay thành bột và nặn hình 12 con giống , bầy trên 1 mâm lót bằng lá chuối, phần bột nặn còn thừa đắp 1 hòn giả sơn có cắm hoa lá trên đó. Phải cắt hình Thập Ngũ Quỉ Vương Và Thập Nhị Hóa Bà . Thập Ngũ Quỉ Vương treo trên các đoạn tre nhỏ cắm trên khoanh chuối có dắt các đồng tiền xin của 36 nhà , sau đó dùng dây chỉ đan lưới mắc lại với nhau. Thập Nhị Hóa Bà sau khi làm phép xong phải nhập vào 1 áo quan nhỏ để chôn đi. Các con giống sau khi lễ, vặt lấy mỗi con một ít đem chôn cùng, các thứ còn lại đem thả trôi sông hồ hết. Lấy 1 ít bột nặn con giống trên nấu cho trẻ ăn . Để thực hiện khoa cúng này phải do Pháp Sư cao tay mới đảm nhiệm được. Người thường không thể tự làm vì không có thần chú và phép cúng…

Đại lão Pháp Sư Tự Huyền Đức ( ở gần Phủ Giầy ) thực hiện khoa cúng giả Kim xà Thiết tỏa

Hoặc Pháp Sư  Quy ( Đền Cửa Sông )

Thủ tục cho nhận làm con nuôi

Có 2 cách

1. Đơn giản : thì chọn ngày giờ đẹp làm 2 mâm cơm mặn và hoa quả xin phép gia đình mình và gia đình cha mẹ nuôi cho con về làm con nuôi nhà họ

2. Cách phức tạp

Nếu bán cho Đức Thánh Trần thì chỉ cần ra Đền gặp người quản lý Đền để đăng ký, họ sẽ cho bạn ngày giờ cụ thể, bạn đóng tiền, họ sẽ lo lễ, sớ . . . đến ngày giờ bạn dắt cháu ra lạy, có cụ đọc sớ bán khoán. Xong họ đưa cho mình tấm khoán màu vàng và ít lễ đem về, ra đó họ sẽ hướng dẫn cụ thể .
Còn bán cho bạn bè, thì phải làm lễ trình ở bàn thờ gia tiên cha mẹ nuôi, có mặt bé nữa.

Trái cây, hoa, quả (phải có trái quýt) 1 cái chén, 1 cái muỗng, 1 đôi đũa, 1 bộ đồ mặc thường ngày cũng màu đỏ, 1 bao gạo (cỡ 1 kg), 1 cành trắc bá diệp.

Sau đó chọn ngày giờ cúng, cúng xong cho lại mình 1 bao lì xì, 1 ít gạo, muối (để nấu cháo) và người cúng chọn 1 cái tên cho bé phù hợp âm dương ngũ hành…ngày giờ sinh . Có những bé cho hay bán 1 thời gian cho tới 9 hay 13 tuổi là phải làm lễ chuộc lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải giờ kim xà thiết tỏa –

Tướng phụ nữ lông mày rậm –

Ông cha từ xưa đã có câu : “Hồng diện âm thủy; trường mi hạ tố mao; triết yêu âm huyệt hạ; trường túc bất chi lao” để mô tả ngoại hình của người phụ nữ có nhu cầu cao trong tình dục. Cùng bắt đầu với vế đầu tiên tức : Hồng diện âm thủy. Ở đây hiểu th
Tướng phụ nữ lông mày rậm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ lông mày rậm –

Xòe bàn tay, đếm hoa tay, suy tính cách

Người ta thường nghĩ hoa tay chỉ cho biết khả năng của người ấy có khéo tay hay không. Người có càng nhiều hoa tay thì càng khéo léo và giỏi giang
Xòe bàn tay, đếm hoa tay, suy tính cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

. Không chỉ vậy, theo nhân tướng học thì tính cách con người cũng được quyết định bởi số lượng hoa tay.

Người chỉ có 1 hoa tay:


Hoa tay trên tay trái: Là người kiên định, có lập trường vững vàng nhưng rất cứng đầu. Người này có ưu điểm là tự biết đứng dậy sau thất bại, một khi đã yêu thì khá chung thủy, thường dễ làm nên chuyện lớn trong sự nghiệp.
 
Hoa tay trên tay phải: Người này hay gặp rủi ro và khó khăn trong cuộc sống mặc dù họ cũng có khả năng lãnh đạo và tính tình rất quyết đoán.

Xoe ban tay, dem hoa tay, suy tinh cach hinh anh
Ảnh minh họa
  Người có 2 hoa tay:
Hoa tay trên cùng một tay: Người này tính tình hiền lành, tốt bụng nhưng thiếu tầm nhìn nên thường gặp khó khăn trong cuộc sống.
 
Mỗi tay có một hoa tay: Người này có óc hài hước, độ tò mò cao nhưng khá hấp tấp và vội vã nên thường bỏ lỡ những cơ hội tốt.   Người có 3 hoa tay:
 
Hoa tay trên cùng một tay: Là người thông minh, chăm chỉ, có tài lãnh đạo, hết lòng vì những người mình yêu quý, nhất là với nửa kia.
 
Hoa tay trên cả 2 tay: Người này đa tài và khá may mắn, rất dễ đạt được thành công. Trong tình yêu là người giàu tình cảm và khá chung thủy.   Người có 4 hoa tay:
Hoa tay trên cùng một tay: Người này nội tâm khá cô đơn nhưng lại thường tỏ ra sôi nổi. Họ rất cầu toàn và đề cao sự riêng tư, cá nhân chính vì vậy là đường tình duyên hay gặp trắc trở. 
 
Hoa tay trên cả 2 tay: Đây là người hiểu lý lẽ và tốt bụng nên cuộc sống được yên bình.   Người có 5 hoa tay:
Hoa tay trên cùng một tay: Rất khó để làm người này hài lòng hay thỏa mãn, đây là người khá mạnh mẽ nhưng trong tình yêu lại rất dịu dàng và nhạy cảm.
 
Hoa tay trên 2 tay: Người này tốt bụng, rất hay giúp đỡ người khác, khả năng chịu đựng cũng khá tốt. Trong tình yêu rất chung thủy và chiều chuộng bạn đời.
 
Dự đoán tương lai giàu nghèo qua những đường vân đặc biệt trong bàn tay
Trong lòng bàn tay, ngoài 3 đường chỉ tay cơ bản là đường Tâm đạo, Sinh đạo và Trí đạo, còn có những đường vân đặc biệt khác như vân đảo, vân lưới... Mỗi đường
Người có 6 hoa tay: 
Số hoa tay trên tay trái nhiều hơn số hoa tay trên tay phải: Người này có tham vọng và hay mơ mộng, đôi khi bị người khác đố kỵ vì hay gặp may mắn. Muốn sự nghiệp phát triển thì phải rời xa gia đình.
 
Số hoa tay trên tay trái ít hơn số hoa tay trên tay phải: Người này khá tự tin và giàu tình cảm. Tình yêu ít biến cố hơn so với ngưới có số hoa tay trên tay trái nhiều hơn.
 
Số hoa tay bằng nhau trên 2 tay: Là người vui vẻ và mơ mộng, đôi khi hay lo lắng và bấp bênh, nhưng gặp nhiều may mắn. Ít khi hài lòng với tình yêu của mình.   Người có 7 hoa tay:
Số hoa tay trên tay trái nhiều hơn tay phải: Người này tính tình hướng nội nhưng rất kiên trì với mục tiêu của mình và khá mạnh mẽ trong chuyện tình cảm.
Số hoa tay trên tay trái ít hơn tay phải: Người này khá nhạy cảm, kỳ thực rất tốt bụng nhưng lại hay bị hiểu lầm, dễ nảy sinh mâu thuẫn.

Xoe ban tay, dem hoa tay, suy tinh cach hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Người có 8 hoa tay:
Hoa tay trên tay trái nhiều hơn tay phải: Người này khá cầu toàn và khó tính. Tuy nhiên lại vận mệnh khá may mắn và tài vận cũng khá tốt. Thường hay mơ mộng trong tình yêu.
 
Hoa tay trên tay trái ít hơn tay phải: Người này rất kiêu hãnh nhưng hay gặp rủi ro, vì vậy nếu nỗ lực thì sẽ có thể vượt qua.
 
Số hoa tay bằng nhau trên 2 tay: Người này tốt bụng nhưng vận trung niên lại hay gặp rủi ro, hậu vận sẽ khá hơn.   Người có 9 hoa tay:
Hoa tay trên tay trái nhiều hơn tay phải: Là người tích cực, nhiệt tình, dễ thông suốt vấn đề, làm việc có hiệu quả. Thích được người khác sùng bái và chiều chuồng. 
 
Hoa tay trên tay trái ít hơn tay phải: Người này nhạy cảm trong tình yêu nhưng lại khá mơ mộng, sống không thực tế.
 
Người có 10 hoa tay: Người này có tính cách khá mâu thuẫn, tốt bụng nhưng cứng đầu, bên trong yếu đuối nhưng bên ngoài mạnh mẽ. Có năng khiếu về nghệ thuật.
 
Người không có hoa tay cũng rất chăm chỉ, thẳng thắn và tốt bụng, ai đối tốt với mình thì tốt lại và ngược lại, ai xấu với mình thì mình cũng xấu. 

► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn

Lichngaytot.com
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xòe bàn tay, đếm hoa tay, suy tính cách

Sử dụng nến phong thủy hiệu quả chỉ với 5 lưu ý nhỏ

Nến trong phong thủy có vai trò quan trọng nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng chúng hợp lý và hiệu quả. 5 lưu ý đơn giản dưới đây sẽ giúp bạn.
Sử dụng nến phong thủy hiệu quả chỉ với 5 lưu ý nhỏ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nến trong phong thủy có vai trò quan trọng trong nhiều trường hợp như điều hòa âm – dương, giảm Mộc,… nhưng không phải ai cũng biết cách sử dụng chúng hợp lý và hiệu quả. 5 lưu ý đơn giản dưới đây sẽ giúp bạn.

Su dung nen phong thuy hieu qua chi voi 5 luu y nho hinh anh
 
1. Kết hợp nhiều loại nến hoặc bổ sung những nguồn sáng khác từ đèn, nhằm điều chỉnh và cân bằng mức độ của ánh sáng. Nến trong phong thủy khá hữu dụng nhưng nếu chỉ có một mình thì tác dụng không lớn, cần kết hợp với các nguồn sáng khác nữa.
 
2. Nến dùng trong phong thủy phải giữ sạch, cắt bấc, để trong hộp, không sử dụng tùy tiện.
 
3. Tìm hiểu kĩ càng về các khu vực bát quái trong nhà trước khi sử dụng nến phong thủy. Một số khu vực bát quái trong nhà không nên sử dụng nến để điều chỉnh phong thủy. 
 
Ví dụ, những khu vực liên quan tới sự danh tiếng rất thích hợp cho việc thắp nến, nhưng những khu vực mang tính sáng tạo thì lại không cần thiết. Khu vực liên quan tới các mối quan hệ như phòng sinh hoạt chung và khu vực giàu có như phòng khách cũng được hưởng lợi từ những ngọn lửa này.
 
4. Xem xét màu sắc của các ngọn nến và khu vực dùng nó. Mỗi màu sắc của nến đại diện cho một ý nghĩa phong thủy riêng. Nến vàng tượng trưng cho Đất và được sử dụng để đạt được sự hài hòa trong các mối quan hệ. Nến màu đỏ tượng trưng cho phần tử Lửa và được sử dụng để đạt được danh tiếng hoặc nổi tiếng. 
 
Nến màu trắng đại diện cho thiên đường, tình bạn, sự vươn lên và còn mang tới niềm vui, con trẻ, sự sáng tạo. Nến màu cam đại diện cho trí tuệ, sự an lạc hay sự tăng trưởng, giàu có và giúp cải thiện công việc.
 
5. Tăng cường năng lượng phong thủy của nến bằng cách kết hợp giữa màu sắc, hình dạng, hương thơm, sẽ giúp căn phòng sinh động và cũng đạt được hiệu quả cao nhất.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

Theo Essortment 

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sử dụng nến phong thủy hiệu quả chỉ với 5 lưu ý nhỏ

Tuổi Bính Dần 1986 hợp làm ăn với tuổi nào?

Người sinh năm 1986 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn đang băn khoăn không biết tuổi Bính Dần hợp làm ăn với tuổi nào? Dưới đây Phong thủy số sẽ giải đáp cho bạn về những tuổi hợp làm ăn với Bính Dần.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người sinh năm 1986 hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn đang băn khoăn không biết tuổi Bính Dần hợp làm ăn với tuổi nào? Dưới đây Phong thủy số sẽ giải đáp cho bạn về những tuổi hợp làm ăn với Bính Dần.

Tuổi Bính Dần 1986 hợp làm ăn với tuổi nào?

Vài nét về tuổi Bính Dần:

Tuổi Bính Dần: Cung mệnh Khảm, mạng cốt tinh Hỏa, sinh năm 1986 năm con hổ.

Tính cách tuổi Bính Dần: Là người thông minh, có tài, khéo tay, có khiếu văn chương. Tính tình cương trực, ít chịu luồn cúi, vì thế có lúc cũng không thuận trong quan hệ. Nhiều lúc nóng nảy, hay tranh luận, cần giữ cho mình có phong độ, thì sẽ được nhiều người quý mến.

Xem thêm: Tuổi Ất Sửu hợp làm ăn với tuổi nào?

Tuổi Bính Dần hợp làm ăn với tuổi nào?

Ngành nghề thích hợp với tuổi Bính Dần: Nên lựa chọn những nghề trong lĩnh vực điện tử, kỹ thuật, luật pháp, quân sự thì sẽ phát huy tốt hơn các nghề khác.

Tuổi hợp làm ăn với Bính Dần gồm Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu (thuộc mệnh Mộc) thì sẽ rất thuận lợi trong phối hợp làm ăn.

Sinh năm 1986 hợp làm ăn với các tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi ( thuộc hành Thổ) thì tuy người tuổi Bính Dần có thể làm bạn bè, cho nên Bính Dần thường phải làm cấp dưới hoặc làm trợ lí cho những người mệnh Thổ thì công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió.

Tuổi Bính Dần hợp làm ăn với các tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi ( thuộc hành Thổ) thì sẽ giúp nhau làm ăn hưng vượng.

Tuổi Bính Dần kết hợp làm ăn với các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ( thuộc hành Kim) tuy khắc chế, nhưng nếu người tuổi Bính Dần là cấp trên thì vẫn phát tài, phát lộc.

Tuổi Bính Dần không nên kết hợp làm ăn với những người tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu ( thuộc hành Thủy) thì công việc bị nhiều thua thiệt nên tìm cách tránh thì tốt hơn.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Bính Dần:

Màu hợp với tuổi Bính Dần: Màu đỏ kết hợp với màu hồng hoặc tím, có cả màu xanh lục pha trộn sẽ mang lại thịnh vượng. Tránh dùng màu đen, xanh nước biển thẫm.

Hướng đặt bàn làm việc với tuổi Bính Dần: Hay còn gọi là phương vị tài thần, đối với nam giới đặt bàn làm việc nhìn hướng chính Đông, đối với nữ giới nhìn hướng chính Tây.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Phong thủy số


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Bính Dần 1986 hợp làm ăn với tuổi nào?

7 ngày vắng Táo quân, gia chủ nên làm gì?

Từ 23 tháng Chạp, Táo quân lên chầu trời, tới đêm 30 mới trở về tiếp tục việc coi sóc được việc bếp núc trong gia đình. Trong 7 ngày còn lại cuối năm, gia chủ nên làm gì?
7 ngày vắng Táo quân, gia chủ nên làm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đêm 30 mở cửa, bật đèn cho ngập tràn dương khí

Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, trong mỗi nhà đều có 3 vị thần Táo quân, gồm 2 Táo ông và một Táo bà trông nom, giữ lửa cuộc sống của họ. Táo quân biết hết mọi sinh hoạt trong nhà và ngày 23 tháng Chạp âm lịch, 3 vị Táo quân sẽ cưỡi cá chép bay về trời để trình báo với Ngọc Hoàng mọi việc lớn nhỏ xảy ra trong các gia đình ở hạ giới một năm qua. Các Táo lên thiên đình vào 23 tháng Chạp hàng năm, tới đêm Giao thừa các Táo mới trở về hạ giới tiếp tục nhiệm vụ trông coi bếp lửa của các gia đình.

Theo ông Nguyễn Mạnh Cường, nhà nghiên cứu Phật học, trước kia trong 7 ngày người dân dựng cây nêu ngày Tết, trang hoàng nhà cửa. Nhưng ngày nay đô thị chật hẹp không còn chỗ dựng cây nêu, nhiều vùng nông thôn cũng bỏ lệ dựng cây nêu đón Tết. Vì vậy, lễ Táo quân xong, để vẫn có sự hiện diện của Táo quân trong nhà, bạn có thể dán tờ giấy đỏ có viết tên các Táo, hoặc vẽ hình Táo quân rồi dán trên nóc bếp, có ý nghĩa là đón chào Táo quân từ thiên đình trở về. Cuối năm sau khi Táo quân về chầu trời thì hóa mảnh giấy cũ xuống và dán mảnh giấy đỏ mới lên để lại đón Táo quân trở về.

Tiếp đó là dọn dẹp nhà cửa, tẩy rửa hết năng lượng cũ bằng cách lau chùi, dọn dẹp đồ đạc, thải bỏ đồ vật không cần thiết và nạp năng lượng mới cho những vật dụng phong thủy trong nhà, nhất là 3 vị Phúc, Lộc, Thọ (nếu đã rước về). Nạp năng lượng cho các đồ phong thủy bằng cách 11 giờ trưa ngày tất niên nên đốt 3 ngọn nến trước ba vị thần Phúc, Lộc, Thọ. Việc này có ý nghĩa mang lại năng lượng cho các vị thần khi năm mới tới.

Bữa ăn đoàn tụ (tất niên) lúc mời gia tiên về dự tiệc đoàn tụ nên có đầy đủ tất cả các thành viên trong gia đình. Dự tiệc tất niên nên ăn mặc chỉnh tề, đặc biệt phụ nữ phải đeo trang sức… tươi cười rạng ngời để sự may mắn sẽ tiếp diễn. May mắn tới càng nhiều vào thời điểm Giao thời giữa năm cũ và năm mới nên tất cả những người con phải có những lời chúc tốt đẹp cho bố mẹ.

Đêm 30 Tết cửa chính và tất cả các cửa nhà, phải được mở trước Giao thừa, đèn nến bật hết để cả nhà tràn ngập ánh sáng, dương khí tràn ngập căn nhà đón may mắn.

Cúng cá chép thật hay cá giấy?

Theo chị Lê Thị Hiền, chuyên bán hàng mã ở chợ Tam Đa (Thụy Khuê, Hà Nội), cúng Táo quân, các gia chủ thường chuẩn bị 3 bộ mũ áo, cá chép để 3 vị Táo lên thiên đình. Một bộ Táo quân đúng có 3 chiếc áo dài, 3 mũ áo Táo quân (2 mũ đàn ông, một mũ đàn bà) đính giấy trang kim lóng lánh. Mũ Táo ông có 2 cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn (một số nơi bây giờ chỉ dùng tượng trưng 1 chiếc mũ có hai cánh chuồn, 1 chiếc áo và đôi hia giấy). Đặc biệt là các Táo chỉ "đội mũ đi hia, không mặc quần" nên bộ mã Táo quân thường không có quần. Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, các tranh ảnh, hình vẽ Táo quân đều không có quần, mà chỉ mặc áo dài đen là theo quan niệm xưa coi thần Táo thuộc dòng lửa nước, con người cổ sơ còn hồn nhiên là phải ở trần. Giá bán mã Táo quân thường giao động từ 20.000 - 120.000 đồng/bộ. Khi bán áo mã Táo quân thường có thêm một bộ mã quan thần linh, dùng để hóa vào đêm 30 Tết.

Theo họa sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa Trịnh Yên, Giám đốc Trung tâm UNESCO văn hóa – dòng họ và gia đình Việt Nam, mã cúng Táo quân ở miền Bắc và Nam giống nhau, đều có cá chép giấy trong mã nhưng miền Trung có phong tục cúng ngựa giấy với yên cương đầy đủ cho Táo quân.

Theo dân gian, cá chép là loài cá tiên do phạm lỗi nên bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian, nếu tu hành chánh quả thì sẽ hóa thân thành rồng và bay trở về Trời. Người Việt thường cúng Táo 3 con cá chép nhỏ (nay là 3 con cá chép đỏ) thả trong chậu nước, bày dưới ban thờ. Sau khi cúng Táo, 3 con cá chép này sẽ được thả ra sông, suối hoặc ao hồ. Có nhiều lý luận về việc thả cá chép thật hay chép giấy. Nhưng đốt cá chép giấy là tục đốt mã rất tốn kém có từ thời nhà Minh, tới thời Càn Long không đốt nữa. Còn ở Việt Nam từ xưa đốt mã cá chép chứ không thả cá chép bởi không ai bầy cá sống vào mâm cúng cả. Mãi tới thời nhà Nguyễn mới có việc thả cá chép sống và thành lệ tới ngày nay. Thả cá chép thật được 2 việc (theo nhà Phật), một là phát tâm từ bi phóng sinh cho cá chép, mở rộng ra muôn loài, muôn vật.

Còn các nhà tâm linh thì cho rằng, nên dùng cá chép mã không nhất thiết phải là cá chép thật, bởi việc cúng lễ là ở tâm thành của mỗi người. Dùng cá chép mã để giảm bớt các hệ lụy như phải chen nhau ra ao hồ, sông suối thả cá.

Bữa ăn tất niên lúc mời gia tiên về dự tiệc đoàn tụ nên có đầy đủ tất cả các thành viên trong gia đình. Dự tiệc tất niên nên ăn mặc chỉnh tề, đặc biệt phụ nữ phải đeo trang sức… tươi cười rạng ngời để sự may mắn sẽ tiếp diễn. May mắn tới càng nhiều vào thời điểm Giao thời giữa năm cũ và năm mới nên tất cả những người con phải có những lời chúc tốt đẹp cho bố mẹ.
Đêm 30 Tết cửa chính và tất cả các cửa nhà, phải được mở trước Giao thừa, đèn nến bật hết để cả nhà tràn ngập ánh sáng, dương khí tràn ngập căn nhà đón may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 ngày vắng Táo quân, gia chủ nên làm gì?

Lời nguyền Nhà Trắng hay chỉ là biến cố ngẫu nhiên?

Lời nguyền Nhà Trắng đã khiến cho 7 Tổng thống Mỹ qua đời trong vòng 120 năm. Và tất cả đều là những cái chết bất ngờ, nhiều uẩn khúc.
Lời nguyền Nhà Trắng hay chỉ là biến cố ngẫu nhiên?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Mời các bạn xem thêm: Những lời tiên tri của Vanga đáng sợ nhất lịch sử

Loi nguyen Nha Trang hay chi la bien co ngau nhien hinh anh
 
Lời nguyền Tippecanoe – lời nguyền Nhà Trắng được cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nhiều Tổng thống Mỹ trong suốt một thời gian dài. Trong vòng 120 năm (từ năm 1840 – 1960), 7 Tổng thống Mỹ đã qua đời đúng theo quy luật lời nguyền nghiệt ngã trên. 
 
Tippecanoe là tên một trận chiến giữa quân đội Mỹ do tướng William Henry Harrison chỉ huy (sau này là Tổng thống thứ 9) với người dân bản địa do thủ lĩnh Tecumseh dẫn dắt. Trong trận tranh hùng đó, đội quân của tướng William giành thắng lợi.
 
Theo một số tài liệu, do Tecumseh bại trận nên người anh em của ông là Tenskwatawa đã nguyền rủa tướng Harrison và những tổng thống Mỹ sau này. Theo đó, cứ khoảng 20 năm một lần, bất kỳ tổng thống Mỹ nào nhậm chức sẽ chết trong thời gian tại vị.
 
Ông chủ Nhà trắng đầu tiên bị lời nguyền nghiệt ngã đó đeo bám chính là tướng William Henry Harrison. Năm 1840, ông đắc cử Tổng thống đời thứ 9 của nước Mỹ. Ông giành được vị trí tối cao này khi đã luống tuổi và giữ vững kỷ lục người già nhất đắc cử Tổng thống Mỹ trong suốt 140 năm. Tuy nhiên, ông đã qua đời vì bị cảm lạnh vào năm 1841. Do đó, ông cũng trở thành Tổng thống tại vị ngắn nhất trong lịch sử.
 
20 năm sau, lời nguyền Tippecanoe tiếp tục linh nghiệm. Lần này là Tổng thống Abraham Lincoln phải “chịu trận”. Ông đắc cử và bị ám sát khi đang ở giữa nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai vào năm1865.
 
Năm 1881, Tổng thống James Garfield cũng qua đời vì bị ám sát. Ông chỉ kịp ở trong tòa bạch ốc được 200 ngày sau khi nhậm chức. Vào ngày 2/7/1881, luật sư bị tâm thần tên là Charles J. Guiteau đã ám sát vị Tổng thống này.
 
Lời nguyền Tippecanoe tiếp tục linh ứng với Tổng thống William McKinley năm 1901. Ông qua đời cũng vì bị ám sát. Ông trở thành vị tổng thống Mỹ thứ 3 thiệt mạng vì nguyên nhân này.
 
Năm 1923, Tổng thống Warren Harding mất vì đau tim. Ông cũng được cho nạn nhân của lời nguyền Tippecanoe.   
 
Năm 1945, Tổng thống Franklin Roosevelt qua đời vì xuất huyết não và đột quỵ. Ông được cho là nạn nhân thứ 6 của lời nguyền Nhà Trắng bí ẩn.
 
Lời nguyền Nhà Trắng đeo bám các đời tổng thống Mỹ và bắt đầu hết “hiệu nghiệm” khi Tổng thống Ronald Reagan vẫn còn sống sót trong chu kỳ 20 năm. Năm 1981, ông cũng bị ám sát nhưng vẫn bảo toàn được tính mạng. 
 
Lời nguyền này đến nay vẫn chỉ là suy đoán, nhưng những điều thực sự diễn ra trong thực tế khiến không ít người tin vào sự tồn tại của nó. Đây là một lời nguyền tâm linh hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên của số phận?
Theo Thế giới văn hóa tâm linh

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời nguyền Nhà Trắng hay chỉ là biến cố ngẫu nhiên?

Những con giáp khó kiểm soát tính nóng nảy của mình –

Con giáp nào khó kiềm soát tính nóng nảy nhất? Tuổi Sửu, tuổi Dần và tuổi Thìn là ba con giáp 'bao thầu trọn gói' danh sách những người không thể kiểm soát tính nóng nảy của mình. Củ thể như thế nào chúng ta cùng khám phá trong bài viết những con giá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con giáp nào khó kiềm soát tính nóng nảy nhất?

Tuổi Sửu, tuổi Dần và tuổi Thìn là ba con giáp ‘bao thầu trọn gói’ danh sách những người không thể kiểm soát tính nóng nảy của mình. Củ thể như thế nào chúng ta cùng khám phá trong bài viết những con giáp khó kiểm soát tính nóng nảy của mình ngay bên dưới.

Nội dung

  • 1 Những con giáp khó kiểm soát tính nóng nảy
    • 1.1 Thứ 1: Tuổi Sửu
    • 1.2 Thứ 2: Tuổi Dần
    • 1.3 Thứ 3: Tuổi Thìn

Những con giáp khó kiểm soát tính nóng nảy

Thứ 1: Tuổi Sửu

Tính cách ôn hòa, nhiệt tình và chăm chỉ của người tuổi Sửu giúp họ có cuộc sống không quá nhiều sóng gió. Tuy nhiên, khi họ đã tức giận thì việc gì cũng có thể xảy ra – Chỉ cần cho rằng mình đúng và cơn thịnh nộ đã bốc lên ngùn ngụt, người tuổi Sửu sẽ không để ai “thuần hóa” bản thân.

Suu-6280-1410131213

Cách tốt nhất để không phải hứng chịu “giận cá chém thớt” của người tuổi Sửu là không nên chọc giận hay làm những việc gây tổn thương cho họ.

Thứ 2: Tuổi Dần

Nhiệt tình nhưng nôn nóng là tính cách thường thấy ở người tuổi Dần. Khả năng kiểm soát cảm xúc ở họ không được tốt bằng các con giáp khác.

dan-3122-1406244354

Khi lửa giận bùng cháy, người tuổi Dần sẽ bất chấp tất cả để thỏa mãn cơn bực dọc của mình dù hậu quả nghiêm trọng tới mức nào. Đồng thời, họ vô cùng cố chấp, không bao giờ chịu nhường nhịn hoặc hạ chút sĩ diện để nhận lỗi.

Thứ 3: Tuổi Thìn

Hiếu thắng, nóng tính là bản chất cố hữu ở người tuổi Thìn. Họ luôn cho rằng bản thân thuộc dòng quý tộc nên phải được đối xử cao quý với nhiều lễ nghi phức tạp. Do đó, trước mặt mọi người, họ cố gắng ra vẻ điềm đạm, nho nhã, ít khi cáu giận vô cớ để xứng đáng với dòng dõi tôn quyền.

thin-5754-1406244354

Tuy nhiên, khi cơn giận bùng phát, người tuổi Thìn như không còn là chính mình mà có những hành động khác thường khiến mọi người cảm thấy khó chịu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp khó kiểm soát tính nóng nảy của mình –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd